CHƯƠNG 22
Karl Rolvaag nói: “Sáng nay trông bà dễ thương ghê, Nellie.”
“Nghe mấy gã đê tiện như ông khen, tôi thà treo cổ còn sướng hơn. Ông nghe tin về Pinchot khốn khổ chưa?”
“Nghe rồi,” thanh tra nói. “Họ tìm thấy nó chưa?”
Bà Shulman cứ nghiêng đầu sang trái rồi sang phải, cố nhìn vào bên trong căn hộ của Rolvaag.
“Pinchot khốn khổ không có ở đây đâu, bà Nellie.”
“Vậy cho tôi ngó qua một chút thì có phiền không?”
“Phiền chớ bà,” Rolvaag không muốn bà ta thấy cái bồn nuôi hai con trăn giờ đã trống trơn.
Bà càu nhàu: “Tôi sẽ không bỏ qua việc này đâu, ông dám bắt cóc một chú chó nhỏ tội nghiệp để thỏa thú vui bệnh hoạn. Dám ông còn quay video và tung lên mạng nữa!”
Cái bà già dở hơi này, Rolvaag thầm nghĩ.
“Tôi không đem chó của Bert Miller làm bữa ăn cho lũ trăn đâu,” anh nói, suýt nữa bồi thêm: Nhưng thỉnh thoảng cũng có tai nạn.
Bà Shulman nói: “Sao biết được. Rõ ràng ông rất thích nghe tiếng lũ chuột bé nhỏ rên xiết trong đau đớn. Một con Pomeranian mà rên thì còn vui cỡ nào!”
“Đấy là một cáo buộc vô căn cứ.” Thanh tra cố nén một cái ách xì. Bà Nellie Shulman xài nước hoa gì mà mùi y như mấy bông hoa chết úng.
“Vậy tại sao ông không cho tôi vô? Hôm nay là sáng Chủ nhật, lòng hiếu khách của ông đâu rồi?”
“Bởi vì bà đã gọi tôi là tên đê tiện,” Rolvaag nói.
“Thì đúng ông là thế còn gì. Bất cứ kẻ nào nuôi rắn đều là phường đê tiện, bệnh hoạn cả,” bà ta cố lẻn vào nhưng thanh tra đã hạ vai xuống và chặn lại.
“Nhà Miller đang đau khổ vô cùng!” Bà nói.
Không cần những lời này thì Rolvaag đã cảm thấy tồi tệ lắm rồi. Anh đã bỏ ba tiếng đồng hồ để sục sạo gần như toàn bộ khu căn hộ Sawgrass Grove, nhưng chỉ tìm được mỗi một con rắn racer đen hung hãn. Và nó đã xực anh một phát ở ngón tay cái bên trái.
“Tôi thấy ông lảng vảng bên ngoài cả ngày hôm qua,” bà Shulman nói, “rõ ràng là để tìm thêm mấy con chó nhỏ ngon lành cho lũ trăn.”
“Nellie, dạo này bà lại uống lộn thuốc à?”
Bà chọc ngón tay vào khóa thắt lưng của anh. “Đừng nghĩ mình là cớm rồi muốn làm gì thì làm. Lầm to rồi. Chúng tôi sẽ đá đít ông ra khỏi căn hộ này như đã từng đá đít Neville, mà Neville còn là thầy trợ tế trong nhà thờ đấy!”
Gordon Neville, một kỹ sư đường cao tốc về hưu, đã bị đuổi khỏi Sawgrass Grove sau một trận shuffleboard tục tĩu ngoài giờ với hai cô nàng mà ông gặp tại buổi vật lý trị liệu ngoại trú ở Imperial Point.
“Chúng tôi đã đuổi ổng đi được, thì ông chúng tôi đuổi tốt,” bà Shulman thề.
Rolvaag đóng sập cửa trước mặt bà hàng xóm. Đang trên đường vào phòng ngủ, anh nghe tiếng sột soạt sau lưng. Anh hy vọng một trong hai con trăn đi lạc đã trở về, nhưng hóa ra vẫn là Nellie, bà đã nhét thêm một tờ rơi vào khe cửa. Vị thanh tra cầm tờ giấy lên và ngán ngẩm nhìn tấm ảnh.
TÌM MÈO LẠC!
Pandora đáng yêu của chúng tôi.
Mèo xiêm mắt xanh, cổ đeo vòng thạch anh.
Rất dễ nhận dạng: bàn chân phải có bảy ngón!
Nếu thấy, vui lòng trả về cho gia đình Mankiewiczs ở Sawgrass Grove 17-C.
Phần thưởng: lòng biết ơn vĩnh cửu của chúng tôi!
Mình làm gì được bây giờ? Rolvaag tự hỏi. Lũ trăn đâu có đặt bẫy được như bọn gấu.
Công cuộc lùng sục của Rolvaag đã thất bại, giờ chỉ ngồi chờ cho lũ trăn tự xuất hiện. Thanh tra đã sớm quyết định sẽ không mang hai con thú cưng tới Minnesota, thời tiết ở đó là cực hình của lũ bò sát nhiệt đới. Nhưng để chúng nhởn nhơ ở Sawgrass Grove thì không chỉ nguy hiểm cho lũ thú nuôi trong khu căn hộ, mà chính chúng cũng sẽ gặp nguy hiểm. Nhiều người hàng xóm lớn tuổi khu này tỏ ra đồng cảm với bà Shulman, họ sẽ chẳng thèm kiên nhẫn kêu người tới tóm lũ trăn. Một cây cào vườn hoặc đầu dưới của cây gậy chống chân là đủ để con trăn lên thớt.
Rolvaag ăn sáng qua loa, tắm rồi soạn đồ đi qua đêm. Trong hành trang có tấm bản đồ khu vực nông nghiệp Everglades. Người cung cấp tấm bản đồ này cho anh là Marta, sếp của Charles Perrone tại sở quản lý nước. Bà đã giúp anh đánh dấu màu đỏ những đoạn đường đất và đê mà ngài Tiến sĩ Perrone vẫn thường đi lại để lấy mẫu thử nước thải. Dù bản đồ không cung cấp danh tính các chủ sở hữu nông trại gần khu vực ngập nước này, Rolvaag vẫn dùng bút chì khoanh vùng ước lượng những khu thuộc Nông trại Hammernut.