4
Bây giờ, ngoài những giờ đi nghe giảng và những giờ thực tập ở bệnh viện, Michel làm phụ tá cho ông giáo sư già Norf.
Phòng thí nghiệm của Norf gồm một dãy phòng bụi bặm, bề bộn ngăn kệ với những hàng chai lọ đựng formol trong đó ngâm nào ruột, nào bao tử, nào bàn tay bị lở loét. Trong những cái chậu nhỏ là các lá gan bị ung thư, những lá phổi, những bộ ruột được ướp muối. Trên các vách tường, người ta thấy hình những con chuột ốm trơ xương mang cái bướu khổng lồ dưới bụng hay trên lưng với hàng chữ:
Ung nhọt nơi một con chuột ba tuổi.
Giáo sư Norf, 16/11/27. Số 199 B-8.
Những tấm hình này làm cho Norf hãnh diện không kém gì những bức tranh của các danh họa.
Norf sống ba phần tư cuộc đời mình trong phòng thí nghiệm, cùng với Vanneau, ông già phụ việc có bộ ria mép rậm rạp. Ông đã có vợ và ba đứa con, nhưng với ông, cuộc sống gia đình không có gì quan trọng. Ông chỉ sống cho một thứ, một cụm từ rất ngắn gọn: Bệnh ung thư.
Mỗi sáng, Norf là người đầu tiên đến bệnh viện, trước tất cả các giáo sư và sinh viên. Michel và Vanneau đợi ông ở đó. Tay ôm một cái giỏ lớn như thứ giỏ của người hàng thịt, ông đi một vòng, hỏi thăm các bệnh nhân, các nữ y tá, rồi đi xuống nhà xác. Đến đó, ông lấy trong giỏ ra một chiếc tạp dề rộng bằng vải xanh lam, một đôi guốc, rồi xắn hai cánh tay áo sơ mi lên và bắt đầu làm việc.
Michel đã từng chứng kiến hàng ngàn vụ mổ tử thi, nhưng công việc của Norf hoàn toàn mới lạ đối với anh. Đó là một công việc chậm chạp tỉ mỉ và trọn vẹn. Norf làm việc với một lương tâm chức nghiệp lạ thường. Ông đặt con dao lên trán thi thể, dùng búa gõ vào con dao để rạch một đường xung quanh sọ. Sau đó, ông lấy cái vòm xương ra, để lộ bộ óc. Rồi ông luồn bàn tay dưới bán cầu não và nhẹ nhàng đưa bộ óc vào một cái đĩa. Kế đó ông tấn công vào thân. Trước tiên, ông mổ banh lồng ngực, lấy quả tim và hai buồng phổi ra để quan sát. Sau đó, ông mổ bụng tử thi, xem xét tình trạng bao tử, lấy bộ ruột đem đến trước cửa sổ để quan sát kỹ từng chi tiết. Nếu có chi tiết nào khả nghi, ông liền cắt ra để quan sát bên trong. Sau đó, ông đặt lá gan, lá lách, tuyến tụy lên bàn, tách các quả thận, đem cân mỗi bộ phận và ghi trọng lượng của chúng. Sau cùng, ông cắt ngang tất cả những bộ phận đó, lấy của mỗi bộ phận vài miếng: tim, phổi, bao tử, gan, óc. Ông bỏ chúng trong các bình đựng đầy formol. Nếu chúng quá lớn, ông cho chúng vào giỏ và mang về phòng thí nghiệm.
- Anh không bao giờ biết được anh sẽ tìm thấy những gì, - ông nói. - Anh chỉ có thể thấy được những chi tiết mà những kẻ khác không thấy, nếu anh chịu khó mở to mắt và đi thật chậm.
Nhiều bạn đồng nghiệp chế giễu ông một chút về việc mổ tử thi tỉ mi vô tận. Ông già Norf không biết chuyện ấy, nhưng nếu biết ông cũng chẳng bận lòng.
- Cần phải xem xét tất cả, - ông nói. - Một chứng bệnh thận cũng ảnh hưởng đến quả tim, lá gan và bộ óc. Không có một chứng bệnh nào bị hạn chế ở một cơ quan duy nhất! Và sự thật, không có bệnh tật gì hết, chỉ có những người bệnh thôi. Những bộ sách y khoa liệt kê cho anh những triệu chứng của mỗi bệnh: Đó chỉ là một sự láo khoét. Người ta không bao giờ tìm được hết tất cả mọi triệu chứng, và lúc nào người ta cũng tìm thấy triệu chứng khác lạ ở đó. Kinh nghiệm sẽ cho anh thấy, Doutreval ạ. Và đó là lý do vì sao có rất nhiều bác sĩ tồi: họ tin tưởng hoàn toàn vào sách giáo khoa. Tôi chủ trương rằng mỗi sinh viên y khoa cần phải trải qua ít nhất một thời gian nội trú ở bệnh viện. Sinh viên nội trú tiếp xúc thường xuyên với các bệnh nhân của mình. Chính anh ta lãnh trách nhiệm chăm sóc họ trong thời gian dài một cách kỹ lưỡng và thoải mái, không phải nơm nớp lo sợ sự chứng kiến, theo dõi của giáo sư cũng như của bạn bè sau lưng anh ta. Điều này làm cho anh ta có thể chăm chú vào việc chữa bệnh, tập cho anh ta “hành nghề” thật sự. Với những phương pháp đào tạo ngày nay, có quá nhiều sinh viên y khoa trở thành bác sĩ mà không hề tiếp xúc với bệnh nhân một lần nào. Rất ít, phải nói là rất hiếm sinh viên có khả năng trải qua thời gian dài tập sự trong các bệnh viện, nghiên cứu những trường hợp bệnh nhân của họ…
Sau khi khám nghiệm tử thi xong, Norf đứng lặng trong một phút ngắm nhìn cái giỏ. Với những vết máu bị bết trên đôi tay, những mảng thịt thối còn dính ở mấy đầu ngón tay, ông đứng lặng, chìm đắm trong suy tư, điếu thuốc lá trên môi đã tắt từ lúc nào, và gương mặt thỏa mãn nở một nụ cười mơ hồ. Lấy trong túi ra một hộp thuốc lá, bằng những ngón tay còn dính đầy mỡ, ông vẫn cuộn cho mình một điếu và đưa lên lưỡi liếm cho nó dính lại rồi châm lửa. Và, chân mang guốc, mình khoác tạp dề xanh, tay ôm một giỏ nặng trĩu, ông bước ra, băng ngang qua một khu phố Paris để trở về phòng thí nghiệm. Trông ông giống như một đồ tể với cái giỏ bê bết máu và chiếc áo tạp dề dính đầy những vết đỏ, khách đi đường ngoái cổ lại nhìn theo ông. Về đến phòng thí nghiệm, ông trao cho Michel và Vanneau những bộ phận cơ thể không quan trọng, để dành những bộ phận khác cho ông nghiên cứu, rồi lên lớp giảng bài. Bài giảng của Norf, được chỉnh sửa và bổ sung hàng tháng, luôn luôn phù hợp với những công trình nghiên cứu mới nhất, là một tác phẩm tuyệt diệu.
Sau giờ dạy, Norf lên phòng thí nghiệm chuẩn bị những bộ phận mà ông để dành. Một miếng phổi, một miếng gan hay lá lách không thể để nguyên như vậy dưới kính hiển vi. Cần phải nhuộm màu các tế bào rồi bỏ cả khối thịt chết đó vào chất paraffin để giữ nó bền lâu, cuối cùng cắt thành từng miếng vô cùng mỏng, chỉ dày vài phần ngàn mi-li-mét. Trong những trường hợp quan trọng, Norf tự mình làm hết mọi việc, ông sẵn sàng làm mười lần một công việc nếu cần, để cho nó được hoàn hảo. Và nếu đó là một bệnh nhân còn sống, nếu cuộc quan sát khoa học của ông ảnh hưởng trực tiếp đến mạng sống con người, Norf đôi khi quên cả bản thân mình và thức đến nửa đêm với Michel. Nhưng ông cũng có khả năng hoàn thành công việc một cách mau lẹ. Điều này ai cũng biết. Có những lúc, các đồng nghiệp của ông thuộc khoa phẫu thuật tổng quát đang phẫu thuật, nửa chừng gặp phải một khối khả nghi trong ruột, trong tử cung, trong tĩnh mạch chủ. Ung thư ư? Nếu Norf đang ở phòng thí nghiệm thì người ta liền đến gọi ông. Ông bèn chạy tới lấy một chút xíu thịt, trở về phòng thí nghiệm. Và một lúc sau câu trả lời đến, ngắn gọn, trên một tờ giấy dơ bẩn:
- Ung thư. Cần phải cắt bỏ.
Suốt năm đó, Michel làm việc cho giáo sư Norf. Tính tình lầm lì xa cách, Norf chỉ nói chuyện về công việc. Ông không bao giờ nói chuyện riêng tư với anh, không một lần bắt tay anh.
- Đối với tôi, - Vanneau nói - ông ấy chỉ bắt tay tôi có bốn lần trong bốn mươi năm.
Norf sống mà tâm trí ở ngoài thế giới, bên ngoài thực tại. Vũ trụ của ông chỉ bao gồm vỏn vẹn cái phòng thí nghiệm của mình. Ông đi đi lại lại, mặc áo sơ mi, thân hình cao lớn, vẻ mặt suy tư, vầng trán nhăn nheo, với điếu thuốc tắt ngấm luôn luôn vắt vẻo trên môi, ông làm tàn thuốc rơi khắp nơi, cổ tay áo chà lết trên tất cả mọi cái bàn và thấm bết đủ loại thuốc nhuộm màu. Ông tiến đến bên cạnh lúc bạn đang làm việc trước kính hiển vi, đẩy bạn ra để ngồi vào chỗ của bạn, và quan sát dưới ống kính suốt hai giờ liền một tế bào ung thư, thỉnh thoảng đưa lên môi điếu thuốc lá bạn bỏ quên trên bàn, quên luôn cả sự hiện diện của bạn bên cạnh. Sự đãng trí của ông thật không có giới hạn. Sau khi mổ xong các tử thi, để tránh không mang về nhà những mầm vi khuẩn nguy hiểm cho bà vợ, ông cởi hết y phục của mình. Và trần truồng ngay giữa phòng, ông phết lên khắp người chất thuốc tím khiến da ông có màu ghê rợn nửa đỏ, nửa đen. Trông ông lúc đó giống như một người da đỏ châu Mỹ. Rồi, để lấy lại màu da bình thường, ông phết lên người chất bisulfit làm tan màu chất thuốc tím. Nhưng chỉ một lát sau ông đã quên khuấy đi mất, và khi Vanneau mang đến cho ông một cái bình đựng bộ ruột người, ông mở nắp ra, tay cầm những khúc ruột và bắt đầu tháo gỡ chúng với vẻ háo hức. Ngay trước mặt khách, ông thản nhiên tiểu tiện vào trong các chai lọ và ống nghiệm; Khi có khách đến, ông vừa đứng tiểu vừa chìa tay còn lại ra bắt tay khách. Ông chẳng màng để tâm đến một điều gì của cuộc sống hàng ngày. Có hôm, trong thời gian vợ và các con đi nghỉ hè, ông bị một chiếc taxi đụng phải và được đưa vào bệnh viện. Vài ngày sau, lành bệnh, ông cảm thấy rất sung sướng nếu được ở luôn trong bệnh viện, không phải lết bộ đến phòng thí nghiệm, không phải lo nghĩ đến mấy bữa ăn, đến người đàn bà giúp việc nội trợ, người giặt ủi, người cung cấp thực phẩm. Nhất là ông cảm thấy rất tiện lợi được ở ngay tại đây để có thể lấy ngay những bộ phận phẫu thuật còn tươi. Độ hai tháng sau khi bà Louise Norf trở về, Norf rời bỏ bệnh viện với một sự lưu luyến không giấu giếm.
Những lo âu của Norf không giống như những lo âu của người khác. Ông chỉ chú ý đến bọn vi khuẩn, những chiếc máy dùng để cắt thịt thành những lát thật mỏng, những kính hiển vi và những lưỡi dao cạo cần thiết cho việc sử dụng kính hiển vi. Ông dùng tất cả thời giờ để mài giũa chúng, làm cho chúng bén nhọn hơn. Hoặc ông tìm cách phát minh ra những con dao dùng riêng cho kính hiển vi, và những con dao do ông chế tạo không bao giờ sử dụng được. Những lưỡi dao chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong cuộc đời của Norf. Có lần ông bị bệnh trong hai tuần lễ, ông viết thư cho Michel và Vanneau để chỉ cho họ những cách thức chăm sóc các lưỡi dao.
Norf làm một bản kế toán tỉ mỉ về các chi phí của phòng thí nghiệm. Ông sống trong sự lo âu bị tố cáo lạm tiêu công quỹ.
Thỉnh thoảng òng vác trên vai một mớ ván thông đến phòng thí nghiệm. Vanneau liền bào láng, làm thành các ngăn để đựng vô số những cuốn sách quý được viết bằng nhiều thứ tiếng. Căn phòng nhỏ hẹp, thiếu chỗ, nên các ca phẫu thuật được thực hiện giữa cái máy hấp và tủ lạnh. Chính tại đó, trong một khung cảnh nghèo khó và bề bộn, Norf tiếp đón những nhà y học nổi danh, những nhà khoa học lừng lẫy, đến từ Washington, Rome, Moscow và Tokyo, bao nhiêu chiếc giày của họ đã giẫm lên những đống dơ bẩn trong sân, và họ lễ độ che giấu sự ghê tởm khi ngửi phải mùi hôi thối bốc ra từ những cũi chó và lồng chuột.
Norf lãnh năm mươi ngàn franc mỗi năm, vì ông không mở phòng khám riêng mà chỉ thích cống hiến tất cả thời gian của mình cho Nhà nước. Trái lại, đa số các đồng nghiệp của ông mở phòng khám tư và lãnh của Nhà nước số thù lao ít hơn ông năm ngàn franc.
- Cái tai hại là ở chỗ đó, thưa cậu Michel, - Vanneau nói. - Nếu Norf chịu nhận khám bệnh cho các khách hàng, ông ấy sẽ kiếm được ba trăm ngàn franc mỗi năm. Tốt hơn là nên trả lương giáo sư thật hậu để họ không cần phải tìm khách hàng nữa. Tất cả tình trạng tồi tệ đều do việc này mà ra! Chỉ vì cần có nhiều khách hàng mà một bộ phận sinh viên ao ước cái chức giáo sư y khoa. Chỉ vì cần có nhiều khách hàng mà đôi khi các “ông thầy” ủng hộ những cậu học trò thiếu khả năng và chấm cho họ đậu. Sau này khi ra mở phòng mạch, họ sẽ giới thiệu bệnh nhân cho ông thầy chữa trị. Do đó, một số người muốn trở thành giáo sư y khoa không phải vì lòng yêu nghề, hoặc yêu sinh viên mà chỉ vì để có những mối liên hệ mật thiết với nhiều bác sĩ tương lai sẽ quảng cáo cho họ. Hẳn cậu cũng thấy một số giáo sư không đích thân giảng dạy mà giao trách nhiệm này cho một phụ tá. Họ chỉ cần lãnh năm mươi ngàn franc và dùng tất cả thời gian rảnh của mình để khám tư. Trong sáu tháng giảng dạy của niên học, họ chỉ đến trưởng khoảng ba mươi lần, hai mươi lần, hay mười lần. Và có thể còn ít hơn nữa! Cần phải có những kỳ thi thật sự đúng đắn và những giáo sư dành trọn thời gian cho việc giảng dạy. Nếu không, trong ban giảng huấn của chúng ta, một thành phần rất ưu tú sẽ tiếp tục bị mang tiếng xấu do lỗi của một nhóm nhỏ ham lợi.
Ông già Vanneau làm tất cả mọi việc trong phòng thí nghiệm: quét dọn, chùi rửa, giặt giũ. Ông vừa làm thợ mộc vừa làm thợ sửa cửa kính, thợ máy, thợ sửa dụng cụ quang học, thợ điện. Ông sửa chữa cân tiểu ly, dao mổ và kính hiển vi, rồi leo lên mái nhà để nạo sạch ống khói. Ông chăm sóc các con vật, cho những con chuột bị bệnh ung thư ăn uống, giúp Norf giải phẫu. Mỗi tháng, Vanneau lãnh gần một ngàn franc, và cứ ba năm lại được thêm một bộ quần áo mới. Nhưng những người quét đường nhận lương còn nhiều hơn ông bởi vì họ ở trong nghiệp đoàn. Còn Vanneau chỉ trơ trọi một mình.
Để cải thiện phần nào cuộc sống của mình, ông phải sử dụng đến một số kiến thức về y khoa đã thu lượm được trong bốn mươi năm sống bên cạnh Norf. Vì quá bận rộn, Norf đã huấn luyện và dào tạo Vanneau để sử dụng ông như một người phụ tá. Giờ đây, sau Norf, ông già lao công phòng thí nghiệm là người có khả năng vững chắc nhất ở Pháp để tìm ra bệnh ung thư dưới ống kính hiển vi. Các sinh viên y khoa đều biết rõ khả năng của ông. Vào những ngày thi, Vanneau phân phát cho các sinh viên những tấm kính trên đó có những lát thịt ung thư thật mỏng mà họ phải phân biệt đó là gan, phổi hay ruột. Norf làm giám thị. Nhưng nếu tình cờ trông thấy một miếng kính đáng chú ý, ông bèn ngồi ngay vào chỗ của sinh viên đó, trước sự mừng rỡ hoàn toàn của anh ta, và quan sát một cách say mê, quên cả kỳ thi và giờ giấc. Và, thế là từ khắp nơi trong phòng thi vang lên những tiếng kêu cứu S.O.S. Những tiếng gọi thì thầm:
- Ông Vanneau! Hãy đến đây!
Vanneau tiến đến, liếc nhìn một cái, nói nhỏ vài tiếng:
- Sarcoma gan… u não…
Và ông được mỗi sinh viên trả cho hai mươi franc khi họ ra khỏi phòng thi. Ngay cả những bác sĩ cũng nhờ đến ông. Riêng đối với Michel, ông có lòng tốt, giúp không cho anh vì ông biết anh nghèo. Nhiều bác sĩ thường đến phòng thí nghiệm của Norf để tìm Vanneau, mang theo một miếng thịt nhỏ xíu:
- Này Vanneau, ông hãy cho tôi biết có tế bào ung thư trong miếng thịt này không?
Vanneau kiếm được năm mươi franc cho mỗi câu trả lời. Và người bác sĩ cũng được lợi, bởi vì các phòng thí nghiệm khác đòi đến một trăm năm mươi franc. Tillery thỉnh thoảng cũng đến nhờ Michel làm vài công việc thuộc loại này. Hơn nữa, khi cảm thấy không hoàn toàn tin chắc vào chẩn đoán của mình, Michel thẳng thắn mời Vanneau đến và nói với ông:
- Này Vanneau, ông có ý kiến gì về cái này?
Vanneau cúi xuống, nhìn vào ống kính hiển vi quan sát trong năm phút rồi đứng thẳng người lên:
- Thưa cậu Michel, tôi nhớ hôm trước, trong trường hợp tương tự như vậy, ông Norf bảo đó là chứng ung thư…
Như thế không phải Vanneau mà là Norf đã giảng giải cho Michel. Ông già lao công thật tế nhị biết bao. Norf cũng biết khả năng của Vanneau. Trong những trường hợp khó, và khi đôi mắt bị mệt mỏi, Norf bỏ đi, để nguyên chiếc kính hiển vi tại chỗ. Và Vanneau lảng vảng xung quanh đó, ghé mắt nhìn vào ống thị kính, bỏ đi quét nhà, rồi quay lại bên chiếc kính hiển vi… Sau đó Norf gọi ông lao công già của mình đến, đọc cho ông viết bản thuyết trinh:
- Hãy viết đi, Vanneau!
“Vì không tìm thấy một dấu hiệu chắc chắn nào vì sự hiện diện của một khối u…”
Vanneau ngừng viết, giả vờ như bị ngứa ngáy bất thình lình ở bắp chân:
- Thưa ông, - Vanneau vừa nói vừa gãi bắp chân - ông có nhìn vào góc trái không… Dường như có một cái gì ở đó… Tôi không hiểu gì cả!
Norf tiến đến kính hiển vi, điều chỉnh máy để quan sát được ở góc phía bên trái. Ông nói thì thầm:
- Phải, phải… có lẽ đúng.
Và đứng thẳng người lên, ông nói một cách giản dị:
- Hãy viết đi, Vanneau!
“Trong trường hợp hiện tại, đó là một khối u được cấu tạo như sau…”
Phòng thí nghiệm giải phẫu bệnh lý, cũng như tất cả những phòng thí nghiệm khác ở Pháp, được Nhà nước trợ cấp hai mươi ngàn franc mỗi năm. Với số tiền đó, Norf phải thanh toán các hóa đơn điện, gas, than và điện thoại. Như vậy, ông chỉ còn lại mười ngàn franc để mua sắm dụng cụ làm việc: hóa chất, những con vật thí nghiệm và thức ăn cho chúng. Một con chuột giá năm franc! Norf không có đủ chuột để thí nghiệm, buổi tối ông phải giăng bẫy bắt chuột. Tuy nhiên, ông không bao giờ than phiền. Ông thuộc thế hệ của những nhà bác học xưa đã quen cảnh nghèo khó. Vanneau chỉ kể cho Michel vài trường hợp của giáo sư Gley, chủ tịch Viện Hàn lâm Y học, vào khoảng năm 1910 đã tìm ra insuline, một loại thuốc hiệu quả để trị bệnh đái tháo đường. Cần phải có ba mươi con chó để tiếp tục thí nghiệm, nhưng ông chỉ có ba con thôi. Thế là ông phải bỏ dỡ công việc. Và hai mươi năm sau, khi hàng chục ngàn người mắc bệnh đái tháo đường đã chết, chất insuline mới được đem bán cho chúng ta như một phát minh của châu Mỹ. Trường đại học Toronto của Canada đã nghĩ rằng những đòi hỏi của các nhà bác học của họ rất chính đáng, và đã cung cấp ba mươi con chó cần thiết.
Norf thiếu nhân viên, ông đã đào tạo được Vanneau, và Michel cũng phụ giúp ông. Nhưng khi Michel đậu bằng bác sỉ, anh sẽ ra đi. Norf sẽ chỉ còn một mình, và buộc phải bằng lòng với sự giúp đỡ của những người phụ tá tình nguyện. Có lẽ ông có thể xin được những ngân khoản cần thiết để kiếm được một phụ tá thường xuyên. Nhưng một trưởng phòng thí nghiệm lương hai mươi ngàn franc mỗi năm, một phụ tá chính thức mười bốn ngàn franc, và một phụ tá tập sự chỉ có chín ngàn franc, nghĩa là ít hơn lương của một lao công ba ngàn franc. Những đồng lương này làm cho những người trẻ phải rút lui. Người ta cũng có đặt ra một số học bỗng, nhưng không có thí sinh. Và các quốc gia khác đã thu hút hết giới trẻ của chúng ta. Khắp mọi nơi, những phòng thí nghiệm, những nhà máy, những trung tâm nghiên cứu được trang bị đầy đủ và trả lương cho các nhà bác học thật hậu hĩnh. Điều này khiến cho một phần tinh hoa ưu tú của đất nước ra đi tìm công danh sự nghiệp ở nước ngoài, nơi mà họ được hậu đãi hơn.
Norf không hề than phiền về cảnh nghèo khó. Khi nhìn vào ống kính hiển vi, ông quên hết mọi chuyện. Nhưng bà Norf, khi Michel và Évelyne thỉnh thoảng đến thăm, thốt ra những lời đầy thất vọng. Chính bởi trông coi ngân sách, bà thấy trước rằng tương lai của họ sẽ rất đen tối. Chẳng bao lâu nữa, Norf sẽ phải về hưu. Bị xem là đã quá già, ông sẽ không có quyền đặt chân đến phòng thí nghiệm nữa. Người ta sẽ không cần đến những công việc mà ông đang làm, những công trình nghiên cứu mà ông đã theo đuổi trong ba mươi năm qua và sắp sửa hoàn thành. Điều này Norf tránh không nghĩ đến. Nếu không, ông sẽ phát điên lên mất. Điều tệ nhất là lúc ấy ông chỉ còn lãnh được có hai mươi lăm ngàn franc tiền lương hưu. Với số tiền đó làm sao sống được ở Paris? Ông sẽ phải rời khỏi ngôi nhà cũ, bán hết sách vỡ và lui về chôn cuộc đời mình trong một góc ở đồng quê, để trí tuệ chết dần chết mòn vì thiếu hoạt động. Ở nhiều đất nước khác, các giáo sư vẫn được trả trọn vẹn số tiền lương của mình cho đến khi chết, và nếu ai được phong là “giáo sư xuất sắc” thì vẫn được giữ phòng thí nghiệm để sử dụng. Ở xứ sở của chúng ta không có gì cả. Dường như vì chúng ta quá nghèo, không thể trọng đãi giới trí thức một cách “xa xỉ” như thế được.
Cái tương lai đen tối đó, những nỗi lo âu về một cuộc sống bị bóp nghẹt đó, bà Louise Norf, người vợ già của ông thầy già, chỉ kể cho một mình Michel nghe thôi, khi bà đến phòng thí nghiệm để tìm ông chồng hiền lành và đãng trí như một đứa trẻ. Trước mặt Norf, bà làm thinh. Bà giữ kín những lo âu cho riêng mình, bà tằn tiện, giữ gìn quần áo của bà để mặc cho được lâu, giảm bớt giờ mướn người giúp việc nội trợ. Và đột nhiên vào một hôm nào đó, bà đem đến cho Norf hai ngàn franc.
- Này, ông cầm lấy để mua cái máy chụp vi ảnh…
Với vẻ háo hức và vô tâm hơi tàn nhẫn của một đứa bé, Norf vồ lấy số tiền, cảm ơn qua loa rồi vội vàng bay đến cửa tiệm cung cấp các y cụ.