Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam Thúc

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 50: Chú Hai.

Lúc tỉnh lại, tôi phát hiện mình đã về đến nhà của A Quý, Vân Thải đang ở bên chăm sóc tôi. Bên ngoài rất ầm ĩ, tôi bị tiếng ồn ào này đánh thức.

Tôi cũng không bị thương gì, chỉ là do cạn kiệt sức lực, cho nên ngủ ngon một giấc là cơ thể không còn gì đáng ngại. Tôi ngồi dậy, Vân Thải thấy thế, bèn đưa nước cho tôi, sau đó ra ngoài gọi người. Không lâu sau, Phan Tử vào phòng, hỏi tôi thế nào rồi.

Tôi không thấy chú Hai đâu, cũng không trả lời anh, mà hỏi ngay bọn Bàn Tử sao rồi?

Phan Tử nói cho tôi biết, bọn họ đã được đưa đến bệnh viện chữa trị rồi, đến giờ vẫn chưa có tin gì. Anh bảo tôi yên tâm, nếu bọn họ không chết nổi thì chắc chắn không chết nổi, còn nếu bất hạnh mà tiêu tùng rồi, thì cũng đâu còn cách nào nữa.

Tôi nghe vậy cũng an tâm hơn một chút, đưa đi bệnh viện, chí ít vẫn còn có hy vọng.

Sau đó, tôi hỏi rốt cục bọn tôi gặp phải chuyện gì? Anh cứ ra vẻ thần bí, cái gì cũng không nói, chỉ nói chú Hai nhà tôi không cho anh nói nhiều về việc này, bây giờ chú vẫn còn đang ở bên hồ, chờ bao giờ chú về sẽ đích thân nói cho tôi biết. Rồi anh bảo tôi cứ nghi ngơi đi, nói đoạn đi ra ngoài luôn, như thể đang rất vội vã.

Mấy ngôi nhà sàn gần nhà A Quý cũng đều được chú Hai bao hết, tôi còn nhìn thấy rất nhiều người làm trước kia của chú Hai với chú Ba, phải đến hai mươi mấy người, tôi nhớ lại số người từng thấy lúc ở bên hồ, chắc lần này phải đến mấy trăm người lận. A Quý đã hết hoảng loạn rồi, giờ bận bịu luôn chân luôn tay, nhưng tôi hỏi anh ta tình hình thế nào, anh ta cũng chẳng biết cái gì cả.

Tôi hết cách, đành ngoan ngoãn nghe lời, nằm ườn trong nhà A Quý nghỉ ngơi suốt hai ngày trời, sau khi sức khỏe đã hồi phục như cũ, chú Hai mới từ bờ hồ trở về.

Đi cùng với chú Hai còn có nhiều người nữa, hóa ra đều là mấy người chú họ ở Trường Sa, có vài người đã cùng lăn lộn làm ăn với chú Ba từ lâu, toàn là những nhân vật máu mặt trong nhà tôi.

Tôi nghĩ thầm, chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Sao người Ngô gia đều đến đây hết cả thế này?

Tôi không dám hỏi, bởi sắc mặt của cả chú Hai lẫn mấy người họ hàng này đều vô cùng khó coi, hàn huyên hồi lâu, mới để ý thấy ánh mắt bọn họ nhìn tôi rất kỳ quái.

Sắc mặt chú Hai rất kém, lằng nhằng một hồi mấy người họ hàng mới tản ra, chú Hai quay sang nhìn tôi một cái, rồi ôm lấy bả vai tôi, hỏi tôi có làm sao không?

Tôi gật đầu nói không vấn đề gì, bấy giờ mới thấp giọng khẽ hỏi chú chuyện gì xảy ra thế. Chú nhìn tôi, thở dài, vỗ vỗ vai tôi, ý bảo đi dạo với chú một lát.

Chúng tôi đi đến một khe suối ở thôn bên cạnh, suốt dọc đường chú chẳng nói với tôi câu nào, mãi cho đến khi tới ngôi nhà cũ đã bị thiêu rụi nọ, chú mới bảo: “Mail của cháu, chú đã đọc rồi.”

Tôi đã thầm lờ mờ đoán ra, có khả năng chuyện này với nội dung email đó có liên quan, bèn nhìn chú, chờ chú nói tiếp.

Chú dừng lại một chút, rồi mới nói: “Cháu có tin tưởng vào nội dung mà cháu viết trong mail không?”

“Chú bảo cháu phải làm sao? Cháu muốn không tin, nhưng lại không dám không tin, vì cháu không nghĩ ra được khả năng nào khác.” Tôi nói, “Chú với chú Ba ở cùng nhau lâu như thế, có phát hiện ra được điều gì khác thường không?”

Chú Hai châm điếu thuốc, nhìn tôi, cau mày không nói một lời.

Tôi nói: “Đây là điều người khác nói, chú Ba cũng không chính miệng phủ nhận, cho nên, không phải là cháu không có chút gì hoài nghi.”

Chú Hai lại nhìn tôi, rít vài hơi hút xong điếu thuốc, ngừng lại một chút, rồi đột ngột nói: “Cháu không cần phải hoài nghi, chú cho cháu biết, điều đó đúng là sự thực.”

“Sự thực?” Tôi nói, “Làm sao chú khẳng định được?”

Chú từ tốn nói: “Chuyện này, bọn chú đã biết cả rồi.”

Tôi ngẩn ra, không thể tin vào tai mình.

Chú Hai nói tiếp: “Tiểu Tà, có những chuyện không đơn giản như cháu nghĩ, nhưng cũng có những chuyện, không phức tạp như cháu nghĩ đâu.”

“Nếu mọi người đã biết cả rồi, sao vẫn để chuyện này xảy ra?” Tôi hỏi.

Chú đứng đó không nói, sau đó ra hiệu, bảo tôi đi tiếp, tiện thể đưa cho tôi một thứ.

Tôi nhận lấy, thì ra là một tấm ảnh, “Đây là?”

“Trước khi ngôi nhà cũ kia bị cháy sạch, chú giữ lại một tấm. Chú nghĩ, bây giờ mới cho cháu xem thì thích hợp hơn là lúc đó.” Chú nói.

Tôi sửng sốt, ngơ ngác, nhà cũ? Cháy sạch? Cái đệt! Không thể nào! Đoạn liền nói: “Chú Hai, đó là do chú làm à?”

Còn định nói nữa, nhưng chú lại khoát tay, bảo tôi xem kỹ tấm hình kia, “Những chuyện đó, không nhắc lại nữa.”

Đó là một tấm ảnh chụp trắng đen vô cùng bình thường, cũng là một tấm ảnh chụp chung. Nhìn kỹ, trong tấm ảnh là một người đàn ông trung niên lạ hoắc, đang nói gì đó với Văn Cẩm, đằng sau là những người khác trong đội khảo cổ. Người đàn ông trung niên không phải người trong tấm ảnh từng xem lúc trước. Người này rất trắng, rất gầy. Nhưng lại trông có chút quen thuộc.

“Đây là tấm ảnh mà Sở đầu trọc muốn cho cháu xem.” Chú Hai nói, “Chú giữ lại một tấm ảnh có khả năng nói rõ vấn đề ra nhất, nghĩ nếu như cuối cùng vẫn hết cách, buộc phải cho cháu biết việc này, thì vật chứng vẫn rõ ràng hơn là chỉ mỗi lời chú nói.”

“Chính là cái này?” Tôi có chút không hiểu, “Tấm ảnh này có vấn đề gì?”

“Không phải cháu quen biết người này hay sao?” Chú nói, chỉ vào người đàn ông xa lạ nọ.

Tôi nhìn cái người trắng bệch mà gầy gò kia, bỗng nhiên nghĩ ra hắn là ai, không khỏi “a” lên một tiếng, “Sao lại là hắn? Không phải hắn…”

Người này không liên quan gì đến câu chuyện của chúng tôi, nhưng cũng không phải là không đóng vai trò gì trong chuyện này, nếu như người đó đã cùng xuất hiện trong một tấm hình với đội của Văn Cẩm, vậy thì vị trí của hắn trong đội khảo cổ không phải là như tôi nghĩ rồi.

Chúng tôi tiếp tiếp đi dạo, chú Hai nói: “Chú không thể kể cho cháu biết chi tiết, nhưng chú có thể kể cho cháu nghe một câu chuyện. Tiểu Tà, có một số lúc, có một số chuyện, hắn chính là một câu chuyện, cháu có muốn nghe hay không?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 51: Vui vẻ.

Tôi gật đầu. Chú Hai châm một điếu thuốc nữa, nói: “Cháu đọc sách không ít hơn chú là bao, Tần Thủy Hoàng bản kỷ chắc đọc rồi chứ?”

Tôi gật đầu, làm nghề đồ cổ ai mà chẳng phải đọc “Sử ký”, đương nhiên là đọc rồi. Chú nói tiếp: “Còn “Hán thư” thì sao?”

Tôi cũng gật đầu. Chú nói: “Cháu có nhận ra không? Những vị hoàng đế cổ đại này đều có một thông lệ, dù là hoàng đế lớn hay hoàng đế nhỏ, hoàng đế chính tông hay hoàng đế xuất thân hèn mọn, hễ một khi công thành danh toại, tận hưởng thái bình, bọn họ thế nào cũng đều có chung một hành động, đó là cầu trường sinh.”

“Truy cầu trường sinh là mộng tưởng cuối cùng của mỗi bậc đế vương, cũng không có gì là lạ. Cả đời cháu nếu mà không phải lo tiền tiêu, thích giết ai thì giết, thích cưới cô nào thì cưới cô đó, vậy thì điều duy nhất mà cháu theo đuổi, chỉ e cũng chỉ là muốn tiếp tục cuộc sống như thế vĩnh viễn.” Tôi hùa theo nói.

Chú Hai không để ý, chỉ tiếp tục nói: “Nếu mở sử sách ra, cháu sẽ phát hiện, thật sự, cái lệ này rất khó phá vỡ, hơn nữa, càng là khai quốc hoàng đế thì lại càng trầm trọng hơn, Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông…” Chú dừng lại một làn, “Từng đời từng đời truyền xuống, quốc hiệu thay đổi mấy chục lần, tước hiệu cũng thay đổi, thậm chí, ngay cả danh hiệu hoàng đế cũng không còn nữa, thì thông lệ ấy vẫn không hề bị phá vỡ.”

Tôi gật đầu, đúng là như vậy. Bản tính con người cứ thế truyền thừa không thay đổi, dù anh đứng ở vị trí nào, đến một lúc nhất định, đều sẽ cảm thấy cái chết đang tới gần.

“Thế nhưng, cái gọi là bí quyết trường sinh và truyền thuyết về nó, càng đến thời hiện đại lại càng mơ hồ. Rất nhiên bậc đế vương cho rằng, manh mối của thuật trường sinh nằm trong mộ táng của các phương sĩ thời cổ, cho nên, đương nhiên sẽ xuất hiện một vài đội ngũ trợ giúp bậc đế vương tiến hành khảo sát thực địa. Những đội ngũ này thường treo đầu dê bán thịt chó, được che đậy dưới một lớp vỏ bọc biên chế hiện có.” Chú nhìn tôi, cười cười, “Những người thuộc đội ngũ này đều là những cao thủ dân gian lợi hại nhất đương thời. Từ xưa thổ phu tử, thổ địa khắp Nam Bắc, Mô kim hiệu úy, không ít người được chiêu hàng rồi ăn thuế nhân dân. Có đôi khi, dưới áp bức của cường quyền, cũng không phải là thuần phục, mà là vì già trẻ lớn bé trong nhà, buộc phải cúi đầu.”

“Có điều, những chuyện này không bao giờ được lôi ra ngoài ánh sáng, bởi vậy suốt nhiều thế hệ, những người này đều không có kết cục gì tốt đẹp. Ngoài ra, trong những đội ngũ này, lúc nào cũng có người khao khát thoát khỏi sự kìm kẹp khống chế mọi nơi mọi lúc này, chưa kể, trường sinh không chỉ hấp dẫn đối với các bậc đế vương, mà còn vô cùng mê hoặc đối với những kẻ tìm kiếm này nữa. Đến khi bọn họ thực sự phát hiện được một vài manh mối, trong lòng ắt sinh ra tư tâm.”

“Những tư tâm này, bọn họ thường kể cho anh em hoặc người nhà của mình, thành viên của những gia tộc này đều là những kẻ đã trải qua nhiều sóng gió, lăn lộn trên mũi đao, gan to tày trời. Vì vậy, một số kế hoạch sẽ được sắp đặt nên, để thực hiện tư tâm này. Một số kế hoạch thất bại, một số kế hoạch lại thành công, còn một số cũng không biết là thất bại hay thành công nữa, nhưng có thể khẳng định một điều, một khi bị phát hiện, tức là, ngày diệt vong của những người này cũng đến.”

Chú ngừng lại, ôm vai tôi nói: “Nhưng mà, có một số kế hoạch được giấu diếm suốt một thời gian rất dài, thậm chí còn thay đổi cả triều đại. Đến lúc này, hai bên đã đạt được một nhận thức chung nào đó, không ai muốn nó bị chọc ra nữa.” Nói đoạn, chú nhìn tôi, “Đặc biệt là “nó”.”

Tôi không dám nói là tôi nghe hiểu được toàn bộ câu chuyện của chú Hai, nhưng tôi hiểu rõ chú muốn nói điều gì.

Nói thật, tôi cũng hoàn toàn không ngờ, bối cảnh đằng sau sự việc này lại ở phạm vi như thế, thảo nào Sở ca nói với tôi, chuyện này không thể tra thêm được nữa. Tôi im lặng, liên kết lại những điều chú Hai nói cùng những suy đoán trước đây của tôi, mới phát hiện ra, rất nhiều chuyện đã trở nên hợp lý hơn rồi.

Tôi hỏi: “Như vậy, chuyện ở đây, cũng là một phần trong hoạt động của “nó”?”

Chú Hai gật đầu: “Chỉ e là thế, cho nên chú đã sớm biết đến sự tồn tại của ngôi làng này từ lâu rồi, vừa nghe Phan Tử nói cháu đến đây, liền thấy không ổn ngay, mới lập tức bảo anh ta đưa cháu về. Hễ là những nơi mà nhóm người kia từng đi qua, đương nhiên là hung hiểm vô cùng.”

“Chú có biết rõ tình hình ở đây không? Cái thứ trong đó rốt cuộc là cái giống gì?” Tôi hỏi.

Chú suy nghĩ một lát, nói: “Cái này, có thể là Mật Lạc Đà.”

“Mật Lạc Đà? Là cái gì cơ?”

“Mật Lạc Đà là tổ tiên người Dao, trong thần thoại, đó là nữ thần đầu tiên sinh ra từ trong núi. Chú đoán, lũ quái vật đó là nguyên mẫu của Mật Lạc Đà.” Chú móc từ trong túi ra một cục sắt, “Lần đầu tiên nữ thần này tạo ra người, lại là người sắt. Nhưng hộp sắt lại tương khắc với sức mạnh của nữ thần, nên không thành công. Năm xưa thợ mỏ dùng sắt để phong ấn người trong đá vào đó, hiển nhiên là đã nghe đến truyền thuyết này của tộc Dao, cũng gần giống với suy đoán của cháu.”

Tôi gật đầu. Chú Hai nói tiếp: “Về phần vật này sinh ra như thế nào, chỉ e không ai biết được. Nghe cháu miêu tả thì, chuyện này rất giống một nghi thức tôn giáo nào đó, các cháu trở thành tế phẩm, bị nhốt ở trong đó. Vật kia nằm ở rất sâu trong lòng núi, muốn đào xuống đó phải tốn rất nhiều thời gian, chú có cảm giác, chuyện mấy đứa gặp phải có thể là do có người đã sắp xếp.”

Chú cũng có cảm giác như thế, chứng tỏ trực giác của tôi không hề sai. Nhưng tôi nói: “Nhưng mà, cháu nói chú nghe, trong cái hầm mỏ đó lại không có bất kỳ lối ra nào.”

Chú suy nghĩ một chút, vỗ vỗ tôi bảo: “Trước đây chú đã nói rồi mà, phàm là việc đã xảy ra, cho dù cháu có thấy hiện tượng gì đi nữa, thì nó vẫn đã xảy ra rồi. Nếu cháu đã vào trong, thì đương nhiên phải có lối vào, không tìm thấy không thể nói là không có, lối vào chắc chắn vẫn ở đó thôi.”

Tôi cười khổ, lúc trước khi Bàn Tử nói, tôi cũng nghĩ như thế, nhưng không tìm thấy chính là không tìm thấy.

Bộ đàm của chú Hai đột nhiên vang lên, chú bật lên, chỉ ậm ừ vài tiếng rồi tắt. Tôi hỏi tiếp, chú tới tìm tôi sao mà phải đem theo nhiều người thế? Như vậy cũng quá khoa trương rồi! Bây giờ bọn họ đang ở bên hồ làm cái gì?

Mặt chú Hai tái mét, chỉ bảo: “Có một việc, lần này, may mà nhờ có cháu, bằng không bọn chú đã không tìm được đến đây. Về mục đích đến đây, bây giờ chú không nói cho cháu biết được, bao giờ xác thực được việc này, tự nhiên cháu sẽ biết.” Chú nhìn đồng hồ, “Chuyện này mới chỉ bắt đầu thôi, hơn nữa, chúng ta cũng không còn nhiều thời gian nữa.”

“Có liên quan tới chú Ba phải không? Có lẽ, cả “nó” nữa?” Tôi hỏi.

Chú Hai cười, “Đừng sốt ruột, đến lúc đó tự cháu sẽ biết, những gì cháu trải qua thật ra lại nhỏ bé đến mức nào. Bây giờ đừng hỏi nữa, cũng đừng đi nghe ngóng hỏi thăm thêm gì, cháu muốn tìm kiếm quá khứ của Tiểu Ca thì cứ cố gắng mà đi tìm, nhưng ở chỗ chú đây, thì bớt giở cái trò ấy ra. Chú khác lão Tam, không để cháu làm loạn đâu.”

Chú Hai không nói gì với tôi nữa. Mà tôi, khác với khi ở cùng chú Ba, cũng không khua môi múa mép cái gì nữa. Bởi có làm cũng vô ích, chú Hai tôi nói được là làm được, chú đã bảo bao giờ chứng thực được sự việc thì sẽ nói cho tôi biết, thì tuyệt đối không bao giờ nuốt lời.

Chú nói chú vẫn phải ở lại đây một thời gian nữa, tôi có thể ở lại mà chờ, hoặc đi chơi chỗ khác cũng được. Có điều, sau đó phải báo cáo lại hành tung của mình, không được chạy lung tung.

Vì nhớ Bàn Tử với Muộn Du Bình, nên chỉ một tuần sau, tôi rời khỏi thôn làng này, đến bệnh viện ở cảng Phòng Thành. Vân Thải và A Quý đưa tôi vào phòng bệnh của họ, hai người họ vẫn ổn cả.

Thực ra mà nói, vết thương của hai người bọn họ không đến nỗi trí mạng, chỉ là mất quá nhiều máu và còn bị nhiễm trùng nữa. Cũng may thể chất của bọn họ rất tốt, tôi dùng tro hương cầm máu cũng có tác dụng ngăn được vi khuẩn, cho nên chỉ truyền thêm máu là cứu được rồi. Số tro hương này cực kỳ quan trọng, nếu như bọn họ mất thêm chút máu nữa thôi, chỉ e Đại La thần tiên cũng không cứu nổi nữa.

Phương thức dùng tro hương cầm máu là do tôi nghe Bình thư của Đan Điền Phương mà biết đấy, không ngờ lại thực sự có ích như thế, xem ra đúng là phải nghe Bình thư nhiều lên một chút mới được.

Vừa nhìn thấy Bàn Tử, suýt nữa là tôi nước mắt ngắn dài. Chỉ mới vài ngày không gặp, cơ thể anh ta đã tròn quay trở lại như cũ, không giống như lúc vừa mới thoát ra khỏi điện Diêm La.

Bàn Tử thấy Vân Thải tới, đã không biết trời trăng gì nữa, lập tức nhảy xuống giường khoe khoang mình bất tử.

Bọn họ hỏi chuyện sau đó thế nào, tôi kể mình đã nhét ruột vào bụng Bàn Tử ra làm sao, rồi kéo bọn họ từ đó ra đến tận bên ngoài như thế nào.

Bàn Tử nghe xong mà sửng sốt, bảo chẳng trách gần đây cứ có cảm giác ruột mình lộn tùng phèo thế nào ấy, hễ cứ buồn đại tiện là lại ợ một cái, nói tôi đừng có mà bỏ ngược ruột đấy nhé.

Nói đến đây, chúng tôi bắt đầu bàn bạc về toàn bộ sự việc đã xảy ra. Tôi bèn lấy ra một tờ giấy cho bọn họ xem. Lúc còn ở trong nhà A Quý, tôi đã dựa vào trí nhớ, vẽ phác lại sơ đồ của ngôi làng cổ dưới đáy nước.

Nhưng cứ bàn bạc suông như vậy cũng chẳng ra được kết quả gì, Bàn Tử ầm ĩ muốn dẫn cả đám đi ăn cơm bệnh viện.

Một lát sau, lại chẳng thấy Vân Thải động đậy gì, nhìn lại, mới phát hiện cô bé đang nhìn tấm sơ đồ ngôi làng cổ dưới đáy hồ mà ngẩn người. Không phản ứng gì cả, như thể bị cái gì thu hút.

Tôi hơi ngạc nhiên, tấm sơ đồ này vẽ phác ra thôi, chẳng có gì đẹp đẽ cho cam. Tôi với Bàn Tử liếc mắt nhìn nhau, Bàn Tử hỏi: “Có chuyện gì thế, em gái?”

Vân Thải há miệng, ngẩng đầu lên nói: “Hai ông chủ, cái ngôi làng dưới đáy hồ mà anh vẽ này sao trông giống Ba Nãi thế.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 52: Ngôi làng giống nhau.

Ba Nãi chính là ngôi làng mà A Quý ở, cũng là một thôn làng người Dao điển hình, có điều, chúng tôi mới ở đó được có vài ngày, không quen thuộc địa hình trong làng cho lắm. Vân Thải vừa nói thế, tôi thật sự có chút bất ngờ.

“Điểm gì giống?” Bàn Tử cầm lấy tấm sơ đồ đưa qua, “Thôn làng của các em không phải đều na ná như nhau à?”

Vân Thải cũng không dám nói chắc, bèn đưa tấm sơ đồ cho A Quý, nói: “Cha ơi, cha xem xem.” Bọn tôi cũng lập tức sán lại gần.

A Quý nhìn một lúc, mới đầu dường như cũng không hiểu lắm, Vân Thải bèn chỉ vào một chỗ trên sơ đồ, sau đó trao đổi vài câu bằng tiếng địa phương, anh ta mới bừng tỉnh, gãi đầu gãi tai nói: “Í chà! Thật đúng là có điểm giống.”

Tôi bắt đầu có hứng thú, suy cho cùng bọn tôi cũng không phải dân địa phương, có nhiều điểm không thể nhạy cảm bằng những người đã sống ở đây suốt nhiều thế hệ được. Với cả, con gái cũng vốn chu đáo tỉ mỉ hơn, nên bèn bảo cô bé chỉ cho bọn tôi xem xem.

Vốn tôi tưởng rằng, có thể là do thế núi ở vùng hồ và thế núi xung quanh Ba Nãi tương đối giống nhau dẫn đến việc cấu trúc tựa núi của hai ngôi làng có thể cũng có vài điểm tương đồng mà thôi, nhưng khi Vân Thải vừa chỉ ra, tôi liền rùng mình một cái.

Bởi vì điểm giống nhau, lại chính là các con đường và các hàng rào giậu.

Vân Thải nói với tôi, lần đầu tiên cô bé nhìn thấy tấm sơ đồ này, liền phát hiện ra rõ ràng hướng đi của các con đường và hàng rào trong “ngôi làng dưới đáy hồ” này giống y đúng thôn làng của bọn họ. Điểm này khiến cô rất lấy làm lạ, dần dần sau đó mới phát hiện ra một vài bộ phận khác của ngôi làng cũng có nhiều điểm rất giống nhau nữa.

Tôi không có khả năng nhớ kỹ toàn bộ hướng đi của các con đường lát đá và bậc thang đá trong làng Ba Nãi, nhưng vẫn còn nhớ các con đường xung quanh ngôi nhà của A Quý, vừa thử tham chiếu lại, quả nhiên đúng là như thế. Chỉ cần xoay tấm sơ đồ mặt bằng này sang một hướng khác, lập tức có thể tìm thấy mấy con đường nhỏ gần nhà A Quý, những điểm giao lộ cực kỳ giống trong tấm sơ đồ này.

Tôi suy nghĩ một lát liền toát hết cả mồ hôi lạnh, điểm này có chút quá đà rồi. Tấm sơ đồ này vẽ sơ lại mặt bằng ngôi làng dưới đáy hồ, ngôi làng đó đã bị chìm có lẽ phải đến trăm năm ngàn năm rồi, thế nhưng bây giờ lại phát hiện, ngôi làng dưới đáy hồ cùng ngôi làng đang tồn tại trong hiện thực lại có vô số điểm giống nhau cực kỳ, thế là thế quái nào?

Tuy đã cố gắng kìm nén cái cảm giác sởn da gà này xuống, nhưng tôi vẫn không khỏi run bắn lên, trực giác cho tôi biết, có lẽ đây là một vấn đề lớn.

Hít sâu mấy hơi trấn tĩnh lại, sau đó bảo Vân Thải chỉ rất hết những điểm giống nhau giữa hai ngôi làng, tôi phải xác định lại xem có phải những điểm giống nhau đó là vì nguyên nhân tự nhiên đặc thù nào đó hay không.

Có lẽ lúc đó sắc mặt của tôi có hơi dọa người, Vân Thải thấy tôi có vẻ nghiêm trọng như thế liền sợ hãi, không dám nói câu nào. Bàn Tử vỗ tôi một cái, bảo tôi đừng có hù dọa con gái nhỏ nhà người ta, tôi mới nhận ra mình có hơi quá đáng rồi.

Chúng tôi bắt đầu xem xét từ cổng làng, cho đến cuối làng, càng nói, trong lòng tôi càng lạnh lẽo, nhận ra rõ ràng sự tương đồng này không thể nào là do ngẫu nhiên được. Từ vị trí mấy miếu thờ ngoài cổng làng, cho đến phần lớn những con đường lát đá bên trong, hàng rào giậu, cả cách sắp xếp nhà cửa, thực sự là quá giống nhau.

Nguyên nhân có thể tạo thành tình huống như vậy, chỉ có một khả năng, đó là ngôi làng cổ dưới đáy hồ và làng Ba Nãi đều do cùng một người thiết kế.

Thế nhưng, ai lại có thể thiết kế ra làng được? Làng xóm hình thành một cách tự nhiên, trải qua hàng ngàn năm, những người thôn dân tự điều chỉnh, sắp xếp, tìm kiếm nơi xây nhà thích hợp nhất, tìm vị trí con đường thích hợp nhất, cứ thế, dần dần tạo thành cấu trúc nhà cửa phố xá.

Điều khiến tôi chú ý nhất là sự giống nhau về độ cao của con đường. Khi một ngôi làng đã được hình thành, đặc biệt là làng trên núi, đường phố là thứ khó có thể thay đổi nhất dù trong một thời gian rất dài, bởi vậy mới có lối nói “đường cổ gió tây”. Các thôn dân cùng lắm cũng chỉ sửa chữa các con đường mà thôi, chứ không thể xóa sổ nguyên một con đường, rồi lại khai thông ra một con đường khác. Các con đường trên xóm núi mà chúng tôi từng đi qua, phần lớn đều đã tồn tại từ thời Lưỡng Tấn. Kể cả ở Hàng Châu, có nhiều con đường đá trên núi do các tăng nhân hòa thượng trong chùa tu tạc nên từ rất lâu trước kia, cho đến ngày nay, chính phủ cũng chỉ sửa chữa lại nó mà thôi.

Cho nên, sự giống nhau về độ cao giữa các con đường cổ trong làng Ba Nãi và các con đường trong ngôi làng dưới đáy hồ chính là một điều hết sức bất thường, thậm chí có thể nói là quỷ dị. Đối với một kẻ học kiến trúc như tôi mà nói, càng suy nghĩ, thì bao nhiêu thứ trong đầu lại càng rối tung lên như mớ bòng bong, mà vẫn không biết mình đang tìm kiếm điều gì.

Bàn Tử còn chưa nhận ra là tôi đã nghĩ xa đến thế, hỏi: “Thiên Chân, cậu từng nghe nói qua chuyện nào tương tự như thế trước đây chưa?”

Tôi lắc đầu bảo anh ta đừng hỏi nữa, đây không phải chỉ đơn thuần là “nghe nói qua”, hai quần thể kiến trúc có kết cấu giống hệt nhau, trong lịch sử, chuyện như thế chỉ có một người từng làm, đó là Uông Tàng Hải. Hai thành phố do ông ta chịu trách nhiệm thiết kế là thành Khúc Tĩnh và thành Áo Môn cũng đều hoàn toàn giống nhau, nhưng đó đã sang phạm vi thành phố rồi, thành thị còn có thể quy hoạch được, chứ làng xóm thì hoàn toàn khác, tôi chưa bao giờ nghe nói ở đâu có hai ngôi làng hoàn toàn giống nhau.

Hơn nữa, nếu như cả hai ngôi làng cùng tồn tại, có thể nói thật sự là một kỳ quan, hoặc là một trò đùa ác của một cao nhân ẩn thế nào đó, nhưng bây giờ, một ngôi làng còn tồn tại, một ngôi làng đã chìm dưới đáy hồ.

Dù tôi có tự nhủ mình không được phức tạp hóa vấn đề lên ra sao, nhưng trực giác của tôi vẫn cứ cảnh báo rằng, chuyện đã xảy ra ở đây tuyệt đối không hề đơn giản. Hiện giờ trong tay tôi nắm giữ một mảnh nhỏ, chẳng qua chỉ là lớp vỏ mỏng ngoài cùng của củ hành tây “sự thật”.

Bàn Tử thấy tôi không có phản ứng gì, bèn đi hỏi Muộn Du Bình. Muộn Du Bình cũng không trả lời, như thể hắn không hứng thú với vấn đề này, chỉ ngồi đờ ra.

A Quý tránh né nói: “Theo truyền thuyết của chúng tôi, ngôi làng vốn ban đầu không ở vị trí đó, mà là ở trong núi Sừng Dê. Có khi cũng đúng như lời ông chủ Béo nói đấy, ngôi làng bên dưới đó có lẽ chính là làng cổ của chúng tôi, ngôi làng không phải bị lửa thiêu, mà là bị nước nhấn chìm, sau đó tổ tiên chúng tôi bèn ra ngoài, thấy thế núi cũng tương tự, bèn xây dựng lại một ngôi làng giống hệt ngôi làng nguyên gốc, dù sao thì núi ở nơi này với núi ở ngoài kia cũng na ná nhau mà!”

Tôi nói với anh ta: “Trừ phi tổ tiên các anh có nghiên cứu rất sâu về thuật phong thủy, bằng không, cho dù có phỏng theo, cũng rất khó có thể bắt chước giống đến mức độ này.”

Muốn đạt được mức độ giống nhau như thế này, phải tiến hành đo lường tính toán rất kỹ lưỡng ở thôn làng nguyên gốc khi nó còn chưa bị nhấn chìm, mà ngày đó người Dao vẫn còn đang trong giai đoạn chưa được khai hóa, không thể có tài nghệ đến mức ấy được.”

Vân Thải bĩu môi: “Ông chủ, dựa vào cái gì mà anh coi thường người Dao thế? Không chừng có một người như vậy thật thì sao!”

Tôi cười khổ, không phải là tôi coi thường, mà là nếu điều này là thật thì sự việc phức tạp hơn nhiều, bèn đáp: “Cho dù có một người như vậy thật thì vẫn không hợp lẽ, bởi làm vậy hoàn toàn là không cần thiết. Văn hóa người Dao cũng không có quy định ngặt nghèo gì về kiến trúc xây dựng, vậy cần gì phải xây lại một ngôi làng giống hệt làng cũ làm gì? Kết cấu của ngôi làng này, bản thân nó vốn không mang ẩn ý gì đặc biệt.”

Trên khắp Trung Quốc có rất nhiều ngôi làng do cao nhân thiết kế, ví dụ như Du Nguyên thôn ở Chiết Giang, do Lưu Bá Ôn xây dựng dựa trên tinh tượng, cả ngôi làng là một bản đồ sao khổng lồ. Nhưng sơ đồ mặt bằng ngôi làng này lại hoàn toàn không có quy hoạch gì cả, dựa vào kiến thức của tôi, thì không thấy có gì kỳ hoặc trong này hết.

“Cậu nghĩ sao?” Bàn Tử hỏi tôi, “Chắc chắn là cậu có ý tưởng gì rồi.”

Quả thực, tôi có một vài suy đoán, nhưng thật ra có suy đoán cũng chẳng ích gì, bèn lắc đầu: “Tôi chỉ có thể xác định, việc này là cố ý, hơn nữa còn tốn rất nhiều sức lực mới làm được, bởi vì người bình thường cho dù có muốn xây cũng không thể xây được giống đến mức độ này.” Tôi cảm thấy điều khó lý giải nhất, đó là một sự kiện rõ ràng như thế này mà lại không có bất kỳ truyền thuyết nào nhắc đến.

A Quý có ký ức của bao thế hệ để lại, thôn làng hiện tại của bọn họ cũng có niên đại rất lâu rồi. Nói cách khác, hành động “copy” này đã xảy ra từ cách đây rất lâu. Từ một vài dấu vết trong Trương gia lâu mà phán đoán, thì thời gian khai thác mỏ ngọc cũng không quá muộn cho lắm. Nước hồ bị chảy ngược có lẽ là vì hành động khai thác mỏ ngọc này, bằng không hầm mỏ khoogn thể nào tu sửa gì được.

Ba sự kiện này, “copy”, nước hồ chảy ngược, khai thác mỏ ngọc, sắp xếp lần lượt theo thời gian phát sinh thì có lẽ sự kiện “copy” xảy ra trước sự kiện khai thác mỏ ngọc, cuối cùng mới là sự kiện nước hồ chảy ngược.

Nói cách khác, trước khi mỏ ngọc bị khai thác, cái hồ kia không hề tồn tại. Ngôi làng không bị ngập, cho dù đã bị bỏ hoang, thì nó vẫn tồn tại ở đó.

Nếu như vậy, thì chắc chắn dân bản xứ phải biết đến sự tồn tại của ngôi làng giống như đúc đó, cho dù sau này nó có bị ngập, thì trải qua thời gian lâu dài như thế, ít nhất cũng phải tồn tại dưới dạng truyền thuyết.

Hơn nữa, loại truyền thuyết này sẽ được lan truyền trong phạm vi rất rộng, ngay cả những ngôi làng ở bên ngoài cách đến mấy chục dặm, cũng không khỏi có sự lưu truyền.

Thế nhưng, A Quý lại nói không hề có bất kỳ một truyền thuyết nào đề cập đến ngôi làng dưới đáy hồ. Ngôi làng cổ bí ẩn này cứ như thể là một ngoại lệ, hoàn toàn bị người đời quên lãng trong dòng chảy của lịch sử.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 53: Âm mưu bóng gương.

Đương nhiên, sự lãng quên này có thể chỉ là tình cờ, trên thực tế, không biết bao nhiêu truyền thuyết đã bị chôn vùi trong dòng chảy lịch sử, thế nhưng, những sự chôn vùi đó thường nằm ở quy mô lớn, chứ không phải chỉ có mỗi vẻn vẹn một truyền thuyết biến mất. Truyền thuyết biến mất, kéo theo đó là cả khoảng trống hoàn toàn của cả một giai đoạn lịch sử, không có bất kỳ một thông tin gì còn lại nữa.

Tôi nghĩ trong này tất có gì mờ ám, truyền thuyết và truyện kể về ngôi làng cổ không ít, nhưng ở đây lại là một sự đứt đoạn hoàn toàn rõ ràng, thậm chí không có lấy một truyền thuyết nào liên quan đến “ngày xưa từng có một ngôi làng giống nơi này y như đúc, nhưng đã bị nhấn chìm dưới nước”, phải chăng có ai đó không muốn lưu truyền câu chuyện này?

Về loại “copy” này, kỳ thực tôi có một trực giác hết sức mãnh liệt, cho rằng đây chính là “âm mưu bóng gương”. “Âm mưu bóng gương” là một loại mưu mô thường gặp trong tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Điểm mấu chốt của âm mưu này chính là che giấu, nói cách khác, ngôi làng của A Quý là giả, để người khác không phát hiện ra ngôi làng thật đã biến mất, bèn cố ý dựng nên ngôi làng giả này.

Trực giác của tôi mãnh liệt đến thế, nguyên nhân là bởi câu chuyện hồ ma của lão Bàn Mã. Lúc đó tôi cũng đã đoán đây là một loại âm mưu bóng gương, đội khảo cổ cũ biến mất, đội khảo cổ mới không rõ lai lịch thay thế nào đó, thần không biết, quỷ không hay, chính là “bóng gương”.

Điều này cũng giải thích vì sao lại có truyền thuyết một trận lửa lớn thiêu rụi ngôi làng, ngôi làng ngày xưa chắc chắn không hoàn toàn nằm trên sườn núi, những ngôi làng trên núi thường có rất nhiều ngôi nhà lẻ tẻ nằm rải rác ở những nơi khá xa, ngôi làng này nước không nhấn chìm được, nếu như nhất định phải tiêu diệt nó, thì chỉ có thể sử dụng lửa, dùng lửa để che đậy toàn bộ dấu vết, cuối cùng mới có câu chuyện này.

Đằng sau quỷ kế này chính là một âm mưu khác còn lớn hơn nữa, thậm chí có thể máu tanh cực kỳ, người dân sống trong ngôi làng gốc chắc chắn đã bị thảm sát toàn bộ, kẻ giết người rất có thể đã cải trang thành thôn dân, vào sinh sống trong ngôi làng giả mạo, để thực hiện kế hoạch của mình. Quỷ kế này đã được thực hiện từ cách đây rất lâu, vài năm sau, lại xảy ra vụ việc ở mỏ ngọc, sau đó, ngôi làng bị nhấn chìm.

Quá nhiều sự kiện xảy ra trong một nơi, rõ ràng, trong ngôi làng giữa núi non trùng điệp này đang ẩn giấu thứ gì đó.

Tất cả thực sự vẫn còn quá mơ hồ, cảm giác không quá khả dĩ cho lắm, tôi cố gắng không suy nghĩ theo hướng này nữa, nhưng dù sao thì cũng không thể tìm được chứng cứ gì, hiện giờ chỉ có thể kìm lại bao nhiêu là nghi vấn, đợi kết quả điều tra sâu hơn sau này.

Đại não hoàn toàn không đủ xài nữa, tôi định đi kiếm chút gì uống cho thư giãn, Bàn Tử lại chậc một tiếng, chỉ vào bức vẽ hỏi tôi: “Thiên Chân, cậu xem xem, bức trang cậu vẽ trông giống cái gì kìa?”

Tiến lại gần, thấy anh ta đã cầm bút tô đen vài chỗ, loáng cái sơ đồ mặt bằng của tôi đã trở nên loang loang lổ lổ, đến khi anh ta cầm bức tranh để dưới ánh nắng, tôi mới ngẩn ra.

Được anh ta tô vẽ thêm một chút, sơ đồ mặt bằng ngôi làng của tôi đã biến thành hình dáng một con vật gì đó, có mắt và móng vuốt. Nhìn kỹ hơn chút nữa, tôi lập tức nhận ra, đó chính là một con kỳ lân.

“Càng ngày càng thú vị.” Bàn Tử lẩm bẩm.

Lông tơ toàn thân tôi dựng đứng cả lên, điều tôi nhìn thấy rõ ràng nhất, đó là hình dáng con kỳ lân nọ trông rất giống hình xăm trên người Muộn Du Bình. Cái đệt! Lẽ nào đến đúng nơi thật rồi! Tôi nghĩ thầm, mấy khái niệm trong đầu cứ không ngừng hiện lên, kỳ lân, hình xăm, sơ đồ mặt bằng, đột nhiên một suy nghĩ hiện lên trong đầu tôi.

Tôi cầm bức vẽ đi đến chỗ Muộn Du Bình, hắn vẫn đang ngẩn người.

Tôi nói với hắn: “Mau mau! Cởi quần áo ra!”

Hắn sửng sốt, vẻ mặt khó hiểu, tôi đưa bức vẽ cho hắn xem, không ngừng giải thích như vậy như vậy, hắn vẫn chẳng hiểu mô tê gì, nhưng vẫn nghe lời tôi cởi quần áo ra.

Tôi nhìn động tác của hắn mà ngứa ngáy vô cùng, thật muốn đạp một cú lật ngửa hắn ra, dí mặt vào nhìn cho kỹ. Chờ hắn cởi đồ xong tôi mới nhớ ra, lúc bình thường hình xăm trên người hắn không hiện ra.

Tôi hỏi Muộn Du Bình thế là thế nào, hắn nói, hình xăm này vốn là dùng nhựa của một loài thực vật có gai mà vẽ nên, bình thường màu sắc trong suốt, chỉ khi nào nhiệt độ cơ thể vượt quá một mức nhất định mới biến thành màu đen. Thời cổ người Mèo gặp nhiều bệnh do trời nóng ẩm, loại hình xăm này có thể dùng để kiểm tra nhiệt độ của trẻ con.

Đương nhiên, nhiệt độ cơ thể vượt quá một mức nhất định, có cũng thể là do vận động mạnh nữa, cho nên khi Muộn Du Bình đánh lộn kịch liệt hoặc là khi hắn kích động, hình xăm cũng vẫn hiện lên. Cũng bởi vì độ đậm nhạt khác nhau, mức độ nhạy cảm với nhiệt độ cũng khác nhau, cho nên chỉ khi đánh lộn ác liệt, hình xăm mới hoàn toàn hiện lên đầy đủ.

Bàn Tử lấy túi chườm nóng, chúng tôi ép Muộn Du Bình chườm nóng ngực hắn, quả nhiên, hình xăm màu đen dần dần hiện lên.

Bàn Tử nói: “Cái đệt! Chiêu này tốt thật! Sao trước kia tôi không biết cái này.” Tôi bắt đầu quan sát kỹ lưỡng hình xăm của hắn cùng bức vẽ của tôi.

“Cậu xem vị trí của tòa cổ lâu đi.” Bàn Tử nói, chỉ vào con đường nhỏ bên cạnh tòa tháp, “Nếu như làng này giống với Ba Nãi, thì vị trí của tòa cổ lâu dưới đáy hồ vừa đúng là vị trí ngôi nhà sàn của Tiểu Ca, nếu so với hình xăm trên người Tiểu Ca, thì vừa đúng vị trí mắt kỳ lân.”

“Í...?” Tôi hơi giật mình, vừa xem kỹ thì quả đúng như thế, Bàn Tử quả nhiên kỹ tính.

Điều này có ý nghĩa sâu xa gì đây?

Bàn Tử lại nói: “Như vậy có thể xác định được một điểm, đó là Tiểu Ca có liên quan sâu xa gì đó với chuyện này.”

Tôi hứ một tiếng, đúng là nói thừa.

Bàn Tử bảo không phải thế, việc này đối với bọn tôi có ý nghĩa xác định phương hướng cực kỳ quan trọng. Lúc trước mới chỉ suy đoán, rằng có lẽ ở đây sẽ có ít manh mối gì đó, bây giờ thì có thể khẳng định được rồi. Suy đoán và khẳng định là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, từ nay về sau phương hướng làm việc của chúng tôi cũng sẽ có sự thay đổi.

Tôi gật đầu, nói vậy cũng đúng, hơn nữa, sự việc trong thôn làng này vừa mới bắt đầu, vẫn có việc để làm.

Bàn Tử với bọn tôi tiếp tục thảo luận phương hướng tiếp theo, “Cuối cùng coi như cũng tra ra được đầu đuôi sự việc rồi, cũng không cần quá gấp, dù sao thì ngôi làng này cũng không thể đột ngột biến mất được nữa, chúng ta nhất định phải tiếp tục chờ đợi, điều tra một cách có hệ thống hơn. Ngoài ra, cũng phải từng bước hỏi thăm khắp xung quanh ngôi làng này, để xem có thể tra ra được cái gì không. Thu xếp một chút, trước hết phải quay về đem theo ít đồ đạc, kế tiếp có lẽ phải ở đây lâu dài rồi.” Nói đoán nhếch miệng cười với Vân Thải: “Em gái à chúng ta còn ở cùng nhau dài dài rồi!”

Vân Thải cũng cười cười, ánh mắt lại không kìm được đảo qua nhìn Muộn Du Bình.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 54: Vị khách không mời mà đến.

Những chuyện sau đó kỳ thực không cần phải ghi chép lại, nhưng nó có chút liên quan đến những việc xảy ra sau này, cho nên cũng đáng để nhắc tới.

Năm ngày sau, chú Hai rời đi, tôi không biết các chú đã tìm được gì ở nơi này, chung quy chú vẫn chẳng nói gì cho tôi biết cả, nhưng chú hẹn khi nào về lại Hàng Châu sẽ nói chuyện nghiêm túc với tôi một phen.

Bàn Tử và Muộn Du Bình không bị quá nhiều vết thương nghiêm trọng, cho nên sau khi cứu chữa xong, chỉ một hai tuần sau là có thể xuất viện. Chúng tôi không về Hàng Châu ngay, mà quay lại Ba Nãi lần nữa. Bàn Tử đã kết luận Muộn Du Bình có mối liên quan gì đó với nơi này, bởi thế, có lẽ chúng tôi còn ở lại đây lâu dài để thu thập thêm nhiều manh mối hơn nữa.

Bốn ngày sau, chúng tôi quay về chỗ hồ nước nọ, tế bái mấy bộ hài cốt giữa hồ, đắp cả một nấm đất vàng.

Lão Bàn Mã không còn xuất hiện nữa, điều này làm tôi vô cùng áy náy, nhưng nghĩ đến tội nghiệt của lão ta, có cảm giác đây cũng là số mệnh. Có các trang thiết bị trục vớt chuyên nghiệp của tôi, chúng tôi bắt đầu trục vớt kỹ lưỡng hơn, hy vọng có thể tìm thêm được nhiều manh mối hơn nữa. Chúng tôi lần lượt vớt được vô số thứ linh tinh, nhưng không có phát hiện gì đặc biệt quan trọng.

Sau đó, chúng tôi chuẩn bị tiến vào ngôi làng cổ nọ, kiểm tra tòa lầu của nhà họ Trương kia kỹ lưỡng hơn. Nhưng có một điều cực kỳ quan trọng, đó là các bình dưỡng khí đều đã tiêu hao hết, phải đi đổi bình mới.

Trùng hợp làm sao, đến ngày cuối cùng khi công việc lặn xuống nước đã xong xuôi, trong lúc chúng tôi lên bờ để chuẩn bị đi về, bên hồ lại xảy ra một biến cố.

Lúc đó chúng tôi còn đang ở giữa hồ, Bàn Tử vừa nổi lên liền lớn tiếng gọi bọn tôi, lau mặt một cái, rồi chỉ lên bờ. Tôi nhìn về phía bờ, thấy ở đó không chỉ có nhóm Vân Thải, mà còn xuất hiện thêm bao nhiêu là người nữa, lại còn đang dựng lều trại.

“Cái đệt! Thế này là thế nào?” Bàn Tử lấy làm lạ hỏi, “Chỗ này biến thành điểm du lịch rồi à? Sao toàn người với người thế này?”

Tôi thở hổn hển mấy hơi, cẩn thận quan sát kỹ lưỡng, phát hiện trong đám người đó có rất nhiều thôn dân trong làng, thấy cả Vân Thải đang trò chuyện với bọn họ, trong số đó còn có mấy người ăn mặc rất thời thượng, không rõ lai lịch. Còn có thêm nhiều người nữa đang đi xuống đây dọc theo con đường mòn, dắt theo rất nhiều la, cõng theo đủ các loại gói, bọc.

Tôi không nhận ra bất cứ ai trong nhóm người này, có lẽ không phải người của chú Hai quay lại.

Từ tốn bơi trở về bờ, tôi phát giác chuyện này có điểm quái lạ, vì những người đó mang theo quá nhiều la, bao nhiêu là đồ đạc túi lớn túi bé chất cả đống. Có mấy căn lều lớn đã được dựng nên, trên bãi đá ai nấy đều bận bịu, có vài người hơi ngạc nhiên liếc nhìn qua đây, nhưng nhìn chung chẳng ai để ý đến mấy thằng mặc quần đùi ngoi lên từ dưới nước bọn tôi.

Chúng tôi chẳng biết phải phản ứng thế nào nữa, bèn đi đến bên cạnh Vân Thải và A Quý. Tôi bỗng nhìn thấy một người, đó chính là cái gã thân hình ngắn tũn nói giọng Bắc Kinh đặc sệt mà chúng tôi gặp phải trong nhà lão Bàn Mã đây mà. Gã đang sẵng giọng chỉ đạo mấy anh thôn dân bốc vác làm cái này cái kia, vẻ mặt ngông nghênh đắc ý lắm.

Hạng người này tôi gặp nhiều rồi, nhớ lúc đó có nghe được, gã ta hình như theo chân một ông chủ lớn ở Bắc Kinh đến đây, như vậy, có lẽ đám người này cũng đều do ông chủ Bắc Kinh này mang tới. Lẽ nào bọn họ cũng hỏi thăm chuyện của lão Bàn Mã, cũng định tới đây tìm đồ? Như thế cũng quá đông người rồi!

Gã nhìn thấy bọn tôi, coi như là đã từng gặp mặt một lần, bèn lân la tới chào hỏi. Tôi cũng lười suy nghĩ nhiều, khách sáo đôi ba câu, rồi đi vòng qua gã, đến chỗ Vân Thải hỏi chuyện.

Cô bé nhỏ giọng bảo, nghe mấy người làng nói, có một ông chủ cực lớn mướn bọn họ vận chuyển đồ đạc đến nơi này, cụ thể như nào thì cũng không rõ lắm.

Tình huống này tương đối xấu hổ, tôi không hy vọng lại xảy ra chuyện như thế này, nhưng hồ này là của tập thể mà, tôi đâu thể không cho người khác đến đây được. Mục đích của nhóm người này có lẽ là mấy cục sắt kia, tôi không biết bọn họ có biết sự thật đằng sau mấy khối sắt đó hay không, hay chỉ đơn thuần là muốn cứu chuộc mà thôi, đâm ra tôi không nghĩ ra được đối sách nào cả.

Người của bọn họ cứ ùn ùn kéo tới không ngừng, sáu báy căn lều được dựng lên, giọng ai cũng đặc sệt chất Bắc Kinh, làm tôi trong thoáng chốc cứ ngỡ mình đang ở bên bờ hồ Hậu Hải.

Bọn tôi ngồi xuống, vừa nghỉ ngơi vừa cảnh giác xem bọn họ làm việc. Thực ra thì cũng bực mình thật, giống như mình đang chơi bóng trong sân banh, đang chơi hăng say, bỗng tự dưng có một đống người ùa vào, ai nấy đều cao to lực lưỡng, nhân số còn đông hơn gấp mấy lần, lúc này mình buộc phải ngoan ngoãn ra khỏi sân mà nghỉ ngơi thôi.

Tôi vừa rủa thầm vừa chăm chú quan sát bọn họ đang vận chuyển cái gì đó, bèn theo dõi xem có phát hiện ra điều gì hay không. Không nhìn thì thôi, đã nhìn rồi, trong lòng tôi liền trĩu nặng hẳn xuống. Trong đống bao lớn bao nhỏ này lại có vài cái mặt nạ thở dưới nước, xem ra số vật tư này có lẽ là thiết bị lặn.

“Người ta đến là đã có chuẩn bị.” Bàn Tử hừ một tiếng, “Chúng nó biết rõ dưới nước có cái gì.”

Tôi suy nghĩ một chút, rồi nói với Bàn Tử: “Có phải có ông lớn nào trên Bắc Kinh tới đây đào hàng không? Mấy người đó anh có quen không?”

Bàn Tử nói: “Ở Bắc Kinh phần đông là thương buôn với mối lái, trong Phan Gia Viên có mấy ai là đích thân xuống đất đâu, tôi nghĩ khả năng này không lớn. Đám người này không phải dân lăn lộn xứ “tứ cửu thành”( “tứ cửu thành” tức bốn cổng hoàng thành và chín cổng nội thành, chỉ thành Bắc Kinh.) đâu, tôi thấy có khi không phải người quen của tụi mình. Mấy năm nay, đâu đâu cũng có thế lực mới nổi.”

“Anh ở Bắc Kinh quen biết rộng, nhìn xem, có nhận ra được một, hai người nào không?” Tôi hỏi lại.

Bàn Tử lắc đầu, “Tôi nhìn thế nào cũng không có lấy một nhân vật nào nổi cả, cậu để tôi nhìn kỹ xem, có điều, khẩu âm Bắc Kinh của mấy tay này cứ là lạ. Chờ chút, để ông Béo nhà cậu đi nghe ngóng xem sao, để xem có hỏi ra được ông chủ của bọn chúng là ai không.”

Bàn Tử bèn đi về phía doanh địa tấp nập người tới kẻ lui, dùng phương ngôn Bắc Kinh chào hỏi với một người trong số đó, nhưng người đó chẳng thèm phản ứng lại với anh ta. Nhưng Bàn Tử là nhân vật nào chứ? Anh ta lập tức đi theo, loáng cái bọn họ đã đi ra tít xa.

Tôi nghĩ xem mình có thể làm những gì, vào trong doanh địa đó đi lượn một vòng, xem xem có cái gì, hay là thẳng thắn đi tìm ông chủ của họ luôn?

Cuối cùng, tôi lại chẳng làm cái gì cả, bởi cơn đau nhức ê ẩm sau khi lặn dưới nước làm tôi không tài nào đứng dậy nổi, hai mắt và hai tai cũng rất khó chịu, đặc biệt là tai, vừa ngứa vừa đau, nghe tiếng động gì cũng thấy quái quái, xem ra lặn dưới nước sâu gây tổn hại cho cơ thể rất lớn.

Trong lúc đang suy tư xem nên làm gì bây giờ, bỗng nhiên, Muộn Du Bình ngồi phía sau nhéo bả vai tôi một cái.

Lại nhéo đúng chỗ thế chứ lỵ, tôi thoải mái đến mức rụt cả cổ lại, nghĩ bụng cái tên này tự dưng có lương tâm, đi xoa bóp mát xa cho tôi cơ đấy. Rồi lại nghe hắn khẽ giọng bảo: “Xem kìa.”

Tôi lại quay lại chú ý đến doanh địa kia một lần nữa, cứ nghĩ nơi đó chẳng có gì khác thường, lại phát hiện ở khu rừng bên cạnh lại có thêm một nhóm người nữa đến, có một người đã dỡ đồ trên lưng la xuống. Gã lùn tịt xun xoe chạy đến đón.

Quan sát kỹ, tôi thấy người nọ khá lớn tuổi, xuống khỏi lưng la bước đi cứ lảo đà lảo đảo, đứng cũng không thẳng được lưng lên nữa. Xung quanh người này có thêm mấy tùy tùng, kẻ trước người sau lũ lượt tiến về phía chỗ chúng tôi.

Tôi định đứng lên, thì Muộn Du Bình lại kéo tôi lại. Tôi quay đầu, thấy hắn cúi xuống nấp sau lưng tôi, nhìn chằm chằm người kia, nói với tôi: “Đừng để bọn họ nhìn thấy tôi.”

“Sao thế?” Tôi giật mình, ngồi thẳng lên che Muộn Du Bình lại, nhìn đám người kia ngày càng tới gần. Cái người có vẻ như là đại nhân vật được dìu đi kia, hóa ra lại là một ông lão cao lớn nhưng gầy còm, có thể thấy, hồi trẻ nhất định là rất khôi ngô. Ông cụ này được một đám người vây xung quanh, nên tôi không nhìn rõ mặt mũi, chỉ cảm thấy ông cụ này rất già, bước đi hoàn toàn chẳng có tí sức nào, đã gần đất xa trời lắm rồi.

Đám người bên cạnh ông cụ có nam, có nữ, rất hỗn tạp, gã lùn tịt nọ hình như đang giới thiệu nọ kia. Mấy người đó vừa đi vừa nói chuyện, cũng không đến trước mặt bọn tôi, mà quẹo vào trong một căn lều.

Chờ bọn họ vào trong lều rồi, Muộn Du Bình mới buông bàn tay đang ghì chặt vai tôi xuống. Vai tôi bị hắn bóp chặt quá, khí huyết không thông, tôi phải xoa xoa mấy cái, rồi mới hỏi hắn: “Sao thế? Anh quen người này?”

Hắn gật đầu, sắc mặt tái mét: “Cầu Đức Khảo.”

“Cầu Đức Khảo?” Tôi sửng sốt, “Ông già này chính là Cầu Đức Khảo?” Tôi suýt thì nhảy dựng lên. Mẹ kiếp! Mấy người này cũng là đội ngũ thuộc công ty của A Ninh, không ngờ ông già này lại tự mình ra trận.

Nhất thời tôi cũng không biết phải phản ứng thế nào nữa. Cầu Đức Khảo trong lòng tôi đã có một hình tượng nhất định, vừa rõ ràng cũng vừa mơ hồ, đó là một nhà truyền giáo có gương mặt nhã nhặn như Sven Hedin, nhưng cũng hơi giống tên bịp bợm Marco Polo. Mà hồi nhỏ, trong những câu chuyện mà ông nội kể cho tôi nghe, Cầu Đức Khảo là một tên xấu xa bại hoại, tôi thậm chí còn từng tưởng tượng lão ta là một con yêu quái đầu to mặt sói. Thật không ngờ, người thật lại là một ông già khô đét như thế.

Sự tưởng tượng này làm tôi thấy vô cùng quái lạ, cảm giác rất không thật. Những câu chuyện của ông nội đối với tôi hồi bé không khác gì truyện cổ tích, mà bây giờ, nhân vật trong truyện cổ tích đó đột nhiên nhảy ra khỏi cuốn sổ của ông nội, trong khoảnh khắc, tôi cứ có cảm giác rối loạn.

Lão ta đến làm gì? Xem tình hình này, có lẽ là đã biết chuyện dưới đáy hồ rồi. Sau vụ ở đầm rắn, cả lão ta lẫn chúng tôi đều không bỏ cuộc, tiếp tục điều tra vụ việc, rồi cũng tra đến tận nơi này?

Nhưng mà, phương hướng điều tra của chúng tôi hoàn toàn là tùy hứng mà làm, nền tảng cơ sở của bọn chúng khác chúng tôi, sao có thể đụng mặt nhau được? Lẽ nào bọn chúng vẫn luôn theo dõi tôi?

Ngẫm lại thấy cũng không đúng, nếu là theo dõi, bọn chúng không thể nào chuẩn bị đồ đạc trang bị còn chu toàn hơn cả bọn tôi được. Chúng tôi hoàn toàn không biết ở nơi đây phải cần đến đồ lặn, mà bọn chúng lại mang đến, chứng tỏ bọn chúng biết nhiều thứ hơn tôi nhiều, mà ít nhất cũng phải biết được từ rất sớm. Tôi có chút hưng phấn, cũng có hơi sợ hãi. Lão già này lại tự mình xuất hiện ở đây, chứng tỏ không phải chuyện đùa nữa rồi. Tuổi lão ta đã không còn thích hợp để bôn ba đường trường, lần này xuất hiện, nhất định phải là một phen được ăn cả ngã về không.

Rốt cuộc phía dưới đó có thứ gì?

Ngẫm nghĩ kỹ lại, cục diện bây giờ thật là phiền phức, quan hệ giữa bọn tôi và bọn chúng lại quá phức tạp. Ông nội tôi với Cầu Đức Khảo xem như là kẻ thù truyền kiếp, mặc dù bây giờ tôi chẳng có suy nghĩ báo thù gì, nhưng mối quan hệ này khiến tôi không thể nào có hảo cảm gì với bọn chúng được. Mà ân oán giữa chú Ba với Cầu Đức Khảo, lại khiến loạn càng thêm loạn.

Hai bên dù không có địch ý, nhưng có sự cạnh tranh rất gay gắt, ở thế địch mạnh ta yếu, phải suy nghĩ thật kỹ xem làm thế nào để xử lý mối quan hệ này đây.

Thôi cứ đi bước nào hay bước ấy.

Tôi kìm lại nhịp tim mình xuống, lại nghĩ đến một việc. Không phải Muộn Du Bình bị mất trí nhớ sao? Sao hắn lại nhận ra Cầu Đức Khảo? Hơn nữa, hắn trốn tránh cái gì?

Quay đầu lại, tôi liền hỏi hắn. Hắn về nhìn đăm đăm về phía căn lều nọ, đáp: “Lúc còn ở trong bệnh viện, tôi từng gặp ông ta một lần.”

“Bệnh viện? Ở Bắc Kinh hay ở Cách Nhĩ Mộc?” Chúng tôi được người của Cầu Đức Khảo đón ra khỏi Sài Đạt Mộc, có điều tôi không nhớ là đã từng đụng phải lão ta, lúc đó lão ta còn chịu đả kích nhiều hơn cả bọn tôi nữa.

“Bắc Kinh.” Hắn trả lời. “Vừa tháng trước nữa.”

Đó là lúc hắn ở Bắc Kinh chữa bệnh. Mẹ nó! Cầu Đức Khảo từng gặp Muộn Du Bình rồi à? Sao Bàn Tử không nói tôi biết?

Lại nghĩ đến đó, cái tên Bàn Tử này, nói nghĩa khí thì đúng là đầy nghĩa khí, nhưng bảo anh ta đi chăm sóc người khác thì đúng là không xong. Lúc tôi về Hàng Châu, bảo anh ta trông coi Muộn Du Bình, chắc lại trông một nửa thả một nửa đây mà. Với cả, cái loại người như Muộn Du Bình, một mình hắn mà ở chung với bất cứ ai cũng hết sức khó khăn. Không có tôi ở giữa làm trò mua vui, với tính cách của Bàn Tử, ở chung với hắn ta thì chỉ có nước mắt to trừng mắt nhỏ mà thôi. Lúc Muộn Du Bình gặp Cầu Đức Khảo, chẳng biết anh ta trốn tiệt ở xó nào rồi, cho nên mới không biết tí gì.

Nghĩ đến điều này mà tôi chỉ muốn chửi một trận cho bõ tức, Muộn Du Bình là con bài tẩy trong tay cả đám bọn tôi, thế mà hắn từng gặp Cầu Đức Khảo rồi mà bọn tôi lại chẳng biết tí gì? Nói cách khác, nếu Cầu Đức Khảo ra tay cứng lên một chút, Muộn Du Bình bị lão ta bắt đi cũng có khả năng lắm, lỡ mà thế thật thì bọn tôi đây thắt cổ quách cho rồi. Bàn Tử quá lơ là rồi! Cả Muộn Du Bình nữa, rõ thật là, cái gì cũng chẳng nói ra.

“Lão ta tìm anh làm gì?” Tôi hỏi Muộn Du Bình, “Sao không nói tôi một tiếng, hả anh Hai của tôi ơi?”

Hắn không đáp, rụt lại nấp sau người tôi.

Quay ra, thấy Cầu Đức Khảo được đỡ ra khỏi lều, lão ta nhìn khắp bốn phía, rồi đội mũ lên, đi về phía bóng cây gần đó.

“Anh trốn cái gì?” Tôi lại hỏi, “Bị lão ta nhìn thấy thì sao? Có khi lão biết tỏng anh ở đây từ lâu lắc rồi ấy chứ.”

Muộn Du Bình lắc đầu, nói với tôi: “Chúng ta không thể để bọn chúng giành trước, phải kéo dài thời gian của chúng.”

“Anh định làm gì?” Tôi hỏi.

Hắn chỉ vào đống trang bị lặn ở một bên, “Chúng ta cướp mặt nạ thở của chúng.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 02 Dec 2019

Chương 55: Giở trò.

Tôi hiểu ý của Muộn Du Bình ngay lập tức, trong đầu có ánh sáng lóe lên, nghĩ sơ sơ một chút mà không khỏi thầm khen hay.

Chúng tôi bây giờ không có mặt nạ thở, nếu bọn Cầu Đức Khảo có bất kỳ hành động nào, cũng chỉ biết ngồi khô trên bờ mà xem. Mà nếu quay về lấy mặt nạ thở rồi trở lại, thì không chừng trong lúc đó người ta đã giải quyết xong xuôi hết mọi sự rồi ấy chứ. Nhỡ dưới nước này có cái gì then chốt, thì chúng tôi coi như chẳng có chút cơ hội nào nắm được tiên cơ.

Quả đúng như lời Muộn Du Bình nói, có lẽ đây chính là cơ hội duy nhất.

Nhân lúc bọn chúng còn không để ý bèn chạy đi cướp mặt nạ thở của chúng, sau đó phá hỏng trang bị lặn, không còn bình dưỡng khí, dù bọn chúng có máy nén không khí thì cũng bó tay. Đây là mánh khóe tiên hạ thủ vi cường điển hình, hành động ngay trong lúc không ai ngờ nhất.

Có điều, trong điều kiện hiện nay, liệu có cướp được không nhỉ? Tôi tự hỏi. Mặt nạ thở được đặt ở chỗ bãi sông cách hồ nước một đoạn khá xa, qua đó lấy, cho dù Muộn Du Bình có một địch mười thì cũng bị vướng bọn tôi, tôi với Bàn Tử thế nào cũng bị túm lại đánh chết tươi trước khi kịp nhảy tùm xuống hồ.

Suy nghĩ một chút, tôi nói: “Anh nói có lý lắm, nhưng việc này không gấp được, người ta quân số đông như thế, mình không đọ lại được. Chờ đến tối khuya, len lén chạy ra trộm là được mà.”

Muộn Du Bình lắc đầu: “Chúng ta không có buổi tối nữa rồi, một khi sắp xếp hạ trại xong xuôi, bọn chúng sẽ xuống nước ngay, cậu xem kìa.”

Hắn chỉ về một hướng, ở đó đã có người người ngồi bên hồ bơm đầy các túi khí, còn có người lội vào trong hồ, rõ ràng đó là thợ lặn, lặn xuống trước để quan sát tình hình.

“Vì sao bọn chúng phải vội thế?” Tôi rất lấy làm lạ.

Muộn Du Bình ngập ngừng một lúc, rồi đột nhiên nói: “Có lẽ, không còn thời gian nữa rồi.”

Tôi sửng sốt, những lời này bật lên từ miệng hắn nghe có vẻ đầy thâm ý, nhưng hiện nay tôi không hơi đâu mà suy ngẫm nó nữa.

Bàn Tử chạy lạch bạch về, anh ta vừa nghe kế hoạch của bọn tôi, kêu a một tiếng, lắc đầu bảo: “Mẹ kiếp! Vừa mới làm thân được với bọn chúng một tí đã phải đi cướp của chúng rồi, làm thế thanh danh ông Béo ta đây thối hoắc lên mất!”

Tôi nói: “Nhỡ dưới nước này có minh khí, bọn chúng lặn xuống mò lấy hết luôn thì sao. Anh muốn minh khí, hay muốn danh tiếng?”

Bàn Tử suy nghĩ một lát rồi nói: “Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy lời của Thiên Chân đặc biệt rất thuyết phục. Vậy trước hết chúng ta cứ kệ danh tiếng cái đã, cậu bảo giờ làm sao?”

Tôi lại ngẫm nghĩ một lát, dùng vũ lực xông tới mà cướp thì không được rồi, tôi liền bảo Bàn Tử đi chuẩn bị bè gỗ nhỏ, chất đầy đá lên đó. Chúng tôi không thể vác mấy cục chì nặng trịch lên lưng rồi lao vào trong hồ được, nên chỉ có thể dùng đá tảng để tăng sức mặng. Sau đó, nhất định phải tìm cách nào đấy đánh lạc hướng bọn người kia, rồi nhanh chóng chôm lấy mặt nạ thở.

Khoảng cách từ nơi đặt mặt nạ thở đến mép nước, nếu chạy với tốc độ nhanh nhất, có lẽ cũng chỉ tốn khoảng ba mươi giây thôi. Nhưng trên con đường này lại có quá nhiều người đi lại, chỉ cần hơi có động tĩnh một chút là bị người ta đuổi theo ngay. Trộm đó ngay trước mắt nhiều người đến vậy, đòi hỏi kỹ xảo khéo léo và tố chất tâm lý tốt.

Về việc này, tôi không phải dân trong nghề, nghĩ thế nào cũng thấy không ổn. Hơn nữa, lại nghe Muộn Du Bình nói thế kia, cảm giác rất vội vã, như thể mình sắp tuột mất mọi cơ hội rồi ấy.

Lúc này, Bàn Tử lại có cách. Anh ta liếc nhìn mấy người kia một lượt, rồi lại nhìn vị trí đặt mặt nạ thở, đột nhiên nói: “Mấy cậu biết cưỡi ngựa không?”

“Làm sao?” Tôi hỏi.

Anh ta chỉ vào mấy con la đứng một bên, nháy mắt ra hiệu: “Xem cảnh dân nài ngựa Mông Cổ cướp dê chưa?”

Tôi chẳng hiểu ý anh ta gì cả, cau mày nói: “Nhưng la khác ngựa mà, con la sao chạy nổi bằng ngựa?”

“Mẹ! Tụi mình không đua ngựa, mà chỉ cần nó chạy cho vài chục mét thôi. Lũ này to bự như vậy, chúng nó mà chạy lồng lên, ai dám cản? Vấn đề chỉ có một, trong lúc chạy tuyệt đối đừng có lăn ra ngã.”

Có hy vọng! Tôi gật đầu túi bụi. Bàn Tử lập tức đi chuẩn bị ngay. Chúng tôi đẩy bè gỗ vào hồ trước, sau đó quay lại, cắn răng bỏ tiền ra cho người trông la, nói muốn mượn la đi vận chuyển ít đồ đạc.

Người nọ đã từng gặp bọn tôi trong làng rồi, có tiền đương nhiên cứ kiếm.

Bàn Tử hỏi: “Lúc nào la chạy trốn nhanh nhất?”

Người kia bảo: “Lúc động dục, kéo cũng không kéo lại nổi.”

Bàn Tử nói: “Cái này hơi khó, còn kỵ cái gì nữa không? Con la sợ nhất là gì?”

Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi kéo la, thong thả đi vào trong doanh địa bận bịu tấp nập. Đến gần nơi đặt mặt nạ thở, liếc nhìn nhau, tôi đã căng thẳng đến mức toát mồ hôi đầy người.

Ba người dắt một con la, cảm giác rất ngốc, như mấy nông dân Mexico ấy. Có điều, trông cũng không nổi bật lắm, vì xung quanh cũng có nhiều người đang dỡ đồ trên lưng la xuống.

Mặt nạ thở nằm trong một túi vải bạt lớn, cả mấy cái túi được buộc vào nhau, Bàn Tử xua xua la đi, rồi liếc mắt nhìn tôi, ý nhắc tôi đi tháo dây.

Tôi thấy xung quanh không ai để ý đến tôi, vừa định ra tay, bỗng nhiên nghe phía sau có người gọi một tiếng: “Này! Mấy người đang làm gì thế?”

Tôi quay ngoắt lại theo phản xạ, thấy một cô gái đang đi về phía mình, có mấy người hóng mát dưới bóng cây cũng đều đứng lên hết cả. Tôi liền luống cuống, nghĩ bụng phải làm sao bây giờ? Bị phát hiện rồi!

Ngay trong khoảnh khắc đó, Bàn Tử xồ đến, chộp lấy túi đựng mặt nạ thở kêu to: “Mau lên la!”

Tôi cũng lập tức chộp túi mặt nạ thở lên. Ba người treo lên lưng la, Bàn Tử ra sức quất mông la, gào lên: “La phát điên rồi!”

Đừng xem la bình thường đi chậm rì rì, nó đột ngột phi vút một cái, tôi suýt nữa ngã ngửa, cộng thêm hai túi vạt bạt của tôi với Bàn Tử bị buộc liền với nhau, hai đứa bọn tôi co kéo một hồi, cứ như làm xiếc, vô cùng nguy hiểm.

Tất cả mọi người đều quay hết sang phía này, cô gái phía sau mau chóng phản ứng lại, kêu toáng lên: “Cản bọn chúng lại!”

Bàn Tử phỏng đoán không sai một tí nào, con la này chạy vun vút khí thế đến kinh người, cứ lao đầu về phía trước, khiến hai người đang dựng lều che nắng phía trước giật mình bỏ chạy tán loạn, thậm chí còn vấp ngã xuống đất.

Bàn Tử vẫn gào lên: “Tránh ra! Coi chừng!”

Ba người lao về phía bên hồ, đằng sau nhốn nháo đều chìm trong tiếng thét chói tai của cô gái lúc này, nhưng trong tình huống này ai dám chạy lên? Bị la đạp một cước cũng phải thương tổn đến cả gân cốt, thế là nhất thời, cả quãng bên hồ nhốn nháo nhộn nhạo, gà bay chó sủa.

Tôi còn chưa kịp phản ứng, con la đã chạy tới mép hồ. Nó lại sợ nước, quẹo một cái, cả đám bọn tôi ngã túi bụi xuống đất.

Trán tôi đập phải một tảng đá, rồi được Bàn Tử đỡ dậy, con la vẫn tiếp tục lao đầu chạy. Quay lại, thấy cô nàng nọ đã dẫn theo vài người đuổi tới nơi, chúng tôi lập tức vội vàng chạy vào hồ nước.

Một khi đã tới bên hồ, chúng tôi liền chiếm được ưu thế. Hồ này mực nước giảm xuống rất nhanh, vừa nhảy xuống hồ, đạp nước vài lần đã đến độ sâu chân không với tới. Chúng tôi kéo hai túi mặt nạ thở vào chỗ nước sâu. Bơi ra được khoảng mười mét, quay lại nhìn xem, thấy mấy người kia cũng xuống nước.

Bơi đến bên bè gỗ nhỏ, ôm lấy tảng đá, Bàn Tử kêu: “Chìm!” Ba người bọn tôi cùng ngụp xuống nước, nhanh chóng chìm xuống.

Ở dưới nước, chỉ thấy mấy người kia đã bơi đến nơi rồi, suýt chút nữa thì bị bọn chúng túm lại. Có mấy người lặn xuống mò một vòng, nhưng chẳng mấy mà lại nổi lên hết.

Chúng tôi ung dung mặc cả bộ đồ lặn, mặt nạ thở, đeo kính lặn. Đúng là dụng cụ chuyên nghiệp, loáng cái xung quanh đã trở nên rõ ràng hẳn lên. Tôi thở hắt ra để đẩy nước ra khỏi kính lặn một nửa, đeo bình dưỡng khí, đeo chân vịt, hai người kia cũng trang bị đầy đủ cả rồi.

Trang bị của Cầu Đức Khảo đúng là hàng cao cấp, trên đai lưng còn có dây đeo công cụ nữa, trong đó còn có đèn pin siêu sáng Led Lenser, dao găm và một lon dưỡng khí đơn, một lon này có đủ lượng khí duy trì được khoảng ba phút đồng hồ. Để vận chuyển mấy thứ này lên núi cần thủ tục rất lằng nhằng phiền phức, xem ra người này bối cảnh không hề nhỏ.

Kiểm tra mọi thứ xong xuôi, tôi đã chìm xuống đáy hồ, có đủ đồ lặn có thể lặn xuống đến hai ba trăm mét, chút chiều sâu ấy tôi không thèm để vào mắt. Quan trọng là, đối thủ không còn mặt nạ thở nữa rồi, không cần lo có người lặn xuống đuổi theo mình.

Bàn Tử ra hiệu, chỉ về phía trước. Vị trí hiện tại cách vị trí lặn xuống lần trước một đoạn, mực nước vẫn tương đối nông, phía trước là cả một khoảng mênh mông sâu thăm thẳm, ngôi làng cổ chính là nằm ở chỗ này. Chúng tôi phải rời khỏi vị trí này, hồ nước này nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, chỉ cần bơi chếch sang chỗ khác, đến lúc lên bờ, đám người kia cũng chỉ biết trơ mắt nhìn mà thôi. Bật đèn pin, tôi bắt đầu đi theo Bàn Tử, cuối cùng bơi đến phía làng cổ, thả các khối chì và bình dưỡng khí xuống, nhìn chúng dần chìm xuống giữa ngôi làng, rồi lặn thẳng đến phía đầu hồ bên kia.

Lúc len lút trèo lên bờ, thấy bên kia hồ nhốn nháo lộn xộn.

Lúc sau có A Quý và Vân Thải đến tiếp ứng cho bọn tôi, chúng tôi cười thầm trong bụng, len lén chuồn về.

Hết quyển 6
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Quyển 7 _ Cung Lung Thạch Ảnh

Image


Chương 1: Khởi Đầu.

Sau khi quay trở về thôn làng, chúng tôi quyết định ai nấy quay về chỗ của mình, vì bọn tôi đã rời đi khá lâu rồi. Thế là chúng tôi lên kế hoạch, Bàn Tử phụ trách việc chuẩn bị trang thiết bị, còn tôi, tiếp tục công việc thu thập tìm kiếm tư liệu.

Về Hàng Châu, tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình.

Lúc đặt kế hoạch với Bàn Tử, tôi còn chưa nghĩ ra phải thu thập tài liệu như thế nào, về sau tôi suy nghĩ kỹ hơn, muốn hiểu rõ được thân thế của Muộn Du Bình, có lẽ phải bắt đầu từ con đường chính quy mới được. Những điều tra lúc trước cho thấy: những người trong nghề không biết gì mấy về hắn, hắn có lẽ đã từng tham gia vào đội khảo cổ những năm tám mươi của thế kỷ trước, chắc hẳn phía trên tổ chức vẫn còn ghi chép lại. Vào thời kỳ đó, người tham gia vào những dạng công tác như thế này cần phải có lý lịch sạch sẽ, xuất thân rõ ràng, có lẽ tôi sẽ tìm được ít manh mối nào đó trong các tập hồ sơ cũ ở Trường Sa, ít nhất là có thể tìm được mối quan hệ giữa hắn và tổ chức, sau đó tìm một hai người quen biết hắn, hoặc là đi theo bất cứ manh mối nào có được. Vì thế, tôi chuẩn bị bắt tay vào phương án này.

Có điều, nơi lưu trữ hồ sơ của thành phố, đặc biệt là hồ sơ về nhân sự, đều được bảo mật kỹ càng, hồ sơ cũ, nhất là những văn kiện của Đảng thì đừng hòng lấy được, đội khảo cổ này được thành lập vào đầu những năm 1980, lại còn gặp nạn, nên rất có thể những tài liệu có liên quan đều thuộc dạng bảo mật, muốn xem cũng nào dễ dàng gì.

Ngoài ra, muốn tìm hồ sơ, cách tốt nhất là bắt đầu ra tay điều tra từ phía cơ sở nghiên cứu nơi đã phái đội khảo cổ này đi, từ đó đến nay đã hơn hai mươi năm trôi qua, thời gian không quá dài, chắc là cơ sở này vẫn còn tồn tại.

Tôi không biết đó cụ thể là cơ sở nghiên cứu nào ở Trường Sa, có điều, ở thời kỳ đó chắc là không có quá nhiều hạng mục công tác như bây giờ đâu, mà cơ sở nghiên cứu có liên quan đến đội khảo cổ này có lẽ chỉ có duy nhất một cơ sở mà thôi. Thời điểm đó các thành viên trong đội đa số là sinh viên, như vậy, rất có khả năng đó là một đơn vị trực thuộc một trường đại học nào đó, không quá khó để kiểm chứng.

Sau vài lần tra cứu, quả nhiên đúng như tôi nghĩ, đúng thực là có một cơ sở nghiên cứu cũ giống như những gì tôi đã suy đoán, hiện tại đã bị sát nhập, địa chỉ cũ nằm ngay trong khuôn viên một trường đại học lớn.

Khu trường đại học đó sắp di dời, khi tôi và Vương Minh đến đó, bên ngoài đã dán đầy những chữ “dỡ bỏ” to tướng, chắc là đã bán đất cho công ty bất động sản nào rồi. Nếu tôi đến trễ mấy tháng nữa, chắc là chỉ còn lại một khoảnh đất trống mà thôi.

Coi như là cũng có manh mối, cơ sở nghiên cứu đã bị sát nhập, có lẽ hồ sơ đã được chuyển đến cơ sở mới, cũng rất có thể hồ sơ vẫn còn lưu trữ lại trong phòng lưu trĩ của trường đại học. Tôi hiểu rõ mấy cơ quan đoàn thể này lắm, tôi không tin mấy tập hồ sơ cũ rích từ hơn hai mươi năm trước mà vẫn còn có người quan tâm.

Có điều, chuyện này không tiện hỏi thăm, tôi dựa vào quan hệ, vòng vèo quanh mấy mối quan hệ cũ của chú Ba mấy lượt liền, cuối cùng tìm được một người đang công tác trong cơ sở nghiên cứu đó, người này họ Đỗ, tên rất thú vị, là Quyên Sơn. Tôi biếu ông ta hai cây thuốc lá hiệu Trung Hoa, hỏi rõ vụ việc, ông ta liền nói văn phòng đã chuyển đến địa chỉ mới rồi, nhưng hồ sơ thì vẫn lưu trữ trong trường học, sở nghiên cứu này vốn ăn bám vào trường đại học này, nhiều nhân viên trong đó là giảng viên của trường, nếu tôi muốn xem, ông ta có thể đưa tôi vào xem, ngoại trừ cửa vào không tiện lắm thì không gian bên trong khá rộng rãi. Nhưng các tập hồ sơ cũ rất khó tra cứu, ông ta bảo tôi đừng hy vọng quá nhiều.

Không tán gẫu nhiều thêm nữa, tôi lên đường luôn vào ngay đêm hôm ấy.

Có thể thấy rõ tòa nhà cũ của ngôi trường đại học này vốn là khu bệnh viện cũ được sửa sang lại, phòng lưu trữ nằm ở tầng hầm bên dưới hội trường lớn, rộng khoảng trăm mét vuông, rõ ràng là một cái kho hàng. Chẳng tốn mấy phần công sức, tôi và Đỗ Quyên Sơn đã đi men theo đường hành lang thấp bé chật hẹp xuống dưới tầng hầm, bên dưới chẳng có một ngọn đèn nào, tối đen như mực, lấy đèn pin mà chiếu, mới thấy dưới đó toàn là những kệ sách bằng gỗ xếp thành từng hàng, trên giá chất đầy những cặp hồ sơ gói giấy xi măng, dày có mỏng có, nguyên vẹn có rách nát có, nằm ngang có dựng thẳng có, phần lớn đều bị phủ một lớp bụi dày, còn ngửi thấy cả mùi giấy ẩm.

Đỗ Quyên Sơn nói với tôi, những hồ sơ sau năm 1995 thường dùng đều đã được chuyển đi, số còn lại là những tài liệu chẳng bao giờ dùng đến, có khi đến lúc bị tiêu hủy mất cũng chẳng có ai thèm lật ra xem ấy chứ.

Tôi thấy cảnh tượng này, cảm giác cứ âm u thế nào ấy. Nhưng mà vậy cũng tốt, tiết trời tháng tám ở Trường Sa rất nóng bức, đến tối mới mát mẻ hơn một chút, cộng thêm bầu không khí âm u này, lại có cảm giác mát mẻ sảng khoái. Tôi cắn đèn pin, tay quạt quạt, rồi bắt đầu tìm kiếm kỹ lưỡng kệ sách ngay trước mặt.

Nói đến đây mới nhớ, tôi biết đại học Thanh Hoa còn có một khoa chuyên ngành quản lý thư viện, hồi đó tôi còn lấy làm lạ, quản lý thư viện thì có gì mà phải học? Đến giờ thấy quy mô phòng lưu trữ này, tôi mới hiểu ra, người nào quản lý nổi cái đống này cũng có thể gọi là thiên tài, người bình thường nhìn những hàng kệ sách này mà hoa hết cả mắt, mà đây mới chỉ là một phòng lưu trữ nho nhỏ của một cơ quan nghiên cứu nho nhỏ thôi đấy, chứ nếu là phòng lưu trữ cấp quốc gia, thì phải bao nhiêu người mới lo liệu nổi cơ chứ?

Đỗ Quyên Sơn sợ tôi gây rắc rối gì làm tổn hại đến ông ta, nên cứ đứng ở bên cạnh suốt nhìn tôi, giúp tôi cùng kiếm, còn hỏi tôi một vài chi tiết cụ thể để giúp tôi lọc hồ sơ.

Vì một vài nguyên nhân đặc thù, quy định về hồ sơ lưu trữ của Trung Quốc rất hoàn thiện, chỉ cần dựa theo quy luật nhất định thì chắc chắn có thể tìm được tập hồ sơ đó, miễn là tập hồ sơ đó vẫn còn được lưu trữ. Tiếc là bây giờ tôi như con rắn mất đầu, chỉ biết được số năm chung chung, ngay cả số hiệu của đội khảo cổ kia tôi cũng không biết, cuối cùng chỉ còn cách lật xem từng tập hồ sơ một mà thôi.

Tìm suốt nửa ngày trời mà vẫn không có thu hoạch gì. Ý tưởng của tôi là tìm kiếm dựa theo số năm, tất cả hồ sơ ở đây đều được sắp xếp theo thứ tự từng năm, như vậy, chỉ cần tìm được khu vực khoảng năm 1980 đến 1985, sau đó tìm đến các tập tài liệu liên quan đến công tác khảo sát, là có thể tìm được thông tin về những người từng tham gia công tác đó. Trường Sa xưa thuộc nước Sở, tuy các hoạt động khảo cổ tương đối nhiều, nhưng chắc chắn số lượng cũng chẳng đến bao nhiêu, chỉ khoảng một kệ sách là đủ. Sắp lật giở hết số hồ sơ trong khoảng năm năm này rồi mà vẫn không tìm được bất cứ văn kiện nào có liên quan đến công tác khảo cổ ở biển năm ấy.

Tôi thầm lấy làm lạ, hỏi Đỗ Quyên Sơn, liệu chỗ khác có còn nữa không?

Ông ta lắc đầu, nói nếu ở đây không có thì coi như thật sự không có rồi, trừ phi tập hồ sơ này nằm trong phòng lưu trữ tuyệt mật. Còn nếu không, thì có lẽ là bị tiêu hủy rồi.

Ông ta an ủi tôi, nói đây là chuyện bình thường, có lẽ giống như cậu đã nói, sau khi đội khảo cổ mất tích đã xảy ra chuyện lớn gì đó, để giữ bí mật, hồ sơ đã bị xử lý.

Chúng tôi dọn dẹp lại các tập hồ sơ về chỗ cũ, trong lòng có chút buồn bực, có điều, tôi cũng đã dự đoán được là việc này sẽ không dễ dàng gì rồi.

Hậm hực bước ra khỏi phòng lưu trữ, tôi vừa tiếc hai cây thuốc phí hoài vô ích, vừa nghĩ xem nên làm gì tiếp bây giờ. Nếu con đường này không đi được, vậy thật đúng như lời Muộn Du Bình nói, hắn ta hoàn toàn là một người không có bất cứ liên quan gì đến thế giới này.

Lúc này, tôi chợt thấy cầu thang trước mặt còn có một lối đi xuống nữa, hình như bên dưới phòng lưu trữ này còn một tầng ngầm nữa. Lối đi xuống bị chặn bằng một cánh cửa sắt, bị một sợi xích sắt rất to đã rỉ sét hết khóa chặt. Trên cánh cửa có dán giấy niêm phong không biết từ niên đại nào rồi.

“Bên dưới này có gì thế?” Tôi hỏi.

“Bên dưới là phòng lưu trữ hồ sơ những năm từ trước 1950. Sau Văn Cách, sợ phản động gây chuyện, bèn khóa lại, mấy chục năm rồi chưa có ai mở cửa.”

“Thế cơ à?” Tôi cầm đèn pin chiếu vào, thấy rõ sợi xích sắt rỉ sét đã bị ai đó dùng kềm cắt đứt rồi, chỉ treo hờ bên trên giả bộ mà thôi, nếu không nhìn kỹ, quả thực không phát hiện ra được việc này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 2: Hồ sơ cũ.

Xích sắt đứt lìa, thêm một lớp rỉ sét cũ kỹ, trên sợi xích giăng đầy mạng nhện, chứng tỏ đây không phải chuyện mới xảy ra.

“Í!” Đỗ Quyên Sơn cũng rất kinh ngạc, “Thế là thế nào?”

“Không sao, chỉ là ông anh nói nhầm rồi thôi, có người đã xuống dưới này rồi.” Tôi nói, đi qua lớp rào sắt của cánh cửa, cầm đèn pin chiếu xuống dưới xem thử. Trên cầu thang chất đống mấy thứ linh tinh, bụi phủ đừng hỏi, bốc lên đầy mùi xưa cũ.

“Đừng bảo là chú em định đi xuống đấy nhỉ? Bên dưới đó bẩn lắm!” Ông ta nói.

Tôi cũng đang do dự không biết có nên xuống đó hay không, hình như dưới này không liên quan gì lắm đến mục đích tới đây của tôi. Xích sắt bị cắt đứt, có đến hàng trăm vạn lý do cho việc đó, thậm chí có thể cánh cửa này vốn chưa từng bị khóa. Mà cho dù có là vì lý do kỳ quái đến mức nào, thì cũng liên quan đếch gì đến tôi? Nghĩ vậy tôi định bỏ qua.

Đang định rời đi, theo phản xạ có điều kiện, vung đèn pin chiếu khắp xung quanh một lượt, lại chiếu đến giấy niêm phong dán bên cửa.

Có lẽ là di chứng của công việc làm bản rập lâu năm, tôi liếc thấy hàng chữ viết bằng bút lông lại không kìm được nhìn nhiều thêm một chút. Hoặc cũng có thể là do vị trí của tờ giấy niêm phong này hơi kỳ lạ, quá thấp, có hơi gai mắt, nên vô thức nhìn kỹ.

Vừa nhìn kỹ, tôi liền ngẩn cả người. Tờ giấy niêm phong cũ kỹ được dán chỉnh tề trên cánh cửa, không bị xé rách.

“Lạ thật, anh xem này!” Tôi nói với Đỗ Quyên Sơn, “Xem ra, sau này người ta mới niêm phong lên.”

Ông ta tiến lại gần xem, cũng lấy làm lạ, nói: “Có lẽ trong sở có người phát hiện xích sắt đã bị cắt đứt, nên mới dán niêm phong lên.”

Vậy lại càng lạ hơn, vì sao không thay xích mới rồi khóa lại? Dán niêm phong thì có tác dụng gì? Tôi nói, rồi chiếu đèn pin vào hàng chữ trên tờ giấy, “Xích cũng cắt rồi, còn sợ niêm phong cái gì?”

“Ở đây làm gì có gì đáng tiền. Hay là người ta nghĩ đồ đạc dưới này còn chẳng đáng giá bằng một sợi xích sắt cũng nên!”

“Có lý.” Tôi thấy hơi buồn cười. Có đồ, không có nghĩa là có được giá trị của món đồ đó. Những tập hồ sơ cũ rích này đối với người thời nay mà nói, không chỉ không đáng một xu, mà đem xử lý nó có khi còn tốn kém hơn, đó cũng chính là nguyên nhân cho đến tận bây giờ mà nó vẫn nằm ở đây.

Hàng chữ trên giấy niêm phong viết: Sở nghiên cứu khảo cổ đại học XX niêm phong, ngày 6 tháng 7 năm 1990.

Tôi làm bản rập, rất có trực giác với chữ viết tay, hàng chữ viết bằng bút lông đó rất đẹp, lối viết này chắc chắn là phỏng theo nét thư pháp thường thấy, hơn nữa, cứ có cảm giác vô cùng quen thuộc.

Xem ngày tháng ở đó, niêm phong dán từ năm 1990, lúc đó Văn Cẩm đã biến mất, việc này có lẽ không liên quan gì đến bọn họ.

Tôi thầm vui mừng reo lên, được lắm! Hy vọng đã hoàn toàn tiêu tan, thôi thì quay về bắt đầu lại từ đầu thôi! Thế là, tôi gọi Đỗ Quyên Sơn dẫn đường. Ông ta cũng chẳng muốn ở lại đây quá lâu, dù sao cũng không phải chuyện gì tốt, nghe tôi nói đi thôi, ông ta liền thở phào nhẹ nhõm.

Đường cũ quay về, thuận buồm xuôi gió. Trải nghiệm ở thế giới văn minh vẫn dễ thở hơn dưới cổ mộ nhiều lắm, tôi không căng thẳng chút nào, cho dù có bị người ta nhìn thấy thì đã làm sao? Một trăm ông bảo vệ cũng không kinh khủng bằng một cái bánh tông mà.

Quay về nhà khách, trong lòng tôi cứ có cảm giác không tự nhiên, xem ra con đường trước mắt đã trở nên hẹp hơn nhiều rồi. Nếu không tra được manh mối gì từ hồ sơ cũ, vậy thì còn phương hướng nào để điều tra nữa bây giờ?

Nghĩ lại vẫn có chút không thể tưởng tượng nổi, vì sao lại không có hồ sơ gì nhỉ? Chẳng lẽ đúng như lời Đỗ Quyên Sơn nói? Thực ra tính khả thi không lớn, chỉ cần sự kiện ở Hoàng Sa đã xảy ra thì chắc chắn hồ sơ vẫn còn lưu giữ, những hồ sơ này chắc chắn không phải chỉ có một tập, nếu thực sự muốn tiêu hủy, thì phải có đến nửa kệ sách trống rỗng. Nhưng tất cả các kệ hồ sơ đều chật kín, không giống như đã từng bị rút ra quá nhiều.

Tôi nhận ra, có lẽ mình đã sai ngay từ ấn tượng ban đầu. Trong đội khảo cổ có cả sinh viên, cũng chưa chắc đã liên quan gì đến trường đại học. Những sinh viên này có lẽ là thực tập sinh, đã bắt đầu đi làm rồi, như vậy, nơi Văn Cẩm ở không nhất định là một cơ sở nghiên cứu.

Nghĩ vậy, trong lòng đã dễ chịu hơn nhiều. Tôi bật máy tính lên, bắt đầu tìm tư liệu về các cơ sở nghiên cứu khác, sao chép lại một lượt, rồi chuẩn bị cho ngày mai lại tiếp tục tìm người hỏi thăm. Dù sao ông đây thừa mứa nhất là thời gian, chi bằng cứ điều tra hết từng địa chỉ một, cho khỏi bỏ sót cái gì.

Chép lại xong, tôi nằm trên giường sàng lọc lại một lượt, suy nghĩ xem tiếp theo nên làm những gì. Những đơn vị này nghiêm có, lỏng có, tốt nhất là nên bắt đầu từ nơi đơn giản nhất mà làm.

Nhìn những thông tin tôi đã ghi chép lại này, đột nhiên tôi cứ có cảm giác không thoải mái, như thể những ghi chép trong quyển sổ này có điều gì đó khiến tôi phải lưu ý, tôi suy nghĩ kỹ nhưng lại không ra manh mối gì.

Lẽ nào mình bị ám ảnh cưỡng chế rồi?

Tôi phì cười, nhưng rồi lại giật thót mình, tờ giấy niêm phong kia lại hiện lên trong đầu tôi, sở nghiên cứu, sở nghiên cứu, sở nghiên cứu… sở nghiên cứu khảo cổ đại học XX…

Cái đệt mợ nó! Tôi chợt bừng tỉnh đại ngộ, hiểu ra vì sao nét chữ trên tờ giấy niêm phong kia lại quen mắt đến thế!

Mẹ kiếp đó chính là nét chữ của tôi mà!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 3: Bút tích.

Mẹ kiếp! Tôi sởn hết cả da gà, toàn thân run lẩy bẩy, thầm nghĩ không hiểu thế là thế nào? Vì sao trên tờ giấy niêm phong trong một trường đại học ở Trường Sa năm 1990 lại có bút tích của tôi?

Không đúng! Chắc chắn là tôi nhìn lầm rồi! Tôi nghĩ thầm, không thể có chuyện như vậy xảy ra được! Nhưng cùng lúc đó, tôi vẫn rất rõ ràng, trực giác của mình đối với nét chữ, bản năng nghề nghiệp nhờ xem qua hàng trăm ngàn bản rập, chắc chắn không thể lầm được.

Đó chỉ là trùng hợp thôi, tôi luyện theo thể chữ Sấu kim thể, có lẽ người kia cũng luyện thể chữ này, cho nên thần thái con chữ mới có vài điểm giống nhau như thế.

Tôi vỗ trán, tìm đến trăm ngàn lý do giải thích cho việc này, như gã đàn ông sau khi ngoại tình lại kiếm cớ biện giải cho mình vậy. Nghĩ đến đó tự tôi cũng thấy buồn cười, biết rõ những cái cớ này chắc chắn không thể nào qua mặt nổi chính bản thân tôi.

Nhìn đồng hồ đeo tay, đã nửa đêm rồi, bây giờ lại gọi cho Đỗ Quyên Sơn kể cũng không tiện, nhưng đêm nay chắc chắn là tôi không chợp mắt nổi nữa. Dù sao thì cánh cửa đó cũng ở bên ngoài phòng lưu trữ, không cần chìa khóa cũng vào được, vì vậy, tôi thu dọn đồ đạc một chút, rồi kéo Vương Minh đi, quay lại trường đại học đó xem xem rốt cục là như thế nào.

Tôi bắt taxi đến, không có thẻ công tác của Đỗ Quyên Sơn, bảo vệ nhất quyết không cho tôi vào trường. Những ai từng học đại học đều biết cách xử lý chút việc cỏn con này, tôi bèn quay ra hiệu tạp hóa gần đó mua một bao Trung Hoa, rồi nhẹ nhàng lẻn vào trong trường, dựa theo trí nhớ tìm về hội trường lớn cũ kỹ.

Cả ngôi trường đều đã tắt đèn tối om, chỉ có vài ngọn đèn đường chiếu sáng, xung quanh tối muốn chết. Nhưng bây giờ trong lòng tôi gấp như có lửa đốt, không bận tâm đến việc này, chạy thẳng xuống phòng lưu trữ dưới tầng hầm, rồi đến thẳng ô cửa sắt nọ xem tờ giấy niêm phong trên đó.

Chữ viết đương nhiên không biết chạy, vẫn còn y nguyên ở đó.

Tim tôi đập thình thịch điên cuồng, cứ như đang xem trộm phòng tắm nữ, vội vã lấy đèn pin ra chiếu.

Sở nghiên cứu trường đại học XX niêm phong, ngày 6 tháng 7 năm 1990.

Lần này tôi đã nhìn rõ ràng hơn, suy nghĩ trong đầu cũng rõ ràng hơn, từng nét bút từng nét vạch cũng đều rõ ràng hơn. Tôi xem đi xem lại, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên gò má.

Quả thực đúng là nét chữ của tôi.

Tôi chết sững ở đó, gần như là tan vỡ.

Người bình thường, miễn là không cách một khoảng thời gian quá dài, đều có thể nhận ra được nét chữ của chính mình, chứ đừng nói là nghề nghiệp đặc thù của tôi. Đây chắc chắn là nét chữ của tôi, không thể có trường hợp nào khác nữa.

Năm 1990 tôi mới mấy tuổi? Mười ba? Mười lăm? Khi đó tôi đã biết viết Sấu kim thể chưa? Mẹ kiếp hồi ấy có khi còn chưa biết viết Sấu kim thể ấy chứ! Sao lại có chuyện này xảy ra được?

“Đối với chú, tất cả đều đã kết thúc rồi, nhưng đối với cháu, thực ra chưa có gì bắt đầu cả.”

Giọng chú Ba đột nhiên văng vẳng bên tai tôi, cái cảm giác đầu đau như muốn nứt toác đã lâu không gặp này, lại bắt đầu quay cuồng trong đầu tôi.

Tôi hít sâu một hơi, muốn xua tan mấy thứ này, bắt đầu tái hiện lại tất cả những hình ảnh trong đầu. Kinh nghiệm trước đây cho tôi biết, lúc này không thể nghĩ ngợi được gì, mà hơn nữa, một khi đã rối lên thì rất khó ổn định lại, cho nên tôi phải bình tĩnh lại trước khi phát cáu lên đã.

Tôi liền nhớ ra trong một đoạn băng ghi hình mà Văn Cẩm gửi từng xuất hiện một người trông rất giống tôi, đang bò lết trong trại an dưỡng Cách Nhĩ Mộc. Nhưng lúc đó cô ấy chưa kịp giải thích cho tôi việc này, chú Ba từng nói, muốn dò hỏi về bọn họ thực không đơn giản, khi ấy tôi vốn tưởng chú chỉ nói vậy nghe cho nó oách, bây giờ nhớ lại, xem ra đúng là đáng nghi.

Rốt cục chuyện gì đã xảy ra với tôi? Việc này rốt cục phải giải thích như thế nào đây? Như thể trên thế giới này không chỉ có một tôi, mà còn có cả một tôi khác, vào thời điểm gần hai mươi năm trước đã viết xuống hàng chữ niêm phong này, tại chính địa điểm này. Cũng không bao lâu sau đó, người này lại bị quay chụp lại trong trại an dưỡng ở Cách Nhĩ Mộc…

Tôi rối bời như mớ bòng bong, hoàn toàn không có một chút manh mối gì, chuyện này còn đau đầu hơn cả chuyện của chú Ba nữa.

Tôi cầm đèn pin, chiếu về phía không gian phía sau tờ giấy niêm phong.

Giả sử tờ giấy niêm phong đó là do “tôi” dán, như vậy lại có hy vọng rồi. Ít nhất thì có thể xác định, người viết giấy niêm phong là “tôi” nhất định có liên quan đến cơ sở nghiên cứu này.

Căn hầm ngầm mà người ta cứ ngỡ rằng chưa một ai đi vào trong suốt hàng chục năm qua này, thế mà lại không chỉ có một người từng đi vào, mà còn kéo theo cả một lô chuyện quỷ dị như thế. Tôi không khỏi tò mò, lúc đó đã xảy ra chuyện gì? Xem ra, tôi không thể không xuống dưới đó để xem cho rõ dưới ấy như thế nào.

Bên dưới tối om om, như thông đạo trong cổ mộ, nhớ lại trải nghiệm bi thảm ở Cách Nhĩ Mộc, tôi không khỏi có chút sợ hãi. Có điều, nghĩ đến nơi này vẫn trong phạm vi thành phố Trường Sa, cách đây không xa còn có một đồn công an, thế giới văn minh vẫn luôn đáng tin cậy, chắc sẽ không xuất hiện tình tiết chuyện ma trong trường học đâu. Thế là tôi lau mồ hôi, vừa gỡ xích sắt vừa phiền muộn, nếu sớm biết trọng điểm nằm ở chỗ này, thì chỉ cần một bao Trung Hoa là xong việc rồi, hà tất phải biếu xén những hai cây Trung Hoa cho con đỗ quyên nọ?

Xích sắt nặng chừng mười cân, rỉ sét rất gớm, tiếng động vang lên rất to, có thể nghĩ đến việc khóa cửa sắt này lại đương nhiên phải là con người. Tôi kéo kéo hai phát, bỗng nhiên nảy ra một suy nghĩ không tốt đẹp cho lắm: dùng xích sắt to như vậy để khóa, chẳng nhẽ dưới này đang nhốt loài quái vật gì?

Rồi tôi lập tức xua tan suy nghĩ này đi ngay, làm sao có thể chứ?

Cẩn thận rút sợi xích ra, đặt qua một bên, hai bàn tay tôi đã dính đầy cặn rỉ sắt. Sau đó tôi xé giấy niêm phong, vừa đi xuống hít được hai hơi, liền bị sặc bụi đến nỗi chảy cả nước mắt.

Cầu thang lộn xộn bừa bãi, chất đầy bàn ghế cũ.

Xuống dưới, tôi nhìn thấy một cánh cửa giống với cánh cửa phòng lưu trữ bên trên, không khóa. Vào trong chiếu đèn xem, dưới này cũng là một căn phòng rộng bằng căn phòng bên trên, có điều bên trong không chứa hồ sơ, mà chất đầy đồ đạc linh tinh.

Chiếu một vòng, tôi không khỏi có hơi thất vọng. Dưới này hoàn toàn không phải phòng lưu trữ như Đỗ Quyên Sơn nói, mà là nhà kho chứa đồ đạc thì đúng hơn. Hơn nữa, nhìn bụi bặm rác rưởi ở đây, có lẽ ngay từ khi căn phòng này vừa xây xong đã chất đống đồ đạc ở đây rồi, bụi đóng một lớp quá dày.

Tôi cầm đèn pin chiếu lung tung khắp xung quanh, phải kéo áo phông lên che mũi, bởi bụi dày quá thực sự rất ngứa mũi, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu. Dưới mặt đất có mấy dấu chân lộn xộn, cũng đã đóng một lớp bụi bên trên rồi, chứng tỏ tỏ dấu chân này nằm ở đây cũng khá lâu rồi, có lẽ là từ năm xưa khi sự việc xảy ra cũng nên. Dấu chân chồng chéo lên nhau, có thể nhìn ra được là dấu chân của hai ba người, bước đi rất nhẹ nhàng, tiến sâu vào bên trong nhà kho.

Tôi đi theo dấu chân, nhìn đồ đạc lỉnh kỉnh xung quanh, cũng không biết được đó là những thứ đồ gì. Đi vào sâu bên trong được mấy bước, mới miễn cưỡng nhìn ra được đó là rất nhiều rương gỗ rất to.

Nhìn những cái rương này, tôi lại nhớ đến một câu chuyện: trong nhà kho của phòng lưu trữ quốc gia, tìm thấy được mấy rương hòm bằng gỗ, trong rương toàn là tàng kinh Đôn Hoàng, được chuyển đến trong một lần nộp phí, kết quả đất nước giải phóng, thời kỳ đầu không có ai kiểm kê, đống rương hòm vẫn nằm nguyên ở đó, đến khi chuyển đi mới phát hiện ra.

Trong nhà kho này, không biết liệu có báu vật như thế không nhỉ?

Tôi nhìn số lượng rương hòm mà nhức cả đầu, với sức của một mình tôi thì không thể tra ra được năm đó rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra trong nhà kho này. Quá lộn xộn, và quá bẩn nữa. Cho dù có tìm ra được manh mối gì, cũng chẳng có sức đâu mà đem nó đi kiểm tra.

Đi cuối nhà kho, đồ đạc linh tinh cũng ít hơn một chút, ở đó có đặt một cái rương to tướng hình vuông, trên rương còn có cái gì phủ lên. Dấu chân đi thẳng đến chỗ cái rương ấy, tôi ngồi xổm xuống xem xem, mới phát hiện bọn họ không dừng bước trước cái rương, cái rương còn nằm đè lên trên dấu chân nữa.

“Ông chủ, cái rương này bị đẩy vào trong.” Vương Minh nói.

Tức nghĩa là, bọn họ đã che giấu thứ gì đó. Với góc của cái rương và góc tường, chắc chắn phải có một khoảng không gian kẹp giữa, bên trong chứa cái gì?

Tôi nói với Vương Minh: “Đi, đẩy ra.”

“A?” Vương Minh mặt tái mét, “Ông chủ, cái này…”

“Bảo chú mày đi thì đi đi!” Tôi nói. Cậu ta đành phải nuốt nước miếng, rón rén đến gần đẩy cái rương đi. Cái rương này rất nặng, cậu ta nghẹn đến nỗi sắc mặt biến thành màu gan lợn, mới đẩy được cái rương xích sang một bên. Tôi cầm đèn pin chiếu vào xem, trong góc phía sau cái rương đó, là một đống hồ sơ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 4: Đã tìm thấy.

Những thứ này quả thực có thể coi là hồ sơ cũ, bị chuột gặm tơi tả, bên trên dính đầy cứt chuột. Tôi tiện tay rút một tờ ra, chắc là văn kiện cũ thời đó, bụi phủ cả một lớp dày.

Nếu có người từng động vào đống này, chắc chắn phải có điểm gì khác biệt, tôi vội vàng sai Vương Minh kiểm tra kỹ lưỡng xem có điểm gì khả nghi hay không?

Vương Minh rón ra rón rén bước đi trên cả đống văn kiện giấy tờ, chẳng mấy mà có phát hiện. Tôi lại gần nhìn xem, thì ra ở đó có mấy chồng văn kiện được xếp rất gọn gàng. Cả thảy bốn chồng, xếp thành hình vuông.

Vương Minh nói: “Ông chủ, anh xem có phải là thế này hay không: người này đứng xem giấy tờ ở chỗ này, đứng một lúc mỏi chân quá, bèn dùng mấy chồng văn kiện này làm ghế ngồi.”

Tôi gật đầu, quả thực, tôi gần như có thể tưởng tượng ra được cảnh tượng lúc đó. Người này ngồi trên chồng văn kiện kia, chăm chú xem xét giấy tờ.

Tôi xoay vòng tại chỗ vừa đủ một vòng ba trăm sáu mươi độ, muốn đoán xem người này lúc ngồi xuống thì quay mặt về hướng nào, lúc này mới phát hiện đằng sau lưng tôi vừa hay có một cái giá đủ để kê đèn pin làm đèn chiếu sáng. Tôi vừa tái hiện lại cảnh tượng lúc đó trong đầu, vừa đặt đèn pin lên, cúi đầu nhìn xuống chân. Gạt lớp bụi bặm rác rưởi ra, quả nhiên trước mặt xuất hiện mấy mẩu tàn thuốc năm xưa, mà ở ngay phía trước, còn có một chồng văn kiện nữa.

Một phong bì cỡ lớn ở đây ít nhất cũng phải nặng đến bốn năm cân, không thể bưng trên tay một tập giấy tờ lộn xộn mà xem được. Chồng văn kiện trước mặt tôi có lẽ là được dùng làm bàn kê. Người này xem thứ gì đó, đặt lên trên chồng văn kiện này. Vừa hút thuốc vừa xem, mẹ kiếp thằng ranh này cũng ung dung thật!

Nhưng vẫn vô dụng, khắp bốn phía toàn là giấy tờ, không cách nào đoán ra được người này tìm cái gì, hoặc có thể hắn đã tìm được thứ mình cần rồi đem đi mất.

Tôi hơi mê mẩn, cũng giả vờ như mình đang lật xem văn kiện, trong đầu bỗng nhiên lóe lên một suy nghĩ. Nhớ đến bút tích trên tờ niêm phong, không khỏi ma xui quỷ khiến nảy ra một ý nghĩ: tạm thời không bàn đến cái khác, nếu tờ giấy đó quả thực do “tôi” viết, vậy thì tôi sẽ xem văn kiện như thế nào nhỉ?

Tôi bảo Vương Minh đưa cho mình một phong bì, bóc ra, đặt trên “bàn”, cầm vài tờ giấy lên lật giở một chút. Sau đó, theo thói quen thông thường, tôi vừa suy nghĩ tay phải vừa cầm mấy trang giấy đã xem xong, đến khi số trang giấy mà tay phải cầm đạt đến một độ dày nhất định, tôi bèn đặt xấp giấy đó sang một bên cách đấy khá xa, rất gọn gàng.

Đây là thói quen của tôi, vì trong lúc chỉnh lý lại các bản rập đã làm, thường thường trên bàn tôi lúc ấy toàn là giấy tờ lộn xộn cực kỳ, cho nên, làm xong cái nào là tôi thường đặt nó ra xa, cách biệt với các phần văn kiện khác. Mà khoảng cách đó, vẫn phải nằm trong tầm với của tay.

Nhìn xung quanh một lát, nhìn xem quanh đây có chỗ nào mà tôi có thể đặt giấy tờ đã xem xong không, liền nhìn thấy ở bên phía tay phải của tôi có một cái hòm, trên hòm có đặt một xấp giấy, tôi thử vươn tay ra, khoảng cách vừa đủ.

Tôi giật mình, có hơi kinh sợ, nếu như ngay cả điều này mà tôi cũng đoán đúng, như thế chẳng phải đã chứng minh được người từng ở đây xem văn kiện quả thực chính là tôi?

Có điều tôi chỉ do dự trong một chốc, rồi với lấy xấp giấy kia. Kệ xác nó! Dù gì cũng từng chết một lần rồi, chuyện này thì có gì mà lo lắng nữa chứ?

Tôi đặt xấp hồ sơ đó lên chồng văn kiện trước mặt, trang thứ nhất là một bảng kê khai, hình như là dự toán tiền trợ cấp, có tên mấy người ở đó, khoản trợ cấp cao nhất là 447,92 tệ. Tôi không hiểu rõ lắm về chế độ lương thưởng thời đó, có điều, một khoản tiền nhiều như thế vào thời đó so ra chẳng khác gì hàng trăm triệu thời bây giờ.

Loại trợ cấp này thường là dành cho người Liên Xô, tôi không có hứng thú với chuyện này, rất nhanh liền chú ý đến hàng chữ ở góc bảng biểu: Bảng kê khai trợ cấp dành cho chuyên gia nước ngoài khảo sát công trình di chỉ khảo cổ tiệm Trương gia huyện Thượng Tư tỉnh Quảng Tây.

Đúng rồi! Chính là nó!

Lật lật giở giở, số trang đã bị xáo trộn hết cả, các trang sau vẫn là bảng kê khai này, toàn là tên người, ở cuối bảng biểu có một dấu mộc, đúng là do cơ sở nghiên cứu này đóng dấu. Trong dấu mộc này có thể thấy được ngày tháng, là văn kiện của năm 1956.

Các trang sau nữa là tổng hợp tài liệu tham khảo, không phải in ronéo, mà toàn bộ đều là viết tay, phòng bao nhiêu, chiều dài chiều rộng gì đó, còn có cả sơ đồ. Chữ viết rất ngoáy, vì chuyện vừa rồi nên tôi vô thức nhìn kỹ nét chữ, nhưng đây hoàn toàn là nét chữ của người lạ, khác biệt rất lớn, rõ ràng không phải cùng một người ghi chép.

Nhanh chóng lật mở tiếp, đến khoảng trang thứ mười bốn, mười lăm, mới thấy được một thứ khác biệt.

Đó là một bản vẽ mặt bằng của cái gì đó, nhưng không phải bản vẽ mặt bằng chuyên nghiệp thời nay, lại còn dùng bút lông để vẽ. Tôi xem thử liền biết, đây là một trang vẽ của “Dạng thức Lôi” thời Thanh.

“Dạng thức Lôi” là tên gọi khác của một gia tộc kiến trúc sư ngự dụng thời Thanh, mang họ Lôi. Bọn họ hầu như phụ trách toàn bộ công việc thiết kế công trình kiến trúc của hoàng gia, có điều, trong xã hội thời đó địa vị của thợ thủ công còn thấp, cho dù có là gia tộc thợ thủ công đệ nhất thiên hạ đi chăng nữa, thì cũng chẳng là gì trong mắt người bình thường. Thời nay đa phần người ta chẳng biết đến sự tồn tại của gia tộc này, chỉ có dân kiến trúc bọn tôi mới biết “Dạng thức Lôi” trâu bò đến mức nào mà thôi.

Lịch sử Trung Hoa năm ngàn năm, Dạng thức Lôi chỉ tồn tại vẻn vẹn hai trăm năm, nhưng di sản văn hóa thế giới của Trung Quốc hiện nay phải có đến một phần năm là do Dạng thức Lôi xây dựng nên, không thể không phục.

Sau khi xây dựng Di Hòa Viên, Dạng thức Lôi đột nhiên xuống dốc, có người đoán việc đó có liên quan đến việc triều đình Mãn Thanh không còn có thể xây dựng thêm một công trình kiến trúc đồ sộ nào nữa. Có điều, sự suy bại của Dạng thức Lôi rất kỳ quặc, tôi từng xem một bài báo, nói rằng bọn họ từ quan chỉ trong đúng một đêm, tốc độ rất nhanh, không biết đã gặp phải đại biến gì.

Sau khi suy vong, con cháu Dạng thức Lôi đem bán một lượng lớn “mô hình phối cảnh”(là mô hình phối cảnh công trình thời cổ, chế tạo để hoàng thượng ngự lãm, tương tự với mô hình kiến trúc hay sa bàn thời nay vậy.. Các mô hình của Dạng thức Lôi vô cùng tinh xảo) của tổ tiên, đây là kết tinh của nghệ thuật kiến trúc Trung Hoa, số lượng cực nhiều. Một phần bị tuồn ra ngoài hải ngoại hoặc lưu lạc trong dân gian, các quan chức trong nước cũng nắm giữ khá nhiều, cho nên vẫn là thứ thường gặp. Trong chuyên ngành của bọn tôi, hễ cứ học qua về kiến trúc nhà vườn truyền thống hay quy hoạch là đều thấy quen đến không thể quen hơn được nữa, cho nên tôi chỉ nhìn một cái là nhận ra.

Bản vẽ này chắc hẳn phải có liên quan đến di chỉ tiệm Trương gia, nói vậy, di chỉ này phải có từ thời Thanh, thậm chí có khả năng là một tác phẩm của Dạng thức Lôi.

Đây là một trang bản sao, chính phẩm đương nhiên vẫn còn nằm trong bảo tàng.

Tôi có hứng thú với mấy thứ này, bèn xem lướt qua một chút. Bản vẽ vẽ một đình viện rất lớn, có lẽ là một tòa trạch viện, xem quy mô, cao bao nhiêu sâu bao nhiêu, khá rộng lớn, xem kết cấu, có lẽ là nhà dân.

Dạng thức Lôi là kiến trúc sư của triều đình, rất ít cơ hội để thiết kế nhà dân, như vậy chủ nhân của tòa trạch viện này có lẽ là một vị quan lớn nào đó, hoặc là một người có lai lịch rất sâu xa.

Tôi nhìn sang bên xem có dòng Tiểu Khải nào ghi chú tên của tòa trạch viện này không, nhưng lại không thấy gì cả.

Mấy trang phía sau cũng là bản vẽ giống thế, đa phần đều là bản vẽ mặt bằng. Bản thiết kế của Dạng thức Lôi vô cùng tinh vi, vẽ lại hình chiếu từ các góc, hình chiếu phối cảnh, và cả phân tích từng bộ phận. Còn ghi lại cả phong thủy, địa mạo xung quanh, thậm chí còn có cả một bản sơ đồ mặt bằng cỡ lớn có chia ô của cả khoảnh đất nữa.

Lật xem tiếp, có mười mấy trang, trang cuối là mục lục, cho thấy tập hồ sơ này gồm có những gì, tôi hơi giật mình, cầm tờ mục lục đối chiếu với các trang tư liệu bên trong, mới phát hiện chỉ dựa vào số trang thôi mà đã thiếu đến sáu trang rồi.

Nếu tôi đoán không lầm, thì sáu trang này đã bị người kia cầm đi rồi. Hiện giờ những thứ còn lại trong tay tôi đây vẫn chưa phải mấu chốt quan trọng, nhưng dù vậy, đối với tình trạng không một manh mối trong tay của tôi thì đây đã là một điểm đột phá lớn rồi.

Sắp xếp lại tập văn kiện trong tay một chút, rồi lại nhìn xung quanh, biết ở đây không còn gì để thu hoạch nữa, tôi bèn gọi Vương Minh nãy giờ vẫn đang tìm kiếm quay trở lại.

Tôi phải gọi vài tiếng cậu ta mới hoàn hồn. Tôi đi tới, hỏi cậu ta đang làm cái gì đấy? Cậu ta cầm đèn pin chiếu vào một góc nhà kho, hỏi tôi: “Ông chủ, cái đó dùng để làm gì?”

Tôi ngẩng đầu lên nhìn, thì thấy đằng sau đống đồ đạc lỉnh kỉnh, có một cái lồng sắt hàn từ các thanh sắt ngang dọc lại với nhau.

Tiến lại gần xem xem, cái lồng cao cỡ nửa người, rỉ sét hết cả. Vương Minh thò đèn vào trong chiếu thử, thấy trong lồng có một cái bát sứt. “Có phải lồng nuôi chó không nhỉ?”

Tôi lắc đầu, các thanh sắt đan cài nhau rất kín, dùng để nhốt một con chó cũng không cần phải đến mức ấy chứ! Có lẽ đây là cốt thép còn thừa từ lúc xây căn phòng này, chuyện này tôi không quản được. Tôi bèn bảo Vương Minh đừng có lằng nhằng nữa, tôi còn phải vội đi xác minh lại vài chuyện.

Theo đường cũ quay trở về khách sạn, cậu ta đi tắm, còn tôi thì lên mạng, bắt đầu tra cứu các tư liệu có trong tay.

Đầu tiên là tra thông tin về cái gọi là “khảo sát di chỉ tiệm Trương gia huyện Thượng Tư”, không có kết quả gì. Ngẫm ra thì, chuyện từ năm 1950 lận, vốn cũng chưa chắc đã đăng trên mạng, mà kể cả có đi chăng nữa, có lẽ cũng chỉ có vài ba dòng chữ mà thôi, thế là tôi bèn tìm tên địa danh.

Tôi làm nghề này, nên không hiểu biết lắm về mạn Quảng Tây, tuy ở đó cũng có cổ mộ, nhưng khí hậu lại khác biệt rất nhiều so với vùng Hồ Nam, Thiểm Tây, Sơn Tây phía này. Tới đó ở ba ngày, chưa kịp xuống đất đã phải rót chén thuốc mà uống rồi, càng đừng nói là tiến vào vùng rừng rậm nguyên sinh. Còn phong tục tập quán nữa, các dân tộc khác nhau, lề thói khác nhau, không phải nơi mà người thường dễ dàng lăn lộn được. Trong xã hội cũ, đối với người Trung Nguyên, chỉ khi cùng đường lắm mới phải đặt chân đến vùng đất đó.

Lần này tra cứu tôi cũng phải ngạc nhiên, địa thế các dãy núi ở vùng đó khác biệt quá lớn, tuy có nhiều người Hán đến từ Trung Nguyên dựa theo thuật phong thủy của Trung Nguyên để phân định âm dương trạch viện ở vùng này, nhưng về mặt khái niệm vẫn hoàn toàn khác biệt.

Thật ra những nơi như thế này lại đúng là thiên hạ của đám trộm mộ thời đại mới trong dân gian, tôi nghe nói ở Quảng Tây từng có kẻ trộm một ngôi mộ lớn, trực tiếp dùng máy xúc mà đào bới, còn quá đáng hơn cả tụi Nam phái.

Tin tức trên mạng có hạn, người tôi đã nhớp nháp mồ hôi, tra cứu một lúc, điều hòa vừa bật, cả người cũng tỉnh táo hẳn lại. Vì vậy tôi đi tắm trước đã, vừa tắm vừa nghĩ, đến lúc ra ngoài quên cả mặc quần lót, dọa Vương Minh một trận khiếp vía. Tôi nhận thấy mạch suy nghĩ của mình rất hỗn loạn, mọi thứ quá lẻ tẻ, với trí óc của một mình tôi, rõ ràng rất khó để suy nghĩ hết toàn bộ mọi vấn đề trong một khoảng thời gian ngắn như vậy.

Bản vẽ của Dạng thức Lôi là một manh mối rất tốt, nhưng loại bản vẽ như thế trôi nổi trong dân gian rất nhiều, cũng không phải là một đầu mối chỉ đường cụ thể. Bắt đầu tra tìm từ manh mối này, cứ như mò kim đáy bể, càng khó tin cậy.

Đêm khuya hôm ấy, tôi mải suy nghĩ rồi ngủ thiếp đi mất, trong đầu rối như tơ vò.

Sáng ra uể oải vô cùng, tôi tắm sơ qua bằng nước lạnh cho tỉnh táo lại, sau đó lại xem qua một lượt xấp tư liệu kia hết một lượt, rồi gửi cho một vài người quen, đi thăm một vài người thân, đều là hỏi thử cho xong việc mà thôi. Cùng lúc đó, tôi cứ nghĩ mãi xem nên tìm ai hỏi thì hợp. Đột nhiên tôi nhớ đến một người, đó là bạn vong niên của ông nội tôi, hồi tôi còn bé cũng thích tôi lắm. Người này cùng nghề với tôi, trước kia từng làm ở viện thiết kế nhà cửa, chuyên công tác kiểm tra tu sửa kiến trúc cổ. Thế là tôi mua chút rượu cùng ít thức nhắm, đăng môn bái phỏng.

Bao nhiêu năm không gặp rồi, tôi nghĩ ông cụ tính khí chắc vẫn như xưa, nên không khách sáo gì cả, thẳng thắn nói thật luôn. Ông cụ mở bản vẽ ra xem một lúc, mấy giây sau mới nói: “Anh chắc chắn đây là nhà cho người ở đấy chứ?”

Tôi nghe trong lời ông cụ có hàm ý, bèn hỏi lại thế là sao? Ông cụ bảo: “Anh học kiến trúc bao nhiêu năm mà không nhìn ra à? Anh xem các ô lấy sáng của ngôi nhà này này.”

Tôi nghĩ bụng, tôi biết xem bản thiết kế công trình, nhưng bản thiết kế của Dạng thức Lôi thì nào có biết! Đó có phải vẽ bằng phần mềm vẽ kỹ thuật tiêu chuẩn đâu. Tôi nhận lấy bản vẽ xem sơ qua một chút, bỗng nhiên nhận ra điểm này không liên quan gì đến bản vẽ, vấn đề nằm ở bố cục tòa nhà. Tôi lật ngang lật dọc mấy lần, xác định phương hướng Đông Tây Nam Bắc, nhìn kỹ một chút, mới giật thót mình, quả thực có vấn đề!

Theo như thiết kế của tòa trạch viện này, tất cả các phòng dưới mái hiên đều không hứng được ánh sáng, ngay cả phản quang cũng không có. Ngay cả khi bên ngoài mặt trời chiếu sáng chói lọi nhất, bên trong vẫn có thể tối đen như mực.

“Cái này…”

“Đây là nhà tối.”

“Dạng thức Lôi” sao lại có thể thiết kế loại nhà ở như thế này? Tôi lại quan sát kỹ lưỡng một lần nữa, nhận thấy thiết kế của tòa trạch viện này vô cùng xảo diệu, trăm phương ngàn kế để tránh ánh sáng. Tuy làm vậy cũng không bảo đảm được không một tia sáng nào lọt vào trong nhà, nhưng chí ít cũng có thể xác định được bố cục này là cố ý.

Lẽ nào người sống trong nhà này không thể tiếp xúc với ánh nắng mặt trời? Ma cà rồng? Thật là vớ vẩn, nhưng rồi tôi lại nhớ đến đôi mắt của tên Kính Râm, lẽ nào người trong nhà này cũng giống như hắn, không nhìn được ánh sáng mạnh? Hay là hoàng đế lại nảy ra ý tưởng xây nguyên một căn nhà để chơi trốn tìm?

“Ông đã bao giờ thấy kiểu nhà như thế này chưa?” Tôi hỏi ông cụ.

Ông cụ nhíu mày lắc đầu: “Ngược lại thì lại có đấy. Phòng này, người sống không ở được! Nhưng thật ra tôi lại biết thời cổ đại có một nơi cũng tương tự như thế, nhưng không nghiêm cẩn đến mức này.”

“Nơi nào ạ?” Tôi hơi giật mình, truy hỏi.

“Nghĩa trang.”

“Nghĩa trang? Cả tòa nhà to như này lại để toàn là người chết?”

Không thể nào, một nghĩa trang không thể có quy mô khổng lồ như thế. Tôi có thể thấy được rõ ràng trong nhà này có rất nhiều kết cấu khác nhau, hẳn phải là nhà dân thường thời Minh Thanh.

“Anh tìm được thứ này ở đâu?” Ông cụ hỏi tôi.

Tôi đương nhiên là không thể nói thật, chỉ bảo là vét được trên thị trường. Ông cụ rõ ràng có hứng thú, bảo tôi đưa bản vẽ cho ông, để ông nghiên cứu kỹ lưỡng một chút.

Tôi đương nhiên là không chịu, nhưng ngẫm lại thì tôi cầm thứ này cũng chẳng làm được gì, bèn hỏi ông cụ liệu có thể giúp tôi đi hỏi thăm một chút về nó được chăng? Nếu có tiến triển, bản vẽ này xin biếu ông luôn, không lấy một đồng.

Lễ độ này cũng quy củ lắm, ông cụ vui vẻ nhận lời, tối hôm ấy mời tôi ở lại uống rượu.

Ông cụ sống có một thân một mình, đến tuổi già cũng thực buồn tẻ, lúc mới tới đây tôi vốn cũng muốn ở lại hàn huyên với ông một hồi lâu, cho nên đồng ý ở lại.

Hai người uống nửa cân, tôi với ông cứ thao thao bất tuyệt về chuyện Dạng thức Lôi. Ông cụ bảo tôi, thực ra Dạng thức Lôi vào cuối thời Minh đã là một gia tộc lớn về nghề thủ công rồi, đến thời Thanh, mới có một người đầu tiên vào cung, tên là Lôi Phát Đạt.

Đương thời Khang Hi muốn trùng tu lại điện Thái Hòa, vào lễ Thượng lương (lễ cất nóc), Khang Hi đích thân dẫn văn võ bá quan tới làm lễ, nhưng cây đòn dông là loại cũ, lỗ mộng không khớp, cứ treo ở đấy mà không chịu rơi, quan chủ quản Công bộ nhìn nhau kinh ngạc, chỉ sợ lỡ mất giờ lành cất nóc, bèn vội vã tìm Lôi Phát Đạt tới, còn ban tặng mũ áo cho.

Lôi Phát Đạt cầm búa trong tay áo, nhanh nhẹn trèo lên xà nhà, giơ cao cây búa đồng, chỉ nghe “rầm, rầm, rầm” ba tiếng liên hồi, cây đòn dông nặng nề rơi xuống nghe “ầm” một tiếng. Ngay lập tức, tiếng trống tiếng nhạc cùng nổi lên, văn võ bá quan kêu lên “Vạn tuế”. Lễ Thượng lương kết thúc, hoàng đế Khang Hi long tâm đại duyệt, bấy giờ mới triệu kiến Lôi Phát Đạt, đích thân ban cho chức Trưởng ban sở xây dựng của Công bộ. Bởi vậy, đương thời mới có câu ca dao “Trên có Lỗ Ban, dưới có Trưởng ban, tử vi chiếu mệnh, kim điện phong cung”.

Về sau, Lôi Phát Đạt thăng quan tiến chức vùn vụt, đến đời con trai của Lôi Phát Đạt là Lôi Kim Ngọc, thì đã thăng đến chức Chưởng án đầu mục của Dạng thức phòng rồi (Dạng thức phòng là một cơ quan chuyên phụ trách thiết kế công trình kiến trúc cho triều đình, thuộc phủ Nội vụ, dưới thời Thanh) .
Có người nói tài nghệ của Lôi Kim Ngọc còn cao siêu hơn nữa, có thể phỏng chế ra được đồng hồ tinh xảo của Tây Dương, dung hợp được máy móc của Tây Dương với truyền thống của Trung Hoa, không chỉ công trình lớn, mà ngay cả những món đồ chơi tinh xảo trong cung cũng đều do ông ta chế tác.

Tôi cũng có hiểu biết tương đối về Dạng thức Lôi, nên không hứng thú với mấy chuyện này cho lắm, bèn hỏi ông cục, không biết Dạng thức Lôi vì cớ gì mà suy bại?

Ông cụ nói việc này không ai biết rõ được, có nhiều cách giải thích lắm. Nghe nói là vì Dạng thức Lôi thời mạt đã đắc tội với Thái Hậu, lại nghe nói là vì Thanh mạt suy yếu, không thể xây dựng được công trình lớn nữa. Nhưng còn có một cách giải thích khác, không biết thật hay giả.

Tôi nói, nguyện nghe cho tường. Ông cụ uống hơi nhiều, rất nghiêm túc, thấp giọng nói: “Chúng ta đều biết Mãn Thanh đến từ vùng quan ngoại, dân du mục mà, gốc ở quan ngoại, đã là tập quán rồi. Hoàng đế Mông Cổ sau khi chết đi, thi thể đều phải chuyển đến an táng ở vùng quan ngoại. Truyền thuyết kể lại, hồi mới đầu khi Mãn Thanh vừa đánh qua ải, nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn không biết còn có thể duy trì chính quyền được bao lâu nữa, bèn đem hết toàn bộ vàng bạc châu báu chiếm đoạt được chuyển ra quan ngoại chôn giấu, hoàng đế đương thời cũng an táng ngoài quan ngoại. Về sau khi thế cục đã ổn định, mới có Đông Tây lăng xây trong quan nội.”

“Tuy nhiên, đây chỉ là mượn danh nghĩa mà thôi, hoàng thất nào cũng có nỗi bất an. Đông Tây lăng chỉ là lăng giả, chôn cất toàn thái giám và cung nữ, phần lớn hoàng đế Mãn Thanh sau khi chết đều được bí mật chuyển đến an táng ở một nơi bí mật ngoài quan ngoại. Dạng thức Lôi có nhiều bản vẽ rất kỳ quái, không biết là thiết kế cái gì, theo suy đoán có thể đó là những bộ phận của hoàng lăng ngoài quan ngoại.”

“Tuy Dạng thức Lôi không tham dự vào cụ thể quá trình xây dựng hoàng lăng, nhưng phần lớn thiết kế bên trong đều đến từ gia tộc này, thời Thanh mạt khi triều đình sắp sửa suy tàn, đương nhiên là sẽ bị bức hại, nhưng cũng may lúc đó thế cục hỗn loạn, triều đình không rảnh quan tâm quá nhiều đến việc này. Bằng không, kết cục của Dạng thức Lôi chỉ e không chỉ dừng ở đó.”

Tôi nghe mà sửng sốt, “Đông Tây lăng có quy mô lớn như thế, còn có thể là giả?”

“Đấy mới là điểm lợi hại của Mãn Thanh, thay vì tiêu tốn bao công sức vào một cái hoàng lăng, chi bằng dựng một mục tiêu giả thật lớn để thu hút hết sự chú ý của mọi người. Tôi đoán, nếu quả thực có một quần thể hoàng lăng ở quan ngoại, thế nào cũng phải ở Trường Bạch Sơn hoặc Đại Tiểu Hưng An Lĩnh.”

Tôi nghe đến đây, giật thót cả tim, nhớ đến rặng núi khổng lồ dưới lòng đất cùng hàng văn tự Nữ Chân từng nhìn thấy ở Trường Bạch.

“Đây toàn là lời đồn thổi thôi, về cơ bản đều không thể kiểm chứng được.” Ông cụ lại nói, “Anh coi, ngay đến lăng Thành Cát Tư Hãn đến bây giờ còn chưa phát hiện được kia! Việc khảo sát hoàng lăng ngoài quan ngoại có tính khả thi quá thấp, cho dù là một trăm ông chú Ba nhà anh, chỉ e cả đời cũng chẳng tìm ra nổi.”

Tôi gật đầu, điều này cũng đúng, không khỏi đổ mồ hôi lạnh.

Những việc này tôi thật sự chưa từng được nghe nói đến, Mãn Thanh cướp bóc ở quan nội nhiều năm, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự suy yếu thời kỳ sau của triều Thanh rất không bình thường, không biết có phải là vì hoàng đế đã đem chôn hết toàn bộ của cải đi rồi không. Nếu thế, quần thể lăng mộ ngoài quan ngoại này có lẽ quy mô còn vĩ đại hơn cả hoàng lăng Mông Cổ thần bí.

Ông cụ nói xong, cũng đã uống kha khá rồi, chẳng mấy nữa là bét nhè. Tôi chào tạm biệt xin ra về, rồi lập tức trở về khách sạn, tra cứu tư liệu về ô lấy sáng trong nhà ở hồi lâu, đáng tiếc không thu hoạch được gì nhiều.

Vốn cứ tưởng vụ này sẽ còn phải kháng chiến trường kỳ đây, nên tôi nghĩ định về Hàng Châu trước, dù sao việc làm ăn của chú Ba vẫn do tôi quản lý, tuy không có khởi sắc gì nhưng cũng không thể để nó lụn bại được, bây giờ chi bằng qua bên đó xem sao. Nào ngờ ngay ngày hôm sau, ông cụ đã hùng hùng hổ hổ kéo thêm hai người nữa tới tìm tôi.

Hai người này cũng trạc tuổi ông cụ, một người họ Nguyễn, một người họ Phòng, giới thiệu xong, mới biết họ đều là mối lái nổi danh khắp ba đất Bắc Kinh, Trường Sa, Thượng Hải. Vừa mới gặp đã đon đả bắt tay tôi, nói không ít lời có cánh, làm tôi ngơ ngác chả hiểu mô tê gì.

Chúng tôi ngồi ở đại sảnh khách sạn, ông cụ liền nói thẳng vào vấn đề luôn: “Hai vị đây muốn trả giá cao mua lại tấm “bản vẽ” của anh. Hôm qua mặc dù anh có nói biếu tặng không lấy một xu, nhưng bọn họ đưa ra giá khá cao, không biết anh có đổi ý hay chăng.”

Ông cụ vốn cũng giàu, nếu đã nói là cao, chắc hẳn không phải một con số bình thường rồi.

Người họ Nguyễn liền giơ tay ra, tôi vừa nhìn là biết muốn bắt tay tôi. Xem ra tay này là dân trong nghề, hơn nữa lại còn là dân lão làng.

Trong giao dịch giữa các cổ đông, không tiện “cò kè trả giá” như giao dịch ngoài chợ, nên hai người bắt tay, ngón tay cử động một chút, có nguyên một bộ quy tắc cố định để hiểu ý lẫn nhau.

Tôi cũng đưa tay ra bắt lấy, quả thực người này ra giá rất cao, vượt qua cả giới hạn của một bản vẽ Dạng thức Lôi, nhưng vì tôi từng làm ở chỗ chú Ba, từng được chứng kiến những cuộc mua bán lớn thực sự, thì cái giá này cũng không làm tôi kinh ngạc được. Điều làm tôi kinh ngạc là những vết chai trên tay người này. Đốt thứ hai trên các ngón tay ông ta toàn cục chai sần, gọi là vết chai quan tài, do khiêng nắp quan tài nhiều năm mà thành. Người này cho dù không phải thổ phu tử, thì cũng chắc chắn là dân trong nghề.

Tôi sắc mặt tỉnh bơ, để khiến bản thân có chút phong thái của bậc đại gia, nói: “Nếu tôi bán cho ông với giá này, dân trong nghề lại bảo tôi bẫy các ông, ảnh hưởng đến thanh danh của tôi. Hơn nữa, thứ này tôi vẫn còn muốn dùng, thật sự không thể bán được. Các ông về bảo với khách hàng là tôi xin lỗi, món này không bán được.”

Ông ta lại chìa tay ra muốn bắt tay tôi, rõ ràng là muốn tăng giá thêm nữa. Tôi giơ tay từ chối, bưng chén trà trong tay, này có ý là “dừng”, dứt khoát không bán.

(“bưng” tiếng Trung là 端, đọc là /duàn/, đồng âm với 断, nghĩa là dứt điểm, quyết định xong)

Hai người nọ vẻ mặt chán nản, một người nói: “Vậy mời ngài ra giá. Nói thật, ông chủ nhà tôi rất thích món đồ này, nếu ngài vừa ý cái giá nào, xin đừng ngại nói thẳng.”

Tôi định bảo là một triệu, thế mà cũng bằng lòng hả? Tôi không khỏi có chút lung lay, xem ra khách hàng của người này có lẽ biết được điều gì liên quan đến bản vẽ này chăng, lòng hiếu kỳ nổi lên, bèn hỏi: “Muốn mua vật này đến thế, rốt cục là có tác dụng gì?”

“Chúng tôi cũng không biết.” Ông ta đáp, “Khách hàng thích, thì chúng tôi phải tìm cho khách hàng. Thường chúng tôi không được hỏi gì nhiều.”

Ông cụ ngồi bên liếc mắt nhìn tôi, tôi biết suy nghĩ của ông cũng giống tôi, để xem tôi có moi ra được điều gì không, bèn nói: “Thế này đi! Hai vị hãy quay về báo với khách hàng một câu, nếu được chúng ta hãy gặp mặt nói chuyện một lần. Tiền là chuyện nhỏ, tôi cũng muốn gặp mặt bàn bạc, về sau người khác có hỏi, cũng có đường giải thích.”

Hai người kia lộ vẻ khó xử, nói: “Chỉ sợ vị khách này không phải người mà chúng ta có thể gặp mặt được.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 5: Buổi đấu giá.

Tôi thấy bọn họ lộ vẻ khó xử, không khỏi lạ lùng, bèn gặng hỏi. Ông cụ ngồi bên gõ mấy tiếng, hai người kia mới chịu tiết lộ một ít. Hóa ra vị khách hàng đằng sau cuộc mua bán này có địa vị rất kỳ lạ. Bọn họ chỉ biết người đó họ Hoắc, là một phụ nữ, người ta thường gọi là Hoắc lão thái, những cái khác bọn họ đều không biết cụ thể gì nữa. Người phụ nữ này tuy rất thần bí, nhưng rất có tiếng, còn có một tên hiệu khác gọi là “Hoắc Tiên Cô”, nghĩa là một vị thần tiên mà ai cũng biết, nhưng chưa ai từng được gặp.

Ông cụ hiển nhiên đã từng nghe đến tên người này, giật mình nói: “A! Đây là nhân vật lớn đấy! Trường Sa Lão Cửu Môn, chỉ có duy nhất một phụ nữ, là Hoắc Bà Tử ở Bạch Sa Tỉnh. Hoắc Bà Tử có một người con trai đã theo lão Tưởng sang Đài Loan, hồi Văn Cách bị lật hết cả gốc gác lên, nhà họ Hoắc bèn mai danh ẩn tích. Hoắc Tiên Cô này tôi từng gặp một lần rồi, bà ta là con gái thứ ba của Hoắc Bà Tử, thật đúng là duyên phận.” Nói đoạn, ông cụ bèn lấy từ trong túi áo ra một tấm danh thiếp, “Hai vị, đây là danh thiếp của tôi, mong hai vị báo lại một tiếng, bảo là Trịnh Phúc Trung vùng Tây Sơn, biết đâu lại có thể gặp mặt một lần.”

Hai người kia gật đầu: “Nếu đã có liên hệ sâu xa, thì có thể thử xem, vậy xin hai vị hãy chờ tin tốt.” Nói đoạn, hai người bèn cáo từ, như thể chẳng muốn ở lại thêm một giây nào nữa.

Tôi cảm thấy cách làm cổ hủ của ông cụ thật là buồn cười, có cần phải làm như thể giang hồ đến thế không? Lại còn đưa danh thiếp, ông cụ tưởng mình là Thanh Bang chắc?

Ông cụ nói, “Người đó là một nhân vật trong Lão Cửu Môn, buôn có hội bán có phường là thế. Vị Hoắc Tiên Cô Hoắc tam tiểu thư này đến nay cũng phải hơn tám mươi tuổi rồi, có chồng là một nhân vật rất lớn. Thường ngày chỉ ru rú trong nhà chẳng đi đâu, chỉ thích đồ cổ, nếu không hợp khẩu vị bà ta thì bà ta chẳng thèm để ý đến anh đâu. Với lại, cũng phải nhắc anh một câu, nghe nói ông nội Ngô Lão Cẩu nhà anh còn có quan hệ sâu xa với Hoắc tam tiểu thư đấy, là tốt hay xấu tôi chẳng biết, nhưng mà để cẩn thận, tốt nhất là anh đừng nói nhiều.”

Tôi nói, “Con biết rồi”, nhưng cũng không để vào bụng. Nghĩ loại tình tiết trong tiểu thuyết võ hiệp này thật là buồn cười, cứ như phim truyền hình ấy, ông cụ còn nói, chuyến này ông không tiện đi theo tôi, nhưng dù gì tôi cũng là con cháu của Ngô Lão Cẩu, đại diện cho mấy đời Ngô gia, đứng trước mặt người ta không được sơ suất điều gì, tốt nhất là nên đem theo vài người đi cùng, trông cho ra dáng một chút. Nếu chỉ đi một mình, lỡ Hoắc Tiên Cô cố tình làm khó, với năng lực của tôi thì chỉ có nước làm trò cười cho thiên hạ mà thôi, ảnh hưởng rất lớn đến thanh danh của tôi trong giới.

Ông cụ nói cũng có lý, tuy rằng kinh nghiệm xuống đất của tôi coi như là phong phú, nhưng lòng người còn đáng sợ hơn quỷ thần nhiều lắm, tôi không quá am hiểu quy củ và phép tắc trong giang hồ, nếu chỉ đi một mình, quả thực không ứng phó nổi.

Nhưng mà nói thật, bên phía chú Ba đã chẳng còn mấy ai đáng tin cậy, phía ấy không cần phải đắn đo gì nữa. Như vậy, người của tôi chỉ còn lại Vương Minh, nhưng thằng ranh này còn kém cả tôi, đem cậu ta theo chỉ rước phiền vào người, với lại, cậu ta cũng không phải dân trong nghề, lôi cậu ta xuống nước thì không ổn lắm.

Lão Hải ở Anh Hùng Sơn thì sao? Cũng không được, lão già đó là một con cáo già xảo quyệt, cái việc độ nguy hiểm cao mà chẳng được ích lợi gì như thế này, lão ta đương nhiên chẳng thèm làm.

Phan Tử là lựa chọn thích hợp nhất, nhưng anh ấy đã quyết định thoái lui rồi, vào sinh ra tử nhiều năm như thế, vất vả lắm mới có cơ hội yên ổn chết già, tôi nhất quyết không thể phá hỏng chuyện tốt của người ta.

Kỳ thực, lựa chọn thích hợp nhất, còn có một người nữa.

Nhưng mà, người này rất không đáng tin cậy, kéo anh ta xuống nước chắc chắn là không được yên ổn, tôi thật sự không muốn nhắc đến. Nhưng mà, hình như là không còn lựa chọn nào khác nữa.

Bàn bạc với ông cụ, ông nói: “Anh nói người này có tiếng ở Bắc Kinh, tôi nghĩ cũng không đến nỗi hỏng chuyện đâu. Hơn nữa, tính khí anh ta như nào ai cũng biết cả rồi, lỡ có gây chuyện, cũng là bình thường, chúng ta vẫn có cớ để nói, tôi thấy người này cũng thích hợp đấy. Có điều, anh có chắc là mời được người ta không?”

Tôi thầm nghĩ, là Bàn Tử mà, có gì mà không mời được chứ? Bèn gọi điện cho anh ta nhờ giúp đỡ. Anh ta đang nhàn rỗi đến phát điên, đồng ý ngay tắp lự, còn nói đàm phán là nghề của anh, đến lúc đó chú em ắt sẽ nở mày nở mặt, rồi còn hỏi lúc nào đến thì được, mà trước đấy còn đòi tôi phải mời một bữa rượu nữa.

Nghe anh ta luyên thuyên xong tôi liền hối hận rồi, lời người này nói chỉ tin được một nửa, lại nhớ đến những hành động của anh ta lúc trước, đột nhiên cảm thấy chuyến này nhất định là hỏng bét rồi.

Nhưng gọi thì cũng gọi rồi, không lật mặt được nữa, vả lại cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ đành nghe theo số trời thôi.

Nói tóm lại, chúng tôi đã hẹn được Hoắc Tiên Cô, loáng cái ba ngày đã trôi qua.

Ba ngày sau, tôi với Bàn Tử chạm trán nhau ở Vương Phủ Tỉnh Bắc Kinh, không ngờ còn có cả Muộn Du Bình đi theo nữa. Cả hai người đều mặc com-lê, một béo một gầy, một cao một thấp, rất bắt mắt, quả thực cứ như một Đầu Đà Béo một Đầu Đà Gầy.

Tôi quen nhìn hai người họ mặc quần áo thường ngày rồi, bây giờ cảm giác rất không quen. Muộn Du Bình vóc dáng cân xứng, mặt lạnh như tiền, mặc com-lê là lượt thẳng thớm lại trông rất phong độ, chói mắt muốn chết. Nhưng còn bộ com-lê của Bàn Tử cứ như không vừa người, cà-vạt thắt thành cái bánh quẩy rồi, rõ ràng nhỏ hơn một cỡ, trông buồn cười đừng hỏi.

“Anh bảo cho tôi nở mày nở mặt thế này à?” Tôi bất đắc dĩ nói, “Bộ Âu phục này tiệm nào may cho anh? Để tôi đi đốt luôn cửa tiệm.”

“Không liên quan đến tôi, ông Béo nhà cậu gần đây mỡ màng hơn một tí, bộ Âu phục này mới năm ngoái vẫn còn vừa mà.” Bàn Tử mặc chật cũng thấy khó chịu, “Chúng ta mặc Âu phục là quyền của chúng ta, dù tôi có mặc thời trang trẻ em thì lão thái bà đó cũng phải cho tôi đi vào.”

“Được! Anh có lý lắm, vậy anh đi trước đi.” Tôi không hơi đâu mà nhiều lời với anh ta, trong lòng ngày càng có cảm giác thanh danh của cả Ngô gia ngày hôm nay có lẽ sẽ bị hủy hết sạch trong tay tôi rồi.

Điểm hẹn với Hoắc Tiên Cô là một nơi gọi là khách sạn Tân Nguyệt, đây là khách sạn cổ nhất ở thành Bắc Kinh còn tồn tại đến ngày nay.

Tôi vốn cứ tưởng đó chỉ là địa điểm thông thường thôi, nhưng Bàn Tử lại nói cho tôi biết, cả giới chơi đồ cổ ở Bắc Kinh đều biết, khách sạn Tân Nguyệt mới thật sự là địa điểm tụ tập của dân trong nghề, chơi toàn hàng khủng, Lưu Ly Xưởng, Phan Gia Viên mà so với nơi này thì chỉ là hạng hàng rong ngoài chợ mà thôi. Nhiều vụ giao dịch lớn đều được tiến hành trong nhà hát trên tầng ba của khách sạn này. Ngày xưa nơi đây là điểm giao dịch của thái giám và người nước ngoài, người ra kẻ vào đều mặc đồ chỉn chu sang trọng, cho nên mới có truyền thống mặc trang phục lịch sự như thế. Bất kể anh giàu nứt đố đổ vách đến cỡ nào, cũng tuyệt đối không được mặc quần cộc dép lào vào trong này.

Tôi chưa tới đây bao giờ, đây là lần đầu tiên, nên không khỏi có chút lo lắng thấp thỏm. Bước vào sảnh lớn, vào thang máy, lên tầng ba, đập vào mắt toàn là thiết kế nội thất sang trọng, cửa sổ bình phong chạm trổ đầy hoa văn.

Bàn Tử từng tới đây nên khá quen đường, anh ta gọi một phục vụ tới, giới thiệu tôi với người này: “Đây là tiểu thái gia nhà họ Ngô ở Trường Sa.”

Viên phục vụ này đeo kính, tuổi cũng phải hơn sáu mươi, người này quan sát tôi một lúc, cũng không có thái độ gì, “Mời ngài vào trong, ngài ngồi gian riêng, hay ngồi phòng lớn?”

Bàn Tử hỏi tôi giờ hẹn là mấy giờ, tôi nhìn đồng hồ đeo tay, còn nửa tiếng nữa, vừa định mở lời, viên phục vụ kia lại nhìn thấy Muộn Du Bình sau lưng tôi, thoắt cái, sắc mặt thay đổi.

Tôi tưởng là ông ta quen biết Muộn Du Bình, vừa định hỏi thì mới thấy có một người đi vòng qua sau lưng Muộn Du Bình, vốn đi theo sau chúng tôi. Người này mặc com-lê đen, bên trong mặc áo sơ-mi màu hồng nhạt, không thắt cà-vạt, vô cùng thoải mái, viên phục vụ kia lập tức tiến lên hỏi: “Tiểu gia, vẫn vị trí cũ chứ?”

Người nọ không nói gì, chỉ liếc nhìn tôi một cái, rồi khựng lại một chút. Tôi đột nhiên cảm giác người này có chút quen mắt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 6: Bán đấu giá.

Địa bàn của tôi ở vùng Giang Chiết, nói thực, xác suất gặp người quen ở Bắc Kinh quả thực không cao, tôi ngẩn ra một lúc mà vẫn không nhớ ra nổi người kia là ai. Chỉ là theo phản xạ mỉm cười một cái. Người kia rõ ràng cũng như tôi, khựng lại, sau đó nhìn tôi với ánh mắt vô cùng ngạc nhiên và bối rối, rồi cũng mỉm cười.

Bàn Tử kinh ngạc hết nhìn tôi lại nhìn sang người kia, suốt dọc đường đến đây anh ta liên tục khoe khoang mình là thổ địa đất này, ra vẻ “mấy đứa phải theo anh lăn lộn”, thế nên mới không ngờ lại có người nhận ra tôi ở chỗ này.

Nhưng mà hai bên cứ nhìn nhau cười dâm đãng cả nửa ngày trời, mà ai cũng không nhận ra ai, nói thật, tôi chỉ thấy tên này quen mắt thôi, hình như đã từng gặp qua ở đâu rồi, chứ cố gắng nhớ kỹ lại cũng không nhớ ra được gì, đơn giản chỉ là thấy quen mắt.

Trước kia tôi cũng từng gặp tình trạng như thế rồi, lúc trước trong đám bọn tôi có một người mà anh em hay gọi là “chị Lục”, thường hay xuất hiện trên các chuyên mục về giám định bảo vật và thú chơi đồ cổ trên báo chí, tôi vốn không hề quen biết chị ta, chỉ là từng nhìn thấy ảnh chụp chị ta ở trên mạng, về sau trong một buổi tụ họp gặp được, tôi lại cứ ngẩn ra nói có phải đã từng đi ăn với chị ta ở đâu rồi không, nhưng nghĩ mãi lại không nhớ ra được, cuối cùng làm chồng chị ta giận đến tím cả mặt.

Nhưng mà vị huynh đài này, trông thế nào cũng không giống người hay xuất hiện trên báo chí, cái cảm giác quen mắt này cứ phảng phất như có như không, thậm chí tôi còn không dám khẳng định nữa.

Hai người cứ đứng đó nhìn nhau suốt hồi lâu, mà vẫn thực sự không nhớ ra nổi, cả hai đều có chút xấu hổ, viên phục vụ già kia cảm thấy thật buồn cười, ở thành Bắc Kinh này đã bao lâu, có gì mà ông ta chưa từng gặp phải chứ, thế là bèn lên tiếng gỡ rối cho bọn tôi: “Hai vị tiểu gia có phải quý nhân hay quên chăng? Chẳng lẽ đã từng gặp nhau ở đâu rồi, vậy đừng vội nghĩ, đứng ở đây mà cản trở thang máy, mời các vị vào trong có rượu trà đã nóng, không chừng hai vị gặp người quen lại nhớ ra cũng nên.”

Nói rồi bèn mời đối phương vào trong, người này lắc đầu như có vẻ không thể tin nổi, vẫn còn chưa đã ghiền mà liếc nhìn tôi thêm lần nữa, rồi mới quay đầu đi vào sảnh trong, mà cứ đi mấy bước lại quay đầu nhìn tôi một lần.

Sau đó, viên phục vụ già lại mời chúng tôi, nhưng lại dẫn chúng tôi sang một hướng khác, đúng là tay già đời, mục đích là để chúng tôi ngồi cách xa tên kia một chút. Rõ ràng chỗ ngồi là do ông ta dẫn mà, cái gì mà lễ độ, cái gì mà kiêng kỵ chứ, đều trôi tuột hết cả. Không nhớ ra thật thì thôi, nếu mà nhớ ra rồi, lại phát hiện đối phương là chủ nợ hay thù giết cha giết mẹ gì đó, cũng không xông vào choảng nhau ngay được.

Tứ Cửu hoàng thành ngay dưới chân mà, cái gì trong sáng ngoài tối, cái gì quy củ phép tắc, tất cả đều phải thực hiện đầy đủ, bởi vì người không thể nhìn bề ngoài được, ai mà biết được lai lịch của đối phương như thế nào, bởi thế, đối nhân xử thế ở đây cứ duy trì thái độ bảy phần cung kính ba phần nguyên tắc mới là bất bại. Làm quan cũng thế, mà làm phục vụ cũng phải như thế.

Tôi vào sảnh trong, mới nhận ra khách sạn này quả thực đúng là từ rạp hát tuồng sửa thành. Trong sảnh này có hai tầng, tầng dưới là các ô ghế ngồi xếp rải rác, tầng trên là các lô ghế riêng, tầng trên rỗng một khoảng ở giữa, phía dưới đó là sân khấu. Có thể thấy nơi này không chỉ để hát Kinh kịch, mà bình thường có lẽ còn tổ chức các tiết mục nghệ thuật khác nữa. Dân Bắc Kinh gốc nhiều người thích xem các tiết mục nghệ thuật truyền thống trong khung cảnh như thế này, ngày xưa người ta biểu diễn đầy đường, muốn nghe thì trả mấy văn tiền là được nghe ngay, bây giờ lại trở thành thứ lạc thú xa xỉ mà chỉ giới quý tộc mới nổi mới có thể thường xuyên hưởng thụ.

Hôm nay, sân khấu tuồng đã bị dọn đi, người ta đang sắp xếp cái gì ở chỗ đó, Bàn Tử vừa nhìn một cái liền kêu toáng lên: “Đến sớm không bằng đến đúng lúc, xem ra hôm nay có đấu giá.”

“Đấu giá? Bán đấu giá cái gì?”

“Ở đây thì còn có thể bán cái gì? Đây là nơi giao dịch đồ cổ văn hóa cao cấp nhất thành Bắc Kinh đấy, đem so ra, Christie’s ở Hồng Kông chỉ là hàng rong thôi!” Bàn Tử toét miệng cười. “Có điều ở đây hàng số lượng lớn, hơn nữa, thường không bắt gặp được trên thị trường đâu, tụi mình chỉ đánh hơi được chút mùi thôi, tôi đoán phỏng chừng Hoắc lão thái thái kia hôm nay tới cũng là để tham gia phiên đấu giá này, mới tiện thể bằng lòng gặp tụi mình thôi, tiện thể thôi, để khỏi làm lỡ những việc khác của bà ta.”

(Christie’s là một công ty đấu giá chuyên tổ chức bán đấu giá các tác phẩm nghệ thuật trứ danh của thế giới.)

Tôi nghe ngữ điệu nói chuyện của anh ta cũng thay đổi rồi, miệng nói đặc giọng Bắc Kinh, hồi lúc mới vào cửa còn không như thế, mà ngay cả bản thân tôi cũng vậy, bây giờ đầu lưỡi cứ thấy xoắn cả lên. Mới thầm nghĩ, mẹ kiếp khí tràng của tòa nhà này cùng đội ngũ nhân viên ở đây áp đảo thật, chủ yếu là do vừa bước vào đã thấy nồng nặc mùi Bắc Kinh xưa cũ thốc thẳng vào mặt, khiến mình bất giác nhập vai luôn, được nhân viên người ta cung phụng một tí đã thật sự tưởng mình là công tử nhà giàu ăn chơi trác táng chốn kinh thành năm xưa. Chỉ sợ đây mới chỉ là bắt đầu thôi, đợi lát nữa khi phiên đấu giá diễn ra, người chủ trì giọng đặc sệt Bắc Kinh ca tụng một hồi, phỏng chừng mình không muốn giơ tay cũng không kìm lòng được mà giơ tay lên trả giá ấy chứ.

Ba người bọn tôi được dẫn đến một vị trí cạnh cửa sổ mà ngồi xuống, tôi vô thức liếc sang bên nhìn xem, mới phát hiện tên sơ-mi hồng phấn đang đi thẳng lên tầng trên, xem ra khác biệt đẳng cấp với bọn tôi rồi, Bàn Tử bèn hỏi tôi: “Cậu với thằng đó là thế nào thế? Trúng sét ái tình à?”

Tôi lắc đầu, cũng không nghĩ ra nguyên cớ vì sao, mẹ kiếp rốt cuộc là tôi đã gặp người này ở đâu rồi nhỉ? Bao giờ quay về phải suy nghĩ thật kỹ xem mới được. Bàn Tử bên cạnh gọi món rẻ nhất ở đây là nước trà, thế mà cũng đã lên đến một ngàn tám tệ một ấm trà rồi, chưa kể 10% phí phục vụ. Bàn Tử nâng chén hướng lên trời cao, nói mẹ ôi thứ nước này căn bản không phải là trà, mà chính là nước bọt của Dương Quý Phi rồi. Mẹ kiếp, lát nữa phải gói bã trà về ngâm rượu mới được.

Muộn Du Bình vẫn bình chân như vại, rất xứng với chức vụ bảo kê, nhưng không hiểu sao tôi càng nhìn càng thấy ba đứa bọn tôi giống tụi đàn em chân chó của một ông chủ lớn nào đó hơn.

Vừa nói chuyện phiếm vừa chờ đợi, bất giác đã nhằn hết ba đĩa hạt dưa rồi, cũng may hạt dưa ở đây là miễn phí. Bọn tôi cứ nhìn hết nhóm người này đến nhóm người khác tiến vào cửa, nhìn một hồi, tôi chợt phát hiện Bàn Tử bên cạnh có vẻ không tự nhiên, cứ thất thần nhìn về một phía khác. Tôi rất lấy làm lạ, hỏi anh ta sao thế. Anh ta nói: “Cái đệt, hôm nay có trò hay rồi.”

“Có gì hay, thấy mỹ nhân à?” Tôi hỏi, nghĩ bụng nãy giờ chỉ toàn thấy mấy bà trung niên, mặc dù nhan sắc được chăm sóc vẫn tốt.

Anh ta hất mắt nhìn lướt qua một lô ghế tầng trên cùng mấy bàn tầng dưới: “Cậu có biết tôi vừa nhìn ai không?”

“Ai?”

“Lưu Ly Tôn.” Bàn Tử thì thào bảo.

“Lưu Ly Tôn là ai?” Tôi không có ấn tượng gì cả.

“Cậu không lăn lộn ở Bắc Kinh nên không biết, người ta là ông lớn đấy, gia đình mở một công ty đầu tư ở hải ngoại, trước đây toàn mua đi bán lại ngọc lưu ly, về sau không biết vớ bẫm thế nào mà phất lên thành đại gia, trong nhà tên này toàn bảo bối, mấy thứ đồ tầm thường không thèm để vào mắt, phải có báu vật cực phẩm thật sự thì mới chịu ló mặt ra cơ. Ở thành Bắc Kinh, ông ta chính là một cái chong chóng đón hướng gió, ông ta xuất hiện ở nơi nào là nơi ấy ắt có hàng ngon. Mẹ, cũng phải đến hai ba năm nay rồi ông ta không xuất hiện, sao hôm nay lại đến đây nhỉ?” Bàn Tử ngồi nhấp nhổm không yên.

Tôi nghe Bàn Tử nói thế trong lòng cũng có hơi ngưa ngứa, bèn quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Ly Tôn này cũng phải chừng sáu mươi tuổi đổ lên, tóc màu muối tiêu cắt đầu đinh, trong tay còn vân vê hai trái hạch đào, bước lên lầu hai vun vút như bay. Khiến tôi không khỏi phải hóng lên trên lầu.

Bàn Tử nói tiếp: “Cậu đừng nói, nãy tôi nhìn suốt rồi, toàn là máu mặt trong nghề không đấy, tụi mình tới đúng chỗ rồi, hôm nay dễ chừng có kịch hay để xem, không chừng còn là kịch hay trăm năm khó gặp một lần đấy. Không được rồi, ông Béo nhà cậu không chịu nổi rồi, tôi muốn tìm catalogue của phiên đấu giá này, xem hôm nay rốt cuộc là bán món bảo bối mẹ gì.” Nói đoạn anh ta định đứng dậy.

Tôi vừa định nhắc anh ta hôm nay chúng ta làm chính sự chứ không phải hóng náo nhiệt, thì một viên phục vụ đã đi tới, nhẹ giọng nói: “Thưa ba vị, Hoắc lão thái đã tới, mời hai vị lên lầu.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 7: Hoắc Hoắc Hoắc Hoắc.

Viên phục vụ nói đoạn giơ tay mời, khom lưng xuống, tư thế vô cùng cung kính nhưng vẻ mặt thì vô cùng bình thường, không thấy một chút nịnh nọt gì. Bọn tôi còn chẳng có thời gian mà bàn bạc với suy tính, đã phải đứng dậy ngay lập tức rồi.

Tôi với Bàn Tử liếc mắt nhìn nhau, nghĩ bụng mẹ kiếp, nãy giờ cứ ngó ra ngoài cửa suốt mà chẳng thấy lão thái thái gì đi vào, bây giờ xem ra lão thái thái người ta đã ở trên lầu hai từ lâu, chỉ chờ bọn tôi lên thôi, nói không chừng nhất cử nhất động của bọn tôi đều bị người ta theo dõi hết rồi ấy chứ.

Không biết tôi từng nghe qua ở đâu, hình như đây là một mánh khóe trên giang hồ, mục đích là để đè bẹp nhuệ khí của bọn tôi trước, nghĩ vậy trong lòng tôi không khỏi thấy khó chịu. Tuy tôi chỉ là cậu ấm, nhưng dù thế nào đi nữa, tôi vẫn là cháu đích tôn trong nhà, là “cậu Ba” trong cửa hàng của chú Ba, trước giờ chỉ có người ta cung kính với tôi, chứ chưa ai dám đối xử với tôi như thế này cả. Nghĩ vậy, không khỏi thẳng lưng lên, trong lòng ấm ức không phục.

Bàn Tử đương nhiên cũng khó chịu, cơ mặt giật giật, bèn nháy mắt với Muộn Du Bình: “Tiểu Ca, sửa lại đội hình, hai ta phải cho đồng chí Thiên Chân nở mày nở mặt một chút.” Thế là cả ba người đều ngẩng cao đầu đi lên cầu thang theo nhân viên phục vụ kia.

So với lầu một, lầu hai có thêm nhiều đồ nội thất Tây Dương hơn, đây cũng là một điểm đặc sắc của Bắc Kinh cổ xưa, Đông Tây kết hợp. Ở đây toàn là các gian ghế lô cách biệt, quay về phía sân khấu ở trung tâm, một bên là bàn ăn cơm và xem kịch, một bên là các bàn đánh mạt chược tự động quay về phía hành lang.


Chúng tôi đi men theo đường hành lang hình tròn này đến đầu bên kia, trước cửa một gian ghế lô rất rộng. Đó là một bức bình phong lớn chạm trổ hoa văn, có khi còn to hơn cả cửa lớn của khách sạn này, có hai thanh niên mặc thường phục đứng trước cửa, đứng rất nghiêm, cứ như là lính gác, trên võng cửa gác một tấm biển gỗ chạm trổ hoa văn, viết ba chữ “Thải Hà Đường”. (thải hà: hái sen)

“Lăng kinh thời nhiễu xuyến,

Trạo thủy hoặc triêm trang.

Bất từ hồng tụ thấp,

Duy liên lục diệp hương.

Gian phòng này mượn tên từ bài thơ “Xa trông người đẹp hái sen” của Lưu Hiếu Xước.”

(Dịch nghĩa nôm: Thân lăng kinh uốn lượn thành chiếc xuyến đeo tay, nước hắt lên từ mái chèo thành son phấn điểm trang, chẳng nề hà gì tay áo hồng đã ướt nước, chỉ nuối tiếc mùi thơm của lá sen xanh.)

Viên phục vụ đọc nguyên cả bài thơ ra mà nhíu cả lưỡi, đọc xong tiếp tục liến thoắng không ngừng lại: “Ba vị, đã đến rồi, mời ba vị vào trong.” Nói rồi rời đi luôn.

Tôi nghĩ thầm, tên phục vụ này cũng thật khéo léo ra trò, mới nãy khi mời chúng tôi lên lầu, thái độ tất cung tất kính đẩy chúng tôi vào cảnh không tiện từ chối, đó là bởi anh ta bắt buộc phải dẫn chúng tôi đến chỗ hẹn ngay, lỡ lằng nhằng gì hoặc không mời chúng tôi lên được, anh ta sẽ khó mà ăn nói. Dẫn chúng tôi đến rồi lại lập tức rời đi ngay, bởi không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì, cho nên phải chuồn ngay tắp lự, không nghe thấy không nhìn thấy gì hết, bớt được nhiều thị phi.

Đây là đặc trưng của những người phải lăn lộn kiếm sống ở nơi có hoàn cảnh phức tạp, đã thành thói quen rồi, xem ra những thành phần tụ tập ở nơi này vô cùng phức tạp.

Trong lúc suy tư, hai người đứng canh ở cửa đã mở cửa ra, bên trong còn đến ba bốn lớp mành châu san hô khác nữa, chúng tôi vén từng lớp mành mà vào, liền ngửi thấy một mùi trầm hương Tây Tạng. Tạng hương vốn là vật phẩm thường dùng của đạo Phật, còn có công dụng dưỡng sinh. Xem ra chủ nhân ở đây là người có gu thưởng thức rất cao.

Không gian bên trong rất rộng, trần nhà rất cao, bên trên treo đèn chùm pha lê, quạt trần cổ màu đồng, cột trụ khắp bốn góc đều được chạm trổ những đóa hoa sen màu xanh gỉ đồng. Ở giữa có một cái bàn tròn lớn, có bảy tám người đang ngồi ở đó dùng cơm, khu vực nhìn ra sân khấu hiện giờ đang bày một tấm bình phong che chắn, tạm thời không thấy gì ở phía sau.

Chúng tôi vừa bước vào, bảy tám người đang ăn cơm liền ngừng lại, quay ra nhìn ba đứa bọn tôi. Tôi thấy ở đó có hai người phụ nữ trung tuổi, ba đứa nhóc tì, còn có mấy người đàn ông trung niên khác nữa, nhưng tôi liếc mắt nhìn qua một lượt, nhận thấy những người phụ nữ này chắc chắn không phải Hoắc lão thái, bởi tuy nói là trung tuổi, nhưng vẫn quá trẻ để là Hoắc lão thái.

Tôi, Bàn Tử với Muộn Du Bình nhìn nhau, không biết màn tuồng này như thế nào đây, chẳng lẽ đã bắt đầu rồi, cố ý bày ra như vậy để chèn ép bọn tôi thêm nữa? Nhưng bày trò như vậy thì cũng hơi bị quá đà rồi, Hay là lão bà này cũng giống Madonna, đi căng da mặt rồi cũng nên.

Nghĩ đối phương là một bà cụ già, tôi đành nhịn, nhìn mấy người kia hỏi: “Xin hỏi, Hoắc bà bà có ở đây không?”

Hỏi xong, chợt nghe từ phía sau tấm bình phong vang lên một giọng nói: “Phía này.”

Giọng nói nghe rất nhỏ nhẹ, tôi ngẩn ra, lại định quay sang nhìn Bàn Tử, Bàn Tử huých tôi một cái, nhỏ giọng bảo: “Tém tém lại chút, đừng cứ nhìn tôi hoài, bây giờ tôi là tùy tùng của cậu đấy.”

Tôi nghĩ cũng phải, xem ra Bàn Tử đã chuẩn bị vào vai diễn rồi, nên tôi cũng thầm lẩm nhẩm trong bụng: “Mình là xã hội đen mình là xã hội đen, ông đây đi đến đâu bão nổi đến đấy ông đây đi đến đâu bão nổi đến đấy.”

Đây là cách giả trang về mặt tâm lý, thế mà cũng xài được, dưới lòng bàn chân tôi nóng rẫy lên, tôi đúng là cảm thấy mình tràn đầy sức mạnh hơn nhiều, bèn vênh mặt đi vòng qua sau tấm bình phong.

Nói thật thì tôi vẫn có chút căng thẳng, nhưng loại căng thẳng này khác lúc ở trong cổ mộ nhiều, rất khó mà phân được đây là “căng thẳng” hay là “không nắm chắc”, bởi vì, dẫu sao thì tôi cũng không phải người thường xuyên ở trong những tình huống như thế này, tôi căn bản không biết bản thân mình nên có biểu hiện gì, chỉ biết dựa vào cảm giác “kiêu ngạo phách lối” ở trong lòng để ứng phó.

Sau vài bước, tôi liền nhìn thấy người ngồi đằng sau tấm bình phong. Không gian ở đó cũng rất rộng, tôi nhìn thấy một cái bàn trà nhỏ chạm khắc gỗ, bên trên bày đủ bộ đồ trà, có ba người đang ngồi. Tôi liền nhìn thấy một bà cụ già đầu tóc bạc phơ đang thưởng trà. Bà ta mặc một bộ Đường trang() màu tím, sắc mặt trắng như tuyết…(Đường trang ở đây không có nghĩa là “trang phục thời Đường”, mà chỉ đơn giản là để chỉ “trang phục của người Hoa”, hiện nay là những bộ trang phục phát triển từ áo đối khâm, tráo giáp thời Minh và mã quái trường bào thời Thanh, đặc trưng là cổ đứng, nút Tàu)

Kiểu da trắng này không phải trắng bệnh tật, nếu đó là một cô gái trẻ thì chắc chẳn phải vô cùng kiều diễm, tôi vốn là nghĩ đến hình ảnh “hàn tuyết” để miêu tả, nhưng mà, đó lại là một bà cụ già, hơn nữa, trên da bà ta lại không có một chút chấm đồi mồi nào của người già, hoàn toàn trắng toát, nếp nhăn cũng trắng, đầu tóc cũng bạc, vừa nhìn vào cảm giác đầu tiên là lạnh cả người, cứ như thể lão thái thái này thật sự được tạc ra từ ngọc thạch.

Chỉ có đôi mắt là màu đen, cho nên đôi mắt này trở nên vô cùng nổi bật. Bà ta liếc nhìn chúng tôi, mắt tôi cũng không kìm được mà vô thức nhìn thẳng vào cặp mắt đó. Trong nháy mắt đó, tôi đã ngỡ là mình vừa nhìn thấy một Cấm bà.

Hai người bên cạnh bà ta có một người là thiếu nữ trẻ, người còn lại là phụ nữ trung niên, hai người còn chẳng thèm liếc nhìn bọn tôi mà cứ thì thào nói chuyện phiếm với nhau, tôi không nhìn rõ được tướng mạo hai người này. Hai người này cũng rất trắng, nhưng nước da trắng của hai người này trông rất thoải mái tự nhiên, đặc biệt là thiếu nữ trẻ kia, cô nàng quay nửa mặt về phía tôi, sắc mặt và ngũ quan rất tinh tế và trong sáng, khí chất tinh khiết như ngọc, nhưng lại thoáng một chút quyến rũ, trông rất thích mắt.

Tôi nhất thời bị tình cảnh này làm cho không kịp phản ứng, Bàn Tử phía sau chọc tôi một cái, tôi mới giật mình hoàn hồn, lập tức nói: “Hoắc bà bà, cháu là Ngô Tà. Bà có khỏe không, cháu không làm phiền bà nghỉ ngơi chứ ạ?” Nói rồi đưa tay ra định bắt tay.

Đây là thói quen đi bàn chuyện làm ăn, tay vừa duỗi ra mới nhận ra không ổn, trò bắt tay này có vẻ con buôn quá rồi, bèn lập tức rụt tay lại, thuận thế đưa tay lên vuốt tóc.

Động tác kia nhất định là rất ngốc, tôi thầm tự mắng mình, lại giả vờ bình tĩnh. Lão thái thái kia quan sát tôi từ trên xuống dưới một hồi, nhấp một ngụm trà rồi hờ hững nói: “Quả nhiên là có điểm giống với Ngô Lão Cẩu, người khác nói ta còn không tin, hóa ra con cẩu chết tiệt này quả thực vẫn chưa tuyệt hậu.”

Tôi cười khổ, nghĩ bụng sao lời này nghe có mùi chua chua, chẳng lẽ bà ta từng có một chân với ông nội tôi thực? Lời này tôi không biết đáp ra sao, chỉ đành cười ngu.

Lão thái thái tiếp tục nhìn tôi, thấy tôi không đáp chỉ biết cười, bèn thở dài nói: “Cười lên lại càng giống, xem ra cũng không phải thứ tốt đẹp gì.” Nói đoạn nhấp một ngụm trà, cũng chẳng thèm mời tôi ngồi xuống, hỏi: “Đồ của anh rốt cục có bán hay không, đã nghĩ kỹ chưa? Việc cỏn con như thế, sao cứ phải gặp tôi làm gì? Chẳng lẽ, bà nội nhà anh bảo anh hẹn gặp tôi, để xem bà bạn già này đã già chát thành cái dạng gì rồi phải không?”

Ôi kìa, tôi thầm nghĩ, lời này sao mà chua quá thế, chua đến nỗi nổi cả bọt lên rồi, ông nội ơi trông ông thế mà ghê gớm thật đấy, hồi trẻ chắc chắn là có chút “chuyện cũ” gì rồi.

Cùng lúc đó, tôi cũng cảm thấy có điều không ổn. Đây hình như không phải giọng điệu muốn thương lượng chuyện gì, thậm chí còn không mời tôi ngồi xuống, chẳng lẽ muốn tôi nói xong thì đi luôn? Rõ ràng còn chẳng thèm coi tôi là khách. Hơn nữa, câu hỏi này, tôi biết trả lời thế đếch nào bây giờ, đây rõ ràng là ghen tuông với tình địch xuyên thời không luôn rồi, hơn nữa, lại còn ghen đến gần nửa thế kỷ. Cũng chẳng biết giữa ông bà tôi với bà ta đã xảy ra chuyện gì nữa. Nhưng mà, Hoắc Tiên Cô này thực cũng quá chung tình rồi, sao đến tận bây giờ rồi mà vẫn còn nhớ nhung.

Tôi gãi đầu, cố gắng suy nghĩ một lúc rồi mới nói: “Bà đừng hiểu lầm, cháu đến đây chỉ vì vụ mua bán của chúng ta thôi, bà nội cháu, đừng nói là bà, mà ngay cả cháu cũng lâu lắm rồi chưa được gặp bà nội nữa, sau khi ông nội cháu qua đời, bà nội chỉ ở mãi trong nhà không bước chân ra khỏi cửa.”

“Đấy là do cô ta không có mắt nhìn người, đi gả cho đồ đoản mệnh.” Lão thái thái hừ lạnh một tiếng, “Anh nói muốn bàn chuyện làm ăn, thế đã chuẩn bị giao hàng chưa? Hay còn muốn ngã giá nữa?”

Suy nghĩ một chút, phải nói như thế nào nhỉ, đi thẳng vào vấn đề hay là vòng vo thêm chút nữa. Nhưng nghĩ lại, lão thái thái này quả thực có ý muốn làm khó dễ tôi, nói dài dòng chỉ e đêm dài lắm mộng, nói linh tinh nhiều quá muốn quay đầu cũng khó khăn, không bằng trực tiếp vào đề luôn, còn khiến tôi có vẻ thẳng thắn dứt khoát nữa.

Nghĩ đoạn tôi nói luôn: “Thực ra vật kia không có ý nghĩa quá lớn với cháu, cháu chỉ muốn biết, vì sao bà muốn trả giá cao đến vậy để mua nó. Bởi vì, cháu đang điều tra một chuyện, có khả năng liên quan đến việc này, nếu bà nói cho cháu biết, món đồ này cháu xin biếu——”

Tôi còn chưa nói hết, Bàn Tử phía sau huých tôi một cái, nhỏ giọng lầm bầm nói: “Có tiền mà không kiếm là đồ đầu heo.”

Tôi ngẩn ra một chút, nghĩ cũng phải, dẫu sao cũng không phải là một món tiền ít ỏi gì cho cam, mấy đợt xuống đất gần đây tôi đã hoạt động hết công suất rồi mà vẫn không gặp may, đây là một món hời bất ngờ, vớ bẫm được phen này còn giải quyết được bao nhiêu vấn đề, ít nhất thì cũng không phải lo tiền điện tiền nước của cửa tiệm nữa, thế là lập tức sửa lời này: “biếu đến tận tay cho bà ngay.”

Lão thái thái liếc nhìn Bàn Tử, không biết có nghe thấy hay không, nhưng bà ta chẳng nói gì, chỉ hỏi: “Anh có biết tòa nhà trong bản vẽ của Dạng thức Lôi đó, là cái gì hay không?”

Tôi gật đầu: “Có ạ, là một chuyện rất đơn giản.”

Lão thái thái rụt mình trong ghế, suy nghĩ một chút: “Được, tôi nói cho anh biết, có điều, không phải do anh đến hỏi, mà gọi bà nội anh đến đây hỏi tôi.”

Tôi sửng sốt, cái đệt mợ, thế này là sao, bèn nói: “Bà bà, cháu không nói đùa mà, việc này không cần phải kinh động đến bà nội cháu chứ.”

“Nói đùa? Anh đi hỏi khắp nơi mà xem, Hoắc Tiên Cô này trong làm ăn có nói đùa bao giờ? Tôi với bà nội anh là bạn từ nhỏ, mấy chục năm rồi, cô ta chưa thèm đến thăm tôi một lần, cứ chỉ ru rú trong cái đất Hàng Châu khỉ ho cò gáy đó, tôi muốn cô ta đến thăm tôi, thì có gì là nói đùa?” Bà ta nghiêm mặt nói: “Cứ quyết vậy đi, nhà anh hãy quay về, bàn bạc với bà nội anh, nếu bà nội anh vẫn không chịu ra mặt, tôi đoán việc của anh cũng chẳng phải thứ gì đứng đắn, nghỉ đi cho rồi. Anh đi đi, bà nội anh không tới, anh cũng đừng tới gặp tôi nữa, đồ của anh, tôi thích, nhưng bà lão tôi cũng không thiếu một món đồ như thế.”

Tôi nghe vậy mà không biết phải là sao nữa, trong lòng có chút buồn bực, mà lại không dám phát hỏa, chỉ có thể oán hận ông nội tôi không biết là bồ bịch bên ngoài hay là thế nào, mà để lại cho tôi cái của nợ thế này. Trong lòng tôi hiểu rất rõ, lão thái thái này không phải dạng vừa, ngay từ đầu bà ta đã muốn bắt nạt tôi rồi, thậm chí bà ta đồng ý gặp tôi, có lẽ cũng xuất phát từ nguyên nhân này thôi.

Cái tính khí bỡn cợt này của lão thái thái chính là cậy già mà lên mặt, lấy thân phận trưởng bối để chèn ép tôi, ngày xưa chắc chắn là một cô em cay nghiệt chua ngoa, đúng loại hình mà ông nội tôi thích rồi còn gì.

Tôi suy nghĩ một chút, tình thế này thật bế tắc, một bà cụ già chơi đểu ngay trước mặt mình, thì còn biết làm gì bây giờ. Tôi cuống quít đến nỗi toát hết cả mồ hôi, không kìm được quay sang nhìn Bàn Tử, Bàn Tử nháy mắt với tôi, như thể cũng không chịu nhịn cái trò vô lại này của bà ta, khẽ giọng bảo: “Bà ta chơi xấu, cậu cũng chơi xấu, ngồi xuống đã rồi hẵng nói.”

Tôi nghe vậy thấy cũng đúng, quyết định ngay, da mặt gì đó cũng không cần nữa rồi, bèn ngồi phịch xuống chiếc ghế đôn ngay trước mặt lão thái thái.

Lão thái thái thấy vậy liền nhíu mày, trong bụng tôi cuống quít lắm rồi mà vẫn không chịu thua, nói: “Bà bà, chuyện này rất quan trọng với cháu, bà đừng đùa giỡn cháu như thế, bà giỡn cháu, cháu cũng lỳ ở đây luôn, ba đứa bọn cháu ngồi lỳ ở đây với bà, bà về nhà cháu cũng theo bà về, dù sao thì bà đi đâu bọn cháu theo đó.”

Nói rồi tôi ngẩng đầu xem phản ứng của bà ta, vừa nhìn đã thấy không đúng, sắc mặt lão thái thái đột nhiên trở nên có chút khó coi, căn bản không để ý đến lý do lý trấu của tôi, liền quát tôi ngay lập tức: “Ai cho anh ngồi xuống! Đứng lên!”

Tôi sửng sốt, nghẹn cả lời, không ngờ bà ta lại giở quẻ như thế. Nhưng nếu đã quyết tâm ăn vạ, tôi cũng không phải người hay bỏ dở giữa chừng, bèn lắc đầu: “Bà không đồng ý cháu sẽ không đứng!”

“A Tuyết, gọi Tiểu Trương Tiểu Lê đến đây, kéo mấy tên lưu manh chết tiệt này ra ngoài cho tôi!” Lão thái thái liền nổi giận đùng đùng.

Tôi cảm thấy cơn giận bừng bừng của bà ta rất khó hiểu, nhưng lời này vừa nói ra, người phụ nữ trung niên và cô gái trẻ kia đều nhìn chúng tôi, cô gái kia nhìn lão thái thái một chút, rồi mới đứng lên, rõ ràng là muốn gọi thêm người. Bàn Tử lập tức nhớ tới chức trách của mình, tiến lên một bước cản lại: “Sao chứ, thiếu gia nhà ta ngồi xuống cái ghế rách này của mấy người mà mấy người còn lắm lời à? Cái ghế này có gì hay ho chứ, ngồi xuống đánh rắm mùi rắm liền biến thành mùi thơm à? Lão thái thái, chúng ta đang ở thế kỷ 21 rồi, pháp luật không phạt tội ăn vạ, bà tìm người đuổi bọn này đi thì thật là kém tắm, thiếu gia nhà tôi biết kính lão đắc thọ, nhưng tôi đây thì là du côn thật đấy, tí nữa đứa nào kéo thiếu gia nhà này ra, tôi đây đập hết cả cái xó này; chỉ sợ ảnh hưởng không tốt lắm đến thanh danh của bà thôi, lỡ lại làm bị thương đến bà thì lại càng không hay rồi, bà nói có phải không?”

Cô gái trẻ kia bèn cười lạnh một tiếng: “Các người thì biết cái gì, đây cũng không phải chỗ mà các người muốn ngồi thì ngồi, ngồi rồi gặp hậu quả gì, các người…..”

Lão thái thái bỗng nhiên khoát tay chặn lại, ngắt lời cô gái trẻ. Tôi thấy sắc mặt bà ta dần dần hòa hoãn lại, thay vào đó lại là một vẻ mặt rất khó hình dung, bà ta lạnh lùng nói: “Để cho bọn họ ngồi, bọn họ muốn ngồi, thì cứ cho bọn họ ngồi.”

Tôi nhìn nét mặt bà ta, đột nhiên có dự cảm rất xấu, thầm nghĩ lẽ nào bên dưới cái ghế này có lò xo, lát nữa lò xo sẽ bắn tôi ra ngoài. Rồi nghĩ lại một chút, không đúng, không thể như thế được, nói chuyện còn chưa xong sao đã đi chệch hướng thế này, tôi đến đây là vì chính sự mà, cái gì nhịn được thì phải nhịn. Muốn xoa dịu bầu không khí một chút, tôi mới nói:

“Bà bà, cháu nói được làm được, bà thương cháu đừng đùa bỡn cháu nữa, ân ân oán oán gì giữa bà và bà nội cháu, cháu nào có biết được đâu, nếu ông nội cháu có làm chuyện gì không phải với bà, hay là bà tát cháu vài cái cũng được?”

Lão thái thái không nhìn tôi, chỉ nhìn đồng hồ, rồi nói với tôi:

“Được, tôi đây cũng sợ anh rồi, thiếu gia nhà họ Ngô. Nhưng mà anh đừng hỏi gì vội, bây giờ anh hỏi gì tôi cũng không nói. Anh cứ ngồi đây, ngồi đến bốn rưỡi, nếu anh làm được, tôi không làm khó anh nữa.”

“Ngồi trên ghế này?”

“Đúng, một mình ngồi trên ghế này. Đừng nóng vội, tôi đảm bảo anh sẽ không nhàm chán đâu.” Lão thái thái nói, rồi nhìn xuống lầu. Bỗng tôi nghe từ dưới lầu vang lên một tràng tiếng chuông lắc.

Tôi bỗng lại càng có linh cảm xấu, lão thái thái cũng không nhìn tôi, mà nhìn xuống sân khấu ở lầu dưới, sau đó, toàn bộ tấm rèm che cửa ở cả tầng lầu lần lượt được kéo lên, xung quanh tức khắc tối sầm, ngọn đèn chùm to tướng treo ở chính giữa lập tức sáng bừng lên, bao nhiêu ánh sáng rực rỡ nổi lên, những món đồ nội thất, thảm trải sàn và rèm cửa cũ kỹ bỗng nhiên trở nên vô cùng mờ ảo và hoa lệ dưới ánh đèn này.

Sau đó, người ở tầng dưới bắt đầu nhốn nháo cả lên, cô gái trẻ bên cạnh kêu lên một tiếng thích thú, rồi hỏi lão thái thái: “Bắt đầu rồi phải không ạ?”

Lão thái thái gật đầu nói: “Bắt đầu rồi đây, con xem kỹ nhé, hôm nay chúng ta có kịch hay để xem đấy.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 8: Thịnh yến của giới sưu tầm
.
Nhìn sân khấu tuồng bên dưới đã được bày biện những chiếc bàn con và những bục triển lãm, tôi liền biết buổi bán đấu giá lúc nãy tôi vừa thấy chuẩn bị ở dưới đã sắp bắt đầu rồi. Khung cảnh thình lình tối sầm và tiếng người nhốn nháo làm tôi có hơi mất tự tin, lại thấy vẻ mặt quái quái của lão thái bà kia, tôi cứ có linh cảm là mình đã làm điều gì ngu xuẩn mất rồi, hơn nữa, điều ngu xuẩn này chắc chắn có liên quan đến buổi đấu giá kia.

Một ánh sáng lóe lên trong đầu tôi, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó tôi không kịp lĩnh hội được điều gì kỳ quặc trong đó, chỉ cảm thấy cái ghế dưới mông mình cứ như đang mọc gai đâm lên, bắt đầu khó chịu vô cùng.

Vì tự ái nên tôi buộc phải giả vờ điềm tĩnh, nhưng tôi biết chắc là chỉ bằng định lực của tôi thì hoàn toàn không che mắt được tay giang hồ lão làng này, nhưng mà lúc này, nếu không giấu giấu giếm giếm thì chi bằng đứng lên chịu thua rồi rời đi cho rồi. Trong lòng tôi vô cùng mâu thuẫn, suy nghĩ một hồi, cuối cùng vẫn đành gắng gượng mà tiếp tục chờ đợi.

Tôi liếc nhìn Bàn Tử để tăng thêm dũng khí, nào đâu thấy anh ta cũng có hơi thấp thỏm bất an, nơi này không phải địa bàn của anh ta, xem ra tên này cũng biết chột dạ rồi. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, núi đao biển lửa ba đứa bọn tôi cũng từng xông pha rồi, ở nơi này thì có thể xảy ra chuyện gì cơ chứ? Cùng lắm là bị người ta đá ra ngoài, cũng không rơi đầu được.

Nghĩ vậy, tôi mới thả lỏng được một chút, nhìn lão thái bà kia cười một cái, nghĩ bụng bà quá coi thường tôi rồi, dầu gì tôi đây cũng coi như là đã bao lần lăn qua lộn lại giữa ranh giới sống chết rồi, chút rắc rối này thì có sá gì cơ chứ.

Thế là, tôi bèn ngồi thẳng lưng lên, tập trung nhìn xuống xem tình hình bên dưới.

Chẳng mấy chốc, người ta đã đặt bàn đấu giá và bệ triển lãm lên trên sân khấu, một người trông giống nhân viên làm việc ở đây bước lên sân khấu cầm micro điều chỉnh âm thanh, còn một người điều chỉnh ánh sáng, những người này đều mặc đồng phục nhân viên phục vụ. Xem ra buổi đấu giá này không phải do công ty đấu giá tổ chức, mà giống như lời đồn, đây là một buổi đấu giá tư nhân, là nơi để dân trong nghề đến giải trí.

Khi nãy trong lúc ngồi chờ, Bàn Tử đã nói với tôi, điểm đặc biệt nhất của các phiên đấu giá ở nơi này đó là không có bất cứ chuyên gia, học giả hay nhà nghiên cứu nào định giá, quan trọng là phải xem nhãn lực và mạng lưới quan hệ của anh như thế nào, bởi vì phần lớn những món đồ được đem ra đấu giá ở đây đều chưa được định giá, thậm chí còn chưa từng ai được nhìn thấy nó, anh không có một tiêu chuẩn cơ bản nào để ra giá, ví dụ anh cảm thấy món đồ đó có thể bán với giá khoảng năm trăm đến một vạn, nhưng người khác lại tìm được những kênh thông tin riêng mà từ đó họ bằng lòng trả đến mười triệu cho món đồ đó, anh cũng chẳng còn cách nào khác cả.

Nói cách khác, nếu anh muốn chơi ở nơi này, thì đầu tiên, anh phải biết vật được đem ra đấu giá là cái gì, sau đó biết được giá trị của nó ở khoảng bao nhiêu, rồi mới có thể mở miệng ra giá được. Việc này đòi hỏi sự phản ứng nhanh nhạy trong khoảng thời gian cực ngắn, cho nên, có thể nói, nơi đây chính là địa điểm chơi đồ cổ hồi hộp gay cấn nhất Bắc Kinh.

Hơn nữa, đáng sợ nhất là, ở nơi này cũng có thể mua phải hàng nhái hàng rởm, cho nên ngay bản thân anh cũng đã phải là một tay sừng sỏ nhãn lực cực tốt rồi. Bởi vì hàng giả mà trà trộn được vào nơi này thì cũng đã phải vượt qua phạm vi của hàng rởm thông thường rồi. Dù từ ngữ hiện hành để giải thích thì đó chính là “hàng nguyên đơn”, đây là khái niệm mới xuất hiện trên internet, dùng để chỉ hàng chính hãng xuất từ nhà máy chính hãng, nhưng không phải do chính thương hiệu đó tung ra thị trường, mà là do phía nhà máy tự buôn bán không thông qua các cửa hiệu chính hãng. Thế là trên thị trường xuất hiện một loại hàng hóa giống y hệt hàng chính hãng từ chất lượng cho đến các chi tiết nhỏ nhất, nhưng lại không phải “hàng chính hãng” thực sự.

Đương nhiên, hàng hóa trong giới sưu tầm đồ cổ không phải hàng thừa của nhà máy từ thời cổ đại, mà là hàng phục chế hoàn toàn bằng công nghệ kỹ thuật cực kỳ tiên tiến và hiện đại, giống y đúc hàng thật. Loại này chắc chắn là hàng giả, nhưng dù anh có giám định thế nào đi nữa cũng vẫn không tìm ra được kẽ hở nào. Hiện nay trong giới chơi đồ cổ đã xuất hiện những mặt hàng như thế. Loại hàng này, phí tổn để phục chế ra nó đã tốn kém khủng khiếp lắm rồi, thậm chí làm đến hàng ngàn cái nhưng chỉ có một cái thành công, cho nên đương nhiên là người ta sẽ tìm cách để có thể thu được lợi nhuận tối đa từ món cực phẩm này. Bởi vậy, những món hàng này thường xuất hiện ở những thị trường cao cấp nhất.

Muốn phân biệt thật giả với loại hàng này là điều bất khả thi, cách duy nhất chính là dựa vào trực giác: một là trực giác với người bán, phải phân tích kỹ lưỡng xem thần thái và tâm lý của tên này có điều gì khả nghi hay không; hai là giác quan thứ sáu với đồ cổ. Ngoài ra, cũng có một vài người phán đoán thật giả dựa trên một số chi tiết mang tính nghệ thuật, ví dụ như với sứ Thanh Hoa, cả một món đồ sứ hoàn hảo không chút khuyết điểm gì, nhưng một vài nhà nghệ thuật có thể nhìn ra được bút họa thanh hoa trên món đồ sứ đó có vấn đề, dẫu sao thì thời cổ đại các món đồ sứ thường được danh gia vẽ và tráng men, phong vận đó là thứ mà không một bậc đại sư công bút họa thời nay nào mô phỏng lại được. Nhưng mà, vấn đề ở phương diện này rất khó để đem làm bằng chứng, bởi vì cảm nhận về một tác phẩm nghệ thuật thường chín người mười ý.

Tóm lại, buổi đấu giá ở nơi này có thể nói chính là một buổi thịnh yến cao cấp để mở mang kiến thức, tình huống gì cũng có thể xảy ra, cái gì cũng có thể xuất hiện, mà lần này, Bàn Tử lại còn nhìn thấy vài nhân vật đẳng cấp trong giới sưu tầm đồ cổ nữa, cộng thêm cả Hoắc lão thái thái cũng đã ngồi ở đây, rõ ràng thớt có tanh tao ruồi mới đổ đến, chắc chắn hôm nay có món đồ gì khủng khiếp lắm đây. Nghĩ đến đó mà tôi không khỏi có chút hào hứng.

Rất nhanh sau đó, tiếng ồn ào huyên náo phía dưới càng lúc càng lớn, thiết bị cũng đã điều chỉnh xong, một nữ chủ trì mặc xường xám bước lên thử âm thanh một chút, rồi nói với mọi người khắp bốn phía xung quanh:

“Buổi đấu giá sắp bắt đầu, những người không có nghĩa vụ xin mời ra ngoài, chúng tôi sẽ đóng cửa ngay bây giờ, những người trong hội trường xin hãy giữ yên lặng, các nhân viên phục vụ có thể bắt đầu phát catalogue đấu giá.”

Nữ chủ trì tóc dài xõa vai, nhìn thấy được cả vòng eo mảnh khảnh, đôi chân dài miên man, mặc xường xám vào trông rất có cảm giác một phu nhân thời Dân Quốc, mỹ nữ chất lượng thế này mà lại làm chủ trì ở nơi này, thật khiến tôi phải bùi ngùi xúc động. Tôi nhớ ngoài cổng chính ở căn nhà cũ của ông nội tôi có hai cái vòng đập cửa, là vòng đập cửa hình đầu sư tử bằng vàng ròng nguyên chất thời Tống, hai cái vòng này đặc biệt không giống các loại vòng đập cửa khác, vòng cửa là nguyên khối ngọc cổ hình tròn được chạm trổ hình Ly Vân cuộn tròn..(Ly Vẫn và Cù đều là thần thú trong truyền thuyết thời cổ. Cù là con rồng nhỏ không có sừng, Ly Vẫn trong truyền thuyết là một trong chín đứa con của rồng, cũng không có sừng ) , mà lại còn là chạm nổi hai tầng bằng kỹ thuật thấu điêu (Thấu điêu là một kỹ thuật điêu khắc nổi, phần bối cảnh được khoét rỗng để nổi bật phần hình ảnh được chạm khắc lên) , bên trong vòng ngọc vẫn là vòng ngọc, vòng ngọc bên trong chạm khắc hình con Cù.

Người nào hiểu nghề nhìn vòng đập cửa này là biết nó vô giá đến mức nào, chỉ sợ còn đắt gấp mấy lần giá trị toàn căn nhà cộng lại ấy chứ. Đây là thiết kế đặc biệt của ông nội tôi, một cách thể hiện rõ thế lực của nhà này cho người khác biết: anh xem, món đồ quý giá như thế mà tôi đây còn đem làm vòng đập cửa được, không thèm sợ kẻ nào trộm mất hoặc gõ hỏng mất, chứng tỏ, trong nhà này chắc chắn còn nhiều bảo vật khác quý giá hơn nhiều, anh bạn nào muốn đến nhà đào hàng rẻ, nhìn vòng đập cửa cũng phải dè chừng, không dám vào nữa. Ở Trung Quốc, việc làm ăn lúc nào cũng xem trọng mặt mũi.

Lại nghĩ, chẳng trách cửa tiệm của mình lại lạnh lẽo tiêu điều đến thế, mấy năm rồi chưa sửa sang lại chút gì, hay là lần sau bắt Vương Minh mặc xường xám thử xem?

Tiếng ồn ào bên dưới càng lúc càng lớn, tôi thấy có người lục đục rời hội trường. Cấu tạo lầu hai là hình vòng tròn, bao gồm rất nhiều gian ghế lô khác giống gian của chúng tôi sắp xếp thành một vòng tròn bao quanh lấy sân khấu ở chính giữa, tôi thấy phía bên cạnh lẫn phía đối diện, nhiều tấm bình phong của các gian ghế lô khác đã được dời đi, nhiều người từ bàn cơm chuyển sang ngồi bên bàn trà hướng ra sân khấu rồi.

Tôi quan sát kỹ lưỡng, liền thấy tên sơ-mi áo hồng nọ đang ngồi trong một gian phía đối diện hơi chếch về bên trái, hình như chỉ có một mình hắn ta ngồi đấy thôi, còn đang chơi trò chơi trên di động. Bàn Tử lén chỉ tôi nhìn sang gian to rộng y hệt gian chúng tôi đang ngồi ngay đối diện, anh ta thì thào một câu: “Lưu Ly Tôn.”

Vị trí đó cách chỗ chúng tôi một đoạn khá xa, nên tôi không nhìn thấy rõ lắm, lúc này, tôi mới phát hiện tất cả các gian ghế lô khác đều bày biện giống nhau, đều có một bàn trà khắc gỗ và mấy cái ghế. Nhưng dù gian đó có nhiều người hay ít người, thì tất cả mọi người ai nấy đều ngồi trên ghế bên trái, chỉ có ghế bên phải – cũng chính là vị trí tôi đang ngồi đây, là không một ai ngồi. Tôi không khỏi toát mồ hôi lạnh.

Ngay khi tôi hoảng hốt, có người đến chuyển tấm bình phong sau lưng chúng tôi đi, một viên phục vụ bưng một cái khay bước vào, trên khay trải một tấm vải đỏ, ở giữa khay là một cuốn sách nhỏ bọc bìa da cứng. Tôi nhận ra đây chính là người đã mời chúng tôi lên lầu, anh ta đến trước mặt lão thái thái, rồi đột nhiên nhìn thấy tôi, sắc mặt liền trở nên xanh lét, toàn thân chết sững tại chỗ.

Mãi lâu sau anh ta mới hoàn hồn, liền hỏi: “Thái thái, người bạn này đã ngồi nhầm vị trí rồi phải không?”

Lão thái bà liền liếc nhìn anh ta: “Làm sao? Lâu quá rồi chưa gặp tình cảnh này à, anh mà cũng không tin còn có người dám ngồi ở đây sao? Cũng phải thôi, mười năm trước, kể từ sau khi lão Xương Thịnh ngồi ở đây, đã lâu lắm rồi không có ai ngồi vào vị trí này nữa, nhưng mà, những món đồ hôm nay sẽ đấu giá coi như là trăm năm mới gặp một lần, nên có xuất hiện mấy tên liều mạng thì cũng đúng thôi. Thôi anh hãy đưa vị thiếu gia nhà họ Ngô đây thêm một bản danh sách nữa, hầu hạ cho tốt vào, cho anh mở rộng tầm mắt.”

“Dạ!” Viên phục vụ kia khiếp sợ liếc nhìn tôi một cái, rồi lập tức quay đi ngay. Không lâu sau đó, một cuốn catalogue giống y hệt đã đến tay tôi, còn thêm cả một ấm Bích Loa Xuân hảo hạng, cùng bốn đĩa quà bánh cực kỳ tinh xảo.

Tôi nhớ ấm trà này những hơn bảy ngàn lận, bèn lấy làm lạ, liếc mắt nhìn anh ta, anh ta nói: “Ông chủ, trưởng ca chúng tôi xin mời ngài những thức này, mời ngài dùng, có gì sai bảo xin hãy cứ gọi chúng tôi.” Nói đoạn cũng rời đi ngay tắp lự.

Tôi nhìn Bàn Tử, nghĩ mà chẳng hiểu gì cả, hơn nữa còn cực kỳ không bình thường, Bàn Tử nháy mắt với tôi, bảo tôi đừng sợ. Nói rồi, anh ta lật catalogue ra xem, nóng vội lật xem qua loa, mới lật được hai trang, tôi thấy miệng anh ta giật giật.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 03 Dec 2019

Chương 9: Hồi ức .

Tôi liền giật lấy cuốn catalogue, nhìn kỹ một chút, mới phát hiện hóa ra bên trong lớp bao bì đẹp đẽ kia lại chỉ có mỗi hai trang giấy. Trang thứ nhất là lời chào mừng, trang thứ hai có dán một tấm ảnh chụp, tấm ảnh rất lớn, chụp hình một khối ấn tỷ với phần đế hình lập phương, được chạm trổ điêu khắc rất phức tạp, có màu xanh rất thẫm, không bóng lên được chút phản quang nào. Trông có vẻ quen mắt.

Bên dưới lác đác vài con số viết tay, là các kích cỡ của vật trong tấm hình, bên dưới cùng còn có một hàng chữ nhỏ: ngọc tỷ Quỷ Nữu Long Ngư, xuất xứ từ Bách Nham Bình, huyện Cổ Văn, tỉnh Hồ Nam.

Điêu khắc chạm trổ trên ngọc tỷ cực kỳ phức tạp, chỉ tính riêng phần điêu khắc tượng đã có đến mấy cái, tôi thấy có mấy hình tượng ác quỷ là nổi nhất, các bộ phận còn lại thấy có vảy, không rõ là cá hay là rồng. Nhìn qua ảnh nên chỉ thấy một đống loằng ngoằng chả phân rõ đâu vào đâu nổi.

Tôi lạnh cả người, xem kích thước thì vật này có vẻ nhỏ, không giống các loại ấn triện người bình thường hay dùng, xem phong cách tạo hình phần “nữu” thì có lẽ thuộc về thời Chiến Quốc...(Ấn nữu, hay núm ấn/ núm triện là một loại ấn chương có đính điêu khắc trang trí có lỗ ở phía trên phần ấn. Có lỗ là để xuyên dải lụa, đeo bên người) , chỉ có thời kỳ đó mới hay có ấn triện sở hữu cá nhân. Trước đây tôi cũng từng gặp loại hàng này ba lần trên thị trường, nhưng đều là thú nữu, loại quỷ nữu tôi chưa từng thấy bao giờ.

Tư ấn thời Chiến Quốc tuy rất hiếm, nhưng cũng chưa đến mức cực phẩm, chỉ trong khoảng một trăm ngàn là đủ mua loại ấn nhỏ cỡ từ một đến hai centimet rồi. Nhưng khối triện vuông này kích cỡ khoảng bốn centimet, rất có thể là quan ấn, đặc biệt tôi rất chú ý đến cái tên của nó: Long Ngư ngọc tỷ.

Tên này nhất định là do người bán đặt ra, trong đó có nhắc đến chữ “Long”, vô cùng mấu chốt. Bởi vì bất cứ loại ấn triện nào mà có rồng ở đó, vậy nhất định chỉ có hai loại: một là ấn triện của vương công quý tộc, hai là ấn triện của bậc đế vương chính tắc. Những thứ như thế trong lịch sử chỉ đếm trên đầu ngón tay, cho dù có là ngọc tỷ của nước nhỏ, với thói đời bây giờ, thì cũng là bảo vật vô giá.

Ở nước tôi, tất cả các món đồ cổ khai quật được đều thuộc hàng di vật văn hóa, không được phép mua bán, nhưng lại có thể sưu tầm, hơn nữa, nếu nhà sưu tầm gây tổn hại đến vật phẩm sưu tầm còn có thể phải chịu tội hình sự. Nói cách khác, ở Trung Quốc, những món đồ cổ tính từ thời Thanh trở về trước đều chẳng khác gì bom hẹn giờ, người khác không biết thì thôi, nhưng nếu để người khác biết được thì toi đời.

Vật này chắc chắn là do trộm mộ mà ra rồi, nếu đã vậy, đừng nói là đấu giá, thứ này ngay từ đầu đã chính là tang vật, bây giờ còn được đem ra bán đấu giá nửa công khai ở đây, như vậy tất cả mọi người ở đây đều là tội phạm. Vật này có giá trị càng lớn, cả đám ở đây tội lại càng nặng, tôi có thể lấy một ví dụ hơi cường điệu một chút: nếu như bây giờ thời gian lùi lại khoảng hai mươi năm trước, trong trường hợp này tôi mà cầm một khẩu AK47 nã hết toàn bộ hai tầng lầu, có khi tôi còn được tôn là anh hùng vì dân trừ hại ấy chứ.

Những việc tôi từng làm trước đây kể ra cũng quá giới hạn, nhưng lần này lại là ở Bắc Kinh, ngay dưới chân thiên tử, người bình thường làm chút chuyện xấu gì cũng phải giấu giấu giếm giếm, huống hồ là cả một chuyện tày đình như thế mà lại làm rùm beng đến vậy, ông chủ của khách sạn này thường ăn gan hùm mật gấu có phải không? Nghĩ một chút, tôi mới đột nhiên nhớ đến bối cảnh của Hoắc lão thái, nghĩ thầm cái đệt mợ nó, liệu có phải, bà ta đã báo cảnh sát từ lâu rồi không, đợi tí nữa bom nổ, tôi có muốn chạy cũng không chạy nổi. Vậy là bà ta danh chính ngôn thuận không cần phải nói gì với tôi rồi.

Nhưng nghĩ lại, cũng không đúng lắm, lúc đó bà ta không cho tôi ngồi vị trí này, hình như bởi vì người ngồi vào vị trí này sẽ có đãi ngộ đặc biệt gì đó.

Nói chung, xem ra, vật này chính là vật phẩm đấu giá duy nhất của ngày hôm nay, như vậy tất cả những người ở đây đã sớm có chuẩn bị rồi mới đến, nhất định phải mua bằng được mới chịu. Nghĩ đến đó, tôi lại liếc nhìn thằng cha sơ-mi hồng phấn cách đó không xa, hắn ta đang ngồi trên một chiếc sô-pha kiểu Âu, không còn nghịch di động nữa mà đang nằm tựa trên sô-pha điệu bộ kiêu căng phách lối, hai tay khoanh trước ngực, buồn chán nhìn lên trần nhà.

Tôi khép cuốn catalogue lại rồi đưa cho Muộn Du Bình, hắn ta vô cùng nghiêm túc thành thực diễn tròn vai đàn em của đại ca giang hồ, chắc là trước đó đã được Bàn Tử dạy bổ túc cho một khóa rồi, chẳng qua là có thêm tôi với Bàn Tử trợ diễn nên trông cả lũ chẳng ra đâu vào đâu cả. Hắn ta không thèm liếc nhìn cuốn catalogue lấy một lần, chỉ đặt sang bên cạnh.

Bàn Tử sắc mặt tái mét, nói nhỏ bên tai tôi: “Nhận ra chưa, xem ra tụi mình đến đúng chỗ rồi.”

Khối ngọc tỷ này tuy đáng gờm, nhưng không phải loại tôi yêu thích, cho nên tôi không hào hứng như Bàn Tử, bèn khẽ thì thào nói lại: “Ông anh đừng có làm tôi mất tập trung nữa đi, tôi cứ có cảm giác sắp tiêu con mẹ nó rồi, anh trợ lực cho tôi tí đi, lát nữa ngộ nhỡ không xong thì tụi mình nghĩ cách rút.”

Bàn Tử sửng sốt nói: “Nhà cậu vẫn còn tâm tư mà suy nghĩ cái này à? Cậu không nhận ra vật này là cái gì à?” Nói đoạn chộp lấy cuốn catalogue, mở banh nó ra cho tôi xem, “Cậu nhìn cho kỹ đi, vật này, tụi mình từng nhìn thấy ở đâu rồi?”

“Từng nhìn thấy rồi?” Tuy tôi cũng thấy hơi quen quen, nhưng tại thái độ kỳ quái của lão thái thái, trong khoảnh khắc tôi không đào sâu suy nghĩ được cái gì. Bàn Tử nói thế, tôi mới xem kỹ lại lần nữa.

Tôi nhớ lại những món hàng trước kia từng gặp và những bức hình văn vật từng xem, vật này rõ ràng không nằm trong số đó. Nhưng càng nhớ kỹ lại, tôi càng cảm thấy kinh hoàng, như thể đang dần chạm đến những ký ức mà sâu thẳm trong tôi không muốn đối mặt.

Lần lại theo dòng ký ức, tôi không khỏi toát hết cả mồ hôi lạnh, trong nháy mắt tôi đã nhớ ra rồi, ngày ấy dưới đáy núi Trường Bạch, sâu thẳm trong Vân Đỉnh Thiên Cung, người cầm lấy vật đó, cũng chính là người đang đứng phía sau tôi, giữa sương mù dày đặc, người đó đã bước vào trong cánh cửa thanh đồng khổng lồ.

“Không thể nào.” Tôi thầm nghĩ. Thế là sao?

Vì sao thứ này lại xuất hiện ở đây?

Tôi không biết tác dụng của vật này, nhưng lúc đó, Muộn Du Bình đã cầm lấy nó, cho nên ấn tượng của tôi rất sâu. Nói thật, lúc đó sương mù dày đặc, vả lại thời điểm diễn ra sự kiện đó cách đây cũng khá lâu, tôi không thể xác định được ngọc tỷ trong tấm ảnh và ngọc tỷ hắn từng cầm có giống nhau y đúc hay không. Nhưng mà, cho dù có điểm khác biệt đi chăng nữa, thì giữa hai khối “ấn tỷ” này chắc chắn có mối liên hệ gì sâu xa.

Tuy tôi không thể xác định là giống nhau hoàn toàn, nhưng xét về màu sắc và phần điêu khắc phía trên thì quả thực là rất giống. Tôi tin là cho dù không phải cùng một vật thì cũng là cùng một loại.

Có dạo tôi từng hoài nghi, vật kia có phải chính là Quỷ Tỷ đã được nhắc đến trong sách lụa của Lỗ Thương Vương hay không, Muộn Du Bình cầm vật đó đứng trước cửa Thanh Đồng không phải để tạo dáng cho đẹp trai, vật này chắc chắn có tác dụng đặc thù nào đó. Thật không ngờ tôi lại gặp được một vật tương tự ở chỗ này.

Mẹ kiếp, tôi nghĩ bụng, đúng là đến sớm không bằng đến đúng lúc, nghĩ đoạn tôi liếc mắt nhìn Bàn Tử, anh ta cúi đầu, tôi mới rỉ tai anh ta nói: “Mau đi hỏi xem, người bán vật này là ai?”

Bàn Tử gật đầu, Hoắc lão thái bên cạnh bình thản nhấp một ngụm trà, rồi lạnh lùng nói: “Đừng hỏi nữa, nếu chủ bán ở đây đã không muốn để người ta biết danh tính, thì không một ai hỏi ra được đâu.”

“Ai, lão thái thái bà coi thường người khác đấy phải không.” Bàn Tử nói, “Ông Béo đây tuy không lăn lộn trong khách sạn Tân Nguyệt này, nhưng nói thế nào thì cũng coi như là nhân vật có máu mặt ở thành Bắc Kinh này, tôi nói cho bà hay, không phải ông Béo tôi chém gió, mà thực sự là, chỉ dựa vào mối quan hệ của tôi đây thôi, muốn hỏi tin tức về một người thì làm gì có chuyện không hỏi ra được.”

Lão thái thái cũng không thèm quay đầu lại: “Ông chủ ở đây đã hiển quý ở thành Bắc Kinh từ thời triều đình Mãn còn hoàng thượng kia, mấy trăm năm rồi, truyền đến mấy đời, xưa nay chưa từng ra mặt. Nếu anh thực sự nghe ngóng ra được, chỉ sợ ngày mai thiếu gia nhà anh phải ra sông Vĩnh Định mò xác anh mất. Mấy năm nay, giá vớt xác cao ngất ngưởng, tôi thấy nhà anh nên tiết kiệm chút tiền này để lo ứng phó với chuyện khác thì hơn.”

Bàn Tử nổi giận đùng đùng, đã muốn xông ra ngoài ngay để chứng minh cho lão thái bà thấy, tôi liền cản anh ta lại, tôi biết lão thái thái không nói dối, có lẽ cũng không hề khoa trương. Với cả cái tên Bàn Tử này cục súc hung hãn, thế này coi như là đã hoạnh họe với người ta rồi, anh ta ra ngoài lỡ mà không hỏi được thật, chắc chắn sẽ không thèm quay lại đâu, nói không chừng còn bắt nhân viên nhà người ta ra nghiêm hình bức cung ấy chứ, thế thì còn đâu là mặt mũi nữa, không khéo lại thêm rắc rối. Phiên đấu giá sắp bắt đầu rồi, tôi không muốn đêm dài lắm mộng, bèn bảo anh ta: “Cho bà ta chút thể diện.”

Thực ra là cho tôi chút thể diện cơ, anh ta bèn lầm bầm một tiếng, rồi không nói gì nữa. Tôi nhìn khắp hội trường dần dần yên tĩnh lại, trong đầu lại nảy ra một suy nghĩ, tự nhủ, biện pháp đơn giản nhất để có thể gặp được người bán có lẽ chính là mua lại vật này, nhưng mà, tôi có thể mua nổi vật này được sao?

Ở đây chỉ có duy nhất một vật đấu giá, cho nên mục đích của tất cả mọi người ở đây đều đã rõ ràng, hơn nữa, ở đây toàn là tai to mặt lớn, bảo đấu giá thì tôi đấu không nổi, nếu chốt giá rồi mà tôi quỵt tiền, tiền bồi thường ít nhất cũng đủ làm tôi táng gia bại sản. Chưa kể nơi này còn là chợ đen, lỡ ăn quỵt có khi còn phải trả bằng chặt ngón tay, móc con mắt gì gì đó, quá xúi quẩy rồi.

Mà kể cả dù có mua được thật, ở cái nơi chợ đen như thế này, người bán có thể bảo mật hoàn toàn, dù có mua được đồ của ông ta, ông ta cũng không nhất thiết phải lộ mắt, cùng lắm là phái một người đại diện đến ký hợp đồng với tôi. Hơn nữa, tôi đoán có lẽ quy trình và quy định đấu giá ở đây không giống bình thường.

Kế sách hiện tại cũng chỉ có đi đến đâu hay đến đó mà thôi, đầu tiên phải xác định được người bán đã, sau đó sẽ tính toán kỹ lưỡng hơn. Nỗi bất an trong lòng tôi đã biến thành hoảng loạn, tôi cứ có dự cảm rằng ở đây sắp xảy ra chuyện gì đó.

Bên dưới chiêng trống ầm ĩ, không lâu sau đã sắp xếp xong xuôi, tôi nhìn giữa sân khấu bày một tủ kính, trong tủ kính chính là khối ngọc tỷ trong cuốn catalogue, không nhìn rõ lắm, chỉ nghe nữ chủ trì mặc xường xám nói: “Thưa các vị, hiện tại chúng tôi xin bắt đầu bày hàng, các vị xem xét xong xuôi, nếu không ra giá kịp thì không còn cơ hội thứ hai nữa.”

Nói đoạn, một nhân viên khác bước ra từ bên cạnh. Người này chỉ mặc độc chiếc áo ba lỗ, hai bắp tay vạm vỡ như đùi trâu, trong tay cầm một cây gậy tre rất dài. Đầu kia gậy tre có một cái móc, trên nắp tủ kính kia lại có một cái vòng, có lẽ là dùng gậy tre móc vào tủ kính đó, vừa dứt lời, nhân viên kia bèn móc chiếc tủ kính nhấc lên như câu cá, tay cầm cây gậy trúc treo chiếc tủ kính giơ lên cao giữa không trung, như người ta cầm gậy phơi quần áo.

Tay nghề của nhân viên này rất vững, tay cầm gậy trúc giơ chiếc tủ kính cao ngang lầu hai mà không run rẩy tí nào, rồi cứ lần lượt đưa đến trước từng gian ghế lô một.

Không ai với ra đoạt lấy mà cũng không ai với ra nổi, bởi tủ kính vẫn luôn duy trì một khoảng cách đúng ngoài tầm với của cánh tay, cứ thế chỉ nhìn được vài lần, chưa tới nửa phút đã chuyển qua lô ghế tiếp theo. Tôi cũng rướn lên nhìn, khoảng cách rất gần, nhìn thấy rất rõ ràng, tôi liền lập tức phát hiện ra, vật liệu chế tác ra thứ này chắc chắn là loại đá từ vẫn ngọc giống như loại áo ngọc kia vậy.

Trong khoảnh khắc đó, tôi thực sự muốn vươn ra giằng lấy món đồ đó, sau đó kêu cả đám cùng đào tẩu, phải cố gắng lắm mới nén nhịn được suy nghĩ này.

Rất nhanh, vật kia đã được thu xuống phía dưới, bày lại giữa sân khấu. Sau đó, vẫn là nhân viên kia, dùng gậy trúc phân phát cho mỗi người một cái chuông con. Cô gái trẻ bên cái lão thái bà liền nhận lấy, đặt ở bên cạnh lão thái bà, những người ngồi trong các gian ghế lô khác cũng có, mà duy chỉ mình tôi là không có.

Tôi nghĩ, chắc phải tham gia đấu giá thì mới được phát chuông, cũng không để bụng nữa, cứ tưởng phát xong chuông là sẽ bắt đầu phiên đấu giá, nào ngờ, nhân viên kia cuối cùng lại phát cho tôi một thứ.

Đó là một cái đèn lồng nhỏ, chỉ nhỏ cỡ bằng một quả dưa hấu bé, bên trong có một ngọn nến, vải bọc đèn có màu xanh, rất tối, vừa nhìn là biết không phải loại dùng để chiếu sáng.

Nhưng vật kia vừa xuất hiện, cả hội trường liền vang lên vài tiếng xôn xao nho nhỏ, rồi tiếng xôn xao đó dần dần trở nên ồn ào huyên náo, tôi thấy mọi ánh mắt đều đổ dồn vào mình.

Tôi sửng sốt, Bàn Tử ngơ ngác nhận lấy chiếc đèn, đặt xuống bên cạnh tôi. Vừa buông xuống, cả hội trường ầm ầm vang lên tiếng vỗ tay nhiệt liệt.

Tôi liếc nhìn Bàn Tử, càng ngơ ngác không hiểu mô tê gì, có một nhân viên ở phía sau tiến lên, cầm lấy đèn, giúp tôi treo đèn lên một cây cột bên cạnh. Lão thái thái bên cạnh nói với vẻ sâu xa: “Còn không mau đáp lại những người hâm mộ của mình đi. Ở khách sạn này, đã lâu lắm rồi không một ai dám đốt ngọn đèn trời này, coi như là anh cũng đã khiến các bậc trưởng bối nhà họ Ngô nở mày nở mặt rồi đấy, về sau trên giang hồ không ai không biết tên anh, không ai không rõ uy danh của tiểu thiếu gia nhà họ Ngô rồi.”

Tôi nhìn bà ta, còn chưa hiểu là ý gì, nhưng mà ba chữ “đốt đèn trời” này hình như tôi đã nghe ở đâu rồi.

Bà ta nhìn tôi cười khẩy, tiếp tục nói: “Có điều, uy phong nhất thời, chỉ e cả nhà họ Ngô anh lần này sẽ bị ngọn đèn táng gia bại sản này thiêu rụi hết sạch thôi.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 32 guests