Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 88: Lại nghe Vu cổ kinh hoàng cả đêm

Cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt cuối cùng khỏi bệnh, Tây Khương cũng báo tin về là quân Hán đánh trận nào thắng trận ấy, cho thấy rằng có thể nhanh chóng bình định cuộc phản loạn. Thứ sử đất Thục báo lên rằng có vị phương sĩ tên Loan Tử tự xưng là biết thuật trường sinh thăng thiên, Thứ sử thấy người đó đúng là có biết một số môn pháp thuật nên rất bái phục, tiến cử lên Hoàng đế. Lưu Triệt khi còn trẻ thì không tin vào pháp thuật của các phương sĩ, song tuổi tác nhiều lên lại thay đổi quan điểm. Hơn nữa, mấy ngày trước vừa bị bệnh nặng, giờ y nghe nói hai chữ trường sinh thì không khỏi động lòng, liền ra lệnh, “Lệnh Ngũ Bị đi kiểm chứng thần thông của phương sĩ.”

Mấy ngày sau, Ngự sử đại phu Ngũ Bị dâng chỉ, cười nói, “Nhìn bề ngoài thì Loan Tử đúng là có phong thái thế ngoại cao nhân. Thần không biết hắn có thật biết thuật trường sinh hay không, nhưng quả thật là có vài đạo thuật nhỏ, chẳng hạn như ngưng nước thành băng.”

Trần hoàng hậu nghe nói chuyện này thì hơi nhăn mặt, nói: “Thiếp không tin trên đời này có thuật trường sinh gì cả, quá nửa là lừa người để kiếm miếng ăn.”

Lúc đó Lưu Triệt cũng ở điện Trường Môn, nghe vậy cười nói, “Chẳng phải Kiều Kiều cũng từng nói ‘Trên đời cũng có thể có người có thần thông’ là gì. Dù đúng hay sai thì gặp cho biết cũng chẳng sao cả.”

Trần A Kiều khuyên can không được, dự cảm thấy bất thường. Nàng day day trán, thầm nghĩ không biết Loan Tử có quan hệ gì với Loan Đại trong lịch sử hay không. Sau chuyện Lý Thiếu Ông hồi năm Nguyên Thú, Lưu Triệt không tin tưởng vào phương sĩ như trong lịch sử, cũng không cuồng nhiệt với thuật trường sinh như sử sách ghi chép. Nàng từng cho rằng chuyện này coi như chấm dứt, không ngờ lại còn xảy ra.

Lưu Triệt cho đòi phương sĩ Loan Tử vào cung. Lúc đó là tháng Mười một giữa mùa đông, Trường An rét căm căm. Lưu Triệt mặc áo lông cáo ngồi trong đình có màn lụa quây kín bốn bề ở ngự hoa viên mà còn cảm thấy gió Bắc tràn về lạnh thấu xương, chỉ lướt qua cũng khiến đóng băng da mặt. Loan Tử được nội thị dẫn đường đi tới, tướng mạo thanh khiết, quần áo mỏng manh nhưng không hề cảm thấy lạnh. Lão tới dưới đình, quỳ xuống bái chào: “Phương sĩ Loan Tử, tham kiến Hoàng đế bệ hạ!”

Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi thản nhiên nói, “Đứng dậy đi.”

Loan Tử đứng dậy nhìn lên, chắp tay nói, “Bệ hạ”, còn chưa dứt lời thì đột nhiên giật bắn mình.

Dương Đắc Ý ở bên cạnh Lưu Triệt, thấy y hơi nhíu mày thì biết Hoàng đế không hài lòng, vội vàng quở mắng, “Nô tài ở trước mặt Hoàng thượng mà dám vô lễ!”

“Bệ hạ”, Loan Tử hoàn hồn lại bẩm, “Không phải tiểu đạo không có lý do gì lại dám to gan, chỉ là tiểu đạo tự nhận tu vi của mình hơi có chút thành tựu, có thể nhìn tướng mà biết được một chút thiên mệnh. Trên đỉnh đầu bệ hạ có sắc tía như mây, dày đến mức tiểu đạo quả thật là bình sinh chưa từng được trông thấy. Đó chính là tướng chân mệnh thiên tử.” Lão thấy Lưu Triệt hơi chuyển sắc mặt, lưỡng lự giây lát, lại nói: “Nhưng trên ấn đường của bệ hạ có sắc tối, đó là tướng bị người dùng Vu cổ ám hại.”

Lão nói câu này như trời long đất lở. Tất cả đám cung nhân trong vườn đều biến sắc. Từ thời lập nước Đại Hán tới nay, các vị hoàng đế tiền nhiệm đều giữ chuyện Vu cổ kín như bưng, chỉ riêng triều Hán Vũ Đế đã phế hai hoàng hậu đều với lý do là Vu Cổ. Hai chữ này chính là ác mộng ở cung Vị Ương. Lưu Triệt đột nhiên sầm mặt, cười lạnh nói, “Đạo trưởng ăn nói lung tung, chẳng lẽ cho rằng đao phủ của trẫm chém không đứt được đầu của ngươi?”

“Tiểu đạo không dám.” Loan Tử giọng điệu cung kính nhưng lại tỏ vẻ không một chút hãi sợ, ngang nhiên nói tiếp: “Bệ hạ là thánh quân nên chẳng ngại kẻ gian làm loạn, ý đồ bất chính. Những này gần đây bệ hạ có cảm thấy thân thể khó chịu không?”

Lưu Triệt không thay đổi sắc mặt nhưng lại thoáng động lòng nhớ đến cơn bệnh nặng trước đây mấy ngày nên cũng lấy làm nghi hoặc, hỏi giọng lạnh băng, “Nếu thế thì đạo trưởng có thể chỉ ra ai là người đã làm loạn Vu cổ không?”

“Tiểu đạo không biết ai trong cung Vị Ương cả.” Loan Tử bình tĩnh ung dung đáp: “Nhưng tiểu đạo dám khẳng định người làm loạn tất ở trong cung. Hơn nữa”, Lão ngưng thần nhìn quanh rồi giơ tay chỉ hướng nam, nói vẻ chắc chắn: “Ở vào hướng kia.”

“Mã Hà La!” Lưu Triệt lớn tiếng gọi.

“Dạ.” Mã Hà La tiến ra đáp.

“Ngươi dẫn một đội Kỳ Môn quân lục soát các cung điện phía nam cung Vị Ương, nếu không phát hiện được gì”, Lưu Triệt nhìn Loan Tử bằng vẻ mặt quỷ quyệt, nói giọng lạnh tanh, “Trẫm không muốn gì khác, chỉ cần đầu của cửu tộc nhà ngươi.”

“Tiểu đạo là người tu hành”, Loan Tử chắp tay cười nói, “Cửu tộc nhà thần đều đã mất rồi. Nếu bệ hạ không tin thì cứ lấy cái đầu này là được.’

Mã Hà La đi một lúc lâu rồi chạy theo hành lang từ cung Vị Ương trở về bẩm, “Khởi bẩm bệ hạ, thần lục soát các cung điện ở phía nam, phát hiện vật này dưới nền đất điện Phi Sương nơi ngày xưa Lý Tiệp Dư tự vẫn.”

“Hay, hay lắm.” Lưu Triệt giận đến cực điểm nhưng lại không hề tỏ sắc giận, thản nhiên nói, “Trình lên.”

Cung nhân bưng chiếc khay sợ run cầm cập trình lên trước ngự giá. Lưu Triệt ngưng thần nhìn xem, Thấy trong khay có hai hình nộm nhỏ, một nam một nữ, sau lưng có khắc ngày sinh tháng đẻ, chữ viết còn rất non nớt. Ngày sinh tháng đẻ trên lưng một hình nộm tất nhiên là của y, chủ nhân ngày sinh tháng đẻ còn lại rõ ràng là Trần A Kiều trong điện Trường Môn.

“Nghiệt tử”, Lưu Triệt cười lạnh, Nghiến răng rít lên hai chữ này. “Trẫm vẫn nghĩ tới tình phụ tử nên không đành lòng sát hại. Nó thì tốt rồi, dám tái diễn Vu cổ, gây họa làm loạn cung đình.”

“Truyền lệnh của trẫm”, y buông từng chữ một, “Niêm phong điện Phi Sương, giam Tứ hoàng tử và Công chúa Cái Trường vào đại lao phủ Tông nhân.”

Trong phủ Tề vương, Ninh Triệt mấy ngày liền cầu xin được gặp Tề Vương nhưng Tề vương Lưu Cứ vẫn cự tuyệt không gặp. Mãi đến hôm nay rốt cục mới thấy thị tùng của Tề vương bước ra nói: “ Ninh tiên sinh, Vương gia lệnh mời ngài vào.”

Ninh Triệt đi vào, hỏi ngay: “Vương gia thật sự không nhận ra rằng bây giờ không phải lúc hành động à?”

“Ta biết.” Lưu Cứ nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói, “Cho nên mấy ngày qua mới không chịu gặp tiên sinh.” Hắn sợ phải nghe Ninh Triệt phân tích lợi hại khiến mình bỏ cuộc.

“Bây giờ người kia chắc đã gặp phụ hoàng rồi, thế nên tiên sinh có muốn nói gì cũng không cần thiết nữa.”

Ninh Triệt nhắm mắt, chán nản hỏi tiếp: “Kính xin Vương gia giải thích vì sao đã biết rõ việc không ổn mà vẫn khăng khăng chấp nhất hành động?”

“Vì ta là phận con cái.” Lưu Cứ cười nói, “Ta không thể dễ dàng bỏ qua việc phụ thân bố cáo thiên hạ rằng mẫu thân từng mưu hại người phụ nữ khác, sau đó lại cố giúp người đó ngồi lên vị trí của mẫu thân. Cho dù tất cả có thể đều là sự thật.”

Chuyện năm xưa trôi qua đã lâu, người ngoài không còn biết được chân tướng. Thật ra người đã sa lầy trong chốn hoàng gia thì có ai là vô tội. Bệ hạ không thể trách mình cũng không thể chỉ trích người hiện giờ là Phi Nguyệt trưởng công chúa Lưu Lăng được, nên sẽ phải để người đã chết gánh chịu tất cả mọi tội lỗi. Cho dù người đó đã từng có vô số đêm má ấp vai kề bên gối của y. Bệ hạ quả nhiên rất tuyệt tình với người đã ruồng bỏ.

“Ta biết ngươi nghĩ gì.” Lưu Cứ cười nhạt, “Ngươi có thể nghĩ như vậy nhưng ta đứng trên lập trường của mình thì không.”

“Hơn nữa”, hắn sầm mặt, lạnh lùng nói, “Không ai có thể biết rõ hơn ta về việc phụ hoàng là người vô tình đến mức nào, vì vô tình và đa nghi vốn là căn bệnh chung của những người đã lên ngôi cao. Những năm qua, giữa ông ấy và Trần A Kiều không có xung đột cho nên mới có thể bình an vô sự. Thế nhưng một khi có xung đột thì…”

Hắn mím môi: “Ta muốn xem phụ hoàng của ta rốt cuộc có thể vô tình đến mức nào.”

Trần A Kiều nhờ Tang Hoằng Dương đi điều tra về lai lịch của người phương sĩ có tên là Loan Tử, nhưng Tang Hoằng Dương huy động lực lượng cả mấy nhà vẫn không điều tra ra một chút tin tức gì về người này. Lão dường như cũng từ hư không xuất hiện giống bọn họ.

Ngày hôm qua, Trần A Kiều ở điện Trường Môn nghe thấy hai chữ kinh hoàng kia mà ngơ ngẩn, suýt nữa cắn rách môi mình mà không biết. Lại là Vu cổ, cứ mỗi lần nàng cho rằng có thể hoàn toàn thoát khỏi cơn ác mộng hai chữ này gây ra thì vận mệnh lại một lần nữa ập tới khiến nàng không thể quên nơi nàng đang sống là một dạng địa ngục trần gian như thế nào.

Nàng mệt mỏi nhắm mắt lại, nói: “Bệ hạ, người tin Loan Tử hơn là tín nhiệm con của mình sao?”

“Trẫm cũng không tin hắn.” Lưu Triệt điềm nhiên đáp, “Nhưng chẳng qua hắn là một phương sĩ, mà Mã Hà La lại đích thực lục soát được hình nhân bị làm phép Vu cổ trong điện Phi Sương.”

“Vậy cũng có thể là do bị hãm hại”, A Kiều cười mỉa mai nói, “Năm Nguyên Quang thứ năm, chẳng lẽ bệ hạ không biết rõ tại sao hình nhân Vu cổ lại tiến vào điện Tiêu Phòng được ư?”

“Kiều Kiều.” Lưu Triệt chợt cao giọng giận giữ quát lên, nhưng rồi dịu lại: “Nàng phải biết rằng nó không chỉ nguyền rủa trẫm mà còn cả nàng nữa đấy.”

“Thiếp tuyệt đối không tin vật chứng.” A Kiều lắc đầu, “Nhưng đó là con trai của người chứ không phải con thiếp. Người không đau lòng thì chẳng lẽ thiếp lại phải đau lòng?”

“Nhưng mà”, nàng buồn bã nói, “Nếu một ngày có người nói với bệ hạ rằng Mạch Nhi hoặc thiếp có ý đồ dùng Vu cổ với bệ hạ thì bệ hạ sẽ làm thế nào đây?”

Ngoài A Kiều thì chưa từng có một người phụ nữ nào dám chất vấn y trực tiếp như thế. Lưu Triệt ngắm nhìn dung nhan kiều diễm trước mắt, lòng chùng xuống. Y ôm lấy A Kiều, nói từng chữ một, “Trẫm nhất định không phụ khanh!”

Chuyện Hoàng đế, Hoàng hậu tranh cãi trong điện Trường Môn rất nhanh chóng loan truyền. Loan Tử nghe được thì kín đáo nhíu mày. Ba ngày sau, Loan tử yết kiến vua lần thứ hai, tiếp tục nói ra lời kinh hãi. Mặc dù đã đào được Vu cổ ở điện Phi Sương nhưng sắc u ám trên ấn đường của bệ hạ vẫn không tiêu tán. Trong cung đình còn có người khác dùng Vu cổ.

Lần này, lão chỉ đúng về hướng điện Bác Vọng của Thái tử Lưu Mạch.

Ánh mắt sắc bén của Lưu Triệt nhìn chằm chặp vào lão một lúc lâu. Lão đang còn run sợ thì chợt nghe Lưu Triệt nhếch miệng cười ra lệnh, “Dẫn người tra xét điện Bác Vọng.” Trong khoảnh khắc, cả điện lặng như tờ.

Mã Hà La chưa kịp dẫn Kỳ Môn quân tới điện Bác Vọng thì Trần A Kiều và Lưu Mạch đã hay tin. A Kiều chỉ cười lạnh, ánh mắt trầm tĩnh dần dần ngưng lại như một tầng băng mỏng. Thái tử Lưu Mạch liền tới điện Tuyên Thất, tấu xin được gặp mặt quân vương. Loan Tử đứng ở dưới điện, tâm trạng thấp thỏm khi thấy Lưu Triệt gật đầu: “Cho Thái tử vào.”

Mã Hà La dẫn Kỳ Môn quân vào điện Bác Vọng thì Thái Tử Lưu Mạch không còn ở đó, chỉ có Thái tử phi Thượng Quan Linh đứng bên ngoài điện trong gió Bắc thổi ào ào, dáng vẻ lẻ loi.

“Phụng ý chỉ của bệ hạ”, Mã Hà La chắp tay, nghiêm nghị nói, “lục soát điện Bác Vọng.”

“Nếu không phải ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ”, Thượng Quan Linh cười lạnh nói, “ngươi cho rằng ta sẽ cho phép ngươi bước vào điện Bác Vọng sao?”

Mã Hà La chột dạ, nhớ ra thân phận của người trước mắt này là vị thê tử được Thái tử Đại Hán cưới hỏi theo đúng lễ giáo, nếu không có gì bất ngờ thì sau này chắc chắn là mẫu nghi thiên hạ.

Hắn lui lại nửa bước, làm đại lễ, “Tham kiến Thái tử phi điện hạ.”

“Miễn lễ.” Thượng Quan Linh bình thản, “Mã tướng quân, ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ, tất nhiên ta không thể ngăn cản ngươi lục soát điện Bác Vọng. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ hôm nay ngươi lục soát cung điện của Thái tử Đại Hán. Ta là nữ chủ nhân của điện Bác Vọng, tuy không thể đích thân chứng kiến lục soát nhưng lại có thể phái người hỗ trợ, chỉ điểm cho tướng quân một chút, giúp tướng quân tránh lầm vào nơi trọng yếu mà chẳng may phạm tội. Tướng quân thấy thế nào?”

“Nếu như thế”, Mã Hà La chắp tay nói, “Đa tạ Thái tử phi.”

“Thành Liệt”, Thượng Quan Linh xoay người, điềm nhiên ra lệnh, “Ngươi giúp Mã tướng quân lục soát một chuyến đi.”

Cô bước từng bước vào trong điện. Cô mới làm Thái tử phi nên không có kinh nghiệm đối phó với những tình huống như thế này, nhưng lại không thể không đối phó. Phu quân của cô ở bên ngoài làm những việc cần làm, nếu cô ở nhà mà thất bại thì sẽ khiến cho Lưu Mạch gặp khó khăn mọi bề. Bản thân cô không muốn mình làm liên lụy đến hắn.

Lưu Mạch bước vào điện Tuyên Thất với vẻ mặt trầm tĩnh, nhìn Loan Tử, “Ta nghe nói ngươi rất giỏi thuật trường sinh?”

“Đúng vậy.” Loan Tử trả lời khiêm tốn.

“Như vậy”, Lưu Mạch nhanh như chớp lấy thanh kiếm đeo trên lưng một thị vệ của Hoàng đế đang đứng dưới điện Tuyên Thất, uy nghiêm hỏi, “Nếu ta chém đầu ngươi thì ngươi có thể mọc ra một cái đầu khác không?”

Hắn vung kiếm chém vút qua, máu tươi trước tiên nhuốm tràn lưỡi kiếm rồi lập tức chiếu đỏ mắt mọi người. Đầu Loan Tử rụng xuống, lăn mấy vòng trên điện rồi mới dừng lại, cặp mắt còn lộ vẻ kinh hoảng. Đám thị vệ nhao nhao hét lên: “Hộ giá”, rồi vung đao rút kiếm che chắn bên dưới điện, trong lòng đầy nghi hoặc. Người mà bọn họ đang giơ đao chĩa thương vào chính là Thái tử Đại Hán. Lưu Mạch cười lạnh, ném thanh kiếm xuống nền điện tạo nên tiếng kêu loảng xoảng, nhíu mày nhìn vị quân vương bên trên điện.

“Lui ra đi.” LưuTriệt phất tay nói.

“Ngươi thật sự là đứa con trai giống trẫm nhất.” Y nhìn con trai cả đứng bên dưới điện, nói rành rọt, giấu đi ánh mắt tán thưởng.

“Đúng vậy.” Lưu Mạch cười lạnh, “Con là con của người. Mặc dù chưa chắc con đã thích người, nhưng con tôn kính người. Chỉ cần người không động đến mẫu thân con, không động đến muội muội của con”, hắn chần chừ một chút rồi nói tiếp: “không động đến vợ con của con thì con cũng không muốn làm một người nhẫn tâm điên cuồng có ý đồ sát hại phụ thân, hành thích hoàng thượng.”

“Trẫm tin con.” Lưu Triệt nói dứt khoát, xoay người ra lệnh, “Bảo Mã Hà La không cần lục soát nữa.” Y thờ ơ liếc nhìn thủ cấp Loan Tử bên dưới điện, nói giọng chán ghét: “Mang đi, ném ra ngoài bãi tha ma.”

Lưu Mạch cười nhạt, chớp chớp mắt, nhẹ nhàng nhắc nhở, “Lần này người đã thật sự làm tổn thương mẫu thân rồi.”

Tề vương Lưu Cứ sau đó cũng nghe được tin tức từ Trường An truyền về, uống cạn chén rượu, cười lạnh nói, “Đúng thật là phụ tử tình thâm!”

“Thật ra thì”, Ninh Triệt thở dài, “chưa chắc kế này của Vương gia đã không được mà chỉ là không phải lúc. Nếu đợi thêm mấy năm nữa, mâu thuẫn giữa quyền lực của vua và quyền lực của thái tử phát sinh, thì bệ hạ chắc sẽ không nương tay dễ dàng như vậy đâu.”

“Nhưng mà”, Ninh Triệt hỏi thêm, “tại sao Vương gia nhất định phải đối phó với Tứ hoàng tử trước?”

“Có hai nguyên nhân.” Lưu Cứ đáp: “Một là bởi vì hắn có căn cơ yếu kém nên thích hợp để mang ra thử đao, còn thứ hai thì chẳng qua là lấy đạo kỳ nhân để trị kỳ nhân mà thôi.” Không biết Lý Chỉ nằm trong mồ mà thấy tình huống ngày hôm nay thì có hối hận hay không?

Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt cuối cùng đã chọn lựa tin tưởng con mình. Khi thánh ý truyền tới điện Bác Vọng thì Mã Hà La vẫn chưa lục soát xong. Hắn mỉm cười quỳ tiếp ý chỉ, thầm thở dài nghĩ, “Quả nhiên bệ hạ vẫn coi trọng Trần hoàng hậu và Thái tử điện hạ.”

Kỳ Môn quân rút khỏi điện Bác Vọng. Thượng Quan Linh ngồi sụp xuống ghế, cảm thấy vẫn chưa hết sợ hãi, tay chân bủn rủn. Dù sao, từ ngày nhà Hán hưng thịnh đến nay đã có biết bao nhiêu người bị choàng lên hai chữ “Vu cổ” mà chết không chỗ chôn thây, cô và Lưu Mạch lần này có thể thoát khỏi an toàn chứng tỏ trong lòng bệ hạ vẫn còn ưu ái. Lưu Mạch trở về điện Bác Vọng, trông thấy Thượng Quan Linh như thế, lấy làm thương xót, mỉm cười trấn an: “Không có chuyện gì nữa rồi.”

Thượng Quan Linh vùi đầu vào lòng hắn, phiền muộn hỏi: “Bệ hạ thật sự không còn nghi ngờ chàng nữa chứ?”

“Phụ hoàng”, Lưu Mạch cười một tiếng thê lương, “Người còn đang bận trấn an mẫu thân.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 89: Không rõ là đa tình hay vô tình

Lúc Lưu Triệt bước vào điện Trường Môn điện thì A Kiều đang đánh đàn dưới cửa sổ. Nàng nghe tiếng bước chân của y liền bỏ cây đàn xuống, nhìn sang.

“Chuyện hôm nay”, không biết vì sao Lưu Triệt trông thấy ánh mắt trong trẻo của A Kiều lại thoáng chần chừ.

“Bệ hạ không cần nói nữa”, A Kiều khẽ mỉm cười, khóe môi hơi nhếch lên, “Bệ hạ có thể thu hồi lệnh lục soát điện Bác Vọng vào thời điểm quyết định cuối cùng, chừa lại một đường cho thiếp và Mạch Nhi là thiếp cảm ơn rồi.”

Lưu Triệt chợt thấy lòng lạnh như băng. Y có thể dự liệu rằng A Kiều sẽ oán trách, sẽ làm toáng lên, sẽ nổi giận nhưng chưa từng nghĩ rằng nàng lại bình tĩnh đến mức lạnh lùng như vậy, thậm chí còn nói trước những gì y định nói. Tuy những lời nàng nói có vẻ như rộng lượng tha thứ nhưng y lại mơ hồ cảm giác thấy khoảng cách rất gần giữa hai người đã bị kéo lùi lại một bước dài. Y cảm giác như đang trông thấy xuân về hoa nở, khắp nơi ấm áp nhưng chỉ trong chớp mắt đã quay ngược lại mùa đông ngập tràn băng giá mà y thì lại không thể làm được gì cả. Cảm giác thất bại như vậy khiến y cực kỳ tức giận, ôm siết nàng vào lòng, nói: “Trẫm đâu có phụ bạc nàng.”

“Thiếp biết.” Nàng nhắm mắt, đáp.

Nàng biết, với tính cách đa nghi, với sự kiêng kỵ Vu cổ của y mà vẫn chịu dừng tay vào thời khắc quyết định cuối cùng thì thật sự là y vẫn nhớ tới lời hứa với nàng. Nhưng khi hạ lệnh lục soát điện Bác Vọng của Mạch Nhi thì y thật sự không hề nghi ngờ một chút nào hay sao? Nhà đế vương tình cảm nhạt nhẽo, không cần biết lòng nghi ngờ nhiều hay ít, chỉ cần nó tồn tại thì sẽ không xóa đi được nữa.

Nàng cũng muốn coi điện Trường Môn là nhà của nàng, trong ngôi nhà phồn hoa tươi đẹp này có y, có nàng, có Mạch Nhi, có Tảo Tảo. Nếu như trong suốt quãng đời còn lại, cả nhà có thể sống vui vẻ hòa thuận thì coi như là một thứ hạnh phúc nhưng thứ hạnh phúc đó lại nằm trong tay y. Hôm nay y tin nàng thì bọn họ có thể làm người một nhà. Nếu như có ngày y không tin nàng nữa thì có phải ngôi nhà này sẽ sụp đổ trong chớp mắt? Không chỉ tình cảm của bọn họ sụp đổ mà có khi tính mạng của ba mẹ con nàng cũng đi theo. Trong tình cảnh như vậy, sao bọn họ có thể là người một nhà cho được?

Lưu Triệt ôm A Kiều trong lòng, nhạy cảm nhận thấy tâm trạng không vui của giai nhân liền cười lạnh, thô bạo hôn lên đôi môi của nàng. A Kiều kêu “a” một tiếng, bị động tiếp nhận nụ hôn cưỡng bức của y. Những năm qua nàng bị sự sủng ái nhất mực của y che mắt, dần có chút vờ không biết, quên mất người bên gối là hạng người gì.

Chuyện đã vậy thì cứ để mặc nó xảy ra. Nàng bỗng nhiên ôm lấy bờ vai Lưu Triệt, chủ động hôn trả lại. Bất kể như thế nào, hiện tại nàng yêu người đàn ông này. Bất kể như thế nào, hiện tại y vẫn còn tin nàng. Như vậy, ít nhất ở hiện tại nàng nên học theo câu nói “Sống ngày nào vui ngày ấy” của cổ nhân. Ngày mai dù có trời nghiêng, đất lở, núi đổ, sông rời, tình yêu mất đi cũng là chuyện của ngày mai. Đến ngày mai, bọn họ sẽ bình tĩnh đối phó, còn hôm nay tạm thời cứ thế này đi. Lưu Lăng vẫn bảo nàng cần phải luôn tỉnh táo nhìn thế sự, không được học cách sống phóng túng. Thật ra thì phóng túng cũng có cái hay của phóng túng. Thế nên sáng nay, nàng bỗng nhiên rất muốn phóng túng một trận với người đàn ông này.

Lưu Triệt thấy A Kiều đột nhiên nóng bỏng như vậy thì khá ngạc nhiên, nhưng như thế cũng tốt. Y cởi bỏ y phục của A Kiều, đôi mắt nóng rực nhìn xoáy sâu vào mắt nàng. Dù thế nào, trẫm không thể dung thứ cho bất kỳ kẻ nào dám tổn thương nàng. Y thầm hứa trong lòng.

Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Hoàng đế truyền xuống ý chỉ, phế tước hiệu Quảng Lăng Vương của Tam hoàng tử Lưu Hoành, cấm cố ở Bắc cung, cả đời không được ra khỏi Trường An. Ý chỉ ban ra đột ngột, chấn động cả hai cung Vị Ương và Kiến Chương. Hình Khinh Nga khóc đến chết đi sống lại, tuyệt vọng hỏi, “Hoành Nhi chưa hề làm chuyện gì sai, sao bệ hạ lại trừng phạt nghiêm khắc như thế?” Một hoàng tử bị cấm cố trong cung cả đời thì coi như là hắn đã chết.

Lưu Hoành nhận thánh chỉ rất bình tĩnh, thản nhiên hỏi, “Ta có thể cầu kiến phụ hoàng được không?”

Giọng hắn rất hờ hững. Người trong cung Vị Ương ai nấy đều chứng kiến sự vô tình của bệ hạ. Vương tiệp dư, Vệ hoàng hậu, Lý tiệp dư trước khi chết đều từng cầu kiến bệ hạ nhưng bệ hạ chưa từng mảy may niệm tình chăn gối. Bản thân hắn là một hoàng tử chưa từng được sủng ái, không hề dám ôm hy vọng. Vì vậy, khi thấy Lưu Triệt xuất hiện ở Bắc cung thì hắn sửng sốt một lúc lâu mới dám tin rằng không phải mình đang nằm mơ.

“Bởi vì con là con của trẫm”, Lưu Triệt nhìn hắn, “Cho nên trẫm mới tới gặp con lần này với hy vọng giải thích cho con hết nghi hoặc.”

Hắn trầm mặc chốc lát, hỏi, “Loan Tử đã bị Lưu Mạch giết chết rồi thì làm sao phụ hoàng phát hiện được sơ hở của con?”

“Trẫm không phát hiện ra điều gì.” Lưu Triệt lắc đầu, nói, “Nhưng trẫm cảm thấy nếu Đán Nhi muốn làm chuyện Vu cổ thì sao lại để cho tên phương sĩ đó biết được chứ? Trẫm không tin Kiều Kiều của trẫm lại làm chuyện này. Thế nên trong cung Vị Ương chỉ còn có con và mẫu phi con là đáng bị hiềm nghi.”

Năm Nguyên Đỉnh thứ tư, khi Tam hoàng tử ra mặt, dùng trượng đập chết tên tiểu nội thị đã động tay vào thuốc của Trần A Kiều thì Lưu Triệt liền giật mình nhận ra đứa con trai thứ ba đã bị y lãng quên nhiều năm cũng đã tới tuổi có suy nghĩ của riêng mình. Ngay sau đó y đã cài tai mắt của mình ở bên cạnh Lưu Hoành.

“Trẫm chỉ lệnh cho Trương Thang lôi tất cả nô tỳ thiếp thân của con ra dùng trượng tra khảo, chưa đầy mười trượng thì bọn chúng đã khai hết.”

“Thật ra thì con cháu hoàng gia mưu hại lẫn nhau là chuyện thường. Khi còn trẻ trẫm cũng từng ép huynh trưởng không còn đường lùi. Trẫm hiếm con, chỉ có được bốn đứa, trong đó có ba đứa thành tài đã rất vui mừng rồi.”

“Tuy nhiên”, Lưu Triệt nhìn Lưu Hoành, nghiêm nghị nói, “con làm việc rất có tài năng nhưng khí độ quá nhỏ nhen chỉ nghĩ đến thù riêng, không phải là người nên chọn cho nghiệp lớn. Bởi vậy, Trẫm không thể không vứt bỏ con.”

Lưu Hoành lặng người đi, tiếp đó điên cuồng cười to, “Tốt, tốt!”

Hắn nghiến răng nói, “Người ta nói phụ hoàng làm việc anh minh quả quyết, nhi thần đã quan sát nhiều năm trong cung Vị Ương này nhưng cảm thấy phụ hoàng chỉ mê đắm nữ sắc của Trần hoàng hậu chứ không phải tài giỏi gì lắm. Đến hôm nay mới biết, phụ hoàng dù sao cũng là phụ hoàng, luôn nhìn xa hơn đám con cái chúng nhi thần.”

“Chỉ là”, hắn cười vô cùng thống khoái, “phụ hoàng có nghĩ tới chuyện mặc dù có thể bố trí hạ Vu cổ trong điện Phi Sương nhưng nhi thần đang ở trong cung Vị Ương thì làm thế nào để tìm kẻ đồng mưu Loan Tử hay không?”

Hắn thở hổn hển, nghĩ cuộc đời mình đã rơi vào tình cảnh này thì coi như cũng xong rồi, đã vậy thì phải kéo Lưu Cứ xuống nước. Lời vừa thốt ra khỏi miệng, hắn lại lập tức hối hận vì Lưu Cứ còn tồn tại sẽ giống như một con rắn độc lúc nào cũng có thể cắn Lưu Mạch một miếng. Nếu cả Lưu Cứ cũng ngã xuống thì trên đời này thật sự không còn ai có thể uy hiếp được Lưu Mạch nữa rồi. Song ngoài dự liệu của hắn, Lưu Triệt cười khan một tiếng rồi quay đầu đi, hờ hững nói: “Trẫm biết. Trẫm biết đứa con thứ của trẫm vẫn luôn hận con trưởng. Trẫm biết rằng Cứ Nhi có một Ninh Triệt ở bên cạnh với ý đồ bất chính. Nhưng như thế thì thế nào?”

“Thái tử đã là thái tử rồi mà còn đấu không lại Cứ Nhi thì chính bản thân nó không có năng lực. Đến cuối cùng người ngồi được lên ghế rồng chẳng phải vẫn mang dòng máu họ Lưu của ta?”

Lưu Hoành run sợ hồi lâu mới chậm chạp cúi đầu xuống, nở nụ cười còn khó coi hơn cả khóc, “Con vốn cho rằng mình đã nhìn thấu sự vô tình của phụ hoàng. Cho tới bây giờ thì con đã biết, phụ hoàng còn vô tình ngoài sức tưởng tượng của con.”

“Con muốn hỏi thêm”, hắn lại nhếch môi, nét mặt quỷ dị, “phụ hoàng có thể bàng quan xem hai con trai tranh đấu nhưng có thật sự, phụ hoàng không làm vì người đàn bà trong điện Trường Môn kia?”

Lần đầu tiên kể từ khi Lưu Triệt bước vào điện Thanh Trữ, Lưu Hoành rốt cuộc cũng nhìn thấy y hơi biến sắc mặt, nhưng trong nháy mắt đã khôi phục bình tĩnh.

“Là bậc đế vương”, Lưu Triệt thản nhiên nói, “giang sơn và tình cảm vốn là hai thứ khác biệt.”

Lưu Hoành quỳ trên mặt đất nhìn theo phụ thân của hắn bước thẳng ra khỏi điện Thanh Trữ. Trong khoảnh khắc, nước mắt loang nhòa khuôn mặt khiến hắn không nhìn được rõ mọi vật. Hắn bất chấp hậu quả, la lớn: “Phụ hoàng, người còn nhớ nương thân Vương tiệp dư của con trong điện Thanh Lương chờ người tới chết không? Người còn nhớ dưỡng mẫu Hình Khinh Nga của con đợi người nhiều năm như vậy không?”

Nước mắt đàn ông không dễ rơi xuống. Sao không dễ rơi? Chỉ vì chưa tới lúc thương tâm. Nếu như người đàn ông có thể rơi nước mắt, chứng tỏ người đó cực kỳ thương tâm. Nước mắt nhòa gương mặt khiến hắn không thể nhìn rõ khi Lưu Triệt nghe hắn nói có dừng lại một bước nào hay vẫn một mực bỏ đi.

Sau khi Lưu Hoành bị giam lỏng ở Bắc cung, bệ hạ hạ chỉ rằng chuyện Tứ hoàng tử và Cái Trường công chúa liên quan đến Vu cổ trước kia là do Tam hoàng tử Lưu Hoành mưu hại, nay đã điều tra sáng tỏ nên vô tội phóng thích. Tứ hoàng tử Lưu Đán năm xưa được phong là Yến vương, nay đã lớn phải lập tức lên đường tới đất phong. Cái Trường công chúa Lưu Yên quay về điện Phi Sương.

Trải qua một phen hãi hùng ở phủ Tông nhân, lòng dạ Yến vương đã nguội lạnh. Sau khi thấy lại ánh mặt trời và được phụ hoàng an ủi hắn rơi lệ tại chỗ. Trước đêm đi tới đất phong, Lưu Đán đến điện Phi Sương nói với tỷ tỷ Lưu Yên: “Ngày mai đệ đi tới đất phong, kình xin tỷ tỷ tự bảo trọng. Cung Vị Ương hôm nay danh chính ngôn thuận đã là thiên hạ của Hoàng hậu nương nương. Trần hoàng hậu đã độc chiếm ân sủng của Thánh thượng, tỷ tỷ nên an phận, chớ để cho đệ đệ ở bên ngoài lo lắng.”

Lưu Yên cả giận nhướng mày, “Đệ quên mẫu phi chết như thế nào rồi sao?”

Cô buồn bã nói, “Mẫu phi tự vẫn bỏ mạng ở chỗ này. Đệ thân là con trai độc nhất của mẫu phi, sao lòng nhiệt thành lại không bằng một thiếu nữ như ta?”

“Chỉ dựa vào nhiệt thành liệu có được không?” Lưu Đán bất đắc dĩ nói: “Chúng ta ra vào phủ Tông nhân chuyến này, chẳng lẽ tỷ tỷ còn chưa hiểu được sao? Hoàng tử công chúa cái gì chứ, ở trong mắt phụ hoàng đều không đáng nhắc tới.”

“Hơn nữa”, ánh mắt hắn vụt trở nên xa xăm, “Mẫu phi bỏ mình, rốt cuộc chúng ta nên oán trách ai đây?”

Lưu Yên im lặng. Cô nghĩ tới Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ hôm nay theo mẹ mình sống ở Trường Môn điện với muôn vàn sủng ái, thầm nén ai oán trong lòng. Sao bọn họ rõ ràng đều là con gái của phụ hoàng nhưng người lại đối xử cách biệt như trời với đất vậy chứ?

Sóng gió năm Nguyên Đỉnh thứ sáu dần trôi qua. Cuối năm dẹp xong loạn Tây Khương, Lưu Triệt thiết lập chức vụ Hộ Khương giáo úy nắm chắc Tây Khương trong tay, từ đó về sau hơn trăm năm không còn xảy ra biến cố gì. Dù việc nước trôi chảy nhưng Dương Đắc Ý lại cảm thấy gần đây tính tình đế vương trong điện Tuyên Thất ngày càng cáu kỉnh. Hắn mơ hồ biết rằng tâm trạng này của đế vương có liên quan với Hoàng hậu nương nương trong điện Trường Môn. Từ sau chuyện Vu cổ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt và Trần A Kiều đã dần lại đối xử với nhau “tương kính như tân”[1], dù bề ngoài luôn giữ hòa khí nhưng ẩn sâu trong xương cốt là một tầng băng cứng. Có là hoàng đế thì cũng chẳng thể làm được gì trong chuyện này nên càng thêm tức giận. Còn hắn, Dương Đắc Ý, nhìn thấy hết thảy nhưng không giúp được gì. Thế nên khi Công chúa Duyệt Trữ đến điện Tuyên Thất cầu kiến bệ hạ, hắn thậm chí còn vui mừng đón cô. Trong bốn người con trai, sáu người con gái, bệ hạ coi trọng nhất là Thái tử Lưu Mạch, sủng ái nhất là Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ. Vì vậy, lúc này mà gặp công chúa thì chắc bệ hạ sẽ vui vẻ. Dù sao thì Lưu Sơ cũng là con gái của Trần hoàng hậu. Dương Đắc Ý nhẹ bước vào điện, bẩm, “Bệ hạ, Công chúa Duyệt Trữ ở bên ngoài.”

[1] Tương kính như tân: Vợ chồng kính nhau như khách.

Lưu Triệt hơi bất ngờ, chậm rãi hỏi, “Sơ Nhi?” Y buông cây bút lông sói trong tay, ra lệnh: “Để nó vào đi.”

Lưu Sơ vén rèm đi vào, nhướng mày gọi lớn, “Phụ hoàng.” Trong chốc lát, cặp mắt trong trẻo của cô như chiếu sáng cả căn phòng u ám nơi điện Tuyên Thất. Y không nhịn được cười khẽ, nhìn đứa con gái giống hệt A Kiều, dịu mặt hỏi, “Sơ nhi có việc gì vậy?”

Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ là em song sinh với con trai trưởng Lưu Mạch, đến năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì cũng đã mười bảy tuổi rồi. A Kiều và y đã từng trải qua một tuổi thanh xuân đẹp như giấc mộng chẳng thể nào níu kéo trở lại được nữa. Lúc này thấy Lưu Sơ, y mới giật mình. Cả năm nay y bận quá nhiều chuyện nên không để ý rằng con gái mình đã là một thiếu nữ xinh đẹp không hề thua kém A Kiều năm xưa. Không biết con cái nhà ai có vinh hạnh nắm giữ được viên minh châu này của y.

Trong phút chốc, Lưu Sơ tỏ vẻ mặt vừa giận dữ vừa thẹn thùng, cuối cùng quay đầu đi, vùng vằng hỏi, “Phụ hoàng sai Mã Hà La đến tra xét điện Bác Vọng của ca ca, chẳng lẽ thật sự cảm thấy ca ca đã làm chuyện gì bất hiếu sao?”

Từ khi trở về cung từ hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu tới nay, cô càng thêm được sủng ái. Mặc dù theo các cung nhân lén lút nói với nhau thì đương kim Hoàng thượng là người rất vô tình nhưng lại chưa bao giờ làm gì bất lợi với cô, vì vậy cô cũng không kinh sợ Lưu Triệt như những hoàng tử công chúa khác, có gì không vừa lòng thì liền hỏi thẳng. Cô hoàn toàn không nhìn thấy Dương Đắc Ý chợt biến sắc, liên tục nháy mắt với mình. Lưu Triệt không nổi giận, cười nhẹ một tiếng, cho Dương Đắc Ý lui, ôn tồn nói, “Trẫm bảo Mã Hà La đi lục soát điện Bác Vọng, có mấy dụng ý.”

“Một trong số đó là muốn xem Mạch Nhi ứng đối ra sao.”

Lưu Sơ sáng mắt, mỉm cười nói, “Ca ca giỏi quá.”

“Đúng vậy”, Lưu Triệt khẽ mím môi, “Biểu hiện của Mạch Nhi quả thực không khiến trẫm thất vọng.”

Vậy những dụng ý khác của phụ hoàng thì sao? Lưu Sơ thoáng nghĩ. Cô há miệng định hỏi tiếp nhưng cuối cùng lại im lặng vì mơ hồ cảm thấy không hỏi thì tốt hơn. Có một số chuyện nên để cho thời gian xóa nhòa đi, như vậy ít nhất bọn họ còn có thể giữ được vẻ hòa thuận bên ngoài. Một nỗi bi thương cuộn lên trong lòng cô. Cô có thể giả bộ ngu ngốc không hỏi tới nhưng mẫu thân có thể sao? Dù sao, người sống cả đời với phụ hoàng là mẫu thân. Mấy ngày nay, không phải cô không thấy sóng gió ngầm nổi lên giữa mẫu thân và phụ hoàng nhưng cô là con gái thì có thể làm gì đây?

“Sơ Nhi hôm nay cố ý tới gặp trẫm là vì chuyện này sao?” Lưu Triệt hỏi.

“À? Không phải”, Lưu Sơ phục hồi tinh thần, duỗi ngón tay, nghiêm túc nói, “Phụ hoàng còn nhớ ngày đó khi đi tuần thú phương đông ở Lâm Phần, phụ hoàng còn nợ con một yêu cầu không?”

“À?” Lưu Triệt hỏi vẻ ẩn ý, “Sơ Nhi đã nghĩ ra là muốn điều gì rồi sao?”

Lưu Sơ không đáp, cúi đầu, chậm rãi nói, “Danh sách con cháu thế gia chỗ mẫu thân đã chất thành một chồng cao, còn kinh khủng hơn cả năm đó ca ca chọn phi.”

“Đúng vậy.” Lưu Triệt bật cười nói, “Sơ Nhi cũng không còn nhỏ nữa, đúng là nên gả chồng rồi.” Tề vương Lưu Cứ nhỏ tuổi hơn cô mà đã kết hôn, y chẳng thể nào giữ mãi đứa con gái mình thương yêu nhất ở bên cạnh.

“Con không cần,” Lưu Sơ cao giọng, kéo tay áo rộng của Lưu Triệt, nhõng nhẽo: “Phụ hoàng, người cho con kéo dài thêm mấy năm nữa nhé, con chưa muốn bị gả chồng.”

“Ít nhất là con không muốn bị gả cho đám con nhà quyền quý đó.” Cô khẽ giọng lẩm bẩm.

“Sao Sơ Nhi không nói chuyện đó với mẫu thân?”

“Mẫu thân?” Lưu Sơ thở dài, “Con có nói nhưng mẫu thân bảo người không thể làm chủ, nói con phải tự tới tìm phụ hoàng nên con mới tới đây.”

Cô ra vẻ vô tội, Lưu Triệt nghe xong thấy lòng trầm xuống. Y xưa nay thương yêu Duyệt Trữ, chuyện như vậy chỉ cần A Kiều muốn thì y sao có thể không đồng ý. Chẳng lẽ ngay cả khi ở chung vào buổi tối mà A Kiều cũng không muốn nói với y một câu? Y đầu tiên cảm thấy hơi giận nhưng sau đó lại dần buồn bã. Sớm biết như thế này, sớm biết như thế này thì ngày đó y thà không cho Loan Tử vào gặp, đám con trai của y muốn làm loạn thế nào cũng mặc. Nếu chúng quá đáng thì cần phạt cứ phạt, cần cấm cung cứ cấm cung, mọi chuyện nếu cứ thế trôi qua thì làm gì đến mức này? Suy nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu khiến Lưu Triệt đột nhiên sợ hãi, thì ra vị trí A Kiều trong lòng y quan trọng như vậy sao? Y xưa nay làm việc không quay đầu, nhưng bây giờ lại bởi vì A Kiều mà mơ hồ cảm thấy hối hận.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 90: Non nước ẩn tình thu

“Phụ hoàng, phụ hoàng.” Lưu Sơ thấy sắc mặt y biến đổi liên tục bèn lên tiếng gọi hai lần liền.

Lưu Triệt choàng tỉnh, liếc mắt nhìn Lưu Sơ hỏi: “Lưu Sơ thích người nào chưa?”

Lưu Sơ vừa xấu hổ vừa có chút mơ màng, bĩu môi nói: “Con chỉ thích Hoắc ca ca thôi.”

“Khứ Bệnh?” Y hồi tưởng lại người thiếu niên chí khí hiên ngang, còn trẻ mà tính tình cao ngạo bất kham, hùng quang vạn trượng nhưng đáng tiếc là mất đi quá sớm.

“Sơ Nhi”, y nhắc nhở: “Con phải nhớ là Khứ Bệnh qua đời đã sáu năm.”

Nếu người thiếu niên đó còn sống, với hùng quang vạn trượng như thế thì tất nhiên là xứng đôi với con gái bảo bối của y nhưng cũng sẽ làm y phải nhức đầu vì hai người phân chia về hai nhà Trần Vệ, cho dù có được người đời coi là Kim Đồng Ngọc Nữ thì cũng làm sao có thể lấy nhau. Nhưng Hoắc Khứ Bệnh đã chết. Cho dù y có yêu thích người thiếu niên kia đến mấy cũng không muốn đứa con gái bảo bối mà y nâng niu trên tay lại phải trói buộc cả cuộc đời mình với một người anh hùng đã khuất.

“Đúng vậy.” Lưu Sơ ảm đạm cúi đầu, khẽ nói, “Hoắc ca ca đã qua đời lâu rồi.”

Lưu Triệt nhìn vẻ mặt con gái, hiểu rằng quá nửa là trong lòng con gái mình đã có người mới, nếu không thì cô bé đã bị kích động hơn nhiều. Lưu Sơ, ít nhất về mặt tính tình, rất giống tính cách yêu hận rõ ràng như mẹ mình. Cô lúc yên lặng suy tư, lúc lại do dự, cuối cùng mới hỏi, “Phụ hoàng, người có yêu mẫu thân không?”

Y không biết nên khóc hay nên cười. Thật sự là chưa từng có ai ngoài hoàng tỷ Lưu Đàm hỏi y về vấn đề này, ngay cả A Kiều cũng không, nào ngờ người tiếp theo hỏi y lại là con gái. Y cho việc mình làm đã rất rõ ràng, tất nhiên nếu không yêu thì y hà tất phải giữ A Kiều ở bên cạnh suốt bao nhiêu năm như vậy? Thế gian có hàng nghìn hàng vạn mỹ nhân, sao y phải nâng niu mỗi một mình A Kiều?

“Con đã hỏi mẫu thân về vấn đề này hồi năm Hoắc ca ca qua đời, hôm nay trước khi tới đây con lại hỏi mẫu thân một lần nữa. Mẫu thân trả lời hai lần với hai đáp án không giống nhau. Con cũng đã hỏi ca ca rằng có yêu tẩu tẩu hay không, ca ca lại cho một đáp án khác. Bây giờ thì con muốn hỏi phụ hoàng câu này.”

Tình yêu rốt cuộc là gì?

Cô thấy hàm ý trong mắt Lưu Triệt thì nín cười lắc đầu nói, “Không được, không được. Con không thể bán đứng mẫu thân, nhưng mà”, cô nghịch ngợm nói thêm: “Con sẽ lén nói cho phụ hoàng biết ca ca trả lời thế nào.”

“Trẫm không có hứng thú đối với đời sống tình cảm của con cái.” Y nhướng mày, trả lời thản nhiên. Còn A Kiều thì sao? A Kiều vào năm được gả cho y còn nhỏ hơn Duyệt Trữ bây giờ một tuổi. Năm đó, y cưỡi ngựa đi dọc suốt đường phố Trường An thật dài đến phủ Đường Ấp hầu cưới A Kiều về cung. Năm đó, dung nhan A Kiều xinh đẹp hơn cả hoa sen. Y vén khăn ráng trùm đầu nàng lên, lòng tràn đầy vui mừng.

Đúng vậy, niềm vui mừng rất trọng đại, nhưng cũng chỉ là vui mừng, thế thôi. Sau đó y đăng cơ trở thành hoàng đế Đại Hán. Sau nữa thì gặp Vệ Tử Phu. Niềm vui mừng đó dần nhòa theo thời gian rồi biến mất không thấy tăm tích.

Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đoạn trường. Đến năm Nguyên Quang thứ năm, y phế truất nàng không chút lưu tình. Sau đó A Kiều biến mất trong cuộc sống của y. Đến khi gặp lại nhau thì đã qua bảy năm đằng đẵng. Y biết rằng A Kiều của bảy năm sau luôn canh cánh khắc sâu trong xương cốt nỗi đau năm nào, muốn quên đi cũng chẳng thể. Bọn họ không quay về được quá khứ, có cố gắng hết sức cũng vô vọng. Bởi vì A Kiều đã không thể nào toàn tâm toàn ý yêu thương y như thuở còn niên thiếu. Rất nhiều chuyện nếu cân nhắc kỹ thì đều có thể tìm ra nguyên nhân. A Kiều thanh khiết kiêu ngạo, yêu thương y mà không giữ lại chút nào nhưng y lại cứa một nhát đao vào tim của nàng, gieo một hạt giống nghi ngờ tron niềm tin yêu của nàng, tới bây giờ thì hạt giống đó đã nảy nở, lớn lên thành một cây đại thụ che trời, như vậy thật ra thì y không có lý do gì để trách cứ nàng.

Thế nhưng tại sao cứ muốn trở về quá khứ chứ? Bình tâm mà nói, trong quá khứ y chưa từng yêu nàng như hiện tại. Thế thì có trở lại quá khứ cũng chẳng thể hạnh phúc. Tương lai sẽ có một ngày, những tổn thương y gây ra cho nàng trong quá khứ sẽ là chướng ngại giữa hai người. Y ở trên ngôi chí tôn thiên hạ nên không thích làm cái loại chuyện khóc sầu thu này, cũng chẳng quay nhìn những gì đã qua. Y chỉ muốn sẽ chung sống với A Kiều trong những ngày còn lại. Năm tháng lâu dài sẽ làm chứng, có một ngày nào đó A Kiều sẽ thật sự tin rằng y rất yêu nàng.

Y từ tốn mỉm cười, nhìn con gái rồi trầm trọng, “Trẫm nghĩ là đúng vậy.”

Trẫm yêu nàng!

Vẻ mặt Lưu Sơ khác lạ, nghĩ ngợi một lúc rồi cáo lui. Lưu Triệt nhìn theo bóng lưng Lưu Sơ khuất dần ngoài cửa điện, ra lệnh, “Dương Đắc Ý. Hãy điều tra thêm cho trẫm xem Công chúa Duyệt Trữ đã làm những gì, gặp những ai trong mấy tháng vừa qua.” Y muốn xem người trẻ tuổi kia có đủ tư cách đón Duyệt Trữ từ trong tay của y hay không.

Tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ được bệ hạ ân sủng nhất bước vào tuổi mười bảy trăng tròn đẹp nhất. Thị nữ nhìn khuôn mặt Lưu Sơ tươi đẹp giống hệt Hoàng hậu nương nương ở trong gương đồng, nhẹ nhàng chải chuốt mái tóc đen nhánh của cô, cười nói, “Bây giờ Công chúa đã đến tuổi thành hôn, không biết Hoàng thượng và Hoàng hậu nương nương chọn trong ngàn vạn người có tuyển được thiếu niên nào xứng đôi với Công chúa không đây?”

Cô vốn định nói đùa mấy câu để lấy lòng Công chúa Duyệt Trữ, không ngờ Lưu Sơ lập tức sa sầm mặt, mắng: “Đoán mò cái gì, lui xuống.”

Lưu Sơ đuổi thị nữ đi nhưng trong lòng đã bị khuấy động. Cô biết rằng tuổi mình một ngày một lớn thêm, cuối cùng cũng đến lúc quyết định. Cô được coi là một công chúa Đại Hán rất may mắn vì có phụ hoàng sủng ái, mẫu thân yêu thương, nhưng mẫu thân mới khôi phục ngôi vị hoàng hậu, địa vị thừa kế của ca ca rất chắc chắn nên không cần người muội muội như cô phải hạ thấp bản thân để lôi kéo đám quyền quý. Cho dù tình thế không sáng sủa như vậy thì cô vẫn tự tin rằng mẫu thân mình không phải là Vệ Tử Phu, sẽ không vì những thứ quyền lực địa vị tầm thường của thế nhân mà hy sinh con gái của mình. Mẫu thân coi trọng nhất không phải là những hư danh bề ngoài mà là hạnh phúc của cô và ca ca. Cho nên, năm ngoái ca ca chọn phi chỉ suy xét đến bản thân những cô gái kia chứ không phải là ý nghĩa đại diện đằng sau bọn họ. Dù tốt đẹp đến thế nhưng cô vẫn mê muội không hiểu tại sao con gái nhất định phải được cưới gả, nếu có thể được cô tình nguyện cả đời ở vậy bầu bạn với mẫu thân. Bởi vì người mà cô muốn gả đã qua đời rồi.

“Hoắc ca ca”, cô trằn trọc suy nghĩ đến cặp mắt này, đôi mắt người thiếu niên kia vẫn mang bóng dáng của Hoắc Khứ Bệnh khi cưỡi tuấn mã quay đầu nhìn lại với nụ cười sáng rực rỡ như mặt trời. Cô bất chợt giật mình. Đến ngày mười tám này là Hoắc Khứ Bệnh đã rời bỏ thế gian được sáu năm tròn. Sau năm rồi, nếu không dọn dẹp thì cỏ xanh trên mộ hắn đã cao bằng đầu người rồi chứ chẳng sai.

Ngày mười tám tháng Chín, Lưu Sơ giấu mẫu thân, lén dẫn người đi tới Mậu Lăng. Lưu Triệt cực kỳ coi trọng những lễ tiết hậu sự hoành tráng, vì vậy y đích thân lựa chọn Mậu Lăng, vừa lên ngôi liền bắt đầu cho xây dựng, cho đến tận hôm nay vẫn chưa hoàn thành. Nơi đây vốn không cho phép ai vào, song Lưu Sơ có thân phận công chúa nên không hề để tâm tới điều này mà cứ thế đi thẳng đến mộ Quan Quân hầu. Mộ của Quan Quan hầu nằm ở khu mộ bồi táng Hoàng đế sau này nên xây dựng cực kỳ hoành tráng, mộ phần trắng toát chịu sáu năm mưa gió phong sương mà vẫn còn nguy nga tráng lệ. Hình dáng ngôi mộ hùng vĩ như dãy núi Kỳ Liên mai táng người anh hùng thiếu niên chói sáng nhất triều Tây Hán.

“Hoắc ca ca.” Lưu Sơ tế lạy Hoắc Khứ Bệnh xong thì thầm, “Huynh là anh hùng, nếu sống lại được thì chắc chắn sẽ giữ lời hứa. Muội đã đầy mười sáu tuổi. Nếu phụ hoàng chấp nhận thì muội chắc đã được gả cho huynh rồi chứ không còn phiền não như thế này nữa.”

“Không đúng”, cô chợt nghĩ ra, cười khổ, “Nếu huynh biết rằng bà dì hoàng hậu của huynh vì Trần gia mà mất địa vị phải tự vẫn thì e rằng sẽ hận chết muội, mà có không hận thì e là cũng không chịu thực hiện lời hứa nữa.”

Ngay từ thời điểm ban đầu, bọn họ đã bị chủ định sẽ không có kết cục tốt. Như vậy, ít nhất việc Hoắc ca ca mất đi quá sớm cũng lưu giữ được hình tượng tốt đẹp của mỗi người trong lòng nhau, cuối cùng không tới mức trở mặt thành thù.

“Hoắc ca ca”, cô khẽ nghiêng đầu, hỏi như có điều trăn trở, “Huynh ở trên trời nhiều năm như vậy có nhận thấy con trai nhà nào tốt, đáng giá để Duyệt Trữ gửi gắm cả đời không?”

“Công chúa”, Oanh Tâm đứng ở bên mộ chua xót định khuyên nhủ mấy câu, nhưng vừa lên tiếng thì lại không biết phải nói gì. Cô thoáng liếc thấy có bóng người từ đường núi phía xa hướng tới bên này liền vội nói, “Công chúa, có người đến.”

Lưu Sơ ngơ ngẩn đứng dậy nhìn sang, thấy trên đường núi có một thiếu niên mặc áo quần xanh thẫm đang dắt tay một cậu bé chừng năm sáu tuổi đi lên. Người thiếu niên kia chính là Hoắc Quang, chắc cậu bé đang nói gì đó nên hắn nghiêng đầu lắng nghe, không ngẩng đầu lên nhìn hai người. Đó chắc là Hoắc Thiện, con trai độc nhất của Hoắc Khứ Bệnh để lại trên thế gian, mới chớp mắt mà đã lớn như vậy. Lưu Sơ không muốn gặp lại hai người này để gợi lại nỗi đau, hạ giọng nói, “Oanh Tâm, đi theo ta”, nói xong cô luồn ra sau mộ.

Một lúc sau thì nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng dừng bước ở trước mộ, rồi giọng Hoắc Quang vang lên buồn bã, “Thiện Nhi, quỳ xuống. Người trong mộ chính là cha của cháu.”

“A.” Hoắc Thiện không hiểu lắm, hỏi lại: “Thúc thúc, cháu nghe người ta nói rằng cha cháu là một đại anh hùng có phải không?”

Đúng vậy, là một đại anh hùng. Lưu Sơ thầm khẳng định, những năm qua cô luôn nhớ tới Hoắc ca ca nhưng lại quên mất hắn đã là cha của một đứa trẻ. Nhưng dù hắn còn sống, mọi thứ đều tốt đẹp thì hai người bọn họ cũng không thể thành đôi. Trong lòng cô đột nhiên rưng rưng. Khi Hoắc Khứ Bệnh mất đi, cô từng quật cường nói: “Trừ khi trên cõi đời này có người con trai nào tốt hơn Hoắc ca ca, còn không thì ta sẽ không gả cho ai.” Thiên hạ này rộng lớn nhưng cô lại không tìm được một người con trai nào tốt như hắn nữa.

“Đúng vậy, là một đại anh hùng.” Hoắc Quang nhắc lại. Hoắc Thiện nghe vậy rất vui mừng, ngoan ngoãn khấu đầu. Cậu khấu đầu xong liền ngẩng lên nhìn thúc thúc, hơi lấy làm lạ khi thấy trên mặt vị thúc thúc từ trước đến giờ luôn ôn hòa lại có những nét khác lạ.

“Đại ca, huynh ở dưới đó cứ yên tâm đi.” Vẻ mặt Hoắc Quang thoáng gợi nét kính nể lẫn u buồn, “Dù Vệ hoàng hậu mất rồi nhưng Trường Bình công chúa không bị liên lụy. Nhị hoàng tử đi làm Tề vương đến nay vẫn được bình an, năm nay còn thành hôn, có lẽ đến sang năm huynh sẽ thêm một đứa cháu họ nữa.”

“Thiện Nhi rất tốt. Nó lớn dần lên, rất ngoan ngoãn, rất thông minh. Hoán Liên cũng khỏe, đệ coi như cũng ổn.”

“Về phần cô bé kia cũng rất tốt. Ừ, cô ấy đã bước sang tuổi mười bảy, vẫn rất được ân sủng. Năm ngoái đệ đã gặp mặt ở Tấn Trung, thấy cô ấy càng ngày xinh đẹp hơn, vẫn còn rất nhớ đại ca. Chỉ tiếc là đệ không khí phách như ca ca nên không lọt vào mắt xanh của cô ấy.”

“Thúc thúc”, Hoắc Thiện cắn ngón tay, nghe thấy như vậy thì rất tò mò, đảo mắt hỏi, “Thúc cuối cùng nhắc tới ai vậy?”

“Là một a di mà Thiện Nhi chưa gặp bao giờ.” Hoắc Quang cười buồn bã. “Cô ấy là một công chúa, được phụ thân cháu đối xử rất tốt khi người còn sống.”

Lưu Sơ đứng ở sau mộ, lúc đầu nghe chuyện còn xấu hổ, lúc sau lại xuất thần đến mức Hoắc Quang dẫn Hoắc Thiện rời đi từ khi nào cũng không phát hiện ra. Oanh Tâm đứng ở bên cạnh Lưu Sơ, nghe chuyện cũng đỏ mắt lên, lén che miệng cười trộm, rất lâu sau mới nói: “Công chúa, nô tỳ nghe ra vị Hoắc đại nhân này chắc là rất thích Công chúa đấy.”

Lưu Sơ chợt bừng tỉnh, lườm Oanh Tâm một cái, cả giận quát, “Nói loạn gì đấy?” Oanh Tâm theo cô đã nhiều năm, rất hiểu tính chủ nhân nên không một chút sợ hãi, ánh mắt còn tinh quái hơn. Lưu Sơ bị cô cười trêu nên không ngẩng đầu lên, vừa chạy ra liền sững lại. Tuy Hoắc Quang đã rời đi nhưng có một người khác. Cô nấp ở sau mộ, đang lúc bối rối nên không biết hắn đến.

“A”, Oanh Tâm đứng ở sau Lưu Sơ, trông thấy Kim Nhật Đan thì rất kinh ngạc, quỳ gối nói: “Oanh Tâm tham kiến Kim đại nhân.”

Kim Nhật Đan nhìn Lưu Sơ, cười vui vẻ, “Công chúa điện hạ cũng tới bái tế Quan Quân hầu, Hầu gia ở dưới biết được chắc chắn sẽ mừng lắm.”

Cô không rõ Kim Nhật Đan đã nghe được bao nhiêu nên lúng túng, miễn cưỡng hỏi, “Tại sao ngươi lại tới đây?”

“Nhật Đan đã nói”, Kim Nhật Đan chỉ cười, không để ý lắm tới câu hỏi: “một trong hai người Hán mà Kim Nhật Đan bình sinh bội phục nhất chính là Quan Quân hầu. Hôm nay ngày giỗ của Quan Quân hầu, Nhật Đan tới bái tế một lần thì có gì là không được?”

“Tất nhiên là được chứ .” Lưu Sơ gật đầu, “Ngươi cứ bái tế đi, ta phải hồi cung rồi.”

“Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan gọi giật lại, “Trời thu trong xanh mát mẻ, Công chúa đã không dễ xuất cung mà lại định trở về như thế này sao?”

Lưu Sơ nghe vậy bực mình, xoay người hỏi, “Theo như Kim đại nhân thì Duyệt Trữ phải như thế nào đây?”

“Này”, Kim Nhật Đan nhoẻn miệng hỏi Oanh Tâm: “Ngươi tên là gì?”

Hắn hỏi khá bất ngờ, Oanh Tâm ngẩn người một lát rồi mới đáp, “Nô tỳ tên là Oanh Tâm.”

Kim Nhật Đan bỗng giơ tay túm lấy Lưu Sơ, nói: “Ta dẫn công chúa của ngươi đi chơi. Ngươi cứ chờ ở cửa Tư Mã phía tây, trước lúc mặt trời lặn ta sẽ đưa cô ấy về.” Hắn mặc Oanh Tâm ngơ ngác, nhất thời không biết phải thế nào.

Lưu Sơ bất thình lình bị hắn lôi đi, thẹn quá hóa giận, giãy giụa định tránh ra nhưng từ thuở nhỏ đã không khỏe, làm sao có thể chống lại được Kim Nhật Đan nên vẫn bị hắn kéo thẳng xuống núi, cả giận quát, “Kim Nhật Đan, ngươi thật to gan!”

“Lá gan của ta đúng thật là không nhỏ.” Kim Nhật Đan không thèm để ý, huýt gió một tiếng. Từ trong bóng râm, một con tuấn mã cao lớn uy mãnh, phong thái hùng dũng phi đến, không phải là loại tuấn mã thuần phục hiền lành như Lưu Sơ đã gặp ở Tấn Trung. Lưu Sơ tức thì tái nhợt mặt, lui lại một bước.

“Sao vậy?” Kim Nhật Đan nhảy lên ngựa, từ trên cao mỉm cười nhìn xuống để lộ hàm răng trắng bóng, “Công chúa vẫn còn sợ ngựa sao?” Hắn nắm tay kéo cô lên ngựa, cười lớn nói, “Ta chở cô chạy một đoạn nhé.” Hắn hét lớn một tiếng, con tuấn mã hí vang rồi phi nhanh như điện chớp, nháy mắt đã ra khỏi Mậu Lăng. Lưu Sơ ở trong lòng Kim Nhật Đan, nghe tiếng gió vù vù bên tai, biết giờ có nói cũng vô dụng nên đành mím môi yên lặng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 91: Ba năm nguyện trồng xanh ngô đồng*

Chạy được một lát thì Kim Nhật Đan hô một tiếng, ghìm ngựa lại rồi nhảy xuống, mỉm cười nói: “Đến rồi.” Lưu Sơ ngồi trên lưng ngựa, nhìn chung quanh thấy hoàn toàn lạ lẫm.

“Cưỡng ép công chúa đương triều”, cô lạnh lùng nói, “Kim Nhật Đan, rốt cuộc ngươi nghĩ mình có mấy cái đầu? Hơn nữa ngươi cho là ngươi so với một muội muội ruột thịt như ta thì đại ca sẽ bảo vệ ai?”

“Oan uổng quá.” Kim Nhật Đan cười vang, dang rộng hai tay, “Ta chỉ cảm thấy Công chúa đã phiền muộn ở cung Kiến Chương quá lâu nên dẫn ra ngoài hóng mát một chút. Xuống đây đi.”

“Hóng mát cũng phải cần ta đồng ý mới được.” Lưu Sơ cười lạnh nói, “Nếu ngươi không đưa ta trở về thì ta không xuống.”

“Vậy à?” Kim Nhật Đan nhíu mày, ôm quyền nói, “Công chúa không xuống thật sao? Ta sẽ bảo Hắc Phong của ta mang cô đi vậy.” Hắn làm bộ muốn huýt sáo. Lưu Sơ nhìn khoảng cách từ lưng con ngựa ô tới mặt đất, không rét mà run, vội vàng nói, “Được rồi, được rồi, ta xuống là được chứ gì.” Cô vịn tay Kim Nhật Đan xuống ngựa, vẫn chưa hết giận, oán hận nói, “Ngươi coi thường ta sợ ngựa đúng không? Ngươi không sợ khi trở về ta sẽ tố cáo tội trạng của ngươi với phụ hoàng hay sao?”

Người thiếu niên dìu tay cô, khuôn mặt thoáng hiện ý cười, cố tình cao giọng: “Công chúa Duyệt Trữ cảm thấy ỷ vào Hoàng Thượng và Thái tử điện hạ vinh dự lắm sao?”

“Ngươi!” Lưu Sơ tức giận đến mức giậm chân, biết rõ là hắn khích tướng nhưng vẫn không nhịn được nói, “Ngươi thì có gì đặc biệt hơn người chứ.”

Tháng Chín ở thành Trường An đã là cuối mùa thu. Lưu Sơ nhìn bốn phía, bất giác thán phục Kim Nhật Đan đã lựa chọn được một chỗ rất đẹp. Tuy cây cỏ dần úa vàng nhưng chính vì thế mà trời đất mới hiện ra vẻ yên tĩnh mênh mang. Cô quay đầu lại nhìn ra xa, cây phong trên Mậu Lăng ánh lên sắc hồng, rạng ngời như mây gấm.

“Ồ Kim Nhật Đan.” Cô không nhịn được, quay đầu lại hỏi: “Ngươi kéo ta đến đây rốt cuộc là muốn làm gì?”

“Con người làm chuyện gì cũng phải có dụng ý sao?” Kim Nhật Đan nhàn nhã nằm trên mặt đất, miệng ngậm một cọng cỏ khô, nụ cười trong sáng. “Thỉnh thoảng dừng lại nghỉ ngơi một chút, ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, cỏ vàng chẳng phải cũng tốt sao?”

“Thật không?” Lưu Sơ khẽ cười lạnh, “Nếu chỉ là thế thì ta ngắm nhìn ở điện Trường Môn cũng được, cần gì phải đến chỗ này?”

“Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bỗng nhiên quay đầu nhìn cô, “Còn nhớ những điều ta nói với cô ở Tấn Trung không? Làm người chẳng thể nhìn mãi về quá khứ.”

“Nhìn về con đường phía trước còn rất nhiều phong cảnh mỹ lệ.”

Lưu Sơ chợt cảnh giác, nhìn hắn vẻ đề phòng, nhẫn nại nói: “Rốt cuộc ngươi muốn nói điều gì?”

“Không có gì.” Kim Nhật Đan bỗng nhiên lại cười ha hả, “Chỉ muốn để cho Công chúa đừng như một đứa trẻ, mãi không thể xa rời phụ thân, mẫu thân và ca ca?”

“Kim Nhật Đan!” Lưu Sơ nghiến răng nghiến lợi, lại nghe Kim Nhật Đan nói tiếp, “Thật không ngờ, lúc Công chúa Duyệt Trữ nổi giận lại là lúc có sức sống nhất, xinh đẹp mê người.”

Cô hơi sửng sốt. Kim Nhật Đan quay sang chỗ khác, nhớ lại, “Lúc phụ thân ta còn sống, ta ở trong bộ lạc Hưu Đồ đã được nghe tên của cô, người biết chuyện nhà Hán kể rằng hoàng đế nhà Hán sinh được bốn người con trai, sáu người con gái.”

Sau đó thì hắn chỉ chú ý tới tên hiệu của các hoàng tử, còn về phần những công chúa đẹp như hoa như gấm thì chỉ nghe qua loa về danh hiệu và biết người được hoàng đế nhà Hán sủng ái nhất là Công chúa Duyệt Trữ.

Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! Cái tên này quả nhiên rất đẹp, không giống như danh hào của các công chúa khác. Khi đó hắn còn chưa biết rằng cái tên này sau đó chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong cuộc đời mình. Biến cố Hà Tây xảy ra, phụ thân hắn bị Lâu Phiền vương giết chết. Hắn và mẫu thân, đệ đệ đều bị bắt vào cung nhà Hán làm nô lệ. Số phận chỉ qua một đêm đã đổi khác, nếu nói là hận thì hắn càng hận đám người cùng tộc đã tàn hại lẫn nhau. Thời gian ở trong cung nhà Hán, hắn đã nghe được rất nhiều chuyện, bao gồm từ chuyện thiên tử nhà Hán dốc sức vì nước, thấy Trần nương nương từng bị phế hậu lại được sủng hạnh, thiếu niên anh hùng Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh, cho tới đôi huynh muội lưu lạc bên ngoài thời niên thiếu rồi cuối cùng trở về với hoàng gia. Hắn đã được gặp Hoắc Khứ Bệnh. Đó đúng là một hán tử thật sự, có tính cách hào hùng, dũng mãnh, không giống đám binh sĩ nhà Hán mà ngược lại giống những người thảo nguyên lớn lên trên lưng ngựa hơn. Người đời thường nói Hoắc Khứ Bệnh chết đi vào những năm tháng anh hùng nhất của đời mình và người con gái trong lòng hắn chính là Công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ mà bệ hạ sủng ái nhất.

Chuyện tình này thật sự đáng để ngẫm nghĩ. Lúc đó hắn đang ở vị trí hèn mọn nhất trong cung nhà Hán mấy năm, dần hiểu được sự tranh đấu khốc liệt trong chốn phồn hoa đẹp đẽ nhất của thế gian này. Hai người rõ ràng thuộc về hai gia tộc của hai hậu – phi tranh đấu một mất một còn mà tại sao lại có thể có tình cảm như vậy chứ?”

Hắn không đoán được sự sâu xa trong đó, cũng không muốn tốn quá nhiều thời gian vào những chuyện tiểu tiết như vậy. Hắn cũng có dã tâm của mình, không cam lòng cả đời ở mãi vị trí hèn mọn, cho dù bản thân mình đang ở nước khác cũng phải tìm ra được một con đường riêng. Sau khi mẫu thân hắn lâm bệnh qua đời trong cung nhà Hán, hắn hao tổn hết tâm tư, cuối cùng cũng thoát được ra ngoài cung Hán.

Trên đường đi sứ Thân Độc, hắn tình cờ được gặp Hoàng tử trưởng Lưu Mạch, đó quả thật là chuyện bất ngờ nhất trong cuộc đời hắn. Thời niên thiếu, vị tiên sinh biết chuyện nhà Hán đã kể với hắn rằng hoàng đế nhà Hán sinh hạ được bốn người con trai, tài năng nhất chắc chỉ có Hoàng tử trưởng Lưu Mạch và người về sau trở thành Tề vương Lưu Cứ. Hắn đã từng nhìn thấy Lưu Mạch ở trong cung, người thiếu niên này nhỏ hơn hắn hai tuổi, là con trai trưởng của hoàng đế trị vì đế quốc mạnh nhất thế gian, rất được coi trọng. Bản thân Lưu Mạch cũng không phụ sự coi trọng này, ẩn dưới khuôn mặt ôn hòa là tâm trí nhạy cảm kiên nghị. Song Lưu Mạch lại lựa chọn mai danh ẩn tích đi sứ vào thời điểm có khả năng nhất để thừa kế vị trí thái tử Đại Hán. Quyết định hoang đường như vậy khiến ngay cả một kẻ “man di” của nước khác như hắn vừa nghe thấy cũng phải há mồm trợn mắt nghĩ rằng Lưu Mạch quả thực là điên rồ. Nhưng sao khi thực sự quen biết cậu thì hắn mới hiểu rằng dưới bề ngoài ôn hòa chững chạc thì người thiếu niên này vẫn là một người trẻ tuổi, vẫn có khát vọng như những thiếu niên cùng trang lứa khác là được đi qua hết thảy núi sông trong thiên hạ. Cho dù cung Vị Ương có lộng lẫy phồn hoa, vị trí đó có tối cao cũng không thể che khuất được khát vọng đó.

Trên đời có rất nhiều người ấp ủ khát vọng nhưng lại rất ít người chịu nỗ lực biến những khát vọng đó thành hiện thực. Hai người bọn họ vừa khéo lại ở trong số ít đó. Sau khi thực sự hiểu Lưu Mạch, hắn đã nghĩ rằng người thiếu niên này ngày sau sẽ là một hoàng đế Đại Hán rất tốt. Lưu Mạch bản chất là một người cực kỳ vô tình. Hắn không hề nghi ngờ nếu có một ngày mình cản đường Lưu Mạch thì đối phương sẽ không mảy may niệm tình đồng trang lứa mà cứ thế lạnh lùng giết hắn. Chỉ có mẫu thân và muội muội mới có thể làm nhạt đi tính vô tình của Lưu Mạch. Lưu Mạch nói rằng mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ. Lúc nghe Lưu Mạch nói vậy, hắn còn bật cười. Hắn luôn nghĩ rằng chắc là Lưu Mạch rất yêu, rất yêu mẫu thân của mình nên mới thấy phụ nữ trong khắp thiên hạ đều kém hơn. Song Trần A Kiều tốt hay không tốt đều là chuyện của hoàng đế nhà Hán, không can hệ tới hắn.

Tại chợ của người Thân Độc, Lưu Mạch có mua một thanh dao găm cong cong. “Đây là thứ mà ta định tặng cho muội muội”, Lưu Mạch mỉm cười nói, trong niềm vui toát ra tình yêu thương kín đáo, “Tảo Tảo sẽ thích.” Hắn sửng sốt hồi lâu mới liên hệ được cái tên này với Công chúa Duyệt Trữ được sủng ái.

Mãi sau này, hắn nghe nói rằng cái tên Tảo Tảo là ngày xưa Trần nương nương đã đặt, lấy ý tứ trong câu thơ “Đời người nếu mãi như vừa gặp.” Ngay đến một người Hung Nô không hiểu thơ phú là hắn đây cũng thích nghe câu thơ đẹp đẽ như vậy.

Lần đầu tiên hắn gặp cô là ngày sứ đoàn từ Thân Độc trở về Trường An. Thiếu nữ vừa chớm tròn mười bốn nâng váy vui mừng chạy ào tới chỗ ca ca của mình trông thật duyên dáng. Trong ký ức của mình, hắn chưa từng thấy một thiếu nữ nào đẹp bằng một nửa cô. Chỉ tiếc là cô quá mảnh mai. Nghe nói, thân thể Công chúa Duyệt Trữ từ nhỏ đã yếu ớt. Trên đời này vốn không có chuyện hoàn mỹ, cô được sủng ái nhiều như vậy nên ông trời phải lấy đi chút gì đó cho công bằng. Hắn cũng dần hiểu được tại sao có nhiều người bất phàm lại không ngăn nổi lòng sủng ái đối với cô bé này. Tính cách của Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ thông minh mà không hấp tấp, được sủng ái nhưng không kiêu ngạo. Nếu ai coi trọng cô thì chắc chắn cô sẽ đối xử lại với người ấy như thế. Trong suốt quá trình trưởng thành, cô đã được quá nhiều người che mưa che gió, bảo hộ cho mình. Bản thân hắn cũng muốn trở thành một người như vậy.

Lưu Sơ hơi lúng túng, “Ngươi ở cung Vị Ương đã mấy năm nhưng sao ta chưa từng thấy bao giờ?”

“Công chúa là cành vàng lá ngọc”, hắn mỉm cười nói, “Tất nhiên không để ý tới một cung nhân thấp hèn.”

Một con thỏ trắng như tuyết bỗng nhiên nhảy ra khỏi ổ trong vùng đất khô vàng, xù lông dõi cặp mắt đen nhánh cảnh giác nhìn hai người, con ngươi xoe tròn trông rất linh động. Lưu Sơ hoan hỉ kêu lớn, “Con thỏ kìa!” Con thỏ kinh hoảng, lập tức chạy xa hơn nhưng vì chưa bao giờ trông thấy con người nên lại tiếp tục cảnh giác quan sát.

“Công chúa thích sao?” Kim Nhật Đan khẽ mỉm cười, quay lại chỗ con ngựa lấy cung, lắp tên định bắn. Lưu Sơ hoảng hồn, vội hỏi, “Ngươi làm gì vậy?” Cô nhào tới đẩy một cái, dù không mạnh nhưng vẫn có thể làm ảnh hưởng tới sự chính xác của Kim Nhật Đan. Mũi tên bắn ra cắm trước người con thỏ chừng một tầm tên khiến nó hoảng sợ chạy biến đi như một làn khói.

“Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bất đắc dĩ nói, “Cô làm gì vậy?”

“Ngươi mới làm gì đấy?” Lưu Sơ ngẩng đầu lên, không chú ý tới Kim Nhật Đan đã thay đổi cách xưng hô. “Ta chỉ thích con thỏ nhảy nhót, nếu nó chết rồi thì còn thích nó làm gì?”

Hắn im bặt, lúc này mới nhớ lại chuyện Lưu Mạch đã từng đề cập tới, rằng muội muội này của hắn rất không thích giết chóc.

“Dù sao cũng phải bắn.” Hắn nói khẽ, quay lại buộc cung tên vào yên ngựa. Người Hung Nô giỏi săn thú nhưng không giỏi bắt sống một con thỏ vẫn còn nhảy nhót để lấy lòng người yêu. Sinh mạng của một con thỏ quá yếu ớt khiến hắn có bắn hạ nó cũng cảm thấy rất ấm ức. Nếu bảo phải ôm một con thỏ còn sống trên tay thì hắn sợ rằng mình sẽ quá tay bóp chết nó.

“Cái gì gọi là nhất định phải bắn?” Lưu Sơ nghe mà không hiểu.

“Người Hung Nô từ xưa có một tập tục là tự tay lột da con thú mình săn được để tặng cho người trong trái tim mình. Trước khi tới đất Hán, ta đã đánh mất bộ da con thú săn được ở Hung Nô nên dù gì cũng phải săn lại.”

Gương mặt Lưu Sơ dưới ánh nắng mùa thu ửng hồng. Hắn nhìn đến mê muội, nghĩ bản thân mình chỉ là một người dị tộc thì có được mấy phần cơ hội lấy được viên ngọc minh châu được sủng ái nhất trong lòng bệ hạ? Vì hai huynh muội này, hắn nguyện ý từ bỏ thân phận người Hung Nô của mình, coi bản thân như một người Hán, tôn thiên tử Đại Hán là bệ hạ của mình.

“Cứ cách mấy năm là phụ hoàng của ta lại đến Thượng Lân Uyển săn thú.” Lưu Sơ kể, “Trong Thượng Lâm Uyển có cả sư tử và báo, nếu ngươi được đi theo thì biết đâu có thể săn được.”

“Vậy à?” Kim Nhật Đan cười dài, “Duyệt Trữ thích nhất loài gì?”

“Ta ư?” Lưu Sơ suy nghĩ một chút, nói: “Ta cũng giống mẫu thân, thích nhất là cáo tuyết.”

“Cáo tuyết?” Kim Nhật Đan nhíu mày, “Loài này rất hiếm thấy. Ta ở Hung Nô nhiều năm nhưng chưa từng thấy bao giờ. Nghe nói chỉ riêng vùng Đường Cổ Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ mới có. Tại sao cô thích nó?”

“Bởi vì nó rất đẹp.” Lưu Sơ cười nói, “Khi còn bé, Quách sư thúc bế ta đứng ở xa nhìn thấy một con, màu sắc trắng như tuyết, cặp mắt cực kỳ linh hoạt cứ như là biết nói chuyện. Chỉ tiếc”, cô siết chặt nắm tay nói: “nó ở quá xa, chúng ta vừa cử động thì nó đã bỏ chạy mất tăm rồi.”

“Ngươi đừng mơ tưởng nữa.” Lưu Sơ cười khanh khách, “Phụ hoàng ta sai người tìm kiếm bao năm vẫn chưa từng thấy một con.”

‘Chẳng qua…”, cô suy nghĩ một chút, lại cắn môi, nói: “Nếu ngươi thật có săn được hổ hay báo gì đó thì đừng làm hỏng bộ da mà cứ đưa đến phường may Tạp Môn, báo danh hiệu của ta là Hạ a di sẽ biết nên làm như thế nào.”

Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt tuyên Kim Nhật Đan vào cung Kiến Chương gặp mặt. Lúc đó, khí trời thành Trường An đã tương đối lạnh. Kim Nhật Đan quỳ hồi lâu trên mặt tuyết mới nghe thấy Hoàng đế thủng thẳng nói, “Nghe nói gần đây ngươi và Công chúa Duyệt Trữ lui tới rất thân thiết.”

“Đúng vậy.” Cho dù là đối mặt với bậc đế vương có uy quyền nhất trên thế gian, Kim Nhật Đan vẫn không hề sợ hãi, ‘Vi thần thích Công chúa, dĩ nhiên hy vọng có thể tiếp cận gần hơn với nàng.”

“Thật to gan.” Nét mặt Lưu Triệt nhìn không ra vui hay giận, “Công chúa Duyệt Trữ là viên ngọc minh châu mà trẫm và Hoàng hậu nâng niu, một kẻ hàng thần Hung Nô như ngươi có tư cách gì dám nói loạn là thích Công chúa chứ?”

“Vi thần tự biết thân phận thấp kém, ngay cả không phải là người Hung Nô thì cũng không xứng với Công chúa.” Kim Nhật Đan hiên ngang nói: “Vi thần chỉ thích Công chúa mà thôi. Bệ hạ trị vì bốn biển, trong đó cũng có con dân Hung Nô. Bệ hạ muốn giáo hóa để dân chúng thuận theo nhưng lại không xem trọng bọn họ thì làm sao khiến bọn họ phục tùng bệ hạ?”

“Mồm miệng thật sắc sảo.” Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, từ trên cao nhìn xuống, “Không trách Hoàng hậu và Thái tử đều nói giúp cho ngươi.”

Lời nói của bậc đế vương khiến Kim Nhật Đan giật mình, song hắn còn chưa kịp nghĩ được gì thì Lưu Triệt đã thong thả bước đến bên cạnh hắn. “Ngươi nghe đây”, y nghiêm nghị nói, “Con gái của trẫm không phải dễ lấy như vậy. Nể mặt Hoàng hậu, trẫm cho ngươi một cơ hội. Trẫm cho ngươi ba năm, trong ba năm này ngươi phải gắng sức làm việc cho triều đình để trẫm nhìn xem rốt cuộc ngươi có tư cách mang Duyệt Trữ của trẫm đi được hay không. Còn nếu ngươi khiến cho trẫm có nửa phần không hài lòng…”

Y lãnh đạm nói, “Trẫm sẽ lập tức chọn một người trong đám con cháu tôn thất và cho Duyệt Trữ xuất giá.”

Yêu cầu của Hoàng đế rất khó nhưng đây là hy vọng duy nhất. Kim Nhật Đan vui mừng khấu đầu, “Thần tạ ân điển của bệ hạ!”

Lưu Triệt lạnh lùng nhìn Kim Nhật Đan lui ra rồi quay đầu lại hỏi: “Như thế Kiều Kiều đã hài lòng chưa?”

Trần A Kiều cầm một chiếc lò sưởi nhỏ từ sau đình bước ra, nhướng mày nói: “Tại sao lại là thiếp hài lòng? Chẳng phải Tảo Tảo cũng là con gái của bệ hạ sao?”

“Hay là bệ hạ còn có ý khác?”

Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, nắm tay A Kiều, chau mày nói,”Nơi này gió lớn quá. Chúng ta nên trở về điện Trường Môn thôi.”

A Kiều cười duyên dáng, vẻ mặt dịu xuống, nhẹ nhàng đáp, “Cũng được.”

Y cho Kim Nhật Đan cơ hội lần này dĩ nhiên là vì A Kiều giữ vẻ lạnh lùng liên tiếp mấy ngày liền khiến y phát mệt mỏi, không thể không làm theo ý nàng. Ngay cả chuyện khác đi, y nghĩ, nếu Duyệt Trữ kiên quyết thì cuối cùng y cũng đồng ý, bởi vì y không nỡ để Duyệt Trữ phải buồn.

Duyệt Trữ ở trong lòng y chính là một A Kiều chưa từng bị thương tổn. Y từng đích thân gây thương tổn cho A Kiều nên hy vọng Duyệt Trữ không phải đi qua con đường này. Y che chở cho Duyệt Trữ cũng tựa như năm đó che chở cho A Kiều, thế nên y căn bản không thể nào lại chính tay gây tổn thương cho Duyệt Trữ một lần nữa. Chỉ là nỗi lòng kín đáo này lại ẩn sâu dưới lớp tuyết rơi dày ở cung Kiến Chương, chẳng bao giờ thấy tung tích.
___________________________________________________
*Xuất phát từ tích “Phượng đậu ngô đồng.” Phượng ở đây chỉ người con gái, cây ngô đồng ám chỉ người con trai cứng cỏi, là chỗ dựa vững chắc để người con gái dựa vào.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 92: Vợ chồng kết tóc chớ hồ nghi

Sau buổi trưa ngày cuối cùng của năm Nguyên Đỉnh, tuyết đầu mùa rơi lất phất nhưng chỉ lát sau đã đổ xuống trắng trời. Từ trong cung Kiến Chương nhìn ra ngoài, khắp nơi chỉ là một màu trắng xóa. Song tuyết rơi có lớn hơn nữa cũng không ngăn được không khí lễ hội mừng năm mới. Cung nhân cung Kiến Chương từ trên xuống dưới đã trang trí cung điện rực rỡ hẳn lên như mới, treo những đèn lồng đỏ thắm trên hành lang khiến cho đêm đông lạnh lùng vắng lặng trở nên ấm áp hơn. Lưu Triệt nghĩ đến thân thể yếu ớt của A Kiều, không muốn nàng phải đi xa nên quyết định tổ chức gia yến ở Phi Tuyết các trong cung Kiến Chương.

Khi trời sẩm tối, Trần A Kiều bước lên long xa, ra lệnh, “Đi đến Phi Tuyết các.”

Nàng ngồi ở trên long xa vẫn nghe thấy tiếng gió Bắc thổi soàn soạt hất tung tấm rèm xe, nhìn thấy những bông tuyết rơi xuống thành từng dải trông giống như cành liễu đung đưa trước gió. Nàng không nhịn được thò tay ra đón lấy một bông, cảm giác trên tay hơi lạnh, nhìn xuống thấy bông tuyết đã nhanh chóng tan đi, chỉ để lại một vệt nước đọng.

Nàng chợt nhớ lại chuyện năm xưa đã rút một quẻ thẻ ở chùa Viên Giác, trên đó có đề một bài thơ thất ngôn:

“Cháu con Cao Tổ thuộc chi đầu,

Tâm hồn đạm bạc lòng thanh cao.

Kiến Chương trùng điệp ba nghìn dặm,

Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

“Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

“Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”

Đến giờ thì nàng đã hiểu được ý tứ của ba câu đầu nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra câu cuối cùng này. Nàng vẫn có cảm giác rằng một khi hiểu thấu đáo được nó thì tất cả sẽ đi đến điểm cuối cùng, có một kết cục tốt đẹp.

Năm Nguyên Quang thứ năm, Trần A Kiều bị phế.

Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng sinh được Mạch Nhi và Tảo Tảo.

Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Triệt biết được sự tồn tại của nàng, cuối năm đó, nàng trở về cung Hán.

Cho tới bây giờ thì những năm Nguyên Đỉnh cũng sắp kết thúc. Bấm tay khẽ đếm, bao nhiêu năm đã êm đềm trôi qua. Bọn họ được số phận đưa đẩy quấn quít lấy nhau, cùng nhau trải qua suốt bấy nhiêu năm, cũng chẳng còn trẻ nữa. Nếu bảo “Dùng hết cát xong mới đến tiền” thì rốt cục là nhằm nói đến một kết cục như thế nào?

Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu là một năm đầy biến động dữ dội, bình định Tây Nam, điều binh trấn áp quân phản loạn. Những hành động này vừa đồng thời mở rộng biên giới vừa nâng cao vị thế đất nước khiến bậc đế vương ở điện Tuyên Thất bừng bừng chí khí, văn thành võ đức đều đạt tới đỉnh cao không ai sánh bằng. Còn đối với nàng thì năm Nguyên Đỉnh thứ sáu cũng được coi là năm tốt.

Từ rất xa, nàng nhìn thấy Phi Tuyết các đèn đuốc sáng trưng, trang hoàng ấm áp như cả điện đã vào xuân. Lưu Sơ đứng trên hành lang, gọi to, “Mẫu thân.” Sắc mặt cô rạng ngời, mặc bộ áo gấm lót lông cừu trắng tinh như hòa tan trong tuyết ở bên ngoài điện, mái tóc buông xõa lên đôi gò má đỏ hồng đẹp như ngọc.

“Khoan đã.” Nàng mỉm cười bước xuống xe, cầm tay Lưu Sơ mà hỏi, “Tảo Tảo có lạnh không?”

“Không lạnh.” Lưu Sơ cười khúc khích, tay cô quả nhiên ấm áp. “Mẫu thân hôm nay thật xinh đẹp, phụ hoàng trông thấy nhất định là thích lắm.” Cô thỏa mãn thở phào một hơi, nũng nịu dựa vào người A Kiều, “Thoạt nhìn thì mẫu thân còn rất trẻ, người không biết mà trông thấy thì nhất định sẽ không cho rằng chúng ta là hai mẹ con mà ngược lại cho là hai chị em đấy.”

“Dẻo miệng.” Nàng không nhịn được, cười phá lên, gõ gõ vào trán Lưu Sơ, chế giễu, “Con thỏa mãn rồi chứ? Đúng là nhà ta có con gái sắp trưởng thành mà.” Hình ảnh cô bé ở Đường Cổ Lạp Sơn ngây thơ ngước mắt gọi mẫu thân còn rõ mồn một trước mắt, thế mà chỉ thoáng qua đã đến tuổi có thể lập gia đình.

“Mẫu thân.” Lưu Sơ tức thì mặt đỏ ửng, yêu kiều nói: “Còn ba năm nữa, ai biết sẽ thay đổi thế nào?” Ánh mắt cô lấp lánh, nói: “Phụ hoàng lần này hiểu rất rõ lòng con. Con lại có thể từ chối để được ở bên cạnh mẫu thân thêm ba năm nữa, thật là hay biết mấy.”

“Lại từ chối nữa sẽ thành lão cô nương đấy.” Nàng mắng yêu, ngẩng đầu lên thì liền trông thấy long xa ngự giá đang đi đến từ hướng điện Tuyên Thất. Trên long xa chính là người mà nàng đã chung sống suốt nửa cuộc đời. Nàng từng cho rằng tên của y đối với nàng cũng giống như tên tuổi của biết bao danh nhân trong lịch sử, chỉ là một dãy ký tự lạnh băng trên giấy, thế nhưng số mệnh đùa cợt đã bất đắc dĩ hợp nhất cả hai làm một. Để đến nỗi bây giờ dù nhắm mắt, nàng vẫn có thể hình dung ra từng nét nhỏ nhất trên khuôn mặt y, quen thuộc với hơi thở của y như những đường chỉ trong lòng bàn tay.

Số mệnh thật kỳ diệu. Nàng bị nhấn chìm trong vòng xoáy số mệnh xoay vần nhưng đến cuối cùng đành chịu tin rằng có nhiều việc sẽ trở nên nhạt nhòa quên lãng theo dòng thời gian trôi qua. Phảng phất như một người đi trên con đường cái lớn bỗng nhiên ngoặt vào một ngã rẽ, đi trên ngã rẽ này hồi lâu thì dần dần quên mất con đường đang đi dưới chân bây giờ vốn không phải là con đường lúc ban đầu.

Long xa đi trên mặt đất phủ tuyết làm vang lên những tiếng lạo xạo, để lại hai đường rãnh thật sâu, dừng lại ở trước Phi Tuyết các. Cung nhân đi theo xe vén rèm lên cho Lưu Triệt mặc bộ y phục bằng gấm đen bước xuống. Y trông thấy nàng đứng ở hành lang thì ánh mắt dịu đi, hàm chứa vẻ ấm áp. Dường như y nhớ lại rất nhiều chuyện, từ rất nhiều năm trước đây. Khi đó hai người còn là đôi vợ chồng trẻ, mỗi lần y từ Tuyên Thất trở về Tiêu Phòng, nàng đều ra đứng trước điện chờ đón, lòng ngập tràn vui sướng. Khi đó y luôn tỏ vẻ bất đắc dĩ, “Kiều Kiều, nàng không phải luôn ra đón thế này.”

“Thiếp biết rồi.” Khi đó nàng cười thật thoải mái. “Thiếp chỉ muốn được gặp chàng sớm hơn một chút.”

“Kiều Kiều”, Lưu Triệt mỉm cười bước tới, kéo tay nàng với vẻ rất tự nhiên mà nói: “Vào nhà đi thôi.”

“Được rồi.” Nàng cúi đầu, đáp khẽ, liếc thấy hình như con gái đang che miệng cười. Lúc bắt đầu, bên cạnh nàng là y. Đến cuối cùng thì bên cạnh nàng cũng vẫn là y.

Đây là lần đầu tiên kể từ khi Trần hoàng hậu phục vị, Hoàng đế và Hoàng hậu chính thức cùng nhau xuất hiện tham dự gia yến của hoàng cung. Những ngọn nến đỏ to bằng cổ tay được xếp thành hai hàng khiến Phi Tuyết các cũng nhuộm một sắc đỏ hồng nhạt tràn ngập ý mừng vui, rực rỡ như ban ngày. Mọi người trong điện đều quỳ bái, cung kính nói, “Tham kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương.”

“Tất cả đứng lên đi.” Lưu Triệt dường như đang vui, ôn hòa nói.

A Kiều theo y bước lên ngồi lên trên ghế chủ tọa, từ trên cao nhìn xuống các phi tần và con cái Hoàng đế đang ngồi bên dưới mà khẽ thở dài, uống cạn chén rượu nhỏ. Hết năm này qua năm khác, Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng khiến hậu cung trở nên điêu linh. Sau khi Doãn Giai La vào Dịch đình, Vương Thẩm Hinh, Vệ Tử Phu, Lý Chỉ lần lượt chết đi, trong số các phi tần chỉ có mỗi mình Hình Nhược là nàng còn quen mặt. Nhưng nét mặt Hình Nhược cũng đã trở nên ảm đạm, quá đau buồn nên già đi rất nhiều. Ngoài việc không được vua ân sủng, đứa con nuôi Lưu Hoành cuối cùng cũng có kết quả thê lương. Thâm cung tịch mịch, sống với nhau lâu thì dù là con không do mình sinh ra cũng vẫn có thể phát sinh tình cảm, huống chi Lưu Hoành xưa nay luôn biểu hiện vui vẻ lại chịu hẩm hiu cũng là một đả kích khá lớn.

Cung nữ mang Bích Nhưỡng Xuân lên cung kính châm rượu cho nàng. “Mẫu thân.” Lưu Mạch dẫn Thượng Quan Linh tiến lên bái chào, tươi cười nói. “Nhi tử kính chúc mẫu thân năm mới an khang, phúc thọ an khang.”

“Hay lắm.” Nàng cũng mỉm cười đáp lời, uống cạn chén rượu nhỏ.

Lưu Triệt nhìn sang, nhíu mày nói: “Kiều Kiều không nên uống quá nhiều. Uống rượu nhiều sẽ làm tổn hại sức khỏe.”

“Thiếp đang vui mà.” Nàng xoay đầu lại, cười khúc khích, men rượu dâng trào khiến hai gò má thoáng đỏ hồng lên, đôi mắt lấp lánh như ánh sao. “Sắp sang năm mới rồi, bệ hạ không thấy vui sao?” Suốt bao năm qua nàng chưa bao giờ có nét mặt thanh thoát vui vẻ như vậy. Y không nói gì thêm nữa.

Nhạc công nắn phím tấu lên những cung đàn sâu lắng. Mặc dù Tư Mã Tương Như và Lý Diên Niên lần lượt rời đi được mấy năm rồi nhưng Nhạc phủ vẫn tiếp tục vận hành, sưu tập được không ít ca dao dân ca và sáng tác những ca khúc mới. Phong cách ca vũ nhạc cung đình cũng được thay đổi làm nổi bật vẻ thanh tân dễ thương nhưng dù ca vũ có hay đến đâu chăng nữa thì xem mãi cũng trở nên tẻ nhạt. Yến hội hoàng gia tuy là gia yến nhưng nào có ai dám thật sự cởi mở tâm hồn? Dạ yến tiến hành đến gần khuya thì Lưu Triệt cũng cảm thấy nhàm chán, nói: “Tất cả giải tán thôi.” Y xoay người nhìn lại, thấy A Kiều đã có vẻ ngà ngà say liền bật cười, bảo, “Hoàng hậu và trẫm sẽ cùng nhau đi xe trở về, các ngươi cũng tự mình về đi.” Lục Y không dám nói gì, chỉ khuỵu gối chào rồi lặng lẽ lui ra.

Nàng như say mà không say, bước lên ngự xa, vén rèm nhìn ra ngoài, bỗng nhiên thốt lên, “Tuyết ngừng rơi rồi.” Đúng là tuyết đã ngừng rơi khi dạ yến đang diễn ra.

Y nghe thấy tiếng thở dài than tiếc hận của nàng, từ đằng sau ôm nàng vào lòng, “Kiều Kiều thích tuyết lắm sao?”

Vòng eo nàng nhỏ như chưa đầy một chét tay. Y đã từng vui thích khi được ôm vòng eo thon thả này, nhưng tới bây giờ thì lại mơ hồ lo lắng thế này có phải là sức khỏe không tốt hay không. Nàng nghiêng đầu suy tư, mấy sợi tóc đen xòa lên mặt y thật mềm mại đáng yêu. Nàng bảo: “Thiếp chỉ thích tiết trời không lạnh.”

Nàng yêu thích những bông tuyết trong suốt lóng lánh nhưng lại sợ cái lạnh thấu xương của nó nên không dám tới gần. Cảm giác say sưa làm tan đi những lãnh đạm thường này của nàng, làm nàng dần dần buông lơi tính cách nghiêm nghị, hơi có chút phóng túng. Lưu Triệt nhìn đến say mê, thầm nghĩ rằng nếu thế này thì thi thoảng say rượu một chút cũng không có gì xấu.

Điện Trường Môn êm đềm ấm áp, bài trí xa hoa hơn cả điện Tiêu phòng năm xưa, vừa vén rèm lên liền cảm thấy một luồng hơi ấm phả vào mặt. Năm trước, Gián đại phu đã kiện lên rằng Đại tư nông Tang Hoằng Dương quản lý tài chính của Đại Hán nhưng bản thân mình lại kinh doanh kiếm lời vào túi riêng, thu nhập hàng năm hơn mười vạn. Lưu Triệt chỉ cười xòa bỏ qua. Y biết rõ tiền tài trong tay Tang Hoằng Dương sẽ đi đến nơi nào. Tất cả cũng chỉ dồn vào cho điện Trường Môn, phủ Công chúa trưởng, Liễu Duệ và chính bản thân y mà thôi. Tang Hoằng Dương hết lòng tin tưởng rằng tiền tài sống không tiêu được thì chết cũng không thể mang đi, sống ngày nào biết ngày ấy nên hễ có một quan tiền dư mà không tiêu sài hết được thì không cam lòng. Nhưng hắn thì chỉ cam tâm tình nguyện tiêu xài cho người nhà, ngoài ra chỉ có Liễu Duệ, A Kiều, và Lưu Lăng.

Cho tới bây giờ y chẳng buồn tính xem có bao nhiêu thứ trong số những kỳ trân dị bảo vô cùng đẹp mắt ở trong điện Trường Môn là do y ban thưởng, bao nhiêu thứ là do Tang Hoằng Dương đưa tới. Có điều y là đế vương, tuy không cần vui mừng thừa nhận ân tình nhưng cũng không phải hoài nghi cách chức Tang Hoằng Dương vì những hành động như vậy. A Kiều là người con gái xứng đáng được hưởng cung vàng gác tía. Cho nên nếu người kia không thể hậu đãi nàng thì hắn sẽ xây lầu vàng cho nàng. Đó chính là tâm tư của Tang Hoằng Dương mà Lưu Triệt không biết được.

Tấm thảm nhung dày trải dài dưới ánh nến chan hòa tạo nên không khí ấm áp vui vẻ. A Kiều bước đi trên đó, lòng cảm thấy thư thái, cởi bỏ mũ miện hoàng hậu cho tóc buông xõa ra, rửa mặt, thay y phục bình thường rồi soi gương chải tóc. Trong gương hiện lên một khuôn mặt xinh đẹp chẳng thua kém thời còn trẻ là bao. Nàng kinh ngạc ngắm nhìn rồi chợt nói, “Triệt Nhi, nếu có một ngày thiếp già và xấu đi thì chàng còn tìm đến Trường Môn nữa không?”

Lưu Triệt kinh ngạc, phất tay bảo cung nhân lui ra rồi hỏi, “Tại sao Kiều Kiều lại đột nhiên hỏi như thế?”

Hồng nhan dù có xinh đẹp như thế nào thì cuối cùng vẫn có một ngày sẽ trở thành nắm xương tàn, có phá trời vỡ đất cũng không tìm về được nữa. Nếu y vẫn đối xử lạnh lùng với nàng, quay lưng bỏ đi thì nàng sẽ không thèm nhỏ dù là mọt giọt nước mắt. Nhưng nếu đã trải qua nhiều năm tình nồng thắm thiết như vậy mà vẫn có kết cục đó thì nàng không thể tin rằng mình sẽ không động lòng. Lưu Triệt mỉm cười, cúi đầu hôn lên mái tóc đen của nàng, “Kiều Kiều đẹp như thế này, chỉ sợ ngay cả khi trẫm đã già rồi thì Kiều Kiều vẫn chưa già.”

Y bế nàng lên giường, “Tục ngữ có câu ‘vợ chồng kết tóc xe tơ’, nếu Kiều Kiều không tin vào tâm ý của trẫm thì trẫm xin kết tóc một lần với nàng vậy.”

Lời thề là cái gì đó không đáng tin nhất, nếu tâm hồn đã nhạt phai thì nó cũng tan tành theo mây khói. A Kiều thầm giễu cợt trong lòng, thuở còn niên thiếu thì hai người cũng từng là vợ chồng nhưng sau đó vẫn chia ly, vậy có thể thấy là điều đó hoàn toàn không có nghĩa lý gì. Nhưng nàng không muốn làm y cụt hứng nên liền lấy của mỗi người một đoạn tóc, nhẹ nhàng tết thành một búi. Đầu mày khóe mắt nàng đều hiện rõ ý cười làm mềm đi sự lạnh lùng tàn khốc của y, “Như thế này có được không?”

Nàng gật đầu, chăm chú ngắm nhìn, bỗng nhiên có tâm trạng tựa như bị nước lạnh như băng tuyết tràn qua, lạnh đến cực điểm. Trong số tóc được tết lại thành búi kia rõ ràng có một sợi đã bạc trắng.

Lưu Triệt quyết định lấy chữ “Phong” đặt tên cho kỷ nguyên mới. Sang năm chính là năm Nguyên Phong đầu tiên. Những người thuộc thế hệ bọn họ đều đã dần dần già đi, đám trẻ thuộc thế hệ tiếp theo đang lớn lên với chí tiến thủ mạnh mẽ. Nhân dịp năm mới, Trần A Kiều đến chơi bốn phủ trong kinh thành, ngắm nhìn Trần Mạn, Tang Duẫn, Liễu Ninh đang lớn dần lên, chơi đùa với nhau, nụ cười trong sáng giống như những dòng suối mát. Mi Nhi nhỏ nhất cũng được ba tuổi, miệng bi ba bi bô nói còn chưa sõi nhưng quả nhiên luôn bám chặt lấy Liễu Ninh đúng như những điều đã thể hiện trong lần chọn đồ vật đoán tương lai năm xưa, khiến cho cha nó là Đông Phương Sóc tức uất. Sự giao hòa ấm áp này đã thể hiện rõ ý nghĩa của những nỗ lực trong bao năm qua của bọn họ, dường như tính thân mật đầm ấm được di truyền theo huyết thống rồi cứ mãi di truyền tiếp xuống.

Một hôm, Trần A Kiều tới chỗ Công chúa trưởng Phi Nguyệt để cùng Lưu Lăng ôn lại kỷ niệm xưa. Thị nữ cung kính vén rèm, cung kính chào đón, “Cung nghênh Hoàng hậu nương nương.” Lưu Lăng ở trong nhà, xoay người tươi cười nhìn sang, bên tay phải nàng có một thiếu nữ khoảng chừng mười ba mười bốn tuổi, xinh đẹp tuyệt trần, cúi đầu quỳ gối, bái chào theo đúng quy củ: “Tế Quân tham kiến Hoàng hậu nương nương.”

“Tế Quân đã lớn thế này rồi à.” Trần A Kiều không khỏi bất ngờ nhưng sau đó lập tức hiểu ra. Lưu Tế Quân vốn chỉ nhỏ hơn Lưu Sơ khoảng chừng hai, ba tuổi.

“Thưa vâng.” Lưu Tế Quân ngẩng đầu lên, dịu dàng đáp: “Hôm nay là ngày đầu năm mới, Tế Quân tới bái chào cô cô, may mắn gặp đúng dịp Hoàng hậu nương nương cũng tới.”

Chiếu theo vai vế của gia đình mình thì thực ra Lưu Tế Quân thấp hơn Lưu Lăng hai ngôi, nhưng sau được bái Lưu Thiên làm cha nuôi nên theo vai vế mới của Phủ Mạt Lăng hầu mà chuyển sang gọi Lưu Lăng là cô cô. Những năm qua, Trần A Kiều và Lưu Lăng đều rất yêu thích vị Tế Quân quận chúa thanh lịch đa tài, nghĩa khí hào hùng nhưng số phận truân chuyên trong lịch sử này nên luôn quan tâm chăm sóc cho cô. Tuy có những tính cách do chính con người tạo nên, nhưng Đan Dương hầu phu nhân nhiều năm sủng ái cũng không làm thay đổi được bản tính thanh lịch đa cảm của cô nên không đáng ngại nữa.

“Hoàng hậu nương nương đã tới, Tế Quân nghĩ rằng Hoàng hậu nương nương lâu rồi không gặp cô cô nên nhất định có nhiều chuyện muốn nói, Tế Quân xin cáo lui trước.”

Trần A Kiều gật đầu, nhìn thân hình mảnh mai của Lưu Tế Quân khuất dần sau tấm mành che, ngẫm nghĩ thấy như thế này cũng tốt. Nếu cưng chiều khiến cho Lưu Tế Quân trở nên kiêu căng ngạo mạn như mình năm xưa thì Lưu Tế Quân còn là Lưu Tế Quân nữa sao.

“Òa! A Kiều tỷ đang nghĩ gì thế?” Nàng đang lơ đãng thì Lưu Lăng đi tới phía sau, bất chợt ú òa khiến nàng giật nảy mình rồi mới cười hỏi.

A Kiều lườm Lưu Lăng một cái, lên tiếng trách: “Đã lớn cả rồi mà còn chơi trò này.”

“Tỷ đang suy nghĩ”, nàng cúi đầu, nói như có điều phải suy tư: “Lịch sử đã có những thay đổi, vậy thì Lưu Tế Quân có cần phải lặp lại cuộc đời vĩ đại nhưng tuyệt đối không có hạnh phúc của cô ấy nữa hay không?”

Dù bọn họ không dựa vào những kiến thức lịch sử của mình nhưng cũng đã vô tình làm thay đổi dòng lịch sử. Từ đó chính bọn họ đang bị lịch sử biến đổi đó làm cho mơ hồ, không thể nào dùng những kiến thức của mình để suy xét thế giới này được nữa. Rốt cuộc đây là loại nghịch lý gì?

Lưu Lăng thản nhiên nói, “Con cháu có phúc của con cháu, cứ để cho bọn chúng tự mình làm. Nhưng theo suy luận thì Tế Quân đã không còn là một nữ cô nhi không ai bảo trợ như trong lịch sử, tôn thất có biết bao con gái, bệ hạ chưa chắc đã chọn Tế Quân.”

“Cũng không đơn giản như vậy đâu.” Trần A Kiều cau mày nói, “Người được tuyển chọn để gánh vác nhiệm vụ kết hôn cầu hòa mà điêu ngoa tùy hứng, chẳng phân biệt được đúng sai, thì chẳng phải sẽ làm hỏng quan hệ ngoại giao giữa hai nước hay sao?”

“A Kiều.” Lưu Lăng cười khanh khách, “Có phải tỷ làm hoàng hậu quá lâu rồi nên đầu óc không còn sáng suốt nữa không vậy? Tỷ có nhớ mục đích Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là gì hay không?”

Nàng suy nghĩ một lát rồi bật cười. Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là để ước hẹn cùng nhau chống lại Hung Nô, bây giờ Hung Nô đã suy tàn, còn cần thiết có cuộc hôn nhân này nữa sao. Nàng bị lịch sử trong đầu trói buộc nên có suy nghĩ hồ đồ. Nàng lại chợt nảy ra một ý nghĩ, nếu lịch sử đã bị thay đổi toàn bộ từ thời điểm bọn họ đến đây thì có phải việc nàng dùng những ấn tượng trong lịch sử để suy xét những con người hiện thực bây giờ sẽ tạo ra sai lầm hay không? Đây không còn là một trang lịch sử lạnh lùng nữa. Hiện tại, những người ở bên cạnh nàng đều đang sống. Bọn họ biết khóc, biết cười, biết yêu, biết hận, ngay cả Tư Mã Thiên cũng bắt đầu viết “Sử ký” mới rồi, việc nàng vẫn cố chấp với lịch sử ghi trong trí nhớ liệu có còn phù hợp? Nàng có thể tin hoặc không tin, Lưu Triệt lạnh lẽo vô tình được nàng tới bên cũng dần hiểu được tình yêu chân thành, thật sự có lòng đồng hành với nàng đến già, cho dù năm tháng đổi thay cũng không phai nhạt.

Lưu Lăng nhìn thấy sắc mặt nàng liên tục biến hóa bèn tò mò hỏi, “Tỷ đang suy nghĩ gì thế?”

“Không có gì.” Nàng đáp khẽ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 93: Ô Tôn sai sứ tới từ phía Tây

Lịch sử quả nhiên phát sinh biến hóa theo cách riêng của nó. Vào tháng Hai năm Nguyên Phong đầu tiên, nước Ô Tôn ngưỡng mộ uy thế của Đại Hán nên cử sứ thần tới Trường An muốn đặt quan hệ hôn nhân. Ô Tôn chính là một trong những quốc gia mạnh mẽ nhất ở vùng Tây Vực của Đại Hán. Quốc gia này sinh sống bằng phương thức du mục ở phía bắc dãy Thiên Sơn theo một dải từ bờ sông Hồ Nam cho tới lưu vực sông Liệt Hà, thủ đô là thành Xích Cốc nằm ở bờ sông Hồ Nam. Phía nam Ô Tôn giáp với các thành quách của các nước láng giềng nằm ở phía nam của dãy Thiên Sơn, phía Tây là Đại Uyển, Tây Bắc là Khang Cư, đông giáp với Xa Sư, vùng Đông Bắc tiếp giáp với Hung Nô. Vào năm Nguyên Thú thứ hai và năm thứ tư của cuộc chiến Mạc Nam Mạc Bắc giữa Đại Hán và Hung Nô, vì sự có mặt của Trường Tín hầu Liễu Duệ nên sự đả kích đối với Hung Nô ác liệt vượt xa những gì trong sách sử ghi lại. Lũng Tây, Mạc Nam, Hung Nô, đều bị tiêu diệt nên thế lực Ô Tôn thừa dịp phát triển, trở lại đất cũ Đôn Hoàng Kỳ Liên, dần giáp giới với Đại Hán. Từ năm Nguyên Thú thứ tư, dưới sự thống trị của Lưu Triệt và sự đồng tâm hiệp lực của A Kiều lẫn Tang Hoằng Dương, Đại Hán mở rộng biên giới ra ngoài, đời sống dân chúng trong nước cũng không thấy điêu linh, quốc lực cường thịnh áp chế các nước chung quanh. Trong hoàn cảnh đó, quốc vương Ô Tôn tự sai sứ tới Hán triều bái phỏng cũng là chuyện hợp lý.

Trong lịch sử nhà Hán, kết hôn cầu hòa là kế sách kém cỏi. Lưu Triệt vì tỷ tỷ của mình là Trưởng công chúa Nam Cung Lưu Đàm chịu khổ cả đời mà phản cảm với chuyện này. Hơn nữa, tính cách của y vốn trời sinh đã cao ngạo, cũng không muốn đem áp lực nặng nề của chuyện hưng thịnh, ổn định của quốc gia lên người một cô gái yếu ớt.

Vào năm Nguyên Đỉnh thứ hai, sứ giả Ô Tôn lần đầu tiên vào đất Hán đã bị lóa mắt bởi sự phồn hoa của kinh đô Trường An, sau khi về nước liền ra sức ca ngợi Đại Hán rộng lớn, giàu có và đông đúc. Vào năm Nguyên Phong đầu tiên, Ô Tôn Vương Côn Mạc chọn trong đám con cháu rồi phái cháu trai Quân Tu Mỹ dẫn theo cháu gái A Mạc Đề tới nhà Hán để hiến ngựa tốt của Ô Tôn và kết hôn cầu hòa. Lịch sử lại xoay vòng theo một phương thức kỳ diệu.

Lưu Triệt trọng thị sứ giả lần này của Ô Tôn, tiếp kiến ở điện Tuyên Thất. Tối đến trở về điện Trường Môn, Trần A Kiều hỏi Lưu Triệt, “Chuyện Ô Tôn kết hôn cầu hòa, bệ hạ có tính toán gì không. Dù thế nào thì cũng phải có một người chịu khổ sao?”

“Đại Hán có lợi trong việc bang giao hòa thuận với Ô Tôn nên không thể từ chối.” Lưu Triệt thở dài, “Chỉ là chọn người khá khó khăn.”

“Vậy à.” Trần A Kiều nhẹ nhàng, “Ô Tôn đưa thiếu nữ tới kết hôn cầu hòa nhưng cũng không thể khuất phục được thân phận cháu gái quốc vương của nàng ta. Khổ nỗi các hoàng tử của bệ hạ nếu không phải đã lập gia đình rồi thì còn chưa tới tuổi. Đứa duy nhất dường như có thể được thì lại bị người cầm cố trong Bắc cung.”

Lưu Triệt khẽ nhíu mày, nói: “Tuy là cháu gái của Ô Tôn vương, nhưng dù sao…”

Y còn chưa nói hết lời nhưng lòng A Kiều đã lạnh ngắt. Thân phận cơ bản nhất của Lưu Triệt vẫn như cũ là một vị đế vương. Y vì sự liên hiệp với nước khác mà có thể đem con cháu tôn thất gả đến Ô Tôn nhưng trong thâm tâm vẫn còn xem thường thiếu nữ man di. Kim Nhật Đan mà Tảo Tảo nhìn trúng cũng là người man di không hơn không kém.

“Thật ra thì còn có một biện pháp.” Lưu Triệt thấy nàng có vẻ ưu phiền, đột nhiên sinh lòng muốn đùa giỡn, “Mục đích ban đầu của Ô Tôn vương là tính gả cháu gái của ông ta vào…” Y dừng lại, ánh mắt dần trở nên âm trầm. Ngoài A Kiều ra thì các thiếu nữ khác dù có đẹp đến mấy đối với y cũng không quan trọng. Nếu y thực sự nhận lời lấy A Mạc Đề thì coi như vô duyên vô cớ tự hạ thấp vai vế xuống hai bậc so với lão nhân kia.

Trần A Kiều nghe một lúc mới hiểu. Ô Tôn ở vùng Tây Vực xa xăm nên không biết hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái một mình nàng, thế nên mới đầu đưa A Mạc Đề tới là để dâng cho Lưu Triệt làm phi tần. Nàng cứ một mực xét chuyện theo ý của mình, ngay cả dấu hiệu rõ ràng như vậy cũng sơ suất bỏ qua.

“Lưu Triệt!” Nàng trừng mắt, tức giận hô lên.

Lưu Triệt cười lớn, ôm lấy nàng, nói: “Trẫm thật sự đã lâu không được trông thấy Kiều Kiều tức giận rồi đấy.”

Trong lòng nàng ngầm cảnh tỉnh, chỉ mong mấy ngày nàng đã liên tiếp phạm hai sai lầm, phải chăng điều này chứng tỏ rằng nàng thật sự hy vọng có thể nắm tay y tới lúc bạc đầu? Dần dần, nàng đã tin vào tâm ý của y, tin rằng y yêu mình, coi trọng mình, sẽ không bao giờ lại làm tổn thương mình được nữa. Hoặc là ít nhất hy vọng rằng mình có thể tin tưởng được như vậy?

Tháng Ba năm nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt cho bày đại yến ở cung Vị Ương chiêu đãi cháu trai và cháu gái của Ô Tôn vương, đồng thời mời con cháu tôn thất tới dự. Trần A Kiều là nữ chủ nhân của Đại Hán, ngồi bên cạnh đế vương, vẻ mặt lạnh nhạt. Cháu trai của Ô Tôn vương là Quân Tu Mỹ cư xử rất có chừng mực, là một nhân vật không đơn giản. A Mạc Đề mũi cao mắt sáng trông cực kỳ xinh đẹp, có phong thái hào sảng dám yêu dám hận của người tái ngoại. Cô không hề nhìn đến đám tôn thất ngồi đối diện mà lại thỉnh thoảng liếc nhìn Lưu Triệt ngồi trên ghế chủ tọa ở bên trên. Ánh mắt đó khiến Trần A Kiều có cảm giác rất không thoải mái nhưng lại không thể bộc lộ ra.

Sau khi yến hội, A Mạc Đề ra khỏi cung vẫn còn luyến tiếc nhìn mãi về cung Vị Ương tráng lệ huy hoàng rồi lại hưng phấn nhìn phố xá Trường An phồn hoa thịnh vượng. Quân Tu Mỹ thấy vậy cau mày, kéo nàng trở về dịch trạm, nói luôn “A Mạc Đề, muội thích ai trong số đám con cháu quý tộc nhà Hán có mặt hôm nay thì nói cho ca ca biết. Chắc là hoàng đế nhà Hán sẽ thành toàn, còn những chủ ý khác thì muội hãy quên ngay đi.”

“Muội không thích ai.” A Mạc Đề dẩu môi: “Muội chỉ thích hoàng đế nhà Hán của bọn họ. Con gái Ô Tôn nếu phải gả thì chỉ gả cho bậc anh hùng. Trong mắt của muội, y chính là anh hùng lớn nhất. Lúc trước chẳng phải ca ca và gia gia đều nói sẽ gả muội cho y, sao bây giờ lại thay đổi chứ?”

“Muội còn chưa nhận ra sao?” Quân Tu Mỹ nhẫn nại nói: “Hôm nay y sắp xếp như thế có nghĩa là căn bản không có ý muốn kết hôn với muội. Người trong thành Trường An đều nói rằng hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái mỗi hoàng hậu của mình. A Mạc Đề, muội không thể tùy hứng như vậy.”

“Có thể…” A Mạc Đề cười khanh khách một hồi nhưng tròng mắt lại đỏ hoe, “Muội biết, muội biết mình có trách nhiệm với Ô Tôn nên phải chú ý đại cục, không thể tùy hứng. Nhưng thật sự là muội không thể tùy hứng một chút sao?”

Huynh muội bọn họ dùng tiếng Ô Tôn nói chuyện với nhau nên dù giọng khá lớn nhưng đám người Hán theo hầu vẫn không hiểu được câu nào. Quân Tu Mỹ bị cô hỏi như vậy thì nín lặng hồi lâu rồi mới thở dài, ánh mắt có vẻ thương hại, nói: “Sau khi tới thành Trường An, ta nghe người Hán có một câu nói, ‘Vô tình nhất chính là nhà đế vương’, muội là công chúa Ô Tôn nên không thể không gánh vác trách nhiệm. Ca ca thay mặt cho ngàn vạn con dân Ô Tôn tạ ơn muội muội.”

Những lúc rảnh rỗi, Quân Tu Mỹ cũng rất yêu thích thành Trường An phồn hoa nên ăn mặc theo kiểu người Hán, dẫn theo tùy tùng đi dạo ở chợ phía đông Trường An. Chợ phía đông tấp nập, bách tính an cư lạc nghiệp, nét mặt tươi cười vui vẻ.

“Chỉ nhìn như vậy cũng biết hoàng đế Đại Hán đúng là một người rất giỏi.” Quân Tu Mỹ nói trong lòng.

Chuyện kết hôn cầu hòa lần này bắt buộc phải hoàn thành để tránh cho ngày sau Ô Tôn xung đột với Đại Hán. Hắn nghĩ tới A Mạc Đề đang hờn dỗi ở dịch trạm thì khẽ nhíu mày. Luận về thân phận và tuổi tác, A Mạc Đề chính là lựa chọn tốt nhất để kết hôn cầu hòa với nhà Hán. Cô cũng không phải là người không hiểu biết nhưng lại mang tâm tư thiếu nữ nên vẫn không phân biệt được sự khác nhau giữa ảo ảnh và thực tế, nhất quyết không chịu chấp nhận ấm ức.

“Vị công tử này!” Dù hắn mặc trang phục bình thường nhưng chất vải sang trọng, khí độ lại bất phàm, tiểu thương Trường An đều là kẻ thành tinh nên sao có thể bỏ qua, nhiệt tình mời mọc, “Công tử tới xem đồ của chúng tôi, toàn là đồ tốt cả đó. Công tử mua về tặng cho phu nhân nhé.” Hắn cười lắc đầu ý bảo không cần. Hắn vừa tham quan những hàng hóa rực rỡ muôn màu bày đầy trên đường phố vừa thả bước đi tiếp, bỗng nhiên thấy một hai lưu dân co rúm trong một góc chợ ít được người chú ý. Giờ đang là tháng Tư, Trường An mới vào xuân nên buổi sáng vẫn khá lạnh. Hai người mặc áo quần rách nát nhưng những người qua đường vẫn thản nhiên đi qua cứ như là đã quá quen với cảnh này.

“Xem ra nhà Hán cũng không phải nơi nơi đều thái bình.” Đám tùy tùng thấy hắn chú ý tới hai lưu dân kia liền tiến lại gần, khẽ nói.

Hắn cười nhạt, nước quá trong sẽ không có cá. Dù cho thiên tử nhà Hán anh minh thế nào đi nữa thì cũng không thể bảo đảm tất cả con dân bên dưới đều vui vẻ an khang. Đúng lúc hắn vừa xoay người định bước đi thì trông thấy một cỗ kiệu nữ màu xanh dừng ở bên đường, một thiếu nữ quý tộc nhà Hán chừng mười ba mười bốn tuổi vén rèm lên, giơ bàn tay trắng nõn mềm mại đưa nửa xâu tiền ra, nhẹ nhàng bảo, “Miên Trữ, đem cái này cho hai người kia.”

Miên Trữ đáp một tiếng, nhận lấy tiền, đi tới trước mặt hai lưu dân, nói, “Các ngươi quả thật may mắn mới gặp được Quận chúa nhà ta. Quận chúa thiện tâm nên thưởng cho các ngươi.” Hắn ném nửa xâu tiền kêu xủng xẻng trước mặt hai người rồi quay trở về. Chớp mắt, cỗ kiệu lại đi tiếp về phía trước.

Người trong chợ phía đông không quan tâm tới hai lưu dân nhưng lại rất hứng thú với cô quận chúa xinh đẹp vừa xuất hiện, bàn tán: “Người mới vừa rồi chính là Giang Đô quận chúa Tế Quân rất hay làm phúc đó.”

Cô vốn là cô nhi của tội thần nhưng bỗng nhiên đổi vận, được vợ chồng Đan Dương hầu thu nhận làm con nuôi, vô cùng ưu ái, không ai còn dám coi thường. Ai có thể nói cô có phúc phận không tốt. Đại nương bán vải bỗng nhiên quay đầu lại, lớn tiếng nói, “Tế Quân quận chúa đẹp người đẹp nết. Ở hiền gặp lành, có phúc phận tốt như vậy là đúng. Ngươi không thấy sao, có biết bao con cháu thế gia quý tộc đi chơi chợ Đông nhưng có mấy người bố thí tiền tài như Tế Quân quận chúa chứ?”

Bà nói đúng sự thật nên mọi người tức thì không còn biết bàn tán gì nữa, sau đó dần yên lặng. Tùy tùng phía sau Quân Tu Mỹ xuýt xoa một hồi rồi nói: “Các cô gái nhà Hán thật xinh đẹp nhưng đáng tiếc là quá yếu ớt. Tỷ như cô quận chúa vừa rồi mà đến Ô Tôn thì e rằng không sống qua nổi một mùa đông.” Quân Tu Mỹ quay lại lườm một cái khiến hắn im bặt.

Quân Tu Mỹ thiên tính thông minh, trước lúc đi sứ đã theo người có hiểu biết về nhà Hán, học được một chút tiếng Hán nên lúc này đứng trên phố Trường An có thể nghe hiểu đại khái. Nếu điều gì hắn không thể nói thì đưa mắt nhìn tùy tùng. Tên tùy tùng là người rất cơ trí, bước tới trước cửa hàng của vị đại nương vừa lên tiếng bảo vệ Lưu Tế Quân mà hỏi, “Đại nương, vải của bà bán thế nào?”

Đại nương nhìn thấy Quân Tu Mỹ đứng phía sau liền mỉm cười nói, “Nửa xâu tiền một súc.” Bà sợ bị chê đắt nên vội vàng giải thích, “Vải này được nhuộm theo cách mới của Tang Tư nông, ngài nhìn xem, màu sắc tươi tắn, chất vải trơn mềm đến mức nào.”

Quân Tu Mỹ đưa tay sờ qua, bất giác “ồ” lên một tiếng. Chất vải quả nhiên mềm mại vô cùng. Ngay cả vải vóc bình thường bán trên phố cũng đã tốt như thế, xem ra nhà Hán không chỉ lớn mạnh mà các kỹ nghệ khác đều vượt qua Ô Tôn. Tùy tùng không biết biến hóa trong suy nghĩ của Quân Tu Mỹ, hỏi tiếp, “Đại nương, vị quận chúa vừa rồi là người nhà vương hầu nào hay sao?”

Đại nương nhìn hắn hồi lâu rồi mới cười nói, “Hai vị là người từ nước ngoài tới rồi.”

“Người trong thành Trường An có ai không biết Quận chúa Tế Quân.” Đại nương thở dài nói, “Số phận nàng ấy rất long đong. Nàng vốn là con gái của Giang Đô vương. Sau khi Giang Đô vương mưu phản bị giết thì được Đan Dương hầu thu nhận. Nàng rất sáng dạ, đồng thời theo học cả Trần hoàng hậu và tài nữ đất Thục là Trác Văn Quân. Ngươi nên biết rằng Trần hoàng hậu, Phi Nguyệt trưởng công chúa và Trác Văn Quân được xưng là ba đại tài nữ của Đại Hán chúng ta. Nàng đồng thời theo học hai người, nghe nói rằng tài gảy đàn tỳ bà của nàng còn vượt qua cả sư phụ, thật sự gần như là tiên nữ trong chốn nhân gian.”

Những điều cần hỏi thì đã hỏi xong, viên tùy tùng cảm thấy cũng đáng mua giúp một súc vải. Hắn nhìn các cuộn vải đủ màu sắc mà lúng túng không biết lựa chọn thế nào, liền quay đầu lại nhìn Quân Tu Mỹ. Quân Tu Mỹ mỉm cười, nhớ lại người thiếu nữ ban nãy vén rèm để lộ ống tay áo màu vàng nhạt nhưng lại có một đôi mắt thanh tú dịu dàng. Hắn chợt nghĩ hợp nhất với nàng là y phục màu hoa đào vừa bừng bừng sức sống lại điểm thêm chút cởi mở, cộng với vẻ yên bình thì càng thêm quyến rũ.

Quân Tu Mỹ trả nửa xâu tiền và nhận súc vải màu hoa đào. Hắn chợt cảm thấy tức cười về hành động của mình. Hắn là cháu trai quốc vương nước ngoài đi sứ, nàng là quận chúa của Đại Hán, hai người chưa chắc đã có duyên gặp mặt thì mua vải thế này để làm gì? Hắn quẳng súc vải cho tùy tùng, chán nản nói: “Trở về dịch trạm thôi.”

Trở lại dịch trạm, thị nữ của A Mạc Đề đến bẩm báo rằng tối hôm qua A Mạc Đề cảm thấy không khỏe, chắc là do nhiễm phong hàn. Hắn không lo lắng mà ngược lại giận giữ, cười lạnh nói, “Tiết trời Ô Tôn lạnh như vậy mà còn không bị phong hàn, sao đến Đại Hán thì lại bị. A Mạc Đề, muội thật khiến người ta thất vọng.”

A Mạc Đề rơi lệ vì lời nói của ca ca song một khi đã nhiễm phong hàn cũng không cách nào dễ dàng khỏi hẳn. Mấy ngày sau, cung Hán truyền xuống ý chỉ gả cháu gái của Ô Tôn vương cho con thứ Lưu Bồi. A Mạc Đề lặng lẽ nghe tuyên chỉ, vẫn rất bình thản chứ không hề làm ầm lên. Quân Tu Mỹ quan sát thấy thế thì hơi bất an nhưng lại không thể làm gì. Một hôm, hắn hỏi thăm người trong dịch trạm và biết được chỗ của lầu Thanh Hoan nổi danh nhất thành Trường An, liền dẫn người đi.

Những năm trước đây, người Hán vẫn nói tới thành Trường An mà chưa tới lầu Thanh Hoan thì coi như chưa tới Trường An. Những năm này dù danh tiếng có suy giảm nhưng vẫn hơn xa các tửu lâu bình thường. Hắn vừa tới lầu Thanh Hoan liền thấy xe ngựa nườm nượp, toàn là hạng người phú quý. Trên một cỗ xe có một cậu bé con nhà quyền quý chừng mười tuổi sốt ruột không chịu chờ người tới đỡ xuống mà cứ cố gắng bước ra, vô ý lao vào con tuấn mã kéo xe làm nó giật mình chồm hai chân lên khiến cậu bé ngã lọt xuống dưới vó ngựa sắp đạp lên người cậu bé thì bỗng có một thanh niên ở bên cạnh lao vọt đến ôm lấy cậu bé lăn ra ngoài.

Một phụ nữ quý tộc ngồi trên chiếc xe ngựa đầu tiên, lúc này mới hoàn hồn, kêu lớn, “Sách Nhi.” Nàng ta chạy đến ôm được cậu bé đang sợ đến ngây người vào lòng thì mới yên tâm trở lại. Quân Tu Mỹ khẽ mỉm cười, đang định rời đi thì đột nhiên sững lại. Một người phụ nữ mặc y phục màu xanh trông trẻ hơn phu nhân phía trước, khí độ cao quý vén rèm bước xuống xe, theo bên cạnh là một thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích. Đó là Lưu Lăng, trông thấy Lưu Sách bình yên vô sự ở trong lòng Kim Nga thì mới an tâm, khẽ mỉm cười nói: “Đa tạ công tử cứu giúp cháu ta.”

Hắn lúng túng không cất nên lời, chỉ chú ý đến thiếu nữ có cặp mắt thanh tú dịu dàng phía sau, hồi lâu mới lên tiếng đáp: “Phu nhân nói quá lời rồi.” Ngữ điệu của hắn cứng ngắc, không hề giống với người Hán. Lưu Lăng cùng Tế Quân đều ngạc nhiên, hỏi, “Công tử quý tính đại danh là gì để phủ Đan Dương hầu nói lời cảm tạ.”

“Đúng vậy.” Kim Nga phục hồi lại tinh thần, cảm kích nói. Phải biết rằng, Lưu Sách là con độc nhất của nàng ta, cháu đích tôn của phủ Mạt Lăng hầu, ngoài thân phận cao quý còn là cốt nhục của nàng ta. Nếu cậu bé xảy ra chuyện gì thì quả thật nàng ta không thể chịu nổi.

Quân Tu Mỹ cười nhẹ, “Ta là sứ giả tới từ Ô Tôn.”

Kim Nga khẽ “a” một tiếng. Các nàng dĩ nhiên đã nghe nói về việc Ô Tôn sai sứ tới đây. Lưu Tế Quân mỉm cười, nói: “Chả trách trên người công tử đích thực là có khí khái anh hùng của đấng nam nhi vùng đại mạc.”

Lúc này Lưu Sách cũng đã hoàn hồn, rất có cảm tình với Quân Tu Mỹ, nói: “Mẫu thân, vị đại ca này có công phu thật giỏi, người nhất định phải đa tạ huynh ấy thay con.”

Quân Tu Mỹ hơi nheo mắt, dù nhà Đan Dương hầu có cao quý nhưng hắn cũng chưa chắc đã coi vào đâu. Chỉ là, hắn không nỡ rời xa người thiếu nữ kia nên mới không định cứ thế bỏ đi.

“Dĩ nhiên rồi.” Kim Nga vỗ về trấn an con trai, quay đầu lại nghiêm túc nói: “Công tử vừa cứu con ta, nếu ở trong thành Trường An có gặp khó khăn gì xin cứ tìm đến phủ Mạt Lăng hầu.”

Lưu Lăng lại khẽ mỉm cười, hỏi, “Quý tính đại danh của công tử là gì?”

“Ta họ Tôn”, Quân Tu Mỹ suy nghĩ một chút nói, “Tên gọi Quân Tu.”

Kim Nga và Lưu Tế Quân cùng “a” một tiếng, sắc mặt cũng không có gì khác thường. Lưu Lăng khẽ cúi đầu, thầm nghĩ, xét theo khí độ nhân phẩm thì người này tất không phải kẻ tầm thường. Không lẽ hắn chính là cháu của Ô Tôn vương? Nhìn vẻ mặt và ánh mắt của hắn thì chắc là thích Tế Quân. Chẳng lẽ đây là mối nhân duyên trời định không thể chia cắt được hay sao? A Kiều mà biết thì chắc chắn sẽ không vui, nhưng cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên mới tốt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 94: Ngựa sang xứ tuyết, hoa đào sau lưng

Quân Tu Mỹ vừa gõ cửa ngách phía đông phủ Mạt Lăng hầu liền có thị nữ ra mở cửa, che miệng cười nói, “Tôn công tử, tiểu thiếu gia nhà ta đợi người đã lâu.”

Hắn còn chưa quen với tác phong ăn nói lanh lợi, tươi tắn quyến rũ của con gái nhà Hán nên chỉ cúi đầu nói: “Xin hãy dẫn đường cho.”

Thị nữ đã quen nghe cách nói tiếng Hán cứng nhắc của hắn nên liền gật đầu, tươi cười đi trước dẫn đường, ngoặt trái rẽ phải bảy tám bận thì đến một ngôi đình trên mặt nước. Lưu Sách ở trên đình, trông thấy từ xa liền vui mừng nhảy xuống gọi: “Tôn đại ca.”

“Khoan đã.” Quân Tu Mỹ mỉm cười ôm lấy cậu, hỏi: “Đệ không sợ té ngã sao?”

“Tôn đại ca võ nghệ cao cường đến mức có thể cứu được đệ từ dưới vó con ngựa điên”, Lưu Sách nháy mắt tinh nghịch, nói: “nên đệ mới không sợ chứ.”

Thiếu nữ mặc bộ y phục màu xanh nhạt mím môi cười, nét mặt thanh nhã, nhướng mày đối lại với ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên. Cô bỗng hơi lặng đi, cúi đầu xuống, khuôn mặt hơi ửng hồng.

“Tỷ tỷ.” Lưu Sách bỗng quay đầu hỏi: “Tỷ nói võ nghệ của Tôn đại ca so với Thái tử ca ca thì thế nào?”

“Thái tử?” Quân Tu Mỹ ngẩn người hỏi lại.

“Vâng.” Lưu Sách hào hứng nói; “Chắc là Tôn đại ca không biết chứ Thái tử ca ca của chúng ta mặc dù là thái tử nhưng cũng rất giỏi võ nghệ, lợi hại vô cùng.” Cậu có vẻ hơi buồn phiền, “Nói thật ra thì Thái tử ca ca rất bận rộn nên đệ chẳng mấy khi gặp, nhưng tỷ tỷ hay cùng Duyệt Trữ tỷ tỷ đọc sách nên thường xuyên gặp hơn.”

Quân Tu Mỹ liền nhìn sang Lưu Tế Quân. Cô gật đầu, thầm cảm thấy không hài lòng. Cháu đích tôn của Mạt Lăng hầu giao tiếp với người nào thì mẫu thân sẽ cho điều tra thân phận của người đó. Cô biết hắn là sứ giả Ô Tôn và sẽ kế thừa ngôi vương của Côn Mạc nhưng không nói cho Sách Nhi vì cảm thấy giao tiếp với nhau không phải vì tên tuổi hay thân phận, do đó vẫn xưng hô với hắn bằng tên giả. Nhưng việc đã liên quan đến Thái tử Đại Hán thì cần phải cẩn thận hơn nhiều.

Quân Tu Mỹ cười sảng khoái, nói: “Không ngờ thái tử điện hạ của Đại Hán sống ở trong thâm cung mà lại có võ nghệ cao cường, thật là hiếm có.”

“Không phải là Mạch ca ca chỉ sống ở trong thâm cung đâu.” Lưu Sách vội nhảy dựng lên nói: “Đệ nghe mẹ kể rằng khi Mạch ca ca còn bé…”

“Sách Nhi.” Lưu Tế Quân nhíu mày quát lên.

Quân Tu Mỹ liền nên dừng lại ở đây, mỉm cười hỏi, “Không biết thường ngày Tế Quân quận chúa yêu thích điều gì?”

Lưu Tế Quân đứng ngồi không yên, vội vàng nói; “Ta về phòng trước đây. Sách Nhi, đệ không nên quấy rầy nhiều làm mất thời gian của Tôn công tử.”

Lưu Sách đảo mắt nhìn theo bóng tỷ tỷ đi khuất hẳn rồi mới láu lỉnh vỗ vào người, hỏi Quân Tu Mỹ: “Tôn đại ca, huynh thích tỷ tỷ của đệ à?”

Hắn thu ánh nhìn hút theo Lưu Tế Quân, cúi xuống trả lời cậu bé: “Đúng vậy.” Đàn ông Ô Tôn lòng dạ ngay thẳng, không hề làm bộ ngượng ngùng.

Hắn trả lời dứt khoát như thế trái lại làm cho Lưu Sách hơi bất ngờ, lặng đi một lúc mới thở dài sườn sượt thốt lên, “Khó lắm đấy.”

Cậu làm bộ trầm ngâm một lúc nhưng thấy Quân Tu Mỹ không mắc mưu mà chỉ khoanh tay yên lặng, thì lại không nhịn được nói tiếp: “Mặc dù tỷ tỷ không phải là con ruột của cha mẹ đệ nhưng huynh đừng tưởng rằng tỷ ấy phải ăn nhờ ở đậu, hoàn cảnh đáng thương. Có đôi khi đệ còn cảm thấy mẫu thân chiều chuộng tỷ ấy hơn cả đệ. Hơn nữa, Hoàng hậu nương nương và Phi Nguyệt cô cô đều rất thích tỷ tỷ.”

“Mặc dù đệ thấy Tôn đại ca”, cậu nhìn từ trên xuống dưới đánh giá hồi lâu rồi nói: “Có phong thái không phải người bình thường nhưng lại không phải người Hán. Vì điều này, huynh muốn kết hôn với quận chúa Đại Hán là rất khó.”

Quả nhiên không có ai là đèn cạn dầu. Quân Tu Mỹ than thầm, chỉ là một cậu bé chưa tới mười tuổi mà đã có thể nhận biết được nhiều như vậy. Tuy nhiên, hắn nheo mắt, thành bại còn do người làm, nếu không làm thì không biết thế nào cả?

Tháng Ba, Hán đế đến Thượng Lâm Uyển săn thú mùa xuân, mời cả cháu trai và cháu gái của quốc vương Ô Tôn đi cùng. Người Ô Tôn sống du mục săn bắn trên thảo nguyên nên dù nam hay nữ đều cưỡi ngựa bắn tên rất giỏi. A Mạc Đề bị cảm lạnh mới khỏi, trong lòng lại đang buồn bực về chuyện kết thân cầu hòa nên tự mình cưỡi ngựa ra roi phóng vụt đi. Thượng Lâm Uyển có diện tích rất rộng, cô phi ngựa một lát, gió tạt vào người thì bình tĩnh lại, nhìn bốn phía chẳng còn nhận biết phương hướng thế nào, bất đắc dĩ đành xuống dắt ngựa từ từ bước đi.

“Mặc dù con gái man di nhưng xem ra cũng rất có phong độ.”

Câu nói khinh mạt vang lên phía sau khiến A Mạc Đề giật mình quay đầu nhìn lại, thấy một người Hán cưỡi ngựa từ trong rừng phi ra. Hắn có khuôn mặt khá dễ coi nhưng dáng điệu quý phái, không thể giấu được vẻ kiêu ngao.

“Hu!” Hắn ruổi ngựa đến bên cạnh A Mạc Đề thì ghìm cương lại, nói: “Ngươi có biết rằng ta chính là vị hôn phu đích thân bệ hạ ban hôn cho ngươi, con thứ của Đông Lâm hầu, tên là Lưu Bồi?”

Hắn là hoàng thân mà lại phải kết hôn với một người con gái tộc Hồ nên rất không cam lòng nhưng lại không dám phản ứng lại bệ hạ, vì vậy mới trút hết oán giận lên người cháu gái của Ô Tôn vương. Hắn ngồi trên lưng ngựa khom mình nhìn xuống, cười vẻ càn rỡ, “Hãy cho ta xem con gái Ô Tôn có gì khác với con gái người Hán?”

A Mạc Đề không giỏi tiếng Hán như ca ca nhưng vẫn miễn cưỡng hiểu được mấy chữ, biết thân phận của người trước mặt thì tức giận nhướng mày. Cô cũng là kiều nữ của một nước, chưa từng bị đối xử tệ như thế nên rất không hài lòng với người này. Không biết tự bao giờ cô đã rút cây cung sau lưng ra, chém thẳng vào Lưu Bồi. Lưu Bồi nhanh tay lẹ mắt tránh được nhưng cung vẫn bổ trúng thân ngựa khiến nó kinh sợ hất tung hắn xuống đất.

Lưu Bồi loạng choạng đứng dậy, cả giận nói, “Man di, hãy xem ta thu phục ngươi như thế nào.”

“Vương tôn.” Đám tùy tùng Ô Tôn đứng cùng Quân Tu Mỹ ở chỗ khuất trong rừng trông thấy tình cảnh này, vội vàng nói, “Nếu chúng ta không xông ra thì tiểu thư A Mạc Đề sẽ phải chịu thiệt thòi.”

Mặc dù A Mạc Đề là cô gái lớn lên trên thảo nguyên còn Lưu Bồi là con cháu quý tộc ở thành Trường An nhưng nam nữ trời sinh đã có những khác biệt mà con người không thể nào vượt qua được.

Quân Tu Mỹ nhíu mày, trầm giọng nói, “Hãy chờ một chút đã.”

Hắn âm thầm siết chặt nắm tay, làm như vậy có phải là tốt không? Hắn muốn cưới về một cô nương nhà Hán nhưng thấy người này không xứng với A Mạc Đề. Ngoài kia, A Mạc Đề đã trúng một tát, khuôn mặt lập tức đỏ ửng, tóc tai tán loạn. Cái tát ngược lại chỉ kích thích cô bộc phát tính cách ngang ngạnh, dùng hết sức lực đá ra một cước trúng chân trái Lưu Bồi. Lưu Bồi thẹn quá hóa giận, đang định tiếp tục động thủ thì chợt nghe thấy giọng trầm thấp nói tiếng Hán cứng ngắc: “Ngươi làm gì muội muội của ta vậy?”

“Ca ca”, A Mạc Đề bị ấm ức òa lên một tiếng rồi vùi đầu vào lòng Quân Tu Mỹ khóc tức tưởi.

Quân Tu Mỹ giơ tay trấn an cô, ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm vào Lưu Bồi, lạnh lùng nói, “Ta là sứ giả Ô Tôn đi sứ Đại Hán với ước nguyện kết thành đồng minh vĩnh viễn với Đại Hán. Người Đại Hán lại đối xử với cháu gái của Ô Tôn vương chúng ta như thế này sao?”

Lưu Bồi tỉnh táo lại, mồ hôi toát đầm đìa. Hắn hiểu rằng nếu đối phương bẩm báo với bệ hạ việc này thì cuộc đời hắn coi như là hết, vội vàng cười nói, “Đây chỉ là đùa chơi mà thôi. Ta đến chỉ để coi mặt vị hôn thê của mình. Đại ca giơ cao đánh khẽ, chúng ta đều là người một nhà mà.”

A Mạc Đề đang ở trong lòng Quân Tu Mỹ liền ngẩng đầu lên, định nhận phần thua thiệt thay cho ca ca. Dù sao thì việc cô phải chịu ấm ức cũng chỉ là chuyện nhỏ, quan hệ hai nước mới là chuyện lớn. Nhưng cô không ngờ Quân Tu Mỹ lại lãnh đạm nói như đinh đóng cột, “Không được. Không cho phép ai đối xử tệ với công chúa Ô Tôn của chúng ta.”

“Ca ca.” A Mạc Đề không nhịn được thốt lên.

“Gì thế?” Quân Tu Mỹ cúi xuống hỏi cô.

“Không có gì.” A Mạc Đề đành nín khóc, mỉm cười, “Muội thấy là ca ca rất thương muội.”

Quân Tu Mỹ siết chặt nắm tay. Thế muội có thể thương ta một chút được không? A Mạc Đề, muội cho rằng ca ca quá tốt, nhưng nếu không phải ca ca cũng có việc phải cầu xin thì chắc chắn vừa rồi đã chấp thuận đề nghị của Lưu Bồi.

Tin này truyền tới tai Hán đế. Lưu Triệt rất tức giận, ngay lập tức phạt Lưu Bồi ba trăm lạng vàng nhưng việc kết thân cầu hòa giữa hai nước thì lại lâm vào tình cảnh khó khăn. Cháu gái của Ô Tôn vương nhất định không chịu kết hôn với người đã từng làm nhục mình. Người Hán dù sao cũng đuối lý nên Lưu Triệt không thể cưỡng ép được. Lưu Triệt triệu cháu trai của Ô Tôn vương đến, nói: “Hai nước chúng ta kết thân cầu hòa…” Y vừa mới mào đầu thì Quân Tu Mỹ đã liền quỳ xuống nói, “chuyện đã đến mức này, ta có một thỉnh cầu quá đáng.”

“Hai nước kết thân cầu hòa quan trọng là minh ước chứ không liên quan đến chuyện cưới gả. Lần này A Mạc Đề bị tổn thương, ta là ca ca cũng không muốn làm khó muội ấy nữa. Nhưng ta lại rất yêu thích một cô nương kiều diễm ở kinh đô Trường An nhà Hán, khẩn cầu Hán đế ân chuẩn gả người con gái dòng dõi tôn thất đó cho ta. Ta xin hứa sẽ coi nàng là công chúa nhà Hán, đời này kiếp này nhất định không phụ bạc.”

Lưu Triệt lặng yên một lát, bỗng nhiên cười lạnh nói: “Quân Tu Mỹ, việc của ngươi cũng chưa hẳn là không thể được. Trẫm biết người ngươi yêu thích là ai. Nhưng Lưu Tế Quân là cháu gái trẫm, cũng là người mà Hoàng hậu và cháu gái của trẫm rất yêu thích. Trẫm không thể gả cô bé đến Ô Tôn xa xôi.”

“Hoàng đế nhà Hán.” Quân Tu Mỹ chắp tay hành lễ, vội vàng nói, “Người Ô Tôn chúng ta đã yêu quý ai thì sẽ yêu quý suốt đời. Quân Tu Mỹ lần này hết sức thành tâm, kính xin được chấp thuận. Hơn nữa”, hắn lưỡng lự một lát, nói: “Nếu Hán đế chấp thuận cho, ta nguyện sẽ…”

Lưu Triệt nhìn hắn hồi lâu, cuối cùng nói: “Thế này đi, nếu Lưu Tế Quân tình nguyện, Hoàng hậu và Đan Dương hầu phu nhân cũng đồng ý thì thật sự trẫm sẽ không áy náy nữa.”

“Tất nhiên là ta không đồng ý.” Đan Dương hầu phu nhân nghe được tin này thì phản ứng luôn. “Tế Quân còn nhỏ như thế, yếu ớt như thế thì làm sao mà chịu được gió sương ở Ô Tôn chứ?”

“Mẫu thân.” Lưu Tế Quân đứng xuất thần một lúc rồi nói: “Nữ nhi lại xin nguyện ý.”

“Tế Quân, con…” Kim Nga ngẩn người nhìn con gái nuôi, nói: “Con nghĩ sao thế? Ô Tôn quá xa xôi.”

“Nữ nhi không làm sao.” Cô cười lảng đi, nhớ tới nét mặt như điêu khắc, ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên, gò má bất giác nóng rực.

“Mẫu thân”, cô nghiêm túc nói, “Nữ nhi muốn học theo Hoàng hậu nương nương không giới hạn chí hướng trong khuê các. Không có bệ hạ thì có thể Tế Quân đã chết rồi, huống chi”, cô tỏ vẻ đau thương, “Mẫu thân có thương con đến đâu thì cuối cùng con vẫn có thân phận nữ tội thần, cao không tới, thấp không xong thì ngày sau biết sẽ như thế nào đây.”

“Mẫu thân đã gặp cháu của Ô Tôn vương rồi. Tế Quân nghĩ hắn sẽ đối xử tốt với con.” Huống chi cô gả sang đó sẽ có thân phận là đại biểu chính thức của Đại Hán, ai có can đảm đối xử không tốt chứ?

Kim Nga kinh ngạc lắng nghe, rốt cục đỏ hoe mắt, “Mẫu thân không thuyết phục được con. Con tự mình làm chủ, không phải hối hận là được rồi.”

Trần hoàng hậu đang ở Thượng Lâm Uyển hay tin này cũng lặng người đi một lúc rồi khẽ thở dài, “Rốt cục cũng không cưỡng lại lịch sử được sao?” Nhưng đây là lịch sử đã biến chuyển, là Lưu Tế Quân dùng lý trí của mình tự do lựa chọn, là sự kết hợp của một đôi nam nữ có tình cảm với nhau. Nàng cho rằng Lưu Tế Quân chắc sẽ hạnh phúc hơn so với trong lịch sử.

Cuối tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt phong Giang Đô quận chúa Lưu Tế Quân làm công chúa nhà Hán. Quân Tu Mỹ và Lưu Tế Quân cử hành hôn lễ trọng thể ở kinh đô Trường An. Ngoài bộ lễ phục cao quý do Lưu Triệt ban thưởng còn có lễ vật do Đan Dương hầu phu nhân và Hoàng hậu ban tặng, vinh sủng nhất chốn kinh thành.

Quân Tu Mỹ dẫn tân nương và muội muội rời thành Trường An, đến biên giới giữa nhà Hán và Ô Tôn thì đã là tháng Tư. Thời tiết Tây Vực lạnh lẽo, đến tận lúc này, đào mới trổ hoa. Quân Tu Mỹ sợ Tế Quân bị rét, vừa cưỡi ngựa vừa quay đầu lại hỏi: “Nàng có lạnh không? Mặc thêm y phục nhé?”

Lưu Tê Quân lắc đầu, sắc mặt đỏ bừng không phải bởi vì lạnh mà vì cảm thấy ấm lòng. Cô ôm đàn tỳ bà, nói: “Đi thôi.”

Ngồi trên lưng ngựa nhìn về phía trước sẽ thấy những dãy núi Ô Tôn trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi phủ đầy băng tuyết, còn đằng sau là cực tây lãnh thổ Đại Hán cố hương. Cô khó nhọc quay đầu nhìn lại mấy lần, cuối cùng gạt lệ quyết tâm quay đi. Sau dấu chân ngựa là những vùng hoa đào nở rộ, nhưng cưỡi trên lưng ngựa vẫn có thể cảm nhận thấy cái lạnh của băng tuyết. Một cuộc sống hoàn toàn mới dần dần hiện ra ở dưới vó ngựa. Cô có thể chịu đựng thời tiết khắc nghiệt ở chốn xa xôi kia hay không, điều này còn chưa thể biết.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 95: Đại lễ Phong Thiện vui lòng thiên hạ

Đắp một đài bằng đất trên ngọn núi Thái Sơn làm đàn tế thiên để báo công với trời nên gọi là Phong. Quét đất lập đàn trên một ngọn núi nhỏ dưới chân Thái Sơn để báo công với đất nên gọi là Thiện….(Sử ký – Phong Thiện sách)

Lễ Phong Thiện có từ thời xưa, là nghi thức tế trời nguyên thuỷ nhất của các bộ lạc hoặc thị tộc sùng bái tự nhiên sống chung quanh Thái Sơn vào thời viễn cổ. “Có lẽ xa thì khoảng mấy nghìn năm trước gần thì mấy trăm năm trước, nghi thức đắp đất tế lễ kia đã thất truyền nên không thể biết được để ghi chép tỉ mỉ lại”. Nhà Tần thống nhất sáu nước, vị hoàng đế đầu tiên tự cho là công cao cái thế bèn xưng là Thủy Hoàng. Năm thứ hai mươi tám, Tần Thủy Hoàng đi tuần các quận huyện phía đông, mượn các nghi lễ của nhà Tần để tế tự những bậc đế vương ở Ung Châu (Ung châu cũng chính là Thiểm Tây, nơi phát tích của nhà Tần) thuở trước để làm lễ Phong ở Thái Sơn, Thiện ở Lương Phụ, khắc chữ lên vách đá ca tụng công đức nhà Tần.

Nhà Hán lưu truyền được năm đời, hưng thịnh nhất vào năm Kiến Nguyên, đánh bại kẻ địch bên ngoài, chỉnh đốn pháp luật bên trong, sự nghiệp hiển hách. Vào năm Nguyên Đỉnh đầu tiên lấy được bảo đỉnh ở sông Phần, coi là điềm lành nên các bề tôi dâng thư thỉnh cầu Hoàng đế Lưu Triệt tới Thái Sơn làm lễ Phong Thiện báo cáo công tích với trời xanh, loan báo đức chính cho dân chúng. Lưu Triệt cũng động lòng, hạ lệnh cho quần thần tham khảo phép tắc thời xưa tập luyện nghi thức, xây phủ đệ, lập minh đường (Khoảnh sân dành cho việc tế tự hay thờ cúng).

Đến năm Nguyên Phong đầu tiên, y định niên hiệu có chữ “Phong” cũng là đã quyết định trong lòng, sau đó phân công các bề tôi chuẩn bị tất cả cho đại lễ Phong Thiện. Tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, sau khi xong chuyện kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, Lưu Triệt dẫn bá quan văn võ tháp tùng nghi trượng đi tuần thú phương đông, hơn một vạn người đi theo, xe Phong Thiện nối dài mấy trăm dặm, để Thái tử Lưu Mạch ở lại giám quốc.

Trong xe ngự tráng lệ được nghi trượng trùng điệp vây quanh, Lưu Triệt nhàn nhã ngồi trên giường đánh cờ với Trần A Kiều. Y nhìn dung nhan đẹp đẽ của A Kiều, nói vẻ quan tâm, “Kiều Kiều nên cẩn thận giữ gìn sức khoẻ, chớ để như lần trước ở Lâm Phần”. Một khi lâm bệnh thì nàng sẽ không thể đi tiếp cùng với y.

“Được rồi.” A Kiều bật cười, “Thiếp đâu đến nỗi yếu ớt như vậy. Lần trước là bị lạnh ngoài ý muốn mà thôi”. Khuôn mặt nàng hơi đỏ lên, nói: “Huống chi lễ Phong Thiện ở Thái Sơn là một việc hiếm có, thiếp cũng không muốn bỏ qua.”

Nàng thư thả hạ một quân cờ, hỏi, “Bệ hạ có biết nghi lễ Phong Thiện có từ đâu không?”

Nàng bỏ rất nhiều công sức ra nghiên cứu cờ vây nên rất tiến bộ, quân cờ này hạ xuống cực kì tinh diệu, khiến Lưu Triệt cũng buộc phải trì hoãn, cẩn thận nghĩ nước kế tiếp.

“Trước đây thì không thể biết.” Y đăm chiêu nói, cũng hạ xuống một quân cờ, “Tương truyền từ cổ có bảy mươi hai vị vua đã từng làm lễ Phong Thiện nhưng đến nay thì chỉ biết đích xác mỗi Doanh Chính của triều Tần.”

“Ừ.” Nàng gật đầu, nhìn sắc mặt của y, nói: “Nho sinh hai nước Tề, Lỗ cho rằng Phong Thiện chính là nghi lễ để đế vương nhận lệnh của trời, giao tiếp với trời. Từ xưa tới nay, nếu như không phải là đế vương của thời kì thiên hạ thái bình, quốc gia hưng thịnh thì không thể tiến hành hành nghi lễ này. Từ khi bệ hạ kế vị tới nay, bên ngoài thì dẹp được nạn Hung Nô xâm phạm biên giới hơn bảy mươi năm, bên trong thì giúp dân chúng sinh sống an bình, thật đúng là là có tư cách.”

“Vậy à?” Lưu Triệt kéo nàng qua, mỉm cười nói, “Thật khó được Kiều Kiều khen ngay trước mặt như thế này.” Y khẽ gõ vào trán nàng, tư thế thân mật. A Kiều nhất thời lúng túng, gắt gỏng: “Có cung nhân ở đây đấy.” Nàng liếc sang thấy cung nhân bên cạnh đã sớm cúi đầu cười trộm.

Nàng dứt khoát tự đầu vào ngực y, thầm nghĩ chuyện Phong Thiện dù thoạt nhìn long trọng láo nhiệt, là vinh hạnh đặc biệt khó được nhưng một lần cũng đã đủ rồi. Nế thật sự để y cứ hai ba năm lại tới Thái Sơn một chuyến, trong hơn hai mươi năm tiến hành Phong Thiện tới tám lần như trong sử sách ghi lại thì quá hao tài tốn của. Vì thế nên nếu cần phải nói thì nàng nhất định phải tìm cách tẩy não y khỏi ý muốn tới Thái Sơn, đả thông quan điểm thần thánh hoá Phong Thiện để đề phòng y coi đây thành chuyện tế tự trong nhà, thỉnh thoảng nhớ tới lại tới đây một chuyến.

Đến chân núi Tung Sơn, Lưu Triệt hạ lệnh cho xe ngựa nghi trượng tạm thời dừng trú mấy ngày, bản thân mình dẫn A Kiều, Lưu Sơ và mấy vị cận thần đi từ Nam Lộc lên Tung Sơn vừa du ngoạn vừa tế tự. Lúc này mới chỉ đầu mùa xuân, hoa cỏ trên núi còn chưa mọc, chỉ có mấy cây tùng bách xanh tốt quanh năm. Ngoài ra ở đây còn có thư viện Tung Dương, trước mặt là hai khe suối, lưng dựa vào núi cao ngất, phía tây dựa vào Thiếu Thất Sơn, phía đông có thể thấy Vạn Tuế Sơn, núi lượn vòng quanh, suối chảy róc rách, phong cảnh u nhã động lòng người.

Lưu Triệt nắm tay A Kiều bước vào thư viện Tung Dương. Y thấy trong viện có cây bách cao lớn, tán cây xanh ngắt rộng như mái đình, cành lá rậm rạp, chắc đã sống qua ngàn năm. Y ngẩng đầu nhìn hồi lâu mới nói: “Cây bách này cao lớn kì vĩ như tướng quân thống lĩnh vạn quân, hay là phong nó làm Bách tướng quân?”

“Không được”, A Kiều phì cười, nói: “Thế gian này có ngàn vạn cây bách, cớ sao bệ hạ lại biết cây này đứng đầu? Nếu có những cây bách khác cao hơn thì chẳng phải là bất công ư? Theo A Kiều thì phong làm Tam tướng quân là đủ rồi.”

Nàng nhớ lại điển tích Bách tướng quân của Tung Sơn nên nén cười, ánh mắt lấp lánh. Lưu Triệt vô tình quay đầu lại nhìn thấy, im lặng hồi lâu mới nói, “Nếu như thế thì làm theo lời của Kiều Kiều đi. Tuy nhiên”, y quay hẳn lại, mỉm cười nói: “nếu cây bách này muốn trách vì được phong danh hiệu thấp thì hãy tìm Kiều Kiều nhé.”

Quan viên đi theo tán tụng, “Bệ hạ thánh ân rộng khắp, Hoàng hậu nương nương rất mực khiêm tốn, nếu cây bách này có biết thì cũng chỉ cảm kích chứ sao dám sinh lòng hờn giận chứ?”

Lưu Triệt cười lớn, dẫn A Kiều xuyên qua viện Nhị Tiến, nhìn quanh liền sững lại. Trong viện lại có một gốc cây bách cao chừng mười trượng, đường kính chừng một vòng tay ôm, cao lớn hơn cây bách vừa rồi, dù vỏ cây đã bị tróc ra, thân cây sần sùi nhưng vẫn tràn đầy sức sống. Quan viên, thị tùng đi theo nhìn nhau vừa âm thầm kêu khổ vừa suy đoán tâm tư của đế vương. Bệ hạ vốn vui giận thất thường, nếu thẹn quá thành giận thì… Một lúc lâu, Lưu Triệt mới tủm tỉm cười, liếc nhìn A Kiều mà hỏi như có điều thắc mắc: “Kiều Kiều đã tới nơi này rồi sao?”

“Đúng vậy.” Trần A Kiều đáp như không có chuyện gì: “Vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, đúng là thiếp đã đến Tung Sơn trước khi tới Tức Mặc gặp Lăng Nhi.”

Lưu Triệt chợt nhớ tới cuộc chia lìa cách đây nhiều năm thì chợt nhói đau trong lòng nên thôi không nổi giận, nói: “Cây này cao lớn hơn Tam tướng quân, vậy phong làm Nhị tướng quân đi.”

Dưới cây bách có một cái hốc hình vòm người có thể đi lọt nối thông hai hướng nam bắc trông giống như cổng đình khá là kỳ thú. Đi vượt lên phía trước, A Kiều quay đầu lại thấy hai rễ cây lớn nổi lên mặt đất của Nhị tướng quân uốn cong như cặp cánh, vừa như hùng ưng giương cánh, lại tựa như kim kê muốn bay lên. Đi thêm một lát nữa, quả nhiên thấy một cây bách còn cao lớn hơn hai cây vừa rồi, Lưu Triệt đứng dưới hàng cây thở dài nói, “Kỳ công tạo hoá thật không lừa người!” Y liền phong cây bách là Bách đại tướng quân, lại sai người lập bia bên cạnh, trên bia có khắc dòng chữ “Bia vua Hán phong cây bách làm tướng quân.” Sau đó y cảm thấy đã mãn nguyện, bèn dẫn mọi người xuống núi. Một cơn gió nhẹ thổi qua đỉnh núi làm cho cành lá của Bách đại tướng quân nhẹ nhàng đung đưa giống như gật đầu thăm hỏi.

Xe ngựa tiếp tục đi về hướng đông them mấy ngày thì đến Thái Sơn. Lưu Triệt sai người lên đỉnh khắc chữ lên vách đá, bản thân mình thì dẫn cả đoàn đi du Đông Hải. Tháng Tư, ngự giá trở về Thái Sơn, hơn vạn người đi theo phủ kín cả Thái Sơn tạo nên một cảnh tượng hết sức hùng tráng.

Hoàng đế theo lễ nghi đã định ra, đến lễ ở đền thờ thần Địa chủ ở núi Lương Phụ, sau đó cử hành lễ Phong, xây đàn Phong cao chín thước ở dưới chân núi hướng đông, bên dưới chôn sách Ngọc điệp (Thời cổ, gia phả của hoàng tộc Trung Quốc được gọi là Ngọc điệp ).

Sau khi kết thúc lễ Phong thì sai phu dịch tu sửa đường núi cho phu xe chở đá hộc lên xếp thành đài Phong. Hoàng đế ở dưới chân núi trai giới bảy ngày rồi dẫn Trần A Kiều và các bề tôi lên lên Thái Sơn tiến hành lễ Phong long trọng nhất và cũng là trang nghiêm nhất trong lễ Phong Thiện. Ở miếu lớn trên đỉnh núi, Trần A Kiều thay y phục cho Lưu Triệt. Lưu Triệt buộc xong dải mũ, nhìn A Kiều, giọng bùi ngùi, “Kiều Kiều, nàng còn nhớ, trẫm từng hứa với nàng trong ngày tân hôn rằng trẫm sẽ làm một minh quân kiến tạo nên một mảng giang sơn gấm vóc để truyền lại cho con cái của chúng ta không?”

Nàng ngẩng đầu nhìn lên liền sững sờ trước ánh mắt đen nhánh sắc bén của y, hồi lâu sau mới nhớ lại. Điều này y đã từng nói với nàng vào đêm tân hôn của hai người, đã từng vứt bỏ, giờ lại nhặt lên. Nàng buông lỏng tay, tâm trạng quay cuồng, ngoảnh đi, khẽ nhắc, “Giờ lành đã tới rồi, bệ hạ ra ngoài đi.”

Y liếc nàng một cái, ánh mắt thoáng có vẻ thương tiếc lẫn bất đắc dĩ, song chỉ trong nháy mắt y xoay người đi, ánh mắt này đã bị thay thế bằng vẻ tự tin và khí phách.

Đúng vậy, ngập tràn khí phách. Từ trước đến nay, Phong Thiện là vinh dự cao nhất của đế vương. Đối với một đế vương mà nói, lễ Phong Thiện còn long trọng hơn cả đại lễ đăng cơ, bởi vì mỗi đế vương đều có đại lễ đăng cơ của mình nhưng không phải đế vương nào cũng có tư cách lên Thái Sơn làm lễ Phong Thiện.

Từ khi y đăng cơ đến nay thoáng chốc đã ba mươi năm. Trong ba mươi năm này, y đánh bại mấy thiền vu Hung Nô mà các triều đời Hán vẫn xem là đại hoạ tâm phúc, bình loạn ngoài biên giới, thu nạp nước Điền, khuất phục Triều Tiên, kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, kiến lập nên lãnh thổ Đại Hán hoà bình rộng lớn chưa từng có. Thần dân trong lãnh thổ đều tôn y làm quân chủ, an cư lạc nghiệp, đời sống bình an, pháp luật nghiêm cẩn. Công lao như vậy nhìn lên có thể báo với Trời, cúi xuống có thể thưa với Đất, người người thần phục nên mới có lễ Phong Thiện ở Thái Sơn ngày hôm nay.

Lễ phong là nghi thức vô cùng trang trọng, lễ phục trên người Lưu Triệt nửa trên màu vàng để biểu thị thân cận với trời, nửa dưới màu đen để biểu thị kính trọng với đất. Y nghiêm trang đi lên đài Phong, mười hai vòng hạt châu màu đen từ mũ miện rủ xuống biểu lộ thân phận đế vương trong chốn nhân gian. Đế vương thông qua lễ Đăng Phong là để thông cáo với trời, bày ra quân quyền thần thụ, quyền uy quân chủ, được trời cao đồng ý.

Trần A Kiều đứng dưới nhìn Lưu Triệt làm lễ ở trên đài Phong. Dù nàng cũng không tin vào chuyện dùng lễ Phong Thiện có thể thông cáo tới trời cao nhưng mỗi thời đại cần một loại tín ngưỡng. Nàng là hoàng hậu của đế quốc thì nhất thiết phải duy trì được tín ngưỡng này. Lưu Triệt đứng cạnh tấm bia đá trắng muốt không khắc chữ trên đỉnh. Tấm bia cao mấy trượng, trên dưới đều bằng nhau, đỉnh hình chóp mũ, cao vút vững chãi.

“Trẫm thấy những đế vương thời trước đều cho dựng bia khắc ghi công tích”, sau khi xuống đài, Lưu Triệt nói với A Kiều, “trẫm không cần vậy. Trẫm công đức cái thế, không phải một tấm bia đá nhỏ có thể ghi hết.”

A Kiều nghe xong cười một hồi, nam nhân này vẫn luôn có bộ dạng tự đại độc tôn như vậy. Nhưng y có tư cách ấy. Thời đại Hán Vũ Đế là thời thịnh trị chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc, nhân tài xuất hiện lớp lớp, công lao sự nghiệp kỳ vĩ, để lại cho các triều đại sau một bức bản đồ rõ ràng. Sau triều đại của y thì đến triều Đường mới lại hưng thịnh huy hoàng tương tự.

Bọn họ ở lại trên đỉnh núi một đêm. Lưu Triệt đã tạo lập công đức muôn đời, lại có giai nhân trong lòng nên cực kỳ hưng phấn, sai người mang tới một loại cây để đích thân trồng.

“Hay cứ chọn cây bách đi.” A Kiều nói. “Cây bách sống được ngàn năm. Ngàn năm sau, mọi người lên đỉnh Thái Sơn còn có thể chiêm ngưỡng cây do bệ hạ đích thân trồng, giống như những cây bách tướng quân bệ hạ thấy trên Tung Sơn.”

“Hay.” Lưu Triệt luôn không muốn làm A Kiều cụt hứng, gật đầu nói,”Vậy chọn bách đi.”

Tùy tùng rất nhanh tìm tới mấy cây bách non. Tuy nói là Hoàng đế đích thân trông nhưng thật ra đều do tùy tùng đào hố, tưới nước, Lưu Triệt chẳng qua chỉ cẩn thận đặt cây giống vào cái hố mà họ đã đào sẵn.

“Kiều Kiều tới đây giúp trẫm một tay.” Lưu Triệt gọi.

“Được rồi.” Nàng gật đầu đáp rồi đi qua nhẹ nhàng giữ cây giống cho Lưu Triệt xúc đất đổ vào hố.

Nàng có thể nghĩ đến cảnh cành lá sum sê, dáng cứng cáp cao vút của sáu cây bách thời Hán này vào ngàn năm sau nhưng không biết cuối cùng là cây nào bị “Xích Mi chém một nhát, thấy chảy máu nên dừng tay”... (Trong sân bách của đại miếu trên núi Thái sơn, có một cây bách lớn, cây đã hơn hai nghìn tuổi mà vẫn tươi tốt sum suê. Bên dưới của cây có một vết chém màu đỏ, đây chính là vết tích của quân Xích Mi để lại trên cây bách cổ).

Vào cuối thời Tây Hán, phía đông Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô xảy ra thiên tai, lại thêm sự phẫn nộ của nhân dân đối với triều đình, quân khởi nghĩa Xích Mi nổi dậy, họ vẽ lông mi đỏ để phân biệt với quân triều đình. Quân khởi nghĩa từng hạ trại trên núi Thái Sơn, không biết là do lòng thù hận đối với nhà Hán hay là vì thiếu củi, mà quân Xích Mi đã đi vào miếu, ra tay chặt cây bách do chính tay Hán Vũ Đế Lưu Triệt trồng. Nhưng rất lạ, chưa chặt được mấy nhát thì thân cây bách bỗng nhiên chảy ra chất lỏng màu đỏ. Quân Xích Mi thấy vậy vô cùng hoảng sợ, không dám chặt nữa. Vết chém đó vẫn còn lưu lại trên thân cây bách, hơn nữa màu đỏ kia vẫn không hề phai nhạt so với lúc ban đầu, nay đã trở thành một kỳ quan.

“Mình nghĩ quá xa rồi”, Trần A Kiều thấy buồn cười, sáu cây bách thời Hán lúc này chẳng qua chỉ là những cây giống nhỏ bé còn chưa biết bao lâu nữa mới trưởng thành. Huống chi, hai mươi năm lịch sử đã vô tình thay đổi trong tay bọn họ, còn chưa biết ngày sau có quân Xích Mi hay không nữa. Trồng xong cây, chuyện tiếp theo giao cho thị tòng lo liệu, bọn họ tới miếu lớn thay y phục.

Vào ban đêm có thể thấy lờ mờ hình dáng Thái Sơn cao ngất, mênh mang sâu thẳm, khí thế bàng bạc, trùng điệp không ngừng. Tới ngày hôm sau, mặt trời từ phương đông mọc lên trông hết sức huy hoàng tráng lệ. Bảy mươi hai ngọn núi của dãy Thái Sơn dưới ráng mây che phủ trông u nhã hiểm trở, mỹ lệ mênh mang, thế núi lô xô, đẹp không sao tả xiết. Đứng trên đỉnh núi dõi mắt trông về phía xa, thu hết thảy mọi vật vào trong tầm mắt.

“Thái Sơn trùng điệp,

Lỗ mãng vọng trông.

Ngầm như báo mộng,

Toại nguyện phương đông.” (Trong sách Lỗ Tụng – Kinh thi).

Lưu Triệt cất tiếng ngâm rồi quay sang hỏi A Kiều, “Người đời vẫn nói Kiều Kiều là tài nữ một thời, thấy cảnh hùng tráng thế này thì có thơ phú để tán thưởng không?”

Nàng nhìn y một lát, ngân nga:

“Đông nhạc núi cao vút,

Đẹp như là cõi tiên.

Gói không gian trống vắng,

Tĩnh mịch đến u huyền.

Chẳng ai đem bút vẽ,

Mây tỏa sắc tự nhiên.

Đất trời như vẫy gọi,

Ta sống thú điền viên.

Xin gửi thân nơi ấy,

Trọn cuộc đời bình yên,”..(Thái sơn Ngâm của Tạ Đạo Uẩn).

Không khí trong phòng tĩnh mịch rất hợp với tính cách của A Kiều, nhưng câu cuối cùng khiến tâm trạng Lưu Triệt trầm xuống. Sao y có thể để cho A Kiều rời khỏi mình mà ở lại Thái Sơn dù chỉ một ngày cơ chứ? Mọi người xuống núi Thái Sơn đi cùng Lưu Triệt dựa theo nghi lễ tế Hậu Thổ làm lễ Thiện dưới chân núi Túc Nhiên ở hướng đông bắc Thái Sơn.

Tương truyền minh đường thời Hoàng Đế (Hoàng Đế, còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hóa Trung Quốc, được coi là thủy tổ của mọi người Hán) ở dưới chân núi Thái Sơn cực kỳ đơn sơ, “Xung quanh không vách, mái lợp có tranh, bốn bề ngập nước, vào cửa Tây Nam, tên là lầu Côn Luân.” Nhưng đến thời Hán thì đã không còn nữa. Lưu Triệt ra lệnh trước hết cứ dựa theo phép cũ thời Hoàng Đế mà xây dựng một ngôi minh đường, lại ban bố chính lệnh triệu kiến đại thần cùng tế tự thần linh tổ tiên. Sau khi lễ Phong Thiện kết thúc, Lưu Triệt từ lầu Côn Luân vào minh đường, tiếp nhận lời chúc tụng của quần thần, cắt lấy hai huyện phía trước để thờ phụng Thái Sơn, đặt tên là huyện Phụng Cao.

Ngự sử viết chiếu rằng: “Trẫm lấy thân hèn kế thừa ngôi vị chí tôn, nơm nớp lo sợ không dám nhậm chức. Trẫm đức còn đơn bạc, không rõ lễ nhạc, nếu xây từ đường thái miếu chỉ giống hình thức thì hy vọng có bùa chú để trấn áp quái vật. Trẫm bỏ dục vọng, đăng phong Thái Sơn, rồi đến Lương Phụ, sau đó thiền định nghiêm túc, ăn năn hối lỗi. Trẫm cùng các kẻ sĩ và thường dân làm lại từ đầu, ban thưởng trăm hộ dân một con trâu mười vò rượu, tặng thêm những cô quả trên tám mươi tuổi hai súc vải vóc, miễn tô thuế năm nay cho các vùng Phục Bác, Phụng Cao, Xà Khâu, Lịch Thành. Đại xá thiên hạ giống như lệnh năm Ất Mão là có làm thì phải chịu nhưng nếu đã xảy ra trên hai năm thì đều không tính nữa.”

Lễ Phong Thiện ở Thái Sơn kết thúc thì thiên tai lũ lụt không hề xảy ra khiến uy vọng của Lưu Triệt nhất thời đạt đến đỉnh cao, đi đến đâu dân chúng cũng hết lời tán tụng. Nghi trượng tiếp tục đi về hướng bắc tới Kiệt Thạch rồi lại đi tuần từ Liêu Tây sang phía bắc tới Cửu Nguyên. Trần hoàng hậu đều đi theo suốt chặng đường, Hoàng đế và Hoàng hậu ở với nhau rất hòa hợp.

Từ sau lễ Phong Thiện, Lưu Triệt hăng hái, không muốn lập tức trở về đế đô Trường An mà nhân tiện lên đường tuần thú. Từ Cửu Nguyên tới biên giới phía bắc, thanh thế lên cao thì y mới cảm thấy mãn ý, hạ lệnh quay lại, vượt qua Hoàng Hà trở về Trường An.

Trần A Kiều theo Lưu Triệt suốt chặng đường, cảm thấy ra khỏi thành Trường An thì bầu trời rộng mở, tâm tình thanh thản, ngàn vạn ưu phiền lo nghĩ đã có người bên cạnh xử lý ổn thỏa, bản thân mình yên lòng thỏa sức ngắm nhìn núi sông Đại Hán tươi đẹp. Trong đời nàng đã mấy lần đi xa, dù người bên cạnh khác nhau nhưng lần nào cũng đều cảm thấy vui vẻ. Lưu Triệt tuy là một người khi trở mặt sẽ lạnh lùng nhưng nếu y còn có tình cảm với ai thì có những lúc sẽ là một tình nhân tốt nhất. Nàng cảm giác mình đang đùa với lửa. Dù bây giờ ngọn lửa chỉ phát ra ánh sáng bập bùng mỹ lệ trong lòng bàn tay nhưng chỉ sợ nếu không cẩn thận thì có một ngày sẽ đốt cháy cả bản thân mình.

“Sợ cái gì?” Lưu Lăng cười khanh khách nói: “Bàn về đùa với lửa tới mức thành thục thì có ai thắng được tỷ.”

“Tỷ không phải sợ”, nàng ngẩng đầy lười biếng nhìn Lưu Lăng, “Nhưng mà…” Nàng muốn nói lại thôi, ngày trước nàng đã giác ngộ được rằng, được thì tốt, không được cũng chẳng sao, chỉ cần cố gắng hết sức là được. Cho tới bây giờ, nàng lại mơ hồ hy vọng có thể sống ổn định đến lúc bạc đầu. Bạc đầu ư? Nàng ngửa đầu lên trào phúng, nếu bạc đầu, dung nhan không còn tươi đẹp như xưa nữa thì chẳng phải người kia sẽ quay lưng bỏ đi không chút do dự hay sao?

Vợ chồng Lưu Lăng cũng ở trong đoàn tùy tùng lần này. Thỉnh thoảng khi Lưu Triệt không ở bên cạnh nàng thì Lưu Lăng lại tới tâm sự. Nàng kéo tay Lưu Lăng nói: “Lăng Nhi đã từng đến Hoàng Hà rồi sao?”

“Xem kìa.” Lưu Lăng mỉm cười nói, “A Kiều tỷ chưa từng nghe rằng một dải bờ nam sông Hoàng Hà nổi tiếng nhờ hoa đào, được xưng ‘Mười dặm hoa đào đỏ ráng trời’, muội từng mộ danh đến xem, quả nhiên cảnh sắc thật là rực rỡ.”

“Muội thích hoa đào”, Trần A Kiều thở dài nói, “Thật không biết muội có phải là yêu hoa đào kiếp trước đầu thai hay không.”

“Nói vậy cũng không sai.” Lưu Lăng cười tinh nghịch: “Chẳng phải A Kiều tỷ cũng thích nhất hoa cúc?”

“Ta không yêu cuồng si như muội đâu.” Nàng liếc Lưu Lăng, vén rèm xe lên nhìn ra dải đất vàng mênh mông bên ngoài. Ngự giá dù đã gia cố nhưng vẫn cảm giác hơi xóc, nàng nhìn ra ngoài xa chỉ thấy ruộng vườn bát ngát một màu xanh tươi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 96: Một khúc tình ca trọn kiếp người

Ngày thứ hai, thuyền vượt qua Hoàng Hà tiếp tục xuôi nam. Ở trên thuyền nghe tiếng sóng Hoàng Hà xô rào rạt chấn động lòng người. Thuyền tiếp tục đi về phía trước, quả nhiên thấy những cánh rừng đào trùng điệp mấy dặm liền, tiếc rằng đã hết mùa, hoa đào đã tàn tạ chỉ còn lại cành lá xanh biếc thoang thoảng hương thơm.

“Thật đáng tiếc.” Trần A Kiều liền buông tay thả rèm xuống, “Nếu còn hoa đào nở thì nhất định là rất đẹp.”

Lưu Triệt ôm lấy nàng dỗ dành, “Nếu Kiều Kiều muốn thì đầu xuân sang năm lại đến xem cũng được mà.”

“Bệ hạ”, A Kiều đưa mắt nhìn y, “Người cho rằng người đi tuần một chuyến là rất dễ dàng có phải không? Người không biết ngân khố phải chi bao nhiêu tiền hay sao mà sang năm lại đi nữa? Người tỉnh lại đi. Thiếp sợ Tang tư nông lấy đao chém thiếp đó.”

Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, nói: “Hắn dám.” Ánh mắt của y có chút thâm trầm. Nàng thầm than đã lỡ lời, đang định nói mấy câu vớt vát thì bỗng nghe thấy phía ngoài có tiếng người thốt lên, “Mười dặm sông dài hoa đào ngút trời! Quả nhiên là danh bất hư truyền!” Cả đoàn nghi trượng xôn xao, ngay cả xe ngự cũng từ từ dừng lại. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, giờ đã là đầu mùa hè thì lấy đâu ra hoa đào? Song cảnh tượng khi vén rèm lên lại khiến mọi người sững sờ. Những quầng mây lớn đỏ rực tựa như hoa đào hiện lên rõ ràng trên bầu trời cao trông như một dòng suối mây đang từ từ chuyển động, đẹp không thể tả xiết.

Lưu Triệt ngồi sau nàng cũng nhìn thấy, khẽ ồ lên một tiếng, “Xem ra trời xanh cũng không muốn để cho Kiều Kiều qua sông này phải tay trắng mà về, dù không thể khiến hoa đào nở nhưng lại sinh ra dòng sông mây để cho Kiểu Kiều chiêm ngưỡng.”

Câu nói vô cùng ngọt ngào nhưng A Kiều lại không cảm thấy vui sướng. Nỗi lòng nàng cứ chìm dần, chìm dần xuống, cuối cùng lại mỉm cười. Điều gì phải đến thì sẽ đến, chẳng phải vậy sao? Nàng luôn biết rằng ở nơi này có một người con gái sẽ xuất hiện trước mặt Lưu Triệt rồi giành được sủng ái, cuối cùng sinh ra một người con trai trở thành hoàng đế Đại Hán kế nhiệm. Nhưng đó không phải là bây giờ mà là sáu năm sau.

Sáu năm sau thì nàng đã già rồi. Liệu Lưu Triệt có tách khỏi nàng để bước theo con đường lịch sử vốn có, xóa sạch tất cả mọi dấu tích về bọn họ? Nàng không biết. Nàng chỉ nghĩ rằng lịch sử đã bị bọn họ làm biến đổi đến hình thái như ngày hôm nay thì liệu người con gái kia có thể cũng biến mất ở trong buổi hồng hoang của lịch sử? Nhưng cô ta vẫn xuất hiện trong tầm mắt của bọn họ, có điều là sớm hơn sáu năm. Quả nhiên, có thuật sĩ chạy đến trước xe ngự, dập đầu nói: “Chúc mừng bệ hạ. Chúc mừng bệ hạ. Suối mây lành may mắn này là phúc tướng trời sinh, báo hiệu Đại Hán ta muôn đời hưng thịnh.”

“Hơn nữa”, lão hơi ngẩng đầu lên liếc nhìn Trần hoàng hậu ở bên cạnh Hoàng đế, hơi do dự một chút rồi nói: “Bần đạo thấy điềm mây này có nghĩa là nơi đây tất có kỳ nữ hiện thế.”

“Ồ”, Lưu Triệt nửa cười nửa không nói, “Bàn về kỳ nữ, chẳng lẽ còn có cô gái nào đặc sắc hơn cả hoàng hậu của trẫm sao?”

“Hoàng hậu nương nương tất nhiên là một kỳ nữ thế gian hiếm có”, phương sĩ không dám ngẩng đầu nhưng vẫn nói: “Nhưng vì sao mây lành không xuất hiện ở nơi khác mà lại xuất hiện đúng lúc Hoàng đế qua sông Hoàng Hà chứ? Có thể thấy rằng kỳ nữ này khác hẳn những người khác.”

“Nếu như thế”, Lưu Triệt quyết định, “thì hôm nay nghỉ lại nơi này. Cho người đi tìm kỳ nữ đó đến.”

Trần A Kiều không nhịn được quay đầu lại nhìn Lưu Triệt. Nàng không tin vào lời nói mây lành phúc tướng gì đó. Nàng chỉ từ ghi chép trong lịch sử mà cảm thấy Triệu Câu Qua thật sự là một người con gái có dã tâm, giỏi cơ mưu, biết quyền biến, thế nhưng cô ta không hiểu rõ về lòng dạ sắt đá tuyệt tình của Lưu Triệt, cho dù có thành công cũng chẳng còn tính mạng để hưởng thụ. Nhưng một người con gái dám liều mạng đánh cuộc lớn và nguy hiểm như vậy thì điều cô ta muốn chắc không phải là hưởng thụ mà chỉ là thành công mà thôi, để cuối cùng bánh xe lịch sử sẽ chuyển động theo ý chí của mình. Đó sẽ là một thành tựu vô cùng lớn lao. Lưu Triệt sẽ tin là thật? Hay y chỉ cho đây là câu chuyện cười do một người tự diễn?

Lưu Triệt cảm nhận được ánh mắt của nàng, cười một tiếng trấn an: “Chẳng có việc gì thì cứ để xem thế nào.”

Nàng chợt thấy lạnh toát trong lòng. Lần trước lúc gặp thuật sĩ Loan Tử thì y cũng nói như thế, kết quả là gây ra sóng gió rung trời. Sau khi vào hành cung, phương sĩ lại tới khấu đầu nói: “Bần đạo xem điềm mây thì cô gái này phải ở Hà Gian phía đông nam sông Hoàng Hà, chỉ là nơi đó rất đông người, trong thời gian ngắn chắc không tìm được….”

Dương Đắc Ý thấy Lưu Triệt tỏ vẻ lãnh đạm thì vội vàng trách, “Vậy thì sai người cố gắng tìm đi. Bệ hạ là hoàng đế Đại Hán cho dù cô ta là ai cũng không có thể để cho bệ hạ phải đi về hướng đông nam tìm gặp được.” Phương sĩ toát mồ hôi đầm đìa, vâng dạ lui ra. Ngày thứ hai thì bên dưới báo lên rằng quả nhiên tìm được ở Hà Gian một người con gái họ Triệu vô cùng diễm lệ, nghe nói thuở nhỏ hai tay bị tật luôn nắm chặt không thể mở ra.

Lưu Lăng đang đánh cờ với Trần A Kiều ở trong điện của hành cung. Nàng hạ một nước cờ, oán hận nói, “Đáng tiếc là không ngờ cô gái họ Triệu lại xuất hiện sớm những sáu năm nên chưa thu xếp thỏa đáng được. Bây giờ thì không thể động thủ vì sẽ để lại quá nhiều dấu vết.”

Đã đến nước này thì Trần A Kiều trái lại rất bình thản, chỉ nói: “Hãy thuận theo tự nhiên đi.”

“Thật ra”, Lưu Lăng hạ cờ cực nhanh, nói giọng đầy suy tư “giữa Lý Nghiên và Triệu Câu Qua thì muội thích Lý Nghiên hơn một chút. Mặc dù cả hai đều có thủ đoạn nhưng Lý Nghiên không bố trí và có dã tâm lớn như vậy.”

Trần A Kiều bật cười, nghe Lục Y vén rèm bẩm, ‘Nương nương, bệ hạ đã tuyên cô gái họ Triệu lên điện rồi.” Nàng chỉ khẽ ồ lên một tiếng.

“Nương nương”, Lục Y nói gấp gáp, “Tại sao người lại không lo lắng một chút nào vậy?”

Nhìn vào thế trận này, chỉ cần cô gái họ Triệu đủ xinh đẹp khiến cho Lưu Triệt thấy yêu thích thì rất có thể sẽ được nhận vào hậu cung. Dù sao thì có hoàng đế nào kháng cự nổi một kỳ nữ được trời cao mách bảo? Hơn nữa bệ hạ lại rất kính ngưỡng quỷ thần.

“Lo lắng thì có tác dụng sao?” Nàng không ngẩng đầu lên mà chỉ hỏi lại khiến cho Lục Y im bặt.

Những năm qua nàng vẫn âm thầm quan sát thân thể trải qua mấy lần đại nạn nhưng lại già đi rất chậm. Tính ra thì thời gian ước chừng hai năm đối với người khác chỉ bằng nàng trải qua một năm. Nàng không hỏi được ai, chỉ có thể thầm suy tính do trong cơ thể mình có hai linh hồn. Cho tới bây giờ cơ thể của nàng cũng khoảng ba mươi ba tuổi. Mặc dù ba mươi ba chưa thể coi là già, tóc nàng vẫn đen nhánh có thể soi gương nhưng dù sao cũng đã qua thời đẹp nhất của người con gái. Nàng muốn được ở bên cạnh y cho đến lúc bạc đầu, nhưng nếu đến lúc bạc đầu thật rồi lại bị ruồng bỏ thì nàng làm sao chịu đựng nổi? Thế nên nếu muốn đoạn tuyệt thì nên làm luôn khi còn trẻ cho xong. Lúc này, nếu như y sinh lòng đứng núi nay trông núi nọ thì nàng còn có thể dùng lý trí đào thải y ra khỏi trái tim, biết tự trân trọng mình. Chỉ là rất khó vượt qua đau thương mà thôi.

Lưu Lăng trông thấy ánh mắt của nàng, thầm than một tiếng. Nàng đứng trước cửa sổ, nhìn theo cô gái đang cúi đầu theo viên nội thị đi xuyên qua hành lang vào gặp mặt vua. Mặc dù cô gái cúi đầu nhưng vẻ thùy mị của cô vốn không phải ở dung nhan, chỉ nhìn dáng người cũng thấy nét thanh xuân phơi phới. Còn nàng và A Kiều thì đều đã sắp già rồi. Hồng nhan dù có xinh đẹp nhưng với thời gian thì cũng dần hóa thành xương khô. Tay của Triệu Doanh Mi[1] nắm thật chặt. Nàng từ xa nhìn lại mà dường như vẫn có thể trông thấy trên bàn tay mảnh dẻ hiện lên những làn gân xanh chằng chịt. Buồn tẻ và nhạt nhẽo!

[1] Doanh Mi là tên tự của Câu Qua.

Triệu Doanh Mi vào trong điện liền ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng mát dịu. Dưới tấm màn lụa nhiều tầng có một lư hương hình Thao Thiết[2] bằng đồng xanh đang tỏa ra những làn khói xanh nhàn nhạt lững lờ bay lên trông rất đẹp mắt. Người ngồi trên điện chính là vị hoàng đế tôn quý nhất của đế quốc. Cô hơi thả lỏng tay, khầu đầu, “Dân nữ Triệu Doanh Mi khấu kiến bệ hạ.”

[2] Thần thú Thao Thiết cổ xưa theo truyền thuyết là một trong chín đứa con của rồng, một linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Đặc điểm nổi bật của Thao Thiết là tham ăn vô độ, gặp gì ăn nấy, cuối cùng cũng chết vì ăn.

Ở trên điện, Hoàng đế khẽ ồ một tiếng, lệnh xuống: “Ngẩng đầu lên xem.” Y nói bằng giọng hơi trầm, có vẻ thờ ơ.

Lưu Triệt liền thấy cô gái bên dưới điện từ từ ngẩng đầu, hàng mi lá liễu, đôi môi đỏ mọng, da trắng như tuyết lại tựa như được tráng một lớp men sứ trông nõn nà bóng mượt. Y ngắm kỹ một lúc mới hỏi, “Trẫm nghe nói rằng từ nhỏ ngươi đã không thể xòe hai bàn tay ra được phải không?”

Triệu Doanh Mi thấy bậc đế vương ngồi trên ghế ngự đã không còn trẻ, khuôn mặt sắc sảo, đôi môi rất mỏng, vô tình đến mức hấp dẫn thì im lặng một hồi rồi cúi đầu đáp: “Không dám dối lừa bệ hạ, đúng là như vậy.”

Lưu Triệt liền ra ý bảo nội thị ở phía sau tiến đến bên cạnh Triệu Doanh Mi. Triệu Doanh Mi dịu dàng đưa tay ra, nội thị thử gỡ các ngón tay một lát rồi quay lại bẩm, “Bệ hạ, quả nhiên không duỗi ra được.”

“Ồ.” Lưu Triệt cảm thấy phấn khích bèn đích thân đi xuống. Y vừa trông thấy đôi tay mềm mại như không có xương cốt kia thì không hiểu tại sao lại thấy cặp mắt của A Kiều như hiện lên trước mặt, vừa có vẻ độ lượng, vừa có chút giận hờn, chợt lóe rồi biến mất. Y đích thân dùng tay duỗi ngón tay cô ra, da thịt nóng hổi vừa chạm vào nhau thì gương mặt Triệu Doanh Mi liền đỏ bừng lên từng mảng. Y tựa như không phải dùng chút sức lực nào mà bàn tay cô vẫn tự nhiên xòe ra, trong lòng bàn tay có một viên ngọc trong suốt, dưới ánh nến phát ra ánh sáng lóng lánh.

Trần A Kiều đang chơi cờ vây với Lưu Lăng ở điện Tây, mặc dù nét mặt vẫn tỏ ra hững hờ nhưng trong lòng lại có vẻ thấp thỏm. Lưu Lăng khoát tay một cái xóa ván cờ đi rồi thở dài nói, “A Kiều, nếu thấy không yên tâm thì hãy đến đó xem thế nào. Thế còn tốt hơn là người một nơi mà hồn một nẻo.”

Nàng ngơ ngác một lúc rồi cười khổ nói, “Rốt cuộc là tỷ vẫn còn lưu luyến.” Nàng vứt quân cờ xuống, tâm tư rối loạn ưu phiền. Nàng không muốn đến xem hai người đang làm gì ở đó, cũng không muốn ngồi ở đây thở ngắn than dài, bỗng nhiên đứng bật dậy nói, “Lăng Nhi, đi cưỡi ngựa với tỷ đi,” Lưu Lăng biết nàng không thoải mái, lắc đầu nói, “Thôi, tỷ đi một mình ra ngoài hít thở không khí trong lành cũng tốt.”

Nàng đến chuồng ngựa, cưỡi lên một con rồi phi ra ngoài hành cung. Cung nhân không dám ngăn cản vội vàng chạy đến chính điện thông báo cho Hoàng đế. Dương Đắc Ý nghe vậy thì không dám chậm trễ, vội vàng vén rèm bước vào ghé sát tai Lưu Triệt nói khẽ, “Bệ hạ, Trần hoàng hậu cưỡi ngựa xuất cung rồi.”

Lưu Triệt lập tức buông tay Triệu Doanh Mi ra. Triệu Doanh Mi quỳ ngay sát gần Hoàng đế, gần đến mức có thể nhìn thấy những đường chỉ đen tỉ mỉ trên áo bào của Hoàng đế. Cô loáng thoáng nghe thấy người nọ đến gần nói thầm vào tai Hoàng đế những câu gì đó, trong đó có chữ hoàng hậu. Bệ hạ khẽ “ồ” một tiếng, hơi nhếch miệng cười nhạt, nếu cô không nhìn lầm thì nụ cười đó lại có phần mang vẻ hân hoan.

Lòng cô bỗng nhiên trầm xuống. Phụ thân của cô từng là quan thủ vệ cửa Hoàng môn của cung Vị Ương. Sau khi mẫu thân sinh được cô thì phụ thân không biết vì lý do gì mà lại cung hình, nhậm chức Trung hoàng môn, cuối cùng thì mắc tội, bị xử tử ở kinh đô Trường An. Đó là thành Trường An phồn hoa mà mẫu thân thường nói ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Khi còn bé, cô thường nghe mẫu thân kể chuyện rằng cho dù nơi đẹp đẽ trang nghiêm nhất trên thế gian này cũng không thể sánh bằng cung Vị Ương ở thành Trường An xa xôi đó. Phấn son mà các phi tần hàng ngày tẩy rửa đi có thể nhuộm nước sông Vị Thủy thành màu hồng tựa như cánh hoa đào. Phụ thân năm xưa đã nói với mẫu thân như vậy. Mẫu thân là một người kiên cường, phu quân mất rồi thì đem nhưng điều phu quân đã nói khi còn sống kể lại cho con gái nghe để con gái có thể có thêm nhiều ấn tượng về phụ thân của mình.

Cô mỗi ngày một lớn lên, dung nhan như hoa như ngọc, trong cả trăm dặm xung quanh không ai sánh bằng. Tâm cơ của cô cũng sâu sắc tương đồng với sắc đẹp. Cô nhắm tới tòa cung điện mà phụ thân đã nhắc tới, chỉ khác là cô muốn vào đó nhưng không phải bằng thân phận nô tài như phụ thân mình mà muốn làm chủ nhân tòa cung điện đó. Một dung nhan như hoa như ngọc mà bảo cô phải cam tâm chết già ở chôn quê mùa thì thật quá khó khăn.

Một người mẹ có thể nuôi dưỡng được con gái như vậy thì sao có thể là một người phụ nữ đơn giản? Trước khi cô đi, mẫu thân đã vuốt ve gương mặt của cô, sắc mặt lạnh tanh. “Ta không tin” bà nghiến răng nói, “Trần hoàng hậu đã lớn tuổi như vậy lại có thể hơn được Doanh Mi của ta.”

Đúng thế, cô vừa qua tuần cập kê, sức sống của tuổi trẻ giúp vẻ đẹp của cô hiện rõ trên từng tấc da thớ thịt. Mà nghe nói Trần hoàng hậu còn lớn hơn bệ hạ tới hai tuổi. Một người con gái dù có xinh đẹp đến đâu khi đến tuổi này thì dung nhan cũng phải héo tàn. Cô chưa từng nghĩ rằng bệ hạ sẽ không vừa ý về mình. Để tiến vào tòa cung điện cho bệ hạ ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của cô, mẹ con cô đã đánh cuộc bằng cả tính mạng của mình. Lập ra những thủ đoạn lớn như vậy, đánh cược bằng cái giá lớn như vậy, nếu không có kết quả gì thì điều gì sẽ đợi chờ hai người?

Ánh sáng từ cửa điện hắt vào, chiếu lên khuôn mặt nghiêng nghiêng của bệ hạ để lại một cái bóng mờ với đường cong ưu nhã nhưng vô tình. Y cười nhạt nói: “Nếu như thế thì Đắc Ý hãy theo trẫm đi tìm Hoàng hậu.” Y chắp tay đi ra ngoài cửa. Dương Đắc Ý ngạc nhiên gọi hỏi, “Bệ hạ, xử trí cô gái họ Triệu này như thế nào?”

Triệu Doanh Mi lúng túng quỳ gối trên điện. Hoàng đế hờ hững quay đầu lại nhìn cô, đôi mắt đen nhánh như một hố sâu không nhìn thấy đáy. Y lạnh lùng nói: “Cô ta có ý phạm tội khi quân. Lệnh cho Kỳ Môn quân dẫn đi, ban cho được chết.” Triệu Doanh Mi quá sợ hãi, ngã xoài ra trên mặt đất, nước mắt đầm đìa, giọng nói thê lương, “Bệ hạ, dân nữ đâu dám làm như thế?” sắc mặt cô trắng bệch, khóc sướt mướt như hoa lê dưới mưa rất đáng thương. Tiếc rằng Lưu Triệt lại không mảy may động lòng, chỉ cười lạnh nói, “Sao vậy? Nếu ngươi không dám thì sao dám thăm dò ý trẫm.”

Từ lúc chưa gặp cô, trong lòng Lưu Triệt đã nổi sát ý. Một dân nữ huy động được lực lượng như thế thì có thể thấy là tâm tư tuyệt đối không đơn giản. Y đã không thể nào thu nạp thì nhất định phải nhổ cỏ tận gốc, nếu không thì dù Đại Hán dưới sự cai trị của y lúc này đang vững vàng như núi Thái Sơn nhưng nếu có kẻ lợi dụng danh tiếng kỳ nữ trời sinh của cô gái này thì chưa hẳn sẽ không gây ra chuyện. Y là đế vương, vẫn luôn thà giết lầm vạn người chứ không thể bỏ sót một người. “Hơn nữa”, Lưu Triệt trầm ngâm nói, “Bành Thông nói năng bậy bạ, cũng ban cho được chết.” Y nói dăm ba câu xử trí hai mạng người xong thì không nói gì nữa mà cứ thế bỏ đi.

Trần A Kiều cưỡi tuấn mã phi thẳng một mạch về hướng sông Hoàng Hà. Nàng giục ngựa điên cuồng, không cần biết đến những thị vệ đi theo phía sau, cảm giác thấy gió sương phương bắc mát lạnh quất vào mặt khiến tinh thần sảng khoái, tất cả những sức mạnh sinh lực vốn bị thương bệnh đoạt đi đã trở về cùng với lần phi ngựa sảng khoái này. Chỉ chốc lát sau, nàng vừa nghe thấy tiếng sóng sông Hoàng Hà rào rạt vang lên bên tai thì cũng liền thấy nước Hoàng Hà chảy cuồn cuộn trước mắt. Nàng kéo cương thắng ngựa dừng lại, bỗng nhiên bật cười vang.

Cần gì phải đa sầu đa cảm như vậy? Cứ để cho nước Hoàng Hà cuốn trôi đi tất cả những buồn bực phiền muộn ở trong lòng. Thế gian nay còn có rất nhiều cảnh đẹp hoành tráng, chỉ vì lòng nàng còn quá câu nệ nên chưa được thấy mà thôi. Thời đại này còn rất sớm, sông Hoàng Hà chưa bị đục như đời sau. Nước sông trong đục lẫn lộn, gầm thét chảy về phía trước.

Sóng nước Hoàng Hà chảy ầm ầm khiến nàng không nghe thấy tiếng vó ngựa lộp cộp phía sau nhưng nàng bỗng như có linh tính quay đầu nhìn lại, thấy có một đoàn người ngựa từ phương xa chạy tới, Con tuấn mã chạy trước tiên có màu đen nhánh như một con thần mã. Nàng nhìn người cưỡi ngựa thì trái tim đập rộn ràng. Ngoài y ra, còn người nào xuất hành mà lại dẫn theo nhiều tùy tùng như vậy? Nàng vừa mới nói cần phải thả lỏng tâm hồn nhưng lúc này lại không nhịn được, khóe mắt bờ môi đều nhiễm vẻ hân hoan. Một nụ cười đẹp như tranh khiến Lưu Triệt nhìn đến cơ hồ mê mẩn.

Đoàn thị vệ tháp tùng đến cách khoảng ba mươi thước thì đồng loạt ghìm cương lại, riêng một mình Lưu Triệt giục ngựa tiến về phía trước đến bên cạnh nàng. “Kiều Kiều”, y mỉm cười nói, “Trẫm thật sự rất vui, rốt cục trong lòng nàng vẫn còn có trẫm.”

Giọng nói của y không nhỏ nhưng ở gần sông Hoàng Hà chỉ trong gang tấc nên bị tiếng sóng át đi. A Kiều không nghe thấy rõ nhưng nhìn ánh mắt và nụ cười của y thì cũng đoán được rõ ràng. Mười ba năm rồi. Từ khi gặp lại hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu đến lần đi tuần thú năm Nguyên Phong nguyên niên, đã đủ mười ba năm tròn. Trong mười ba năm đó, nàng cứ ơ hờ nhìn y đến rồi đi, không màng được thua, không buồn không vui. Rốt cục phải trải qua mười ba năm ròng nàng mới để tâm trở lại, tuy rằng còn xa mới cực kỳ chấp nhất như thời niên thiếu nhưng cả hai người đều hiểu rõ ràng ý nghĩa của nó. Tất nhiên, nếu nàng không mang lòng yêu thương đối với người đàn ông trước mắt này thì tại sao lại để tâm như vậy?

Nàng im lặng hồi lâu rồi chợt hỏi, “Người đem…?”

Nàng đột nhiên im bặt, bỏ lửng câu hỏi. Tất nhiên, y đã xuất hiện ở nơi này thì còn cần gì phải hỏi nữa. Lưu Triệt như hiểu được ý của nàng thản nhiên nói, “Kiều Kiều sẽ không gặp lại cô ta nữa.” Ánh mắt y thoáng hiện lên một tia tàn khốc. A Kiều một lúc sau mới hiểu, ngạc nhiên nói: “Cần phải vậy sao?” Cô gái kia tuy có dã tâm quá lớn nhưng cũng không đáng tội chết.

Nhưng nàng không phải là người quá lương thiện, huống chi nghĩ ra thì cũng hiểu cho ý tứ của Lưu Triệt. Lưu Triệt là bậc đế vương tôn nghiêm, y không thể dung tha cho kẻ dưới to gan dám tính kế với mình, huống chi kẻ đó lại không đơn thuần chỉ là một cô gái muốn được ân sủng.

Sóng nước Hoàng Hà ầm ào mãnh liệt, đám thị vệ ở ngoài xa không nghe thấy bọn họ nói gì. Chính bản thân hai người cũng phải nói lớn mới có thể nghe được tiếng của nhau. Lưu Triệt giục ngựa tới gần, vươn một tay ra bế nàng sang ngồi trước người mình. Con ngựa ô bọn họ đang cưỡi hí vang lên, quất đuôi tựa như bất mãn về việc tăng thêm trọng lượng trên lưng mình. Song đối với Lưu Triệt, A Kiều lại rất nhẹ, nhẹ đến mức y cảm thấy vươn tay ra bế nàng cứ nhẹ tênh tênh chẳng tốn chút sức lực nào.

“Lưu Triệt”, A Kiều ngồi yên trong lòng Lưu Triệt, khẽ gọi. Hai người ở sát bên nhau nên Lưu Triệt nghe tiếng nàng nói: “Người nhìn xem, thế nước sông Hoàng Hà mãnh liệt, một khi tràn bờ thì mấy ngàn dặm ruộng vườn đều sẽ bị phá hủy mất. Tai họa do con người gây ra còn tránh được chứ thiên tai thì biết tránh đi đâu. Ở trước mặt thiên nhiên, sức người thật là nhỏ bé.”

Lưu Triệt trầm ngâm giây lát rồi nói: “Trẫm lại tin tưởng mọi việc đều có cách giải quyết. Việc trị thủy, cho dù trẫm không thể nào hoàn thành nhưng còn có con cháu muôn đời sau nữa. Trẫm tin tưởng, giang sơn Đại Hán sẽ được con cháu của trẫm và Kiều Kiều kế tục, cuối cùng sẽ có một ngày giải quyết được việc này.”

Nàng ở trong lòng y, mỉm cười tươi tắn. Nàng biết rõ việc trị thủy là đại nghiệp muôn đời, cho dù ngàn năm sau vẫn không thể giải quyết thích đáng. Nhưng người này lại tự tin đến như vậy, một sự tự tin mãnh liệt mà những người khác khó có thể sánh được. Lưu Triệt, nàng nhủ thầm trong lòng, lúc này người đã đến bên ta vậy thì ta cũng nên nhường nhịn người một chút. Từ nay về sau, ta sẽ thật lòng coi người là chồng, là vua của ta. Kính trọng người, yêu thương người, tin tưởng người. Ta mong rằng sẽ đợi được đến khi chúng ta bạc đầu để hồi tưởng lại những chuyện trong cuộc đời này một lần xem điều gì là vĩnh viễn không quên? Là những tổn thương thuở còn niên thiếu hay là những cơn gió không ngừng trên bờ sông Hoàng Hà hôm nay? Tới lúc đó thì có lẽ ngay cả những tổn thương cũng có thể mỉm cười nhớ tới. Chỉ cần người không phụ ta thì ta vĩnh viễn không phụ người. Những tổn thương đã từng có sẽ tồn tại không cách nào xóa đi được. Ta cũng không có khả năng xóa chúng đi, chỉ là từ nay về sau ta sẽ chôn chặt chúng vào ký ức, chỉ cần người không khơi ra thì ta sẽ không đụng tới. Hãy để chúng ta nhìn xem thời gian có thể vùi chôn được ký ức hay không? Chúng ta đều sắp già rồi.

Con ngựa hai người đang cưỡi rong ruổi dọc theo bờ sông Hoàng Hà. Vô số thị vệ đi theo cách chừng mười trượng phía sau bảo vệ Hoàng đế và Hoàng hậu của đế quốc Đại Hán. Đúng vậy, Hoàng đế và Hoàng hậu.

Nàng thả lỏng người, khẽ tựa vào ngực Lưu Triệt. Lồng ngực Lưu Triệt rất rộng khiến nàng tin tưởng rằng nếu có sóng gió thế nào thì y vẫn có thể che chở cho nàng. Thật là kỳ quái, tất cả những phong ba bão táp của nàng đều phát sinh từ người đàn ông này nhưng trong một khoảnh khắc, nàng lại không khỏi cảm thấy y sẽ ngăn gió che mưa cho nàng. Nàng chợt nhớ tới một câu thơ đã đọc trong sách cổ từ thuở nhỏ, “Núi có cây và cây có cành.”

“Triệt Nhi”, nàng bỗng động tâm, ngoảnh lại nói: “Thiếp sẽ hát một khúc nhé. Người có muốn nghe không?”

Y hơi cúi đầu xuống, nhìn vào lúm đồng tiền của nàng, âu yếm nói, “Nàng hát đi.”

Gió Hoàng Hà ào ào thổi qua làm cho búi tóc của nàng xô ra, hơi xốc xếch nhưng nhìn rất nữ tính. Nàng suy nghĩ một chút rồi xướng lên giai điệu kia, giọng hát thánh thót.

“Mặt nước xanh sóng gợn

Vua cứ hoài ưu tư

Lòng có bao phiền muộn

Để mặc gió cuốn đi”

Trong cuộc đời mình, nàng đã nghe rất nhiều bản tình ca nhưng đến giờ cuối cùng thì nàng lại chọn một bài theo phong cách cổ. Năm xưa khi xuyên qua ngàn năm đi tới triều đại cổ xưa này, nàng có bao giờ ngờ được mình sẽ có kết cục như vậy?

“Giở lại trang sách sử

Ba năm lại ba thu

Gió Bắc gieo giá lạnh

Miên man kể nỗi sầu

Chung sống đến đầu bạc

Tử sinh đáng gì đâu

Ngàn năm đã qua hết

Tỉnh mộng lại u sầu”

Đứng trên bờ Hoàng Hà nhìn ra thấy bốn phía là một vùng đồng đất mênh mông. Đang đầu mùa hè, khắp nơi đều là màu xanh mơn mởn, bừng bừng sức sống. Nàng dần tin rằng nhân duyên do số mệnh sắp đặt.

“Thuyền Bách Chu rời bến

Theo sóng gió phiêu lưu

Trải qua bao con nước

Quên mất cả Ngũ Châu”

Nàng đã từng không chịu phục khi bị cuốn vào trong vòng xoáy vận mệnh. Dựa vào cái gì mà vận mệnh lại chọn đúng nàng trong thế giới có hàng ngàn vạn con người chứ? Vào những thời điểm then chốt, phải lựa chọn như thế nào thì nàng cũng không có gì để đối chiếu. Cuộc đời ẩn chứa quá nhiều biến số, nàng lại chỉ lựa chọn dựa theo tâm ý, sau đó cẩn thận làm theo lựa chọn của mình còn kết quả ra sao thì không quá để ý.

“Xin ở cùng với thiếp

Đến răng long bạc đầu

Gió vẫn không ngừng thổi

Cuốn bay hết ưu sầu

Nghe câu chuyện ngày trước

Ngỡ là giấc chiêm bao

Thương người ở trước mắt

Chẳng nỡ rời tay đâu”

Nàng vẫn hy vọng là sẽ có một kết cục tốt đẹp, có thể bạc đầu răng long, có thể quên hết ưu sầu, có thể… vĩnh viễn chẳng phân ly. Hy vọng như vậy có phải là quá tham lam không?

Nhưng có câu rằng phải có niềm tin thì mới có thể tồn tại. Nàng ở trong một chỗ bình yên ấm áp ngẩng đầu lên, dọc theo sông Hoàng Hà ở phía trước rất xa hình như có mục đồng đang thổi sáo, một khúc tình quê êm đềm nhưng tràn đầy vui sướng. Nếu tin tưởng và vui vẻ thì sẽ gặp nhiều hạnh phúc. Và câu chuyện tình đẹp nhất triều Hán Vũ Đế đã kết thúc trong bài hát êm đềm này.

Mặt nước xanh sóng gợn

Vua cứ hoài ưu tư

Lòng có bao phiền muộn

Để mặc gió cuốn đi

Xin ở cùng với thiếp

Đến răng long bạc đầu

Gió vẫn không ngừng thổi

Cuốn bay hết ưu sầu

Nghe câu chuyện ngày trước

Ngỡ là giấc chiêm bao

Thương người ở trước mắt

Chẳng nỡ rời tay đâu

Núi lưng trời cao vút

Thôn quê suối xanh màu

Tiếc chuyện không tên cũ

Đến nay lại quay đầu

Ánh trăng sáng vằng vặc

Soi bóng thành ba người

Ngàn năm đã qua hết

Tỉnh mộng thấy u sầu

Thuyền Bách Chu rời bến

Theo sóng gió phiêu lưu

Trải qua bao con nước

Quên mất cả Ngũ Châu

Xin ở cùng với thiếp

Đến răng long bạc đầu

Gió vẫn không ngừng thổi

Cuốn bay hết ưu sầu

Nghe câu chuyện ngày trước

Ngỡ là giấc chiêm bao

Thương người ở trước mắt

Chẳng nỡ rời tay đâu

Tham khảo trang sách sử

Ba năm lại ba thu

Gió Bắc gieo giá lạnh

Miên man kể nỗi sầu

Chung sống đến đầu bạc

Tử sinh đáng gì đâu

Ngàn năm đã qua hết

Tỉnh mộng lại u sầu.

(Nỗi nhớ không tên – Kinh thi)
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 97 ... Vĩ thanh: Đời người bước đến lúc tận cùng (1)

Cuộc đời nàng cứ xuôi theo cảnh mặt trời lặn, mặt trời lặn trên thành Trường An, hoa nở hoa tàn trong cung Kiên Chương cho đến ngày nhắm mắt.

Năm Nguyên Phong đầu tiên, ngự giá trở về đến Trường An đã là tháng Bảy. Lúc xe ngự tráng lệ được Kỳ Môn quân bảo vệ xung quanh tiến vào Trường An từ cửa thành phía tây, Trần A Kiều nhìn qua rèm thấy mái ngói lưu ly của cung Kiến Chương thì thở một hơi thật dài. Ao sen trước điện Trường Môn ngày nào còn xanh um giờ đã nở rộ.

Cuối tháng Chín, Lưu Triệt di chuyển lưu dân tới Giang Hoài, bắt đầu khai phá lưu vực sông Trường Giang ngày sau còn phồn hoa hơn cả Quan Trung. Tháng Mười, y dẫn mười tám vạn kỵ binh đi tuần thú biên cương, Trần A Kiều không đi theo. Hành trình đi từ phía bắc Vân Dương qua Thượng Quận, Tây Hà, Ngũ Nguyên rồi vượt Trường Thành lên bắc đứng trên đài của thiền vu nhìn về hướng Bắc Hà quan sát Hung Nô. Trước uy thế quân Hán, dân Hung Nô còn lại đều chạy trốn thật xa. Cuối năm Nguyên Phong, Hoàng Hà lại dâng nước gây lũ lụt. Nước Lương, nước Sở trước đây Hoàng đế và Hoàng hậu có đi tuần thú qua đều gặp tai họa, dân chúng lầm than. Lưu Triệt rốt cục hạ quyết tâm dồn sức sửa trị Hoàng Hà.

“Năm xưa Cấp Ảm, Trịnh Đương bịt đê vỡ nhưng vết vỡ quá sâu nên không đủ vật liệu.” Trong điện Trường Môn, Trần A Kiều chỉ vào sa bàn sông Hoàng Hà nói giọng đều đều, “Sau đó bệ hạ lại bỏ đắp đê nên mới để cho lũ lụt hoành hành hơn hai mươi năm.” Năm đó nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ trang nghiêm ở điện Tiêu Phòng, chỉ chăm chăm chờ đợi, vui mừng khi phu quân trở về bên cạnh, nào nghĩ đến sự sống chết của vô số lưu dân ngàn dặm bên ngoài.

“Khi đó cuộc chiến Hán Hung đang hồi cấp bách, hơn nữa vùng Quan Trung mới là căn bản của Đại Hán ta. Đất Quan Trung chiếm một phần ba thiên hạ mà dân chúng chỉ chiếm một phần mười ba, đất đai trù phú mà mới khai khẩn được sáu phần mười.” Lưu Triệt liếc nhìn nàng. A Kiều khẽ thở dài, y là đế vương nên phải tính đến toàn cục chứ không phải ở tiểu tiết. Quyết định như vậy đối với dân chúng mà nói quả thật tàn nhẫn nhưng không thể nói năm đó Lưu Triệt quyết định không đúng.

Sau khi văn võ bá quan trong điện Tuyên Thất hiểu được ý của bệ hạ thì cả triều đều im lặng. Chuyện trị thủy đã không dám nói chắc, lại khá gian khổ, cuối cùng giao cho Thái trung đại phu Kim Nhật Đan. Trần A Kiều biết rằng đây cũng là khảo nghiệm của Lưu Triệt đối với Kim Nhât Đan. Từ sau khi diện kiến bệ hạ ở cung Kiến Chương hồi cuối năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Kim Nhật Đan dần thu bớt tính tình cuồng ngạo, hành xử trong triều ngày càng cẩn thận. A Kiều quan sát thấy hết thảy, trong lòng thầm cảm thán. Người thiếu niên Hung Nô nay có thể hy sinh vì Tảo Tảo như vậy thì chắc phải rất yêu con nàng. Nàng vì dân chúng thiên hạ nên bảo Mạch Nhi nhắc nhở Kim Nhật Đan hai điều. Thứ nhất, chuyện trị thủy chú trọng về phần khai thông mà không phải là đơn thuần ngăn chặn. Thứ hai, để ý vấn đề vật liệu đắp đê.

Năm Nguyên Phong thứ hai, Hoàng đế phái Thiệp Hà tới thuộc quốc Triều Tiên ban dụ lệnh cho quốc vương Triều Tiên là Vệ Hữu Cừ vào bái kiến. Quốc Vương Triều Tiên không nhận dụ lệnh. Tháng Tư, từ Hoàng Hà báo tin về rằng Kim Nhật Đan chỉ huy Quách Xương và mấy vạn dân công (Theo sử là người vùng Vân Trung dùng thân phận giáo úy đi theo Vệ Thanh tấn công Hung Nô ), lấy trúc và đá cắm xuống đáy sông chắn ngang chỗ đê vỡ, mới đầu thì thưa, sau đó dày lên khiến thế nước chảy qua chỗ vỡ chậm lại, tiếp đó dùng cỏ khô trộn với đất cát bịt kín, cuối cùng đổ đất và đá vào, chặn được dòng nước, khôi phục dòng chảy sông Hoàng Hà trở lại như trước. Vì công trạng này, Kim Nhật Đan được thăng trung lang tướng, bổng lộc hai ngàn thạch.

Tháng bảy, Triều Tiên mượn một cớ nhỏ để phát binh tấn công Liêu Đông, giết chết Thiệp Hà. Trong mùa thu, Lưu Triệt ra lệnh chiêu mộ tử tù, chia làm hai đường đánh dẹp Triều Tiên. Tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán bắt được Lâu Lan vương, khống chế con đường tơ lụa. Vào mùa hè, quân Hán bình định Triều Tiên ở phía đông, thiết lập bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân, Nhạc Lăng.

Đến mùa thu, Công chúa Duyệt Trữ vốn được Hoàng đế sủng ái nhất vừa tròn hai mươi tuổi, cuối cùng cũng chuẩn bị xuất giá trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Vị hôn phu mà bệ hạ lựa chọn cho cô lại là một người Hung Nô. Tuy Kim Nhật Đan dần bộc lộ tài năng trong triều đình, tác phong cẩn thận vững vàng, có tài kinh bang tế thế, được sự tán thưởng của cả Hoàng thượng và Thái tử, nhưng làm sao có thể chiếm lấy viên minh châu được cưng chiều nhất trên tay Hoàng đế và Hoàng hậu chứ? Cả giới quý tộc lẫn dân chúng Trường An còn đang ra sức đoán già đoán non thì lễ nghi xuất giá của Công chúa Duyệt Trữ đã được cử hành long trọng. Đại tư nông Tang Hoằng Dương trông coi tiền bạc và lương thảo quốc gia, nói về thân phận em kết nghĩa của mẫu thân Công chúa Duyệt Trữ, lần đầu tiên không ngầm dị nghị về sự lãng phí của đế vương, vui vẻ quyết toán tiền bạc chuẩn bị cho hôn lễ.

Trên điện Trường Môn, Lưu Sơ ngồi yên lặng trước gương để A Kiều trang điểm tỉ mỉ cho cô theo kiểu thiếu nữ đợi xuất giá. Cặp lông mày, đôi má lúm dần hiện ra tinh tế, đẹp đẽ dưới phấn son trang điểm. Thiếu nữ trong gương bất giác đã đến tuổi hai mươi hoa gấm. Ở cái tuổi rực rỡ như vậy, từ nay về sau sẽ thuộc về một người khác, buồn vui, vinh nhục cùng hắn…

“Mẫu thân”, Lưu Sơ bật gọi một tiếng rồi khóc òa lên. Đã bao nhiêu năm qua kể từ khi A Kiều về ở Trường Môn, khôi phục lại vị trí hoàng hậu, nhưng cô vẫn không chịu đổi cách xưng hô thành mẫu hậu mà cảm thấy gọi mẫu thân mới là thân thương nhất.

“Tảo Tảo ngốc nào”, Trần A Kiều mỉm cười an ủi, giấu đi nỗi nghẹn ngào. “Có phải là không về nữa đâu. Nếu con muốn, lúc nào cũng có thể vào cung thăm mẫu thân và phụ hoàng. Đừng khóc nữa, kẻo phí công trang điểm.”

Lưu Sơ nín khóc, mỉm cười gật đầu. Cô đứng dậy quay ra thì thấy ca ca đang chờ ở ngoài rèm. Cô rảo bước tới bên cạnh Lưu Mạch, đưa tay cho hắn đỡ, nghiêng đầu hỏi, “Ca ca, Tảo Tảo có đẹp không?”

Lưu Mạch đã ở vị trí thái tử được mấy năm, tâm trí ngày càng sâu sắc, nhưng nhìn muội muội sống nương tựa lẫn nhau từ thuở nhỏ cho tới lúc trưởng thành vừa mới trang điểm xong thì cặp mắt đen sâu thẳm vẫn ánh lên vẻ dịu dàng. “Đẹp lắm!”, hắn chân thành khen.

Lúc đó Kim Nhật Đan đang ở ngoài cửa đông cung Kiến Chương chờ đợi người thiếu nữ chiếm vị trí quan trọng trong cuộc đời mình. Lưu Sơ mặc bộ lễ phục tân nương nhìn như một áng mây hồng, dung nhan như hoa sen nổi trên mặt nước, tỏa hương thơm ngát. Từ nay về sau hắn sẽ có thể danh chính ngôn thuận nắm tay cô.

Vợ chồng Công chúa tới điện Tuyên Đức khấu đầu tạ ơn công lao nuôi dưỡng của Hoàng hậu và Hoàng đế. Trên điện, Lưu Triệt cùng Trần A Kiều đều mặc lễ phục trang trọng của Hoàng đế và Hoàng hậu, nét mặt rất nhu hòa.

Món hồi môn cực lớn của Công chúa Duyệt Trữ khiến cho dân chúng Trường An trợn mắt líu lưỡi. Khi cỗ xe chở lễ đầu tiên đã vào khuất trong phủ Công chúa thì cỗ xe lễ cuối cùng còn chưa lên đường rời khỏi cửa cung.

Vào mùa thu năm Nguyên Phong thứ ba, Trần A Kiều gả chồng cho đứa con gái yêu quý nhất trong cuộc đời mình, mặc dù sau này vẫn có thể thường xuyên gặp mặt nhưng đã không còn là đứa con gái bé bỏng có thể tùy ý làm nũng với nàng nữa. Lòng nàng vui buồn lẫn lộn.

Tháng Mười hai năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán đánh bại nước Xa Sư.

Vào lễ đầu năm mới của năm Nguyên Phong thứ tư, Công chúa Duyệt Trữ vào cung thăm phụ hoàng và mẫu thân. Cô nắm tay A Kiều, líu ríu nói mấy chuyện riêng của phụ nữ. Trần A Kiều nhìn vào mắt con thấy vẫn trong veo thì trong lòng cũng được an ủi. Là người mẹ, nàng luôn lo lắng cho hạnh phúc của con gái.

Cuối năm Nguyên Phong thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh bỗng nhiên ngất xỉu ở điện Bác Vọng, ngự y thăm khám xong liền bẩm: “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương, chúc mừng Thái tử điện hạ, Thái tử phi điện hạ có thai. Hoàng gia đã có người nối dõi, thật là chuyện vui lớn.” Trần A Kiều và Lưu Mạch nghe xong đều vui mừng.

Vào mùa xuân năm Nguyên Phong thứ năm, Thượng Quan Linh sinh đứa cháu gái trưởng của hoàng gia sớm mấy ngày. Đứa bé nhỏ đến nỗi A Kiều bế chiếc áo gấm mềm mại bọc thân hình bé nhỏ của nó trên tay rồi mà còn hoài nghi liệu nó có biến mất hay không. Thời gian thấm thoắt, mới năm nào nàng ôm hai đứa con song sinh quyết tâm sống tốt cuộc đời này, chớp mắt một cái, nàng đã không còn nhớ được cảm giác khi bế một đứa trẻ mới sinh trên tay thế nào nữa. Lưu Triệt ban cho đứa cháu gái đầu của y cái tên là Yêu.

“Hoa đào yêu kiều,

Sắc màu rực rỡ.

Rồi sẽ vu quy,

Yên bề gia thất”....(Bài Đào yêu 1 của Khổng Tử được ghi chép trong Kinh Thi).

A Kiều cho rằng cái tên này hàm chứa những kỳ vọng của y đối với hạnh phúc của đứa bé mới sinh.

Tháng Tư, Hoàng đế thiết lập thứ sử ở mười ba châu, dùng sáu điều hỏi chuyên…(Đây là một loại chuẩn tắc được đặt ra để giám sát quan viên, bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế chia đất nước thành mười ba châu, mỗi một châu cử tới một thứ sử, mỗi năm trong đợt tuần hành vào mùa thu, sẽ dùng sáu câu hỏi để nắm được tình hình quận quốc, giám sát viên khu vực).

Tháng Chín, danh tướng một đời Vệ Thanh lâm bệnh mất ở phủ Trường Bình hầu, còn chưa đến tuổi biết mệnh trời…(Tuổi biết mệnh trời tức tuổi năm mươi. Theo câu “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới năm mươi tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, hiểu được mệnh trời )...Đêm khuya hôm đó, Lưu Triệt và A Kiều đã thay thường phục, đang xem sách nói chuyện vui vẻ trong điện Trường Môn thì nghe nội thị bẩm báo việc này. Lưu Triệt thấy lòng sầu thảm. Người vừa đi mất chính là tri kỷ của y thời niên thiếu, chinh chiến vì chí hướng của y nhưng sau này lớn lên lại bị chính trị làm cho xa cách. Chỉ là nghe tin hắn qua đời trong một đêm thu như thế này, y lại nhớ tới quãng thời gian trong sáng vui vẻ cùng nhau đi săn thú trong Thượng Lâm Uyển thuở còn niên thiếu. Lưu Triệt càng nghĩ càng cảm thấy già nua. Vệ Thanh cùng thế hệ với y cũng đã ra đi, vậy bọn họ còn bao nhiêu thời gian trên thế gian này.

Lưu Triệt xưa nay hùng tâm vạn trượng, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi. Y ôm chặt lấy A Kiều, trầm mặc một lát rồi nhẹ giọng hỏi, “Sao Kiều Kiều lại không hề tức giận một chút nào thế?”

“Cái gì?” Trần A Kiều giật mình, một lúc sau mới có phản ứng, hỏi ngược lại, “Sao thiếp lại phải tức giận?”

Mặc dù Vệ Thanh là người họ Vệ nhưng nàng vẫn thừa nhận hắn là anh hùng. Còn nguyên nhân hắn không còn được Lưu Triệt tin dùng, truy đến cùng, có một phần do tính toán của nàng. Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

“Thiếp biết.” Nàng mỉm cười nói, “Vệ Thanh là một người quan trọng trong cuộc đời bệ hạ, không có gì đáng ngạc nhiên. Giống như A Kiều là thê tử của bệ hạ nhưng A Kiều vẫn có sư phụ, Mạch Nhi, Tảo Tảo, sư huynh.” Bọn họ đều là những người không thể thay thế trong cuộc đời.

Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng. Nghe A Kiều nhắc tới Tiêu Phương, y không khỏi nhớ lại cảnh trong Thượng Lâm Uyển năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, người đàn ông đẹp như ngọc kia bởi vì A Kiều đau đớn mà bộc phát ra một phần tâm tư vẫn luôn giấu kín. Cho tới bây giờ, cả linh hồn lẫn thể xác A Kiều đều đã thuộc về y nhưng y vẫn không thể nào xóa đi sự kính trọng của nàng với Tiêu Phương. Y nồng nàn hôn lên khuôn mặt kiều diễm ở trong lòng, khiến nàng ngây ngất. Tất cả những ý nghĩ vẩn vơ đều tạm thời ném lên tận chín tầng mây.

Vào năm Nguyên Phong thứ sáu, Ích Châu, Côn Minh làm phản. Lưu Triệt sai Tiết Thực xuất quân bình định. Vào năm sau nhà Hán đổi niên hiệu thành Thái Sơ. Tháng Năm năm Thái Sơ đầu tiên, triều đình ban chiếu dùng “Thái Sơ lịch”, lấy tháng Giêng là tháng đầu năm chọn màu vàng làm chính, tính theo ngũ hành, quy định các chức quan, âm luật và lễ nghi của tông miếu, của bá quan thành chuẩn mực cho đời sau.

Tháng Tám năm Thái Sơ thứ hai, Lưu Triệt phái sứ giả đem vàng đến Đại Uyển đổi lấy Hãn huyết bảo mã. Đại Uyển vương khâm phục uy thế của Đại Hán nên dâng tặng bảo mã. Trần A Kiều nghe danh Hãn huyết bảo mã đã lâu, đợi sau khi sứ giả từ ngàn dặm xa xôi đem bảo mã trở về vườn ngự uyển ở Trường An, không nén nổi tò mò, kéo Lưu Triệt đi xem. Con ngựa toàn thân đỏ rực, cao lớn nhanh nhẹn, ánh mắt ngạo nghễ, danh bất hư truyền. A Kiều nóng lòng muốn thử, Lưu Triệt lo lắng cho thân thể của nàng, nói: “Chờ để thuần phục đã.”

Hãn huyết bảo mã cực kỳ cao ngạo, liên tục hất ngã mấy người thuần ngựa, sắc mặt Lưu Triệt trầm xuống, “Đại Hán được xưng anh tài xuất hiện lớp lớp, sao ngay cả một con tuấn mã cũng không thể thuần phục nổi?”

“Phụ hoàng”, Lưu Mạch đứng bên cạnh, thấy đúng là bảo mã, lại muốn mẫu thân hân hoan, chắp tay nói, “Xin để nhi thần thử một lần.”

“Thái tử?” Lưu Triệt do dự, vẫn nói con của thiên tử làm gì cũng phải cẩn thận. Thái tử là người kế vị một nước, có thân phận cao quý, thuần phục ngựa lại là một công việc nguy hiểm, chẳng may té ngã thì ắt là không hay, vì dù không làm sao thì riêng việc không thuần phục được ngựa cũng đã mất thể diện rồi. Nhưng thời niên thiếu của y cũng từng mạo hiểm như vậy, lúc đạp trên đầu sóng ngọn gió, đã bao giờ biết sợ hãi?

“Mạch Nhi”, A Kiều thì lại tin tưởng con mình, thay y sửa sang lại cổ áo cho con trai rồi dặn dò: “Cẩn thận đấy.”

“Dạ.” Lưu Mạch giao mũ qua cho Thành Liệt, buộc lại tóc, vào trường ngựa, bước tới trước con Hãn huyết bảo mã. Con tuấn mã liên tục hất văng mấy người nên cũng có phần mệt mỏi, hơi chồm vó trước lên, thở phì phì. Lưu Mạch nhìn thấy ánh mắt nó lấp lánh, cực kỳ kiêu hãnh. Hắn thình lình phóng lên ngồi vững vàng trên lưng ngựa. Hãn huyết bảo mã sửng sốt một lúc rồi tung vó phóng như điên, nhảy lên chồm chồm, định hất người trên lưng xuống. Song trên lưng nó là người kế thừa công phu của Triêu Thiên Môn mà những người thuần ngựa bình thường không thể sánh kịp. Lưu Mạch bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, cảm giác như đang ở trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương, sóng gió mạnh hơn nữa vẫn vững tựa Thái Sơn. Cũng không biết trải qua bao lâu, con tuấn mã bên dưới rốt cục nhụt chí, dần ổn định lại, cả người lẫn ngựa đều đầm đìa mồ hôi.

“Hay!!!” Tiếng reo hò chung quanh vang lên như sấm. Có cung nhân cơ trí khen, “Thái tử điện hạ quả nhiên dũng mãnh phi thường, hàng phục được bảo mã.” Lưu Mạch coi như không nghe thấy, ngồi yên trên lưng ngựa, cười tươi tắn. Ánh mặt trời mùa thu chiếu nhàn nhạt trên trường ngựa. Nhiều năm về sau, đám cung nhân vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của Chiêu hoàng đế có thể so sánh với ánh mặt trời mùa thu ấm áp lúc ấy. Chiêu hoàng đế không giống với Vũ hoàng đế vì miệng của hắn luôn có nếp nhăn khi cười, nhưng nó chỉ ôn hòa chứ không nồng ấm. Vì ngày đó có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu đứng ở bên ngoài nhìn, cho nên hắn mới có thể cười thật lòng.

Mở đầu truyện của Ban Siêu đời sau về Hiếu Chiêu hoàng đế có viết: Hiếu Chiêu hoàng đế chí hiếu với mẫu thân.

Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, sai thị tòng làm một bộ yên cương hợp với ngựa, quay lại nhìn mẫu thân đang bước tới, mỉm cười nói, “Giờ mẫu thân có thể cưỡi được rồi.”

Hãn huyết bảo mã lấy hết ngạo khí còn sót lại gõ gõ chân, liền bị Lưu Mạch trừng mắt. Nó dường như hiểu sự quan trọng của người phụ nữ này đối với chủ nhân nên yên tĩnh trở lại. Truyền thuyết quả nhiên là thật, mồ hôi của Hãn huyết bảo mã đỏ như máu, nhuộm hồng cả thân nó, cũng nhuộm hồng phần dưới y phục của Lưu Mạch. A Kiều nhìn thấy cau mày, mất hứng nói: “Nhuộm thành như vậy, coi như y phục bỏ đi một nửa.”

Lưu Mạch không ngờ mẫu thân lại đáp lại như thế, cất tiếng cười lớn. Hãn huyết bảo mã nghe tiếng cười, cảm giác mình bị sỉ nhục, quay đầu nhìn hai mẹ con trước mặt vẻ tò mò.

“Vậy thì xin mẫu thân ban cho nó một cái tên”, Lưu Mạch nói.

“Con ngựa này là lương câu (Ngựa tốt) của thiên hạ, lông đỏ như máu, mồ hôi cũng đỏ như máu”, A Kiều suy nghĩ một chút nói, “Vậy đặt tên là Chu Ly đi.”

Bởi vì Lưu Mạch thuần phục được Chu Ly nên Lưu Triệt ban nó cho Lưu Mạch. Khi Lưu Mạch trở lại điện Bác Vọng, Thượng Quan Linh đã nghe nói chuyện ở trường ngựa. Cho dù mắt thấy Lưu Mạch không hề bị tổn thương nhưng nghĩ lại vẫn kinh tâm động phách, bước ra đón, lo lắng hỏi: “Điện hạ có chuyện gì không?”

“Không sao.” Lưu Mạch thay y phục, vẫn còn hăng hái: “Linh Nhi, ta tập võ từ thuở nhỏ, chẳng qua là một con ngựa mà thôi, sao làm khó được ta.”

Lưu Yêu đã ba tuổi, có thể nói được mấy từ, bi bô gọi, “Phụ thân.” Gương mặt cô bé không giống cha mẹ mấy, nhưng lại giống hệt A Kiều thậm chí còn giống hơn cả cô cô Lưu Sơ. Vì vậy, cô bé được phụ thân Lưu Mạch và tổ phụ Lưu Triệt vô cùng yêu thích. Đối với Lưu Triệt, nói là yêu thích cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc gặp Lưu Yêu thì vẻ mặt y hòa ái, ban thưởng rất nhiều nhưng y lại không muốn Thượng Quan Linh thường xuyên đưa Lưu Yêu đến điện Trường Môn chơi, càng không thích thấy Lưu Mạch yêu thương con gái. Lưu Mạch loáng thoáng phát hiện ra điều này nên cũng ít khi dẫn con gái xuất hiện trước mặt phụ hoàng.

Năm Thái Sơ thứ tư, Ô Tôn sai vợ chồng Quân Tu Mỹ đưa cống phẩm tới hiến tặng cho hoàng đế Đại Hán, ngoài mấy hòm nhân sâm và da chồn, còn có một thứ nhìn rất bắt mắt. Đó là một con cáo tuyết chưa đến nửa tuổi được sứ giả Ô Tôn cẩn thận đem tới. Con cáo tuyết rất khôn ngoan, không hề có mùi hồ ly khó ngửi trên người, lại được huấn luyện qua nên không sợ người, đôi mắt đen nhánh linh động không ngừng đảo tròn.

“Vương tôn đại nhân của chúng tôi sai người tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cáo tuyết này. Ô Tôn khí trời rét lạnh, có nhiều động vật tuyết nhưng cáo tuyết là động vật vô cùng cảnh giác, cũng không thể thuần phục. Con cáo tuyết này là do thợ săn Ô Tôn trải qua ngàn vạn gian khổ tìm kiếm ở núi cao mới tìm được huyệt động của cáo tuyết, lúc vừa mới chào đời đã bị bắt về. Vương tôn sợ cáo tuyết không thích nghi được khí hậu ngoài Tuyết Sơn nên đặc biệt đeo cho nó một khối băng ngọc ở trước ngực.”

Lưu Triệt chỉ nhìn thoáng qua con cáo tuyết. Dù cáo tuyết đẹp đẽ nhưng bản tính y lại không thích nhũng thứ quá mức tinh xảo đẹp đẽ. Là đế vương điều tối kỵ nhất chính là mê muội mất đi cả ý chí. “Đưa con cáo tuyết đến điện Trường Môn”, y quyết định.

Bởi vì có con cáo tuyết nên vật phẩm theo lệ cách một năm một lần ban tặng cho Quận chúa Tế Quân kết hôn cầu hòa với Ô Tôn năm nay càng thêm phong phú. Lúc ôm con cáo tuyết, Trần A Kiều hơi kinh ngạc. Nàng chưa từng nghĩ rằng năm đó chẳng qua thuận miệng nhắc tới mà Lưu Triệt lại thật sự tìm kiếm suốt bao năm qua cho nàng như vậy. Tuy không phải là tìm kiếm tận trên trời hay dưới địa ngục nhưng chỉ cần làm thì sẽ có người phát hiện ra. Đến cuối cùng thì Lưu Mạch, Lưu Sơ đều biết, duy chỉ có nàng là bị giấu giếm.

“Chúc mừng Hoàng hậu nương nương.” Lục Y che miệng len lén cười không nhịn được, yêu thích nhìn con vật khả ái, nói: “Nương nương đặt tên cho nó nhé, nếu không chúng ta biết gọi nó thế nào đây?”

“Lại đặt tên à?” Trần A Kiều khẽ nhíu mày, nói: “Nó là cáo tuyết đến từ Ô Tôn, vậy thì gọi là Tuyết Ô đi.” Tuyết Ô rúc vào lòng A Kiều ấm áp, ngẩng đầu lên kêu chít chít mấy tiếng, cảm giác được sự an ổn toát ra từ người phụ nữ này.

Vào năm Lưu Yêu lên năm tuổi, đã có thể bước đi lũn cũn. Nó rất thích Tuyết Ô được A Kiều nuôi trên điện, nhõng nhẽo với A Kiều, “Hoàng tổ mẫu, để cho Tuyết Ô đi theo Yêu Yêu về điện Bác Vọng ở vài ngày có được không?”

A Kiều nhìn Lưu Yêu, trong lòng thầm nghĩ, nếu nàng dám đồng ý thì không biết vẻ mặt Lưu Triệt sẽ thế nào? Nàng không thể làm gì khác hơn là dỗ dành Lưu Yêu, “Nếu Yêu Yêu thích Tuyết Ô thì đến Trường Môn ở vài ngày là được rồi.”

Ngày hôm đó, Lưu Sơ hồi cung thăm mẫu thân, ôm Tuyết Ô, nghe kể chuyện của Lưu Yêu thì cười khanh khách, “Yêu Yêu muốn có được Tuyết Ô”, cô bày cách: “trước hết cháu phải đi xin hoàng gia gia đã.”

Lưu Yêu dù luôn được Lưu Triệt cưng chiều nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy vẻ mặt lạnh lùng của Lưu Triệt đối với người khác thì trong lòng vẫn thấy sợ hãi, rùng mình một cái, nói: “Thôi ạ, coi như cháu không cần nữa là được.”

A Kiều nghe nói Quách Giải trở lại Trường An, cuộc sống khá tốt. Xa cách quá lâu, nàng cũng không có ý rời cung đến thăm, biết hắn mạnh khỏe là an tâm rồi. Vào một năm khác, Thượng Quan Linh cùng Lưu Sơ đều có thai, đều sinh một bé trai vào năm Thiên Hán đầu tiên.

Cái tên Thiên Hán cũng rất có thâm ý. Bởi vì hàng năm đều bị hạn hán nên Lưu Triệt cải niên hiệu thành Thiên Hán. Từ đó về sau, niên hiệu triều Hán Vũ được sửa từ sáu năm một vòng thành bốn năm một vòng. Năm Thiên Hán đầu tiên, con trai trưởng của Tang Hoằng Dương là Tang Duẫn đầy mười sáu tuổi, lấy vợ là cháu gái đầu của phủ Mạt Lăng hầu, muội muội của Lưu Sách là Lưu Hiệt.

Năm Thiên Hán thứ ba, trưởng nữ Đông Phương Mi của Trưởng công chúa Phi Nguyệt đầy tuổi mười lăm, rốt cục thuyết phục được phụ thân Đông Phương Sóc gả cho nghĩa tử Liễu Ninh của Trường Tín hầu vẫn gắn bó với cô từ thuở nhỏ. Có lẽ, trên đời này thật sự tồn tại duyên phận. Nếu không, tại sao khôn khéo như Đông Phương Mi lại một mực thích Liễu Ninh chất phác. Duyên phận nếu có chắc cũng khởi nguồn từ lần chọn đồ vật đoán tương lai hồi năm Nguyên Đỉnh thứ năm. Trần A Kiều nhớ tới lần chọn đồ vật đoán tương lai hoang đường đó liền không nhịn được cười.

Các con trai con gái đều kết hôn cả rồi, chẳng phải bọn họ đã già thật rồi sao? Đúng vậy, thời gian chẳng buồn để ý xem ngươi là quân vương hay hắn là tên ăn mày. Theo thời gian, khuôn mặt người đàn ông bên cạnh nàng cũng đã in dấu gió sương. Chỉ là, tinh thần của y không hề thua kém thời tuổi trẻ, đôi mắt sắc bén càng trở nên thâm trầm, dáng người ngồi trên điện Tuyên Thất vẫn thẳng tắp. Một hôm ở điện Trường Môn, trước khi đi ngủ, Lưu Triệt vuốt ve mái tóc đen nhánh của A Kiều như có điều suy nghĩ, “Chẳng lẽ Kiều Kiều là người trời hay sao mà mãi không thấy già đi chút nào cả?”

A Kiều cười thảng thốt, “Đâu có?”

Trên đời này nào có ai không già chứ? Mái tóc đen dày của nàng dù không thấy sợi bạc nhưng cũng dần không còn mềm mượt như thời thiếu nữ. Thỉnh thoảng nàng soi vào chiếc gương đồng cũng thấy vài nếp nhăn như có như không ở khóe mắt. Có ai kéo được thời gian, nhưng nếu như người thương yêu cứ già đi thì mình trường sinh bất lão để làm gì? Thế nên nếu phải già đi thì cứ già đi thôi.

Năm Thiên Hán thứ tư, Lưu Yêu đầy chín tuổi. Con gái Hoàng gia dù không cần trị quốc an bang nhưng vẫn phải học hành. Cô bé học Kinh thi, ngâm nga mấy câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thấy tình yêu cũng đẹp như mùa xuân tươi thắm.

“Phụ thân.” Cô bé quấn lấy Lưu Mạch làm nũng, “Con nghe cung nhân nói rằng phụ thân không phải sinh ra ở cung Vị Ương mà khi mấy tuổi rồi mới được hoàng tổ mẫu mang về hoàng cung. Tại sao vậy chứ?”

Lúc đó Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng của thánh thượng, phục hồi ngôi vị làm mẫu nghi thiên hạ đã được rất nhiều năm. Người trong cung đã thôi không bàn tán về những việc xảy ra trước kia, chẳng còn ai nhắc tới chuyện vì sao Trần hoàng hậu lại rời xa bệ hạ, hay chuyện nàng đã làm những gì lúc ở ngoài cung. Lưu Yêu lần đầu thấy sắc mặt lạnh lẽo của phụ thân luôn thương yêu mình. “Trẻ con không được nghe ngóng lung tung”, hắn trách mắng.

Lưu Yêu cảm thấy rất ấm ức, cô bé là cháu gái trưởng của hoàng gia, được cưng chiều nhất ở cả hai cung Kiến Chương và Vị Ương, ngay cả đệ đệ ruột đôi khi cũng không được hoàng gia gia và hoàng tổ mẫu yêu thương bằng.

“Yêu Yêu”, mẫu thân kéo cô bé, nói: “Cha con xưa nay kính trọng hoàng nãi nãi nhất. Quãng thời gian đó”, Thượng Quan Linh chần chừ chốc lát, nói xa xôi: “Cha con vẫn cảm thấy hoàng gia gia có lỗi với hoàng nãi nãi. Cho nên, sau này con đừng nhắc tới.”

Lưu Yêu gật đầu cho có lệ, sao lại có thể như vậy chứ? Cô bé ngầm cảm thấy nghi hoặc, hoàng gia gia yêu thương hoàng tổ mẫu đến mức cô bé cũng cảm thấy ngưỡng mộ, thì sao lại có lỗi với hoàng tổ mẫu. Mặc dù không dám nhắc, nhưng nỗi nghi ngờ trong lòng Lưu Yêu lại tựa như một hạt giống đã bén rễ đâm chồi, nếu không được ai giải tỏa thì có thể lớn dần lên thành đại thụ chọc trời.

Mùa xuân năm Thái Thủy đầu tiên, mộ các hào kiệt của đất nước được di dời vào Mậu Lăng. Đến mùa hè, Công chúa Duyệt Trữ sinh hạ một bé gái trông khá giống với cô năm xưa. Lưu Triệt cực kỳ thương đứa bé, ban cho danh hiệu là Thuận Hoa ngay từ khi còn nằm trong tã lót, ý nghĩa là cả một đời hòa thuận vinh hoa.

Tháng Ba năm Thái Thủy thứ hai, đổi đúc tiền vàng, mở Bạch Cừ, phát triển thủy lợi….(Bạch cừ: Công trình thủy lợi nổi tiếng thời cổ đại ở Quan Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc).

Tháng Giêng năm Thái Thủy thứ ba có sứ giả từ nước khác tới. Lưu Triệt mở đại yến chiêu đãi ở cung Cam Tuyền. Mấy sứ thần đều luôn miệng ca tụng Trường An là đô thành phồn hoa nhất thế giới thời bấy giờ.

“Thế nhưng”, bọn họ khẽ giọng, “Chúng ta nghe nói hoàng đế Đại Hán bỏ mặc ba nghìn phi tần ở hậu cung, chỉ sủng ái một mình hoàng hậu, điều này là thật sao?”

“Đúng vậy.” Người hầu dâng rượu thản nhiên đáp.

“Sao lại như vậy chứ?” Nhũng người này thốt lên “Làm gì có chuyện quân vương của một quốc gia lớn như thế này lại chỉ thích duy nhất một người phụ nữ. Ngay đến những quốc gia như của chúng tôi cũng chẳng có vị quốc vương nào là không nuôi mấy người thiếp đẹp.”

“Có thể là do Hoàng hậu nương nương của chúng tôi rất đẹp, rất thông minh, rất ôn hòa.” Người hầu vẫn không đổi giọng.

Đám khách ngoại quốc lắc đầu, “Có điều”, bọn họ ngưỡng mộ nói: “đó thật đúng là câu chuyện tình đẹp. Có ba ngàn mỹ nhân mà chỉ yêu duy nhất một người. Ha ha!”

Năm Thái Thủy thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh sinh được người con trai thứ hai là Lưu Việt. Đây cũng là đứa con út của nàng.

Chớp mắt đã đến năm Chinh Hòa đầu tiên. Vào năm đó, Hoàng trưởng tôn Lưu Việt đã tám tuổi. Con cháu hoàng tộc luyện tập cưỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ. Tổ phụ lẫn phụ thân của cậu đều rất am hiểu những thứ này. Bản thân cậu cũng tỏ ra rất có thiên phú, chưa tới nửa năm đã đòi lấy luôn con ngựa Chu Ly trong chuồng ngựa của phụ thân.

Theo truyền thuyết, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã đệ nhất thiên hạ, phi nhanh như gió, ngày đi ngàn dặm, mồ hôi như máu, bình sinh chỉ nhận một mình Lưu Mạch làm chủ nhân. Trong điện Bác Vọng, Lưu Mạch nhìn đứa con trai của mình, lắc đẩu: “Con còn quá nhỏ.” Ở tuổi như cậu mà cưỡi con ngựa mạnh mẽ như Chu Ly, thật quá nguy hiểm.

“Nhưng”, Lưu Việt không phục nói: “chẳng phải lúc phụ thân tám tuổi cũng đã làm vậy rồi sao?”

Lưu Mạch nhớ lại hồi mình tám tuổi. Hắn làm thái tử ở điện Bác Vọng đã quá nhiều năm nên dần quên đi quãng thời gian niên thiếu tài hoa. Ở tuổi nhỏ hơn Lưu Việt hiện giờ, hắn còn chưa biết phụ thân mình là ai trên cõi đời này, sống nương tựa với mẫu thân và muội muội. Sau đó hắn mới biết phụ thân của mình là người tôn qúy nhất Đại Hán. Nhưng như vậy thì sao chứ? Có tôn quý đến đâu thì ông đã ruồng bỏ ba mẹ con hắn. Hắn sợ phải trông thấy nước mắt của mẫu thân nên không chịu tha thứ cho người đàn ông đã khiến mẫu thân phải khóc. Hắn theo mẫu thân đi khắp núi sông Đại Hán trong nửa năm trời mà lòng không nuôi hy vọng có ngày phải quay về Trường An. Điều này chỉ là ước mơ xa vời, vì Tảo Tảo vẫn còn ở đó. Bởi thế, cuối cùng bọn họ vẫn phải trở về cái nơi tù túng này.

Lần đầu tiên đối mặt với phụ thân trong cung Trường Môn, hắn mới thấy giật mình vì thấy bọn họ giống nhau đến như vậy. Giống từ cặp lông mày lưỡi mác hiên ngang, ánh mắt sắc bén, cho đến cặp môi mỏng như giấy. Điều khác biệt chính là sự sắc bén của hắn luôn ẩn dưới nụ cười ôn hòa, còn sự sắc bén của phụ hoàng lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài như một thanh kiếm lạnh giá đã tuốt khỏi vỏ. Ông đã là người có quyền lực lớn nhất trên thế gian nên không cần che giấu sự sắc bén của bản thân.

Sau khi gặp phụ hoàng, hắn thừa nhận phụ hoàng là một quân vương tốt. Dưới sự cai trị của ông, Đại Hán quốc thái dân an, dương danh bốn biển. Nhưng ông không phải là phụ thân tốt, lại càng không là một phu quân tốt. Một phu quân tốt không thể làm tổn thương người vợ mà bản thân mình yêu sâu sắc. Hắn cũng đã từng gặp Vệ Tử Phu, không thể hiểu nổi người phụ nữ nhợt nhạt đó có điều gì tốt mà khiến phụ hoàng năm xưa ruồng rẫy mẫu thân để chọn bà ta.

Sau cùng hắn dần trưởng thành, cũng đùa giỡn với quyền mưu đến mức thành thục không hề có chút sơ suất, nhưng trong lòng vẫn nhớ lời dạy trước đây của mẫu thân là hãy luôn tin tưởng trên thế gian vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp. Mẫu thân khi xưa đã dạy hắn như thế nào? Bà thương yêu hắn nhưng vẫn nén đau để cho hắn ra đi bởi vì người chưa từng trông thấy đất trời rộng lớn sẽ không chịu tu tâm xây dựng gia đình, không tự mình trải nghiệm sẽ không thể thật sự trưởng thành.

Hắn mỉm cười, nói: “Nếu thế thì con hãy đi đi.”

Lưu Việt hoan hô ầm lên: “Cám ơn phụ thân!”

“Khoan đã.” Hắn căn dặn, “Bảo Hà công công đứng bên theo dõi. Hãy cẩn thận đấy.”

Năm xưa phụ hoàng đã theo dõi hắn như thế nào? Hắn chưa từng suy nghĩ đến vấn đề này, giờ đột nhiên lại hiểu ra khi quan tâm đến đứa con trai của mình. Đó là đứa con tạo thành từ cốt nhục của mình nên hắn luôn mong nó tốt, mong nó ngày sau có thể kế thừa, phát huy công lao sự nghiệp của mình. Nhưng cũng bởi vì lợi ích mà cha con vĩnh viễn không thể có khả năng gần gũi. Cha con bọn họ cùng bảo vệ hai người phụ nữ hoặc nói cách khác là đều yêu sâu sắc các nàng nhưng bọn họ lại không thể không đề phòng lẫn nhau. Quan hệ kỳ lạ như vậy cứ thế kéo dài mấy chục năm, hai bên đều cho rằng đó là phương thức phù hợp nhất. Lưu Mạch khẽ cúi đầu cười nhạt. Không thể lặp lại những chuyện trước kia nữa, hắn không hy vọng quan hệ cha con lạnh lùng đó lại tiếp tục kéo dài sang cả hắn và con trai của mình.

Chu Ly được dẫn ra khỏi chuồng ngựa thì có chút cảm động. Chủ nhân quá bận rộn nên rất ít có cơ hội cưỡi nó. Dù chuồng ngựa của điện Bác Vọng sang trọng nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng. Huống chi, nó cảm nhận được mùi vị quen thuộc của chủ nhân trên bộ y phục cậu bé phía trước đang mặc nên ngoan ngoãn để cậu cưỡi lên.

Cung nhân chăm ngựa tấm tắc cho là lạ, nói: “Hãn huyết bảo mã xưa nay không để cho người lạ chạm vào nhưng lại phục tùng trưởng tôn điện hạ. Điện hạ quả nhiên là phúc dày mạng lớn.”

Lưu Việt cưỡi trên lưng Chu Ly vui mừng hỏi, “Hoàng tỷ của ta đâu?”

“Yêu quận chúa đang chơi với Hoàng hậu nương nương ở điện Trường Môn.” Cung nhân bẩm.

Lưu Việt quen hành động theo ý mình, tưởng tượng ra cảnh bản thân mình có thể khoe tư thế oai hùng trên lưng Chu Ly với người tỷ tỷ lớn hơn sáu tuổi, liền phi ngựa chạy xuyên qua cung đình rộng lớn, vòng qua ngọn giả sơn, rồi phóng một mạch tới điện Trường Môn. Một đám cung nhân kinh hãi chạy theo sau la hét í ới, sợ thuật cưỡi ngựa của Hoàng trưởng tôn chưa thạo, lỡ may không cẩn thận va phải giả sơn đình đài, nếu bị ngã thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng chẳng may vị điện hạ tôn quý này bị thương thì bọn họ dù có tới mười cái mạng cũng không đủ chôn cùng.

Cũng may, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã cực kỳ có linh tính khéo léo vòng qua tất cả chướng ngại, phóng tới trước điện Trường Môn. Lúc đó là mùa đông nhưng vẫn có ánh mặt trời hiếm hoi. A Kiều sai người kê ghế dài ra ngoài ngồi sưởi nắng. Lưu Yêu lấy một quyển sách đọc chầm chậm cho A Kiều nghe, nhưng giọng đọc cứ nhỏ dần khi liếc thấy vẻ mặt mơ màng của hoàng tổ mẫu. Cô nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu lại thấy là đệ đệ liền vội vàng đưa tay lên miệng làm hiệu im lặng.

Lưu Việt ở trên lưng Chu Ly cúi xuống, dần dần nguôi phấn khích, chăm chú nhìn tổ mẫu đã ngủ thiếp đi dưới ánh nắng. “Năm nay tổ mẫu bao tuổi rồi nhỉ?” Cậu thầm hỏi đầy nghi hoặc. Hoàng gia gia đã dần già đi nhưng sao thoạt nhìn, hoàng tổ mẫu lại còn trẻ như vậy, không già hơn mẫu thân của mình là bao nhiêu.

Ánh nắng soi rọi khuôn mặt ấm áp, an tĩnh mà mỹ lệ của A Kiều. Lưu Việt là hoàng trưởng tôn nên dĩ nhiên đã quen nhìn người đẹp. Mẫu thân, cô cô, tỷ tỷ của cậu, thậm chí cả các cung nữ đi đi lại lại trong cung Vị Ương và cung Kiến Chương, có ai là không có dung nhan xuất chúng? Ngay cả hoàng tổ mẫu, cậu cũng thường gặp mặt. Nhưng trong ngày mùa đông này, cậu đã chứng kiến một vẻ đẹp khác biệt, không liên quan đến dung nhan.

Sau này, cậu bị phụ thân phạt cấm chế vì sự bồng bột hôm nay. Phụ thân nói vẫn còn may, chứ nếu mà đã là hoàng tử, lại tùy ý phóng ngựa trong cung Kiến Chương như thế này, thì hoàng gia gia chắc chắn sẽ lấy mạng tất cả cung nhân theo hầu chứ không chỉ trách phạt đơn giản như vậy. Vô tình đến mức đó sao, cậu thầm nghi ngờ. Hiện giờ cung Kiến Chương rất tốt. Hoàng gia gia đối với tất cả đám con cháu cũng rất hòa ái. Nhưng cậu chợt nhớ tới chuyện về người thúc thúc bị cấm cố vĩnh viễn ở Bắc cung thì bất chợt rùng mình. Còn hiện giờ, cậu nhẹ nhàng xuống ngựa, cùng tỷ tỷ chờ ở bên cạnh hoàng tổ mẫu cho đến khi người tỉnh lại.

Tuvết Ô đang nằm cuộn tròn dưới chân hoàng tổ mẫu ngẩng đầu, giương cặp mắt linh động lên nhìn cậu vẻ dò xét. Nó vừa trông thấy Chu Ly đứng gần đó, liền quật mạnh đuôi nhảy vọt lên, nghe véo một tiếng, đã hạ xuống trên đầu Chu Ly. Chu Ly hí dài, dựng thẳng hai chân trước, muốn hất Tuyết Ô xuống. Song Tuyết Ô nhẹ bẫng nên nào dễ hất xuống được, ngược lại, làm cho A Kiều tỉnh giấc.

“Hoàng tổ mẫu”, Lưu Việt trừng mắt nhìn Chu Ly và Tuyết Ô rồi lén nhìn A Kiều vẻ biết lỗi: “Là cháu không tốt, để Chu Ly làm kinh động đến người.”

“Không sao.” A Kiều mỉm cười đáp rồi nhìn Chu Ly và Tuyết Ô chơi đùa, rõ ràng một lớn một nhỏ, một đỏ một trắng, một như lửa một như băng nhưng trong lúc này lại dung hợp vói nhau vô cùng hài hòa.
Last edited by tuvi on 20 Jan 2020, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 97 ... Vĩ thanh: Đời người bước đến lúc tận cùng (2)

Cuối năm Chinh Hòa thứ ba, quân Hán diệt nước Xa Sư. Sau mấy năm lấy niên hiệu Chinh Hòa, Lưu Triệt đổi sang niên hiệu Hậu Nguyên, đây cũng là niên hiệu cuối cùng của triều Hán Vũ. Năm Hậu Nguyên đầu tiên, Hoàng đế và Hoàng hậu cùng tới cung Cam Tuyền, Trưởng thị vệ Mã Hà La theo hầu có ý đồ phản bội hành thích đế vương nhưng bị hôn phu của Công chúa Duyệt Trữ là Kim Nhật Đan phát hiện, bắt giữ tại trận. Hoàng đế nổi giận, tru di cửu tộc Mã Hà La, phong thưởng Kim Nhật Đan được hưởng thực ấp một ngàn lẻ năm hộ.

Đêm hôm đó, Trần A Kiều nằm trong lòng Lưu Triệt mà vẫn không hết lo sợ. Không phải nàng lo sợ vì Mã Hà La phản bội mà vì nàng hiểu rõ hơn ai hết mái tóc phu quân của mình đã chuyển màu bạc trắng. Bọn họ đã sống quá lâu trên thế gian này và giờ cũng tới lúc ông trời muốn lấy lại ân sủng. Người đàn ông bầu bạn bên cạnh nàng suốt bao năm sắp qua đời, sẽ rời xa nàng mãi mãi không bao giờ trở lại. Nàng không muốn tin vào sự thật tàn khốc đó nhưng lại không thể thuyết phục bản thân mình. Nàng không muốn y rời xa, nhưng chẳng có cách nào ngăn lại được. Y thuật dù cao minh đến đâu cũng bất lực trước quy luật già lão của tự nhiên.

Tháng Hai năm Hậu Nguyên thứ hai, Hoàng đế ban chiếu mời các vương gia chư hầu tới gặp mặt ở cung Cam Tuyền. Đại yến hết sức vui vẻ, Hoàng đế rất sảng khoái nhưng bất ngờ lại trúng phải gió lạnh, không ngừng ho khan. Ngự y cẩn thận điều chế thuốc thang để Trần hoàng hậu đích thân cho y uống. Lưu Triệt ngủ một giấc thật say, sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Y thấy Trần A Kiều đang ngồi trên ghế trước giường, ngây người nhìn mình thì lập tức có linh cảm rằng mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa.

Ở tuổi thiếu niên bừng bừng tráng chí kiến công lập nghiệp, y đã từng có lúc cực kỳ sợ hãi khi nghĩ về tuổi già và cái chết, không sao tưởng tượng được hình dáng của bản thân khi hai từ này vận vào mình, nhưng bây giờ, giáp mặt với nó thì lại thấy lòng bình thản. Y thầm cảm thấy may mắn vì luôn có nàng ở bên cạnh trong nửa cuộc đời này.

“Kiều Kiều”, y gọi khẽ, “Nàng biết không? Thời trẻ trẫm từng nghĩ đến lúc mình trăm tuổi thì sẽ bắt tất cả phi tần cung nữ trong chốn hậu cung phải chôn cùng, không lưu lại một ai để phòng ngừa lần nữa phát sinh chuyện Lữ hậu ở Lưu gia.”...(Lữ hậu người Đan Phụ (nay là huyện Đan tỉnh Sơn Đông) là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Bà là người phụ nữ tàn ác, chuyên quyền. Sau khi Hán Cao Tổ mất, con trai bà là Huệ đế làm vua nhưng toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay bà. Huệ đế buồn phiền sinh bệnh chết, Lữ hậu nắm giữ chính quyền, phong tước phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đàn áp con cháu họ Lưu, đối với những người không nghe lời, Lữ hậu giết không tha, số người bị Lữ hậu giết nhiều tới nỗi chính bà cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ hậu chết, thiên hạ thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ ba của Lưu Bang).

Y nhìn chằm chằm vào mặt nàng với hy vọng có thể thấy thoáng kinh sợ, vì dù sao thì thủ đoạn này cùng quá tàn khốc, từ cổ chí kim chưa từng có ai làm, thế nhưng A Kiều chỉ òa khóc nức nở, nước mắt chan hòa rơi xuống tay y từng giọt từng giọt nóng hổi, làm lòng y tan nát. Đã nói tới mức như vậy, có phải ngay cả bản thân y thừa nhận sẽ có một điểm cuối của cuộc đời?

“Đừng khóc nữa.” Lưu Triệt bất đắc đĩ than thở “bây giờ thì trẫm sao nỡ động tới Kiều Kiều. Hơn nữa Thái tử sáng suốt, Kiều Kiều lại không hề có dã tâm, chẳng cần nói tới chuyện này nữa.”

“Những người còn lại trong cung Vị Ương”, ánh mắt y lóe lên tia lạnh lẽo. “dù có hợp sức lại với nhau cũng không phải là đối thủ của Kiều Kiều, trẫm cũng không cần động đến bọn họ.”

Tháng Hai, thánh giá lên đường trở về Trường An, nào ngờ đang đi bệnh tình trở nên trầm trọng hơn nên đành phải dừng lại ở cung Ngũ Tộ. Trần hoàng hậu truyền ý chỉ, lệnh cho các hoàng tử hoàng nữ ở khắp nơi tập trung về cung Ngũ Tộ, cũng niệm tình cha con mà đặc cách cho phép cả Lưu Hoành đang bị giam lỏng ở Bắc cung được đi theo Thái tử đến.

Lưu Triệt lướt nhìn bốn đứa con trai, sáu đứa con gái trước mặt, thầm cười lạnh. A Kiều luôn tin tưởng rằng trong lòng mọi người ít nhiều đều có tính chân thiện mỹ, nhưng theo như y thấy thì mấy đứa con gái cùng có bộ dạng bi thương nhưng chỉ có một mình Duyệt Trữ là chân thành.

“Mạch Nhi”, rất hiếm khi y gọi con mình thân thiết như thế, “Con phải nhớ kỹ rằng ngày sau thừa kế giang sơn Đại Hán của trẫm, dù phải trên hiếu kính với mẫu thân, dưới bao bọc đệ, muội, nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, không được quá e dè.” Tề vương Lưu Cứ đang quỳ ở phía sau Lưu Mạch nghe thấy vậy ứa lệ, rét lạnh trong lòng vì biết rằng đây là lời cảnh cáo cuối cùng của phụ hoàng với hắn. Nhưng có một số chuyện dù biết cũng chẳng đặng đừng.

“Phụ hoàng”, Lưu Sơ nắm tay y, nước mắt giàn giụa.

“Được rồi, Sơ Nhi.” Trong suốt cuộc đời này y vẫn luôn kiên quyết không chịu gọi con gái bằng tên mụ như A Kiều thường gọi, “Con đã có mẫu hậu và ca ca chiếu cố rồi, phụ hoàng không còn gì phải lo lắng nữa.” Y nhìn qua tất cả các con trai, con gái một vòng, nhìn đến cả Di An mà y rất ít khi gặp, rồi phất tay, “Các con ra ngoài hết đi.”

Mấy đứa con đều biết, Hoàng đế muốn ở lại với Hoàng hậu một chút nên lặng lẽ thối lui. Y ho khan vài tiếng, quay đầu định gọi A Kiều nhưng đột nhiên ngưng bặt. A Kiều vẫn đứng bên cạnh, hơi cúi đầu, vẻ ưu tư. Y nhớ lại người con gái năm xưa đã gặp.

“Kiều Kiều.” Y gọi rất chậm.

Trần A Kiều giật mình bước tới bên cạnh, nắm lấy tay y. Cánh tay y gầy đét, bàn tay từng rất có lực nhưng giờ ngay cả việc nắm lấy tay nàng cũng khó khăn. Chỉ là dù sao hai người cũng đã làm được như câu “vợ chồng nắm tay nhau đến bạc đầu”. Nàng đã từng cho rằng không thể đạt được như câu nói này, y lại dùng hơn ba mươi năm để thực hiện nó. Nàng nghĩ, nàng không có tư cách để hoài nghi nhưng vẫn muốn hỏi một câu rằng, y có từng hối hận về chuyện năm xưa? Khi y nhướng mày, nhìn nàng sâu thẳm, “Trẫm không hối hận” thì nàng mới phát hiện mình vừa vô tình, buột miệng hỏi thành lời.

“Trẫm biết rằng quyết định năm đó của trẫm khiến nàng đau đớn, oán hận suốt đời, nhưng trẫm không hề hối hận. Bởi vì nếu không phải như thế thì sao trẫm có được nàng như ngày hôm nay. Cho nên, ngay cả khi thời gian có quay trở lại, ngay cả có mỏi mòn đau đớn vì phải làm tổn thương nàng thì trẫm sẽ vẫn một lần nữa lựa chọn cách làm như vậy.” Y khẽ nhíu mày. Y vốn không quen nói chuyện rõ ràng, nhưng đã đến lúc này thì còn điều gì là không thể nói?

Lưu Triệt khẽ thở một hơi thật dài, nhìn Trần A Kiều: “Trẫm thích A Kiều của năm xưa và lấy làm tiếc vì đã phụ lòng tin cậy của nàng. Nhưng người trẫm yêu là Kiều Kiều của bây giờ.”

A Kiều sững sờ, ngước lên nhìn thẳng vào đôi mắt y. Chúng rất sáng, toát lên vẻ thấu hiểu. Nàng chợt hiểu, cắn chặt môi không thể nào tin nổi, nước mắt nhạt nhòa không còn trông rõ ánh mắt của y, chỉ còn nghe tiếng rủ rỉ bên tai, “Sau khi trẫm mất”, y hơi ngừng lại rồi nói tiếp, “Mậu Lăng được xây dựng đã nhiều năm, chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn thành nhưng quy chế của tổ tiên tuy cho Hoàng đế và Hoàng hậu cùng lăng nhưng không cùng tẩm, càng không cho cùng bậc. Trẫm lại không muốn tách rời Kiều Kiều nên đành phải tòng quyền thôi (ứng phó linh hoạt tùy theo hoàn cảnh, không cố chấp, không câu nệ).. Trẫm đã viết trong di chiếu về chuyện này, Kiều Kiều xem là sẽ hiểu.”

Trên đời này không có điều gì là hoàn toàn bí mật. Hơn nữa người mà y gần gũi ngày đêm là một người thông minh biết nhường nào. Y cứ cho là mình giữ được bí mật nhưng lại không hay rằng người bên cạnh đã biết rõ, chỉ là không nói ra mà thôi. Hai người dù yêu nhau đến đâu cũng vẫn là hai người, vĩnh viễn không thể hợp thành một. Cả hai cùng tự cho là mình hiểu rõ lẫn nhau, thật ra trong nội tâm sâu thẳm vẫn có một khoảng không thể nhìn tới, hoặc là nhìn thấy nhưng chẳng thể làm được gì. Dù có gần gũi đến đâu thì tâm hồn cũng không chạm tới được.

Nàng chẳng còn để ý đến việc nàng yêu y thì y có yêu mình hay không nữa, mà chỉ thấy tình yêu dần khiến nàng bớt đi sự hờ hững lạnh đạm. Vào năm sau khi từ lễ Phong Thiện trở về, nàng sẽ bỏ qua những chuyện năm xưa, chỉ cần y không nhắc đến thì nàng cũng sẽ im lặng.

Nàng có thể không nghĩ tới những tổn thương, coi như không nhìn thấy vết sẹo trong lòng nên không đau đớn. Nhưng nàng không thể không nghĩ xem rốt cuộc y yêu là yêu bản thân nàng hay yêu vì cảm thấy có lỗi với A Kiều năm xưa. Trần A Kiều, ngươi đừng vô vị như vậy, quá khứ hay hiện tại đều chẳng phải là một mình ngươi sao? Nhưng sự thật có phải là thế? Suy nghĩ này dù không nặng nề nhưng chất chứa trong lòng lâu ngày cũng thành một nỗi ám ảnh. Hôm nay y đã nói là yêu bản thân nàng. Bọn họ ở bên nhau suốt bao năm, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, quấn quýt không rời nhưng chưa hề nói một chữ yêu. Nàng cho là mình giữ một bí mật động trời nhưng nào ngờ y đã biết từ lâu. Y cho là nàng hiểu được tình yêu của mình nhưng đâu hay rằng nếu không nói ra thì nàng vẫn luôn ám ảnh nghi ngờ. Bọn họ đều là những người quá kín đáo, có cảm thụ về nhau nhưng lại không chịu nói thành lời.

“Kiều Kiều, đừng thương tâm nữa.” Lưu Triệt dịu dàng, “Trẫm đăng cơ năm mười bảy tuổi, năm nay đã bảy mươi, tại vị hơn năm mươi năm cũng đủ rồi, chẳng còn gì tiếc nuối nữa. Trẫm ở Mậu Lăng chờ nàng, tới giờ cũng chẳng biết là nên cầu mong cho Kiều Kiều sống lâu thêm một chút hay mong Kiều Kiều đến với trẫm sớm hơn một chút.”

Ngày Đinh mão, Lưu Triệt băng hà ở cung Ngũ Tộ, thọ bảy mươi tuổi. Ngày Giáp thân tháng Ba, y được chôn cất ở Mậu Lăng, lấy thụy hiệu là Vũ, chính là Hiếu Vũ Đế. Hoàng tử để tang chưa đầy một tháng thì Tề vương Lưu Cứ làm phản, viện lý do rằng Thái tử Lưu Mạch là con của Trần A Kiều sinh khi lưu lạc ở ngoài cung, chưa chắc là con của Vũ Đế. Lúc hịch văn dấy loạn truyền tới tay Lưu Mạch, hắn chỉ cười lạnh. Lưu Cứ quả thật đã nóng lòng đến loạn trí rồi, suốt bao nhiêu năm qua, không có ai dám hoài nghi về việc này chẳng phải vì tướng mạo của hắn và Vũ hoàng đế giống nhau như đúc sao? Nhưng nếu Lưu Cứ không phản lúc này mà đợi đến khi Lưu Mạch dùng ngôi vị thái tử ổn định thiên hạ thì chắc chắn Lưu Cứ sẽ hết cách.

Tháng Tư, sau khi hết ba mươi sáu ngày mãn tang, Lưu Mạch đăng cơ hoàng đế; hiệu lệnh toàn bộ Đại Hán, chính là Chiêu hoàng đế sau này. Hắn tôn mẫu thân Trần A Kiều làm Hoàng thái hậu, theo như tổ chế chuyển tới cung Trường Nhạc. Lập chính thê Thượng Quan Linh làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu, muội muội Lưu Sơ làm Duyệt Trữ trưởng công chúa, trưởng nữ Lưu Yêu được phong làm Dương Hà công chúa. Ngoại trừ đất Tề, chúng thần đều thần phục, kinh sư Trường An vẫn duy trì ổn định.

Tháng Tám, Lưu Cứ bị đánh bại. Đại tướng Tiết Thực chém Ninh Triệt, tuân theo thánh ý, giải Lưu Cứ về Trường An. Tội mưu phản vốn không thể tha nhưng Lưu Mạch mới mãn tang phụ hoàng chưa lâu, không đành lòng để phụ hoàng khó an giấc dưới suối vàng bởi cảnh huynh đệ tương tàn nên tha mạng cho Lưu Cứ, phế làm thứ dân, giam lỏng cả đời ở cung Ngũ Tộ.

Trần A Kiều ở trong cung Trường Nhạc ôm Tuyết Ô cũng biết được hết thảy. Nàng biết con trai mình đủ khôn khéo và từng trải nên không lo nó không xử lý được những chuyện nhỏ này. Bản thân nàng đã kiệt sức trước những bi thương liên tiếp kéo đến, chẳng thể để ý. Sau khi Lưu Triệt mất, nàng chuyển ra ngoài Trường Môn, không muốn ở lại nơi mà nhìn đâu cũng vấn vương hình bóng của y. Nhưng nàng lại quên rằng cung Trường Nhạc cũng không phải chỗ yên vui gì. Đó là nơi nàng lớn lên từ nhỏ, lưu giữ bao nhiêu ký ức vui vẻ với y thuở còn niên thiếu. Có thể nói, thành Trường An, Đại Hán, thậm chí cả thiên hạ này đều có bóng dáng của y, dù nhắm mắt che tai vẫn còn hiển hiện. Cuối cùng nàng bất lực, cứ để mặc cho nỗi nhớ nhung giày vò.

Nàng tưởng nhớ về ánh mắt của y, gương mặt của y, nét đáng yêu của y khi còn nhỏ, vẻ âm trầm khi trẻ trung, sau cùng lại tràn ngập yêu thương. Từ trước đến giờ nàng vẫn không thể đoán được đến lúc cuối cùng, hồi tưởng về chuyện thời niên thiếu thì mình sẽ có cảm giác thế nào. Giờ nàng rốt cuộc đã biết. Nàng nhớ về căn phòng ngoài của điện Tiêu Phòng hun hút gió năm xưa, y tỏ vẻ lạnh lẽo, thái độ vô tình, cứ thế bỏ đi. Vào lúc đó nàng cảm thấy buốt giá đến tận xương tủy, cả đời này chắc không thể có giây phút nào lạnh giá hơn. Hôm nay nàng nhớ lại vẫn còn cảm thấy cái lạnh ấy, chỉ là lần này không chỉ có cảm giác đó mà còn có cả niềm đau xót. Đau xót vì y đã vô tình làm tổn thương mình, đau xót vì y đã không còn bên cạnh nữa, nàng có tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thể thấy một người tên Lưu Triệt gọi nàng một tiếng Kiều Kiều. Điều trớ trêu là, nếu y không rời khỏi thế gian này thì nàng lại không thể yêu thương y hết mình.

Sau khi Vũ hoàng đế mất được một năm, hoàng đế mới lên ngôi đổi niên hiệu là Hiển Thủy. Trong gia yến mừng năm mới, Lưu Mạch kinh hãi phát hiện thấy một lọn tóc bạc trắng trên mái tóc đen của mẫu thân mình. Chẳng lẽ tương tư lại khiến cho mẫu thân chỉ trong một năm ngắn ngủi đã bạc đầu? Chiêu Đế và Công chúa trưởng Duyệt Trữ lo mẫu thân cô đơn nên không chỉ thường xuyên tự mình tới Trường Nhạc thăm hỏi mà còn bảo con cái tới cùng vui vầy. Nhưng mấy đứa cháu trai phải học tập vất vả, Công chúa Dương Hà lại vừa xuất giá, cuối cùng chỉ có một mình Thuận Hoa là hay tới chơi với A Kiều.

Năm Hiển Thủy đầu tiên, Thuận Hoa đã được mười một tuổi mụ, bắt đầu biết mộng mơ. Dù vẫn nhớ cha mẹ nhưng cô lại thích ở trong Trường Nhạc vắng lặng với ngoại tổ mẫu luôn điềm tĩnh. Rất nhiều năm sau, cô vẫn nhớ tới ngoại tổ mẫu trong những năm Hiển Thủy có mái tóc đen dài đã pha sương nhưng không thể che lấp được vẻ mỹ lệ. Người thường đốt một lò hương rồi ngồi viết chữ hoặc đánh đàn, lúc thời tiết tốt thì bế Tuyết Ô ngồi sưởi nắng mặt trời. Tuyết Ô được người vuốt ve bộ lông cổ dày, nằm duỗi dài biếng nhác. Thỉnh thoảng, ngoại tổ mẫu lại khe khẽ hát mấy khúc ca rất êm đềm mà cô chưa bao giờ nghe thấy. Có một lần, người từng hát rõ cho cô nghe một bài rất thanh thoát mà nhiều năm sau cô có quên đi giai điệu nhưng vẫn còn nhớ rõ ca từ.

“Lúc còn thơ bé rất nghịch ngợm, bà ngoại thường hát để dỗ dành. Mùa hè sau giờ Ngọ, bà ngoại lại hát ru, lời ca như vậy: Trời tối đen muốn mưa rơi, khắp nơi một màu đen.

Ta yêu một người đến quên bản thân, coi người đó là cả thế giới. Nhưng khi ta lẫn lộn với cuộc đời đầy dối trá và lừa lọc, mới tự hỏi phải chăng thế giới khi ta trưởng thành luôn không trọn vẹn. Mỗi ngày ta đều phải đối diện với muôn vạn nẻo đường, ta hoài niệm quá khứ đơn thuần chính là một niềm hạnh phúc nhỏ. Yêu luôn làm cho người ta khóc, làm cho người ta cảm thấy không vừa lòng, bầu trời rất lớn nhưng mịt mờ, ta cô độc một mình. Khi trời tối, ta lại nghĩ tới bài hát, đột nhiên mong đợi cơn mưa bình yên. Hóa ra bà ngoại đã sớm hát cho ta nghe chân ỉý, dù mưa có rơi xuống cũng phải dũng cảm bước tới…”

Lúc đó, cô cho là ngoại tổ mẫu cố ý hát để mình nghe. Rất nhiều năm sau hồi tưởng lại, mới chợt giật mình nhận ra, biết đâu đó chính là ngoại tổ mẫu cảm thương cho cuộc đời mình, bởi vì khi còn bé ngoại tổ mẫu lớn lên ở cung Trường Nhạc. Khi đó chủ nhân của cung Trường Nhạc là Đậu thái hậu, ngoại tổ mẫu của ngoại tổ mẫu.

Người trong cung Trường Nhạc dần lén nghĩ, chẳng lẽ Thuận Hoa quận chúa sẽ trở thành một Hiếu Vũ Trần hoàng hậu khác? Cả hai cùng lớn lên ở cung Trường Nhạc, đều có một hoàng đế là ông ngoại, một hoàng đế là cữu cữu. Thuận Hoa quận chúa cũng có giao tình tốt với hai vị hoàng tử, có thể nói là thanh mai trúc mã. Thanh mai trúc mã là một từ ngữ mỹ lệ trong đoạn thơ “Thiếp phát sơ phúc ngạch, môn tiền chiết họa kịch. Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.”....(Câu thơ “Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi, Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi” trong bài Trường can hành của Lý Bạch).

Chẳng lẽ chỉ có Vũ hoàng đế và Trần thái hậu mới thật sự là thanh mai trúc mã? Có một vị hoàng đế nào đó sẽ làm phu quân của Thuận Hoa? Người đó có yêu nàng cả đời, đến chết vẫn không thôi? Trần A Kiều nghe được lời bàn tán, liền nhíu mày trách mắng: “Nói lung tung gì đó?” Nàng xưa nay vốn ôn hòa, hiếm khi nghiêm mặt nên cung nhân lập tức đều câm như hến. Thuận Hoa thế này đã rất tốt rồi không cần làm một hoàng hậu như vậy để dệt hoa trên gấm nữa. Hoa khoe sắc trên gấm tuy đẹp nhưng Vị Ương lại không phải là một chỗ thích hợp cho hoa khoe sắc, không vào chốn này ngược lại còn là hạnh phúc. Huống chi, huyết thống của nàng và Lưu Triệt đã rất gần nhau, nàng không muốn lại thêm một lần như vậy.

Thuận Hoa không để ý lắm, chỉ thỉnh thoảng thấy Ánh Chu và Phiếu Tử phía sau ngoại tổ mẫu tỏ vẻ thương cảm. Bọn họ đều nói “Thái hậu nhất định là nhớ tói Vũ hoàng đế rồi.”

“Vũ hoàng đế?”, Thuận Hoa thầm nghĩ. Nghe nói, danh hiệu Thuận Hoa của cô chính là được ngoại tổ phụ (Ông ngoại) đích thân ban cho. Lúc cô biết chuyện thì Vũ hoàng đế đã bắt đầu già rồi. Nghe nói ngoại tổ mẫu lớn hơn Vũ hoàng đế hai tuổi nhưng sao đến giờ ngoại tổ mẫu vẫn còn xinh đẹp đến thế? Khó trách mà Vũ hoàng đế yêu người nhiều năm như vậy. Tình yêu là gì chứ?

Thoáng cái đã đến tháng Mười bắt đầu vào mùa đông. Khi những cơn gió bắc đầu mùa thổi qua thành Trường An thì Thuận Hoa ngoan ngoãn cũng gần mười hai tuổi, thỉnh thoảng lại bồn chồn đi tới đi lui trong nhà và cung Trường Nhạc tịch mịch, len lén mang theo thị nữ ra phố, tự nghĩ là đã giấu được nhưng lại không biết các bậc trưởng bối ngầm đồng ý. Bọn họ cũng từng có một thời niên thiếu háo hức như vậy.

Thành Trường An vẫn phồn hoa như cũ, cảnh ồn ào tấp nập không hề bị vụ phản loạn năm trước ảnh hưởng, tiếng người huyên náo cho Thuận Hoa những cảm giác mới mẻ, không nhịn được thò đầu ra khỏi xe. Một cậu bé ăn mày quần áo rách rưới chạy ào ào trên đường, đâm sầm vào một thiếu niên ăn mặc sang trọng định trộm túi tiền của thiếu niên kia nhưng lại bị bắt quả tang, chịu một trận đấm đá chửi rủa. Cậu bé ăn mày cũng là một người quật cường, tuy ngã sóng xoài trên đất nhưng không hề cất tiếng van xin, cặp mắt vẫn ánh lên như sao sáng. Thuận Hoa nhìn cặp mắt đó, sinh lòng thương xót, nếu chẳng may đánh chết người thì thật quá mức. Cô đang định lên tiếng ngăn lại thì một thiếu niên mặc đồ xanh đã tiến tới, mỉm cười nói, “Huynh đài đã dạy dỗ rồi, có thể khoan dung được thì xin hãy độ lượng hơn chăng.”

Lúc này người xem đã vây quanh bốn phía nên Trần Đình không thể xuống thang trước mặt đám đông liền cao giọng: “Ngươi muốn ta tha thì ta phải tha sao?” Hắn vừa nói xong đã biến sắc, thiếu niên mặc đồ xanh kia trông rất văn nhã, đôi tay nhìn cũng không có lực nhưng lại khiến hắn không thể giãy giụa mảy may. Lúc này hắn mới chú ý, ở thắt lưng của thiếu niên có quấn ngang một thanh nhuyễn kiếm, tuy lưỡi kiếm còn nằm trong vỏ nhưng vẫn không thể che lấp sự sắc bén.

“Đấu rượu Tân Phong giá chục ngàn,

Thiếu niên du hiệp đất Trường An

Tương đồng chí khí cùng nâng chén

Buộc ngựa lầu cao liễu thẳng hàng.”

Bài thơ nổi tiếng về du hiệp này tương truyền là do Trần thái hậu viết ra năm xưa. Thoạt nhìn thì thiếu niên mặc đồ xanh hẳn là một du hiệp.

Trần Đình đã hơi biến sắc, nhưng vẫn cố làm bộ hùng hổ: “Ngươi biết ta là ai không?” Hắn nghĩ đến việc này thì lại thêm phần tự tin, ưỡn ngực nói: “Nói cho ngươi biết, Trần thái hậu trong cung Trường Nhạc hiện nay là cô nãi nãi của ta đây.”

“Ổ.” Dân chúng bốn phía đồng loạt ồ lên, hóa ra là con cháu Trần gia.

“Thật à?” Thiếu niên mặc đồ xanh cười vang, nói vẻ hài hước “Thật là trùng hợp, tính ra thì Trần thái hậu cũng là sư cô của ta đây. Như vậy chẳng phải vai vế ngươi thấp hơn ta rồi sao? Nào, chào một tiếng thế thúc đi…(Cách xưng hô với người bằng hữu nhỏ tuổi hơn cha của mình)”

Sắc mặt Trần Đình trở nên xám xịt. Năm xưa Trần thái hậu lưu lạc ngoài cung đúng thật đã từng bái làm đệ tử của môn phái du hiệp đệ nhất thiên hạ. Theo lời đồn, năm xưa bệ hạ từng muốn thanh trừng du hiệp nhưng nể mặt Trần hoàng hậu nên mới chịu bỏ qua. Bản thân các du hiệp sau đó khi tung hoành thiên hạ cũng bớt phóng túng nên hết thảy bình an vô sự. Hắn chẳng biết đáng tin hay không nhưng cũng dần nhụt chí, đành nói mấy câu khách sáo rồi bỏ đi. Cậu bé ăn mày bò dậy, nói: “Đa tạ cứu giúp.” Cậu cúi đầu thật sâu nhưng bị thiếu niên ngăn lại, thở dài, “Ta không mong ngươi tạ ơn, nhưng ngươi cũng không ăn trộm được gì của ta đâu vì trên người ta không có đồng nào.”

Hắn nghe thấy tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ phía sau truyền đến liền quay đầu lại, thấy một thiếu nữ còn nhỏ tuổi đang nhìn mình. Cô xinh đẹp tuyệt trần, mặc bộ y phục may từ gấm vân sa dù có tiền cũng khó mua được.

“Được rồi.” Thuận Hoa ném ra một xâu tiền Ngũ Thù lớn “Ta không cần ngươi trộm, đưa luôn cho ngươi là được.” Nhìn nụ cười hiền hậu của cô, cậu bé ăn mày bất giác đỏ mặt lùi lại một bước, vòng tay lên bái, nói: “Vốn ta không muốn lấy tiền của tiểu thư nhưng bất đắc dĩ nhà có việc cần dùng gấp, xin ghi nhớ ân huệ của tiểu thư.” Cậu nói xong không hề liếc mắt nhìn bọn họ, xoay người rời đi.

Quách Lãng ra vẻ bất bình, “Ta cứu mạng của hắn mà hắn lại tạ ơn người khác, như vậy chẳng phải là nhất bên trọng nhất bên khinh ư?”

Thuận Hoa hé miệng cười để lộ chiếc lúm đồng tiền, “Ta vừa nghe ngươi nói là sư chất (Sư chất ở đây có nghĩa là cháu của sư phụ Trần A Kiều) của Trần thái hậu có đúng không?”

Quách Lãng liếc thấy miếng ngọc bội có đóng dấu hoàng gia đeo bên thắt lưng liền suy đoán được thân phận của cô, bình thản nói, “Tất nhiên rồi.”

“Như vậy”, Thuận Hoa háo hức hỏi, “ngoại tổ Thái hậu nương nương đã làm những việc gì lúc ở ngoài cung vậy?”

“Lúc ta ra đời thì Hoàng hậu nương nương đã hồi cung lâu rồi.” Quách Lãng nói, “Chỉ nghe cha mẹ có kể rằng năm xưa Trần sư cô bị người ta đuổi giết, được sư thúc tổ cứu mạng nên bái làm môn hạ, dẫn theo hai người con trở lại Đường Cổ Lạp Sơn ở mấy năm mãi tới đại chiến Hán Hung sau đó mới xuống núi.”

Thuận Hoa nghe vậy liền ra sức đoán chuyện năm xưa. Nếu ngoại tổ mẫu từng bị truy sát thì hồi đó Vũ hoàng đế có biết hay không? Chắc là người không biết, nếu không thì làm sao có thể để người vợ kết tóc của mình lưu lạc nhiều năm bên ngoài như vậy. Nhiều năm sau gặp lại, Vũ hoàng đế chắc hết sức vui mừng? Cô nhớ bản thân từ khi hiểu chuyện tới nay vẫn luôn chứng kiến tình cảm ân ái mặn nồng đẹp đẽ của Hoàng đế và Hoàng hậu trong điện Trường Môn. Ngày sau liệu cô có được như vậy? Thuận Hoa suy nghĩ vẩn vơ, ngẩng đầu lên bỗng vô tình bắt gặp gương mặt tuấn tú của Quách Lãng thì tự dưng thấy mặt mình nóng bừng.

Đến mùa xuân năm Hiển Thủy thứ hai, Kim Nhật Đan đưa Thuận Hoa về phủ đón năm mới. Lúc cô đi là ban ngày nên cung Trường Nhạc còn náo nhiệt, nhưng đến buổi tối tĩnh mịch thì Trần A Kiều mới cảm thấy trống trải. Chiếc giường trong cung Trường Nhạc rất rộng, rất mềm mại thư thái, nàng xoay nghiêng người và cảm giác thấy bên cạnh hụt hẫng, người bầu bạn bao năm qua với mình đã không còn nữa. Nàng thấy cay cay ở sống mũi, vội vàng mở mắt để xua đi nỗi buồn bã rồi đứng dậy khoác thêm chiếc áo ngoài và đi tới trước cửa sổ. Trên bầu trời đêm đông giá lạnh có ngàn sao đang lấp lánh, ngôi sao nào là ánh mắt của y đang ngắm nhìn nàng? Y xưa nay vẫn luôn khí phách không cho phép nàng cự tuyệt, nếu thật sự mỗi ngôi sao là đại biểu cho một linh hồn thì y nhất định sẽ lấy bóng đém làm cánh tay ôm siết. Nàng đã phải mất tận một năm mới học được cách không để lòng dậy sóng khi nhớ nhung y, nhưng đêm nay, chỉ riêng một đêm nay lại khiến nàng nhớ thương vừa dịu dàng vừa mãnh liệt.

Sáng hôm sau, Trần thái hậu lâm bệnh trầm kha, không thể ngồi dậy. Chiêu Đế lo lắng, tuyên các ngự y vào chữa trị. Bọn họ đều nói Thải hậu nương nương lúc còn trẻ đã mấy lần bị trọng thương động tới căn cốt, giờ tuổi cao mới phát nên không có cách gì cứu vãn. Lưu Mạch tức giận nghiến răng ken két, nhớ tới Triêu Thiên môn ngoài kiếm thuật cũng rất giỏi về y thuật bèn phái người không quản đường xa vạn dặm tới Đường Cổ Lạp Sơn cầu người. Trường An cách Đường Cổ Lạp Sơn cực xa, lúc mời được người về thì đã là tháng Năm.

Tính ra thì Tiêu Phương cũng đã già lắm rồi nhưng khi Lưu Mạch lần đầu tiên trông thấy ông đứng trên hành lang cung Trường Nhạc quay đầu nhìn lại thì trong đầu vẫn như cũ nghĩ đến hai từ ấm áp. Một vẻ ấm áp vượt qua những nét đẹp bên ngoài, thấm sâu vào tâm can người đối diện.

“Sư công.” Hắn gật đầu chào hỏi, liếc nhìn cô gái đứng sau Tiêu Phương, cảm giác khá bất ngờ. Thời gian đã trôi qua hơn hai mươi năm, kiều nữ hồng nhan năm đó đã già đi, khuôn mặt cũng trở nên tròn trịa hơn. Nàng khẽ dập đầu bái lạy: “Dân nữ tham kiến bệ hạ.”

“Năm đó cô ấy được người cứu giúp rồi lưu lạc đến làm môn hạ của ta.” Tiêu Phương biết hắn nghi ngờ nên giải thích.

Người ra tay cứu giúp kia biết khúc mắc cùa nàng với hoàng gia, không muốn dẫn lửa thiêu thân nhưng lại không nỡ bỏ mặc người con gái yếu đuối không cứu giúp, nên mách bảo Thượng Quan Vân ngàn dặm tìm tới. Năm đó, Tiêu Phương gặp người thiếu nữ này dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn. Chỉ qua một tháng gió sương đã làm mất đi hoàn toàn sự kiêu ngạo của cô, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ quật cường. Vẻ quật cường đó khiến Tiêu Phương bất giác nhớ lại sắc mặt tái nhợt của Nhạn Thanh lúc té ngã ở ngoài thành Trường An năm xưa.

“Triêu Thiên môn được xưng Y kiếm song tuyệt nhưng sau ta thì người học y chỉ có một mình mẫu thân người. Mẫu thân người ở địa vị cao, không cách nào tĩnh tâm học tiếp nên ta đành phải tìm người truyền y bát (Cụm từ xuất phát từ Phật giáo. Y và bát là hai vật được đức Phật coi trọng, truyền lại cho đệ tử, tương trưng cho việc truyền thụ và kế thừa Phật pháp. Cụm từ truyền y bát còn được hiểu rộng là sự truyền thụ và kế thừa sự nghiệp của sư phụ).”

Vũ hoàng đế đã mất, Tề vương Lưu Cứ lại bị phế làm thứ dân, Lưu Mạch dĩ nhiên không muốn không nể mặt Tiêu Phương mà cứ thế trị tội chị gái của vợ mình vì những chuyện trước kia, mỉm cười nói, “Sư công đã đến thì mời vào thăm mẫu thân đi.”

Trước đây Tiêu Phương đã từng tới cung Trường Nhạc không ít lần. Khi đó, chủ nhân của cung Trường Nhạc là Vương thái hậu, bây giờ đã đổi tới Nhạn Nhi. Trần A Kiều nghe tiếng bước chân, liền quay đầu lại, nhìn thấy Tiêu Phương thì sững người giây lát rồi dịu dàng mỉm cười cất tiếng chào: “Sư phụ.” Thượng Quan Vân thấy người mà lòng xót xa, bao nhiêu năm đã qua rồi và Trần hoàng hậu xinh đẹp ở Lâm Phần ngày nào bây giờ rốt cục cũng đã già.

Tiêu Phương bắt mạch kê đơn. Sau khi xong chuyện, vì đàn ông bên ngoài không được ở trong cung nên ông đành rời đi, để Thượng Quan Vân ở lại chăm sóc Trần thái hậu. Trần thái hậu uống thuốc xong, chợt bật cười, “Không ngờ vận mệnh thật kỳ lạ, ngươi lại trở thành sư muội của ta.”

“Thái hậu nương nương nói quá rồi, dân nữ không dám nhận.” Thượng Quan Vân thản nhiên đáp, hai người đàn ông quan trọng nhất trong cuộc đời cô đều có liên quan đến người phụ nữ này thật là kỳ lạ!

“Thái hậu nương nương.” Ánh Chu vén rèm bẩm, “Hoàng hậu nương nương tới đây thỉnh an.”

A Kiều gật đầu: “Bảo Hoàng hậu vào đi”, nói xong quay sang bảo Thượng Quan Vân: “Tỷ muội các ngươi đã không gặp nhau nhiều năm rồi, nói chuyện thoải mái một chút.”

Thượng Quan Vân ngước lên nhìn muội muội đang ung dung tiến vào. Đã nhiều năm không gặp, thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần năm xưa đã ra dáng một bậc mẫu nghi thiên hạ, cúi nhìn lại thấy mình thật sự lại giống như một người phụ nữ nông thôn. Nhưng ít ra như vậy còn tốt hơn là năm đó gả cho Tề vương, để sau này lại xảy ra chuyện binh đao. Thượng Quan Linh cũng đánh giá qua người tỷ tỷ xa cách nhiều năm, vẻ kiêu ngạo thời trẻ đã mất đi, hiện rõ vẻ đằm thắm. Tỷ tỷ vốn đẹp hơn cô, giờ lại càng như vậy. Cô mỉm cười, nắm tay Thượng Quan Vân, nước mắt rưng rưng, chân thành nói: “Lần này tỷ tỷ trở về hãy ở lại luôn nhé. Ca ca đã khôi phục chức quan, sau này ba huynh muội chúng ta sẽ đoàn tụ có được không?”

Cô không ngờ Thượng Quan Vân lại chầm chậm rút tay về, nói khẽ nhưng cương quyết: “Duyên tới thì tụ, duyên hết thì tán. Hoàng hậu nương nương đừng cưỡng cầu khi duyên phận tỷ muội giữa chúng ta đã hết.”

A Kiều ở một bên nghe, nhướng mày cười nói, “Vân Nhi nói vậy dường như đã tham khảo Phật pháp rồi.” Thượng Quan Vân cúi đầu, ‘Đúng vậy. Những năm trước đây khi còn là thái tử thì bệ hạ đã từng đi sứ Thân Độc. Từ đó một tôn giáo của Thân Độc đã theo con đường giao thương giữa Đại Hán và Thân Độc mà lưu truyền sang Đại Hán. Sư phụ đã một lần được nghe thuyết giảng và cảm thấy rất hứng thú nên những năm qua vẫn thường đọc kinh Phật. Vân Nhi hầu hạ ở bên cạnh sư phụ, dĩ nhiên mưa mãi cũng thấm.”

Cô ngước lên trông thấy sắc mặt trang nghiêm của A Kiều, liền thôi không nói nữa mà nghe A Kiều niệm đều đều, “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại (Trong quan niệm nhà Phật, tứ đại để chỉ vật chất) là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình , ví như kẻ bị nhặm mắt, thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai.”..(Trong giáo lý nhà Phật có ba khái niệm cơ bản là lục căn, lục trần và lục thức. Lục căn là sáu giác quan của con người, lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra lục thức. Nếu tâm không tĩnh thì cái thức chúng ta nhận được sẽ là ảo ảnh, hay chính là huyễn ảnh )

“Đây là Viên giác kinh mà sư phụ thường đọc. Thái hậu nương nương cũng học Phật Sao?” Cô hơi kinh ngạc nhưng thoáng cái đã hiểu, chuyện này xảy ra trước khi cô nhập môn và không liên quan gì đến cô cả.

Trần A Kiều nhớ lại năm Nguyên Quang thứ năm từ thời gian đó tới giờ sao thật xa xôi cứ giống như đã qua một kiếp người. Lúc đó Mạch Nhi và Tảo Tảo còn chưa ra đời, nàng vẫn chỉ là Nhạn Thanh. Ngày đó nàng nhìn sư phụ chằm chằm, cười khanh khách “Gặp sư phụ thì mới biết được cái gì là ‘Quân tử khiêm cung, sáng láng như ngọc’.”

“Thật không?” Hắn không tức giận, chỉ đáp vẻ cáu kỉnh, ngay cả cặp mày cũng không nhướng lên.

“Đúng vậy.” Nàng gật đầu như có thật, “Khi còn bé, mẫu thân từng đọc một đoạn kinh văn, con đọc cho sư phụ nghe: Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai….”

Những tháng ngày đó vui vẻ, trong trẻo như dòng suối mùa xuân. Nếu như, nếu như không phải xảy ra những chuyện sau đó mà cứ sống như vậy cũng là một loại hạnh phúc. Nhưng đời người nào có được bao nhiêu chữ “Nếu như” chứ? Nếu nói trong cuộc đời này, người có lỗi với nàng nhất là Lưu Triệt, vậy người mà nàng có lỗi nhất thì không thể nghi ngờ, chính là Tiêu Phương.

Nửa tháng sau đó, Lưu Mạch xử lý xong chính sự ở điện Tuyên Thất liền tới cung Trường Nhạc thỉnh an mẫu thân. Cung nhân nói cho hắn biết Thái hậu nương nương đã ra khỏi điện. Hắn thong thả bước trên hành lang cung Trường Nhạc, bỗng nhiên dừng lại, nhìn thấy mẫu thân và sư công đang ở cùng nhau tại sơn đình phía trước, cách nhau một khoảng không xa cũng không gần. Có một số người trên thế gian này, ngay cả tuổi già cũng không thể lấy đi vẻ đẹp của họ, ngược lại lắng đọng lên men qua năm tháng, ủ ra một vẻ đẹp thuần khiết. Mẫu thân và sư công, không thể nghi ngờ là hai người trong số đó.

Ngoài đình lất phất mấy cánh hoa hạnh, lẻ loi xoáy tròn trong không trung, Trần A Kiều bắt lấy một cánh, chầm chậm vo tròn, thở dài, nói: “Nếu như Nhạn Nhi chỉ đơn thuần là Nhạn Nhi, chắc sẽ lựa chọn ở lại bên cạnh sư phụ.” Chỉ tiếc rằng nàng không phải như vậy.

Tiêu Phương cảm giác một nỗi đau đớn dịu dàng dâng lên trong lòng, nhưng ông ôm mối tình câm nửa cuộc đời, có được một câu này cũng tốt. Ông không muốn nàng khó xử, hỏi, “Vậy kiếp sau con chỉ là Nhạn Nhi được không?

“Kiếp sau?” A Kiều nhìn ra xa, “Con vốn không tin kiếp sau, nhưng nếu thực sự có kiếp sau, con không thể hứa hẹn điều gì. Bởi vì con sợ rằng bản thân con ở kiếp sau sẽ tự oán hận mình. Nhưng”, nàng từ từ quay đầu lại, nhìn Tiêu Phương, chân thành nói, “kiếp sau, sư phụ có thể sớm tới tìm con.”

Nếu ông tới gặp nàng trước Lưu Triệt, biết đâu lại có một kết cục khác. Chẳng qua, nàng rất hoài nghi, một người có tính cách ngang tàng như Lưu Triệt chắc chắn sẽ không để xảy ra chuyện như vậy.

“Được rồi.” Tièu Phương gật đầu.

Lại qua mấy ngày, khí trời mát mẻ. Đám cung nhân đỡ Thái hậu nhẹ nhàng hỏi, “Người có muốn chuẩn bị ghế nằm ở ngoài điện không?”

“Không cần.” Nàng như có điều suy nghĩ lắc đầu, nói: “Ta muốn trở về xem lại điện Trường Môn.”

Cung nhân hơi kinh ngạc. Từ sau khi Vũ hoàng đế mất đi thì Trần thái hậu chưa bao giờ trở lại điện Trường Môn cả, chắc là sợ thấy cảnh nhớ người. Nhưng người các cô hầu hạ là người phụ nữ tôn quý nhất triều Đại Hán, dù cả bệ hạ đến đây cũng không phản đối nên quỳ gối đáp, “Dạ.”

Điện Trường Môn từ lâu không có người ở nhưng vẫn được quét dọn hết sức sạch sẽ. Trần A Kiều nhắm mắt cũng có thể chỉ ra sau chiếc án kia, Lưu Triệt đã từng ôm nàng cùng xem sách, sau tấm bình phong kia, nàng đã từng sửa lại áo mũ cho y, sau tấm màn trướng kia, bọn họ từng vô số lần hoan ái…

Triệt Nhi, thoáng một cái mà người đã rời xa thiếp hai năm rồi. Nàng cho là mình sẽ rơi lệ nhưng bây giờ lại rất bình tĩnh. Bình tĩnh nhìn chỗ ngồi này tràn ngập ký ức giữa y và nàng, vừa đau nhói vừa ngọt ngào.

Mai Phi thời nhà Đường đời sau có viết: “Trường Môn cứ tựa không người quét”...(Bài thơ của Mai Phi trả ngọc châu cho Đường Huyền tông khi không còn được sủng ái:

“Mày liễu không tô lâu lắm rồi

Son thừa nhuốm lệ ở bờ môi

Trường Môn cứ tựa không người quét

Há tặng trân châu để đãi bôi ).”

Y dùng tình yêu của mình biến Trường Môn thành Trung cung vạn người kính ngưỡng không ai sánh bằng. Nếu thật sự còn có một Giang Thải Bình đa tài đa nghệ thì nàng sẽ ra sao ?...(Giang Thải Bình chính là Mai Phi)

A Kiều bước ra khỏi Trường Môn, ngồi xuống tấm bồ đoàn mà cung nhân trải trên chiếc ghế đá bên ngoài điện. Nàng đã cao tuổi nên chỉ lát sau liền ngủ thiếp đi trong ánh nắng ấm áp. Không biết qua bao lâu, nàng bị nhẹ nhàng lay tỉnh, thấy một khuôn mặt quen thuộc với đôi mày sắc như lưỡi kiếm, đôi môi mỏng đang ở gần trong gang tấc, liền ngơ ngẩn gọi, “Triệt Nhi.”

“Mẫu thân”, Lưu Mạch nghe không rõ, gọi lần nữa. Nàng nhìn kỹ lại, than thở: “Là Mạch Nhi à!” Một cảm giác thất vọng mơ hồ dâng lên trong đầu nàng.

Hơn một tháng sau thì Trần thái hậu mất ở cung Trường Nhạc, thọ bảy mươi tuổi nhưng nhìn dung mạo như chưa đầy bốn mươi bốn. Các cung nữ như lệ thường định vào hầu hạ Thái hậu rửa mặt vẫn thấy Thái hậu có vẻ mặt tươi tắn, bờ môi còn hơi mỉm cười nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh dậy thì hoảng hốt, vội vàng đến điện Tuyên Thất bẩm báo với bệ hạ. Nhưng không ngờ bệ hạ có thần giao cách cảm với Thái hậu nên từ sớm đã có dự cảm không lành, chưa đợi cung nữ nói đã vội vã chạy tới cung Trường Nhạc, nhìn dung nhan Trần thái hậu, khóc lên thất thanh.

Trong cung tức thì tràn ngập tiếng khóc lóc khiến Tuyết Ô uốn mình nhảy xuống đất, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi người, không rõ hôm nay có chuyện gì mà đám người kia khóc lóc thống thiết như thế. Có lẽ là nó cũng đã hiểu, người phụ nữ quanh năm bế nó đã không còn ở trên cõi đời này nữa. Theo di chỉ của Vũ hoàng đế, Chiêu Đế chôn cất Trần A Kiều ở cùng chung tẩm với Vũ hoàng đế trong Mậu Lăng. Trong cung để tang ba tháng tưởng niệm Trần thái hậu.

Đến thời điểm hoa đào đua nở vào năm sau, Chiêu Đế tách khỏi mọi người, một mình một ngựa cưỡi Chu Ly tới Mậu Lăng, đứng trầm mặc tưởng niệm ở trước mộ cha mẹ. Cả cuộc đời này cha mẹ của hắn sống được ở bên nhau, khi chết cùng chôn chung huyệt là cặp phu thê ân ái hiếm có trong nhà đế vương. Mẫu thân, đây cũng là mong muốn trong lòng của người phải không? Hắn miên man suy nghĩ.

Hoa đào trong gió rơi lất phất xuống bên mộ trông như mưa máu lại tựa như những giọt nước mắt vừa rực rỡ yêu dị vừa long lanh mỹ lệ. Lưu Mạch khẽ mỉm cười, xoay người dắt Chu Ly rời khỏi khu lăng tẩm hoàng đế rồi lên ngựa, thét lớn: “Đi thôi!”

Chu Ly hí một tràng dài, tung vó phi nhanh về hướng cung Vị Ương, để lại phía sau một vùng trời hoa đào rực rỡ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 98: Ngoại truyện 1: Lên tận trời xanh hay xuống suối vàng

Trong điện Tín Hợp ở Thượng Lâm Uyển, nội thị bưng lên một chén thuốc đã được các ngự y cẩn trọng điều chế rồi cho người thử độc. Lục Y đón lấy, chăm chút đút cho Trần A Kiều. Qua một lúc khá lâu A Kiều vẫn không tỉnh lại khiến Lưu Triệt bắt đầu lo lắng. Dù không hiểu y thuật nhưng y cũng biết rằng chỉ đẻ non mà mê man lâu như vậy thì nhất định là không bình thường. Các ngự y chỉ nói loanh quanh: “Nương nương có thai khi đã lớn tuổi nên vốn đã là nguy hiểm, huống chi… lại bị chấn động mạnh như vậy làm thai nhi bị hỏng.”

Lưu Triệt nghe xong, mi mắt giần giật, cố gắng xua đi ý định tru di cửu tộc đám ngự y luôn vô dụng trong lúc nguy cấp. Ngay cả Tiêu Phương chẩn trị xong cũng nói rằng bệnh tình lần này của A Kiều rất kỳ lạ nên khó trách bọn họ chẳng thể nói được điều gì.

“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý đứng bên ngoài điện khẽ bẩm báo, Công chúa trưởng Quán Đào tới.”

Y ừ một tiếng rồi bảo, “Mời cô cô vào.”

Trưởng công chúa Quán Đào vén rèm bước vào, chưa kịp bái chào đã thấy A Kiều sắc mặt tái nhợt nằm trên giường thì lập tức nghẹn ngào chực khóc. Lưu Triệt chỉ im lặng không nói gì, thầm nghĩ dù cô cô của mình có khát vọng quyền lực mãnh liệt nhưng lại rất mực yêu thương A Kiều. Điều này cũng giống như tình yêu thương vô điều kiện của A Kiều đối với Lưu Mạch và Lưu Sơ, kể cả… đứa con trong bụng nàng nữa. Cho dù y xưa nay vốn cứng rắn nhưng nghĩ tới đứa con vừa bị mất đi thì lòng bất giác lại nhói đau.

“Hoàng thượng”, Trưởng công chúa Quán Đào nói: “Người trở về nghỉ đi. Để A Kiều đấy cho ta chăm sóc.”

Y đã mấy ngày không được ngủ tròn giấc nên nghe vậy liền gật đầu. “Được rồi.” Nếu có ai đó trên cõi đời này không muốn để A Kiều xảy ra chuyện, ngoài y ra thì chỉ có một mình cô cô thế nên y có thể an tâm phó thác A Kiều cho bà. Trong một căn phòng ngách trống trải của ngôi điện, lại không có A Kiều lặng lẽ kề bên khiến Lưu Triệt đột nhiên có cảm giác tĩnh mịch. Y sợ là sẽ không thể nào ngủ được nhưng nào ngờ vẫn mặc nguyên y phục nằm xuống giường đã nhanh chóng thiếp đi. Trong giấc ngủ mê man, y thấy mình đang đi một mình trên hành lang dài có treo những bức vẽ hình chim đại bàng, rõ ràng là quen thuộc nhưng nhất thời lại không nhớ ra đó là cung điện nào. Lưu Triệt khẽ nhíu mày, lẽ ra y đang ở điện Tín Hợp tại Thượng Lâm Uyển chờ A Kiều tỉnh lại nhưng sao chớp mắt một cái đã thấy mình đang ở trong cung điện hoa lệ nhưng trống trải này.

“Dương Đắc Ý”, y lên tiếng gọi nhưng viên Ngự tiền tổng quản vẫn luôn theo sát bên cạnh y lại không lên tiếng trả lời. Có hai người cung nữ tóc tết bím mặc áo ngắn đang từ cuối hành lang đi tới. Người bưng chậu nước than thở, “Trần nương nương lại cáu kỉnh không chịu cho hầu hạ rửa mặt. Nhưng nàng nổi giận với đám nô tỳ chúng ta thì có ích lợi gì chứ?”

Người cung nữ kia trầm ngâm một lát rồi nói: ‘Trần nương nương cũng rất đáng thương, Nàng có thân phận tôn quý như vậy, làm mẫu nghi thiên hạ rồi mà cuối cùng lại bị trục xuất khỏi Trường Môn.”

A Kiều? Lưu Triệt giật mình, thì ra nơi này là Trường Môn, khó trách vừa rồi y không thể nhớ ngay. Trường Môn sau ngày A Kiều trở về thì luôn náo nhiệt vui vẻ, sao lại hoang vắng như vậy? Như thể sầu khổ của thiên hạ đều tập trung vào tòa cung điện nhỏ bé này. Y thấy hai cung nữ vẫn thản nhiên đi ngang qua thì hiểu rằng mọi điều trước mắt chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nhưng giấc mộng này là muốn để cho y nhìn thấy điều gì?

Ánh hoàng hôn phủ xuống Trường Môn đẹp đẽ mà thê lương. Y đã bao nhiêu lần ở Trường Môn ngắm mặt trời lặn nhưng chưa từng chứng kiến cảnh hoàng hôn thê lương như vậy. Một không gian tràn ngập mùi vị buồn bã hòa theo tiếng đàn u hoài đứt quãng, Y lần tới chỗ phát ra tiếng đàn liền trông thấy A Kiều. Là A Kiều ghi khắc trong lòng y.

Lúc đó, A Kiều đã rất gầy gò. Bộ lễ phục màu đỏ mặc trên người nàng không hề toát ra một chút khí sắc mừng vui, phong thái ung dung của bậc mẫu nghi thiên hạ đã hoàn toàn tiêu tán, chỉ thấy một bóng dáng nghiêng nghiêng cô tịch. Nàng đang gảy Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân.

“Trắng như tuyết trên núi,

Sáng tựa nguyệt trong mây.

Nghe chàng sinh lòng khác,

Muốn cự tuyệt tình này.

Hôm nay chung chén rượu,

Mai tiễn biệt đầu sông.

Loạng choạng theo thuyền bước,

Nước cứ chảy tây đông.”

Tiếng đàn rời rạc không thành điệu, qua vài nốt thì giai điệu chợt chuyển sang dồn dập nhưng khúc từ vẫn ai oán.

“Năm xưa kim ốc đổ,

Khiến hai hàng lệ rơi.

Nước mắt làm sao cạn,

Cho hận sầu chơi vơi.”

“Nương nương”, người cung nữ đứng hầu bên cạnh rơi lệ, “Ngươi đừng hát nữa. Người muốn khóc thì cứ khóc đi.”

“Phật” một tiếng, dây đàn đứt tung cắt vào ngón trỏ của Trần A Kiều làm rướm ra một vệt máu nhỏ. Nàng cười lặng lẽ, đứng dậy nặng nhọc quay đầu, đưa cặp mắt trống rỗng nhìn xa xa, chợt trông thấy Lưu Triệt thì khẽ chớp lên nhưng dường như không còn sức níu giữ nữa nên trong giây lát liền nhắm nghiền.

Đây là thời gian nào? Lưu Triệt tự hỏi, chẳng phải y đã quay lại với A Kiều rồi ư? Nhưng sao cặp mắt của A Kiều lại còn sầu, còn khổ, còn cuồng si như thể vừa phải chịu một nỗi uất ức cực độ? Phải rồi, nỗi uất ức y đã gây cho nàng chẳng phải là nỗi uất ức cực độ hay sao? Nàng từng yêu y, từng tin y đến như vậy mà y lại đi tìm niềm vui mới để rồi cuối cùng phế truất nàng, nhẫn tâm gạt bỏ khỏi trí nhớ người con gái từng yêu kiều gọi y là Triệt Nhi, chẳng bao giờ nhìn lại một lần.

Có lẽ, y cũng hiểu rằng nếu ngoảnh đầu lại sẽ không thể nào nhẫn tâm được nữa. Đó là người con gái từ nhỏ đã gọi y là Triệt Nhi, từng có nụ cười xán lạn hơn cả bầu trời thành Trường An vào ngày trong xanh nhất, thế nhưng chỉ vì y mà dần vướng u sầu. Có lấy lý do nào cũng không thể phủ nhận được sự thật là y đã từng rung động trước người con gái này. Nhưng rung động sâu sắc tới đâu cũng không thể ngăn cản y bước về phía trước, để rồi dù có gặp người con gái nào đẹp hơn đi chăng nữa thì cả cuộc đời y cũng sẽ không còn có được những rung động như thuở ban đầu. A Kiều tựa như đang nhìn thấy những điều chưa hề trông thấy nên không hề phát hiện ra tâm trạng biến động của y đang đứng gần trong gang tấc, cứ thế đi thẳng qua. Màn đêm dần buông xuống.

A Kiều bảo tất cả đám người hầu đi hết ra ngoài, một mình ở lại trong điện. Nàng mở cửa sổ ngước nhìn vầng trăng giữa không trung, chắp tay nhắm mắt, khẽ khấn: “Hỡi ông trời.” Y không nghe rõ A Kiều nói những gì, chỉ nhìn thấy vẻ mặt nàng rất thành kính. Ánh trăng biêng biếc soi nghiêng lên hàng mi đen dày rợp trên gương mặt khiến Lưu Triệt chợt dâng lên niềm khao khát muốn đặt môt nụ hôn lên đó. A Kiều, hãy tỉnh lại đi!

“Vũ hoàng đế có thật sự muốn biết Trần hoàng hậu đã nói những gì không?”

Một giọng nói đột ngột vang lên ở phía sau nhưng Lưu Triệt không hề sợ hãi, thản nhiên hỏi, “Cuối cùng thì ngươi cũng xuất hiện?”

“Vậy thì sao?” Một ông lão râu tóc bạc phơ cười ha hả, “Vũ hoàng đế biết rằng lão sẽ tới ư?”

Lưu Triệt quay đầu lại, gằn giọng, “Trẫm nghĩ rằng ngươi có thể làm cho trẫm nằm mộng quay về Trường Môn của nhiều năm trước thì ắt phải có mưu đồ. Rốt cuộc ngươi là ai?”

“Ồ.” Ông lão khẽ mỉm cười, “Vũ hoàng đế nửa đời vẫn cầu thần tiên, sao giờ trông thấy thật thì lại uy hiếp người như thế?”

“Huống chi”, ông lão trông thấy sắc mặt nửa tin nừa ngờ của Lưu Triệt liền cười nhẹ, “tuy Vũ hoàng đế ở trong mộng nhưng cuộc trao đổi này lại không phải là chuyện hoang đường. Đây là Trường Môn của một thời không khác, nếu như không có tác động bên ngoài thì Hiếu Vũ hoàng hậu sẽ phải sống một mình ở Trường Môn hơn hai mươi năm rồi ngậm hờn ra đi. Thế nên Trần A Kiều gặp nạn ở Thượng Lâm Uyển cũng là số mệnh.”

Lòng y chợt nhói buốt, A Kiều lại có thể cứ thế này mà đi sao? Ông lão không nhìn y, quay sang nhìn A Kiều đang ở trong điện nói: “Dù ngươi không nghe thấy Trần hoàng hậu nói gì nhưng chúng ta lại nghe được. Nàng nói đại ý rằng nàng nguyện giảm hai mươi năm tuổi thọ để mọi chuyện đổi khác. Vì thế cho nên chúng ta đã chấp thuận yêu cầu của nàng.” Cần phải quyết tâm biết nhường nào khi chịu giảm hai mươi năm tuổi thọ?

“Thần, Phật trên trời vốn công bằng, Trần A Kiều gặp cơ duyên may mắn nên đã biết được một số chuyện, bởi vậy tất nhiên ta cũng phải tiết lộ một chút cho ngươi. Huống chi, Hoàng đế vốn chính là con của trời.”

Y thấy thời gian bỗng nhiên trôi cực nhanh qua trước mắt, loang loáng những cảnh huy hoàng tráng lệ lẫn chiến trường khốc liệt hào hùng, rồi dừng lại ở một chỗ rất rộng rãi. Nơi đó có một sản phụ đang vật vã đau đớn rồi sinh ra một bé gái. Một cô gái mặc trang phục trắng trông rất kỳ lạ, tóc búi cao, bế bé gái ra cửa phòng sinh trao cho một người đàn ông dáng nho nhã đeo cặp kính gọng vàng nói, “Chúc mừng Hàn tiên sinh, là một bé gái.”

“Con gái?” Hàn Thành hỏi vẻ ngỡ ngàng nhưng niềm vui làm cha khiến hắn hiền từ ẵm lấy đứa bé, ngắm nhìn khuôn mặt con gái rồi bật thốt lên, “Xinh quá!”

“Đúng vậy.” Cô hộ lý cười phụ họa theo: “Tôi làm ở khoa sản bao nhiêu năm rồi nhưng mới là lần đầu tiên thấy một bé gái xinh xắn thế này đấy.”

“Đây là…” Lưu Triệt vốn có định lực rất mạnh, dù núi sập trước mặt cũng không biến sắc nhưng lúc này lại kinh ngạc há hốc mồm miệng.

“Đây là thế giới của hai ngàn năm sau.” Giọng nói quen thuộc kia lại vừa cười vừa lên tiếng giải thích. Y quay đầu lại nhưng không còn thấy ông lão tóc bạc đâu nữa.

“Như vậy”, y trấn tĩnh lại rất nhanh, thản nhiên hỏi, “Đại Hán truyền được bao nhiêu đời?”

Giọng nói kia chợt chững lại, có vẻ bất đắc dĩ, “Không hổ là Vũ hoàng đế, quả nhiên chỉ muốn hỏi về vấn đề này. Nhưng lần này là để ngươi làm quen với cô bé gái kia một chuyến chứ không phải vì chuyện đó. Ngươi hãy từ từ xem đi.”

Bên kia, Hàn Thành ẵm con gái tới bên giường vợ mình, dịu dàng nói, “Mai Mai, chắc em mệt lắm.”

“Cũng qua rồi.” Tiêu Mai nhìn con gái bọc trong tã lót, vẻ mặt thanh thản, “A Thành, anh nói nên đặt tên con là gì?”

Hàn Thành nghĩ một lát rồi đáp: “Lúc được báo tin, anh chạy tới bệnh viện thì vừa hay trông thấy một đàn chim nhạn bay ngang bầu trời, con đầu đàn còn kêu to một tiếng. Vậy thì đặt tên con là Nhạn Thanh nhé.”

“Nhạn Thanh.” Tiêu Mai mỉm cười thì thầm, “Quy nhạn thanh thanh, hàm ý rất hay, lại dễ nghe, được lắm.”

Nhạn Thanh! Lưu Triệt chấn động, chẳng phải năm xưa lưu lạc ở bên ngoài thì A Kiều đã dùng một cái tên giả có đúng hai từ này sao? Thế giới luôn luôn cân bằng một cách kỳ diệu.

Nhạn Thanh lớn dần lên, khuôn mặt giống A Kiều thuở nhỏ như đúc. Nếu như nói, nét mặt Lưu Sơ giống A Kiều đến bảy phần, Lưu Yêu sau này giống A Kiều đến chín phần thì Nhạn Thanh mà hiện giờ y đang chứng kiến lại như đúc ra từ một khuôn, rõ ràng là A Kiều thuở nhỏ. Hồi đó A Kiều thường chạy nhảy dọc theo hành lang cung Vị Ương, cả hai đều còn trẻ con, nàng thuần nhất như mặt trời vừa mọc còn y cũng chưa nhiễm phải quá nhiều mưu mô quyền biến. Nàng thường rón rén đi tới sau lưng, đưa cánh tay nhỏ nhắn mềm mại lên bịt mắt y rồi cười khanh khách hỏi: “Triệt Nhi, đoán xem ta là ai?”

Khi đó, y sẽ dài giọng vẻ bất đắc dĩ, “A Kiều tỷ.” Trong cung Vị Ương này, ngoài nàng ra thì còn ai có hứng thú lẫn can đảm dám nghĩ tới chuyện bịt mắt y mà hỏi bằng cái chất giọng non nớt “Triệt Nhi đoán xem ta là ai?”

Nhạn Thanh lớn lên từng ngày, nét mặt ngày càng thanh tú khiến cha mẹ cũng phải ngỡ ngàng, vẻ đẹp của nàng đã vượt xa tất cả những nét thừa hưởng từ cha mẹ. Nàng bắt đầu học thơ văn, dĩ nhiên nhập môn từ thơ của Lý Bạch thời Đường, đọc đi đọc lại mấy câu thơ kinh điển như: “Đầu giường trăng sáng tỏ, Ngỡ mặt đất phủ sương”[1]

[1] Trích bài Tĩnh dạ tứ (Nỗi nhớ trong đêm) của Lý Bạch.

Dần dần, nàng cảm thấy vô vị liền hỏi, “Mẹ ơi, bài thơ này tên gì vậy?”

Tiêu Mai nhìn qua, ngẫm nghĩ một lúc. Bài thơ Nhạn Thanh hỏi là bài Trường can hành của Lý Bạch. Bài thơ này khá dài lại không tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật nên quả thật hơi khó hiểu đối với Nhạn Thanh bây giờ. Song bà vẫn giảng giải cho con gái, “Đây là bài thơ mà Lý Bạch viết về một đôi thanh mai trúc mã.”

“Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi

Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi

Trường Can cùng chung xóm, còn bé chẳng quan hoài

Mười bốn nên chồng vợ, ngượng ngùng lắm chàng ơi

Quay tường đầu rúc gối, gọi ngàn lần kệ thôi

Mười lăm thì trổ dáng, nguyện muôn kiếp không rời

Giữ lòng tin son sắt, ngại chi vọng phu đài?’

Nhạn Thanh nghe chỉ hiểu được lõm bõm nhưng vẫn cảm thấy thoáng bi ai không nói nên lời tràn ngập cõi lòng. Nàng im lặng một lúc lâu mới hỏi: “Thanh mai trúc mã là gì ạ? Có phải là như con với mẹ không?”

Tiêu Mai phì cười: “Mấy từ này dùng để chỉ một đôi trai gái còn nhỏ gần bằng tuổi nhau.”

“Vậy à.” Nhạn Thanh gật đầu, “Vậy thì có thể coi con và anh Trầm là thanh mai trúc mã được không?”

Tiêu Mai trầm ngâm một lát rồi đáp: “Chắc là chưa phải đâu. Thanh mai trúc mã là phải sống và lớn lên cùng nhau trong nhiều năm mới được. Nhà chúng ta mới chuyển tới đây chưa đầy nửa năm mà.”

“Hai người cùng lớn lên với nhau thì thật là hạnh phúc.” Nhạn Thanh mím môi vẻ cương quyết, “Được rồi, con sẽ đi tìm thanh mai trúc mã của con.”

Tiêu Mai bật cười, đâu phải ai cũng có thanh mai trúc mã của mình. Mà thanh mai trúc mã cũng không nhất định là sẽ hạnh phúc. Mấy năm sau Nhạn Thanh mới hiểu được điều này.

Khi đó, nàng mặc váy công chúa màu hồng chạy trên đường, vấp phải viên đá nhỏ, ngã trên mặt đất, sây sát từ khuỷu tay đến đầu gối, đau rát chỉ chực òa khóc nức nở. Nàng ngẩng đầu lên thì thấy một người đàn ông mặc bộ đồ kiểu dáng kỳ lạ may từ gấm đen đang nhìn mình, thở dài vẻ quan tâm.

Nàng quên bẵng hết đau đớn, hỏi, “Chú là ai?”

Nguòì đàn ông kia ngạc nhiên, hỏi lại: “Nàng nhìn thấy trẫm… ta?”

“Tại sao lại không chứ? Chú.” Nàng nhìn mặt trời vẻ ngạc nhiên, không chú ý cách dùng từ lạ lẫm của y. Ánh mặt trời chiếu từ phía sau người đàn ông này khiến khuôn mặt bị khuất bóng làm nàng không thấy rõ dung mạo của y.

Y dường như hơi nhếch miệng, muốn cười lại thôi, “Đừng gọi là chú, nghe không được tự nhiên. Nếu cô bé đồng ý,” y chần chừ một lát rồi đề nghị: “thì cứ gọi là ‘anh’ đi.”

Sau khi y mười tuổi liền cảm thấy A Kiều thật sự không hề giống một biểu tỷ mà chỉ là một thiếu nữ đơn giản không hề biết đến những ưu sầu của thế gian. Nàng cần gì phải biết những điều đó? Vốn từ khi sinh ra, nàng đã có thân phận cao quý, có ngoại tổ mẫu che chở, có cữu cữu che chở, có y… che chở. Đúng vậy, khi y lớn lên cũng là lúc bắt đầu học cách che chở cho biểu tỷ. Người thiếu nữ này là vị hôn thê của y. Dù trong cuộc hôn nhân đó có xen vào rất nhiều hàm ý chính trị, thì lúc ban đầu y vẫn muốn che chở cho nàng được bình an. Nhưng sau này… sau khi trở về, nàng trở nên cực kỳ thông minh, vô cùng nhạy cảm nhưng lại không hề giống những người phụ nữ đã từng trải chuyện đời có cùng độ tuổi. Nàng khi thì nhanh nhẹn, khi thì ưu sầu khiến y đôi lúc phải thầm hỏi liệu A Kiều của mình có phải là ba mươi tuổi thật không? Sao nàng có lúc còn duyên dáng giống thiếu nữ hơn?

Nhạn Thanh thì lại không thể nào lý giải được tại sao y lại suy tư nhiều như vậy nên chỉ nhíu mày nghĩ rằng y tuổi tác thế mà đòi làm anh thì quá là già. Tuy nhiên Lưu Triệt lại toát ra một điều gì đó không giải thích nổi khiến nàng cảm thấy an tâm, không muốn trái ý mà ngoan ngoãn gọi: “Anh!”

Ở đằng xa, Tiêu Mai cất tiếng gọi, “Nhạn Nhi.”

“Dạ.” Nàng đáp lời và nhảy dựng lên, phát hiện ra mình không còn đau nữa. Nàng đi được vài bước thì quay đầu lại cười hỏi “Anh ở gần đây à?”

Y cũng mỉm cười, “Không vội, sau này chúng ta sẽ gặp lại nhau” Đúng vậy, chẳng lẽ không phải bánh xe vận mệnh đã bắt đầu chuyển động rồi sao?

Nàng gật đầu, an tâm đi về phía mẹ. Lần gặp mặt tình cờ như chim trời cá nước này dần dà chìm xuống theo thời gian, cuối cùng nàng hoàn toàn không nhớ tới nữa. Nhưng duyên phận đã được định đoạt.

Sau đó, Hàn Thành vứt bỏ vợ con đi theo niềm vui khác, buộc Tiêu Mai phải ký giấy ly hôn. Nhạn Thanh chạy đuổi theo xe của cha thật lâu, khóc hết nước mắt. Từ đó về sau nàng không còn cha nữa.

“Chỉ tổn thọ mà thôi.” Dì nhà bên đi ngang qua nói, “Chỉ mới nghe nói ‘Kim ốc tàng kiều’ chứ chưa bao giờ thấy chuyện đòi lại được danh phận vợ lớn.”

“Kim ốc tàng kiều?” Nhạn Thanh ngơ ngác hỏi.

“Đúng vậy. Có vợ còn nuôi lẽ bên ngoài chính là Kim ốc tàng kiều.” Dì kia trề miệng.

Rõ ràng không phải như vậy. Có một năm, cô cô tới điện tìm A Kiều, hỏi trêu Lưu Triệt: “Trong điện này có rất nhiều con gái, gả cho Triệt Nhi một cô được không? Triệt Nhi thích ai nào?”

Y nhất quyết lắc đầu, những cung nữ này quá mức tầm thường, không lọt vào mắt cho đến khi cô cô chỉ vào A Kiều. Nếu không thật sự thích biểu tỷ thì y chỉ cần đồng ý là đủ rồi chứ nào phải nói ra lời hứa hẹn đó.

“Dạ! Nếu lấy được A Kiều, cháu sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.”

Kim ốc tàng kiều.

Kim ốc tàng kiều.

Nào đâu biết lại trầm luân tới bước này?

Nhạn Thanh không thích Kim ốc tàng kiều. Nàng có thể khóc thảm thiết nhưng khóc xong rồi vẫn phải đương đầu với cuộc sống, đối mặt với người thân. Nàng mỉm cười nói “Cha không còn ở đây nữa thì Nhạn Thanh nhất định sẽ ở với mẹ đến già.” Nàng không thấy có lý do gì khiến cho hai người không thể thanh thản sống với nhau đến già cả.

“Kim ốc tàng kiều là gì vậy?”

“Ngày xưa, Vũ Đế nhà Hán hứa hẹn với biểu tỷ của y, ‘Nếu có một ngày ta lấy được Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’. Khi bọn họ lớn lên, Vũ hoàng đế lãng quên lời hứa thời niên thiếu, lập hoàng hậu khác, bỏ mặc A Kiều ở trong cung Trường Môn hơn hai mươi năm trời, đến chết cũng không gặp. Người đời sau hay dùng điển tích này để chỉ người chồng bỏ bê vợ con đi yêu thương tình nhân khác.”

Kim ốc tàng kiều! Lầu vàng giấu người ngọc! Đã thật sự có tình yêu thì sao lại dùng chữ “tàng” đó chứ.

“Nhưng đã hứa ra miệng rồi mà lại có thể lãng quên đi được sao?”

“A Kiều nhất định, nhất định sẽ rất thương tâm!”

Người đời thường nói Vũ hoàng đế lòng dạ sắt đá, nhưng tại sao trong những chuyện liên quan đến A Kiều, chỉ cần y thoáng quay đầu nhìn lại thì đều không thể nén được cảm giác đau đớn. Y hận cái cảm giác bất lực này, vùng vẫy muốn thoát ra. Thoát ra được thì y lại là bậc đế vương có quyền uy bao trùm thiên hạ, có thể bảo vệ cho A Kiều, dù A Kiều còn đang mê man thì y vẫn có thể ôm được nàng. Song giấc mộng như cảnh biển trời mênh mang không biết đâu là bến bờ.

Cuộc sống luôn khắc nghiệt, gia đình mất đi trụ cột nên một mình Tiêu Mai không thể lo đủ học phí cho con gái. Nhạn Thanh bất đắc dĩ phải lựa chọn thi vào trường cảnh sát, chịu đựng sự huấn luyện vất vả để lại vô số vết sẹo trên tấm thân ngọc ngà.

Vì sao phải khổ thế chứ? Vì sao phải khổ thế chứ? A Kiều của y được cưng chiều từ tấm bé, đã bao giờ phải chịu những nỗi khổ cực như vậy đâu. Nhưng nàng vẫn cắn răng không hề kêu than, từng bước gắng sức vượt qua. Lúc trông thấy Quý Đan Tạp và Liễu Duệ thì y mới hiểu vì sao ngày sau không ai có thể chia rẽ quan hệ của bốn người này. Chỉ còn thiếu một mình Tang Hoằng Dương nữa thôi. Đợi đến lúc hắn xuất hiện thì tất cả sẽ trở về quỹ đạo. Nhưng y lại nổi lên một điều nghi vấn, cái gì mới là quỹ đạo, cái gì mới là thiên đạo? Nếu Nhạn Thanh đã sống rất tốt ở cái thế giới kia rồi thì vì sao lại nhất định phải trở về Đại Hán, trở về bên cạnh y. Chỉ là y không thể chịu đựng được cảnh mất nàng, nếu như đã có lại được rồi thì không thể để mất đi một lần nữa.

Lúc Tiêu Mai qua đời, Nhạn Thanh khóc rất thương tâm nhưng y không cách nào an ủi. Cũng may là Quý Đan Tạp vẫn luôn ở bên cạnh nàng. Khoảng thời gian này sẽ trôi qua rất nhanh. Lần này nàng trở về với y thì y nhất định sẽ không làm nàng bị tổn thương lần nữa.

Năm 2007, Nhạn Thanh và Đan Tạp tốt nghiệp trường cảnh sát nhận nhiệm vụ đầu tiên và gặp Mạc Ung Niên. Lưu Triệt rốt cục có thể mỉm cười. Trong chuyến trở lại lần này, y chỉ có thể quan sát, không nói chuyện với bọn họ.

Tại chùa Viên Giác trên núi Ly Sơn, hòa thượng Thiên Mi chắp tay nói với ông lão tóc trắng, “Vận mệnh đã bắt đầu nghịch chuyển chưa?”

“Sai rồi.” Ông lão nói: “Vận mệnh đã không còn ở quỹ đạo ban đầu sau này phát triển như thế nào còn tùy thuộc vào bọn họ.”

Trong thành cổ Tây An, một vụ tai nạn xe hơi đã làm mất đi không khí lễ hội. Tại ngoại thành Trường An vào hai ngàn năm trước, một cô gái tỉnh lại bên bờ sông.

Lôi Bị thu đội, điểm nhân số, phát hiện thấy thiếu một người trong số phái ra truy tìm phế hậu liền bẩm báo với Quận chúa Lưu Lăng, “Có khả năng phế hậu vẫn còn sống, có truy tìm tiếp hay không?”

Lưu Lăng vừa mới tỉnh lại, đã nhụt chí khí nên chỉ thở dài đáp: ‘‘Bỏ đi.” Nếu có thể khoan dung tha thứ cho người khác thì ngày sau gặp nhau sẽ được vui vẻ.

Còn Nhạn Thanh thì ngất xỉu ở trước mộ Sở Phục, đến khi tỉnh lại thì gặp được Tiêu Phương. Lúc đó, Nhạn Thanh và Tiêu Phương đều còn trẻ, nam thanh nữ tú gặp nhau nên dễ nảy sinh tình cảm. Cùng một thời gian, y còn vui vầy với người mới trong cung Vị Ương gần kề gang tấc nhưng nào biết người vợ kết tóc trong bụng mang cốt nhục của mình đã lưu lạc khỏi Trường Môn.

Y vén rèm bước vào phòng trên lầu Văn Nhạc, một cô gái mặc y phục màu hồng phấn quay đầu lại, ngước cặp mắt trong trẻo như sao trời, mỉm cười nói.

“Ta họ Trần.”

Y không để ý, chỉ khẽ chào đáp lễ: “Phu nhân”, rồi cúi đầu không nhìn nàng thêm nữa. Nếu chịu nhìn kỹ thì liệu y có thể nhận ra đó là A Kiều đã từng cùng lớn lên với mình, đã từng yêu, đã từng hận mình hay không? Nếu nhận ra thì liệu y có ôm lấy nàng rồi hôn nàng hay không? Có lẽ y sẽ không làm vậy. Nhiều khả năng là y sẽ giam nàng vào một nơi không ai biết, để nàng sống an ổn cả quãng đời còn lại nhưng không bao giờ gặp mặt. Nếu vậy thì nàng sẽ càng hận y nhiều hơn, vậy cứ để như hoàn cảnh hiện giờ cũng tốt. Cho nên y cũng chỉ có thể nhìn nàng mỉm cười duyên dáng nũng nịu gọi sư phụ, giống như thuở nhỏ dịu dàng gọi y là Triệt Nhi với niềm tin tưởng vô điều kiện. Bản thân đã tự tay vứt đi thì còn có tư cách gì để tiếc nuối. Chỉ là nếu được trông cảnh này sớm hơn thì đáng ra đã phải chém Tiêu Phương ở điện Tín Hợp ngày đó rồi.

“Bỏ đi.” Y thở dài, nếu thật nghĩ gì làm đó thì sẽ rất khó giải thích sau khi A Kiều tỉnh lại. Mọi chuyện cứ để nó qua đi. Dù thế nào, Trần A Kiều cũng là thê tử của y, trên trời dưới đất không một ai có thể phủ nhận được.

Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng gặp Tang Hoằng Dương, mở lầu Thanh Hoan. Lúc đi một mình trên đường thì va phải xa giá của cô cô. Ngày hôm đó cô cô vào cung xin được gặp A Kiều nhưng bị y cự tuyệt nên còn nổi cơn giận dữ. Bọn họ không biết rằng A Kiều thật ra đang ở gần chỉ một tầm tay với. Vận mệnh quả là quá trêu ngươi.

A Kiều bị động thai nên sinh nở cực kỳ nguy hiểm. Dù trước đây y đã nghe kể về chuyện này nhưng khi tận mắt chứng kiến thì vẫn kinh hãi mặt mũi tái nhợt. Cũng may là nàng vượt qua được. Đáng lẽ ra nàng phải trở về bên cạnh y nhưng lại chọn cách rời xa y.

Y đã thoáng có linh cảm khi đi sát qua A Kiều ở lầu Thanh Hoan vì dù sao thì đó cũng là ngưòi con gái thanh mai trúc mã đã cùng lớn lên với y. Nhưng nàng quay đầu lại, nụ cười xa lạ, thản nhiên hỏi, “Công tử có chuyện gì vậy?” Y cho là mình nhận lầm người nên quay mặt sang chỗ khác không nhìn lại nữa. Vận mệnh vẫn luôn trêu ngươi. Một lần cách biệt là mấy năm trường.

Năm Nguyên Sóc thứ hai, Vệ Tử Phu sinh Lưu Cứ, y lập Tử Phu làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Hán Hung đại chiến, Liễu Duệ bộc lộ tài năng, Trần A Kiều một xe một ngựa trở về Trường An. Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Cứ nhiễm bệnh, Hoàng đế và Hoàng hậu đều lo lắng. Tang Hoằng Dương tiến cử thần y của Tử Dạ y quán. A Kiều lại một lần nữa tiến vào tầm mắt của y.

A Kiều! Y chưa từng ngờ tới là nàng, lại càng chưa từng ngờ tới nàng sẽ tiếp tục lựa chọn rời đi, chỉ để lại đứa con gái mà y chưa từng gặp mặt và một bài Giai nhân khúc còn vang vọng để y nhớ nhung.

“Phương Bắc có giai nhân,

Thế gian này chỉ một.

Ngoảnh đầu lại nghiêng thành,

Ngoái lần nữa nghiêng nước.

Chẳng cần biết nghiêng thành hay nghiêng nước,

Khó gặp lại giai nhân.”

Thật khó trở lại. Thứ đã mất đi thật khó trở lại.

Trong vòng nửa năm, y đối diện với con gái giống hệt nàng, nhớ lại những điểm tốt của nàng. Chẳng phải A Kiều của y rất thông minh sao? Nếu như khi đó nàng không chọn lựa rời đi mà cứ thế xuất hiện trước mặt y thì y thực sự sẽ không biết phải lựa chọn xử lý như thế nào? Nhưng có nửa năm làm bước đệm khiến cho tâm hồn lạnh lẽo sắt đá của y dần trở nên hòa hoãn hơn. Y nghĩ nếu lần sau gặp lại nàng có thể học được cách giảm bớt sự kiêu ngạo thì chưa hẳn là y sẽ không dung thứ cho nàng. Nhưng một A Kiều có bản tính kiêu ngạo, một sự kiêu ngạo đã ăn sâu vào xương cốt, thì có thể thu lại thế nào đây.

Sau lần bốn nước ở vùng Giao Đông làm loạn, nàng vì Lưu Lăng mà cam tâm tình nguyện trở lại Trường An. Một lần nữa bước vào Trường Môn, thật là… là một mối giao tình vĩ đại.

Y đang nghỉ hè ở cung Cam Tuyền thì nhận được tin này, chợt cảm thấy ngạc nhiên, tự hỏi không biết biểu tỷ của mình được tháng năm rèn giũa sẽ trở nên như thế nào. Nàng đã không ở bên cạnh y bảy năm, mãi đến năm Nguyên Sóc thứ sáu mới trở lại trong vòng tay y. Cuối tháng Bảy năm Nguyên Sóc thứ sáu, Hoàng đế rời ngự giá từ Cam Tuyền trở về Trường An.

Tháng Chín, y lần đầu tiên bước chân vào Trường Môn, đứng bên cửa sổ điện Bát Nhã nhìn hai cô gái quen thuộc trong ký ức đang đánh cờ nơi bàn đá bên ngoài rừng trúc. Gió thu thổi qua, cành trúc xào xạc, A Kiều mỉm cười ngẩng đầu, đôi mắt trong suốt như giọt sương trên mặt hồ. Vận mệnh trong khoảnh khắc này đã ngoặt khỏi lối rẽ để trở về như cũ.

“Bệ hạ, bệ hạ, nương nương tỉnh rồi.” Lục Y đi xuyên qua hành lang đến ngoài điện bẩm báo, giọng nói không giấu được vẻ vui mừng.

“Suỵt”, Dương Đắc Ý nói khẽ, “Bệ hạ mới ngủ chưa được bao lâu, hãy để cho bệ hạ nằm thêm lát nữa,”

Y tỉnh dậy từ trong giấc mộng hỗn loạn, chợt cảm thấy không phân biệt được đâu là mộng là thực, day day thái dương, lên tiếng gọi “Dương Đắc Ý!”

Dương Đắc Ý vén rèm đi vào, cúi đầu nói, “Chúc mừng bệ hạ, Trần nương nương hồng phúc bằng trời, vừa mới tỉnh dậy, đã không còn gì đáng ngại rồi.”

“Vậy à.” Sau khi được nội thị sửa sang lại y phục, y bước nhanh về điện Tín Hợp.

Có thật vậy không? Y nhớ tới đủ loại biểu hiện kỳ lạ sau khi A Kiều trở về. Có một năm, Liễu Duệ đã từng nói khi huấn luyện Hoàng tử Lưu Mạch cưỡi ngựa bắn cung trên thao trường: “Chưa nói chuyện khác, năm xưa mẫu thân và dì Lăng của cháu huấn luyện còn gian khổ hơn rất nhiều.” Lúc ấy y và Duyệt Trữ đều cho là Liễu Duệ nói đùa, bây giờ nghĩ thì quả thật đã thấy trong mộng là A Kiều luyện tập rất gian khổ, ngay cả những gian khổ của y hồi còn nhỏ luyện tập cưỡi ngựa bắn cung cũng không thể sánh bằng.

Trong điện Tín Hợp, A Kiều vừa tỉnh lại, vô cùng yếu ớt, nhợt nhạt như một chiếc bóng sẽ tan biến đi trong nháy mắt. Cung nữ dâng lên cháo nóng đã chuẩn bị sẵn, A Kiều yếu đến nỗi cầm thìa không vững, đánh rơi xuống đất vỡ tan. Tiếng đồ sứ vỡ vang lên giòn tan trong điện Tín Hợp và cũng vọng lên ở một không gian khác. Cô cô vốn rất giỏi ứng biến, mỉm cười lui ra ngoài, nhân tiện cũng vẫy đám cung nữ lui theo.

Lưu Triệt tự mình chăm sóc người con gái yếu ớt trên giường bệnh.

Lúc này, A Kiều lại ngoan ngoãn, uống hết non nửa chén cháo mới thôi.

Y rốt cuộc có thể ôm nàng vào lòng, không cần giống như trong mộng, ngay cả vươn tay cũng không tới. Song A Kiều đang nằm trong lòng y có sắc mặt tái nhợt, vậy thì đây là A Kiều câm lặng trong suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc chết ở Trường Môn hay là cô bé thanh mai trúc mã tóc xòa trước trán mà mình đang tìm kiếm? Nhưng điều đó thì có quan hệ gì chứ? Người nằm trong lòng vẫn là A Kiều của y.

“Kiều Kiều”, y dịu dàng hỏi: “Sao nàng thiếp đi lâu như vậy?”

Nàng ngơ ngác lắc đầu, y không để ý, nói tiếp: “Mới vừa rồi, trẫm mặc nguyên cả quần áo nằm ngủ trong điện Thiên thì gặp một giấc mộng.”

‘‘Thế à?” Nàng hỏi, “Mộng thấy cái gì?”

Y mỉm cười không đáp, chỉ nhìn nàng đằm thắm, nhớ tới hai người phụ nữ trong giấc mộng. Tại sao không thể ở bên nhau cho đến lúc già chứ? Rõ ràng là đã có lời hứa ngay từ buổi ban đầu rồi. Cuối cùng, y đặt một nụ hôn lên trán nàng, thì thầm, “Trẫm sẽ như nàng mong muốn.”

Y nghĩ, có lẽ A Kiều thật sự là một lễ vật trân quý mà trời xanh ban cho y, một cơ duyên ấm áp để cho y mất đi mẫu hậu rồi vẫn có thể vĩnh viễn không cô độc khi ngồi ở ngôi vị cao nhất trong thiên hạ. Chúng ta sẽ nắm tay nhau đến lúc bạc đầu! Hãy thử xem nào. Đây là lần cuối cùng nàng bị thương tổn trong tay trẫm, từ nay về sau trẫm sẽ là người che chở cho nàng, để nàng không còn phải ưu sầu trước những phong ba của cuộc đời.

Rất nhiều năm sau.

“Mẹ ơi, Kim ốc tàng kiều là gì ạ?”

“Kim ốc tàng kiều à”, người mẹ trẻ mỉm cười quay đầu lại, trong mắt lộ ra vẻ xa xăm, “Ngày xưa, nhà Hán có một vị hoàng đế tên gọi là Hán Vũ Đế. Vũ Đế hứa hẹn với biểu tỷ của mình, ‘Nếu có một ngày ta lấy Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’, sau đó Hán Vũ Đế quả thật đã thực hiện lời hứa thuở niên thiếu của mình xây cung Kiến Chương cho biểu tỷ. Bọn họ ở với nhau trong điện Trường Môn cung Kiến Chương đến già. Mọi người tưởng nhớ tới cặp vợ chồng đế vương ân ái mặn nồng hiếm thấy này, từ đó Kim ốc tàng kiều trở thành một lời hứa tình yêu đẹp nhất.”

“Ôi”, cô bé nghe đến say mê, mơ màng nói: “Mẹ ơi, vậy sau này con có thể tìm được người sẽ xây một chiếc lầu vàng cho con hay không?’’

Người mẹ bật cười, xoa chiếc mũi nhỏ nhắn của con gái, “Ngốc nào, chuyện xưa đẹp đẽ là đẹp đẽ ở tấm chân tình. Sau này con gặp ai, chỉ cần người đó có chân tình thì dù tặng con nhà cỏ hay nhà gỗ thì trong tình yêu cũng chính là một lầu vàng rồi.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Kim Ốc Hận (Gồm 2 Quyển) - Liễu Ký Giang

Postby tuvi » 20 Jan 2020

Chương 99: Ngoại truyện 2: Lưu lang đã rời bỏ nơi Bồng Lai*

Nàng nghĩ, nếu lúc còn sống mà được nghe bài thơ như vậy thì nhất định sẽ bật khóc. Núi Bồng Lai xa xôi, xa xôi đến chừng nào? Có phải như nàng và Lưu lang, rõ ràng cùng đi ở trong cung Vị Ương, ngước mắt lên sẽ trông thấy nhau nhưng lòng đã hóa thành một vùng hoang vắng, như hai người xa lạ chưa từng có những năm tháng tuổi trẻ hạnh phúc. Vẫn gần trong gang tấc vậy mà đôi khi cũng như xa cách tận chân trời.

Trên đời này, xa nhất không phải tận chân trời, cũng không phải cách trở âm dương mà là yêu rồi dần hóa thành xa lạ, đến cuối cùng trở mặt thành thù hận. Còn hôm nay, nàng ở dưới Địa phủ sâu chín vạn thước nhìn lên chứng kiến chuyện tình của y và người ấy. U minh lạnh lẽo, tịch mịch, tịch mịch đến mức nước mắt chẳng muốn tuôn rơi.

Chuyện mở đầu là y và người ấy, chuyện kết thúc vẫn là y và người ấy. Còn nàng chỉ là một khách qua đường đáng buồn cười xen vào chuyện tình của bọn họ rồi cuối cùng rút lui. Chuyện tình của bọn họ lại bắt đầu, tiếp diễn, cuộn trào, sâu lắng miên man, cho đến kết thúc vẫn không chút liên quan tới nàng.

Năm Nguyên Thú đầu tiên, Vệ Tử Phu tự vẫn tại điện Tiêu Phòng, được chôn cất theo nghi lễ phi tần ở khu lăng mộ. Cho đến lúc chết, Lưu lang vẫn không tới gặp nàng. Những hồn phách chết oan không được đầu thai. Nàng dật dờ lưu lạc ở Uổng tử thành suốt bao năm chỉ để chờ đợi. Chờ đợi một ngày Lưu lang tới đây, nàng sẽ hỏi một câu trước lúc y uống canh Mạnh bà, hỏi rằng y có từng yêu nàng hay không? Chỉ thế mà thôi.

Nàng ra đời trong một căn phòng dành cho nô bộc ở phủ Bình Dương hầu hồi Cảnh hoàng đế còn tại vị. Lúc nàng sinh ra, mẫu thân từng thốt lên: “Xinh quá! Xinh đẹp hơn mẫu thân nhiều.” Đẹp đến mấy thì cũng để làm gì chứ? Chẳng qua vẫn chỉ là một nô bộc. Thời niên thiếu, nàng từng nghe nói rằng có người thiếu niên được lập làm Hoàng thái tử ở đế đô Trường An xa xôi đã từng mỉm cười hứa hẹn với biểu tỷ của cậu ta, “Nếu lấy A Kiều làm vợ thì sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.” Truyền thuyết Kim ốc tàng kiều ấy đẹp biết nhường nào! Nàng đã từng cảm khái cho hạnh phúc của người thiếu nữ kia, hoàn toàn không biết rằng, trong tương lai, nàng lại chính là người phá vỡ cái truyền thuyết đẹp đẽ ấy. Vận mệnh đứng trong bóng tối nhìn theo, mỉm cười đầy ý vị.

Vào một năm, Bình Dương công chúa cành vàng lá ngọc được gả cho Bình Dương hầu Tào Thọ. Một thiếu nữ từ trên cỗ xe ngựa sơn son thiếp vàng tráng lệ bước xuống, xinh đẹp như tiên nữ trên trời. Bình Dương trưởng công chúa Lưu Tịnh chính là người đã thay đổi vận mệnh cuộc đời nàng. Năm đó nàng còn quá nhỏ tuổi. Một hôm, nữ chủ nhân của phủ Bình Dương hầu nhìn thấy nàng, ánh mắt sáng rực, thốt lên: “Thật là một mỹ nhân trong tương lai.” Rất nhanh sau đó, nàng không phải làm công việc hầu hạ nữa. Bình Dương công chúa chuyển nàng vào nội viện để huấn luyện ca múa.

“Tử Phu đừng phụ sự kỳ vọng của ta nhé.” Công chúa mỉm cười nói, ánh mắt khó hiểu. Kỳ vọng gì chứ? Nàng không hiểu. Nàng chỉ là một nô tỳ nhỏ nhoi với ước mơ rất tầm thường, mong sao người nhà mình được bình an, no ấm.

Năm thứ hai, nhị tỷ Vệ Thiếu Nhi của nàng ân ái với viên tiểu lại Hoắc Trọng Nhụ của huyện Bình Dương rồi sinh ra một bé trai. Hoắc Trọng Nhụ không thể cưới nhị tỷ của nàng vì hắn đã có vợ. Vệ Thiếu Nhi bế đứa con trai khóc thầm lặng lẽ, kéo tay nàng nói: “Tam muội, đừng đi theo vết xe đổ của tỷ tỷ và mẫu thân nhé.”

Khi đó, nàng càng lớn càng xinh đẹp, ca múa cũng dần điêu luyện, đẹp đến mức tỷ tỷ ruột của mình cũng phải thán phục. “Nhị tỷ yên tâm.” Nàng vừa mỉm cười vừa nựng đứa cháu trai bé bỏng. Sau một năm tập luyện ca múa, tầm mắt nàng đã ngước lên cao hơn, dứt khoát không chịu làm một tiện tỳ tư thông với người khác để đến nỗi cả đời không thể ngẩng đầu. Nhưng con đường phía trước sẽ như thế nào đây? Tất cả vẫn còn mờ mịt!

Cuối năm đó có đại tang Cảnh hoàng đế, công chúa khuyên bảo hầu gia chuyển nhà lên Trường An. Hoàng đế mới kế vị đặt niên hiệu là Kiến Nguyên, lập thái tử phi trong truyền thuyết Kim ốc tàng kiều làm Trung Cung hoàng hậu. Phẩm cấp của Bình Dương công chúa cũng được nâng lên thành Bình Dương trưởng công chúa. Bệ hạ niệm tình tỷ đệ, ngầm đồng ý cho tỷ tỷ và cả nhà tỷ phu ở lại Trường An. Nàng chứng kiến cảnh phồn hoa của Trường An, hiểu rằng Công chúa nhất định có mưu đồ nên mới huấn luyện ca múa cho các nàng từ rất nhỏ. Biết vậy nhưng nàng cũng không dám nghĩ quá xa. Dù nàng có mặc y phục hoa lệ, dung nhan xinh đẹp thì chẳng qua vẫn là một ca cơ như cũ, thấy người thì phải khẽ cúi đầu gợi lòng trắc ẩn. Người đi bên dòng suối nhỏ trông thấy ngọn núi đằng xa đã cảm thấy rất cao, sao còn dám ôm mộng bay lên tầng mây? Vận mệnh không biết là hào hiệp hay tàn khốc đã mở ra một cánh cửa cho nàng. Nàng cứ thế bước tới, chẳng biết đi đâu về đâu, không thể tự mình quyết định.

Nàng biết rằng bệ hạ và Trưởng công chúa là cùng một mẹ sinh ra, tình cảm rất sâu đậm. Một hôm bệ hạ tới thăm phủ Bình Dương hầu, Trưởng công chúa sai mấy mỹ nhân tới hầu hạ, bệ hạ đều nói cười thản nhiên, nhìn không thuận mắt. Thị nữ thiếp thân A Lan của Trưởng công chúa bảo, “Tử Phu, cô lên phòng khách ca múa đi.” Vào khoảnh khắc đó, nàng cảm thấy dường như ông trời đã ban xuống cho mình một cơ duyên, nói không động lòng là giả dối. Người theo học nghề ca múa thành tài sẽ được bán vào nhà các vương hầu nhưng nàng còn có cả dung nhan vô song, nếu muốn bán thì cũng phải bán cho đế vương. Lúc bấy giờ, bệ hạ còn rất trẻ, nàng cũng vậy. Người trẻ tuổi tràn đầy ảo tưởng với tình yêu, cứ thế lao vào con đường tình ái không hề sợ hãi.

Đế vương ngồi trên cao, cặp lông mày lưỡi mác, đôi môi rất mỏng, cực kỳ tuấn tú. Chắc y đang ở trong hoàn cảnh bất đắc chí, trên mặt phảng phất nét buồn.

Đó là người ngồi trên ngôi vị thiên hạ chí tôn! Nàng như người ngã trong bùn lầy ngước nhìn mây bay trên trời, còn chưa cất tiếng thì lòng đã tan ra. Nàng quên hết, không còn nhớ mình đã hát, múa như thế nào, chỉ còn nhớ rằng y ngồi ở trên cao hơi nhướng mày, uống cạn chén rượu, ánh mắt nhìn nàng lóe lên một tia thưởng thức. Nàng hầu hạ y thay quần áo. Y gỡ chiếc trâm cài tóc của nàng, khen ngợi, “Mái tóc đẹp quá!” Chuyện xảy ra như một giấc chiêm bao. Nàng theo người đàn ông này về cung Vị Ương. Nàng vẫn biết, tục danh của hoàng đế triều Đại Hán hiện giờ là Lưu Triệt, chỉ là từ đó về sau, cái tên này không chỉ khiến nàng tôn sùng mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc hơn rất nhiều.

Rồi cũng đến lúc nàng nhìn thấy người đó. Cung nữ đến trước xe ngự bẩm báo, “Hoàng hậu nương nương chờ bệ hạ trở về đã lâu rồi.”

Trong xe ngự yên lặng một lát rồi truyền ra giọng của bệ hạ, “Vậy à?”

Nàng đứng cuối xe ngự, nghe tiếng nói ở gần trong tấc gang mà lại xa xăm như tận chốn chân trời.

“A Kiều tỷ”, bệ hạ xuống xe, mỉm cười hỏi, “Bên ngoài gió lớn thế mà sao nàng còn ở đây?”

Cô gái kia cười duyên dáng quay lại, khẽ nghiêng đầu nói: “Chàng không ở trong cung, thiếp nhớ chàng nhiều lắm, cứ tính toán từng canh giờ xem lúc nào chàng trở về để chờ ở đây.”

Đó là người con gái tôn quý nhất mà nàng đã gặp trong cuộc đời này. Người con gái đó dù gặp bệ hạ cũng chưa từng chịu cúi đầu vẫn tươi cười chàng chàng thiếp thiếp như thể đó chỉ là phu quân của mình. Đến sau này, nàng vươn lên được địa vị cao giống người đó nhưng không sao có được khí thế như của đối phương. Đến cuối cùng thì nàng mới hiểu rằng, nàng – Vệ Tử Phu chỉ là hoàng hậu của Lưu Triệt, còn Trần A Kiều mới là thê tử của Lưu Triệt.

Vẻ đẹp của Trần A Kiều khác với vẻ đẹp của nàng. Ở Trần A Kiều là vẻ đẹp cao quý, không người nào có thể phủ nhận được. Có một hoàng hậu xinh đẹp như vậy thì đương nhiên nàng phải bị vứt bỏ, vào làm nô tỳ trong cung. Nhưng nàng không cam lòng! Hiến thân cho đế vương không phải để sống lại cuộc sống nô tỳ thuở trước. Nàng nghe người trong cung nói rằng bệ hạ và hoàng hậu ái ân nồng thắm, hiếm thấy trong nhà đế vương. Vậy còn nàng thì sao? Vệ Tử Phu này được xem là cái gì?

Một năm sau, cung Vị Ương loại bỏ những cung nữ lớn tuổi. Nàng tuyệt vọng, mang lòng quyết tâm không thành công cũng thành nhân vượt qua bao khó khăn để đến được trước mặt bệ hạ, quỳ gối cầu xin y cho nàng rời đi. Bệ hạ trông thấy dung nhan vừa quen thuộc vừa xa lạ đang lệ rơi đầm đìa liền sủng ái lại lần nữa. Lần này thì hoàng hậu nương nương không cách nào nhẫn nhịn. Một người con gái cao quý sao có thể chịu được cảnh phải cùng chia sẻ phu quân với một ca cơ có thân phận thấp hèn.

Nhưng rồi nàng đã mang thai. Từ lúc bệ hạ đăng cơ đến nay chỉ sủng ái một mình hoàng hậu nhưng vẫn chưa có người nối dõi. Chuyện kế thừa của hoàng gia cực kỳ trọng yếu. Hoàng hậu nương nương không quản đến mọi việc, chỉ để ý đến phu quân của mình, nào ngờ vừa tỉnh mắt ra thì ngày đã sang, người đã khác. Nàng vẫn cho rằng sở dĩ Trần A Kiều thua là bởi vì bệ hạ ở ngôi cửu ngũ thì không thể nào chỉ có vĩnh viễn một người. Sau này, nàng mới bi thương phát hiện ra, trên đời này chẳng có chuyện gì là tuyệt đối. Như vậy thì ai đúng ai sai chẳng phải đã rõ ràng ngay từ buổi ban đầu ?

Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng cũng yêu bệ hạ, liên kết với nàng, lợi dụng người nhà Sở Phục để ép buộc Sở Phục phải đẩy Hoàng hậu nương nương vào chỗ chết không nhắm mắt. Nàng lạnh lùng theo dõi Lưu Lăng, âm thầm suy nghĩ xem vì sao cô ta lại phải khổ đến như vậy? Ngay cả đánh đổ Trần A Kiều thì Lưu Triệt vẫn không thể nào là của cô ta được. Thế thì khổ cực cho ai, vội vàng cho ai? “Cho nên, Tử Phu, ngươi phải nhớ kỹ.” Nàng tự nói với bản thân mình, những cô gái đắm chìm trong tình yêu thật quá ngu ngốc, nếu có ngày đó thì ngươi không được để mình giống như bọn họ. Nào ngờ khi người kia quay trở về, nàng mới thấu hiểu, có một số chuyện không phải cứ tự cảnh cáo mình là có thể không phát sinh.

Những năm đó, nàng ở bên cạnh đế vương với thân phận mẫu nghi thiên hạ, bình thản nhìn đế quốc Đại Hán ngày một cường thịnh. Thời gian thấm thoắt, nàng cũng dần dà phó thác cả trái tim mình cho y. Tại sao lại phải yêu chứ? Bởi vì y quá tuyệt tình hay vì thời gian trôi qua quá vô vị? Không một ai ở dưới vòm trời này có thể đưa ra đáp án.

Song một luồng tình ý cuối cùng cũng đã mất đi. Bọn họ ngửa tay làm mây, úp tay làm mưa nhưng lại quên mất rằng bệ hạ đang ở bên cạnh lạnh lùng quan sát. Vào ngày đã quyết định xong ý chỉ phế hậu, bệ hạ tới dùng bữa ở điện của nàng. Sau khi ân ái, y nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng, đột nhiên cười lạnh nói, “Trẫm thật không nhìn ra khanh lại là người có lòng dạ hiểm độc.”

Nàng kinh hãi, toát mồ hôi lạnh. Đó là hoàng đế của hoàng triều Đại Hán, thiên hạ đều ở trong tay y. Đến sau này, nàng mới biết, bản thân tự cho là đắc kế nhưng chẳng qua là vì bệ hạ ngầm đồng ý nên chuyện mới phát sinh. Người kia là biểu tỷ cùng lớn lên với y từ nhỏ, là người con gái mà y từng hứa hẹn muôn vàn sủng ái, được người đời ca tụng là đôi đế hậu cầm sắt hòa hợp. Y lại cứ thế nhìn người đó chầm chậm đi đến vực thẳm, sau đó còn đích thân đẩy xuống. Nàng vẫn cho rằng mình biết rõ hơn Trần A Kiều về sự vô tình của người cùng chung chăn gối nào ngờ y không phải là vô tình mà là tuyệt tình. Từ ngày đó, nàng bắt đầu học theo cách nghĩ của y để hành xử thì y lại dần rời xa nàng. Nếu không phải bởi vì nàng đang mang thai Chư Ấp, e là trên thế giới này không có một hoàng hậu tên là Vệ Tử Phu. Trong hậu cung ba ngàn phi tần cung nữ nhưng có sinh có dưỡng thì chỉ một mình nàng. Sau này ấu đệ Vệ Thanh bắt đầu quật khởi. Cuối cùng, nàng sinh hạ con trai trưởng Lưu Cứ, được lập làm hoàng hậu. Vào lúc đó, nàng lại không biết rằng ở Đường Cổ Lạp Sơn xa xôi, Lưu Mạch và Lưu Sơ cũng đã bắt đầu bi bô học nói.

Từ một ca cơ lên đến ngôi vị hoàng hậu, truyền kỳ về kỳ tích như vậy đủ để phủ bóng lên câu chuyện cũ Kim ốc tàng kiều. Nàng dần quên mất rằng thuở bé mình cũng hằng ngưỡng mộ câu chuyện huyền thoại đẹp đẽ này. Cho đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, cái tên bị quên từ lâu lại được nhắc tới một lần nữa. Trở về theo cái tên đó còn có một công chúa giống mẫu thân của cô như đúc, tên gọi là Sơ. Cô bé kia nói, chữ “Sơ” này ở trong một câu thơ đẹp đẽ “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”

Khi nàng nghe được câu này thì chỉ cảm thấy buồn cười, đời người nếu mãi như khi bọn họ vừa gặp nhau thì Vệ Tử Phu nàng sẽ ở đâu? Hoặc nếu như đời người mãi chỉ như khi nàng vừa gặp bệ hạ thì trên đời này cần gì phải có một Trần A Kiều? Đều là những chuyện mâu thuẫn. Mà có lẽ, đời người vốn là một mâu thuẫn lớn nhất. Trong khoảnh khắc đó, nàng mơ hồ cảm thấy lòng đau đớn.

Vốn nàng vẫn luôn tự nhắc nhở mình đừng yêu nhưng cuối cùng lại vẫn sa vào đó. Thoáng chớp mắt đã từ năm Kiến Nguyên thứ hai đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, được hơn mười năm rồi. Năm tháng dài như vậy, yêu thương cứ lớn lên từng chút một khiến khi tỉnh ngộ thì chính bản thân mình cũng không thể xóa bỏ được nữa. Cũng như đời nàng đã được chú định thống khổ, đến chết vẫn không yên.

Bệ hạ ban cho cô bé kia danh hiệu Duyệt Trữ, ở tại điện Chiêu Dương, Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! “Du duyệt an trữ (Vui vẻ bình an)”.
Trong cung Vị Ương này, ai có thể thực sự vui vẻ an bình? Trong điện có bao nhiêu là người mà cô bé không hề e ngại dám nói rằng mình nhớ mẫu thân, mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ.

Người phụ nữ tốt nhất thiên hạ? Nàng nhớ lại người con gái trong ký ức, khuôn mặt như đóa phù dung, cặp mày lá liễu, dĩ nhiên là đẹp tuyệt trần. Nhưng với tính cách kiêu ngạo tùy hứng như vậy thì có muốn làm trái lương tâm để nói ra một chữ tốt cũng thấy khó khăn. Chẳng phải bệ hạ cũng bị tính cách đó của người kia từng bước ép phải rời xa sao?

Tính cách kiêu ngạo đó, sau nhiều năm lưu lạc bên ngoài có được mài giũa? Đã bước chân ra khỏi thành Trường An, nào ai nguyện ý chịu đựng người kia thêm lần nữa. Trần A Kiều mất đi tính cách kiêu ngạo rừng rực như lửa thì có còn là Trần A Kiều như trong ký ức? Nàng cũng chẳng nghĩ được rõ ràng. Trong lòng nàng, cái tên Trần A Kiều đồng nghĩa với một người con gái luôn kiêu ngạo, giống như một con phượng hoàng luôn đứng thẳng, kiêu hãnh bay trong biển lửa không bao giờ chịu cúi đầu, cuối cùng bị đốt thành tro bụi. Ngay cả nàng là kình địch nhưng cũng không thể không thừa nhận rằng hình ảnh hủy diệt huy hoàng đó đẹp đến tột đỉnh. Đẹp đến nỗi không ai có thể trơ mắt lạnh lùng chứng kiến giây phút cuối cùng. Thế nên, Lưu lang của nàng mới thật là vô tình!

Nàng vẫn ôm mối hận. Đều là phận nữ nhi, đều là hoàng hậu, tại sao Trần A Kiều lại có thể sống mạnh mẽ, thẳng thắn như vậy còn nàng thì cứ ngày ngày lặng lẽ, mỏi mòn ở cung Vị Ương phồn hoa để cuối cùng héo hon đi giống như chiếc bóng mỹ lệ trên tấm màn lụa hàng đêm kéo lên trong điện Tiêu Phòng mà không hề có sinh khí.

Sau khi nàng sinh Cứ Nhi thì bệ hạ trở nên lạnh nhạt. Nàng nghĩ, chung quy lại thì y chỉ muốn có một đứa con trai nối dõi mà thôi. Nàng giúp được y thực hiện hy vọng đó, nên y cho nàng ngồi lên ngôi vị hoàng hậu cao quý nhất mà cũng cô quạnh nhất ở cung Vị Ương, rồi để mặc nàng cho số phận giày vò, còn nàng cũng vui vẻ chịu giày vò như thế. Có ai trên cõi đời này không ngưỡng mộ, có ai ở trong cung Vị Ương không tôn sùng ngôi vị trí hoàng hậu? Người đời thường nói nó là đại biểu cho ngôi vị mẫu nghi thiên hạ, nhưng chỉ có người ngồi trên mới biết được cảm giác bi thương trộn lẫn với hân hoan.

Nàng chiếm được ngôi vị hoàng hậu mà mình ước ao thèm khát nhưng lại đánh mất sự sủng ái của phu quân. Nàng cũng không biết phải chăng mỗi người đàn bà đang tranh đoạt ngôi thứ trong cung Vị Ương đều như vậy? Một người đàn bà có được tôn sùng đến đâu thì trước hết vẫn là một nữ nhân, mà đã là nữ nhân thì liệu có người nào không mong mỏi được phu quân thương yêu? Người trong cung Vị Ương thôi không còn nhắc đến Trần hoàng hậu nữa mà bây giờ bọn họ chỉ nói đến Vệ hoàng hậu ở điện Tiêu Phòng.

“Vệ hoàng hậu là người hiền hậu. Hôm qua ta làm việc trong ngự hoa viên. Vệ hoàng hậu đi qua còn hơi mỉm cười với ta.”

“Vệ hoàng hậu thật may mắn. Nghe nói, nàng vốn chỉ là một ca cơ của phủ Bình Dương hầu.”

“Đúng đấy. Nói về thân phận thì Trần hoàng hậu trước kia cao quý biết nhường nào chứ? Thế mà chẳng phải cũng thua bởi một ca cơ? Có thể thấy được…”



Cho nên, sinh nam không vui, sinh nữ không giận, ai không thấy Vệ Tử Phu bao trùm thiên hạ?

Lức nàng mới nghe được bài hát đó thì đột nhiên bật cười. Những người đó chỉ thấy được bề ngoài rạng rỡ nhưng lại không thấy được bùn lầy bên dưới. Nàng vẫn luôn nghĩ nếu không có Cứ Nhi, không có Thanh đệ, không có Khứ Bệnh thì rốt cuộc nàng là cái gì ở trong lòng Lưu lang? Cô bé kia nói suốt nửa năm, Lưu lang cũng nghe suốt nửa năm, dần thấy người kia quả thật là một người rất tốt. Người kia trong dĩ vãng luôn kiêu căng tùy hứng làm tổn thương y nhưng đã được thời gian xóa mờ, giờ trong ký ức chỉ còn lại những gì tốt đẹp.

Trong cuộc đời mỗi người đàn ông đều có một bông hoa hồng nhung và một đóa hồng trắng. Hoa hồng trắng là dịu dàng, hoa hồng đỏ là nồng nhiệt. Y rời xa hoa hồng đỏ đã lâu nên coi người đó như một nốt ruồi son trước ngực, giữ tận trong lòng, nếu không có lại được thì sẽ mãi còn day dứt, Lúc đó, nàng cũng đã nhìn thấy trước chuyện của mười năm sau nhưng nàng chỉ không đoán được kết cục, càng không đoán được lòng của Lưu lang. Nếu thật sự là vô tình thì hãy vô tình đến cùng, sao dần lại có tình, rồi khối tình đó lại dành cho người khác, khiến cho nàng đã mộng đến nửa đêm lại tỉnh, sao không khỏi đớn đau?

Nàng vẫn cho rằng Cứ Nhi là chỗ dựa cuối cùng, không thể bị đánh đổ của mình nhưng nào ngờ cuối cùng nàng lại thất bại, phải tự vẫn cũng vì nó. Trong đời người có chuyện nào mỉa mai hơn? Năm Nguyên Sóc thứ hai, nàng sinh Cứ Nhi, đăng cơ làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Vương Thấm Hinh sinh Nhị hoàng tử Lưu Hoành, nhất thời giành được ân sủng của Hoàng thượng. Cứ Nhi không còn là con trai nối dòng duy nhất của y. Năm Nguyên Sóc thứ sáu công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ hồi cung. Cuối năm Nguyên Sóc thứ sáu, Trần A Kiều dẫn theo Lưu Mạch hồi cung. Bọn họ nói, hoàng tử trưởng mới thật sự là giống bệ hạ, giống từ cặp mắt đến bờ môi. Cuối cùng thì đứa con giống Lưu lang của nàng nhất vẫn là con trai của người đó. Còn tướng mạo Cứ Nhi một nửa giống Lưu lang, một nửa giống nàng, lúc bình thường cảm thấy không có gì, nhưng bây giờ nghĩ lại mới có chút oán hận.

Bệ hạ để cho Trần A Kiều quay về Trường Môn. Nhị tỷ an ủi nàng rằng như vậy không tốt sao? Điều này nói lên rằng bệ hạ không coi trọng người kia vì Trường Môn chính là lãnh cung. Nàng cười lay lắt, nói nhị tỷ quả thật là quá ngây thơ. Trường Môn cũng là nơi người làm hoàng hậu như nàng không thể quản đến. Từ đó có thể thấy được ý của bệ hạ là muốn bảo vệ cho Trần A Kiều.

Ngẫm nghĩ ra mới thấy thật không công bằng. Nàng ở cung Vị Ương này đã hơn mười năm vẫn cảm thấy có khoảng cách, không sao vừa mắt Thái hậu. Nếu không phải vì Cứ Nhi thì e rằng nàng còn chẳng duy trì được ngay cả cái cục diện không mặn không nhạt như ngày hôm nay. Ấy vậy mà, Trần A Kiều vừa mới trở về, chưa nói đến mẫu thân là Trưởng công chúa Quán Đào mà ngay cả Vương thái hậu cũng đối xử bằng ánh mắt khác. Chẳng phải Lưu lang của nàng cũng coi trọng người kia hơn một chút sao?

Bọn họ cố ý cách ly nàng với người kia, mà ngay bản thân hai người cũng ngầm thỏa thuận là không gặp nhau. Gặp nhau thì cả hai ắt sẽ đều lúng túng. Nàng được nghe kể rằng người kia vốn đã xinh đẹp nay càng xinh đẹp, năm tháng lại ưu ái không để lại bao nhiêu gió sương trên dung nhan, hơn nữa tính cách đổi thành tao nhã, điềm đạm, chẳng chút nào giống cô gái kiêu ngạo nông nổi trong ký ức của nàng. Ngay cả nàng cũng không nhịn được tò mò, người kia trong mấy năm nổi chìm lưu lạc đã xảy ra chuyện gì mà đổi thành dáng vẻ hôm nay?

Sau khi bệ hạ hồi cung, kết quả của lần đầu tiên đi gặp người kia là chia tay trong hờ hững. Người kia lén xuất cung bị biết được, vì cung nữ trong điện Trường Môn nên đành phải tới điện Tuyên Thất cầu tình. Sau đó, bệ hạ ân xá cho bọn họ, còn đồng ý để người kia xuất cung. Trong đại thọ của Trưởng công chúa Quán Đào, người kia xuất cung chúc thọ, bệ hạ cũng tới đó rồi được người kia săn sóc khi bị dị ứng nổi mẩn do uống rượu. Đêm Trừ tịch của năm Nguyên Thú đầu tiên, bệ hạ ở lại Trường Môn, sáng sớm chia tay trong nặng nề.

Nàng biết nàng không thể oán, không nên oán nhưng từng chuyện, từng chuyện đều không khỏi gợn lên trong lòng. Dù không đau nhưng nếu cứ kéo dài mãi thì sẽ khiến nàng trở nên ưu sầu. Nàng muốn nhắm mắt che tai không nhìn tới, không nghe tới nhưng vẫn tự có người đến báo, còn nàng đành phải gượng giữ vẻ mặt tươi cười, lắng nghe.

Nàng biết bệ hạ coi trọng Trần A Kiều, không cho phép nàng động tới người ta. Những năm này, nàng ở trên ngôi vị hoàng hậu nhưng vẫn luôn ghi nhớ lời giáo huấn năm xưa, một mực án theo ý tứ của y mà hành sự, giữ yên hậu cung để y có thể an tâm lo chuyện nước. Cũng vì thế nên bệ hạ mới có thể để nàng ngồi trên ngôi vị hoàng hậu nhiều năm như vậy. Y lại không biết, tuy nàng mỉm cười nhìn y lui tới các tòa điện trong cung Vị Ương, bề ngoài vẫn tỏ ra bình thản nhưng trong lòng lại đau nhói. Nếu có thể, sẽ chẳng người phụ nữ nào nguyện chia sẻ phu quân với người khác, trừ phi người đó không hề có chút tình cảm. Nàng yêu thương y nên nhất định sẽ đau đớn.

Trước khi Trần A Kiều trở về, nàng cho rằng mình có thể cứ cười như vậy đến suốt đời, cao cao tại thượng nhưng tịch mịch, đợi chờ Lưu lang thỉnh thoảng lui đến. Trần A Kiều trở về đã phá vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi đó của nàng.

Giờ nàng mới biết, hóa ra nàng có thể chịu đựng được chuyện Lưu lang ở chung với những người con gái khác nhưng không thể dễ dàng tha thứ chuyện Lưu lang quay lại với Trần A Kiều. Điều này không khác một cái tát giáng thẳng vào nàng, nói cho nàng biết rằng, thắng lợi mà nhiều năm qua ngươi vẫn tự cho là mình giành được chỉ là giả tạo Người kia đã từ vận mệnh trở về, đòi lại hết thảy những gì trước đây nàng cướp đi.

Sau này nàng nghĩ, có lẽ lúc đó, trực giác nhạy cảm đã nói cho nàng biết, Lưu lang đã dần yêu người con gái mà y từng vứt bỏ. Như vậy, khi chính bản thân y cũng ý thức được điểm này thì chẳng phải người đã từng làm tổn thương A Kiều là nàng sẽ phải chết không chỗ chôn thây? Thế nên, cuộc đấu của nàng và người kia còn là cuộc đấu sinh tử,

Nàng cũng không biết sau khi trở về người kia sẽ thế nào nên mới bố trí một cái bẫy hết sức tinh vi, kết cục mới biết chính bản thân mình lại là người sập bẫy. Người kia thì sao? Sau khi thắng rồi cũng không thèm đếm xỉa gì tới nàng mà lại xin bệ hạ một đạo ý chỉ để về phủ Đường Ấp hầu ở tạm. Lần ở tạm này dài tới một năm.

Trong một năm đó, nàng bị giam lỏng ở điện Tiêu Phòng, đối diện với cung điện hoa lệ nhưng trống rỗng, bơ vơ không biết bấu víu vào đâu. Mọi người nói rằng bệ hạ thường tới phủ Đường Ấp hầu thăm người kia, giảm bớt số lần lưu lại cung Vị Ương.

Nàng chỉ cười dịu dàng, lặng lẽ nghe bọn họ bàn tán, ra vẻ cảm thông lẫn bất bình thay cho mình, lòng cứ thế nhạt dần, Nàng đã yêu phải một người chưa bao giờ yêu nàng, vậy thì tình yêu của nàng cứ thế, cứ thế tan biến. Nếu tình yêu đó chỉ có thể làm cho nàng khổ, làm cho nàng đau thì nàng cũng không cần nhưng e rằng, nếu vứt bỏ nó thì nàng sẽ đau đớn không chịu nổi, đau đớn muốn chết đi. Nàng còn có người nhà phải bảo vệ, Cứ Nhi phải che chở, cho nên nàng không có thời gian để mềm yếu, không có thời gian để héo sầu xuân thu, không có thời gian để mà khóc cho mối tình đang tàn tạ.

Năm Nguyên Thú thứ hai, trưởng nữ Vệ Trường xuất giá. Đến con gái cũng đã đến tuổi gả chồng thì nàng coi như đã già rồi. Vệ Trường thật sự rất giống nàng, giấu kín những bi thương ở trong lòng. Nàng thật sự mến một thiếu niên, nhưng người thiếu niên đó lại ngại là biểu ca của nó. Cảm mến thì làm sao? Với tình cảnh của Vệ gia ngày đó thì chuyện hôn nhân của Vệ Trường là cực kỳ quan trọng với nàng. Nàng không thể để cho tình cảm riêng tư của con gái gây ảnh hưởng đến mưu đồ toàn cục. Nhưng nàng làm con gái bi thương thì lòng nàng còn bi thương hơn. Bi thương vì nàng biết rõ Vệ Trường không tình nguyện nhưng vẫn lựa chọn gả vào Lý gia. Dường như những gì trong đời nàng lại một lần nữa tái diễn, những gì làm ra hoàn toàn khác với suy nghĩ trong lòng.

Từ phương bắc truyền tin về báo rằng Khứ Bệnh đại thắng. Quả nhiên Khứ Bệnh là một đứa trẻ xuất sắc, tài hoa rực rỡ, không uổng công Vệ Trường thương yêu. Vệ Trường thật sự có cặp mắt tốt hơn nàng, nó chỉ là yêu mà không đến được, còn nàng lại vì yêu mà thành tổn thương.

Trường Tín hầu Liễu Duệ toàn thắng Hung Nô, đem về bào tỷ[3] của bệ hạ, Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm, kết hôn cầu hòa với Hung Nô đã nhiều năm. Đồng thời ở thành Trường An, sinh mạng của Vương thái hậu cũng bước tới giờ phút cuối cùng. Người phụ nữ dù tôn quý đến đâu thì khi tiến gần đến giờ phút tử vong cũng đều giống nhau. Vương thái hậu vẫn luôn mong ngóng Nam Cung trưởng công chúa trở về. Nhiều năm trước, bà đã đưa nàng đi Hung Nô kết hôn cầu hòa trong khi bản thân mình thì an nhàn ngồi trên ngôi vị tôn quý cũng cảm thấy xót xa. Xót xa cũng chỉ là xót xa, nếu mọi chuyện tái diễn, bà vẫn dứt khoát lựa chọn đưa đứa con gái yêu của mình ra đi để giúp cho chính bà và đứa con trai. Cũng giống như nếu được sống lại một lần nữa, nàng vẫn sẽ chọn cách dùng chuyện Vu cổ hãm hại Trần hoàng hậu. Xét về bản chất thì nàng và Vương thái hậu là cùng một loại người. Cả hai không phải không có tình yêu, nhưng vì những thứ quan trọng hơn tình yêu mà đành chôn vùi nó. Chỉ là Vương thái hậu thành công, còn nàng từ trước tới nay vẫn cho là mình thành công nhưng bây giờ nhìn lại mới biết nguy cấp như rơi xuống vực thẳm, thế nên hai người luôn không thể gần gũi nhau.

[3] Bào tỷ: Chị ruột.

Vào ngày Vương thái hậu qua đời, nàng đứng ở ngoài cung Trường Nhạc với tâm trạng cực kỳ hờ hững, không vui không buồn. Người phụ nữ đang hấp hối trong cung Trường Nhạc phồn hoa tôn quý là mẫu thân của phu quân nàng. Bà và nàng sống ở trong hai cung điện suốt bao nhiêu năm qua nhưng tới giờ vẫn như hai người xa lạ. Bản thân nàng tràn ngập bi thương, chẳng thể nào chia sẻ với người phụ nữ nửa đời huy hoàng nhưng sắp ra đi kia.

Song, bà lại là mẫu thân của Lưu lang. Vào thời khắc đó, Lưu lang thật sự bi thương. Dù Lưu lang có tàn nhẫn đến đâu nhưng trong lúc mẫu thân qua đời thì trái tim y vẫn thoáng có chút mềm yếu. Nàng đi theo y tới ngoài điện Linh Tâm. Mọi người nói rằng Lưu lang ở tại tòa cung điện này từ nhỏ đến lớn. Lưu lang của nàng ngồi trong điện Linh Tâm thương tiếc mẫu thân, còn nàng đứng ở ngoài, chần chừ không dám vào. Thời gian đã mài mòn dũng khí của nàng. Nàng không còn được như hồi còn trẻ, không hề sợ hãi về tiền đồ phía trước.

Người đời nói rằng, hiểu rõ tâm Hoàng đế nhất trên đời này chính là Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý hầu hạ bên cạnh y nhiều năm. Ngày hôm đó, Dương Đắc Ý đã đi khắp cung điện tìm Trần A Kiều. Nàng đứng tại đình Viễn Sơn ở rất xa, nhìn Doãn Giai La tiến vào rồi bị bệ hạ nổi trận lôi đình truyền giải tới Dịch đình. Cuối cùng là Trần A Kiều bước vào.

Nàng cứ đứng chờ mãi ở trong đình, đợi đến khi sắc trời sẩm tối, đợi đến khi những cơn gió Nam tháng Năm thổi tới, tâm hồn lạnh giá vẫn chưa thấy người kia đi ra ngoài. “Hoàng hậu nương nương”, Thải Thanh khẽ nhắc, “Chúng ta trở về thôi.” Nàng quay đầu lại, tựa hồ nghe ra vẻ bất nhẫn trong lời của Thải Thanh, cười không thành tiếng.

Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm từ nhỏ đã có tình cảm rất tốt với Trần A Kiều, trước mặt mọi người gây khó xử cho nàng, đối đãi lạnh nhạt. Sau khi Thái hậu qua đời, nàng chính là người phụ nữ tôn quý nhất Đại Hán nhưng sao lại phải cẩn trọng hơn so với trước kia? Bệ hạ dẫn Nam Cung trưởng công chúa và Trần A Kiều tới cung Cam Tuyền nghỉ hè. Sau khi trở về, ân ái càng thêm nồng thắm. Còn nàng thì trông coi ngôi vị hoàng hậu lạnh lẽo mà dần trở nên mòn mỏi, gầy yếu đến nỗi chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua cũng ngã.

“Mẫu hậu”, các con gái gọi nàng vẻ lo lắng.

“Không có chuyện gì”, nàng bình thản đáp, vẫn cười dịu dàng. “Ta đã quen rồi.” Đúng vậy, nàng đã quen. Không phải là nàng nguyện ý quen mà hiện thực buộc nàng phải như vậy, không chấp nhận thì làm thế nào?

Dương Thạch đã xuất giá, Khứ Bệnh cũng đã mất đi. Không khí tịch mịch tràn ngập cung Tiêu Phòng. Ngay cả mái hiên thoạt nhìn tráng lệ huy hoàng trong những năm đầu giờ cũng ảm đạm qua năm tháng bào mòn. Còn nàng càng ngày càng trở nên thận trọng. Cho tới bây giờ, chỉ cần con gái mạnh khỏe, gia tộc bình an, nàng sẽ có thể cứ thận trọng như vậy đi hết cuộc đời.

Cuối cùng nàng vẫn không thể chống lại con bão táp bộc phát trong Thượng Lâm Uyển. Lúc vừa nghe chuyện, nàng rất ngạc nhiên, ngoài nỗi lo lắng cho gia tộc còn là một thoáng sung sướng. Trần A Kiều kiếp này ngươi luôn thuận buồm xuôi gió mà cũng có ngày hôm nay sao? Mất đi đứa con kia, nhất định ngươi sẽ rất đau, rất đau, có đau như ta không?

Nàng gắng sức làm giảm cơn sóng lớn đổ ập vào Vệ gia nhưng không thể ngăn được nỗi sợ hãi lúc đêm khuya nằm ngủ một mình ở điện Tiêu Phòng. Chẳng lẽ lần này thật sự không qua được? Năm xưa nàng đối xử với Trần A Kiều như thế nào thì tới giờ vận mệnh như muốn báo ứng trở lại gấp bội. Người đầu tiên ra đi là ngoại trưởng tôn.

Sau đó là Dương Thạch, cuối cùng là Cứ Nhi. Vận mệnh nếu muốn nàng bại lui từng bước, nàng cũng chẳng thể cưỡng nổi. Nàng chỉ có thể ngồi trên chiếc ghế hoàng hậu giá lạnh, xung quanh chỉ còn mấy đứa con và người thân. Chỉ sợ sau cơn phong ba này thì chiếc ghế hoàng hậu cũng sẽ mất đi. Sao nàng có thể cam tâm? Nếu phía sau đã là vực sâu vạn trượng, không thể lui được nữa thì sao nàng có thể tiếp tục lui cho được? Tiếp đó, chuyện mưu phản, Vu cổ dồn dập ập đến. Tất cả đều đã sắp đến hồi kết thúc, nàng ngồi gảy đàn trong điện Tiêu Phòng. Đó là khúc Thượng Tà trong Nhạc phủ.

“Nguyện làm đôi lứa tương tri, trọn đời chẳng phân ly.

Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,

Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,

Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”

Cuộc đời của nàng, chẳng qua chỉ là một lần đánh cuộc lớn. Nửa đời trước, nàng thắng nên tới được điện Tiêu Phòng. Nửa đời sau, nàng lại thua nên tự vẫn, trả giá bằng tính mạng. Cuối cùng cũng đã xa cách với người. Lưu lang là quân vương, nhưng nàng chỉ mong mỏi y là lang quân của mình. Lúc còn trẻ, nàng lạnh lùng quan sát cô gái kiêu ngạo kia, thầm giễu cợt cô ta không hiểu chuyện. Lưu lang của các nàng là bậc đế vương làm chúa tể thiên hạ mà cô ta lại mong y chỉ sủng ái riêng mình, thế chẳng phải là quá ngây thơ hay sao? Giờ nàng mới biết, bất kỳ người con gái nào cũng đều nuôi vọng tưởng như vậy trong lòng. Chỉ là Trần A Kiều thành thực hơn, lại có tư cách để vọng tưởng nên mới nói ra không hề e ngại. Có thể sống một cuộc đời thẳng thắn như vậy, ai bảo không phải là hạnh phúc?

Đã đến bước này, nhìn lại hết thảy, nàng chỉ thấy bản thân mình luôn bị áp chế, dù ngay cả lúc đắc ý nhất là đăng cơ lên ngôi hoàng hậu thì chung quanh vẫn chỉ là màu xám. Cả đời nàng chỉ duy nhất một lần mang màu sắc ấm áp. Đó là lúc người kia còn là hoàng hậu, còn nàng mới có Vệ Trường, bệ hạ đến điện của nàng thăm nom, hai người cùng bế Vệ Trường êm đềm vui vẻ. Cảnh tượng đó rất giống hồi còn bé, nàng từng thấy một gia đình nông dân ở huyện Bình Dương, vợ chồng quấn quýt bên nhau, cho đến già vẫn còn trao nhau đầu mày cuối mắt tràn ngập yêu thương. Chính nàng đã phá vỡ sự ấm áp đó, sắp đặt chuyện Vu cổ hãm hại Trần A Kiều, đẩy A Kiều khỏi ngôi hoàng hậu. Nếu như mong muốn lớn nhất trong cuộc đời chỉ là được bên nhau đến già thì lúc ban đầu nàng cần gì phải dốc hết tâm cơ để giành giật sự yêu thương của bệ hạ. Trong buổi ban đầu đó, rốt cuộc là vì nàng muốn giành lấy yêu thương của bệ hạ, biến y trở thành Lưu lang của mình nên mới nảy sinh tình yêu hay là vì nàng nảy sinh tình yêu nên mới quyết tâm liều mạng giành giật tình cảm của Lưu lang? Điều đó ngay cả bản thân nàng cũng không biết. Nàng chưa bao giờ nguyện ý đoạn tuyệt, chỉ mong gắn bó cả đời với y.

“Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,

Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,

Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”

Nhưng Lưu lang đã đoạn tuyệt trước với nàng. Cõi đời này chỉ có một Lưu lang, vậy sao đã có một Vệ Tử Phu lại còn sinh ra một Trần A Kiều? Hoặc là đã có Trần A Kiều rồi thì cần gì phải sinh ra một Vệ Tử Phu? Vận mệnh rất công bình. Nàng đã có gan đánh cuộc thì phải chịu thua nhưng lại không dứt bỏ được vì còn bốn đứa con trai con gái lại trên đời. Nếu có thể, kiếp sau nàng nhất định không quan hệ với nhà đế vương. Nàng đã thoáng suy nghĩ như vậy khi dải lụa trắng siết qua cổ.

Hồn phách chết oan không được đầu thai nên nàng cứ dật dờ suốt bao năm, chờ đợi suốt bao năm ở trong Uổng tử thành này, ngày ngày xem cảnh bọn họ buồn, vui, tan, hợp rồi cuối cùng cũng đến một ngày chờ được Lưu lang của nàng đến. Quỷ sai đi ngang qua, khẽ báo. “Hiếu Vũ hoàng đế đến rồi đấy.”

Nàng nhìn ra đằng xa, Lưu lang của nàng đã già lắm rồi, khuôn mặt tiều tụy. Không biết y còn nhớ rằng trong cuộc đời mình từng có một người con gái tên Vệ Tử Phu hay không. Bao năm rồi, nàng chưa từng rơi lệ, bây giờ đột nhiên bật khóc. Từng giọt, từng giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống, chưa qua hết gò má đã kết thành băng lạnh.

Hiếu Vũ hoàng đế Lưu Triệt tại vị sáu mươi năm, chiến công hiển hách. Đám quỷ sai trong chốn U minh cũng nghe danh. Lưu lang cau mày hỏi, “Khi nào thì hoàng hậu của trẫm mới xuống đây?”

Quỷ sai nói: “Sinh tử có số, đã tới U minh rồi thì hãy tuân thủ quy củ của chốn U minh. Nếu Hiếu Vũ hoàng đế cùng Hiếu Vũ Trần hoàng hậu còn có duyên phận thì nhất định có thể gặp được nhau trong cõi âm này.” Y định hỏi bao nhiêu năm nhưng rồi lại thôi. Hai năm sau thì Trần A Kiều cũng đến. Khác với Lưu lang, hai người phụ nữ lại có thể nhìn thấy nhau.

“Ta và ngươi tranh đấu suốt bao nhiêu năm qua, ngươi có hận ta không?” Nàng chẳng biết hỏi gì hơn.

“Nhiều năm như vậy”, Trần A Kiều chỉ cười, đáp ngoài dự tính của nàng: “Ta đã quên mất từ lâu.”

Bao nhiêu năm đã qua… Đúng vậy, đã qua biết bao năm tháng. Trần A Kiều đã quên, nàng cũng chẳng nhớ. Tiếp sau là Vệ Trường, Dương Thạch, Chư Ấp rồi cả Cứ Nhi cũng xuống, tất cả những mối bận tâm của nàng ở trên trần thế đã hoàn toàn chấm dứt.

Quỷ sai tới trước mặt nàng, nói, “Vệ Tử Phu, ngươi đã có thể chuyển thế.” Nàng bình thản gật đầu: “Được rồi.” Chờ đợi đằng đẵng quả thật là một chuyện mỏi mệt, phải nhớ mãi một đoạn ký ức muốn lãng quên lại càng mệt mỏi.

Chầm chậm, chầm chậm, nàng cứ thế uống hết chén canh Mạnh bà vừa được bưng tới, vùi chôn hết thảy ân oán tình thù trong suốt cuộc đời.
_____________________________________________
*Núi Bồng Lai hay còn gọi là tiên đảo Bồng Lai, là một vùng đất truyền thuyết tìm thấy trong thần thoại Trung Quốc, và cũng xuất hiện trong cả truyền thuyết của Nhật Bản. Theo Sơn hải kinh, núi Bồng Lai nằm trên một hòn đảo ở phía đông của Bột Hải, cùng với bốn đảo khác: Phương Trượng, Doanh Châu, Đại Dư và Viên Kiều, là nơi các vị thần tiên cư ngụ.

Hết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 37 guests