Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Những tin tức hay, lạ, vui, và hữu ích cho đời sống.
Xin đừng tranh luận về chính trị, tôn giáo, sắc tộc ...

Moderator: A Mít

Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby mvt5 » 05 Aug 2009

CÁC GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT NAM Kỳ LỤC TỈNH
Hứa Hoành
 
Lời Mở Đầu
Những chuyện kể ra trong sách nầy đều là chuyện thật không phải tiểu thuyết Các chuyện ấy xảy ra trên đất Nam kỳ trên dưới 100 năm nay, nhưng không có tài liệu chính thức nào ghi chép. Với ý định viết bộ sách về Nam Kỳ Lục Tỉnh, cho nên hơn mười năm qua, kể từ ngày còn trong trại tị nan tại Mã Lai, chúng tôi bắt đầu sưu tầm tài liệu. Các tư liệu ấy rải rác trong sách báo xưa, hoặc nằm trong ký ức của những vị cố cựu đất Nam Kỳ mà chúng tôi có dịp gặp gỡ. Lúc khởi sự viết, chúng tôi có ý định chia bộ sách làm 10 quyển, đều lấy tên "Nam Kỳ Lục Tỉnh". Sách ra đến tập 5, theo lời nhà xuất bản và một vài nhà sách khuyến cáo, kể từ tập 6 trở đi, mỗi quyển nên lấy một tựa đề khác, nhưng nội dung vẫn là những chuyện mới vừa khám phá, sưu tầm được. Nếu tiếp tục dùng tên cũ, bộ sách quá dài, độc giả sẽ ngán tiền, khó dám mua trọn bộ, mặc dù mỗi quyển đều độc lập với nhau, không có liên quan như một bộ trường thiên tiểu thuyết.
Đam mê môn lịch sử từ hồi nhỏ, lớn lên tôi theo học môn sử địa, và sau cùng trở thành thầy giáo dạy môn này nhiều năm, đủ các lớp khác nhau, nên tôi rất ham thích môn lịch sử. Với thời gian và tuổi đời chồng chất, chúng tôi tích tụ được nhiều hiểu biết về lịch sử miền Nam, một lãnh vực từ trước tới nay bị lãng quên, nên cố thu thập ghi chép để dành. Mặc dầu quyển sách nói nhiều đến các biến cố lịch sử các nhơn vật lịch sử, nhưng đây vẫn không phải là một quyển sử mà chỉ có giá trị như "giai thoại". Tôi có ý định viết các giai thoại về Nam Kỳ tương tự như cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc viết về "Giai Thoại Làng Nho" mà thôi, nhưng chú trọng đến địa lý, các di tích, văn hoá, lịch sử cùng cảnh đẹp thiên nhiên của miền Nam.
Tài liệu sử dụng, phần lớn là truyền khẩu, mới mẻ, mức độ chính xác rất hạn chế. Mỗi người kể lại chỉ biết một giai đoạn, một biến cố mà thôi. Các sự kiện ấy chưa bao giờ được kiểm chứng, đánh giá lại, nên chúng tôi không bao giờ dám coi đây là tài liệu lịch sử chính thức. Nó cũng như môn ngoại sử, chắc chắn có nhiều thiếu sót, sai lầm, không trung thực, nhưng nội dung vẫn giữ được cốt lõi của vấn đề.
Trân trọng xin quý độc giả vui lòng lượng thứ cho những điều sơ sót vừa kể trên. Tác giả cũng trân trọng kính gởi đến quý vị có phương danh trong tác phẩm lời biết ơn chơn thành.
Tác giả kính cáo.
Hứa Hoành
 
Phần 1 : CÁC GIAI THOẠI VỀ
TỔNG ĐỐC LỘC, TỔNG ĐỐC PHƯƠNG,
PHỦ CA, LÃNH BINH TẤN
 
Năm 1984 tôi đến trại tỵ nạn Mã Lai. Tình cờ tôi có quen với cụ Nguyễn văn Vực, nguyên Chánh Sự Vụ Sở Thông Tin Đô Thành Sài Gòn dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lúc đó cụ Vực ngoài 60 tuổi, vượt biên có một mình, sống cuộc đời hiu quạnh của người già, gợi trí tò mò của tôi, nên tôi bắt đầu làm quen, bắt chuyện với cụ. Mối giao tình lần lần đậm đà. Khi chuyển qua trại ở Philippines, cụ bị bịnh "hở valve tim", phải ra điều trị tại bịnh viện Manila. Lại cũng tình cờ nữa, tôi được cử theo giúp đỡ trong khi cụ bịnh hoạn.
Từ đó, chúng tôi một già một trẻ ăn chung, ngủ gần nhau. Hằng ngày cụ thường kể chuyện xưa tích cũ cho qua ngày đoạn tháng. Thấy cụ minh mẫn và cường kỳ, tôi xin phép ghi chép các chi tiết cụ kể ra. Có lẽ tự biết mình mắc một chứng bịnh khó trị, xung quanh không có thân nhân, lại tuổi cao, nên cụ sẵn sàng cho phép tôi sử dụng các chi tiết mà cụ đã kể với tôi trong thời gian chung sống nhàn rỗi ở Manila. Thỉnh thoảng tôi có dịp hầu chuyện với nhiều vị lớn tuổi ở miền Nam, tôi không quên kín đáo học hỏi thêm. Do đó, tôi có một số tư liệu tương đối ít người biết, hoặc không có sách vở đề cập tới.
Trong một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang ngoài phố. Tình cờ thấy trên vỉa hè trước tiệm bày bán sách báo cũ giá 10c một quyển. Tôi lựa một hồi tìm gặp một quyển sách bụi bặm nhăn nheo nói về thời kỳ Pháp mới chiếm Nam Kỳ với nhiều chi tiết mới lạ với tựa đề "The French present in Cochinchina and Cambodia 1859-1909" của Milton Osborn. Trong sách có nhiều bức ảnh minh hoạ chân dung các nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ mà từ trước đến giờ chúng tôi chỉ nghe nhắc tới, chớ chưa thấy được hình ảnh.
Quan niệm rằng xã hội nào cũng có người tốt kẻ xấu, chớ không thể thuần nhứt được, cho nên nhắc lại những kẻ đã nổi danh một thời trong lịch sử cận đại với mọi khía cạnh tốt xấu của nó, đều góp phần làm sống lại một thời kỳ đen tối của lịch sử. Các câu chuyện ấy gần như những giai thoại, một loại ngoại sử thiếu chính xác, nhưng không có cách gì khác hơn để kiểm chứng. Chúng tôi sưu tầm và viết lại người bài ký sự này như một loại kể chuyện đời xưa, còn việc khen chê để dành cho sử gia và các bậc thức giả. Với suy nghĩ như thế, tôi mạnh dạn viết loạt bài nầy cống hiến độc giả. Đây là tâm huyết của một người lưu vong còn nặng tình với quê hương. Mong rằng với lòng rộng lượng sẵn có, qúy độc giả sẽ sẵn lòng tha thứ cho những điều sai lầm, thiếu sót.
Pháp đem quân gây hấn ở Bắc và Trung Kỳ, nhưng thật sự đặt chưn lên được phần đất Việt Nam trước tiên là ở Nam Kỳ. Điều đó có nhiều lý do:
Thứ nhứt, Nam Kỳ ở xa kinh đô Huế, chắc sự phòng bị lỏng lẻo. Thứ nhì, đối với Pháp, Nam Kỳ là vị trí chiếm lược. Chiếm lược Nam Kỳ là khai thông sông Cửu Long để chiếm Miên, Lào và dọn đường đến Hoa Nam. Đó là mục tiêu của Pháp để chạy đua với công ty Đông Ấn Anh đang chiếm Ấn Độ, bành trướng qua Miến Điện, tràn xuống Mã Lai. Sự thành công của Pháp ở Nam Kỳ dễ dàng một phần do nhơn tâm ly tán. Nam Kỳ là đất mới, Nho học chưa đủ thời gian để bắt rễ. Khoa cử chỉ mới tổ chức hoàn bị vài khoá tại trường thi Hương Gia Định thì người Pháp đến. Số ông Nghè, ông Cử đại diện cho Nho giáo ở miền Nam rất hiếm, chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
So với miền Trung và Bắc, dân trí miền Nam thấp, và họ cũng ít hưởng được ơn vua lộc nước như dân ở miền ngoài. Có đọc truyện "Giai Thoại Làng Nho" của cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc mới thấy trong khoảng gần 100 giai thoại mà cụ sưu tập, chỉ có 4 hay 5 người miền Nam, còn bao nhiêu là những ông Cống, ông Nghè ở miền Trung và Bắc. Các đại thần ra giúp Nguyễn Ánh trung hưng cũng đều phát xuất từ Thanh Hoá trở vào. Chính những người đó vào Nam với khí tiết của kẻ sĩ, học vấn uyên bác của người đất kinh kỳ văn vật để pha trộn với lòng thẳng thắn bộc trực của người Nam.
Pháp chiếm được miền Nam rồi, Nho học suy tàn mau chóng. Sĩ khí của người miền Nam phần lớn không phát xuất từ những tay khoa bảng, hay giữ những chức vụ cao trong triều đình. Các lãnh tụ chống Pháp như Nguyễn văn Lịch (Nguyễn Trung Trực), Thiên Hộ Dương, Lê Công Thành, Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự ...đều là những người ít học. Dân Nam Kỳ rất phân hoá vì nhiều nguyên nhân kể trên. Hơn nữa, Nam Kỳ có nhiều họ đạo, mọc gốc rễ từ lâu đời ở những nơi khuất lấp, bất tiện về giao thông như cù lao Giêng, Bồ Ót (Long Xuyên), Cái Mơn, Cà Nhum (Vĩnh Long) là những chỗ dựa tin cẩn của người Pháp khi mới chiếm được miền Nam. Thi hành chính sách cấm đạo của triều đình, các quan lại địa phương bắt bớ, tra tấn, giam cầm và lưu đày các giáo dân, vô tình gây chia rẽ lương, giáo. Trường hợp ra cộng tác với người Pháp của Trần Bá Lộc, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Trần Tử Ca là những thí dụ điễn hình.
Năm 1862, khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã được nhượng cho Pháp rồi, gây ra biết bao cảnh tượng thương tâm: nhiều nghĩa quân bị sát hại, gia đình tan nát. Có những gia đình bỏ cả nhà cửa ruộng vườn, bồng bế nhau qua ba tỉnh còn lại tá túc. Trong khi đó, một số người có đạo Thiên Chúa, sẵn mối ác cảm với triều đình, âm thầm ở lại, hoặc mạnh dạn ra hợp tác. Có lẽ bài "thơ Nam kỳ" của tác giả vô danh là áng văn cổ nhứt miền Nam, viết bằng chữ quốc ngữ, nội dung rõ ràng cổ võ cho sự hợp tác với Pháp vì sự bạc đãi của triều đình. Nội dung không có nói tới lý do tôn giáo, nhưng chúng ta có thể hiểu ngầm rằng chính lý do ấy đã làm cho một số giáo dân ở miền Nam ngả theo Pháp. Pháp tìm ra được bài thơ này, nhờ Michel Đức Chaigneau, con ông Chaigneau, một phụ tá đắc lực cho vua Gia Long, dịch ra tiếng Pháp. Nội dung bài thơ tố cáo chính các quan lại địa phương làm cho mất nước vì chủ trương hẹp hòi, chia rẽ và khinh mạn họ. Trong "thơ Nam Kỳ" có những câu: "...Các quan lại là những nhà hiền triết, những bậc anh hùng tài đức,
"Họ coi chúng ta (dân) như cỏ cây, như rác rến,
"Họ hay dùng roi vọt đánh đập chúng ta, hơn là kháng chiến chống Pháp.
"Chúng ta như sống trong cảnh cá chậu chim lồng...nên chúng ta (phải như chim khôn) tránh lưới, tránh dò.
"Hãy để chúng tôi bày tỏ lòng tôn kính đối với cường quốc Pháp, vì 'tứ hải giai huynh đệ' ..."
Bài "Thơ Nam kỳ" tiếp theo do nhà in Tân Định tái bản lần thứ nhất năm 1903. Bài thơ đầu được dịch từ văn vần chữ quốc ngữ ra chữ Pháp, rồi tác giả khác dịch ra Anh văn. Chúng tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh để quảng diễn lại nội dung. Tam sao thất bổn nhưng chắc chắn có những nét chính còn giữ lại, để chúng ta có một ý niệm rõ ràng: vì bạc đãi, chia rẽ, nghi kỵ giữa lương giáo của triều đình Huế, vô tình làm mất đi một hậu thuẩn lớn của dân chúng. Thấy rõ đó là cơ hội tốt, Pháp liền nắm lấy. Họ dùng người Việt cai trị người Việt ngay từ buổi đầu . Pháp mở rộng vòng tay đón những người bất mãn ra hợp tác, đặt họ vào địa vị có tiền bạc để họ tận tâm phục vụ.
Để có thêm lý do vững chắc tin rằng người Công giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xâm lăng của người Pháp vào Nam Kỳ, chúng tôi xin dẫn chứng một khía cạnh khác. Khi đồn Chí Hoà thất thủ, triều đình Huế liền cử hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào thương thuyết với Pháp tại Sài Gòn Phái đoàn Pháp ngoài đại diện chính thức là người Pháp , còn có mấy người Việt sau đây: John Liễu, Trần Tử Ca và một người nữa không rõ tên họ, có đạo Thiên Chúa. Vừa thấy mấy người bản xứ đứng trong hàng ngũ kẻ thù, cụ Phan Thanh Giản giận lắm. Phía họ, khi thấy cụ Phan đại diện cho triều đình vừa bước vào phòng họp thì đứng dậy và chắp tay xá theo lối chào kính nhà vua bằng lễ nghi truyền thống. Cơn giận của cụ Phan tạm nguôi ngoai khi người Pháp giải thích rằng những người Việt này theo Thiên Chúa giáo (có nghĩa là họ trung lập).
Người Công giáo ngả theo Pháp từng giai đoạn. Buổi đầu họ đứng trung lập trong cuộc tranh chấp. Rồi các hội truyền giáo khuyến khích, giải thích với họ rằng người Pháp sẽ có mặt lâu dài ở đây để bảo vệ họ, quyền lợi của họ và con cái họ khi có sự trả thù của quan lại triều đình. Từ đó, lớp người ra cộng tác với Pháp càng ngày càng đông. Những khuôn mặt bản xứ mới xuất hiện hồi cuối thế kỷ 19 trên chính trường miền Nam hầu hết là Công giáo.
Ngoài ra còn có một hạng người khác cũng sớm ra đầu thú để xin hợp tác vì họ là những thành phần điền chủ giàu có. Gia đình họ trước đây nhờ các chức vụ như bá hộ, hộ trưởng, đội trưởng các đồn điền mà làm giàu mau chóng. Có thế lực dễ kiếm ra tiền. Có vốn cho vay sanh lời mau chóng. Có tiền họ mua thêm ruộng đất, hoặc siết ruộng đất của những người cầm cố không trả nổi. Họ cảm thấy cần được cái dù che chở của Pháp để bảo vệ quyền lợi cho gia đình và dòng họ. Nhớ lại những năm loạn lạc dưới thời Lê Văn Khôi chiếm cứ thành Phiên An, cũng như nhiều lần quân Xiêm cướp phá, vơ vét sạch tài sản của họ mà không ai can thiệp. Cho nên lần này họ rút kinh nghiệm và tìm một con đường mới để tiến thân và bảo vệ tài sản. Họ tự biết vốn không học nhiều chữ Hán, chỉ biết chữ Nôm và quốc ngữ, chắc chắn không được triều đình trọng dụng . Vì lẽ đó, họ đổi hướng, mạnh dạn ra hợp tác với tân triều cho hợp với thời thế. Hơn nữa luật pháp của triều đình quá phong kiến và khắt khe. Hằng năm triều đình ra lịnh hành quyết từ 200 đến 300 người riêng tại Nam Kỳ.. Nhưng khi người Pháp đã làm chủ ở đây, họ áp dụng luật nước Pháp tiến bộ hơn. Tình trạng xử tử các tội nhơn cũng giảm gần hết, chỉ trừ những trường hợp trực tiếp giết họ, bị họ bắt. Có lẽ đó cũng là dụng ý của thực dân trong giai đoạn đầu để mua chuộc người  bản xứ.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập đến các nhơn vật tiêu biểu là Trần Bá Lộc và con là Trần Bá Thọ, Trần Tử Ca, và Đỗ Hữu Phương.
Tôi tin chắc rằng quý độc giả từng đọc qua những quyển danh nhơn tự điển nước nhà xuất bản từ trước tới nay, không dễ gì tìm ra tiểu sử các ông ấy. Lý do rất giản dị là vì quan niệm "văn dĩ tải đạo" (văn chương chở đạo lý) của người xưa. Các người trước tác sách vở ngày trước chỉ nhắc đến những gương danh nhơn, anh hùng liệt nữ mà thôi. Dụng ý của họ để răn dạy thế hệ mai sau. Đối với những nhơn vật kể trên, sĩ phu nước ta cho là những kẻ có tội với đất nước và dân tộc, nên không ghi chép lại những tấm gương xấu đó. Ngày nay, chúng ta quan niệm khác. Chúng ta muốn tìm hiểu sự thật và thành tâm, thiện chí làm công việc đó. Chúng ta muốn nhìn thấy những sự việc y như chúng đã xảy ra, dầu tốt hay xấu. Trong khi viết về những nhơn vật kể trên, chúng tôi lược bỏ những chi tiết mà các sách sử thường nhắc tới để tránh sự nhàm chán cho người đọc.
 
TỔNG ĐỐC TRẦN BÁ LỘC
(1838-1900)
Các bạn có biết trong tỉnh Mỹ Tho có hai ngôi mộ chôn đứng là của ai không ? Xin thưa rằng ngôi mộ thứ nhất của một người con bất hiếu bị "trời trồng" chôn trong xã Khánh Hậu, sau này thuộc tỉnh Long An. Ngôi mộ thứ hai là của Trần Bá Lộc, đi tàu gần tới Mỹ Tho thấy ngôi mộ sừng sững ở đầu ngã ba sông.
Trần Bá Lộc là một trong những người oán hận triều đình Huế chỉ vì gia đình ông có đạo, đã bị ngược đãi. Thân phụ Lộc là Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đổ Tú Tài vào Nam lập nghiệp với tư cách một thầy đồ. Ban đầu cụ Phước dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long) sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Đây là các xứ đạo lâu đời nhờ vào vị trí khuất lấp với bên ngoài, nên các giáo sĩ vẫn lén lút truyền đạo. Trần Bá Lộc chào đời tại đây năm 1838, cuối đời vua Minh Mạng. Lớn lên nhằm lúc triều đình cho thi hành một chánh sách cấm đạo khắt khe vì sự khiêu khích của người Pháp. Nhiều cố đạo bị bắt giam, có vị bị hành quyết như Thánh Minh bị giết năm 1854 tại bến đò Đình Khao (Vĩnh Long). Nhiều tín đồ bị đánh đập tàn nhẫn buộc phải bỏ đạo. Có kẻ bị lưu đày. Thân phụ Lộc, cụ Trần Bá Phước bị bắt giam tại Châu Đốc một thời gian rồi đày đi Bình Định. Năm đó Lộc 16 tuổi. Bao nhiêu thù hận Lộc đổ trút lên đầu quan lại địa phương và triều đình Huế. Càng thương cha bao nhiêu, Lộc càng căm thù bấy nhiêu.
Theo nhận xét của người Pháp lúc còn học ở trường nhà dòng, người Pháp nhìn nhận rằng Lộc tỏ ra thông minh, có chí khí, học hành tiến bộ. Trong thời gian cha bị phát lưu tại Bình Định, giáo hội tiếp tục nuôi nấng và dạy dỗ Lộc. Mối cảm tình với thực dân phát sinh từ đó. Sau khi cưới vợ, một người có đạo Công giáo, được hơn một năm Lộc bị quan lại địa phương bắt bớ, đánh đập rồi giam luôn. Nhưng sau đó Lộc trốn thoát được. Lúc đó Pháp cũng vừa làm chủ tình thế ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cần mua chuộc người bản xứ ra hợp tác. Khai thác hận thù trong tâm của Lộc, giáo hội khuyên Lộc nên gia nhập hàng ngũ Pháp để tránh bị trả thù. Lộc âm thầm đem gia đình lên Mỹ Tho, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc che chở để sống trong lãnh thổ của Pháp.
Cũng do sự tiến dẫn và giới thiệu của Marc, Lộc xin vào làm lính mã tà. Lộc lập nhiều thành tích nhờ dọ thám, điềm chỉ cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên Lộc được thăng Cai, rồi lên Đội rất nhanh. Năm sau, Lộc đã lập nghiệp vững chắc ở đây rồi, Pháp cấp cho Lộc một căn nhà lá, vợ thì nuôi heo kiếm thêm tiền. Từ đó, tiền bạc và địa vị của Lộc thăng tiến nhanh như diều gặp gió. Vốn có ác cảm với quan quân của triều đình, Lộc đàn áp các nghĩa quân không nới tay. Nhờ biểu lộ lòng trung thành với thực dân qua các vụ đánh dẹp, chém giết, lại biết chữ quốc ngữ, chữ Hán, cho nên mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865. Lộc là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ. Lúc nầy Lộc vừa đóng vai trò võ quan để bình định các cuộc khởi nghĩa cho Pháp, vừa giữ vai trò cố vấn cho Pháp về vấn đề an ninh lãnh thổ, hành chánh và chánh sách cai trị nữa.
Kinh nghiệm cho biết rằng hễ kẻ có tài hay tự phụ. Lộc không thoát khỏi thông lệ đó. Khi đã thăng phủ, vẫn còn ngồi ở quận Cái Bè, Lộc lấn quyền cả người Pháp. Lộc coi như mình có quyền hành trên những người Pháp đang phục vụ tại đây. Ông ta viết đơn gởi cho Giám Đốc Nội Vụ đề nghị thăng cấp cho người Pháp trong quận, và coi đó như nhiệm vụ của mình. Ngồi quận Cái Bè trong 30 năm, công lao hãn mã đã nhiều, mà vẫn không còn tiến thân được nữa, điều đó chứng tỏ người Pháp không thích ông và dùng người có giai đoạn. Những cuộc đánh dẹp trong Đồng Tháp Mười, Vũng Liêm, Cầu Ngang, Rạch Giá, Phú Quốc...có thể nói bất cứ cuộc khởi nghĩa nào ở Nam Kỳ cũng có Lộc dẫn quân đi đàn áp dã man.
Có một lần Lộc họp cùng Phủ Đức, ruồng bắt cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân ở vùng Gò Công lên đến Chợ Gạo, khiến cho cọp, chồn, nai chạy tán loạn vào các thôn xóm. Khi ngồi chủ quận Cái Bè, mỗi lần báo cáo điều gì lên Thống Đốc Nam Kỳ, Lộc luôn luôn dùng chữ "Phụng lệnh quan lớn Nguyên Soái", nịnh bợ cấp trên hết lòng. Theo Lộc, nhà cầm quyền cần dạy dân chúng về luân lý, đạo đức của Pháp. Lộc nói người Công Giáo luôn luôn trung thành với Pháp, chỉ có các phần tử theo Nho giáo mới làm loạn.
Ông Durrwell nhận xét về Trần Bá Lộc như sau:"Lộc đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa, và thẳng tay dùng bạo lực để dẹp các cuộc bạo động. Dưới con mắt của người Pháp, Lộc là một trong những viên chức Việt Nam ra hợp tác đáng tín nhiệm nhứt, và là một thí dụ điển hình để những người Việt khác noi gương!"
Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả người Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận mà không làm gì được. Có một lần Lộc đi dự lễ khánh thành một nhà việc làng ở Mỹ Tho, bị ám sát, nhưng thoát chết. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn núp, kêu họ ra đầu thú, nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Đối với Lộc, phương tiện nào cũng tốt miễn đạt tới mục tiêu thì thôi.
Nhìn về nông thôn, theo báo cáo của Lộc với Thống Đốc Nam Kỳ, thì đó là một bức tranh ảm đạm:"Các viên chức làng xã thường thụt két, biển thủ tiền bạc để ăn xài riêng, hút á phiện và lạm dụng quyền hành. Mỗi khi bắt dân chúng làm sưu thì họ hàng với những người ấy được miễn, không ai dám kêu ca. Tiền bạc thâu góp trong các dịp lễ lạc, họ bỏ túi xài riêng". Lộc nói thêm:"Các món tiền trợ cấp cho dân quê đều vô túi mấy ông làng (Nên nhớ đây là tiền trợ cấp tử tuất cho gia đình những người lính đã theo Pháp bị tử trận). Khi trả lương cho họ, phải làm sổ sách hẳn hòi. Mỗi lần có lễ lạc như cúng đình là đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Sau cùng , làm sưu phải đồng đều". Với báo cáo đó, Lộc tỏ ra nắm vững tình hình ở thôn quê và am hiểu luật lệ hành chánh, vì lẽ đó nên Pháp rất tin cậy.
Năm 1886, Lộc được Pháp điều động ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Xong việc, Lộc được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh và thăng hàm Tổng Đốc Thuận Khánh, nên dân chúng gọi ông là Tổng Đốc Lộc. Sau đó, Lộc về quê tại Cái Bè và Mỹ Tho. Lộc rất tự phụ, chê cả người Pháp là bất lực, kém hiểu biết tình hình địa phương. Cũng chính vì thế người Pháp không ưa ông ta, nhưng phải nhìn nhận rằng:"Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn". Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau:"người ta có thể phàn nàn lão già nầy về hành động dã man lúc trước nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn". (Hồ sơ Trần Bá Lộc của Durrwell, năm 1931)
Toàn quyền Paul Doumer vào Nam nhiều lần. Lần nào ông ta cũng có xuống nhà thăm Lộc. Theo P.Doumer vào những năm cuối đời của ông ta, Lộc là một trong những người giàu nhứt ở Nam Kỳ. Trước khi chết, Lộc còn hơn hai ngàn mẫu ruộng và làm chủ cả cù lao Qưới Thiện. Để tưởng thưởng công lao hãn mã của Lộc, năm 1899, P.Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng với P.Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra P.Doumer còn cất nhắc Lộc trước khi chết được vào Hội Đồng Tối Cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ.
Lộc mất năm 1900 trong sự lãnh đạm của Pháp lẫn Việt. Trước khi chết, Lộc dặn con phải chôn đứng. Đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày để khách khứa xa gần viếng thăm. Mỗi ngày đều có làm heo , bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bắt súng chào và đưa tới huyệt. Lộc chết không ai tưởng nhớ, nhưng người Pháp cho lấy tên Lộc để đặt tên cho một con kinh từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng do chính Lộc chỉ huy dân phu đào. Công việc đào kinh rất nặng nhọc, giữa đồng nhiều muỗi, vắt, đĩa và thiếu nước uống, khiến cho nhiều người chết vì bệnh sốt rét và dịch tả. Kinh Tổng Đốc Lộc đã góp phần làm cho vùng hai bên bờ kinh được phong phú.
 
TRẦN BÁ THỌ
Phải chăng cây độc không trái, hay ít trái, nên Trần Bá Lộc chỉ có một người con duy nhứt là Trần Bá Thọ. Theo cuốn "Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" thì từ năm 1886 trở đi Nam Kỳ đã bắt đầu gởi người du học qua Pháp. Bốn năm sau số du học sinh lên đến 90 người . Thọ là một trong những người du học đầu tiên đó, cùng với Huỳnh Công Miêng con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn (1). Thọ và người chú ruột là Trần Bá Hữu theo học trường Laseyne ở Pháp. Những người đi Pháp học trong buổi đầu không phải để lấy bằng cấp, mà chỉ học chữ Pháp đủ sức làm thông ngôn, giao dịch với Pháp mà thôi.
Sau khi ở Pháp về, Trần Bá Thọ vừa làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, vừa lo quản lý ruộng đất khổng lồ của cha để lại. Cũng giống như cha, khi ra làm việc với Pháp, Thọ vẫn nóng tánh, hay có những ý kiến trái ngược với quyền lợi của Pháp. Trần Bá Thọ có một người con gái gả cho con trai út của cụ Trương Vĩnh Ký là Trương Vĩnh Tống. Trong thời gian làm hội đồng, Trần Bá Thọ có nhiều hoạt động đáng lưu ý.
Trước hết, trong các phiên họp hội đồng, Thọ đưa ra nhận xét:"Vai trò cai tổng trong mỗi quận rất quan trọng, nhờ họ làm trung gian truyền lệnh từ quận xuống xã, và đốc xuất việc thâu thuế. Cai tổng do các làng bầu ra, nhưng phải được nhà cầm quyền cấp tỉnh hợp thức hóa. Mỗi cai tổng có phó tổng phụ tá. Thọ nói tìm và bổ nhiệm một cai tổng có khả năng không phải dễ, và Thọ cũng phàn nàn lương cai tổng quá thấp, nên khó kiếm người có khả năng, mà còn làm cho họ tham nhũng, hối lộ. Còn các ông làng, mỗi lần đi công tác lên tỉnh, lên quận mất nhiều ngày mà không có công tác phí, khiến họ phải ăn hối lộ".
Trong một phiên họp hội đồng, Thọ nêu ý kiến báo chí sẽ tường thuật các phiên họp ấy cho dân chúng biết. Viên Thống Đốc Nam Kỳ chủ tọa trả lời rằng:
"Me-sừ Thọ rất thông minh, nhưng không hiểu biết nội bộ. Nếu cho dân chúng biết mọi cuộc thảo luận của Hội Đồng Quản Hạt, chúng ta sẽ khó đạt mục đích. Cần phải giấu họ."
Đã từng nghe dân chúng phàn nàn về việc làm của cha trước đây nên vào năm 1908, Trần Bá Thọ cho xuất bản quyển:"Nhị Thập Tứ Hiếu" bằng Pháp văn và Quốc ngữ để giáo dục dân chúng về luân lý, đạo đức của Nho giáo. Trong lời tựa sách, Thọ viết:
"người Việt không kính trọng các kẻ hợp tác với Pháp và nói tiếng Pháp vì họ bị cô lập không nói được tiếng ấy và cũng không được giáo dục nữa."
Trước kia, Lộc đã từng chủ trương dạy chữ Quốc ngữ cho người Công giáo . Thọ nói rằng vì thiếu sách nên ông phải soạn ra. Lập luận này bị ông Diệp Văn Cương không tán thành bằng cách nói rằng không có lý do gì mà không dạy Nho giáo bằng Pháp văn, trong khi tiếng Pháp chính là công cụ để khai hoá. Còn Hội Đồng Lê Văn Phát thì cho rằng cần duy trì tiếng Pháp để người Pháp hiểu sinh hoạt, lịch sử Nam Kỳ mà họ đang cai trị. Trong khi đó, Giám Mục Mossand phàn nàn nhờ hấp thụ văn hoá Pháp do nhu cầu cai trị, mà một số người tỏ ra ít trung thành với Pháp. Ông Diệp Văn Cương, du học Pháp, đổ Tú Tài 2, về làm Hội Đồng đã phản đối:
"Lời tuyên bố xuất phát từ một vị đứng đầu Giáo Hội Truyền Giáo Nam Kỳ như một sự tố cáo tất cả người Việt du học bên Pháp đều chống lại Pháp, trong đó có tôi chẳng hạn. Điều đó không đúng."
Dư luận Nam Kỳ cho rằng Trần Bá Thọ giống cha, lúc làm Hội Đồng dám ăn nói, tỏ ra cứng đầu, không nể nang ai hết. Về sau Thọ quy dân lập ấp, xây chợ, cất nhà ở Sa Đéc, lúc ấy thuộc phủ Tân Thành, nơi Lộc từng trấn nhậm và có rất nhiều đất đai. Dân chúng Sa Đéc còn nhắc đến Trần Bá Thọ bằng hai câu liễn đối:
Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục na sáng tạo
Quy dân lạc lợi, Hùng đường, Trần Bá Thọ kinh dinh
Về sau, không biết buồn việc gia đình ra sao, Thọ dùng súng lục tự tử.
Trần Bá Lộc còn hai người em trai khác là Trần Bá Tường và Trần Bá Hựu. Cả hai đều ra cộng tác với Pháp rất sớm, vì nhờ lập được nhiều thành tích đàn áp, bắn giết các nghĩa quân, nên được Pháp rất tin cậy. Trần Bá Hựu làm chủ quận Long Thành, còn Trần Bá Tường ngồi quận tại Long Xuyên. Năm 1875, Trần Bá Tường tham gia vào cuộc càn quét nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa Làng Linh do Phó Quản Cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Pháp nhiều lần dụ hàng, đem quan chức ra làm mồi câu nhử, mua chuộc nhưng Trần Văn Thành khẳng khái:
Thà thua xuống láng, xuống bưng
Bỏ ra đầu giặc, lỗi chủng quân thần
Trong trận nầy, Trần Bá Tường có người  dọ thám trước, rồi tự mình dẫn một cánh quân, phối hợp với quân của Quản Hiếm (một người Việt theo Pháp) đánh úp đồn Bảy Thưa là bản doanh của lãnh tụ Trần Văn Thành. Khu vực này được tổ chức phòng thủ kiên cố, và tinh thần chiến đấu của binh sĩ rất cao. Từ đó về sau người ta không còn nghe nhắc tới Trần Bá Tường nữa.
Có một giai thoại về Trần Bá Thọ như sau:
"Tại Gia Định có một sĩ phu tên Nguyễn Văn Thạnh quê quán ở Định Tường, đậu khoá thi Hương (cử nhân) làm quan tại Bình Thuận. Ông Thạnh là một nhà Nho có khí tiết. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ , Cử Thạnh từ quan trở về tìm cách liên lạc với nghĩa quân để tham gia. Ghe bầu của ông vừa vào cửa Cần Giờ thì bị quân Pháp khám xét. Sau khi lục soát, chúng tìm được nhiều mã tấu, gươm giáo giấu dưới khoang hầm. Âm mưu bại lộ , Cử Thạnh bị bắt giải về Sài Gòn . Nghe tin, Tôn Thọ Tường tới xin bảo lãnh, mời về nhà đãi tiệc để dụ dỗ. Thạnh khẳng khái từ chối. Tường không dám ép mà chỉ nói:
- Nhân các hữu kỳ chí (Ai có chí hướng của người nấy)
Mấy tháng sau, Cử Thạnh về quê sống ẩn dật. Lúc nầy Trần Bá Lộc đã ngồi chủ quận Cái Bè, nghe danh Cử Thạnh nên mời ông ta về nhà làm gia khách dạy con là Trần Bá Thọ. Cha nào con nấy, Trần Bá Thọ tuy còn là học trò, nhưng cũng bộc lộ nhiều cử chỉ ngang ngạnh. Một hôm thấy thầy đồ Nguyễn Văn Thạnh rậm râu, hay hút thuốc, Trần Bá Thọ liền tới gần và nói:
- Thưa thầy, thầy có thể cho phép con ra một câu đối?
- Được, trò cứ làm trước .- Cử Thạnh trả lời.
Trần Bá Thọ liền đọc:
"Râu ba chòm lém dém, miệng hút thuốc phì phèo".
Nhìn lại thấy Thọ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đầu hói, tóc thưa, đi đâu cũng cầm ba-ton ra vẻ hống hách, nên Cử Thạnh ứng khẩu đối ngay:
"Tóc vài sợi le the, tay cầm gậy ngúc ngắc."
Chưa thoả mãn, Thọ xin thầy đối một câu nữa của hắn:
"Phụ từ, tử hiếu, sanh con thế ấy là vàng"
Bực mình, thấy đứa học trò ngạo mạn, Cử Thạnh liền đáp:
"Tham phú, phụ bần, đụ mẹ thằng nào ở bạc!"
Xấu hổ, từ đó Trần Bá Thọ không còn xấc láo với thầy học nữa.
 
TỔNG ĐỐC ĐỖ HỮU PHƯƠNG
(1838-1914)
Đại lộ sang trọng và sầm uất nhất Chợ Lớn được đặt tên là "Đại Lộ Tổng Đốc Phương", có phải ông nầy là một người có công trạng đối với đất nước? Tên ấy được đặt ra dưới thời Pháp thuộc, vì nước Pháp coi ông ta như một người có công đóng góp lớn lao vào lịch sử nước Pháp. Đỗ Hữu Phương là một nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ khi người Pháp mới chiếm miền Nam. Tuy ông Lê Phát Đạt, tức ông Huyện Sĩ nổi tiếng giàu nhứt, theo sự sắp hạng của dân chúng Nam Kỳ, nhưng tiếng tăm của ông ít ai biết bằng Đỗ Hữu Phương. Tôi cũng nghe tên, "Rạch Ông Lớn", "cầu Rạch Ông", "chợ Rạch Ông" là những địa danh nằm ở bên kia cầu chữ Y cũng nhắc nhở đến Đỗ Hữu Phương, vì đất đai đó trước kia là của ông ta.
Thân phụ Đỗ Hữu Phương không phải là quan lại, nhưng là người giàu nhất Chợ Lớn, gọi là bá hộ, còn bà mẹ dòng dõi con quan. Sinh năm 1838 tại Chợ Đủi, Đỗ Hữu Phương sống và lớn lên chứng kiến sự kế tục của 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với hoàn cảnh xã hội bất ổn triền miên. Khi Pháp đánh Gia Định, Phương đã đến tuổi trưởng thành, và cũng trốn lên Bà Điểm, Hóc Môn. Giống như trường hợp Trần Tử Ca, Đỗ Hữu Phương theo Pháp ngay khi đồn Chí Hòa thất thủ. Qua trung gian của người Việt có đạo, Đỗ Hữu Phương được tiến dẫn đến trình diện với Francis Garnier, lúc ấy đang là Tham Biện Chợ Lớn, rồi Phương theo Pháp luôn.
Theo tài liệu dẫn ở trên:"Đỗ Hữu Phương liên tục phục vụ trong nên hành chánh thuộc địa cả văn lẫn võ, và có đôi lúc làm trung gian áp-phe trong các dịch vụ đấu thầu, mua bán giữa Pháp và Hoa Kiều". Chi tiết về cuộc đời của Đỗ Hữu Phương phần lớn rút trong tập hồ sơ cá nhân của Luro, có nơi Đỗ Hữu Phương làm Đốc Phủ Sứ hàm Tổng Đốc. Khi Pháp chiếm luôn 6 tỉnh Nam Kỳ, Phương từ chức bá hộ, lên làm Hộ trưởng ở Chợ Lớn. Lúc đó cả Sài Gòn, Chợ Lớn chia ra làm 20 hộ. Địa vị bá hộ lúc trước và chức hộ trưởng đương thời đã khiến Phương làm giàu rất nhanh. Phương là một trong những người cộng tác với tân triều không thuộc gia đình quan lại, chỉ thuộc hạng điền chủ giàu có mà thôi. Có thể nói cùng lãnh chức đội trưởng mã-tà một lượt, Đỗ Hữu Phương và Trần Bá Lộc cùng chạy đua để lập công với chủ mới.
Năm 1861, Phương vẫn còn ngoại đạo. Lý do khiến Phương đứng về hàng ngũ Pháp, theo Vial, Giám Đốc Nội Vụ là sự giàu có cần được Pháp che chở. Theo luật phong kiến của Việt Nam, tất cả tài sản và đất đai đều thuộc quyền tối thượng của Vua, nên Phương cũng như Ca, ra hợp tác với Pháp là để bảo vệ quyền lợi của mình. Đỗ Hữu Phương rất khôn ngoan, khi mới đầu quân với Pháp cũng tham gia vài trận đánh để tạo niềm tin. Phương đã dẹp cuộc khởi nghĩa do con Trương Công Định lãnh đạo ở Hóc Môn. Chỉ trong vòng 9 năm, Phương lên chức Đốc Phủ Sứ nhờ có công phủ dụ các cuộc khởi nghĩa, hoặc dẫn binh đi đánh dẹp các nơi như Vũng Liêm, Rạch Giá. Hai biến cố khiến Phương củng cố thêm lòng tin cậy của Pháp là cải đạo Thiên Chúa và gia nhập Pháp tịch trước tiên ở Nam Kỳ (năm 1881). Nhiệm vụ quan trọng của Đỗ Hữu Phương là dọ thám, cấp báo tin tức những cuộc dự mưu khởi nghĩa, những nơi nào sắp gây náo loạn trong phạm vi Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tân An.
So với Trần Bá Lộc, Phương còn lương tâm đối với đồng bào. Có lẫn Đỗ Hữu Phương bảo lãnh cho Thủ Khoa Huân, đem về nhà nuôi ăn ở dưới hình thức quản thúc. Trên nấc thang hoạn lộ, Phương tiến rất mau. Từ chức Hộ trưởng ban đầu, kế thăng Đốc Phủ Sứ, hàm Tổng Đốc, và năm 1872, qua sự đề nghị của Tham Biện Chợ Lớn, Thống Đốc Le Myre de Villers bổ nhiệm Phương làm hội viên Hội đồng Thành phố Chợ Lớn. Đến năm 1897, Phương là phụ tá cho xã Tây (một chức vụ như thị trưởng). Bấy giờ Hoa Kiều bắt đầu buôn bán, giao dịch nhiều với người Pháp, thấy Phương có thế lực, quen biết với những người giữ chức vụ then chốt, nên nhiều người nhờ cậy Phương chạy chọt việc nầy việc kia với số tiền đền ơn hậu hĩ. Phương đóng thêm vại trò áp-phe.
Bấy giờ có một lãnh tụ Phật Giáo Tứ Ấn là ông Năm Thiếp xuất hiện trong dân chúng miền Nam, làm cho Pháp phải điên đầu. Theo lời kể của một vị cao niên thì có một ngôi chùa Phật Giáo Tứ Ấn ở núi Tượng (có lẽ là chùa An Định?) là trung tâm xuất phát các cuộc mưu toan khởi nghĩa, tấn công đồn bót, để "phục hưng cho dân An Nam". Trong nỗ lực tìm cách phủ dụ hoặc bắt bớ lãnh tụ Năm Thiếp, Phương và Lộc đều ráo riết lập công.
Trong những năm 1865-75, ông Năm Thiếp xuất hiện nay chỗ nầy, mai chỗ kia, nhờ dân chúng che giấu lúc ẩn, lúc hiện làm cho Pháp phải bối rối mà không sao bắt được. Phương nghĩ ra một cách mềm dẻo bằng cách sai một tay chơn thân tính tên Bửu, người Minh Hương mua 3000 xâu chuổi bồ đề ở Chợ Lớn, giả làm một tín đồ sùng đạo, len lỏi vào tận núi Tượng ở Châu Đốc xin cúng để phát cho đồng bào. Sẵn dịp nầy Bửu dò la tin tức ông Năm Thiếp nhưng không có kết quả. Trường hợp Phủ Lộc làm một trò khôi hài hơn. Lộc sai bộ hạ là ông Hai Phép đi dò la tin tức ông Năm Thiếp ở Thất Sơn. Hai Phép gặp ông Năm Thiếp bị ông cảm hóa, trở thành tín đồ ngoan ngoãn, ở luôn, không về. Như vậy cả hai người thi nhau lập công đều thất bại.
Đỗ Hữu Phương là người duy nhứt qua lại thăm viếng Pháp nhiều lần. Lần đầu tiên năm 1874, Phương qua Pháp dự hội chợ Paris. Ba lần đầu vào các năm 1884, 1889 và 1894 đi du lịch thăm con cái đang du học tại đó. Đỗ Hữu Phương đã "Pháp hóa hơn cả những người Pháp", theo lời nhận xét của bạn bè người Pháp của ông. Ông có tất cả 6 người con. Trưởng Nam là Đỗ Hữu Chẩn theo học trường Võ bị danh tiếng St-Cyr của Pháp sau làm Trung Tá trong quân đội Pháp. Ông là người Việt Nam đầu tiên và trẻ tuổi nhứt làm trung tá trong quân đội Pháp. Đỗ Hữu Chẩn mất vào Đệ Nhị Thế Chiến. Người con kế là Đỗ Hữu Vị, người phi công đầu tiên Việt Nam và cả Đông Nam Á. Ngay từ lúc thiếu thời, Đỗ Hữu Vị đã hấp thụ một nền văn hóa Pháp hoàn toàn. Tốt nghiệp trường Taberd, được thân phụ gởi qua Pháp du học tại trường Collège St.Barbe ở Paris. Đỗ Hữu Vị nói và viết Pháp văn như Pháp. Rồi Đỗ Hữu Vị chọn binh nghiệp như anh. Ba năm sau khi ra trường, Đỗ Hữu Vị mới xin theo học Không Quân. Lúc đó người Việt Nam làm sĩ quan cho Pháp rất hiếm. Chỉ có hai anh em Đỗ Hữu Chẩn, Đỗ Hữu Vị và Nguyễn Văn Xuân sau lên Trung Tướng. Nên nhớ lúc bấy giờ máy bay mới được phát minh, cho nên làm phi công là một việc rất phi thường. Đỗ Hữu Vị lại làm phi công tác chiến trong phi đoàn ở Maroc.
Để cổ võ tấm gương người dân thuộc địa phục vụ cho mẫu quốc, Pháp gởi Đỗ Hữu Vị về Việt Nam lái máy bay biểu diễn ở Sài Gòn và Hà Nội, dân chúng khâm phục, hãnh diện và bàn tán sôi nổi.
Thế Chiến Thứ Nhứt bùng nổ (1914-1918), Đỗ Hữu Vị trở qua Pháp tham dự các trận đánh với Đức. Trong một lần giao tranh tại sông Somme, Trung Úy Đỗ Hữu Vị bị thương nặng và từ trần sau đó. Ông được tưởng thưởng nhiều huy chương và truy thăng Đại Úy.
Pháp cho in hình Đỗ Hữu Vị trên con tem phát hành khắp Đông Dương, và lấy tên ông đặt cho trường Kỷ Thuật Cao Thắng sau nầy.
Đỗ Hữu Phương còn một người con trai nữa là Đỗ Hữu Trí, cũng có chức vụ trong nền hành chánh thuộc địa nhưng không rõ. Trong 3 người con gái, có một người gả cho con trai Tổng Đốc Hoàng Cao Khải ngoài Bắc.
Hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 19, theo sự nhận xét của người Pháp:"Nam Kỳ ổn định về mọi mặt như mặt nước hồ thu. Sự giao thiệp giữa các viên chức ra hợp tác với tân triều và quan lại người Pháp, có thể nói là thân mật, mở ra một thời kỳ huy hoàng ở Nam Kỳ". Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ) nổi bật hơn những người Việt Nam khác đã ra cộng tác với Pháp, được Pháp tin cậy hoàn toàn và có một đời sống văn hóa nửa Tây nửa ta. Phương tận tụy với chủ mới và coi đó là một bổn phận để giữ lấy địa vị giàu sang cùng lòng tin cậy mà thăng quan tiến chức. Trong vấn đề cai trị, Phương luôn luôn chú trọng đến trị an của Sài Gòn, Chợ Lớn.
Năm 1895, trong một báo cáo về tình hình an ninh Sài Gòn như sau:"Khắp Sài Gòn, du đảng càng ngày càng lộng hành. Chúng liên kết với nhóm Thiên Địa Hội để ăn hiếp dân chúng, làm tiền những người giàu có. Ai giận ghét người nào cho tiền, mướn chúng đánh phá. Những ai muốn ứng cử hội đồng mướn du côn canh chừng, nếu không bỏ thăm cho mình bị chúng chận đánh. Thậm chí chúng còn giả bộ mượn tiền nhà giàu từ năm ba chục trở lên, ai không cho mượn, chúng đốt nhà trả thù". Thế kỷ trước cũng không khác thế kỷ nầy bao nhiêu. Đối với con gái trong nhà, Đỗ Hữu Phương giáo dục theo truyền thống Nho giáo. Ông được tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh nhiều lần vào những năm 1874, 1884, 1889.
Năm 1899, Phương về hưu và dùng thời gian còn lại làm công tác từ thiện. Ông sáng lập trường Nữ trung học Sài Gòn. Sau khi hưu trí, Toàn Quyền Paul Doumer cất nhắc Phương vào "Hội Đồng Tư Vấn Tối Cao Đông Dương" cùng với Trần Bá Lộc. Trước khi về hưu, Phương còn làm Phó chủ tịch "Hội Nghiên Cứu Đông Dương" (1883). Đây là nôi tập họp những người Pháp quan tâm đến Nam Kỳ, cùng với những người Việt Nam giàu có, giữ địa vị quan trọng trong chánh quyền thuộc địa hoặc là trí thức.
Đến năm 1908, hội nầy có tất cả 260 hội viên, trong đó có 33 người Việt Nam, gồm những ông Hội Đồng Quản Hạt, nhơn viên hành chánh cao cấp, trong đó có Trần Bá Thọ. Riêng hai ông Pétrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Hùynh Tịnh Của là hội viên vĩnh viễn suốt đời. Một hội viên xuất sắc của hội nầy sau Pétrus Ký và Paulus Của là ông Lê Văn Phát. Chúng tôi được biết thêm tiểu sử một vị trí thức mới như sau:"Lê Văn Phát thuộc dòng dõi quý tộc, ra làm quan và hợp tác với Pháp rất sớm ở Nam Kỳ. Tài liệu không nói rõ ông quê quán ở đâu nhưng cho biết ông nội làm quan ở triều đình Huế lúc Pháp mới xâm lăng Nam Kỳ. Nhưng cha mẹ ông không ngăn cấm ông ra hợp tác với người Pháp. Ông sống đồng thời với Trương Minh Ký, Trương Vĩnh Ký, Hùynh Tịnh Của, có sức học uyên thâm, nhưng rất tiếc không thấy còn để lại tác phẩm nào.
Ông là cây viết thường trực cho "Hội Nghiên Cứu Đông Dương"(Bulletin de la Société des Études Indochinoises). Mục đích của ông là làm cho nhà cầm quyền Pháp hiểu thêm về người Việt Nam hơn. Ông cũng là hội viên của "Hiệp Hội Đồng Minh Pháp" (Pháp Văn Đồng Minh Hội sau nầy). Theo ông, người Pháp đến làm chủ Nam Kỳ mà biết rất ít về xứ sở họ đang cai trị và sinh sống. Còn một số phụ nữ bản xứ có kiến thức văn hóa Pháp nhờ tiếp xúc với nền học vấn Pháp qua các trường Couvent, phần lớn là Công Giáo.
Cùng vào năm 1908, có một hội viên mới là ông Bùi Quang Chiêu, về sau làm lãnh tụ đảng Lập Hiến. Ông nội và cha của ông Bùi Quang Chiêu làm quan cho triều đình Huế, chống lại Pháp. Chiêu được du học Algérie, và sau đó qua Pháp tiếp tục, đổ kỹ sư năm 1897.
Những năm cuối đời của Đỗ Hữu Phương, Nam Kỳ rất ổn định. Miền nầy nhiều nhà giàu lớn, có thói quen ăn xài theo Pháp, khác với Trung và Bắc Kỳ. Nhà hàng Continental là nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Theo Pháp đó là chứng cớ rõ ràng về sự hòa hợp Pháp-Việt để pha trộn bản sắc giữa hai dân tộc. Riêng Đỗ Hữu Phương đã "Pháp hóa hơn cả người Pháp". Ông có thói quen ngồi nhà hàng Continental tán gẫu với bạn bè Pháp và rất hiếu khách. Mỗi lần khách tới nhà chơi đều được Phương đãi rượu sâm-banh, ăn bánh Petit Beurre và uống cà phê "De La Paix".
Cụ Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về Đỗ Hữu Phương hay đến nhà hàng Continental, được cụ Trương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau:
"Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán "Cà phê De La Paix"
...để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó
Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa..."
Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20 ở Sài Gòn , nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đến đó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhập ở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộc địa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo. Một nhận xét khác về Ðỗ Hữu Phương trong quyển "En  Indochine 1894-95" của P. Barthelémy có nói đến một cuộc thăm viếng Ðỗ Hữu Phương tại tư gia, đã ca tụng sự hiếu khách của ông ta như sau:
"Khi viếng Chợ Lớn, đừng quên ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Quan Phủ bắt chước lối sống cực kỳ xa hoa của chúng ta. Ông là dân An-Nam, tuổi độ 50, tướng phốp pháp, có râu ngạnh trê, luôn luôn tự phụ. Ông không do dự trong việc cho con qua Pháp du học. Nhà ông nửa Tây, nửa ta."
Căn nhà ngói 5 gian rộng lớn của ông ở ngay vị trí khách sạn Thủ Ðô, Chợ Lớn lúc trước nằm trên đại lộ mang tên ông. Toàn Quyền Paul Doumer mỗi lần vào Nam đều ghé nhà ông ăn nhậu. "người ông giống hệt nhà ông, bên ngoài trang trí theo lối Pháp, nhưng bên trong trang trí giữ phong tục bản xứ" . (Lời nhận xét của Paul Doumer)
Cũng trong những lần ấy, không biết Ðỗ Hữu Phưong khéo léo thế nào mà xin được Toàn Quyền Paul Doumer cấp không cho 2223 mẫu ruộng ở làng Hoả Lựu (Chương Thiện)
Những người xu nịnh cho rằng Ðỗ Hữu Phương là người giàu có danh giá gồm đủ "Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh":
- Về Phú: ông giàu tột bực, chỉ thua ông Huyện Sĩ, đất ruộng hàng mấy chục ngàn mẫu.
- Về Quý: làm quan đến tột đỉnh, tứ trụ triều đình của chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ, được ân thưởng Bắc Ðẩu Bội Tinh đến 3 lần.
- Về Thọ: ông mất ở tuổi 76
- Về Khang: ông có nhiều con cháu nối nghiệp làm quan lớn. Con trưởng làm Trung Tá đầu tiên trong quân đội Pháp, con kế làm phi công đầu tiên của Việt Nam , và một người con gái gả cho Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu.
Sui gia với ông là Hoàng Cao Khải, dưới con mắt của Pháp và tay sai là người danh giá nhứt Bắc Kỳ. Gia đình ông có 3 người đều làm Tổng Ðốc, ngoài hai người vừa kể, còn một người con nữa là Hoàng Mạnh Trí. Không biết ông Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu có công gì lớn đối với đất nước mà triều đình phong làm Thái Tử Thiếu Bảo, Hiệp Tá Ðại Học Sĩ. Riêng Hoàng Cao Khải được ban tước Quận Công, nhưng dưới triều vua Duy Tân (1907-1916) nhờ lập nhiều thành tích cho Pháp, nên thực dân đề nghị với triều đình phong cho ông làm Phó Vương. Rủi cho ông bấy giờ, Thượng Thư Cao Xuân Dục đang làm Phụ Chánh đại thần, đã phê vào đề nghị như sau:"Trên bầu trời không có hai mặt trời, thì trong một nước không thể nào có hai vua. Thần, Cao Xuân Dục không thể ký được ". Tuy vậy, nhiều người nịnh bợ thỉnh thoảng vẫn gọi Hoàng Cao Khải là Phó Vương.
- Vê Ninh: ông sống ung dung nhàn hạ, hưởng thụ mọi tiện nghi và thú vui vật chất, không phải lo lắng bất cứ việc gì.
Xin trích dẫn một giai thoại khác của cụ Vương Hồng Sển trong "Sài Gòn năm xưa" có viết:
"Tết Nguyên Ðán, nhà ấy (Ðỗ Hữu Phương) có ra câu đối trao giải thưởng. Câu đối ra như vầy:
"Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ
"Ðỗ một nhà, ngũ phước tam đa".
không biết quả thật chăng có người về sau gởi đến câu đối lại như vầy:
"Cù Lao Rồng có lũ thằng phung
"Phung một lũ: Cửu trùng bát nhã"
nhưng người ấy không dám nhận giải thưởng.
Khi Ðỗ Hữu Phưong mất , gia đình tổ chức đám tang rất trọng thể. Thi hài quàn nửa tháng mới chôn. Hàng ngày có hàng trăm khách viếng. Tang gia cho vật trâu, bò, heo liên miên cúng và đãi khách. Báo "Ðông Phương tạp chí" ra ngày 7 tháng năm 1914 có đăng một đoạn tả cảnh đám ma ấy như sau:
"Ðúng 4 giờ chiều một khắc (15 phút) nghe lệnh quan Vệ úy Thạch hô:
- Bọt-tê-am! (Portez armes!)
Thoạt thấy quan phó toàn quyền và quan nguyên soái Nam Kỳ đi giá (cáng) tới, vào nơi linh sàng phủ ủy ít lời. Kế học trò hô:
- Triệt linh sàng!
Tức thì nhạc "fanfare" giọng bi ai trổi lên . Rồi động quan ra linh xa, chặn trước linh xa có bày các bàn phúng điếu treo trướng và tràng bông của thiên hạ đi đến có trên vài trăm cái.."
(trích lại trong "Việt Nam tạp chí" số ra mắt tháng bảy 1989)
 
HUỲNH CÔNG TẤN
(1837-1874)
Trước năm 1945, phía trước nhà lồng chợ Gò Công có một tấm bia đá lớn của Pháp dựng lên để kỷ niệm một người Việt có công tận tụy với nước Pháp :"À la mémoire de Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, Chevalier de Légion d'honneur, fidèle serviteur de la France" (Tưởng nhớ Huỳnh Công Tấn, Lãnh Binh, Bắc Ðẩu Bội Tinh, công bộc trung thành với nước Pháp).
Ngày 9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Dân chúng Gò Công phẩn uất, kéo tới đập phá tấm bia ấy để xoá tan dấu vết của thực dân.
Huỳnh Công Tấn là người quê quán tại Gò Công, sinh năm 1837 trong một gia đình nông dân ít học. Năm 1859 thành Gia Định thất thủ, Tấn mới 22 tuổi. Theo bức ảnh minh hoạ trong quyển sách :"Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" nói trên thì Tấn có một dáng dấp rất khác biệt với Đỗ Hữu Phương hồi trai trẻ. Nếu Phương có dáng dấp một thư sinh thì Tấn là con người cục mịch, gương mặt thô, vuông, hằn lên nét đanh ác. Tấn mặc bộ đồ đen . Lúc Gia Định mới thất thủ, Tấn gia nhập hàng ngũ nghĩa quân chống Pháp, dưới quyền chủ tướng Trương Công Định. Ba năm sau, phòng tuyến Chí Hoà bị hạ, triều đình Huế ký Hàng Ước 1862 nhường 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Mất địa bàn kháng chiến, Trương Công Định dẫn quân về Gò Công, dựa vào địa thế hiểm trở vùng Vàm Láng ("đám lá tối trời") để tiếp tục kháng Pháp. Trong một cuộc hành quân vùng Gò Công, Tấn gạt binh sĩ, rồi bỏ trốn qua Tân An. May mắn cho Tấn, ở đây hắn gặp một người bạn cũ tên Nguyễn Hữu Nguơn, đã đầu thú Pháp, hướng dẫn Tấn về Sài Gòn trình diện.
Còn theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Vực cho biết:"Tấn vốn đam mê đàn bà con gái, hay chọc ghẹo, nên bị chủ tướng Định cảnh cáo. Có lần Định tát tai Tấn về việc nầy, nên Tấn sanh tâm thù oán. Từ đó Tấn tìm dịp trốn đi ra hàng giặc". Một tài liệu khác nữa nói rằng:"Trong lúc hai bên giao chiến, Tấn bị Pháp bắt. Để đoái công chuộc tội, Tấn xin cung khai đầy đủ mọi việc quân thư của Trương Công Định". Tài liệu nầy do Vial, Giám Đốc Nội vụ ghi lại trong tập hồ sơ "Lãnh Binh Tấn ngày 31 tháng bảy 1869".
Để được Pháp tin cậy, Tấn ra tay dọ thám, chỉ điểm cho Pháp ruồng bố nghĩa quân. Chỉ một năm sau, Tấn lập được nhiều thành tích, Pháp cho Tấn làm đội trưởng.
Quê dốt, không tham vọng nhưng rất tàn ác, Tấn không từ bỏ một dịp may nào để tiến thân và làm giàu. Có quyền trong tay, Tấn bắt người tình nghi, đánh đập để khảo của. Tấn làm giàu bằng cách tổ chức sòng bạc, chiếm đất của các điền chủ bỏ chạy qua miền Tây lánh nạn. Đồng thời, Tấn bắt thường dân làm sưu cho mình. Chỉ trong 10 năm, Tấn trở thành một người giàu có nhứt Gò Công. Bằng cách cướp đoạt, Tấn có hàng ngàn mẫu ruộng. Tấn lập công với Pháp bằng cách đem quân qua Cần Giuộc bao vây, bắt được lãnh tụ nghĩa quân Bùi Duy Nhứt. Với thành công mới, Pháp phong cho Tấn chức Lãnh Binh, là chức quan đàng cựu, coi tất cả binh lính trong một tỉnh.
Có lẽ do lòng căm thù cá nhơn, Tấn coi nghĩa quân còn hơn kẻ thù, mặc tình bắt bớ, tra khảo, bắn giết không nương tay. Tấn làm nô bộc cho chủ Pháp rất hăng hái. Có lần Tấn dám chê bai Tham Biện Pháp là người bất tài vô dụng:"Bởi quan Tham Biện chúng tôi xưa nay là qua coi binh, chưa từng biết việc dân (hành chánh) cho nên việc quan làm thì làm bậy, nói thì chẳng thông lý sự, dường như kẻ ngu si dốt nát".
Giám Đốc Nội Vụ thấy Tấn lạm quyền quá đáng, muốn tìm cách đổi Tấn đi miền Đông, nhưng Tấn lại lập thêm nhiều công trạng mới, nên được giữ lại.
Người Pháp dùng Tấn như một tay sai đắc lực chớ không ưa Tấn. Trong một chuyến từ Gò Công về Sài Gòn bằng ghe bầu, Tấn bị bịnh và chết trên ghe, lúc mới 37 tuổi. Tấn có hai người con trai là Huỳnh Công Miêng và Huỳnh Công Viễn. Để nuôi dưỡng tay sai trung thành, Pháp cho Huỳnh Công Miêng qua pháp du học. Lúc về nước, Miêng theo Trần Bá Lộc đánh dẹp nhiều nơi. Sau đó Miêng chán nản, bỏ quan, trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi bằng "Cậu Hai Miêng". Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh miễn tử khắp Nam Kỳ. Mỗi lần hết tiền, Cậu Hai vào thăm các tham biện, chủ quận để hỏi tiền xài. Pháp nhớ công ơn cha cậu, nên cũng nể mặt, cho cậu ít nhiều. Cậu sống ngang tàng, không ai dám làm gì dù có phạm tội chút ít (Xin xem thêm "Nam Kỳ Lục Tỉnh" tập I).
Cậu Hai mất năm 1895, chôn ở Sài Gòn. Cuộc đời Cậu Hai Miêng được dân chúng thán phục, truyền tụng sâu rộng bằng nhiều tập thơ "Cậu Hai Miêng".
Trong quyển "Quốc Âm Hiệp Tuyển" của Lê Quang Chiếu (người Cần thơ) có bài thơ điếu Cậu Hai Miêng như sau:
"Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?
"Ba mươi tám tuổi, dõi huỳnh tuyền,
"Sao lờ Bến Nghé, xiêu người ngó,
"Khói toả Cầu Kho, thảm vợ hiền'
"Đứng bực phong lưu trời vội dứt,
"Những trang hào kiệt đất không kiêng
"Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền".
 
User avatar
mvt5
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $47,119
Posts: 358
Joined: 05 Oct 2005
Location: Tổ Rồng Bự
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng mvt5 từ: pleikey, tommyact74, binhbinh, msn, Christiane, Can Tran

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby mvt5 » 05 Aug 2009

Phần 2: TRẦN PHONG SẮC (1878-????)
dịch giả các truyện tàu
Hứa Hoành
 
Vào đầu thế kỷ 20, ở Nam Kỳ có 3 dịch giả truyện Tàu cùng tên Sắt: người thứ nhứt là Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, người thứ hai là Nguyễn Kỳ Sắt, và người thứ ba là Tân An (1) Trần Phong Sắc. Cùng với Nguyễn Chánh sắt, Nguyễn An Khuông, Mộng Huê Lầu (Lê Hoằng Hựu... Trần Phong Sắc là một trong những dịch giả Nho học uyên bác, thạo chữ Quốc Ngữ, dịch nhiều bộ truyện Tàu nhứt, gây ảnh hưởng sâu rộng đến cả thế hệ nam nữ thanh niên, trung niên và ngay lớp phụ lão nữa. Trần Phong Sắc sống cuộc đời trầm lặng, âm thầm dịch sách, sáng tác . Sự đóng góp của ông vào gia tài văn hoá nước nhà buổi sơ khai thật đồ sộ, nhưng các nhà làm văn học bỏ quên ông, không dành cho ông một chỗ đứng khiêm nhượng nào trong Văn học sử miền Nam. Rất tiếc không sách báo nào đề cập đến thân thế, sự nghiệp của ông nên muốn viết về tiểu sử của Trần Phong Sắc rất khó khăn. Chúng tôi phải sưu tầm, lượm lặt rải rác, phỏng vấn nhiều vị bô lão từng sống ở Tân An, Mỹ Tho và nhứt là tham khảo cuốn Địa phương chí "Tân An Ngày Xưa" của Đào Văn Hội để viết lại bài nầy.
Tuy là một dịch giả có biệt tài, dịch hàng 40 quyển truyện Tàu, sáng tác hàng mấy chục bài ca cổ điển, nhưng ông không sống được bằng nghề ấy. Nghề chánh của ông là thầy giáo dạy môn Luân Lý tại trường tiểu học Tân An trong thời gian từ năm 1916 đến năm 1930. Trần Phong Sắc là người hữu tài vô mạng. Bình sanh, bao nhiêu công lao trí lực để dành làm giàu cho nhà xuất bản, đời sống vật chất của ông suốt đời cũng không dư giả chi, đến chết lại lâm cảnh nghèo. Dường như ông lấy chuyện dịch truyện, sáng tác bài ca như một sở thích làm vui, không mấy chú trọng đến tiền bạc. Nghe nói rằng giới trí thức đương thời ở Tân An hễ nhắc tới ông thì họ mỉm cười, nụ cười khinh bạc, mỉa mai vì họ cho rằng Trần Phong Sắc là một người gàn, có lẽ họ chưa hiểu ông. Dù dạy học, dịch sách viết bài ca, lãnh vực nào Trần Phong Sắc cũng làm đầy đủ, nhiệt tình và xuất sắc, để lại cho hậu thế nhiều quyển truyện xưa, bài ca đến nay, lớp người hậu bối vẫn còn nhắc nhở.
Trần Phong Sắc là người làng Huê Mỹ Thạnh, phủ Tân An, sau là tỉnh Tân An, nhà ở ngã tư gần Cầu Quây trong chợ Tân An. Kể về tướng mạo, một người từng học với ông là Đào Văn Hội (năm 1918) đã kể về ông như sau:
- Ông Trần Phong Sắc tướng tá xấu, mang đầu tóc to tướng, nước da ngâm ngâm đen, mắt lé nặng. Lúc đó (1918) ông dạy môn Luân Lý ở các lớp tiểu học (Tân An). Khi đi dạy, ông bịt chiếc khăn nhiễu đã phai màu, mặc cái áo xuyến dài cũ, mang đôi giày hàm ếch xập xệ. Ông vẫn đi bộ luôn từ xóm Ngã Tư tới trường, trong túi áo trắng bên trong kè kè những sách .
Chính quyền địa phương bổ nhiệm ông dạy môn Luân Lý từ lớp Năm đến lớp Nhì, lương tháng mười mấy đồng bạc. Học sinh thường gọi ông là "thầy ma-ranh" (morale) hoặc "ông kẹ lửa", vì trong lớp đứa nào trững giỡn thái qúa, ông "tặng" cho cái cú nháng lửa và cho điểm 0 . Trần Phong Sắc sống cuộc đời trầm lặng mấy mươi năm ở tỉnh lẻ, dù có tài nhưng ông không khoe khoang, ít giao du, thù tạc bạn bè như các đồng nghiệp khác lúc bấy giờ. Ông chỉ chơi thân với một vài người, trong đó có ông huyện Ngô Văn Chiêu, người sáng lập ra đạo Cao Đài sau nầy, ông Cao Văn Lỏi, ông Một Kim...Tính tình Trần Phong Sắc rất hiền lành. Ông dùng hết thì giờ ngoài việc dạy học để dịch truyện Tàu, viết lời ca (hầu hết bằng chữ Hán) trong các bài ca cổ điển. Khi đi dạy học, trong giờ ra chơi của học sinh, Trần Phong Sắc thường ngồi lại lớp, lấy sách chữ Hán ra đọc, trong khi những thầy giáo khác tụ tập chuyện trò cười đùa . Có lẽ vào thời đó môn Luân Lý bị coi thường mà ông Trần Phong Sắc lại quá lôi thôi, hiền hậu nên các bạn đồng nghiệp ít kính nể, và cũng không dạy học trò kính trọng ông ..Lớp ông dạy, học trò thường nói chuyện ồn ào như cái chợ, không coi ông ra gì cả. Ngôi nhà ông ở là một kiểu nhà xưa ba gian, lợp ngói âm dương, nền đất vách ván, thấp.. Trước nhà có một hàng rào bằng cây, quét vôi trắng toát và viết đầy những chữ Nho. Cửa ngõ nhà là hai trụ gạch, phía trên có một tảng đá xanh to gác ngang dày một tấc, rộng 40cm và ngang 1,2m, đứng xa xa trông như một cái am. Ngoài ra ông cùng một số bạn đồng tâm như Bộ Thọ (Lê Kiển Thọ), Một Kim (Đoàn Văn Kim), thầy giáo Nguyễn Văn Ngộ, Ngô Văn Chiêu thường lập đàn cầu cơ để chữa bịnh cho bá tánh không lấy tiền. Trong nhóm nầy riêng Trần Phong Sắc là người ăn chay trường. người ta kể lại trong một lần cầu cơ:"Ông giáo Vân ngồi đồng dương, ông Bộ Thọ ngồi đồng âm, Trần Phong Sắc làm phép đàn, ông Đoàn Văn Kim ghi chép và Ngô Văn Chiêu làm độc giả. Cơ lên mạnh cho biềt:
"Ngũ chơn bữu khí lâm triều thế
Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên..."
Lúc ấy cơ Đức Cao Đài tiên ông giáng cơ, cơ gõ mạnh và bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu thơ ấy. Vốn là một nhà Nho sành sõi, uyên bác về Hán Văn, nhưng vì không biết Cao Đài tiên ông là ai, nên Trần Phong Sắc mới trả lời một cách suồng sã rằng:
- Bài thỉnh nầy ra 100 năm rồi, từ bên Trung Quốc qua đây không ai dám cho là sai, nay ngài bảo sửa, nói vậy là thiệt trật hay sao ?
Tiên ông quơ cơ đập vào đầu ông Trần Phong Sắc vì vô lễ. Ông lẹ làng sụt xuống né khỏi. Kế Đức Cao Đài tiên ông kêu gọi Ngô Văn Chiêu bảo sửa. Ông Chiêu sửa lại như sau:
"Bửu chơn ngũ khí lâm triều thế.."
Từ đó về sau ông Trần Phong Sắc không làm phép đàn nữa.
Năm 1920 ông huyện Ngô Văn Chiêu đổi đi trấn nhậm tại Hà Tiên. Cả Toà hành chánh tỉnh (tham biện cùng nhân viên văn phòng) có làm lễ tiễn đưa. Ông Trần Phong Sắc có làm bài thơ thù tạc:
"Mừng nay quan Huyện đổi Hà Tiên
Có đức trời cho đặng có quyền
Trăm năm Vũng Gù (tên cũ của Tân An) còn tiếng mến
Một đường sau trước nổi danh hiền.
Hòn Nghệ cầm báu đưa theo gió,
Đảnh Hạc hoa tươi rắm tới triền.
Âm chất sẽ ngồi xe ngựa mã
Trùng phùng đồng ước hội Đào Viên!"
Nhắc lại cuộc đời dạy học của Trần Phong Sắc, ông Đào Văn Hội kể lại:"Môn Luân Lý của ông Trần Phong Sắc thường dạy vào buổi chiều, tùy theo lớp mà dạy từ 4 giờ tới 4 giờ rưỡi hay 5 giờ. Ông giảng dạy bổn phận làm con đối với cha mẹ, học trò đối với thầy, nhân dân đối với chánh phủ, anh chị em, bè bạn cư xử với nhau ... Rồi ông lên bảng đen viết 1 câu lối 9, 10 chữ Hán, và viết luôn câu giải nghĩa. Chữ ông viết rất đẹp, sắc sảo như dao cắt. Ông bắt chúng tôi chép vào tập vở trình ông chấm điểm. Nhưng chữ Nho ngoằn ngoèo khó viết đối với những bàn tay non nớt và chúng tôi viết chẳng khác nào vẽ bùa! Thế mà được ông khuyên 9 đến 10 điểm ngon lành!
Gần 40 tuổi, Trần Phong Sắc tái hôn với một cô thôn nữ. Có người cắc cớ hỏi ông tại sao không kết hôn với một goá phụ tuổi từ 30 đến 40, có phải là xứng đào xứng kép chăng. Quý độc giả có thể đoán được ông trả lời thế nào không?
Ông bảo rằng:"Thà rằng cưới con gái đồng trinh, còn đàn bà goá chồng, phải để cho người ta thủ tiết thờ chồng mới phải đaọ thành hiền!"
Vẫn theo lời ông Đào Văn Hội:"Tôi không biết thuở mẫu thân ông sanh tiền, ông thờ mẹ hiếu thảo thế nào mà sau khi mẹ ông quá vãng, ông cho tạc tượng gỗ một người đàn bà, trên đầu gắn tóc giả, mặc y phục đàng hoàng để thờ trên cái gác nhà ông. Sớm mai và chiều hai buổi, ông dọn cơm nước nhang đèn trước tượng, cúng lạy kính cẩn. Sự tử như sanh" (Cung phụng người chết cũng như người sống).
 
MỘT DỊCH GIẢ CÓ TÀI
Truyện Tàu được dịch ra lần đầu tiên ở nước ta từ năm 1904, đó là bộ "Tam Quốc Chí", được đăng trên tờ báo "Nông Cổ Mín Đàm". Từ đó, nhiều người có kiến thức Hán văn và chữ Quốc ngữ liên tục dịch cho đến năm 1932. Trong số hơn 30 dịch giả (xem thêm bài Nguyễn Chánh Sắt, đăng trên báo "Đời Sống" ở Houston) thì Trần Phong Sắc là một người dịch nhiều bộ nhứt (gần 20 bộ), gây ảnh hưởng lớn lao cho cả dân chúng Nam Kỳ vào đầu thế kỷ nầy. Ảnh hưởng truyện Tàu đã góp phần hình thành một nhơn sinh quan đặc biệt của người dân miền Nam mà nét luân lý nổi bật qua các câu châm ngôn "Trọng nghĩa khinh tài", anh em bè bạn ăn ở với nhau có thủy chung, trước sau không thay đổi. Trong cuộc sống, hễ gặp bất bình thì ra tay can thiệp, cứu giúp: "Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả" (thấy điều nghĩa không ra tay hành động không phải kẻ anh hùng), hoặc "Hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly..." (có nghĩa là sự giúp đở lẫn nhau khi lâm hoạn nạn, sống chết có nhau khi đã thề làm bạn...) Trong khi ngoài Bắc, Nguyễn Đỗ Mục nổi danh nhờ dịch các bộ tiểu thuyết diễm tình Trung Hoa như:
. Dư Chi Phụ (Chồng tôi)
. Dư Chi Thê (Vợ tôi)
. Song Phụng Kỳ Duyên ...
thì ở Nam Kỳ, nhà Nho và nhà giáo Trần Phong Sắc cũng nổi tiếng với hàng mấy chục quyển truyện Tàu. Các truyện Trần Phong Sắc đã dịch như:
. Phong Thần
. Ngũ Hổ Bình Tây
. Tam Quốc Chí
. Ngũ Hổ Bình Nam
. La Thông Tảo Bắc
. Dương Văn Quảng Bình Nam
. Tiết Nhơn Quý Chinh Đông
. Nhạc Phi Diễn Nghĩa
. Tiết Đinh San Chinh Tây
. Anh Hùng Náo Tam Môn Giai
. Phi Long Diễn Nghĩa
. Hậu Anh Hùng
. Tam Hạ Ham Đường
. Phong Kiếm Xuân Thu
. Tàn Đường
. Tây Hán
. Vạn Huê Lầu
. Đông Hán
. Quần Anh Kiệt
. Phấn Trang Lầu
. Tái Sanh Duyên
. Càn Long Hạ Giang Nam
. Chánh Đức Du Giang Nam
. Tam Hạp Minh Châu Bửu Kiếm
. Tây Du Diễn Nghĩa
. Đông Du Bát Tiên
. Bắc Du Chơn Võ
. Nam Du Huê Quang v.v...
Trong các bộ truyện Tàu kể trên, một bộ gồm nhiều quyển, có khi một bộ nhiều dịch giả chia nhau dịch. Nhiều bộ đồ sộ, dịch lại rai hàng chục năm như bộ "Đông Châu Liệt Quốc" gồm 15 quyển, được các dịch giả dịch từ năm 1906 đến năm 1929, nghĩa là phải 23 năm mới xong! Bộ "Đông Châu Liệt Quốc" được các ông Nguyễn Chánh Sắt. Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần Đình Nghị, Nguyễn Kỳ Sắt và Trần Phong Sắc dịch . Còn bộ "La Thông Tảo Bắc" được Trần Phong Sắc dịch cùng vớơi nữ dịch giả Phạm Thị Phượng. Tuy thì giờ dành hết cho việc dịch truyện Tàu, nhưng Trần Phong Sắc cũng đam mê sáng tác lời ca cho những bản nhạc cổ điển. Những truyện dịch của ông được in tại Sài Gòn, Chợ Lớn do các nhà in Joseph Nguyễn Văn Viết, Đinh Thái Sơn, Đặng Lễ Nghi..để phát hành khắp Nam, Trung, Bắc và Miên, Lào nữa.
Văn phong dịch của Trần Phong Sắc rất trôi chảy, thích hợp với mọi từng lớp và mọi lứa tuổi. Vì lẽ đó từ người nông dân đến người trí thức đều hiểu được và say mê. Hồi còn nhỏ, tôi cũng phải đọc truyện Tàu hàng ngày cho ông nội tôi nghe để ...lấy tiền ăn bánh. Đọc mãi tôi cũng thấy say mê cốt chuyện hấp dẫn đó. Trong các bản dịch, lẻ tẻ Trần Phong Sắc chêm vào một bài thơ Đường bát cú hay tứ tuyệt, chứng tỏ ông có tâm hồn thi sĩ và nền Hán văn vững vàng. Những bài thơ ấy được đặt ở đầu mỗi chương để bình luận hay tóm lược câu chuyện. Trong truyện "Phong Thần", ông kết thúc bằng bài thơ:
"Trằn trọc đêm thanh mấy khắc chầy,
"Phong thần diễn dịch, giải niềm Tây.
"Sắc tài, phép tắc bày ra đủ,
"Chép để khuyên răn phỉ nguyện nầy."
Còn trong bộ "Chánh Đức Du Giang Nam", ông có làm mấy câu thơ:
"Trần Thiện can vua kính họ Lương,
"Phong làm thừa tướng giúp triều đường.
"Sắc bà Quốc Thái sai tìm chúa,
"Chánh Đức về ngay hưởng thái bường (thái bình)"
Trong truyện Phong Thần nói về thời hồng hoang lịch sử Trung Hoa, nhiều chuyện huyễn hoặc mà ngày nay ta cho là bịa đặt, mỗi khi một vị tiên xuất trận đối địch, thường ngâm một bài thơ rồi mới so tài đấu phép. Qua ngòi bút linh hoạt của Trần Phong Sắc, nhiều đoạn diễn tả tình nghĩa thầy trò một cách thân ái người nghiêm minh như đoạn Thái Ất mượn tay đạo hữu Văn Thù sửa trị tánh nết hung hăng của Na Tra Linh Châu Tử. Không những tế nghị trong văn tình cảm mà trong khi tả cảnh các tướng Phiên đấu chiến, giọng văn của ông cũng biến đổi:"Mạnh mẽ, gọn gàng, đằng đằng sát khí như tiếng binh khí chạm nhau chan chát..." Chúng tôi nhớ lại một đoạn tả cảnh ấy như sau:
" ...kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài, một qua một lại, một tới một lui, bốn mươi hiệp cầm đồng..."
Đôi khi nhà Nho đạo mạo Trần Phong Sắc cũng dùng lối văn hài hước, chọc cười độc giả. Thí dụ hồi:"Lưu Kim Đính dựng bảng chiêu phu tại núi Song Toả, có Cao Quân Bảo đi ngang qua, đập bảng ấy đi, khiến Lưu Kim Đính nổi giận. Tức thì đôi nam nữ anh hùng, anh thư nhứt tề hỗn chiến, sáu mươi hiệp thắng bại bất phân đao lớn, giáo dài, trai mạnh, gái dạn ..."
 
NGƯỜI TIỀN PHONG SÁNG TÁC NHIỀU BÀI CA CỔ ĐIỂN
Ở vùng Thủ Thừa, Vàm Cỏ, Tân An vào đầu thế kỷ 20 nhạc cổ phát triển mạnh. Những thầy đờn nổi danh ở vùng nầy hồi thập niên 1930 như Hai Nghĩa, Mười Tốt, Tư Trinh... Các ca sĩ, nhạc công đó sở dĩ nổi danh là nhờ những ông như Lê Văn Tiếng và Trần Phong Sắc, là những người đặt lời cho các bài ca cổ điển như Ngũ đối, Long đảng, Vạn giá...
Ông Tiếng còn gọi là Cử Thiện, quê ở Thủ Thừa, cùng hợp soạn "Cầm Ca Tân Điệu" được coi như một bộ sưu tập khá đầy đủ các bản đàn cùng lời ca Cải lương ở giai đoạn phôi thai.
Tuy không biết đàn, nhưng dựa vào các Âm điệu (notes) cổ điển, Trần Phong Sắc đặt nhiều bài ca mà nhiều danh ca cổ nhạc Nam Kỳ thời đó rất ưa thích. Chẳng hạn bạn "Lưu Thủy Hành Vân" có âm điệu như vầy:
"Xự cống xê xang hò,
"(là) xự cống xê xang hò,
"Xế xang hò (là) họ xự xang
"Xế xang còn xang xê cống...
Rồi Trần Phong Sắc dựa vào âm điệu đó đặt lời "Ngoạn Hứng Hoa Viên" bằng chữ Hán:
"Ngoạn hứng hoa viên, hề,
"Tình nguyện hứng hoa viên, hề,
"Nhứt nhựt thanh nhàn thị tiện,
"Lung linh đào lan mai trước..."
Tập "Cầm Ca Tân Điệu" do nhà in Joseph Nguyễn Văn Viết Sài Gòn, in xong năm 1925, trong đó Trần Phong Sắc đặt nhiều bài ca như:
. Lưu Thủy Hành Vân
. Dạ Cổ Hoài Lang (tiền thân bản Vọng Cổ)
. Long Hổ Hội
. Ngũ Điểm
. Bài Tạ
. Khổng Minh Toạ Lầu
. Tây Thi
. Cổ Bản
. Lưu Thủy
. Phú Lục
. Bình Bán
. Xuân Tình
. Tứ Đại Cảnh
. Tứ Đại Oán
. Văn Thiên Tường
. Cửu Khúc Giang Nam...
Dân địa phương Tân An thường kể lại một giai thoại về trận hoả hoạn lớn năm 1916, trong đó nhà ông Trần Phong Sắc nằm dưới ngọn gió lùa cháy tới, người nhờ ông biết "vẽ bùa", nên ngọn lửa trệch qua căn nhà khác. Chuyện ấy không biết đúng hay không nhưng chúng tôi cũng xin thuật lại để độc giả nghe chơi.
"Năm 1916, xóm Ngã Tư bị một trận hoả hoạn lớn vào buổi chiều nắng gắt. Thời bấy giờ phương tiện cứu hoả thô sơ, không đủ sức dập tắt ngọn lửa, nên bà Hoả thiêu rụi háng trăm căn nhà lá. Heo nhốt trong chuồng cũng chết bộn, may không có tai nạn về người . Xóm hoả hoạn ấy cách nhà ông Trần Phong Sắc một cái rạch nhỏ mà ngọn gió thổi về phía nhà ông nữa. Theo nhiều người chứng kiến: Ông Trần Phong Sắc đem một cái hình nhơn cao độ vài tấc tây để trên phiến đá xanh trước cửa ngõ, tay cầm lá cờ, ông đọc điều gì như lâm râm khấn vái một chặp, đoạn phất cờ trên tay hình nộm mấy lượt. Lạ thay, ngọn lửa đương cháy mãnh liệt, hướng về nhà ông, sắp leo qua rạch tấn công mái nhà ông, rồi bỗng quay lại, tạt qua hướng khác. Trận hoả hoạn đó nhà ông thoát nạn".
Có những người để lại sự nghiệp lớn cho đời nhưng ít được người đời nhắc tới mà Trần Phong Sắc là một trong những người ấy.
Chú thích:
(1)  Chúng tôi quen gọi theo quê quán của Trần Phong Sắc là Tân An để phân biệt với cụ Nguyễn Chánh Sắt quê ở Tân châu, cũng là bút hiệu. Bút hiệu của Trần Phong Sắc là Đằng Huy.
 Phần 3: NGUYỄN CHÁNH SẮT (1869 - 1947)
nhà văn tiền phong Nam Kỳ
Hứa Hoành
 
Nguyễn Chánh Sắt là một người tự học, một nhà văn tiền phong, một dịch giả truyện Tàu nổi tiếng ở miền Nam vào đầu thế kỷ 20. Các nhà làm văn học sử từ trước đến nay, thường bỏ quên tên tuổi và sự nghiệp của cụ, hoặc chỉ nói qua được một hai dòng về sự đóng góp vào cái gia sản văn hoá đồ sộ của miền Nam. Riêng tôi, để viết lại tiểu sử của các bậc tiền bối, sống chỉ cách chúng ta trên dưới 1 thế kỷ, phải bỏ ra nhiều năm để sưu tầm tài liệu xuất xứ từ đủ mọi nguồn gốc khác nhau. Đối với Nguyễn Chánh Sắt cũng rất khó, vì trong hoàn cảnh chật hẹp hôm nay không được đến nơi chôn nhau cắt rún của cụ để hỏi thăm, sưu tầm gia phả, tài liệu, mà chỉ lượm lặt một cách rời rạc, nên chỉ có thể cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quát về một con người trong một giai đoạn lịch sử mà thôi.
Nguyễn Chánh Sắt tự Bá Nghiêm, biệt hiệu Tân Châu Du Nhiên Tử, sinh quán tại làng Long Phú, Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, sau nầy đổi là huyện Phú Tân (Châu Phú- Tân Châu) thuộc tỉnh An Giang. Nguyễn Chánh Sắt là người tự học để thành công. Cuộc đời ông là một tấm gương sáng cho kẻ hiếu học. Cha mẹ ông là những người nông dân nghèo, không đủ phương tiện cho cậu bé Sắt tới trường học mặc dầu cậu Sắt đã 8 tuổi. Thấy vậy, một gia đình phú hộ trong làng hiếm con tên là Nguyễn Văn Bửu ngỏ ý với cha mẹ cậu muốn xin Nguyễn Chánh Sắt về làm con nuôi để cho ăn học. Buổi đầu, cậu Sắt được học chữ Hán với một thầy đồ trong làng, và sau đó được theo học trường Quận tại Cần Thơ. Thời gian nầy, Nguyễn Chánh Sắt được học thêm chữ Pháp. Sau bậc sơ học, Nguyễn Chánh Sắt được gia đình cha mẹ nuôi gởi xuống Châu Đốc theo học trường tiểu học Pháp Việt.
Năm 17 tuổi, Nguyễn Chánh Sắt tốt nghiệp bằng Tiểu học rồi được cha mẹ nuôi cưới vợ cho ra riêng để tạo lập sự nghiệp làm ăn. người vợ ông tên Văn Thị Yến, con một Hoa Kiều, là một cô gái đảm đang, có sạp buôn bán tạp hoá tại chợ Châu Đốc, nhờ đó cuộc đời của cậu thư sinh đỡ vất vả buổi đầu. Tuy nhiên, Nguyễn Chánh Sắt là một người có chí, không muốn ăn không ngồi rồi, nên lúc ở nhà rảnh rỗi, Nguyễn Chánh Sắt cố gắng tự học thêm chữ Pháp và chữ Hán. Đầu thế kỷ 20, Tân Châu là một trung tâm dệt lụa nổi tiếng khắp miền Nam. Một người Pháp tên là De Colbert đến đây lập xưởng dệt, khuếch trương công việc làm ăn. Nghe tiếng đồn Nguyễn Chánh Sắt là một thanh niên hiếu học, thông minh, nên De Colbert đến tìm Sắt và mời cậu cộng tác cho mình, giữ sổ sách xưởng dệt và làm thông ngôn trong các cuộc giao dịch với người bản xứ. Thấy Sắt là một thanh niên hiền lành, đạo đức, thông minh, nên De Colbert ngỏ ý muốn giúp đỡ cậu. Ít lâu sau, De Colbert thôi việc dệt lụa để đi làm công chức, và được đổi đi Côn Nôn (Côn Đảo), ngỏ ý muốn đem Nguyễn Chánh Sắt theo. Đó cũng là thử thách để Nguyễn Chánh Sắt có dịp giao thiệp với đời, trau dồi thêm chữ Pháp nhờ làm thông ngôn. Ba năm sau De Colbert mất, Nguyễn Chánh Sắt về Sài Gòn.
Ban đầu ông xin vào làm trong Sở Canh Nông. Nghề công chức thời Pháp thuộc rất nhàn, Nguyễn Chánh Sắt dùng thì giờ nhàn rỗi viết báo, viết sách dạy chữ Hán cho học trò và thử dịch vài quyển truyện Tàu. Thấy công việc có kết quả, dần dần Nguyễn Chánh Sắt trở nên ham thích nhưng chưa đam mê. Ông Nguyễn Chánh Sắt bắt đầu viết từ năm 1918, và đến năm 1919, quyển tiểu thuyết kim thời đầu tiên được in trong "Sách Vệ Sinh Chỉ Nam" của nhà thuốc Nhị Thiên Đường ở Chợ Lớn. Tiểu thuyết ấy lấy tên là "Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên" nhưng người đương thời vẫn quen gọi là "Chăng Cà Mum". Cũng trong thời gian nầy, Nguyễn Chánh sắt được một người bạn giới thiệu vào dạy Hán Văn trong trường Taberd. Sau đó, Nguyễn Chánh Sắt được ông Canavaggio mướn trông coi sở muối ở Bạc Liêu. Canavaggio là một người Pháp ham thích hoạt động, có kiến thức, ngoài tư cách hội viên Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn, còn kinh doanh nhiều nghề. Canavaggio khởi công làm ruộng ở Sốc Trăng, Bạc Liêu, chăn nuôi trâu bò, làm đại lý mua bán muối, nuôi tằm dệt tơ lụa ở Tân Châu. Chính Canavaggio có vựa bán muối trong chợ Cầu Muối, đồng thời cũng là người làm chủ tờ báo "Nông Cổ Mín Đàm"
Năm 1905, Nguyễn Chánh Sắt bắt đầu viết cho tờ "Nông Cổ Mín Đàm" rồi đến năm 1906 ông làm chủ bút "Lục Tỉnh Tân Văn". Cũng bắt đầu từ đó, Nguyễn Chánh Sắt tham gia phong trào Duy Tân ở miền Nam do Trần Chánh Chiếu phát động, lấy tên "cuộc Minh Tân". Tuy không phải là một nhà cách mạng của phong trào, nhưng trong lãnh vực văn hoá, tư tưởng, Nguyễn Chánh Sắt cùng với Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thành Út, Đặng Thúc Liêng... đã cổ võ cho công "cuộc minh tân", kêu gọi các điền chủ, công chức thức tỉnh, đem tiền của để hùn hạp buôn bán, cạnh tranh quyền lợi với Hoa Kiều và Ấn Độ. Trên mặt báo, Nguyễn Chánh Sắt viết những lời cổ động dân chúng theo cuộc "minh tân", đang liên tục nhiều tháng trên "Lục Tỉnh Tân Văn". Thời gian nầy công ty "Nam Tân Minh Công Nghệ" thành lập năm 1908, gồm nhiều cổ phần, đa số là điền chủ và công chức, trụ sở đặt tai Mỹ Tho là một đầu mối giao thông về Miền Tây. Hồi đó đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho đưa các điền chủ, thầy cai tổng, ông Hội đồng ... ghé chợ Mỹ Tho nghỉ ngơi trong các khách sạn. Đêm đêm họ hưởng thú vui cao lâu, nghe ca hát ra điệu bộ, rồi sáng hôm sau mới xuống tàu lục tỉnh về quê. Chuyến trở lên cũng vậy. Họ ghé Mỹ Tho nghỉ ngơi cho khoẻ để sáng hôm sau đáp xe lửa đi Sài Gòn. Trong công ty nầy có 2 khách sạn:
- Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho
- Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn.
Về chính trị, tờ "Lục Tỉnh Tân Văn" cũng công khai chỉ trích chế độ thuộc địa. Về kinh tế, "Lục Tỉnh Tân Văn" chủ trương giành quyền lợi cho người bản xứ, kêu gọi các nhà thương nghiệp Việt Nam thành lập các xí nghiệp, cổ động dân chúng tiêu thụ hàng nội hoá, giảm bớt mua hàng nước ngoài và chống lại sự chèn ép kinh tế của các nhà tư bản ngoại quốc. Tờ "Lục Tỉnh Tân Văn" còn nhiều lần kêu gọi đồng bào "Nên tự trách mình, nên bỏ những lối ăn nết ở không hợp..."
Đến năm 1909 thủ lãnh phong trào là Gilbert Trần Chánh Chiếu bị bắt, phong trào suy sụp dần, rồi đến năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt trở xuống Bạc Liêu làm ruộng. Nhưng 4 năm sau, Nguyễn Chánh Sắt trở lên Sài Gòn làm chủ bút "Nông Cổ Mín đàm". Năm 1920, ông trở về quê ở Tân Châu, được dân chúng tín nhiệm, cử ông chức Hương Quản làng Long Phú. Nhưng chỉ sau một năm, Nguyễn Chánh Sắt lại trở lên Sài Gòn rồi đắc cử Phụ thẩm Toà Án Sài Gòn, được phong Huyện danh dự (huyện hàm), nên dân chúng Tân Châu còn gọi là "Ông Huyện Sắt". Thời gian ở Tân Châu, Nguyễn Chánh Sắt có mướn một người ở đợ, tên là Ba Quốc. Một hôm Ba Quốc không chịu làm việc, cứ ngồi một nơi "tơ tưởng" chuyện trên trời dưới đất, được dân chúng hưởng ứng, gọi là "Ông đạo Tưởng". Đạo Tưởng gởi thơ cho Tham Biện Châu Đốc, yêu cầu cung cấp súng đạn để ông ta dẫn đồng đạo qua Pháp đánh Đức. Chuyện "Ông đạo Tưởng", chúng tôi có kể sơ trong bài "Bùa ngải, thư ếm", xin miễn kể lại.
Cuộc đời ông Nguyễn Chánh Sắt hiếu động, dời chỗ luôn, nhưng dù bất cứ vị trí nào ông cũng tỏ ra là một người giàu nghị lực, siêng năng hoạt động và là một người biết giữ phẩm cách ,đạo đức.
 
DỊCH GIẢ TRUYỆN TÀU
Phong trào dịch truyện Tàu ở Nam Kỳ bắt đầu từ năm 1901 cho đến năm 1932, có trên 30 dịch giả tên tuổi, nhiều bản dịch có giá trị được dân chúng mê đến nỗi muốn thuộc lòng từng đoạn. Những bộ truyện nổi danh suốt nửa thế kỷ qua là "Đông Châu Liệt Quốc", "Tam Quốc Chí", "Thủy Hử"...Trong khoảng hơn 30 dịch giả đã dịch trên 70 quyển truyện Tàu, chúng tôi thấy tên các người dịch sau đây:
- Trần Phong Sắc
- Nguyễn Văn Thạnh
- Nguyễn Chánh Sắt
- Trần Thị Sĩ
- Nguyễn An Khương
- Đào Xuân Trinh
- Nguyễn An Cư
- Tô Chẩn
- Nguyễn Liên Phong
- Nguyễn Công Kiều
- Lê Sum
- Cosme Nguyễn Văn Tài
- Lê Duy Thiện
- Nguyễn Kim Đính
- Phạm Minh Kiên
- Nguyễn Bá Thời
- Trần Hữu Quang
- Trần Công Danh
- Nguyễn Hữu Sanh
- Phạm Thành Kỉnh
- Huỳnh Trí Phú
- Trần Quang Xuân
- Huỳnh Công Giác
- Phạm Văn Điền
- Hoàng Minh Tứ
- Trương Minh Chánh
- Nguyễn Văn Hiển
- Trần Xuân
- Phạm Thị Phượng (La Thông tảo Bắc)
- Nguyễn Kỳ Sắt ....
Trong số các dịch giả kể trên, nổi tiếng và dịch nhiều nhứt là hai ông Trần Phong Sắc và Nguyễn Chánh Sắt, mỗi người dịch độ 20 quyển, có bộ lên tới 1000 trang...Truyện Tàu xuất hiện lần đầu tiên năm 1904, đó là quyển "Tam Quốc Chí", đăng trên "Nông Cổ Mín Đàm". Bộ truyện đồ sộ nhứt là "Đông Châu Liệt Quốc" khoảng 15 cuốn, có nhiều dịch giả, trong đó có Nguyễn Chánh Sắt. Họ dịch lai rai suốt 23 năm, bắt đầu từ năm 1906 đến 1929. Những người cùng dịch "Đông Châu Liệt Quốc" gồm: Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần Đình Nghi, Nguyễn Kỳ Sắt. Còn về nhà in, quyển "Đông Châu Liệt Quốc" cũng có đến 4 nhà in khác nhau:
- Năm 1906 in tại IMP Saigonnais
- Quyển 3 do Hùynh Kim Anh dịch, in tại nhà in Phát Toán
- Quyển 7 do Huỳnh Kim Anh dịch, in tại nhà in Imp Schneider
- Quyển 14 do Huỳnh Kim Anh dịch, in tại nhà in "Xưa Nay" của Nguyễn Hào Vĩnh.
Bộ "Tái Sanh Duyên" do Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Văn Đẩu dịch tới quyển 11. Ngoài ra Nguyễn Chánh Sắt còn dịch bộ "Chung Vô Diệm"...(1)
 
MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI
VIẾT TIỂU THUYẾT SỚM NHẤT NAM Kỳ
Từ trước đến nay, nhiều sách văn học nước nhà không dành cho Nguyễn Chánh Sắt một địa vị xứng đáng vì sự đóng góp của ông đối với nền văn học còn trong thời kỳ phôi thai. Cũng ở trong trường hợp đó, chúng ta còn phải kể thêm nhiều tác giả khác như Nguyễn Trọng Quản, Lê Hoằng Mưu (Mộng Huê Lầu), Biến Ngủ Nhy (Nguyễn Bính), Trương Duy Toản...Dưới đâu là bảng liệt kê những tiểu thuyết, tuồng hát bộ do Nguyễn Chánh Sắt soạn:
- Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên (Kim thời tiểu thuyết, in năm 1919)
- Gái Trả Thù Cha, in năm 1920
- Tài Mạng Tương Đố, in năm 1925
- Tình Đời Ấm Lạnh (in trong "Thiên Sanh Đường" đại dược phòng)
- Lòng Người Nham Hiểm, in năm 1916
- Man Hoang Kiếm Hiệp (nhà in Đức Lưu Phương)
- Giang Hồ Nữ Hiệp (nhà in Đức Lưu Phương)
- Trinh Hiệp Lưỡng Mỹ
- Việt Nam Lê Thái Tổ
- Các tuồng hát bộ: Đinh Lưu Tú, Sài Gòn 1919, nhà in Imp. J. Viết.
Ngoài ra, Nguyễn Chánh Sắt còn là tác giả của vài cuốn sách dạy chữ Hán cho trẻ em.
Trong các quyển tiểu thuyết kể trên, tác phẩm đầu tay "Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên" (Chăng Cà Mum) sáng tác năm 1918, in năm 1919, lấy bối cảnh một mối tình xảy ra vùng biên giới Việt Miên, in trong cuốn sách quảng cáo thuốc "Nhị Thiên Đường" ở Chợ Lớn. Truyện "Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên" được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Nhơn vật chính, cô gái tên Chăng Cà Mum, gốc người Việt bị bắt đem bán cho Mẹ Sốc trên đất Miên. Quyển truyện nầy nổi tiếng đến mức nhiều độc giả viết thơ cho ông , chỉ cần đề tên "Mr. Chăng Cà Mum" và địa chỉ thì thơ cũng tới nơi, không sai lạc. Tên "Chăng Cà Mum" trở thành cái tên phổ thông cho tất cả phụ nữ Khmer. Vì giá trị quyển tiểu thuyết ra đời cách nay hơn 70 năm, rất ăn khách, nên chúng tôi xin phép tóm lược cốt chuyện để độc giả có một cái nhìn về quan niệm viết tiểu thuyết hồi xưa, đồng thời thấy được văn phong, luân lý của tác giả. Các tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt lấy đề tài xã hội đương thời, thực tế, viết theo lề lối tiểu thuyết Tây Phương, dùng lối văn xuôi bình thường, đánh dấu bước chuyển mình của loại văn học mới miền Nam. Sau đây, xin tóm lược cốt chuyện "Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên":
"Lâm Trí Viễn, quê tại xép Cơ-Tầm Bon (tác giả cho biết ở dưới tỉnh thành Châu Đốc chừng sáu, bảy ngàn thước), cha mẹ gởi trọ học tại nhà người bà con tại tỉnh thành. Gặp Đào Phi Đáng, Lâm Trí Viễn đem lòng yêu. Đào Phi Đáng là con gái của một người Triều Châu, buôn bán tại Nam Vang. Cha mẹ mất, Đào Phi Đáng được dì ruột ở Chui-Chèn-Oa đem về nuôi nấng. Khi trổ mã con gái, Đào Phi Đáng ham vui, theo chúng bạn, mang tiền bạc trốn khỏi nhà dì, xuống Châu Đốc, và được một người đàn bà bán cá tôm ngoài chợ cho trú ngụ trong nhà
Một hôm, Lâm Trí Viễn đọc báo thấy có tin một người giàu có ở Tân Châu tên là Trịnh Thế Xương, vợ mất sớm, chỉ có một đứa con gái tên Trịnh Phương Lang, hình dung yểu điệu, phía bên trái có một cái bớt bằng ngón tay cái mà tròn. Lúc Trịnh Phương Lang mới lên 6 tuổi, chợ Tân Châu bị hoả hoạn, nên cô bị thất lạc . Từ đó đến nay đã 12 năm biệt tích vắng tăm. Trịnh Thế Xương đăng báo rao khắp lục tỉnh nếu ai biết tung tích Trịnh Phương Lang, tìm đem về cho ông ấy, sẽ được  đền bù 2000 đồng bạc (lúa lúc đó giá 2 cắc một giạ, một đồng bạc mua được 5 giạ lúa)
Lâm Trí Viễn bày cách cho Đào Phi Đáng giả làm Trịnh Phương Lang, về lại ăn cắp tiền của cha mẹ cùng Phi Đáng lên Sài Gòn, nhờ một người làm nghề thay răng tên Cao Quốc Thủ, dùng xảo thuật tạo dịch cái bớt son giả cho Phi Đáng.
Phi Đáng về, đi xuồng, giả bị chìm ở phía sau thành phố Châu Đốc, rồi "tình cờ" Lâm Trí Viễn đi ngang qua đó ra tay nghĩa hiệp, cứu nàng. Rồi Lâm Trí Viễn viết thơ báo cho Trịnh Thế Xương biết rằng mình vừa cứu được một cô gái có đặc điểm giống như cô gái của ông đã rao mất lạc, đăng trên nhựt báo. Lâm Trí Viễn đưa cô Đáng lên nhà gặp Trịnh Thế Xương, và cô tự xưng tên là Lang. Ông Trịnh Thế Xương không ngờ gì cả, nhận đó là con mình. Dì Tư bán cá có công đùm bọc cho Phi Đáng, được đền ơn 100 đồng bạc. Phần Trí Viễn được mời đến nhà hậu tạ 2000 đồng và hai cây lụa Tân Châu.
Khi đó, có một người tên Trần Trọng Nghĩa, quê ở Mỹ Tho làm thông ngôn Dây Thép (Bưu Điện) đổi về nhà giấy Tri Tôn (Xà Tón). Nghĩa mới 20 tuổi, cha mẹ mất sớm, chưa vợ con. Nho học, Tây học đều thông, nghề võ, đánh quyền cũng giỏi. Mỗi tuần vào chúa nhựt, Trần Trọng Nghĩa giao nhà cho đứa ở tên thằng Mốc coi giữ, mang súng, cưỡi ngựa lên núi một mình săn bắn và ngao du, xem phong cảnh.
Một hôm, mải theo đuổi thú săn, đến gần núi Cô Tô, thấy bên mé rừng có người con gái Cao Man cỡi trâu chạy như bạy, phía sau có hai con beo rất to đuổi theo. Trọng Nghĩa bắn chết 2 con beo, kêu cô gái lại hỏi thăm và ngạc nhiên khi cô trả lời bằng tiếng Việt rất trôi chảy. Nàng cho biết ba nàng bắt đi chăn trâu đã tám, chín năm nay chưa bị beo rượt lần nào. Lân nầy may nhờ chàng cứu sống. Trọng Nghĩa nhìn nàng, đoán thầm là người Việt hoặc có ai đó bắt bán lên Cao Man, hay cũng có duyên cớ chi đây. Vừa cất lời hỏi, nàng chưa kịp trả lời, bỗng thấy một người Cao Man từ trong mé rừng hăm hở chạy ra, vẻ mặt giận dữ, xốc lại xô nàng và chỉ tới, hình như biểu nàng phải về. Nàng mặt mày thất sắc, riu ríu đuổi trâu về. Trọng Nghĩa về nhà trằn trọc cả đêm, rồi từ đó, cứ mỗi chúa nhựt giả đi săn bắn vào chỗ cũ để mong gặp lại nàng.
Đến đây tác giả cho biết nàng tên Chăng Cà Mum, đầy tớ của một người Cao Man tên là Thạch Ung, làm Mẹ Sốc, cai quản vùng ấy, tính tình hung bạo, sâu độc, thường đày đoạ Chăng Cà Mum, đánh đập làm nàng khổ sở nhiều bề. Thạch Ung lại có đứa con trai tên Thạch Quýt, hình dung cổ quái, muốn lấy Chăng Cà Mum làm vợ, nên mỗi khi cha mẹ la rầy Chăng Cà Mum thì hắn thường kiếm lời che chở, nhờ vậy cũng đỡ cho Chăng Cà Mum khỏi chịu phần roi vọt.
Một bữa, Trọng Nghĩa gặp lại Chăng Cà Mum trong rừng. Hai người chuyện trò thân mật. Khi được hỏi về lai lịch, nàng cho biết mình vốn là người Việt Nam tên Lang, hồi lên 6 tuổi bị người ta bắt cóc đưa xuống ghe chở đi rồi đem tới sóc nầy mà bán cho lão Mẹ Sốc. Trọng Nghĩa hứa có dịp sẽ đưa nàng về miệt ngoài, rồi thăm dò tin tức xem cha nàng là ai, sẽ giao nàng cho ông . Từ đó, ngày chúa nhựt nào hai người cũng đến chỗ hẹn hò mà trò chuyện với nhau.. Trọng Nghĩa dạy nàng học chữ quốc ngữ. Sau thấy nàng có khiếu thông minh, liền dạy qua chữ Pháp. Ngày qua tháng lại, thấm thoát đã 2 năm trời, nàng học chữ Pháp cũng vừa thông chút đỉnh.
Lúc ấy Trịnh Thế Xương phó thác nhà cửa cho người cháu kêu bằng cậu là Triệu Bất Thanh để dắt con gái là Trịnh Phương Lang giả, tức Đào Phi Đáng đi du lịch Hà Tiên. Tình cờ ghé lại Châu Đốc, gặp ông Trần Trọng Nghĩa làm quen với chàng, được chàng hướng dẫn đi thăm cảnh núi Cô Tô. Trong lúc mải mê săn bắn, Trịnh Thế Xương đứng lại ngắm một bàu sen. Bỗng thấy một nàng con gái từ dưới bàu sen, tay cầm 3 đoá hoa sen, xâm xâm bước tới trước xe, dâng cho Trịnh Thế Xương. Trịnh Thế Xương thấy nàng tuy quần áo rách rưới, nhưng hình dung yểu điệu, lại thêm lời nói dịu dàng nên chạnh lòng thương xót, lấy 5 đồng bạc trao cho nàng để thưởng công. Nàng từ chối, không lãnh, tạ ơn rồi lùa trâu đi. Đào Phi Đáng thấy vậy, trong lòng ganh ghét , song chẳng nói ra.
Sáng hôm sau, Trịnh Thế Xương và Đào Phi Đáng từ giã Trọng Nghĩa rồi đi Tịnh Biên. Trong lúc ấy tại nhà Thạch Ung, Thạch Quýt xin cha mẹ ép Chăng Cà Mum làm vợ hắn. Chăng Cà Mum giả vờ nhận lời, rồi thừa lúc nửa đêm, lén bắt một con bò nhảy phóc lên lưng, chạy như bay ra Xà Tón. Trọng Nghĩa lầy quần áo của mình cho nàng cải trang, rồi tự cầm cương ngựa đánh xe đưa nàng qua Tịnh Biên tìm ông Trịnh Thế Xương. Sau khi nghe Trọng Nghĩa kể lai lịch Chăng Cà Mum, ông Trịnh Thế Xương sẵn sàng nhận nàng làm dưỡng nữ, đặt tên là Nhị Quế. Đào Phi Đáng kiếm lời ngăn cản, nhưng vô hiệu quả. Nhị Quế được cấp cho một đứa ở tên Thị Phụng. Từ đó ngày ngày Nhị Quế học ươm tơ dệt lụa, nấu ăn, làm bánh mứt, thêu thùa may vá, chưa đầy 3 tháng mà nghề nào cũng khéo, nên được mọi người đem lòng thương mến. Thừa dịp Trịnh Thế Xương bỏ quên chìa khoá, Triệu Bất Thanh lén mở tủ lấy 1000 đồng. Nhị Quế gặp Bất Thanh trong phòng cha nuôi và Thanh năn nỉ đừng tiết lộ, vì cậu y có lịnh cấm y vào phòng. Vì Nhị Quế giữa lời hứa nên khi ông Trịnh Thế Xương hay mất tiền, hỏi cả hai người con, Phi Đáng kiếm lời vu khống cho Nhị Quế. Nhờ Thị Phụng cho biết Triệu Bất Thanh quyết hại mình, nên tính ở lâu không tiện, chờ đêm khuya trốn đi, để lại tất cả áo quần của cha nuôi sắm cho, chỉ mặc bộ đồ giả dạng con trai của Trọng Nghĩa lúc trước. Thị Phụng đưa Nhị Quế đến nhà bà Năm Thọ là mẹ nàng để nương tựa. Sau khi đọc thư Nhị Quế để lại, Trịnh Thế Xương khóc ròng, liền giục tôi tớ đi kiếm khắp nơi mà không được tin tức chi hết.
Ở nhà bà Năm Thọ, Nhị Quế nhờ em Thị Phụng là thằng Bưởi đem thơ báo tin cho Trọng Nghĩa ở Tri Tôn. Nửa đường hắn bị Thạch Quýt đón bắt, đoạt bức thơ của Chăng Cà Mum, xem xong trả lại, chỉ hỏi tên thằng Bưởi rồi thả nó đi. Tìm đến nhà thằng Bưởi, Thạch Quýt cho một người Việt Nam ở dưới ghe của hắn, nói dối là Trọng Nghĩa sai đến rước Chăng Cà Mum. Khi Chăng Cà Mum xuống ghe, thình lình Thạch Quýt ở dưới khoang chun lên, bắt Chăng Cà Mum đè xuống, nhét khăn vô họng, trói lại, bỏ xuống khoang chở về Xà Tón. Bỗng Trọng Nghĩa xuất hiện, nhảy phóc xuống ghe, đánh nhau với Thạch Quýt, hạ hắn, rồi mở trói cho Chăng Cà Mum.. Trọng Nghĩa tính giao Thạch Quýt cho làng trị tội, thì bỗng gặp ghe của Trịnh Thế Xương tới, trên đường đi du lịch cho giải khuây. Hai cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Sau khi nghe Trọng Nghĩa kể đầu đuôi, Trịnh mắng Thạch Quýt sao dám bắt con gái mình. Thạch Quyét chỉ Chăng Cà Mum nói rằng cô nầy là con nuôi của cha hắn, hồi trước có người ở Tân Châu chở qua Xà Tón mà bán cho cha hắn hồi cô ta mới 6 tuổi, nghe nói tên cô ấy là Lang. Trịnh Thế Xương nghe tên Lang thì sửng sốt, sẵn cái áo của Chăng Cà Mum vùng vẫy khi nảy mà rách một đường, Trịnh Thế Xương liền vạch ra coi, thì thấy cái bớt son nơi vai trái. Khi Trịnh Thế Xương tỏ ra thắc mắc vì cô gái ở nhà cũng tự xưng là Trịnh Phương Lang có cái bớt son, thì Thị Phụng cho biết cái bớt son của cô Hai ở nhà là cái bớt giả, cách nay mấy bữa, nó đã bay mất. Trịnh Thế Xương mở trói, tha cho Thạch Quýt, đưa con trở về Tân Châu. Đào Phi Đáng biết lộ chuyện, nhơn đêm khuya, mở rương lấy hết quần áo, vòng vàng, chuỗi hột, túm lại một gói rồi lỏn ra ngả sau trốn mất.
Khi Trọng Nghĩa qua Tân Châu, Trịnh Thế Xương kể cho chàng biết tự sự, rồi quyết định gả Phương Lang cho chàng. Triệu Bất Thanh bị ông Xương cậy làm tờ từ, rồi đuổi ra khỏi nhà, cuốn gói lên Nam Vang, đến sau trôi nổi lên Biển Hồ, không biết đi đâu biệt tích. Đào Phi Đáng qua Châu Đốc, quyết tìm Lâm Trí Viễn, lúc nầy đã lên Sài Gòn học. Phi Đáng lên tuốt Sài Gòn hỏi thăm Lâm Trí Viễn mới biết cậu ta bị đau trái trời mà chết cách 3 ngày trước. Sau đó Đào Phi Đáng trở thành gái điếm, sao vào chốn lầu xanh, bị lây chứng ác mà bỏ mạng. Sau khi thành hôn, Trọng Nghĩa và Phương Lang sắp đặt việc hợp tác cho thằng Mốc và Thị Phụng. Về sau con trai của Trọng Nghĩa học giỏi, được du học bên Tây".
Đây là quyển tiểu thuyết lấy bối cảnh lịch sử, xã hội thực tế. Việc cháy chợ Tân Châu xảy ra năm 1910 khiến nhiều gia đình ly tán, việc Lâm Trí Viễn theo trọ học ở tỉnh thành Châu Đốc cũng là hoàn cảnh của tác giả, rồi khung cảnh địa lý, vùng Miên Việt. Tóm lại, những sự kiện thật, mới lạ, lần đầu tiên được đưa lên tiểu thuyết, vì lẽ đó người ta coi đây là quyển tiểu thuyết đánh dấu bước chuyển biến quan trọng từ cũ sang mới.
 
Chú thích:
(1) Cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh, nhà văn và cũng là nhà cách mạng, bạn của người cháu ngoại của Nguyễn Chánh Sắt, tên Trân Xuân Nam, bút hiệu Trọng Tâm, có lần kể cho cụ nghe về Nguyễn Chánh Sắt: Một lân về Tân Châu thăm ông ngoại, Trần Xuân Nam kể chuyện họp bạn văn chương ở Sài Gòn cho cụ nghe, cụ vuốt râu cười:
- Mấy cháu tha thiết đến chữ Quốc Ngữ như thế là tốt. Tương lai của dân mình tùy thuộc phần lớn ở tiếng nói và chữ viết của nước mình. Không lẽ học tiếng nước ngoài bỏ tiếng nước mình để làm đầy tớ cho Tàu rồi lại làm đầy tớ cho Tây mãi sao ?
Một hôm cụ hỏi Trần Xuân Nam có đọc truyện Tây Du của cụ dịch không? Đoạn văn nào anh ưa nhứt? Nam hóm hỉnh trả lời:
- Con ưa chỗ ngoại viết là "Tề Thiên Đại Thánh nhảy lên mây và nghĩ thầm rằng...." . Ngoại còn giỏi hơn ông Tề nữa, vì ổng nhảy cao tận mây xanh mà ngoại cũng biết ổng nghĩ thầm thế nào..!" (Tài liệu do nhà văn An Khê gởi cho tác giả)
(Rút trong khởi thảo "Nhân Vật Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá miền Nam" Tự Điển)
 
Phần 4: CÔ BA TRÀ, HUÊ KHÔI NAM KỲ
Hứa Hoành
 
Tài liệu để viết bài nầy gồm nhiều loại có xuất xứ khác nhau, chúng tôi sưu tầm và lưu giữ trong nhiều năm. Trước hết là tư liệu do một người bạn vong niên là cụ Nguyễn Văn Vực cung cấp, hay kể lại trực tiếp. Cụ Vực là một người đam mê các chuyện cổ, có trí nhớ phi thường, nhứt là những chuyện cụ nghe, thấy ở Nam Kỳ. Tài liệu của cụ chỉ thua cụ Vương Hồng Sển mà thôi. Cụ Nguyễn Văn Vực từng giữ chức Chánh sự vụ Sở thông tin đô thành Sài Sòn dưới thời Tổng Thổng Ngô Đình Diệm, và từng ra ứng cửa dân biểu Quốc Hội khoá I (1956) với dấu hiệu "Cái Nón Lá". Tổng kết số phiếu cụ đứng hạng nhì sau ông Hà Như Chi, người của chính quyền.
Tài liệu mới nhứt là quyển "Sài Gòn tạp-pín-lù" của cụ Vương Hồng Sển, mới xuất bản bên nhà, do nhà văn Phạm Thăng nhã ý cho mượn. Mới đây do một sự tình cờ may mắn, tôi lại quen được với một gia đình là thân nhân của Cậu Tư Phước George, đó là ông bà Thái K.C. Tôi đến tận nhà để được nghe ông bà kể nhiều chi tiết về cuộc đời "Cậu Tư Phước George", xem nhiều hình ảnh liên quan mà ông bà còn giữ được, cũng như các giai thoại về cuộc ăn chơi của Cậu Tư lúc qua Pháp du lịch. Ông bà Thái K.C. là cháu của bà kế mẫu Cậu Tư Phước George, tức bà thứ thất của ông Đốc Phủ Lê Công Sủng, thân phụ Cậu Tư Phước George, tức Lê Công Phước. Khi du học bên Tây, Cậu Tư có một người bạn đồng hành, đó là ông Thái Minh Phát, em của bà thứ thất kể trên. Theo vai vế trong gia đình, Cậu Tư phải gọi ông Thái Minh Phát bằng "cậu" vì em của mẹ (mẹ ghẻ). Tôi rất tiếc không tìm thấy hình Cậu Tư trong những tấm ảnh hiếm hoi của gia đình nầy.
Trong chương I, tức phần bối cảnh chung của lịch sử Nam Kỳ vào mấy thập niên đầu của thế kỷ 20 chúng tôi sử dụng một phần lớn trong quyển sách nhan đề "The French present in Cochinchina and Cambodia" của tác giả Milton E. Osbone, tiến sĩ sử học Đông Nam Á tại đại học đường Cornell.
Ngoài ra còn nhiều tài liệu rời rạc khác hoặc do chính một người trong cuộc kể lại (công tử Út Nhu), một số sách báo cũ.
Tác giả xin trân trọng gởi đến quý vị có phương danh nêu trên lòng biết ơn chân thành. Riêng với độc giả mặc dầu đã cố gắng nhiều, nhưng chắc chắn chúng tôi không khỏi thiếu sót, sai lầm không cố ý, kính xin quý vị niệm tình tha thứ và chỉ dạy thêm, chúng tôi xin đa tạ..
User avatar
mvt5
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $47,119
Posts: 358
Joined: 05 Oct 2005
Location: Tổ Rồng Bự
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng mvt5 từ: msn

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby mvt5 » 05 Aug 2009

Chương  Một
BỐI CẢNH NAM KỲ VÀO MẤY THẬP NIÊN
ĐẦU THẾ KỶ 20
Tất cả những sự kiện được viết lại trong bài nầy đều xảy ra vào những năm sau Thế Chiến Thứ Nhứt (1914-18), cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu (1939-45).  Các chi tiết trong chương bối cảnh, sẽ đề cập rõ ràng đến sự giàu có lớn nhờ ruộng đất của các ông đại điền chủ vi chánh sách nâng đỡ của người Pháp, và nhứt là thế lực cũng như đặc quyền của các ông Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.  Những điều đó, cùng với việc đào kinh, gia tăng diện tích lúa trúng mùa sẽ giúp chúng ta nhận ra cái không khí ăn chơi của con cái nhà giàu, và góp phần cắt nghĩa hiện tượng đặc biệt của xã hội Nam Kỳ, một hiện tượng độc đáo mà trước đó và sau đó không bao giờ có.  Trong chương nầy, chúng ta sẽ nhận thấy nguồn gốc sâu xa của sự biến đổi xã hội nông nghiệp Nam Kỳ thành một nền kinh tế hàng hoá phồn thịnh kỳ lạ vào các năm 1927, 1928, 1929.
Cái bối cảnh giao thời giữa hai nền văn hoá mới cũ đã tạo ra những hiện tượng ít ai tiên đoán được.  Cùng một lò sản xuất, nhưng người thanh niên thời ấy trở thành những kiểu mẫu khác nhau.  Giàu có lớn, tiền bạc dư thừa, những gia đình ấy có cuộc sống xa xí, tạo ra một hạng người ngồi không ăn chơi thoả thích: Công tử.  Về mặt khác như chính trị, kinh tế, văn hoá, chúng tôi chỉ lược qua các sự kiện tiêu biểu. Về lịch sử, chính trị chúng tôi nói ít vì có nhiều sách báo đề cập rồi, nói nhiều sẽ nhàm chán.  Trong phần kinh tế, chúng tôi sẽ kể một số chi tiết về những hãng xưởng đầu tiên do người Pháp lập ra ở Nam Kỳ. Chúng tôi cũng kể sơ lược các nhà giàu lớn ở vài tỉnh miền Nam thời đó.. Họ làm giàu nhờruộng đất, đồn điền, mở xí nghiệp...có tài sản lớn.  Chính họ và lớp con cháu họ đã tạo ra một hiện tượng mới, làm biến đổi xã hội miền Nam hồi Tây mới qua. Về giáo dục, chúng tôi sẽ nói chi tiết hơn.  Lóp thanh nhiên Việt Nam đầu tiên du học bên Algérie, bên Pháp vào cuối thế kỷ 19 là những ai? Những người Việt Nam đầu tiên nhập tịch Pháp là những người nào?
Lớp con cháu họ sẽ đóng những vai trò chính trị quan trọng trong thế hệ kế tiếp.  Đó là lớp trí thức mới, hấp thụ văn hoá Tây phương, thay thế cho lớp nho sĩ cũ đang tàn tạ dần.  Tùy theo lãnh vực, cá tính, hoàn cảnh mà họ sẽ là những nhà nghiên cứu, công chức (chủ quận, Hội Đồng, Cai tổng...) hay công tử ăn chơi, hay trở thành những thanh niên yêu nước, có lý tưỏng, tích cực hoạt động chống Pháp trong giai đoạn mới.  Lớp thanh niên mới còn là những luật sư, bác sĩ, kỹ sư, chánh án, Hội Đồng địa hạt...Trước hết về chính trị, từ khi Thế Chiến Thứ Nhứt chấm dứt, thuộc địa Nam Kỳ bước qua một giai đoạn mới: giai đoạn khai thác kinh tế của người Pháp.  So với Bắc và Trung, đời sống dân Nam Kỳ cao hơn, và cũng khá hơn từ những năm trước.  Thời kỳ nầy Nam Kỳ rất ổn định.  Chỉ trong thập niên đầu của thế kỷ 20, nhờ các kinh đào mà diện tích đất canh tác ở Nam Kỳ tăng gấp đôi.  Trong khi chiến tranh 1914-18, hàng hoá của Pháp bị gián đoạn với các thuộc địa.
Tại Việt Nam, nhiều người Việt giàu, có sáng kiến, dám bỏ vốn làm ăn nhiều ngành khắp Sài Gòn và Nam Kỳ Lục Tỉnh.  Thắng lợi của Pháp trong Thế Chiến I làm gia tăng ảnh hưởng và uy tín của họ tại thuộc địa Đông Dương.  Nhiều người Việt tin rằng Pháp sẽ nới rộng chính sách cai trị cho phù hợp với nguyện vọng và công ơn của dân chúng Việt Nam đã góp tiền, góp xương máu để họ chiến thắng.  Nếu như ở miền Trung và miền Bắc có  những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ mà cao điểm là cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Yên Bái, thì tại Nam Kỳ, các phong trào tranh đấu giành độc lập không còn xuất hiện dưới hình thức cũ nữa.  Con cái các điền chủ được qua Pháp du học tăng dần.  Lớp thanh niên mới, hấp thụ văn hoá Pháp chính là những người lãnh đạo các phong trào tranh đấu chống thực dân ở miền Nam.  Khi chọn thanh niên bản xứ cho qua Pháp, dĩ nhiên họ lựa những con cháu các người đã có công và trung thành với họ, để đào tạo thành những tay sai đắc lực.  Tuy nhiên, cũng có những trường hợp cây đắng sanh trái ngọt.  Cậu Hai Miêng (Huỳnh Công Miêng), con trai Lãnh binh Huỳnh Công Tấn về nước một thời gian, bất hợp tác với Pháp, còn chống đối Pháp tiêu cực.  Một trường hợp điển hình khác là ông Nguyễn Thế Truyền, cháu của Tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hân.  Mặc dầu ông nội cậu, Nguyễn Duy Hân là một người thân Pháp, nhưng sau khi thành tài, Nguyễn Thế Truyền trở thành một nhà cách mạng, suốt đời hy sinh cho lý tưởng.
Thấy phương pháp tranh đầu cũ lỗi thời, thất bại như cuộc khởi nghĩa non nớt của Phan Xích Long, phong trào Đông Du... đều bị đàn áp dã man, lớp thanh niên tân học áp dụng câu "lấy độc trị độc".  Học văn hoá Pháp để chống lại người Pháp.  Biến cố vua Khải Định, băng hà ở Huế không làm cho dư luận Nam Kỳ chú ý.  Họ rất thờ ơ.  Tuy vậy, dân chúng miền Nam rất hăng say tranh đấu đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và nhứt là biểu dương sức mạnh hùng hậu trong lễ quốc táng nhà ái quốc Phan Chu Trinh.  Sống dưới chế độ thuộc địa gần 50 năm, Nam Kỳ có nhiều thói quen, tập quán và tự do hơn Bắc và Trung Kỳ.  Trong hai thập niên 1920-30, chúng ta thấy có mấy biến cố chính tiêu biểu:
- Trước tiên là hội kín Nguyễn An Ninh (1900-43). Sinh trong một gia đình có truyền thống cách mạng, Nguyễn An Ninh là một thanh niên có lý tưởng cao cả và suốt đời đam mê phục vụ cho lý tưởng ấy.  Từ bỏ phú quý, từ bỏ nếp sống quen thuộc của hạng con nhà giàu, nhứt là sau khi đậu Cử nhân Luật khoa ở Pháp về, Nguyễn An Ninh cương quyết từ bỏ sự cám dỗ của quan trường mà Pháp hứa hẹn, ông lập ra một phong trào quần chúng, nông dân để cải tổ xã hội.  Ông là nhà cải cách xã hội đầu tiên dựa vào lực lượng lao động. Ông chỉ trích chế độ của Pháp, đồng thời kêu gọi cải tạo xã hội phong kiến của ta. Theo ông, văn minh động đích Tây phương có thể kết hợp với văn minh tĩnh chỉ Đông phương.  Phong trào, hay hội kín Nguyễn An Ninh bắt đầu từ bài diễn văn "Cao vọng của thanh niên" tại trụ sở Hội Khuyến Học ở Sài Gòn vào năm 1923.  Xuất phát từ Hóc Môn, Bà Điểm, nhưng phong trào bành trướng mạnh ở các tỉnh miền Nam nhưTân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh.  Hội kín Nguyễn An Ninh cũng gây tiếng vang lớn, được nhiều người tham gia làm cho thực dân Pháp điên đầu.
- Kế tiếp là cuộc tiếp đón ông Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ đảng Lập Hiến vào năm 1926.  Cuộc tiếp đón đó có một ý nghĩa chính trị trọng đại và tầm mức to lớn.  Tập họp sức mạnh và biểu dương ý chí tranh đấu trước mặt thực dân.  Lần đầu tiên, thanh niên trí thức Nam Kỳ dám tập họp thành đám đông (60000 người), giương cao những tấm biểu ngữ và hô to những khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ.  Dịp nầy, thanh niên cũng làm áp lực với Pháp:
" Hãy thả Nguyễn An Ninh! Hãy thả Nguyễn An Ninh!"
Cuộc biểu tình đón tiếp ông Bùi Quang Chiêu làm cho bọn Tây thực dân chủ đồn điền, chủ xí nghiệp tức tối.  Chúng hò hét la ó, chỉ trích cả Toàn Quyền A. Varenne.
Vào ngày 24 tháng ba 1926, một lực lượng hùng hậu nhứt xuống đường dự lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.  Bắt chước cách tổ chức lễ quốc táng cho Tôn Trung Sơn năm trước ở Trung Hoa, lần nầy các tiệm buôn, hãng xưởng tại Sài Gòn đều đóng cửa, các công sở nghỉ việc để tang cho cụ Phan.  Hai trăm ngàn người đủ mọi thành phần xã hội, lặng lẽ theo xe tang tiễn đưa cụ Phan đến nơi an nghỉ cuối cùng trên nghĩa trang Tân Sơn Nhứt.  Còn 200 biểu ngữ đòi độc lập, tự do, hứa hẹn nối tiếp sự nghiệp tranh đấu của cụ Phan.  Nhiều bài điếu văn trở thành diễn văn cổ võ cho lòng ái quốc, kêu gọi mọi người noi gương tranh đấu của cụ Phan.  Những từ ngữ mới "độc lập", "tự do", "dân chủ"... được nói đến trước đám đông lần đầu tiên.
Mãi đến 10 năm sau, một biến cố xuất phát từ phía Pháp: Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp nới rộng chế độ cai trị thuộc địa, thả tù chính trị, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, thợ thuyền, đã tạo ra một phong trào tranh đấu khác ở Việt Nam, đó là Đông Dương đại hội.  Mục đích của Đông Dương đại hội để thu thập ý kiến, nguyện vọng của mọi từng lớp dân chúng, trình bày với đại diện của Mặt Trận Bình Dân qua Việt Nam điều tra.  Đại biểu của giai cấp tư sản, đại biểu nhóm Tranh Đấu (La Lutte) , đại biểu công nhân, thợ thuyền, nông dân, phụ nữ đều được mời tham dự. Chuẩn bị cho Đaị Hội Đông Dương trong không khí hết sức phấn khởi, nhưng thực dân ở Nam Kỳ vẫn còn ngoan cố.  Thống Đốc Nam Kỳ Henri Rival tiếp kiến các lãnh tụ của phong trào, chọn ngày họp đại hội (16 tháng 9), nhưng sau đó hắn trở mặt, cấm nhóm họp.  Họ bắt các lãnh tụ của phong trào Đông Dương đại hội như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, nhưng sau đó, do áp lực của Marius Moutet, họ phải thả các vị ấy.  Ở Bắc cũng có phong trào Đông Dương đại hội, nhưng cũng không kết quả và phong trào tản ra nhanh chóng.
Cuộc diễn thuyết kêu goị dân chúng tranh đấu tại Xóm Lách, vườn bà Đốc Phủ Tài, cô ruột Nguyễn An Ninh, tuy không thành công, nhưng cũng gây được tiếng vang lớn.
Thời kỳ nầy có một vài phần tử Cộng Sản từ Pháp về hoạt động chui vì không có ảnh hưởng và không được quần chúng ủng hộ.  Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai sống ký sinh tờ báo La Lutte của Tạ Thu Thâu và Trần Văn Thạch, đó là nhóm Tranh Đấu.  Còn yếu thì liên hiệp, hợp tác để tồn tại: đó là sách lược của Cộng Sản.  Tạ Thu Thâu là một gương mặt chính trị lớn của miền Nam, quê ở Long Xuyên, du học bên Pháp.  Vì tham dự cuộc biểu tình trước điện Élysée đòi ân xá cho các lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái, nên bị trục xuất về nước.  Trần Văn Thạch là một thanh niên trí thức, thông minh, đậu Cử nhân Giáo khoa Văn chương tại đại học Sorbonne.  Nhóm Tranh Đấu cũng gồm thêm Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh... là những thành phần ưu tú của xã hội bấy giờ.  Nhóm Tranh Đấu ứng cử Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ và Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn, đắc cử vẻ vang  với 80% cử tri dồn phiếu cho họ, chứng tỏ dư luận rất ủng hộ.  Trong khi cán bộ Cộng Sản như Tạo, Mai còn núp trong bóng tối hoạt động lén lút, tuyên truyền lừa bịp và phá hoại các tổ chức chống Pháp của người quốc gia.
Về báo chí, thời kỳ nầy có gần 40 tờ báo, nhưng chúng tôi xin kể những tờ báo tiêu biểu như:
- Đông Pháp thời báo 1924-28
- Tân Dân báo
- Đuốc Nhà Nam 1928-37
-Phụ Nữ Tân Văn 1929-34
-Thần Chung (Tiếng chuông buổi sớm) 1929-33 ...
Nếu kể về khuynh hướng, chúng ta thấy:
- Về chính trị có báo La Lutte, La Cloche Fêlée, L'Annam, La Tribune Indochinoise...
- Về nghệ thuật văn chương có : Sài Thành nhựt báo (1930-31), Văn Học tuần san (1934-1937), Tiểu Thuyết Thứ Sáu (1935), Tiểu Thuyết Nam Kỳ (1935), Sài Gòn Ngọ báo (1935-1936), Tuần báo Nghệ Thuật...
- Về phụ nữ, ngoài Phụ Nữ Tân Văn còn có : Đàn Bà Mới, Nữ Lưu, Nữ Công tạp chí (1936-1938), Nữ Giới...
Thuở đó, các văn nhơn ký giả tiếng tăm thường lui tới các nhà hàng Đông Pháp lữ quán, Nam Đồng Hưng, Lục Tỉnh khách lầu, Đỗ Văn Bình Hôtel, Cửu Long Giang khách sạn ... Họ thường tới vào buổi chiều, thảo luận tin tức, ăn uống, nghe đờn ca ra bộ, tiền thân của Cải lương ngày nay.  Trong số các người làm báo nổi tiếng thời đó, người ta hay gặp các ông Nguyễn Tử Thức , chủ bút "Nam Trung tuần báo", Lê Sum tự Trường Mậu, bỉnh bút tờ Công Luận, Lão Ngạc Nguyễn Viên Kiểu, Dù Thúc Lương Khắc Ninh, cựu Hội Đồng Quản Hạt, cũng là bầu gánh hát.
Về kinh tế, Nam Kỳ bước qua một giai đoạn mới phát triển lạ lùng.  Biến cố thứ nhứt là do ảnh hưởng cuộc khai hoang đất đai miền Tây, làm cho Nam Kỳ thịnh vượng hơn bao giờ hết. Việc đào kinh vừa thay cho việc làm đường lộ, làm gia tăng diện tích đất canh tác lên nhiều lần.  Kinh đào tới đâu, dân tứ xứ tới đó cắm dùi làm ruộng, lập vườn, lập làng xóm.  Số lúa gạo do Nam Kỳ sản xuất gia tăng vượt bực và trở thành món hàng quan trọng để xuất cảng.  Có lúc (1937) Việt Nam sản xuất trên 3 triệu tấn lúa! Khi hàng hoá lúa gạo sản xuất gia tăng dĩ nhiên giá trị đồng bạc Đông Dương mạnh hơn đồng Phật Lăng (franc) của Pháp.  Cũng sau thế chiến, nhiều người Pháp đem vốn qua lập đồn điền cao su, cà phê, trong khi người Tàu nắm độc quyền mua bán lúa gạo.
Một trong những người Việt đầu tiên biết làm ăn, có kiến thức Tây học, có tài kinh doanh và thành công mãi đến năm 1975 là ông Trương Văn Bền.  Không tốt nghiệp một trường công nghệ nào, nhưng vào năm 1918 ông Bền đã lập ra nhà máy ép dầu dừa tại Chợ Lớn, sử dụng 70 công nhơn bản xứ, tiêu thụ hàng năm 1500 tấn cùi dừa khô.  Năm 1925, hãng xà bông Trương Văn Bền ra đời (sau nầy gọi là hãng xà bông Việt Nam), xưởng đặt phía bên hông chợ Kim Biên, sản xuất một loại xà bông thơm lừng danh khắp Đông Dương : Xà bông Cô Ba!
Các ông Lê Phát An, Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, con ông Huyện Sĩ là những cự phú có óc kinh doạnh.  Cả 3 ông đều có học bên Tây, đỗ Tú Tài đôi, về nước bỏ vốn làm ăn, kinh doanh nhiều lãnh vực mới mẻ, cạnh tranh với người Pháp.
 Lê Phát Vĩnh là người có tánh hào hiệp, lịch duyệt, cư xử với mọi người (công nhân, tá điền) rất được lòng, khi chết nhiều người còn nhớ.  Ngoài mấy ngàn mẫu đất ở miền Tây, giáp ranh với "điền ông Kho Gressier", ông Vĩnh còn có đồn điền trà, đồn điền cao su ở Cầu Đất (Đà Lạt) và miền Đông.  Năm 1920, ông Vĩnh lập hãng dệt the, lấy tên Lê Phát (Manufacture de Tissage Le Phat) ở Cầu Kho (quận I), sử dụng 50 công nhân. Ông lại cho trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ để cung cấp cho nhà máy, khỏi lệ thuộc nguyên liệu vào nước ngoài.  Riêng trong lãnh vực đồn điền, ông Vĩnh có 200 công nhân.
Lê Phát An, năm 1934 trở thành cậu vợ Hoàng đế Bảo Đại, có tặng cháu gái là Nguyễn Thị Hữu Lan (Nam Phương Hoàng Hậu) một triệu đồng làm của hồi môn, đủ biết sự giàu có đến bực nào! Ông được Bảo Đại phong tước An Định Vương.  Ông dân Pháp, có tên Tây Denis Lê Phát An.  Ông sống như một nhà quý tộc đúng nghĩa, biết làm ăn lớn, ăn chơi giao du với các ông hoàng bà chúa của Âu Châu.  Ăn xài như ông hoàng, bạn thân với Hoàng Thái Tử Henri D'Orléans, Thái Tử Đan Mạch Waldemar, Công Tước De Montpensier và nhiều nhà danh giá khác... Ông là nhà qúy tộc duy nhứt ở Nam Kỳ, tiền rừng bạc bể có biệt điện Ana ở Vũng Tàu, tư dinh Mont Roye ở Hạnh Thông Tây.
Trong lãnh vực điện lực, Lê Phát An và Phạm Tùng Long có  12 nhà máy đèn ở các tỉnh Nam Ky như Trà Vinh, Mỹ Tho, Châu Đốc, Phan Thiết... Trong khi đó, tại Rạch Giá, công ty điện nằm trong tay các ông Cao Thiệu Toản, Nguyễn Chánh Ngọ, Bùi Văn Mậu.
Hồi đó từ Gia Định trở lên là những đồn điền cao su ngút ngàn, nằm trong tay các nhà tư sản Việt Nam như Nguyễn Hữu Hào (quê ở Gò Công), Lê Phát Vĩnh (đồn điền Bà Rịa), ở Thủ Dầu Một có đồn điền các ông Nguyễn Văn Yến, Trần Văn Chương, Lê Phát Tân (em ruột ông Lê Phát Vĩnh), Nguyễn Tấn Thành... Ông Thành thuở nhỏ là một người rất nghèo, theo mẹ ra chợ bán rau cải, nhờ hiếu học, thông minh mà trở thành giàu có.  Tỉnh Biên Hoà nhiều đồn điền cao su rộng lớn tới vài trăm mẫu, của các ông Nguyễn Văn Của (tức ông huyện Của), Trần Văn Tư, Trương Văn Bền, bà Nguyễn Thị Tâm.  Nhiều chủ nhân các đồn điền ấy có chân trong tập đoàn cao su Đông Dương.
Về ngành in và xuất bản:  ở Mỹ Tho có nhà in Nguyễn Văn Trí, Sa Đéc có nhà in Hồ Văn Lang, Sài Gòn có nhà in "Xưa Nay" của ông huyện Của và Lê Phát An, nhà in Nguyễn Văn Viết và nhà in Đặng Thị Độc Lập...
Các tỉnh có mấy xí nghiệp đáng kể như nhà máy xay lúa Nguyễn Thành Liêm.  Ông Liêm cũng có lập nhà máy ép dầu dừa tại An Hoà.  Nhà máy đường Hiệp Hoà thành lập năm 1921.  Nhà máy xay Lê Văn Tiết ở Chợ Lơn, mỗi ngày xay được 16 tấn gạo.
Về giao thông chuyên chở:  tại Vĩnh Long có Nguyễn Thành Liêm là một nghiệp chủ giàu lớn.  Ông làm chủ hãng xe đò hàng chục chiếc, sử dụng trên 20 tài xế và 30 công nhân.. Ở Cần Thơ có nhà tư sản Trần Đắc Nghĩa có khách sạn, gánh hát Trần Đắc.  Về đường thủy có hãng tàu đò ông Phán Nuôi (Vĩnh Long), hãng Vĩnh Hiệp ở Mỹ Tho.  Về ngân hàng có người Việt tiên khởi thành lập "Việt Nam Ngân Hàng" là do các ông Trần Trinh Trạch, Nguyễn Tấn Sử, Nguyễn Tấn Lợi, Lê Quang Liêm, Trương Tấn Bộ, Nguyễn Thành Điểm ...góp vốn.  Nhiều công ty mua bán làm đại diện các hãng xưởng của Pháp như: Công ty Nguyễn Phú Khai ở Sài Gòn, chuyên nhập cảng xe hơi, xe đạp, thuốc lá, công ty Nguyễn Văn Hảo đại diện hãng xe "Rùa Nắp" (Rounab), Lê Phát An còn chung vốn với De Ligon lập công ty dệt.  Ngoài người Việt, người còn cho vay vốn (Chetty), người Hoa cũng góp vốn buôn bán làm cho Nam Kỳ phát triển nhanh chóng.
Về xã hội: Nam Kỳ có đời sống cao nhờ kinh tế phát triển.  Số điền chủ bực trung (500 mẫu ruộng) tăng rất nhiều.  Họ có đời sống phong lưu như một quan lại ngoài Bắc (Tuần Vũ, Tổng Đốc).  Hằng ngày, con cái họ ăn chơi tại các trà đình tửu điếm, đá gà, hút thuốc phiện cầu vui, coi hát...
Có hai địa điểm tập trung ăn chơi hồi mấy thập niên đầu thế kỷ 20 như:
Sài Gòn có khách sạn Continental, nhà hàng Hôtel de France đường Catinat.  Ở Chợ Lớn có phòng ngủ, nhà hàng tập trung gần khu "Đèn năm ngọn" đường Phùng Hưng ngày nay.  Đây là khu làm ăn của người Tàu, nơi tiệc tùng đãi đằng các quan Tây để làm áp phe.  Người Tàu có thói quen giải quyết công chuyện làm ăn trên bàn tiệc.  Nơi nào cũng có ca nhi, gái điếm và động hút thuốc phiện, thú vui phổ thông thời đó.  Chợ Lớn còn có hát bộ Tàu, Sơn Đông mãi võ, nhạc Tàu, coi bói, thai đố, đấm bóp trong khách sạn. Việc tổ chức cờ bạc hồi thập niên 1920-30 nằm trong tay thầy Sáu Ngọ, Sáu Nhiều.  Sáu Ngọ được mệnh danh là vua cờ bạc Sài Gòn, hằng năm số tiền xâu lên đến 2 triệu bạc (Xem thêm "Nam Kỳ Lục Tỉnh" tập I, cùng tác giả) . Sáu Ngọ là người lai, mẹ Tàu, nhập Pháp tịch lấy tên Tây Paul Daron.  Các nơi ăn chơi vùng Sài Gòn dành riêng cho người Pháp, giới ký giả và dân có học Tây.  Chợ Lớn là nơi dành riêng cho người Tàu, các ông điền chủ dưới tỉnh lâu lâu lên Chợ Lớn làm việc mua bán, giá lúa gạo.
Ở miệt vườn, từ Mỹ Tho đến Bạc Liêu là nơi có nhiều điền chủ hạng trung.  Một số ít đại điền chủ như ông Hương Liêm, đốc phủ Kiểng (Nguyễn Duy Hinh) ở Bến Tre, đốc phủ Sưng ở Mỹ Tho, Hội Đồng Trạch, Hội Đồng Điều.. ở Bạc Liêu.  Họ cất nhà lợp ngói âm dương, nền đúc cao tới ngực, có hàng rào song sắt, hai bên lối đi có trồng nhiều bông kiểng.  Nhà nào cũng cất gần mé sông, hoặc có đào rạch nhỏ để chở lúa về, có chỗ để ca-nô, có nhà mát để chiều chiều ra mé sông hứng gió.  Ngày nay, trên rạch Long Hồ, còn nhiều nhà mát kiểu xưa.  Trong quyển "Bảy ngày trong Đồng Tháp ", trang 91, ông Nguyễn Hiến Lê viết:"Khi tới gần Gò Đá, chúng tôi qua một trại rất lớn, có cày máy.  Chủ điền vui vẻ tiếp đãi, giữ chúng tôi lại ăn cơm.  Chỉ trong một giờ là trên bàn đã có sáu, bảy món ăn, rượu quý, trái cây và bánh ngọt rất nhiều.  Dĩa chén toàn là đồ Limoges, ly bằng pha lê.  Chủ nhân có 600 mẫu đất, phàn nàn lỡ mua non 1 vạn đồng bạc máy cày, mới dùng được vài tháng lại phải bỏ vì không khí ẩm thấp, thợ chuyên môn không có... Chủa điền trong nầy là những ông vua nhỏ.  Chánh tham biện vào nhà họ, thấy những thứ rượu của họ mà thèm.  Họ mua từng thùng để đãi khách quý... Điền chủ hạng trung như vậy dư sức cho con cái qua Pháp học, mà số điền chủ đó ở Nam Kỳ có biết mấy ngàn người, chưa có thống kê rõ ràng".
Nếu nói riêng về giá cả vài món hàng chúng tôi xin nêu ra để độc giả thêm ý niệm về giá trị của đồng tiền lúc ấy.  Từ năm 1919, giá vàng 50 đồng một lượng.  Sau đó sụt lần cho đến khủng hoảng kinh tế năm 1932 chỉ còn 19 đồng một lượng.  Nói chung trong hai thập niên kể trên, giá vàng xê xích khoảng 40 đồng một lượng mà thôi.  Còn giá ruộng đất từ năm 1925, có 50 đồng một mẫu, có khi tăng đến 80 đồng nếu là ruộng tốt, gần bờ kinh xáng mới đào.  Một mẫu ngoài Bắc rộng 3,600m2 , ở Trung rộng 4,800m2  và ở Nam Kỳ một mẫu rộng 10,000m2, lấy theo đơn vị đo lường của Pháp.  Một mẫu có 10 công, mỗi công ruộng có 1,000m2.  Hồi năm 1927, ông Lê Phát Vĩnh có đăng báo bán 1,000 mẫu ruộng ở Phụng Hiệp chạy xuống Sóc Trăng, với giá 80,000 đồng, nhưng không ai mua, họ chỉ trả 60,000 đồng (tính ra 60 đồng/1 mẫu).  Giá lúa năm 1928 là 1.20, nhưng đến năm 1933, có khủng hoảng kinh tế, chỉ còn 0.30 hay 0.20 một giạ. Vè Nọc Nạn (1928) cho biết:"Lúa thì một giạ, giá thì đồng hai."
Về các cơ quan tư vấn cao nhứt ở Nam Kỳ, gồm một phần người bản xứ tham gia gọi là Hội Đồng.  Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Coloniale) thành lập năm 1880, được quyền biểu quyết ngân sách Nam Kỳ.  Lúc ban đầu, Hội Đồng nầy có 12 hội viên, nửa Pháp, nửa Việt.  Muốn được đi bầu, phải là các điền chủ đóng thuế từ 20 đồng trở lên, nhà buôn phải có môn bài hạng 6 trở lên, còn công chức thì hạng thầy thông, thầy phán trở lên mới được đi bầu.  Về nhân viên chính quyền bản xứ muốn đi bầu phải tri phủ, tri huyện, chánh phó tổng, lý trưởng đã làm việc trên 3 năm và các hội viên phòng Canh Nông, phòng Thương Mãi... Hội Đồng Địa Hạt ăn lương tỉnh, hay thành phố như Sài Gòn, Chợ Lớn.  Ngoài ra, còn phòng Thương Mãi và Canh Nông được lập ra để tập họp những điền chủ, các nhà tư sản Pháp lẫn Việt. Phòng Thương Mãi Nam Kỳ thành lập năm 1897.  Cao hơn hết là Hội Đồng Kinh Tế Lý Tài Đông Dương lập ra từ năm 1928, do hội viên các tổ chức vừa kể bầu lên.  Thật ra các ong Hội Đồng chỉ có quyền tư vấn, nhưng đối với dân chúng họ được trọng vọng lắm vì giàu có, nhiều đặc quyền do Pháp ban cho.  Kể từ khi Le Myre de Vilers, một người dân sự được bổ làm Thống Đốc Nam Kỳ, việc tổ chức cai trị đi vào nề nếp.
Trong một cuộc bầu cử Hội Đồng Quản Hạt vào năm 1886, một ứng cử viên dùng chữ Quốc Ngữ để vận động tranh cử, đó là người bà con với ông Phủ Ca, tên Trần Tử Lương: "Tôi phục vụ trong chính quyền Pháp 22 năm, và được thăg Đốc Phủ Sứ hạng nhứt, rồi xin hưu trí.  Tôi hiểu biết mọi vấn đề.  Điều đó rất quan trọng để giúp đồng bào.  Bây giờ tôi biết nói và viết tiếng Pháp, lẫn tiếng Hán.  Tôi mong muốn trở thành ông Hội Đồng quản hạt Nam Kỳ, để đem hết sức mình giúp đỡ người An Nam về tất cả những vấn đề liên quan tới họ". 
Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ có nhiều quyền lợi.  Muốn vào Hội Đồng phải là những đại điền chủ, những nghiệp chủ giàu lớn.  Hơn nữa, với chính sách nâng đỡ, các ông Hội Đồng được quyền đặc nhượng về ruộng đất miễn phí.  Chẳng hạn như:
- ngày 3 tháng 8 năm 1900 cấp cho Hội Đồng Hồ Bảo Toàn 200 mẫu đất
- ngày 6 tháng 8 năm 1904 cấp cho Hội Đồng Trần Bá Diệp 100 mẫu đất . 
Tất cả đều miễn phí.
Năm 1882, một Hội Đồng người Pháp, ông Vienot than phiền rằng trong những phiên họp các ông hội đông người Việt không tham gia bàn cãi, thảo luận gì cả, bởi vì không biết tiếng Pháp.  Khi hỏi ý kiến, hay biểu quyết về vấn đề gì họ cũng đồng ý, tiếng Pháp gọi là "OUI", như tiếng "OK" của Mỹ nên dân chúng thường chế nhạo các ông Hội Đồng dốt tiếng Tây là "Hội Đồng Qùi".  Từ đó, họ đề nghị những người muốn ra ứng cử Hội Đồng  phải có quốc tịch Pháp.  Còn Chủ Tịch Hội Đồng Quản Hạt là Cuniac cho rằng cần có thông ngôn để các ông Hội Đồng hiểu biết thấu đáo các vấn đề bàn cãi.  Năm 1905, ông Hội Đồng Trần Bá Diệp đắc cửa Phó Chủ Tịch Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, nhưng 4 ngày sau phải từ chức vì lý do riêng.  Ông Hội Đồng Diệp Văn Cương cho rằng vì áp lực từ bên Pháp.
Bắt đầu từ năm 1881, Pháp cho gia nhập dân Tây những người có thể nói tiếng Pháp, còn nếu có công trạng với Pháp được miễn điều kiện nầy. Những kẻ có mề-đay "Bắc Đẩu bội tinh" là những người vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ trước nhứt:
- Nguyễn Thành Trung năm 1882;
- Lê Phát Đạt (ông Huyện Sĩ) năm 1882;
- Diệp Văn Cương;
- Hồ Bảo Toàn;
- Trần Bá Diệp năm 1882;
- Cao Văn Sanh năm 1882;
- Hội Đồng Phong (không nhớ họ gì);
- Trần Bá Thọ (con Tổng Đốc Lộc).
Vào năm 1893, Pháp cho phép con cái các ông Hội Đồng được theo học trường Taberd có học bổng.  Ông Hội Đồng Cao Văn Sanh có con được du học bên Algérie.  Những ông Hội Đồng nổi tiếng hồi mấy thập niên đầu thế kỷ 20 là các ông : Bùi Quang Chiêu, Lê Quang Liêm (Phủ Bảy), Trương Văn Bền, Huỳnh Ngọc Bỉnh, Trần Như Lân (bác sĩ)... Các ông Hội Đồng có trách nhiệm phê chuẩn các đề nghị xin cấp đất cho những người đứng đơn xin từ 20 mẫu trở lên.  Dưới 20 mẫu thường do chánh tham biện phê chuẩn.  Thống Đốc hay Toàn Quyền có thể cấp một số đất co bạn bè thân thích.  Năm 1900 nhơn dịp Toàn Quyền Paul Doumer vào Nam ghé ăn ở nhà Đỗ Hữu Phương, cấp cho m4 một số đất rộng 2,223 mẫu ở Vị Thanh bây giờ. Cũng từ năm 1900, hàng chục ngàn mẫu ruộng ở miền Tây được cấp cho các người Pháp, Việt có thế lực, và tiếp tục những năm sau đó.  Ở miền Tây, chúng ta còn nghe nhắc đến những sở đất rộng lớn gọi là Điền Ông Kho (Gressier), Điền Ông La-Bách (Labaste), Điền Cờ Đỏ... phần lớn là những đất đai được cấp không tốn tiền.  Các nhơn vật nổi tiếng nhứt của Nam Kỳ buổi đầu đều vô dân Tây và có đạo Công giáo. Họ cho con cưới vợ lấy chồng Pháp để bảo đảm quyền lợi và sự học vấn sau nầy.
Vào năm 1888, toàn cõi Nam Kỳ có 2373 cử tri đủ điều kiện đi bầu Hội Đồng Quản Hạt, chia ra như sau:
- Biên Hoà 313 cử tri;
- Sài Gòn 563 cử tri;
- Trà Vinh 453 cử tri;
- Vĩnh Long 333 cử tri;
- Châu Đốc 203 cử tri;
- Mỹ Tho 508 cử tri...
Những con số đó cho biết số người giàu ở các tỉnh lúc bấy giờ.  Không phải tất cả mọi ông Hội Đồng đều chỉ biết nịnh hót Tây.  Chúng ta hãy nghe lời phàn nàn của giám mục Mossard tuyên bố trong một phiên họp Hội Đồng Quản Hạt rằng: "Nhờ hấp thụ văn hoá do nhu cầu cai trị, nhưng một số các ông Hội Đồng tỏ ra ít trung thành với Pháp".
Vào năm 1930 ở Nam Kỳ có 257 đại điền chủ, mỗi người có ít nhứt từ 500 mẫu ruộng trở lên.  Riêng Hội Đồng Tó, tức Trần Trinh Trạch, có đến 146,000 mẫu ruộng, rộng bằng một tỉnh trung bình ngày nay, là người giàu nhứt , thế hệ sau ông Huyện Sĩ. 
Các ông gia nhập Pháp tịch đầu tiên là Đỗ Hữu Phương vào năm 1881, Trần Bá Thọ năm 1883.  Vào năm 1906, toàn cõi Nam Kỳ có 254 người Việt có Pháp tịch.
Việc giáo dục những năm đầu ở Nam Kỳ ra sao? Chiếm được Nam Kỳ rồi, người Pháp muốn dùng văn hóa Pháp thay thế cho nền văn minh bản xứ.  Họ chọn lớp con cháu những người có công với họ cho qua Pháp, Algérie du học, với lý do khí hậu Algérie hợp với người Đông Dương hơn.  Vào năm 1893, con của những Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ tên Duồm và Năng (không rõ chữ lót là gì) và con của Hội Đồng Cao Văn Sanh được cho du học Algérie trước tiên.  Trường Adran thành lập năm 1861, trường Taberd lập năm 1874, Pháp chú ý đến thế hệ kế tiếp là lóp con cháu của Đỗ Hữu Phương, Trần Tử Ca, ông Huyện Sĩ, nên nhiều con cháu các gia đình ấy đều được qua Pháp du học.
Nên nhớ vào năm 1869, lúc chiếm trọn Nam Kỳ, nhưng chưa có hoà ước chính thức mà Pháp đã mở ra ở Sài Gòn 6 trường học để dạy chữ Pháp và chữ Quốc Ngữ, thay thế cho chữ Hán.  Trường Le Myre de Vilers (Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho) là một trường được thành lập sớm nhứt, vào năm 1872 dưới thời Thống Đốc dân sự cùng tên. Khi mới thành lập có vụ rắc rối giành học trò giữa Thanh Tra Nội Vụ bản xứ và Giám Mục Lize.  Vì cần học sinh nên họ bắt các học trò trong họ đạo của Cha Lize vào học, mà Cha không đồng ý, tạo ra sự tranh chấp .  Sách "Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" do tác giả Milton E. Osborne gọi vụ đó là "Affaire de l'école centrale de My Tho".  Cha Lize phàn nàn câu:"Vâng lịnh Chúa hơn vâng lịnh người đời" không còn ý nghĩa nữa.  Vụ tranh chấp ấy làm cho thanh tra bản xứ phải nhượng bộ.  Nhiều nhà khá giả có lịnh bắt buộc phải cho con theo học trường Mỹ Tho.  Tuy nhiên họ tìm cách giấu con ruột, cho đứa ở đi học, vì sợ triều đình trả thù.  Những con cái của gia nhơn, ở đợ nếu có chí, về sau trở thành những ông phủ, ông huyện dễ dàng.  Để khuyến khích, ngoài trợ cấp quần áo, tiền bạc cho học trò, Pháp còn cấp cho cha mẹ chúng.  Ta thấy thực dân cũng khôn ngoan chú trọng chính sách trồng người. Con trai Huỳnh Công Tấn là Huỳnh Công Miêng còn gọi là Cậu Hai Miêng (1859-1899) về làm quan một thời, rồi chán đời, ăn chơi, sống như công tử đầu tiên của Nam Kỳ được mọi người ca tụng là "miễn tử lưu linh".  Cậu Hai Miêng có một gia tài ruộng đất kếch sù nhưng ít ai biết.  Theo tài liệu Pháp, lúc chết Cậu Hai Miêng còn trên 1,000 mẫu ruộng!
Trước năm 1975, còn ngôi mộ Cậu Hai Miêng tại đường Nguyễn Tấn Nghiệm (sau đổi Trần Đình Xu).  Cậu Hai Miêng chết, nhưng danh tiếng cậu còn sống mãi trong lòng người dân vì tập thơ "Cậu Hai Miêng" được in và tái bản nhiều lần, phổ biến sâu rộng ở Nam Kỳ.  Nội dung tập thơ ca tụng tính khí Cậu Hai sống theo anh hùng hảo hán, điệu nghệ với anh em bè bạn, hay giúp đỡ người nghèo.  Cậu Hai Miêng tới đâu, hết tiền xài, cứ vào dinh các tham biện chủ tỉnh, chủ quận hỏi xin. Các quan nể cậu, và nhớ công lao cha cậu nên cũng giúp đỡ.  Đôi khi cậu làm điều gì phạm lỗi nhỏ, họ cũng bỏ qua.  Nói về hành vi hào hiệp, rộng lượng của cậu, dân chúng Nam Kỳ có hai câu thơ trong tập thơ"Cậu Hai Miêng":
"Cậu Hai Miêng, cậu chớ có lo
Hết tiền cậu cứ xuống kho lấy xài."
Vài người Việt qua Algérie du học vào cuối thập niên 1880 là các ông Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cương, Trương Minh Ký,.
 Ông Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) quê ở Bà Rịa, con rể Trương Vĩnh Ký, du học Lycée d'Alger, về nước làm giáo sư, rồi thành giám đốc các trường sơ học vào những năm 1890-1900.  Ông còn là một nhà văn tiền phong, đã viết truyện "Thầy Lazaro Phiền", xuất bản năm 1887.  Ngoài ra ông còn là họa sĩ, đã vẽ các tranh minh hoạ trong tiểu thuyết "Phan Yên Ngoại Sử" của Trương Duy Toản, xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn . 
Ông Trương Minh Ký (1855-1900) là người quê ở huyện Bình Dương, nay thuộc tỉnh Gia Định, cũng học bên Alger (thủ đô nước Algérie), về nước làm giáo sư dạy trường Chasseloup Laubat, trường thông ngôn và viết cho tờ "Gia Định báo.".  Năm 1899, ông làm thông ngôn trong một phái đoàn của triều đình Huế dự hội chợ đấu xảo tại Paris.  Trương Minh Ký để lại nhiều tác phẩm chữ Quốc Ngữ, ngôn ngữ, chữ Pháp và chữ Hán rất có giá trị.
Ông Diệp Văn Cương chúng tôi có nói nhiều trong các tập Nam Kỳ Lục Tỉnh, xin miễn kể lại.
User avatar
mvt5
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $47,119
Posts: 358
Joined: 05 Oct 2005
Location: Tổ Rồng Bự
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng mvt5 từ: msn

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby mvt5 » 05 Aug 2009

Chương Hai
TIỀN, SẮC ĐẸP VÀ BÙA NGẢI
Sài Gòn năm 1929...
Tại sao lấy mốc thời gian 1929 ?
Năm 1929 là năm kinh tế Nam Kỳ cực thịnh, nhưng qua năm sau, bắt đầu giảm dần do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.  Năm 1933, kinh tế Nam Kỳ thê thảm nhứt vì các món hàng xuất cảng như lúa gạo, cao su, than đá... trên thị trường quốc tế hạ thấp chưa từng thấy.  Vào năm 1929, lần đầu tiên cán cân xuất nhập cảng của Nam Kỳ thăng bằng, có phần trội hơn về mặt xuất cảng.  Mức sản xuất lúa lên đến 2,291,000 tấn và cứ bổ đồng 1,000 dân thì có 5 người qua Pháp: 2 người đi lính chiến, 2 người là lính thợ và 1 ngưòoi du học.  Năm 1929, dân số Sài Gòn Chợ Lớn khoảng 400,000 người, và Sài Gòn trở thành một đô thì sầm uất nhứt trong nước . Chợ Tân Định và nhà thờ Tân Định mơí khánh thành năm 1928.  Chợ Lớn mới dời về Bình Tây, do ông Quách Đàm cất tặng cho chính phủ.  Chợ Bến Thành do Chú Hoả (Hui Bon Hoa tức Huỳnh Trọng Huấn) cất tặng cho chính phủ năm 1914.  Lúa gạo cao giá nhứt: 1đồng 2 cắc một giạ.  Đời sống nông dân khá hơn đôi chút.  Thật sự khi lúa trúng mùa liên tiếp, bán được giá...tiền bạc vào tay các điền chủ, nông dân không có ruộng chiếm tới 71%, nên không hưởng được phúc lợi trong việc làm ruộng bao nhiêu.
Trong hai năm 1927-28, số nhà máy xay lúa ở Chơ Lớn tăng gấp đôi.  Chợ Hoà Bình mãi đến năm 1935 mới xây, cũng do một thương gia giàu, hiến cho chính phủ để được độc quyền xây phố lầu chung quanh để cho mướn.  Hệ thống mua bán lúa gạo thực sự nằm trong tay Hoa kiều.  Người Ấn sống trầm lặng hơn.  Họ cho vay, buôn bán nhỏ, nuôi bò sữa ...
Khu vực ăn chơi của người Hoa tập trung tại Đèn Năm Ngọn (đường Phùng Hưng và Khổng Tử sau này), rộn rịp từ sáng sớm tới khuya.  Các năm 1927, 28, 29 mãi lực dân chúng Nam Kỳ cao hơn bao giờ hết.  Chiếc xe đạp đã phổ thông.  Cái giàn hát máy đã theo chân các điền chủ trung lưu về tận miền quê.  Tại Sài Gòn , Chợ Lớn có xe điện, xe hơi, xe ngựa (hai loại: Mui kiếng để chở khách, và loại xe chở rau cải hàng hoá).  Sài Gòn đi Chợ Lớn có hai lộ trình  xe ngựa: lộ trình mé sông đi dọc đường Hàm Tử, bến Chương Dương và lộ trình trên, đi đường Nguyễn Trãi.  Phổ thông hơn hết cho các người sang bực trung là xe kéo (do người kéo như xe ngựa).  Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp, ngỏ ý với viên Khâm Sứ Trung Kỳ, muốn đem chiếc xe kéo và một thằng phu, để qua Paris nó kéo ông đi chơi, làm cho viên Khâm Sứ phì cười!
Thú ăn chơi hồi đó đã phát triển vượt bực.  Thực dân nắm độc quyền hai món thuốc độc để đầu độc dân ta: Rượu và Thuốc Phiện. Khắp Sài Gòn Chợ Lớn có khoảng 500 tiệm hút thuốc phiện công khai.  Các đại lý bán thuốc phiện đều có treo cờ "R.O." (Régie d'Opium) và các đại lý bán rượu treo cờ "R.A." (Régie d'Alcohol).  Riêng hai món nầy nhà nước độc quyền, mỗi năm thu một số tiền lời khổng lồ.  Toàn Quyền Maurice Long có phần hùn trong công ty rượu Đông Dương.
Ở Cao Miên cũng vậy, chính phủ Pháp trợ cấp thuốc phiện cho hoàng gia Miên hằng tháng...để hút chơi.  Nếu nhà vua không hút thì bán lấy tiền chi dụng.  Trong việc đào kinh, đắp lộ xe ở miền Tây hồi thập niên 1920, nhà nước "Đại Pháp" cung cấp rượu cho dân phu như một cách trả lương, vì đó là "thứ uống rất vệ sinh"!
Ngoài ra, còn hai thứ tệ đoan xã hội là nạn cờ bạc và mãi dâm cũng rất phổ thông, được người Pháp ngầm khuyến khích.  Thập niên 1920, người ta ước lượng tổng số huê lợi  chứa bài của thầy Sáu Ngọ, vua cờ bạc, từ 2 triệu đồng đến 2 triệu rưỡi. Các xóm em út nơi nào cũng có, nhứt là các khu lao động, bến tàu, bến xe.  Nổi tiếng nhứt hồi những năm đó là xóm Bồ-Rệt (Boresse, tên Chánh Tham Biện đầu tiên của Sài Gòn , Gia Định), rồi sau đó lan tràn tới xóm Vườn Lài.  Những năm giữa thế kỷ khu Bình Khang nổi tiếng là "xóm chơi bời".
Về mặt văn hoá, thời kỳ nầy nhiều tác phẩm khêu gợi lòng yêu nước xuất hiện ở Nam Kỳ nhiều nhứt. Nữ Lưu Thơ Quán Gò Công của cô Phan Thị Bạch Vân thành lập năm 1928, tồn tại một thời gian ngắn, nhưng có những sách giá trị:
- Gương nữ kiệt, Phan Thị Bạch Vân dịch
- Giám hồ nữ hiệp của Huỳnh Thị Tuyết Hoa.
- Băng tâm ngọc chất của Huỳnh Anh Thị.
- Nữ anh tài của Huỳnh Thị Tuyết Hoa
Nhà xuất bản của ông Nguyễn Kim Đính "Tân Dân Học Xá" cũng cho ra đời nhiều cuốn sách bị thực dân cấm.  Năm 1927, Trần Huy Liệu, lúc chưa vô đảng Cộng Sản, lập "Cường Học Thư Xá" xuất bản được 13 quyển, thì có 10 quyển bị cấm lưu hành như:
- Anh hùng cứu nước của Đào Khắc Hùng
- Gương phục quốc của Trần Huy Liệu
- Hiến thân cho nước của Trần Huy Liệu
- Anh hùng yêu nước
Đặc biệt nhà văn có khuynh hướng Mác-Xít đầu tiên của miền Nam là Trần Hữu Độ (1887-1945) với các tác phẩm kêu gọi bạo động như "Hồi trống tự do", "Tờ cớ mất tự do", "Tiếng chuông truy hồn"...nhưng Trần Hữu Độ chưa bao giờ hoạt động cho Cộng Sản.
Về mặt báo chí, chúng tôi có kể lại trong mục Bối Cảnh (chương đầu của bài nầy), xin nhắc lại các tờ báo giá trị và có uy tín thời đó như "Đông Pháp thời báo" ban đầu của ông Nguyễn Kim Đính, sau đó bán cho ông Diệp Văn Kỳ, tờ "Thần Chung", và đặc biệt nhứt là tờ báo "Phụ Nữ Tân Văn" của bà Nguyễn Đức Nhuận... Một biến cố được báo chí hồi đó nhắc nhở nhiều hơn hết, làm xôn xao dư luận, các bậc thức giả miền Nam là việc thi hào R.Tagore Ấn Độ, người Á Châu đầu tiên chiếm giải Nobel, đã đến viếng thăm Sài Gòn trên đường viễn du thế giới, cổ võ cho hoà bình.  Đặc biệt ông được người dân Sài Gòn ngưỡng mộ, dành cho nhiều cảm tình khi ông đến toà báo "Phụ Nữ Tân Văn" tại báo quán.
Có thể nói trong lịch sử văn hoá thế giới, hiếm hoi có những người với đầu óc sáng tạo phi thường như R.Tagore. Ông sáng tác 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hàng ngàn bức tranh, trong đó có nhiều bức tranh được trưng bày trong các viện bảo tàng mỹ thuật trên thế giới.  Ông là một nhà thơ, một nhà triết học, nhà giáo đầy tâm huyết, một nhà nghiên cứu văn học cổ đại Ấn Độ.  Sau khi Thế Chiến Thứ Nhứt chấm dứt, Tagore đi du lịch khắp thế giới, để cổ võ cho phong trào giành độc lập của các thuộc địa.  Tagore từng qua Trung Quốc, Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Ba Tư và vài nước Châu Á trong đó có Việt Nam.
Lần đầu tiên vào năm 1924, tin thi hào Rabindranah Tagore viếng thăm Sài Gòn làm các báo sốt sắng đăng tin tức, hình ảnh, sự nghiệp của ông .  Tuy nhiên, lần đó công cuộc chuẩn bị tiếp đón Tagore ...hụt, vì ông không ghé Việt Nam mà từ Trung Quốc đi thẳng về Ấn Độ.  Bàn về sự nồng nhiệt của giới trí thức Nam Kỳ đối với thi hào Tagore hồi đó, thi sĩ Đông Hồ nhận xét:"Trí thức Việt Nam khoảng mấy năm đó say mê các nhà cách mạng. Họ thấy Tagore cũng như Thánh Gandhi, là những ông thánh, những chí sĩ ái quốc, dám lên tiếng chống đối thực dân để đòi hỏi độc lập, tự do và bình đẳng cho người dân thuộc địa".  Người Nam Kỳ đã công khai đón tiếp nhà cách mạng Phan Bội Châu, chí sĩ Nguyễn Thượng Hiền, cổ võ các học thuyết của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, thì việc tiếp đón Tagore rầm rộ cũng không lấy gì làm lạ.
Nhưng vào năm 1929, trên đường viễn du thế giới, từ Nhựt Bản, Tagore ghé lại Sài Gòn trước khi qua Phi Châu.  Khi chiếc tàu chở Tagore cặp bến Nhà Rồng vào ngày 21 tháng 6-1929, tờ báo "Tribune Indochinoise" tổ chức cuộc biểu tình lớn để chào mừng Tagore.  Ký giả Lê Trọng Nghĩa, một nhà báo có uy tín trong vụ binh vực vụ án "Đồng Nọc Nạn" năm trước (1928), đồng thời cũng là hoạ sĩ có tài đến phỏng vấn và xin vẽ chân dung thi hào Tagore bằng than  chì trên giấy trắng khổ 50x65cm.  Bức ảnh nầy R.Tagore là một cụ già quắc thước, râu tóc bạc phơ, mặc áo đen, ngồi cầm bút, để tay lên bàn.  Bên góc bức hoạ có chữ ký của Tagore và được gia đình nữ sĩ Ái Lan, em ruột ký giả Lê Trung Nghĩa lưu giữ như một báu vật.
Sáng ngày 23 tháng 6-1929, Tagore được hướng dẫn đến thăm toà soạn báo Phụ Nữ Tân Văn và "Nhà Thương Cuộc".  Tại toà báo, gần Tổng Nha Ngân Khố trước 1975, bà Nguyễn Đức Nhuận cùng các ông Phan Khôi, Đào Trinh Nhất, Diệp Văn Kỳ đến túc trực tiếp đón Tagore, cho ông ta xem nhiều số báo viết, giới thiệu thân thế và sự nghiệp của thi hào.  Trong các báo đó, hình ảnh thi hào Tagore kém tươi trên gương mặt, cái tinh thần trong đôi mắt dường như có hào quang sáng rực của con người "tiên phong đạo cốt".  Bà Nguyễn Đức Nhuận có viết một bài nhan đề "Thi sĩ Tagore ghé viếng toà soạn báo Phụ Nữ Tân Văn" cho biết: "Trước tôi vẫn tưởng ông Ấn Độ nầy da đen như ông Gandhi và phần nhiều người xứ ấy, bây giờ mới biết là mình lầm.  Ông cao lớn, tuổi gần 70 quắc thước lắm. Nước da trắng mịn và ửng đỏ, mũi cao trán rộng.  Rõ là trán của một nhà tư tưởng.  Bàn tay của Tagore giống như bàn tay của những người đàn bà khuê các.  Tagore thuộc về một vọng tộc, sanh trưởng chốn phong lưu, hằng ngày chỉ có một việc ngâm thơ, vịnh phú, bởi thế mới có mấy cái đặc sắc ấy.  Viết tới đây tôi lại nhớ tới ông Gandhi trong một cuộc bút chiến với ông, bút chiến mà đằm thắm, có tật hô rằng:"Ông Tagore! Ông cũng phải đi dệt vải như chúng tôi".
  Dệt vải chắc là thi sĩ không được sành, nhưng dệt nên những câu cẩm tú thì khéo lắm, khéo cho đến nỗi ông là người Á Đông lần thứ nhứt được phần thưởng Nobel.  Quê hương của R.Tagore ở miền Punjab, Tây Bắc Ấn Độ, vùng hợp lưu của 5 con sông nổi tiếng.  Nơi đây cũng có một nền văn minh tối cổ của nhân loại vào khoảng 2000 năm trước Tây Lịch tại Mohenjo-daro và Harappa. Sở dĩ nơi đây có giống người Ấn cao lớn, da sáng, mũi cao vì cuộc viễn chinh của Alexandre Đại Đế, người xứ Macedơin vào đất Ấn.  Alexandre khuyến khích quân lính lấy người bản xứ, do đó, tạo ra một chủng tộc Ấn Độ có màu Ấn-Âu, để phân biệt với người Ấn bản xứ Dravidian ở miền Nam, và cao nguyên Decan mà Gandhi là  người thuộc dòng giống ấy.
Có một điều đặc biệt khi đến Sài Gòn , Tagore  mặc chiếc áo dào Việt Nam, phía trên đội mũ Ấn Độ bằng nỉ đen, không vành, mang kính, trông cũng chẳng khác xa một "ông già đạo mạo người An Nam bao nhiêu".  Giới làm báo lấy làm ngạc nhiên khi Tagore cho biết ý định đi dạo phố Sài Gòn trong bộ y phục cổ truyền Việt Nam đó.  Ông được một nhà báo hảo tâm dẫn đến một nhà may danh tiếng Sài Gòn , để đặt may áo dài Việt Nam... Hai hôm sau, trên đường phố rộn rịp của Sài Gòn, người ta thấy một ông già Ấn Độ cao lớn, quắc thước phương phi, râu tóc bạc phơ trong bộ áo dài bằng gấm bông bạc, lại thêm đội khăn đóng, giày Escarpin, đi dạo phố trước những cặp mắt tò mò của thị dân!
  Trở lại cuộc sống cô Ba Trà lúc nầy, tiền bạc vô như nước. Từ đây cô bắt đầu một cuộc sống như một bà hoàng, lên xe xuống ngựa mấy chục năm liền, làm điêu đứng phá sản không biết bao nhiêu công tử hào hoa, tay tiền rừng bạc bể xứ Nam Kỳ.  Trong phần trước, chúng ta nghe nói cô Ba Trà được cậu Tư Phước George tặng nhẫn hột xoàn trị giá vài ngàn, rồi cậu Ba Qui cạnh tranh, tặng chiếc khác gấp đôi.  Những đồ vật giá trị ấy lần lượt đi vào tiệm cầm đồ hoặc vào tay những Ấn kiều chuyên môn cho vay. Tiền vô như nước, nhưng vô cửa trước rồi ra cửa sau đúng như ông thầy bói danh tiếng Vi Kính Trang đã bói cho cô.
Hồi những năm đầu thế kỷ 20, đất Sài Gòn - Chợ Lớn có hai ông thầy tướng số nổi danh mà mãi đến sau nầy chưa có người nào có thể so sánh, ngay cả Chiêm tinh gia Huỳnh Liên.  Những năm 1960, Huỳnh Liên rất nổi tiếng, ai cũng nghe danh.  Riêng tôi, xin nói thật một điều là không dám tin những lời đồn về những điều tiên tri của Huỳnh Liên, nhưng chính một người trong đại gia đình của tôi, có đến nhờ ông Huỳnh Liên "cho phép" để bán một căn nhà ở Phú Nhuận với giá cao như ông đã hứa.  Đợi cả tháng, nhà vẫn không bán được, mà cũng không ai đến coi, nên người đóng tiền trước cho Huỳnh Liên tìm tới văn phòng ông đòi tiền lại.  Lúc đó văn phòng đang đông khách. Sau một hồi nói qua nói lại, mà vẫn không lấy tiền lại được, người quen của tôi bực tức, nói:
- Nè, tôi nói cho ông biết. Ông làm được thì nói, không làm được thì thôi, đừng lừa bịp chúng tôi.  Tôi thách ông có bùa phép gì làm cho tôi chết. Nếu ông làm (ếm) mà tôi không chết, tôi đến đốt nhà ông !
Lần đó khách đang ngồi đời, sững sờ đến ngạc nhiên!
Ông thầy Tư Nên, tôi có nói đến trong bài "Các cuộc đời ngoại hạng Nam Kỳ thuở trước" nên không nhắc lại.  Tuy nhiên có một chi tiết mới, chúng tôi được một người bạn vong niên là ông Nguyễn Văn Mạnh kể laị.  Lúc đó vào năm 1915, thầy Tư Nên đang mở văn phòng coi bói tại thành phố Mỹ Tho.  Hoàng tử Bửu Đảo, theo lời cụ Nguyễn Văn Vực có lúc làm thơ ký cho nhà Bưu Điện Sài Gòn, nên những ngày nghỉ, thường theo bạn bè xuống trường gà Rạch Gầm của ông chủ.  Trước để đá gà, hay đi coi Ca ra bộ (tiền thân của Cải Lương) ở các khách sạn Mỹ Tho.  Nơi đây hồi đầu thế kỷ là nơi phồn hoa đô hội, vì hành khách lên xuống lục tỉnh, phải đi xe lửa tới Mỹ Tho, ngủ đêm, rồi sáng hôm sau xuống tàu lục tỉnh về miền Tây.  Chuyến lên Sài Gòn, các ông điền chủ cũng ngủ ở Mỹ Tho một đêm trước khi đáp xe lửa đi Sài Gòn .  Đường lộ trải đá dành cho xe hơi lưu thông về miền Tây chưa thành hình.  Nhiều khúc lộ còn mới đắp dang dở.  Có một lần Bửu Đảo xuống Mỹ Tho, được bạn bè dẫn tới thầy Tư Nên coi bói. Lúc đó, Hoàng tử Bửu Đảo tay cầm cây can, chỉ chỏ xuống đất như kéo một gạch ngang.  Thầy Tư Nên sụp lạy và nói:
- Tâu Ngài:"Cây can vẽ một vạch ngang trên mặt đất thành ra chữ Vương.  Ngài có chân mạng đế vương.
Nghe xong Bửu Đảo phì cười, tưởng rằng thầy Tư Nên nói chơi, vì trước khi vào đây, không ai giới thiệu Bửu Đảo là một Hoàng tử cả.
Chỉ mấy tháng sau, khi vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại ở Huế và bị lưu đày (1916), Toàn Quyền Paul Pert đưa Bửu Đảo lên ngôi vua, lấy hiệu là Khải Định.  Nghe đâu sau khi tức vị, Khải Định có nhớ tới ông thầy bói Tư Nên, bèn gởi thư khen ngợi.
Thầy tướng và thầy bói Vị Kính Trang nổi tiếng sớm hơn thầy Tư Nên.  Thời đó muốn đến xem bó với thầy Vi Kính Trang phải trả 5 cắc (phân nửa của một đồng, giá bằng một giạ lúa), nhưng kiếm được thầy đã khó, mà chờ đợi thầy cũng rất lâu mới tới lượt mình.  Ban đầu Vi Kính Trang ở trên gác trong đường nhỏ Rue d'Artisan, phía đường Cháo Muối, tức đường Thủy Binh, sau là đường Đồng Khánh.  Sau đó Vi Kính Trang dời đến một căn phố lầu phía dưới là tiệm bán mì, hủ tiếu ở đường Jaccréo, nay là Tản Đà, gần Arc-En-Ciel.  Vi Kính Trang là một thầy tướng, thầy bói danh bất hư truyền.  Mới gặp cô Ba Trà, nhìn sơ qua tướng mạo, ông nói trúng phong phóc mọi việc xảy ra trong quá khứ như người trong nhà kể vậy. Có những chuyện người trong nhà không biết mà ông Vi Kính Trang biết rõ, không sai một nét.  Khi cô Ba Trà hỏi chuyện hậu vận, Vi Kính Trang nhìn cô một lần nữa, rồi nghiêm trang nói:
- Số cô giàu sang tột bực.  Tiền vô như nước, nhưng ra cũng như nước chảy.  Cô không có số cầm tiền.  Dẫu cô có muốn xây dựng gia đình với ai, để hưởng giàu sang sung sướng cũng không được... Xin lỗi cô, cô có số của "Đạm Tiên":
"Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng...
Nghe Vi Kính Trang nói, cô Ba Trà vừa vui thích, nhưng cũng có vẻ lo lắng. Cô móc bóp đền ơn ông 5 đồng, nhưng ông từ chối chỉ lấy 5 cắc mà thôi! Sau đó, cô lên xe bảo tài xế chở về nhà "Nguyệt Tiên Cung", thay vì đi lại sòng bạc thầy Bảy Phương  như đã dự định (lời cô kể lại).
Nếu có ai hỏi quý vị độc giả rằng một người đàn bà đẹp như huê khôi, tiền rừng bạc biển ăn xài không tiếc, sống trên nhung lụa, lên xe xuống ngựa trong mấy chục năm liền... Mỗi khi ra đường có kẻ hầu người hạ, bồi bếp riêng, tài xế riêng, các công tử, các quan lại cao cấp, khác thượng lưu xã hội... đua nhau săn đón, chiều chuộng, thì độc giả gọi người đàn bà ấy là ...gì ?
Tôi không dám lạm dụng chữ nghĩa, không dám gọi đó là một bà hoàng, bà chúa như kiểu "Bà chúa đĩ Bắc hà, cô Tư Hồng" mà chúng tôi có viết laị trong bài "Vua Khải Định", mà sự thật cuộc sống của cô Ba Trà còn sang hơn cả một bà hoàng, bá tước của hàng quý tộc bên Âu Châu.  Trong lịch sử ăn chơi Đông Tây kim cổ nước ta, chưa có người nào có thể so sánh với cuộc đời cô Ba Trà .  Chính cô đã làm điêu đứng biết bao công tử hào hoa, các đại điền chủ, thanh niên cũng có, sồn sồn cũng có, nhỏ hơn cô hàng chục tuổi cũng có.... hễ ai gặp cô cũng mê như một sức quyến rũ kỳ lạ, hay bị thôi miên.. Nhiều ông đại điền chủ lên Sài Gòn bán mấy ghe chài lúa, ăn chơi huy hoắc với cô Ba Trà chỉ hơn một tháng mà lúc trở về chỉ còn tay không.
Trong khi sở phí Đông Pháp lữ quán càng cao, nợ nần càng nhiều, cô Ba Trà muốn giải nghệ thì chính là lúc các công tử Ba Qui, cậu Tư Phước George mê cô và một nhà triệu phú trẻ tuổi khác làm "trung gian thương mãi" (tiếng Tàu gọi là mái chính), lai hai dòng máu, họ Lương, nên dân ăn chơi gọi "Lương mái chính", gặp cô, mê cô, bỏ tiền ra để cô trả nợ, rồi thuê riêng một căn phố lầu sang trọng định xây tổ uyên ương, ăn đời ở kiếp với cô.  Ngôi nhà lầu nầy cất theo kiểu phố hai từng, mặt tiền rộng 6m, sơn màu xanh (kiểu thanh lâu) ở đường Richaud (nay là Phan Đình Phùng) nguyên của ông trưởng toà Tư ở Vĩnh Long làm chủ.  Căn phố lầu này cho mướn giá 160 đồng một tháng tương đương 4 lượng vàng, đủ biết sự sang trọng của nó ra sao.  Những người tiền rừng bạc bể mới dám tới đó ăn chơi với huê khôi "Ba Trà".  Do Lương mái chính bỏ tiền trang hoàng lộng lẫy, đồ đạc mắc tiền, trướng rũ màn che, ghế nệm, trường kỷ, nhà để xe (garage), phòng cho bồi bếp, vệ sĩ, gia nhơn... Chỗ ở mới của người đẹp sang trong đến nỗi giới ăn chơi đặt tên "Nguyệt Tiên Cung" mà thực chất là "cái tổ quỷ" của bọn đàn ông giàu tiền.
Tuy gọi phố lầu cho gọn, thật ra đó là một loại biệt thự liên lập hai từng.  Mỗi từng gồm nhiều phòng riêng biệt. Mỗi phòng đều trang bị salon cẩm lai, salon gõ cẩn ốc xa cừ lóng lánh, ngồi lên mát lạnh.  Đặc điểm của chỗ ở nầy là mỗi phòng đều treo một thứ màn mắc tiền bằng voan mỏng, màu sắc khác nhau: Trắng, xanh, hồng có viền ren tím.  Trên lầu, các phòng đều treo màn màu hồng, màu đỏ, phản chiếu dưới ánh sáng bóng đèn ngủ trắng đục, làm cho không khí thêm gợi tình, huyền ảo.  Khách vào đây có cảm giác như lạc vào chốn đào nguyên mà thật sự chỗ nầy là "chốn lầu xanh de luxe".  Các ông hội đồng, thầy cai, các ông điền chủ mỗi lần vào Nguyệt Tiên Cung một đêm, sáng ra thấy mất một ghe chài lúa như chơi.  Cũng vì tiếng đồn Nguyệt Tiên Cung là chỗ ăn chơi phong lưu, thanh lịch, nhiều ông nhà giàu trọng tuổi, còn hảo ngọt, từ Hậu Giang lên, tò mò tới chơi một lần cho biết.  Theo cụ Vương Hồng Sển, "thật sự ít ai có dịp ăn ngủ với cô Ba Trà".  Hồi đó cái "tổ quỷ" Nguyệt Tiên Cung chính là nơi hành lạc kiểu "nhứt dạ đế vương" đầu tiên ở Sài Gòn .  Ngoài cô Ba Trà, Nguyệt Tiên Cung còn có các cô "á hậu" khác như cô Quế Anh, cô Tư Nhị.
Quế Anh là một cô gái đẹp, có đầu óc lãng mạn, học trường "áo tím", từng đóng vai nữ trong tuồng "Tối độc phụ nhơn tâm", làm cho khán giả rơi lụy nhiều đêm.  Sau đó, Quế Anh từ giã học đường, bước vào con đường giang hồ.  Nay cặp với công tử này, mai ông điền chủ kia, miễn ai có tiền và dám ăn xài.
Cô Tư Nhị , một người "đầu gà, đít vịt" (cha Tiều, mẹ Miên) quê ở Sa Đéc, lên Nam Vang lập nghiệp. Cô có thân hình rắn chắc, nói theo kiểu bây giờ, cô có "thân hình nẩy lửa", hấp dẫn.
 Không có điều lệ thành văn, nhưng lâu ngày thành thói quen nhứt định, khách hào hoa muốn vô Nguyệt Tiên Cung phải nạp 1000 đồng lệ phí, gọi là "đi lễ".  Số tiền ấy phải gồm 10 tờ giấy xăng bộ lư (giấy 100 đồng có in hình bộ lư), đựng trong bao thơ, đặt trên một cái mâm do một cô xẩm bưng lên lầu để "xin ra mắt cô Ba".  Những ai nạp tiền lẻ (giấy 20đ, giấy 50đ..) đều bị coi là keo kiệt, có khi cô Ba không tiếp làm cho mất mặt.
Bước vô nhà, khách được thỉnh vào phòng khách thứ nhứt rất sang trọng.  Ở đây khách được mời ngồi vào salon chờ đợi.  Một cô trịnh trọng bưng lại một ly rượu Champagne đặt trên một cái mâm.  Khách được mời "nhắm chút rượu khai vị".
Độ 10 phút sau, khi khách vừa nhấm chút rượu cho ấm bụng, lại được mời qua một phòng khác.  Trước khi qua phòng nầy có một anh Chà Và (Java) đen, mặc đồng phục trắng, kiểu bồi khách sạn ngày nay gác cửa, lễ phép chào khách rồi nhường khách bước qua phòng nầy.  Giống như khuê phòng các tiểu thơ, phòng nầy sực nức mùi nước hoa, trên bàn có một bình hoa thơm.  Khách vừa ngồi trên salon, liền có một cô xẩm khá đẹp, trong bộ xường xám Thượng Hải bó sát lấy thân hình cân đối, người cao ráo, chân thon, dài xuất hiện, mỉm cười.  Khách cảm thấy mê mẩn tâm thần vì cảnh sắc cứ thay đổi luôn khó biết trước .  Cô xẩm lễ phiép bưng lên một mâm đặt trước mặt khách, trên đó có chén trà sâm để khách giải khát, tăng cường sinh lực.  Kế bên là một dĩa bàn, trên có đựng sẵn một khăn mặt còn nóng, tẩm dầu thơm để khách lau mặt cho sảng khoái, và tận hưởng cái hương vị ngây ngất, quyến rũ cao sang dành cho giới thượng lưu.  Khách còn đang mơ màng, chợt một cô gái khác xuất hiện, cúi đầu kính mời khách lên lầu.  Một thiếu nữ kiều diễm sẵn sàng, y phục bằng lụa mỏng, khêu gợi, đón khách an toạ.  Rồi họ dọn ra một mâm đặc sản thuộc loại sơn hào hải vị: một chén yến hột gà chưng với sâm, đường phèn, một con bồ câu ra ràng chưng với yến để khách tăng cường sức khoẻ.  Bồ câu ra ràng là loại bồ câu mới nở, mềm, bổ để cho những vị khách răng rụng xếu xáo không nhai thịt được .  Ăn xong, khách được mời qua một phòng tắm sang trọng với nước nóng pha dầu thơm. Trong khi đó, một cô xẩm mặc áo quần bó sát hướng dẫn khách tắm (vì nhiều người ở nhà quê, không biết cách sử dụng vòi nước, bồn tắm và sau đó, khách được mời thay một bộ đồ ngủ (pyjama) bằng lụa Lèo cho thoải mái.  Nếu may mắn, sau màn ấy, khách được ôm ấp người đẹp Ba Trà trong một phòng ngủ khác sang trọng như nữ hoàng.
Tuy nhiên, phần lớn các công tử, giới ăn chơi vào tới đây, chỉ được cô Tư Nhị, cô Quế Anh...tiếp mà thôi, cô Ba Trà ít khi tiếp họ.  Nhiều người không được gần cô Ba, nhưng sau khi về cũng khoe rằng "đã ngủ với huê khôi Ba Trà", để tỏ ra mình là khách ăn chơi sành điệu.  Có người không được gần cô Ba Trà, khi về gieo tiếng oán, chớ cô Ba lúc ấy đang lên như diều gặp gió, các công tử phong lưu như cậu Tư Phước George , cậu Ba Qui, cậu Bích mới là người tình của cô.
Thời kỳ ở Nguyệt Tiên Cung, nhan sắc cô Ba thêm lộng lẫy.  Mỗi ngày cô mặc một bộ đồ khác nhau, ngây thơ như nữ sinh trong trắng, con nhà lành.  Có lúc cô "lăng xê" mốt mặc quần và áo dài cùng một loại hàng mỏng, thứ đắt tiền, cùng màu.  Trên cổ cô còn choàng một khăn voan lụa, ngồi xe du lịch mui trần, mà hồi đó chưa có ai xinh đẹp vừa sang trọng qúi phái như cô Ba.
Vướng vào con đường cờ bạc, cô Ba thường lui tới các sòng bài ăn thua lớn như các sòng bài của thầy Sáu Ngọ ở Chợ Lón, thầy Sáu Nhiều, sòng thầy Bảy Phương ở đường Caribelli, đó là khách sạch Đỗ Văn Bình Hôtel Confortable.  Chỗ nầy cũng thu hút nhiều tài tử, khách văn chương, nhà văn, nhà báo vì thường có tổ chức "đờn ca ra bộ", tiền thân của ca kịch Cải Lương miền Nam.  Thập niên 1910-1920... khách sang từ lục tỉnh về chơi, thường đi tàu ghé Mỹ Tho ngủ một đêm.. Hôm sau họ lên xe lửa đi Sài Gòn .  Chuyến về họ cũng ghé trạm chuyển tiếp Mỹ Tho nên chợ Mỹ Tho là chốn phồn hoa đô hội, chỉ thua Sài Gòn mà thôi.
NgườiTây phương thường quan niệm học vấn góp phần hình thành nhơn cách con người.  Nhơn cách gồm hai phần: lương tri và lương năng.  Không học mà biết gọi là lương năng.  Có học mới biết gọi là lương tri.  Cô Ba là người đẹp nhưng thiếu học, cho nên bên ngoài cô có vẻ là một người quý phái, nhưng cô ăn nói vụng về, có khi cộc lốc, vô duyên, nhưng vì mọi người đều mê say sắc đẹp củ cô, nên đối với những câu đối đáp thiếu văn hoa ấy , họ cho là chân thành.  Thậm chí có nhiều lúc cô ăn nói sẳng lè như ra lịnh, nhưng khách đa tình vẫn mê cô như điếu đổ.  Chính cô cũng thú nhận điều đó.  Nhiều người đối với cô ơn nghĩa tràn đầy, nhưng cô đối với họ bằng sự "đoản hậu".  Mối tình chênh lệch giữa cô và bác sĩ Án là một thí dụ điển hình.  Trước tình yêu, lòng khoan dung độ lượng của một lương y, săn sóc, chu cấp tiền bạc "thi ân bất cầu báo" với thái độ của người quân tử, nhưng cô đáp lại bằng thái độ của người vong ơn bội nghĩa.  Đàn ông có nhơn tình, ai cũng ghen, cũng ích kỷ, nhưng mỗi người phản ứng một cách khác nhau tùy bản lãnh và nhân cách của người ấy.  Bác sĩ Án là một người cao thượng, "ăn không được thì buông" chớ không phải "ăn không được thì khuấy cho hôi" như bao nhiêu người tầm thường khác.
Để độc giả có một cái nhìn liên tục về cuộc đơì của "huê khôi Nam Kỳ, cô Ba Trà" nầy, chúng tôi xin nhắc lại những biến cố chánh.  Trong cuộc du hí Vũng Tàu, đầy thất vọng và buồn thảm trở về, bác sĩ Án nhất định trả tự do cho người đẹp.  Trước một người đẹp như hoa nở, như trăng mới lên. ông lương y cảm thấy mình có tuổi, không tương xứng, nên không còn theo đuổi cô Ba nữa.  Xung quanh cô, hiện thời có biết bao nhiêu công tử hào hoa theo đuổi, chỉ mong cô ban cho chút tình lẻ.  Dù giàu có, lương ông bác sĩ nọ với các công tử nào có thấm gì.  Hơn nữa cô Ba đâu có chịu an phận làm vợ lẽ của một người chồng luống tuổi.  Nhưng trong khi yêu, ông bác sĩ không nhận ra điều đó.  Trong tình yêu, người ta ích kỷ, nhưng ông bác sĩ nầy cao thượng. Con chim quý đã xổ lồng, đi tìm phương trời xa lạ, mong gì trở lại.  Trong lúc tới lui các sòng bài ăn thua lớn, nhiều người tiền rừng bạc bể gặp cô, muốn tung tiền mua chuộc làm của riêng.  Một ông hội đồng ở Rạch Gaí, muốn "lập phòng nhì với cô", một hôm đem tặng cho Dì Tư Ăng-Lê một số tiền và mượn bà nầy làm mối.  Vốn là người đàn bà từng trải, Dì Tư nhận tiền, nhưng nói khéo:
- Chà, việc nầy khó quá.  Ông nói thẳng với "Ba", chớ tôi đâu dám!
Nhưng sau khi ông hội đồng cạn túi, cô Ba cũng giã từ không lưu luyến.  Còn ông hội đồng cũng học được một bài học kinh nghiệm nhớ đời. 
Cô Ba Trà lập Nguyệt Tiên Cung là nhờ người mái chính họ Lương.  Cũng như nhiều khách đa tình, hiếu sắc khác, Lương mái chính cũng có ý định chọn cô Ba Trà làm vợ, ăn ở lâu dài, nên mới bỏ ra một số tiền lớn mướn phố, để xây tổ uyên ương với người đẹp.  Rốt cuộc:
"Uổng công xúc tép nuôi cò,
Nuôi cho cò lớn, cò dò cò bay."
Cái tổ uyên ưong ấy chính là "cái tổ quỷ" của bọn công tử, nhà giàu, chớ phải nào là của riêng Lương mái chính!
Chỉ một thời gian tấp nập khách phong lưu, Nguyệt Tiên Cung bắt đầu vắng khách vì ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế đến Nam Kỳ mạnh mẽ nhứt vào năm 1932. Nhiều đại điền chủ phá sảnh, một số điền chủ hạng trung cũng vỡ nợ vì ruộng đất cầm cố không đủ tiền chuộc, bị tịch thu.  Nông dân sống nhờ hột lúa, công chức với đồng lương cố định, thiệt thòi nhứt:
"Lúc lúa hai hào (2 cắc), dân mếu máo
"Quan ăn năm chục, vợ rầy la."
Như vậy giá lúa từ 1 đồng 2 (năm 1928) sụt xuống 6 lần.  Chỉ những người buôn bán còn giữ được phong độ, nhưng mãi lực dân chúng cũng kém đi.  Tờ "Lục Tỉnh Tân Văn" số ra ngày 23-12-1931 viết:
"Những người có nghề nghiệp trong tay còn xoay quanh trong vòng no ấm. Còn những người chỉ biết có nghề cạo giấy (thơ ký, thầy thông ngôn...) mới kiếm tiền làm sao? Đi bán hàng rong cũng lỡ mà đi khuân vác cũng rầy.  Ấy là hạng trí thức thất nghiệp.  Còn những học sinh có bằng Thành Chung, cũng đành bó gối, công sở không mướn và tư sở cũng không dùng."
Một thức giả khác, ông Cao Sơn, làm một bài thơ tả cảnh Sài Gòn trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đăng trên báo "Đồng Nai" ngày 1 tháng 3 năm 1932:
"Trải mấy tang thương luống ngậm ngùi,
Sài Thành phong cảnh có chi vui?
Phố phường ngang dọc, ai buôn bán?
Đường sá dập dìu khách tới lui.
Vinh mặt, múa men phường mọt nước,
Chau mày ngất ngưởng bạn thương đời.
Lần xem Việt sử thêm ngao ngán,
Bảy chục năm qua lắm đổi dời."
Chỉ trừ một số ít công tử còn phong độ, hầu hết các nhà giàu đều bị ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế nầy.  Thời gian nầy cậu Tư Phước George đã lập gánh hát Huỳnh Kỳ để làm người tình của các cô đào kiều diễm, lưu diễn khắp miền lục tỉnh.  Còn cậu Ba Qui, sau một thời gian theo cô Ba Trà, bây giờ cũng đã chán, tìm các cô gái nửa chợ nửa quê nhưng có thân hình rắn chắc để bắt bồ.
 
MARIANE LÊ THị NHị
Cô Tư Nhị là gái làng chơi hạng sang, nổi tiếng một thời với cô Ba Trà.  Chính cô Ba Trà thuật lại cuộc gặp gỡ lần đầu tiên với Tư Nhị trong hồi ký.  Lần đó, cô đến coi hát tại rạp hát của ông hội đồng kiêm bầu gánh Lương Khắc Ninh, chỗ đó sau nầy là rạp Kim Châu, được gặp Tư Nhị một dịp hết sức tình cờ.  Cô kể lại:
"Một hôm, tôi buồn quá, thả cu ky lại rạp chớp bóng Cầu Muối, gọi rạp ông Bầu Ninh". Lúc nầy, cô đang cặp với một kép mới là công tử Bích người Trà Vinh đang nằm khám vì tội không tiền trả nợ, "tôi bơ vơ phải về với anh chồng Tây Franchini.  Phim đang diễn, bỗng tôi nghe từ đàng sau có tiếng thanh tao mời mọc:
- Mời cô Ba hút với em một điếu thuốc!
Tôi đáp nhỏ:
- Cám ơn cô, tôi không biết hút thuốc!
Bỗng cô kia nói tiếp và rất rõ:
- Thôi mà cô Ba.  Hút cho em một điếu để làm quen mà! Tại cô chưa biết em, chớ em đã biết cô từ lâu.  Má em thường nhắc đến tên cô hoài và thường dạy em:"Thà làm đĩ, ra chơi bời như cô  mới đáng gọi là gái ngoan."
Trời đất ôi, thật là một câu sét đánh ngang tai.  Nếu tôi biết trước sự việc như vậy thà ở nhà còn hơn.  Đi coi hát làm chi để nghe chưởi một tiếng nóng phừng da mặt.  Cả mấy người ngồi gần tôi đều day mặt lại dòm tôi, làm tôi càng thêm mắc cở.  Phim đang chiếu, nhưng tôi bực quá, xô ghế đứng dậy ra về.  Ra tới xe, chưa kịp leo lên, thì cô gái mời hút thuốc lá cũng vừa theo ra.  Không ai mời, cô nhảy phóc lên xe, ngồi và nói tỉnh bơ:
- Nhà cô Ba ở đâu? Cho em về theo với!
Nhìn kỹ cô gái, tôi đổi giận làm vui.  Đây là một cô gái mơn mởn đào tơ, tròn trịa như con chim chàng nghịt, óc cau đầu mùa lúa trổ, ngực tròn căng như muốn xé hàng sọc dưa rằn ri tung ra.  Trán cô thấp, có mớ tóc xoăn quăn che lúp xúp, ngỗ nghịch nhiều hơn phục tùng.  Cặp mắt cô mơ mộng, tình tứ, nửa mời mọc, nửa khiêu khích, đúng là "một con đĩ mén mặt dày" ăn nói như hồi nãy, nhưng mặn mòi, duyên dáng một cách rừng rú, khiến tôi không giận được với "con ba trợn" nầy." Sau rõ lại cô Tư Nhị từ Nam Vang xuống, cha người Tiều, mẹ người Miên nhưng từng ở Sa Đéc (có tài liệu nói rằng cô Tư Nhị cha Miên, mẹ Việt).  Từ ngày cô Tư Nhị về ở chung, nhà tôi càng rậm rật khách phong lưu.  Trai lối xóm đón đường chọc ghẹo Tư Nhị hàng đêm.  Sở dĩ Tư Nhị có tên Tây Mariane Lê Thị Nhị cũng có giai thoại, cô Ba Trà kể tiếp:
"Một hôm tôi và Nhị với Franchini đi coi chớp bóng thấy trên màn ảnh có một nữ minh tinh duyên dáng, có nhiều nét giống Tư Nhị, nên Franchini, vốn có cảm tình với Nhị, lấy tên cô ấy là Mariane mà đặt cho Nhị: Mariane Lê Thị Nhị, còn tôi Yvette Trà.  Sẵn tôi thứ ba, thắng gọi Nhị là Tư như một người em tôi.  Franchini vốn có máu mê đàn bà nên lúc cô Nhị ở chung, hắn cũng trổ mòi "dê".  Tuy nhiên Franchini có lúc bực mình với Tư Nhị vì tập làm gái hạng sang, nhưng Tư Nhị vẫn còn nhiều thói nhà quê, cục mịch.
Lúc về Nguyệt Tiên Cung, Ba Trà cũng đưa Tư Nhị về ở chung.  Về sau, cô Ba Trà đóng vai một tú bà hạng sang.  Số là có một công tử Gò Đen tới Nguyệt Tiên Cung chơi, "cảm" Tư Nhị, đề nghị đưa Trà 10,000 đồng rồi dẫn Nhị đi lập tổ uyên ương.  Công tử nầy mua cho Tư Nhị một căn phố trệt, có đầy đủ bàn ghế, nằm ở góc đường Verdun và Richaud, tức góc đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trước năm 1975.
Tuy vậy, Tư Nhị đâu muốn làm người vợ hiền và an phận với cuộc sống.  Như ngựa quen đường cũ, chỉ được ít tháng, Tư Nhị chán công tử ấy, cặp bồ với người khác. Tư Nhị cũng là một ngôi sao sang trọng trong giới ăn chơi hồi đó, chỉ thua Ba Trà.  Xuất thân làm đào hát, nhờ có thân hình quyến rũ, có sắc đẹp, nhưng giọng ca khàn khàn không hay, Tư Nhị chỉ thích làm tình nhơn của những ai giàu có, dám chi tiền không tiếc.  Ban đầu Tư Nhị đầu quân dưới trướng cô Ba Pho, tức Joséphine Lệ Ngọc trước khi qua làm đàn em của cô Ba Trà.  Tưởng cũng nên nói qua về lý lịch cô Ba Pho.
Đương thời, cô là người đẹp thuộc vào hạng đối tượng của các công tử phong lưu.  Cũng như các người đẹp nổi tiếng đương thời khác, đi đâu cô Ba Pho cũng có một vệ sĩ đi kèm.  Trong các người đẹp ăn chơi lúc đó, cô Ba Pho là người khôn ngoan, biết giữ gìn nhan sắc và tiền của, giống như trường hợp "bà chúa đĩ Bắc Hà" tức cô Tư Hồng.  Tôi nghe kể lại một giai thoại về cô Joséphine Lệ Ngọc nầy, nhưng không quả quyết đúng hay sai:
Hồi năm 1956, tôi có đến chơi và ăn ở trên lầu nhà xuất nhập cảng xe đạp "Trần Chi" , đại lộ Tổng Đốc Phương Chợ Lớn.  Người chủ nhà, tức ông Trần Chi cho biết:"Cô Ba Pho tức Joséphine Lệ Ngọc, một trong  những người đẹp ăn chơi nổi danh của đất Sài Gòn hồi thập niên 1840, cô có biệt danh là "cô Tư Dái", không rõ nguồn gốc của hai chữ nầy ra sao.  Cuối thập niên 1950, gia đình cô mua lại rạp chớp bóng cũng gần hãng xuất nhập cảng xe đạp "Trần Chí", sửa chữa lại lấy tên mới "rạp chiếu bóng Victory Lệ Ngọc", nằm trên đại lộ Tổng Đốc Phưong, dân chúng thường gọi là rạp Lệ Ngọc.
Chiều chiều, người Sài Gòn thỉnh thoảng củan thấy Tư Nhị, ngồi xe du lịch lượn quanh Sài Gòn, nay với công tử nầy, mai với thanh niên khác.  Khi thì ngồi xe Hotchkiss với công tử Gò Đen, khi thì đi tắm suối Xuân Trường với công tử Như Bích, con một đại điền chủ ở Bạc Liêu. Cuộc đời của Tư Nhị là một chuỗi những ngày ăn chơi trác táng, những cuộc truy hoan thâu đêm, không biết giữ gìn sức khoẻ và cũng không biết ngày mai.  Bắt chước "mốt" ăn chơi của các tài tử điện ảnh bấy giờ, Tư Nhị cũng ngậm ống điếu thật dài, để tạo ra một phong cách thanh lịch và quý phái.  Nhiều đêm cô ngả bên bàn đèn, mơ màng tận hưởng sự khoái lạc của "nàng Phù Dung".  Nhiều ông huyện trẻ, cũng đến nạp tiền cho cô, để được gần người đẹp cho biết mùi đời.  Nhờ hoàn cảnh sống chung với cô Ba Trà mà Tư Nhị được nhiều công tử tiền rừng bạc biển chú ý, và cuộc đời của cô bay bổng như diều gặp gió.
Cũng giống như cô Ba Trà, Tư Nhị không biết lo xa.  Cô ỷ mình sức khoẻ, cứ phung phí bằng cách hút thuốc phiện, thuốc lá thả giàn, ăn chơi suốt đêm, cho nên cuộc đời thâu ngắn.  Càng luống tuổi, cô càng khốn đốn vì con ma thuốc phiện hành hạ.  Cuộc đời cô xuống dốc quá nhanh.
Độc giả có thể đoán trước cuộc đời cô Tư Nhị về cuối đời ra sao không ? Cụ Vương Hồng Sển thuật lại:
"Gần đây, vào tháng bảy năm 1982, tôi có gặp lại bạn cũ là anh Ba Quan, một tay chơi lịch duyệt trong giới cầm ca.  Anh Ba Quan kể lại sau năm 1945 hay 46 gì đó, tiền hết, còn tiền giấy 500 của chính phủ mất hết giá xài, trong mình anh còn độ 100 bạc, vừa đói, vừa khát, anh lết trở về Sài Gòn .  Một buổi sáng, anh làm gan, ra đường phố vắng hoe, không một bóng người .  Anh thả lần tới Chợ Cũ, đường George Guyemer (nay là Võ Di Nguy) ăn điểm tâm xong, bước ra cửa, đưa tờ giấy xăng, chưa kịp lấy lại tiền lẻ, bỗng nghe có tiếng người gọi:
- Anh Ba!
Giựt mình quay lại, không thấy ai cả, trừ năm ba người hành khất dơ dáy.  Quan nói trong bụng:"Ai kêu mình vậy cà?". Rồi nghe một giọng nói tiếp theo:
- Anh Ba, em là Tư Nhị đây!
Quan nhìn không ra vì đứng trước mặt là một người đàn bà ăn mày, không còn hình thể con người .  Hai chưn sưng và băng bó bằng lớp vải máu mủ, ruồi bu đầy, mặt đổi sắc, môi thâm đen.  Quan không dám ngó lâu, rút tờ giấy 20 đồng, đặt nhẹ vào lòng bàn tay,  rồi đi thẳng một nước ."
Tới đây tôi cũng nhớ đến cô Cẩm Nhung, một vũ nữ tài sắc, nổi danh một thời của các vũ trường Sài Gòn hồi những năm cuối thập niên 1950, từng làm say mê biết bao công tử.  Cẩm Nhung có một sắc đẹp não nùng, cuộc sống giàu sang nhung lụa vì nhiều người đua nhau cung phụng tiền bạc.  Kể từ khi cô bi một người đàn bà đánh ghen, tạt át-xít vào mặt, nhiều người nghe báo chí đăng tin ấy, đều bùi ngùi thương cảm.  Bẵng đi vài năm, tôi có dịp đi qua bắc Mỹ Thuận, nghe một người đàn bà ăn mày có giọng ca não nùng ai oán.  Tôi bước lại gần để tặng cho người ấy một số tiền nhỏ.  Trời ơi, người đàn bà ấy có khuôn mặt một ác quỷ, mặc bộ bà ba đen cũ rách, trên ngực có đeo tấm bảng "vũ nữ Cẩm Nhung". Tôi sững sờ một lúc lâu ...
Còn cô Quế Anh, một người con gái đẹp, lãng mạn, từng ăn chơi phóng túng đất Sài Gòn hồi thập niên 1930.  Quế Anh là một người lai, cha Tiều, mẹ Việt, gia đình buôn bán khá giả.  Cô bỏ đi giang hồ vì tánh lãng mạn chớ không phải vì thiếu thốn hay nghèo.  Hồi đó cô đang theo học trường "áo tím" (Gia Long sau nầy).  Cô Quế Anh đẹp, thông minh, ăn chơi nhưng lại là người có tâm hồn.  Trong cảnh trụy lạc, cô vẫn còn chút liêm sỉ và danh dự.  Từ lúc sa ngã vào chốn ăn chơi, cũng như Tư Nhị, cô sung sức, cặp kè với bất cứ ai có tiền.  Người ta biết tới tên cô khi cô đóng vai Lý Ngọc Thơ trong vở tuồng "Tối độc phụ nhơn tâm", diễn liền tiếp ba xuất hát làm nghĩa vào năm 1923.  Lý Ngọc Thơ đã làm khán giả mê mẩn tâm thần.  Kể từ đó, cô Quế Anh ăn chơi theo sở thích.  Cũng bài bạc, thuốc phiện là những cái mốt thời thượng lúc bấy giờ.  Nhiều ông kỹ sư, bác sĩ từ bên Tây về, gặp cô mê ngay và làm người tình trong giai đoạn.  Cô thay đổi nhơn tình như thay áo, cũng lên xe xuống ngựa một thời.  Tiếc thay số mệnh cô ngắn, có phải vì "tài mạng tương đố" chăng?
Về sau, khi nhan sắc vào thu, tuổi khoảng 40, ong bướm chán chường, cô trở nên một người thất chí, sống trong cảnh nghèo lại mang bịnh ghiền.  Cụ Vương Hồng Sể tâm sự rằng cụ cũng mê cô một thời.  Lúc nhan sắc tàn phai, gặp lại cụ, cô nói:"Tuy thương anh, nhưng không thể sống với anh được vì em không xứng đáng." Sau đó, cô Quế Anh có tặng cụ một bài thơ bày tỏ tâm sự:
"Một bóng đèn khuya khắc lụn vơi,
Tàn canh, say tỉnh, giận thay đời.
Bụi hồng lắm lúc, còn mưa nắng,
Má phấn nhiều phen chịu lấp vùi.
Cầm sắt những ngờ xui lá thắm,
Tang thương âu hẳn phận bèo trôi.
Nào người chung đội trong trời đất,
Gang tấc nầy xin nhắn một lời."
User avatar
mvt5
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $47,119
Posts: 358
Joined: 05 Oct 2005
Location: Tổ Rồng Bự
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng mvt5 từ: msn

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby mvt5 » 05 Aug 2009

CHUỘC NGẢI XIÊM
Nam Kỳ là đất cũ của người Miên.  Người Miên và Xiêm cùng chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ, cùng theo Phật giáo Tiểu Thừa hay Nam Tông.  Trong khi từ miền Trung trở ra Bắc nước ta chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, theo Phật giáo Đại Thừa hay Bắc Tông.  Thừa là cổ xe.  Tiểu Thừa là cổ xe nhỏ, ví dụ như chiếc xe đạp, chỉ chở được một người . Đại Thừa  là cổ xe lớn, chở được nhiều người , ví dụ như xe du lịch, xe buýt.  Phật giáo Tiểu Thừa theo triết lý "như đi chiếc xe nhỏ, ta tu một mình theo đường lối khổ hạnh.  Khi nào bản thân được siêu thoát đắc đạo, trở lại cứu vớt chúng sinh".  Trái lại, tu theo Đại Thừa, tức đi xe lớn, vừa đi đường vừa chở kẻ khác quá giang.  Tu theo Đại Thừa là vừa tu hành vừa cứu giúp những người nghèo khổ.  Những người tu theo Đại Thừa thường ở chùa có của cải để bố thí, mặc áo nâu sòng, vừa tu vừa làm việc từ thiện giúp đời.  Phật giáo Đại Thừa truyền từ Ấn Độ qua phương Bắc tới Miến Điện, Trung Hoa, Nhựt Bản vào Việt Nam ...nên ta gọi là Bắc Tông.  Phật giáo Tiểu Thừa truyền bá theo phía Nam qua Tích Lan, Thái Lan, Cao Miên, Lào rồi vào Việt Nam nên gợi là Nam Tông.  Kinh sách Phật giáo Đại Thừa viết bằng chữ Phạn Sankrit và kinh sách Phật giáo Tiểu Thừa viết bằng tiếng Nam Phạn Pali.  Văn minh Ấn Độ có nhiều điều huyền bí, khó lý giải.
Dân chúng Nam Kỳ thường nghe nói hoặc chứng kiến những tác dụng của bùa, ngải, thư, ếm.  Giới trí thức hay người bình dân cũng đều nhìn nhận việc đó, và cho rằng bùa ngải có sức mạnh thiêng liêng, vô hình, làm hại người, bảo vệ người, hoặc có tác dụng mê hoặc kẻ khác.
Quê tôi từ lâu ở gần các sóc người Miên, mà dân làng quen gọi là người "Thổ". Chữ "Thổ", có lẽ để chỉ thổ dân, tức người địa phương, chủ nhân ông của lãnh thổ nầy .  Quê tôi cũng có một ngôi "chùa Thổ" tên Sanghamangala, nằm tại ngã ba quán An Nhơn, trên con đường liên tỉnh Vĩnh Long đi Trà Vinh.  Theo một tài liệu cũ cho biết "chùa Thổ" nầy xây dựng vào năm 1339, là một trong những ngôi chùa cổ nhứt Nam Kỳ.  Trước khi nói tới tác dụng của bùa ngải, tôi xin nhắc lại một kỷ niệm mà tôi biết rõ.
Tôi có một người bạn vào năm 1964 mới tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức.  Anh được đổi về Trà Vinh, đơn vị đóng gần phi trường.  Xung quanh đó có nhiều sóc Miên ở lâu đời.  Nơi đây người bạn tôi có giao du thân mật với một gia đình người Miên địa phương. Qua nhiều lần ăn uống, nhậu nhẹt chung, người Miên ấy có nhã ý tặng bạn tôi một miếng Cà Tha (hình vuông, mỗi cạnh chừng 1cm5 bằng vải, bên trong có đựng bùa).  Người Miên ấy dặn bạn tôi:"Anh cứ đeo miếng Cà Tha nầy.  Nó sẽ là bùa hộ mạng cho anh trong lúc nguy hiểm".  Nể bạn, anh ấy đeo vào cổ và giữ gìn kín đáo, sợ bạn đồng ngũ chê cười.  Có một lần anh đang hành quân ở Tiểu Cần, trận đánh đẫm máu vừa kết thúc.  Tiếng súng vừa im, bạn tôi cùng người lính cận vệ bắt đầu cuộc lục soát chiến trường.  Khi  đến một bụi rậm, thình lình một loạt tiểu liên bắn ra.  Anh bạn tôi té sấp, máu ra linh láng.  Người cận vệ liền quạt cho tên Việt Cộng một tràng M16.  Hắn gục đầu đền tội.  Trong lúc khiêng người bạn tôi về vị trí cứu thương, thì bác sĩ nhận ra được một điều hết sức kỳ diệu: người bạn ấy bị bắn trúng ngực, nhưng nhờ xâu chìa khoá mà anh bỏ túi trên nên không viên đạn nào xuyên qua tim cả.  Anh bị thương nhưng khỏi bị mổ vì các vết đạn đều tạt ngang.  Lần ấy anh nằm bịnh viên gần một tháng.  Sau nầy anh tâm sự:"Không hiểu là một điều may mắn hay có một sức mạnh siêu nhiên nào cứu anh khỏi chết".  Bây giờ anh định cư bên California.  Tôi kể lại câu chuyện ấy để tùy độc giả phán xét.
Khi nói tới những người đàn bà hay dùng bùa, ngải yêu làm cho đàn ông mê hoặc, tôi chưa biết và cũng không có kinh nghiệm.  Chúng tôi chỉ thuật lại những điều nghe nói.  Trường hợp cô Ba Trà có kể lại chuyện cô đi Xiêm chuộc ngải để được đàn ông cho tiền nhiều, vì lúc bấy giờ kinh tế khó khăn, mà cô thì như hoa đã mãn khai.  Tôi cũng có nghe đồn nhiều chuyện bùa, ngải gieo tai họa cho người lành ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Châu Đốc... Họ bỏ bùa cho con gái bỏ nhà theo trai, đàn bà goá gom góp tiền bạc cuốn gói theo tiếng gọi của ái tình, theo "người có cầm ngải".. Huê khôi Ba Trà từng nói:
"Đàn bà chuộc ngải và cầm ngải, thì bọn đàn ông, con trai có tiền mới mê mình."
Sau khi Nguyệt Tiên Cung vắng khách lần thứ hai, nhơn tình ít lui tới.  Các công tử thì lặn như sao đêm 30.  Đàn ông trăm người như một.  Ai cũng muốn tìm của lạ. Lúc muốn thì muốn cho được, khi no đủ rồi thì chán chê, đi tìm của mới khác.  Thua buồn, cô Ba Trà mới nghĩ cách đi chuộc ngải để có tiền.  Theo cô biết muốn cầm ngải thì phải là ngải Xiêm mới có hiệu quả cao hơn bùa ngải Miên.  Vì vậy, cô quyết tìm cách qua Xiêm.
(Lời cô Ba Trà...) "Lúc ấy tôi thật manh giáp chẳng còn.  Anh Lương mái chính ở Chợ Lớn mà cũng chẳng ra thăm.  Nợ nần tứ tung.  Nguyệt Tiên Cung vắng khách.  Vắng hơn chùa Bà Đanh.  Chà chetty than hết tiền, không cho tôi vay nữa.  Các công tử thì lặn mất hết.  Nằm gác tay lên trán, tôi nhớ lại cứu tinh của tôi là chị Hai Tóc Đỏ, năm xưa thường khoe bùa ngải với tôi.  Nay tôi nhớ đến chị mà quyết tâm tìm chị để nhờ dẫn đi Xiêm chuộc ngải.  Hỏi thăm, tôi được biết bây giờ chị Hai Tóc Đỏ có chồng đang ở bên Xiêm, tôi quyết qua bên ấy, níu lưng chị cầu cứu.
"Nói chí tình, chị Hai Tóc Đỏ đối với tôi rất ngọt.  Trong buổi đầu ở xứ lạ, chị Hai Tóc Đỏ đã giúp tôi được gặp vị sư cho ngải của thủ đô Xiêm, lúc ấy là Bangkok.  Tôi cũng nhắc lại ở đây rằng, số tôi hên, tới đâu cũng được quới nhơn giúp đỡ, đúng như lời ông thầy bói Vi Kính Trang đã nói.  Lần đầu xuất ngoại, tôi không rành thủ tục, cứ tưởng đi Xiêm cũng như qua Miên, không cần giấy tờ gì.  Khi tôi vừa từ Sisophon vượt qua biên giới tới Xiêm, bị lính biên phòng bắt, giải giao cho Toà Lãnh Sự Pháp ở đây".
Xiêm là tên cũ của Thái Lan và đổi tên chánh thức thành Thái Lan năm 1939, dưới thời Thống Chế Pibun Songram làm Thủ Tướng.  Thủ đô Bangkok nằm bên bờ sông Chao Praya, thành lập năm 1780.  Còn triều đại trị vì nước Xiêm hay Thái Lan là Chakri cũng thành lập năm 1872 tức là trước khi vua Gia Long thống nhứt đất nước 20 năm! Các vua triều đại Chakri đều lấy đế hiệu Ram.  Vua hiện tại, Bhumibol Adulyadej là Ram đệ Cửu.
"Vừa bị giải giao tới Lãnh Sự Pháp tại Bangkok - lời cô Ba Trà - tôi được một thanh niên Việt cao lớn, đẹp trai, đang làm việc tại đây, niềm nở hết sức.  Tôi có cảm tưởng như người quen lâu ngày mới gặp lại.  Người đó là anh Đỗ Hữu Trí, con thứ của ông Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.  Ông Phương là người giàu thứ nhì ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ nầy.  Dân Sài Gòn thường truyền tụng câu:"Nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định".  Giàu hạng nhứt là ông Huyện Sĩ, ông ngoại vợ Hoàng Đế Bảo Đại; thứ nhì là Đỗ Hữu Phương; thứ ba là bá hộ Xương, tên Lý Tường Quang; thứ tư hộ trưởng Định. Đỗ Hữu Phương có nhiều người con du học bên Tây rất sớm: Đỗ Hữu Vị, phi công đầu tiên của Việt Nam .  Đỗ Hữu Chuẩn, trung tá trẻ tuổi nhứt trong quân đội Pháp.  Đỗ Hữu Trí, làm trong Lãnh Sự Quán Pháp tại Bangkok từ năm 1933.  Sau đó Trí đổi nhiệm sở, sang làm cho Lãnh Sự Quán Pháp tại Singapore.  Đỗ Hữu Phương có một người con gái gả cho Hoàng Trọng Phu, con của Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Cao Khải, người giàu có và danh giá nhứt Bắc Kỳ thời đó.  Ông Hoàng Cao Khải có công với Pháp, được Pháp và triều đình Huế phong Duyên Mậu Quận Công.  Đề nghị của Pháp cho ông làm Phó Vương Bắc Kỳ về đến triều đình Huế, bị Thượng Thư Cao Xuân Dục bác bỏ, nhưng dân chúng vẫn nịnh bợ, gọi ông là Phó Vương. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1919, Hoàng Cao Khải tổ chức ăn lễ thất tuần, được Pháp tặng Bắc Đẩu Bội Tinh, triều đình Huế gia phong Khâm Sai Kinh Lược Đại Thần.  Gia đình Hoàng Cao Khải được dân chúng truyền tụng "một nhà ba Tổng Đốc":
- Hoàng Cao Khải: Tổng Đốc Hà Đông,
- Hoàng Trọng Phu: Tổng Đốc Nam Định,
- Hoàng Mạnh Trí : Tổng Đốc Hà Đông (thế cha)
Gặp cô Ba Trà, Đỗ Hữu Trí như bị hớp hồn.  Gái đẹp gặp trai đa tình như cá gặp nước.  Vụ án nhập cảnh lậu, chỉ mấy ngày sau cô Ba Trà trở thành khách du lịch đầy đủ giấy tờ hợp pháp, nhờ sự lo lắng của Đỗ Hữu Trí.  Chính Đỗ Hữu Trí tự mình lái xe đưa cô Ba Trà du lịch, xem hoàng cung, thắng cảnh quanh châu thành Bangkok.  Cuối cùng, sau khi cô Ba Trà tìm được chị Hai Tóc Đỏ, để nhờ dẫn đi chuộc ngải, thì Đỗ Hữu Trí cũng lấy xe riêng đưa cô Ba Trà về biên giới Thái Miên để đáp xe lửa về Nam Vang.
"Như một người vừa tốt nghiệp một trường huấn luyện, tôi về Sài Gòn với niềm tin mới.  Nhiều người thân tín báo với tôi rằng Nguyệt Tiên Cung đang bị con nợ bao vây.  Trưởng toà đã được đơn các thân chủ thưa, sẵn sàng lập biên bản khi thấy mặt tôi để "giải ra toà", và tịch biên đồ đạc.  Họ định cho tôi vào khám "giam thâu", chờ chừng nào trả đủ tiền thì mới được tự do.  Nếu sự việc xảy ra như vậy, còn gì thể diện của tôi? Vì lẽ đó, khi về Sài Gòn , tôi tạm lánh mặt trong Hôtel des Nations ở đường Charner. Chỗ tôi ở chỉ có người tài xế và một đứa ở trung thành biết mà thôi... Họ có bổn phận báo cáo tin tức bên ngoài.  Tôi chỉ xuống lầu ăn cơm vào giờ khách sạn vắng thực khách thì người tài xế riêng mới lên mời tôi xuống dùng cơm.  Cơm nước xong, tôi lại rút về phòng nằm đợi thời.
"Mấy hôm sau, tôi đang ngồi dùng cơm trưa tại phòng ăn của khách sạn Hôtel des Nations, trong lúc vắng khách.  Thình lình một người lạ mặt xuất hiện, đi lại gần bàn tôi, và trao cho tôi một danh thiếp làm tôi giựt mình.  Kèm theo danh thiếp là một bao thơ có đựng tiền.  Tôi coi danh thiếp, thấy đề mấy dòng chữ "Lâm Ngọc Bích tự Lâm Kỳ. X, compredore Banque de L'Indochine, chi nhánh Cần Thơ".  Trong bao thơ có 100 tờ giấy xăng (giấy 100 đồng).  Tôi thắc mắc, không biết số tiền nầy là tiền gì, tại sao có người đem cho tôi trong khi tôi hoàn toàn xa lạ với tên người in trong danh thiếp? Hồi tưởng lại, lúc ở bên Xiêm, tôi luyện phép và van xin sự tổ phò hộ cho tôi được các công tử nhà giàu mê tôi, cho tiền tôi xài.  Bây giờ, tự nhiên có tiền vô, tôi thắc mắc có phải do tác dụng của bùa ngải, hay do công tử họ Lâm mê nhan sắc tôi? Số tiền ấy có thể gọi là tiền lễ ra mắt.  Xin quý độc giả nhớ rằng vào thời đó, lương đốc phủ sứ đặc hạng sắp về hưu có 250 đồng một tháng, mà người ta dám cho tôi một lần 10,000 đồng, quả là một số tiền to tát đến bực nào.
Có tiền, tôi đường hoàng trở về Nguyệt Tiên Cung trả nợ nần và lại sống xa hoa như trước. Khách quen mới cũ, đều biết tin, cũng trở lại.  Cách đó một tuần, tôi được một người bạn quen dẫn đi đổ hột "xí ngầu lác" taị tiệm vàng bác Năm Hy, số 108 đường Bonard.  Tôi gặp vận đen , thua liên tục.  Lúc đó cũng có thành kiến "đỏ tình thì đen bạc".  Sau một giờ, tôi thua sạch túi.  Tôi sai đứa bồi thân tín gọi điện thoại xuống "Banque de L'Indochine" ở Cần Thơ để xin 5,000 đồng.  Tôi không đích thân nói chuyện với công tử họ Lâm nầy, vậy mà 4 giờ sau, có người tài xế, trên cổ áo gắn phù hiệu "Banque de L'Indochine, Annexe de Cần Thơ", đem lên một bao thơ lớn,  lễ phép trao cho tôi.  Mở ra, tôi đếm trước mặt: 50 tờ giấy xăng còn mới tinh, thơm mùi mực in.  Sau nầy tôi mới biết rõ lý lịch công tử họ Lâm nầy.  Thân phụ cậu là một nhà triệu phú nhờ có óc kinh doanh.  Đương thời, thân phụ cậu làm chủ hãng rượu lớn nhứt Nam Kỳ tên H.C.  Cũng như hãng rượu "Distillery Français de L'Indochine", từng làm mưa làm gió khắp thị trường Đông Dương, nhưng dân "nát rượu" lại thích rượu nếp trắng của hãng H.C. ở Châu Đốc hơn.

Phần 5: HÓC MÔN, BÀ ĐIỂM VỚI 18 THÔN VƯỜN TRẦU
Hứa Hoành
Địa danh Hóc Môn, cho tới nay vẫn còn nhiều ý kiến giải nghĩa khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, người ta nói:"Hóc là chỗ xa xôi vắng vẻ (như ‘hóc bà tó’) có nhiều cây môn nước mọc". Nhà văn Lê Trung Hoa trong tiểu luận phó tiến sĩ văn chương có cách giải thích khác: "Hóc là cổ ngữ, có nghĩa là dòng nước nhỏ. Hóc đồng nghĩa với ‘hói’ để chỉ nơi đấy sâu lõm xuống thành bãi dài có nước đọng".
Theo một vị cao niên là cụ Lương Văn Nên (1857-1937) ở Hóc Môn kể lại rằng:"Cách nay trên 100 năm, Hóc Môn là một khu rừng đất cao, có nhiều cọp và thú dữ. Ban đêm chúng thường ra con rạch ở gần chợ Hóc Môn ngày nay uống nước". Lời kể ấy củng cố giả thuyết: "Hóc Môn là dòng nước nhỏ, có mọc nhiều cây môn nước". Tưởng cũng cần nói thêm về cây môn nước. Môn là loai cây thân cao như cây bạc hà, lá lớn trên ngọn, mọc theo chỗ trũng hoặc bờ sông, bờ ruộng có nước. Có hai loại môn: Môn ngọt ở chính giữa lá có chấm đỏ, có thể xào thịt ăn, hoặc làm dưa giống như dưa cải hay dưa mái dầm. Còn môn ngứa chỉ dùng lá gói đường, đậu mà thôi. Hóc Môn nằm phía Bắc Sài Gòn.
Từ Phú Nhuận có đường cái quan đi lên Bà Điểm, Hóc Môn, Trảng bàng, cho tới Tây Ninh và biên giới Cam Bốt. Con đường này do Lê Văn Duyệt trong lúc làm Tổng Trấn Gia Định thành, chỉ huy dân phu đắp. Về sau Pháp mở rộng lên Gò Dầu gọi là quốc lộ số 1. Khi người từ miền ngoài tới, Hóc Môn còn là rừng rậm. Họ phải chặt cây làm chỗ trồng trọt, rồi làm ruộng, rẫy. Dần dần nơi đây có thôn ấp. Sản phẩm được trồng nhiều nhất vùng Hóc Môn Bà Điểm là cau, trầu để ăn kèm với thuốc trồng rất nhiều ở Gò Vấp. Thuốc ở Gò Vấp nổi danh khắp Nam Kỳ một thời gọi là thuốc Gò. Trầu , cau Hóc Môn Bà Điểm cũng nổi danh khắp miền Đông.
Thuở đó, trầu, cau, thuốc lá rất cần thiết hằng ngày, vừa để ăn, vừa dùng trong việc xã giao. "Miếng trầu là đầu câu chuyện", điều đó chứng tỏ trầu,cau, thuốc là món hàng rất có giá trị. Trầu là loại dây leo, phải cắm nọc cho nó bò lên. Hồi cuối thế kỷ 19, ở đây có một cái chợ chuyên môn bán nọc để trồng trầu, do ghe xuồng từ các nơi chở đến. Chợ đó là xã Tân Thới Nhì, có chợ Bến Nọc. Trầu và cau phải trồng lên liếp , nhưng không xẻ mương như ở miền giữa sông Tiền và sông Hậu, vì ở đây đất cao, chỉ có thể đào giếng lấy nước tưới mà thôi. Thị trường tiêu thụ trầu cau là chợ Bến Thành, chợ Bà Chiểu.
Mấy thập niên cuối của thế kỷ 19, dân chúng Bà Điểm, Hóc Môn thường gánh trầu xuống Gia Định bán. Họ đi thành đoàn hai, ba chục người để khỏi bị cọp vồ. Những năm sau đó, có xe ngựa chở trầu, cau và đồ hàng bông xuống bán ở Sài Gòn. Những ai từng cư ngụ trên đường Lê Văn Duyệt hồi những năm đó chắc sáng sớm sẽ bị đánh thức bởi tiếng vó ngựa lọc cọc trên mặt đường, hoặc tiếng xe bò cót két của người Hóc Môn, Bà Điểm chở trầu cau và đồ hàng bông xuống chợ. Vùng này , theo sách cổ, có đến 18 thôn chuyên canh trầu cau, nên gọi là "Thập bát phù viên", tức 18 thôn vườn trầu.
Theo bản án của Toà Án Gia Định xử vụ Quản Hớn khởi nghĩa, giết vợ chồng Đốc Phủ Ca, có kể tên 18 thôn liên hệ phải bồi thường số tài sản thiệt hại do cuộc khởi nghĩa này gây ra. Các thôn đó là:
1. Bình Hưng
2. Vĩnh Lộc
3. Tân Thới Thượng
4. Tân Đông Thượng
5. Trung Chánh (Quán Tre)
6. Tân Thông Tân
7. Tân Thông Tây
8. Tân Thới Tam
9. Tân Thới Nhì
10. Tân Thới Tứ
11. Tân Đông
12. Tân Thành
13. Tân Đông Trung
14. Xuân Hoá
15. Bình Hưng Đông
16. Bình Nhạn
17. Mỹ Hạnh
Hóc Môn là nơi hội tụ của những cuộc đời tao loạn miền Ngoài, tìm đến cuộc đất mới ấm no. Họ lập thành làng xóm trong cùng chung một hoàn cảnh, tạo ra một sắc thái riêng biệt của con người Hóc Môn: Giàu nghĩa khí (Nguyễn An Khuơng, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Ninh), giàu lòng yêu nước như Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá. Trong quá trình hình thành Hóc Môn, Bà Điểm, ban đầu họ lập các thôn xóm như Cây Lài, Bàu Xiêm…rồi dần xuống Hóc Môn, Bà Điểm, trở lên Củ Chi…
Năm 1982, tôi có lần lên thăm người bạn ở Suối Đá, tức quận lỵ của một quận mới: Dương Minh Châu. Đang lúc đó mùa khô, có phong trào làm thủy lợi, đắp con đê vòng quanh lòng hồ của đập Trị An. Sáu tỉnh xung quanh Sài Gòn đều phải gởi người đến làm sưu, tự túc cơm gạo. Bạn tôi kể, có một lần vào giờ giải lao, một người dân Hóc Môn vừa đốt điếu thuốc, nhả khói lên trời rồi ra câu đối:
“Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc”.
Lập tức bên cạnh có người đáp lại:
“Gái Gò Công vừa gồng vừa co”
Dưới thời Gia Long (1802-1820), Hóc Môn là lỵ sở của huyện Bình Dương. Phạm vi huyện này lan rộng xuống tới Sài Gòn, và cả huyện Cần Giờ ngày nay. Hồi đàng cưụ, Trần Tử Ca (1823-1885) làm xã trưởng Hạnh Thông tới Gò Vấp. Sau Ca được thăng làm phó tổng Dương Hoà Thượng. Ban đầu Trần Tử Ca là một phú hộ, nhờ có chút ít học vấn nên được cử làm xã trưởng Hạnh Thông, chớ không phải là người xuất thân khoa bảng. Hồi đó Trần Tử Ca chưa theo đạo Thiên Chúa.
Năm 1860, đồn Chí Hoà bị hạ. Pháp chiếm luôn các vùng lân cận như Hóc Môn, Trảng Bàng, Tây Ninh. Lúc đó huyện Bình Dương còn dưới quyền tri phủ Hồ Huân Nghiệp, đang chỉ huy nghĩa quân kháng chiến. Đến năm 1865, Hồ Huân Nghiệp bị bắt và đem hành hình tại Phú Thọ rồi tri huyện Lưu Đình Lễ ở Hóc Môn cũng bỏ chạy. Pháp cử tên Lucien de Grammond lên trấn nhậm Hóc Môn. Tên nầy có râu quai nón, rất dài, mỗi khi giận, hắn nhai râu “trạo trạo”, dân chúng gọi là “ông nhai râu”. Trần Tử Ca dẫn vài tên nghĩa quân ra hàng để chuộc tội. Pháp cần người bản xứ ra cộng tác , nên thâu dụng Ca, cho hắn cai trị Hóc Môn, báo cáo tình hình và giữ an ninh. Thấy Ca khôn ngoan lanh lợi, thạo đường đi nước bước, Pháp cho Trần Tử ca dẫn đường để chúng đi kinh lý các tỉnh miền Tây. Tháng tám năm 1867, Ca cùng Giám Đốc Nội Vụ Paulin Vial xuống tàu ở Gò Công, bắt đầu xuống Bến Tre. Tình hình ở đây cũng mới tạm yên. Rồi họ xuống Trà Vinh, quân Pháp còn giao tranh với nghĩa quân tại Cầu Nang. Tên chỉ huy ở đây đã báo cáo:”Có làng tất cả dân chúng đều theo nghĩa quân.” Sau đó phái đoàn Pháp xuống Sốc Trăng, lên Rạch Giá, Long Xuyên. Chuyến đi thị sát vùng mới chiếm cho Pháp có ý niệm vững chắc về tình hình mấy tỉnh miền Tây cũng như địa thế của nó. Khi về, để củng cố lòng tin cậy của Pháp, gia đình Ca xin rửa tội theo đạo Công Giáo. Thấy địa vị khá vững, Ca bắt đầu công việc làm ăn của mình. Trong lúc tình hình vùng mới bình định chưa hoàn toàn yên ổn. Ca tìm những gia đình giàu có bắt bớ để tra khảo vì nghĩ họ giúp đỡ tiền bạc cho nghĩa quân. Bắt họ, có lợi trước mắt là khi đánh đập, gia đình sẽ đem tiền đến chuộc. Mặt khác Ca lo củng cố an ninh, kiểm soát dân cư cựu trào, phân loại theo thành tích mà hắn biết rõ trước đây. Thấy Ca làm được việc, Pháp cho Ca giữ chức Phó tổng lúc trước. Hồi năm 1983, có một lần ăn cơm trong một gia đình ở Chợ Lớn, tôi được nghe một vị bô lão, năm đó 81 tuổi, nhắc chuyện xưa về Phủ Ca:"Phủ Ca là người khôn ngoan, có lối làm việc theo kiểu đàng cựu. Mỗi lần bắt nạn nhân để khảo của, hắn vừa uống trà vừa hỏi cung, để cho dân chúng bu xung quanh xem. Mỗi khi nạn nhân bị đánh đập tàn nhẫn, rên la, thân nhân đứng bên ngoài cũng đau đớn, xin đem tiền đến nạp để cứu người thân. Nhiều người quá nghèo, nhưng vì thương chồng, con, phải bán nhà cửa, trâu, heo đến chuộc mạng, rồi sau đó bỏ làng trốn đi. Với phương pháp này, Ca làm giàu nhanh chóng, cất nhà gạch ở chợ Hóc Môn đầu tiên."
Một nho sĩ xu nịnh lúc bấy giờ đã mô tả hình dung Phủ Ca như sau:
"Ca thường bịt khăn nhiễu điều tứ cú, mặc áo lót song khai. Trấn nhậm tại xứ Hóc Môn, tục danh Mười Tám Thôn Vườn Trầu. Đang thuở ấy, bốn phía xứ Hóc Môn, nhân dân phong tục nhiều người ngang ngạnh, phần thì liền với Trảng Bàng, đất gò rộng minh mông vô hạn, quân giặc giã, trộm cướp hay quần tụ ra vào."
Dựa thế lực của chồng, vợ Ca cũng tác quái nhiều việc. Bà độc quyền mua trầu cau rồi dùng xe bò chở xuống Gia Định bán. Bà còn sắp xếp việc mua bán trong chợ Cầu. Trước đó ở đây có chợ Bến Nọc. Năm 1871, Ca được thăng tri huyện, thế lực càng lớn, dân chúng nơm nớp lo sợ, coi ông như cọp. Đến năm 1879, Ca được thăng đốc phủ sứ, mở tiệc ăn mừng bắt quan làng, dân chúng đóng góp. Năm đó, Ca cất dinh quận, bắt dân phu phục dịch cả năm trời như tội nhân lao động khổ sai. Bà vợ, để mở mang công việc làm ăn, cũng cho cất mới ở tại chỗ Chợ Cầu bây giờ. Chỗ đó về sau, dân địa phương gọi là "Chợ Quan Lớn Ca". Trước bữa khai thị hai hôm, Ca cho dán bố cáo:
"Mốt tới, coi chợ mới, tốt"
Sáng sớm hôm sau, bên cạnh thông cáo đó, có một câu đáp của một sĩ phu, chơi xỏ Ca:
"Mai lên thấy con Mên" (Miên lai)
Hồi trước ở trong Nam, người Việt sống chung đụng với người Miên nhưng kỳ thị họ, coi họ kém văn minh. Khi nói đến "Cao Mên, Con Mên…" là có ý nghĩa khinh khi họ.
 
CUỘC KHỞI NGHĨA 30 TẾT
Vợ chồng Ca là người vừa tham vừa tàn ác. Sẵn quyền lực, được Pháp tin cậy, Ca không từ chối bất cứ biện pháp làm tiền dã man nào. Giữa thập niên 1880, dân chúng Hóc Môn trải qua những giấc mơ hãi hùng. Lúc nào họ cũng bị ám ảnh bởi :”nửa đêm thúc thuế trống dồn”. Bài “Vè Quản Hớn” nói lên tình cảnh ấy:
“Đêm năm canh giấc ngủ chẳng an
Ngày sáu khắc, lo xâu cùng thuế (1)
Qua năm Dậu (1885) gẫm âu quá tệ,
Khổ người dân như khúc gỗ tròn …”
(1) xâu : tức là sưu, hình thức đóng thuế bằng cách ra sức làm những công việc nặng nhọc như đắp đường, làm cầu, cất dinh…không được trả công.
Qua bốn câu đó, ta thấy tình hình bất mãn lên đến cực điểm vào cuối năm 1884. Hổ phụ sinh hổ tử. Hai người con của Phủ Ca cũng là những tên cường hào ác bá. Một tên gọI là Phủ Luông vừa gian ác, vừa hiếu sắc. Một tay hắn phá nát không biết bao nhiêu gái trinh tiết.
“Thêm công tử Phủ Luông mỹ hiệu,
Bởi bội ước hồn phi yểu yểu…”
Trong “Vè Quản Hớn”, dân gian dị nghị hai người con Phủ Ca như sau:
“Hai chàng con đốc phủ Ca,
“Xóm làng bắt hết, khảo tra sự tình”
“Ai ai đều cũng thất kinh,
“Trẻ già lo sợ như hình cò ma.”
"Ngỡ là con trả thù cha,
"Nào hay bán máu, đổi ra bạc tiền.
"Làm oai: kẻ trói, người xiềng,
"Dẫn về trường bố, cho liền cửa quan"
"Ai mà muốn chối tai nàn,
"Bạc cây đem nộp, mới an thân mình.
"Kẻ làm thì dạ ưng tình,
"người không cũng bắt, hành hình dữ thay.
"Kẻ thì kết án lưu đày.
"người thì chém giết xứ này Hóc Môn"
Bài "Vè Quản Hớn" đã tố cáo hành vi tàn ác của hai người con Trần Tử Ca. Tuy không giữ chức vụ gì, nhưng dựa lịnh cha, họ cũng bắt người tra tấn để khảo của , bất luận oan hay ưng. Ngoài ra, theo lịnh Pháp hồi đó, dân chúng đóng thuế dầu phộng để đốt đèn. Theo lịnh Ca, dân nạp dầu phộng nhiều, Ca cho lính ép lấy dầu, giữ lại một phần lớn, còn ít thì nạp vào kho. Tiếng dữ được loan truyền trong dân chúng:
"Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng,
"Ép lấy dầu nộp thiểu , thâu đa…"
Bao nhiêu tiền của, do công lao, sức lực của dân nghèo, gia đình Ca đều tóm thâu gần hết. Gặp cảnh khổ của người dân, Ca cũng không động lòng. Trong lúc mọi người oán hận Ca thì Ca thản nhiên tổ chức lễ mừng lục tuần rình rang, bắt lính tráng, dân phu phục dịch suốt tuần lễ. Để giúp vui, Ca cho tổ chức đua ngựa, rước gánh hát bội về diễn , nhưng dân chúng phải góp tiền để trả. Các hương chức hội tề chia nhau gánh vác, đóng góp vàng lụa "mừng quan"
"…Khai lục tuần địch thể giá vua,
"Theo tân trào phá miếu đốt chùa"
gây thêm khích động. Một người có tâm huyết, đứng về phía dân chúng là Phan Công Hớn tục gọi là Quản Hớn, đang coi việc an ninh trong làng. Hớn cùng Nguyễn Văn Quá âm thầm chuẩn bị gươm, dao, mác và bí mật chiêu tập một số nghĩa quân chờ cơ hội. Dân chúng quá bất mãn vì bị bóc lột tàn nhẫn nên họ theo Quản Hớn rất nhiều. Như thường lệ, những ngày giáp Tết Ất Dậu (1885), người tụ tập ngoài đường, nơi vắng vẻ, luyện tập. Chiều 30 Tết, trong khi mỗi gia đình lo cơm nước, rước ông bà, quét dọn nhà cửa sạch sẽ , tươm tất. Gần đến giờ Giao Thừa, giờ phút thiêng liêng mà mọi người đang trông đợi như chậm lại. Nhà nhà đều mở cửa. Trên mỗi bàn thờ, đèn, nhang nghi ngút, sáng trưng. Bỗng môt hồi mõ hiệu lịnh nổi lên:
-Có biến động! Mõ hồi một!
Nhiều nhà hốt hoảng. Cửa đóng. Đèn tắt. Ngoài đường, tiếng chân người chạy sầm sập. Chỉ phút chốc, một đoàn người cầm đuốc, gươm dáo vừa tiến về dinh quận Hóc Môn, vừa la ó:"Giết Phủ Ca", "Chặt đầu vợ chồng Phủ Ca"!
Rồi quân khởi nghĩa chia nhiều tốp, vừa phá cổng, vừa bắn giết nhóm giữ cửa, trong khi các nhóm khác leo tường lọt vào bên trong. Hồn phi phách tán, vợ chồng Phủ Ca bị nghĩa quân bắt trói trước sân đình quận. Phẫn uất, chúng liền chặt đầu, rồi sau đó đem bêu phơi trước dinh quận. Quân khởi nghĩa dưới quyền lãnh đạo của Quản Hớn thành công như nước vỡ bờ. Bao nhiêu thù ghét được dịp bùng nổ. Họ đốt phá, bắn giết những người trong gia đình Phủ Ca. Chỉ một vài người đàn bà, con nhỏ, gia nhơn chạy thoát được.
Sáng mùng một Tết, dân chúng Hóc Môn ăn mừng. Tết rất lớn. Họ đem bánh tét, trà, thuốc đãi nghĩa quân, rồi reo hò . Trong khi đó, Quản Hớn vẫn chia quân phòng thủ. Khoảng 3 giờ chiều, toán quân tiếp viện đầu tiên tới. Họ giao tranh với nghĩa quân, nhưng không chiếm lại được dinh quận, vì họ cố thủ. Rồi quân Pháp từ Gia Định kéo lên, vây bốn mặt. Đi tới đâu, quân Pháp bắn giết tới đó để dằn mặt. Dân chúng bắt đầu bỏ nhà chạy trốn vào rừng. Tuy quân số đông, nhưng chỉ là ô hợp, họ chiến đấu vì sự phẫn nộ lâu ngày như phá vỡ sự đè nén, chớ không biết cách chiến đấu. Lại nữa, súng đạn ít, gươm, dao không thể đương đầu với võ khí của Pháp nên cuộc chiến đấu chậm dần. Một số người bị thương, tử trận, một số bỏ trốn. Giặc Pháp kéo vô dinh quận bắt được Quản Hớn, Nguyễn Văn Quá, và hơn hai mươi người còn lại. Cuộc khởi nghĩa đã bị dẹp rất nhanh chóng.
Trước đó chừng mười hôm, Đề Bường (Nguyễn Văn Bường) cũng chuẩn bị khởi nghĩa ở Phú Nhuận. Ý định của Đề Bường là tấn công chợ Xã Tài (Phú Nhuận) rồi kéo sang đốt chợ Đất Hộ (Đa Kao), liên lạc với nghĩa quân Hóc Môn để họ tiếp trợ. Đề Bường cho người liên lạc với một nhóm tù bị giam tại khám lớn, hẹn đến đêm đó nổi lửa đốt khám, nghĩa quân sẽ đến giải cứu. Tuy nhiên khám vẫn nổi lửa đốt lên đúng hẹn, làm cho Pháp bỏ chạy , nhưng đợi mãi không có quân đến tiếp cứu vì Đề Bường đã bị bắt trước khi ra tay. Thế là cuộc khởi nghĩa của Đề Bường chỉ gây được tiếng vang mà thôi.
Mặc dầu không có sự liên lạc, nhưng trước cuộc khởi nghĩa Hóc Môn, nghĩa quân ám sát tên Trần Bá Hựu, chủ quận Long Thành, em ruột của Tổng Đốc Trần Bá Lộc, khiến người Pháp có cảm tưởng rằng "phong trào Cần Vương lan rộng vào Nam", làm cho họ ráo riết chuẩn bị đối phó. Ngoài ra ở làng Long Hội, giáp ranh giữa Mỹ Tho và Gò Công, có Nguyên Soái Hiền, phó Nguyên Soái Trần Công Chánh, cũng chiêu tập được hàng trăm người , đồng loạt nổi lên phá nhà việc làng. Họ kêu gọi dân chúng cùng đứng lên giết giặc. Cũng như nhiều nơi khác, nghĩa quân chỉ chiến đấu với lòng căm thù, nhưng thiếu tổ chức và võ khí, nên bị đàn áp nhanh chóng. Trong việc đem quân trở lại Long Hưng, Pháp bị chết mấy người lính làm cho họ càng thêm dã man, gặp ai nghi ngờ, chúng giết lập tức. Cuối cùng, những người cầm đầu như Nguyên Soái Hiền, Phó Nguyên Soái Trần Công Chánh đều sa vào tay giặc. Trước phong trào chống Pháp lên cao, Thống Đốc Nam Kỳ dùng biện pháp phạt tiền nguyên cả làng đó vì đã "chứa chấp bọn phiến loạn."
HẬU QUẢ:
Sau tất cả các biến cố đó, tỉnh Gia Định bị giới nghiêm vào ban đêm hàng tháng trời. Pháp áp dụng nhiều biện pháp để kiểm soát an ninh, dập tắt các phong trào mới nhen nhúm. Những vụ khởi nghĩa nầy, Pháp đều đưa ra xử tại toà án Bình Hoà, Gia Định. Hồi đó, hạt Sài Gòn còn gồm luôn Gia Định. Từ năm 1875, dinh tham biện (Toà Bố) đặt tại làng Bình Hoà, nên gọi hạt Bình Hoà. Đối với người Pháp, họ rất khó phân biệt giữa "Bình Hoà" và "Biên Hoà" nên họ đổi ra Gia Định cho khỏi nhầm lẫn. Từ năm 1889, họ đổi danh từ "hạt" ra "tỉnh". Phiên xử nghĩa quân ám sát Trần Bá Hựu, có một án tử hình dành cho người cầm đầu và ba án khổ sai chung thân. Vụ Đề Bường mưu toan khởi nghĩa ở Phú Nhuận và phá khám lớn bị bắt lúc chưa xảy ra, nên Thống Đốc Nam Kỳ áp dụng biện pháp hành chánh, ký lịnh lưu đày ngày 21 tháng Hai năm 1885. Nguyễn văn Bường chung thân khổ sai, biệt xứ ở Côn Lôn, còn những người khác bị từ năm đến mười năm. Năm sau, Đề Bường bị bịnh chết ở Côn Đảo.
Sáu tháng sau, tỉnh Bình Hoà nhóm để xử vụ Hóc Môn. Vụ án liên quan đến nhiều người nên phiên xử kéo dài nửa tháng. Sau đó, thực dân tuyên án: 14 người tử hình trong đó có Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá. 16 người khác tù khổ sai có thời hạn. Phiên toà Bình Hoà xử vụ Quản Hớn kết thúc ngày 31 tháng Tám 1885. Thực dân muốn áp dụng hình phạt thật nặng nề để dằn mặt dân bản xứ. Tuy nhiên, bản án về tới Pháp, Tổng Thống Pháp được báo cáo dư luận dân chúng Gia Định bất mãn, nên hạ bản án xuống: chỉ 2 người cầm đầu tử hình, còn lại 12 người khác bị khổ sai chung thân.
Sau đó chừng một tháng, ta thấy dưới bến tàu nhiều chiếc khởi hành chở tù đi đày ở các hải đảo xa xôi hằng ngày . Trong dư luận bấy giờ, dân chúng có câu ca dao:
"Ngó ra ngoài biển mù mù,
"Thấy tàu ông Thượng chở tù về Tây"
Về Tây là về phía Tây. Đi gần có Côn Nôn. Đày xa có Đại Hải hay đảo Bourbon tức đảo Réunion thuộc Ấn Độ Dương sau nầy. Cũng có một số ít bị đày sang đảo Tahiti, hay Cayenne Nam Mỹ như các nạn nhân trong vụ binh biến kinh thành Huế năm 1885. Sáng sớm ngày 30 tháng Ba 1886, tại chợ Hóc Môn, dân chúng chứng kiến cuộc hành quyết hai lãnh tụ cuộc khởi nghĩa "18 thôn vườn trầu" là Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Quá. Vẫn theo bản án của tòa Bình Hòa, 18 thôn liên hệ đã kể trên phải liên tục chung góp để bồi thường cho gia đình Phủ Ca số bạc gần hai vạn đồng. Thời đó, số tiền ấy quá lớn, nhiều người chịu không nổi cảnh chung góp trả nợ phải bỏ làng trốn đi nơi khác. Theo một nguồn dư luận khác, cuộc khởi nghĩa sở dĩ thành công nhanh chóng một phần do lòng phẫn nộ của dân chúng, và một phần do trong quân lính tham dự có một số theo Thiên Địa Hội, dùng bùa phép để trở nên gan dạ. Dầu sao cuộc khởi nghĩa ấy cũng biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, và cũng là một cách để dằn mặt bọn thực dân. Qua vụ giết Phủ Ca, dư luận Hóc Môn phản ánh qua bài "Vè Quản Hớn":
"Quản Hớn dầu chết cũng rạng danh,
"Vì trừ được tham quan ô lại
"Quan đốc phủ thác đà cũng phải
"Khai lục tuần địch thể giá vu
"Theo tân trào phá miếu phá chùa,
"Thuở cựu trào làm cai phó tổng
"Ở một ngày một lộng
"Lầu ba từng lại có võ môn
"Nhựt nhựt thường kiểng đổ trống rung
"Xe song mã sướng đà quá sướng
"Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
"Ép dầu nộp thiểu, thâu đa..."
Sau vụ nầy, Pháp đưa Phủ Ngôn từ Gò Công tới thay thế. Phủ Ngôn ở một thời gian ngắn, Phủ Lê Tấn Đức kế nhiệm. Ông Đức cũng nổi tiếng cường hào ác bá ở Bạc Liêu, dân chúng, hương chức đều kêu ca hành vi của ông. (Xem thêm bài "Cà Mau tiền rừng bạc biển, nhưng cuộc sống khó khăn" cùng tác giả trong sách "Nam Kỳ Lục Tỉnh tập I", Văn Hóa tái bản lần thứ nhất năm 1993). Từ đó, ở Hóc Môn có lưu truyền hai câu ca dao:
"Mừng xuân có pháo, có nêu,
Có đầu quan phủ bêu nơi cột đèn"
User avatar
mvt5
Múi Mít
Múi Mít
 
Tiền: $47,119
Posts: 358
Joined: 05 Oct 2005
Location: Tổ Rồng Bự
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng mvt5 từ: msn, naikon

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby tommyact74 » 15 Aug 2009

Cảm ơn tác giả nhé. Những tư liệu quí và khá là chính xác. Vì Tom có chút may mắn được học về lịch sử hình thành và phát triển của Huyện Hóc Môn nói riêng và Sài Gòn nói chung. Nhưng những tư liệu của chính quyền mới bây giờ không được đa dạng và nhiều tình tiết như của tác giả đâu...cảm ơn nhiều nhé... :vt: :vt: :vt:
tommyact74
Cành Mít
Cành Mít
 
Tiền: $6,686
Posts: 79
Joined: 10 Jul 2008
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tommyact74 từ: msn

Re: Các Giai Thoại Về Các Nhân Vật Nam Kỳ Lục Tỉnh

Postby kungpao » 01 Sep 2009

Một tài liệu quí giá về lịch sử cận đại. Cám ơn tác giả rất nhiều.
kungpao
Cuống Mít
Cuống Mít
 
Tiền: $92
Posts: 101
Joined: 20 Jan 2006
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng kungpao từ: msn


Return to Kiến Thức Đó Đây



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 3 guests