241 Nhắm mắt xuôi tay
Để nói về cái chết, tiếng Việt của chúng ta có bao nhiêu từ ngữ khác nhau: chết, tạ thế, từ trần, quy tiên, hi sinh,… Bên cạnh các từ ngữ này, chúng ta còn gặp thành ngữ “nhắm mắt xuôi tay” cũng với ý nghĩa và chức năng như vậy.
“Khôn lanh” hay “quỷ quyệt” cũng không tránh khỏi đến lúc nhắm mắt xuôi tay, chỉ có người “biết”, người “sáng tạo” mới có được "sống" sau khi đã chết.
Nhắm mắt xuôi tay và sự chết hẳn là có một mối quan hệ nào đó, để rồi nói tới cái này thì liên hội tới cái kia và ngược lại.
Điều dễ nhận thấy là trạng thái, cử chỉ cuối cùng của người bắt đầu tắt thở là khép mắt và buông xuôi tay. Một ai không có trạng thái đó, thì người nhà của họ phải vuốt mắt, nâng tay đưa họ trở về tư thế nằm nhắm mắt xuôi tay. Điều quan trọng hơn, trong quan niệm của dân gian ta, con người suốt một đời nhọc nhằn lam lũ, đến khi an nghỉ cần phải được ra đi nhẹ nhàng, để cho đôi mắt khép lại, nhắm lại như trong giấc ngủ ngon, để cho đôi tay từng lao động nặng nhọc nằm trong tư thế yên nghỉ, cử chỉ vuốt mắt, nâng tay cho người chết xuất phát từ quan niệm nhân đạo, “nghĩa tử là nghĩa tận” này. Tất cả những điều đã nói, cho thấy, tự thân thành ngữ “nhắm mắt xuôi tay” có thể thay thế cho từ chết và các từ đồng nghĩa của chết. Có điều là “nhắm mắt xuôi tay” thường được dùng để nói về cái chết trong tương lai chứ không nói về cái chết đã xảy ra. Chẳng hạn, thể nói: “Có lẽ đến khi nhắm mắt xuôi tay, chị ấy vẫn ân hận vì đã không thực lòng với tôi, nhưng ít ai nói sau khi nhắm mắt xuôi tay chị ấy vẫn còn ân hận vì đã không tốt với tôi”. Nói nhắm mắt xuôi tay cốt là để tránh đi sự nặng nề tang thương mà từ chết có chức năng để nói về chính hiện tượng đó với sắc thái nhẹ nhàng hơn, dễ chấp nhận hơn.
“Anh không bao giờ nghĩ đến hạnh phúc và có lẽ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không hiểu được hạnh phúc của anh ra sao” (Nhiều tác giả, “Truyện ngắn được giải 1970-1971”).