Vậy mà chưa hết, trận hỏa hoạn chưa hoàn hồn thì ba tôi lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong tỉnh Quảng Trị. Một lần nữa, gia đình tôi lại dọn đi.
Tôi đã được 9 tuổi, mới học xong lớp Nhì. Buổi sáng ấy, có một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà tôi. Từ mái hiên, anh em tôi đứng nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì sắp được lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà tôi qua lối cửa hông. Trong nhà, có ba mẹ, cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói chuyện.
Một lúc sau, người tài xế trở ra xe. Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần đứng trên đó tay mở các cuộn dây thừng để cột đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối qua, lúc này lần lượt đưa lên xe.
Buổi sáng sinh hoạt trong khu phố và khu chợ trước nhà tôi đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình tôi dọn đi, bên kia đường có nhiều người đứng trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất nhiều người kính mến ba tôi, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường tiểu học duy nhất ở gần nhà ga.
Người tài xế bước lui tới trên trần xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng, sau khi chất đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu móc trần xe.
Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố. Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Tôi nghe tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba tôi, còn mợ Tuyên nắm tay mẹ tôi.
Anh em tôi bước lên xe với mấy cái túi nhỏ. Mẹ, chị Lài ngồi sau với tôi và mấy em còn ba tôi lên ghế trước với tài xế.
Khi xe lăn bánh, anh em tôi cười nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ. Nhưng rồi bỗng chốc, tôi có cảm giác mình sắp sửa khóc, về sau này, hình ảnh thị xã Đông Hà tôi giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.
Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông Hà bằng đoạn đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội của tôi. Thành phố này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất là con đường ven theo dòng sông hai bên có trồng những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau đến khu Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Nhà tôi ở nằm bên dưới ga đối diện với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại trong mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn này còn là vùng đất hoang, tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình tôi mới có được một diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ về phố Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và đào hồ nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ tôi mở quán hàng ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.
Nhà ga gần trại lính, mỗi ngày có đến bốn chuyến tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ tôi mở luôn có khách vào ăn uống. Năm 1954, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm này dân số trong tỉnh tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng ngoại ô. Với đồng lương giáo viên tiểu học của ba tôi, công việc bán quán của mẹ tôi, lợi tức hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài những buổi học ở trường, tôi còn phụ giúp mẹ trong việc chạy bàn mang bữa ăn, thức uống phục vụ cho khách.
Vì học kém và chậm, đến năm 1956, tôi mới vô được trường công lập trung học. Nhưng tôi chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết năm Đệ Lục tôi không đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới này tôi và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và cả hai mới cùng đi xa trong mùa hè này.
Bỗng tôi lên tiếng hỏi Huân:
- Mày ở với bà chị bao lâu?
Huân chợt cười bảo tôi:
- Sao mày hỏi ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghĩ hè thì về.
Tôi ngập ngừng một chút, rồi nói:
- Tao nghĩ mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.
Hiểu được ý tôi, Huân nói:
- Bác có nhờ tao khi nào về, thì đón mày.
- Nhớ nghe không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.
Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách lên xe đi. Từ đây, tài xế bắt đầu mở radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai bạn nhỏ vẫn luôn cảm thấy nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng hẳn Huân sẽ nghĩ đến căn nhà của chị Duyên, nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn tôi thành phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, tôi đang hình dung vừa tưởng tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.
Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng sau hỏi vọng hành khách.
- Ninh Hòa đây, có ai xuống không?
Huân giật mình, tôi liền hỏi:
- Có xuống đây không?
Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:
- Thôi, tao đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.
Tôi cảm thấy tin tưởng khi có người bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành phố. Những con đường rộng mở vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố thật là nhộn nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và tôi đón xích lô đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba tôi. Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba tôi và bác thư từ nhau luôn. Với tình thân còn gắn bó, nên ba tôi cho tôi đi nghỉ hè Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, tôi lại trở về Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.
Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con đường dài này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga những chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau lưng nhà thờ. Về tới nơi, thực may hai đứa gặp cả gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Tôi giới thiệu Huân với hai bác, còn Nhị con bác là bạn học cùng lớp với tôi và Huân. Nhị gặp lại hai bạn thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn nửa tiếng Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Tôi cùng với Nhị tiễn Huân ra bến xe, vì còn ham vui, cả ba đứa vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới chia tay.
Những ngày tháng hè đó thật là hạnh phúc. Tuần lễ đầu, tôi chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái thú đi chơi. Hai chiếc xe đạp không rời tôi và Nhị. Buổi sáng sớm, hai đứa đạp xe ra biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến chiều tối, bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng, vượt sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời vợi tạo một niềm hưng phấn làm hai bạn càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm biển, hai bạn lại đạp xe đi nơi khác. Tôi được Nhị dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn vợ, Xóm Bóng, và còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.
Nhị sành sỏi chơi đàn, tôi cũng học đàn với Nhị. Khi đánh đàn, hai bạn cùng hát những bản nhạc vui học ở trường, những bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi tối, bác Định luôn bảo tôi và Nhị vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa. Sau tuần lễ đầu vui chơi thoải mái, cả tôi và Nhị mới cùng ghi tên lớp hè ở trường Tương Lai. Hai bạn trình độ học ngang nhau, về môn Toán tôi trội hơn nhưng Lý Hóa, Nhị lại khá hơn, vào giờ học hai đứa giúp nhau nên tiến bộ khá nhanh.
Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần, nhớ bạn, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra nhà. Hội ngộ, ba đứa kéo nhau đi phố vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát, lại đi lòng vòng qua các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi da. Ba đứa thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay những đường cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.
Những ngày hè của tôi thật là hạnh phúc và quý giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài nơi chốn ở bình thường nó còn cho tôi hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị con người. Bác Định trai thương tôi là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi tôi là thằng cu như Nhị và các anh con trai lớn của bác.
Khi đã quen thuộc với một thành phố mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa hè sắp hết rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Nhị và Huân ra, tôi cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, tôi sẽ biết trân quý, biết cất giấu và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có người yêu.
Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga chính ở đây, mỗi ngày có đến sáu chuyến tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở nhà vào lúc chiều hay tôi, tôi đều nghe rõ tiếng còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, tôi biết chuyến tàu nào về, chuyến tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng bước chân người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một cô gái và chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình những lời từ biệt, thành phố Đà Nẵng bỗng dưng làm tôi xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, tôi mường tượng nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc tuổi bằng em gái tôi vào quán hàng cơm của mẹ tôi. Tôi biết hai người này là khách đi tàu ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có nhiều chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.
Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng láng, mắt đeo cặp kính trắng. Lúc ấy qua trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần hết nên ghế bàn còn lại để trống nhiều.
Khi tôi mang cơm ra, đặt cái khay nhôm xuống bàn tôi thấy mắt cô bé nhìn tôi, nụ cười trên cặp mắt.
Tôi trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước được kéo ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Tôi hướng mắt nhìn con tàu với nhiều toa xe lần lượt chạy qua. Bỗng tôi chú ý lắng nghe giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được, tôi biết là cả hai không phải là người Quảng Trị ở đây mà là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa chấm dứt. Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi, về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra phía Bắc đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.
Tôi bỗng có cảm tình với cô bé nên đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có cặp mắt nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, tôi nghe vậy vội bước chân đến. Vì phải thối lại nên tôi trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn hộc, xong trở ra.
Người khách cầm lấy tiền thối, nói với tôi:
- Cám ơn cháu.
Tôi cũng đáp lời cám ơn với ông khách.
Cô gái nghe được tiếng tôi nói, ngước cặp mắt vui lên nhìn.
Hai cha con đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.
Người đàn ông xách cái túi lớn, da nâu, còn cô bé quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.