CHƯƠNG 2 Hữu nghị
15
Lúc ấy, tôi như đang chìm sâu thăm thẳm dưới đáy một hồ nước. Mẹ chết, em gái chẳng thấy đâu, bố thì nằm trên những đống gạch vụn của nhà kho… Nói tóm lại là tôi đã mất hết, mất người thân, mất gia đình, mất nhà cửa, mất luôn cả chỗ ngủ, chỉ còn biết khóc. Tôi đem thức ăn mà nhà họ Triệu và nhà họ Vu mang đến cho chia làm hai phần, một nửa đem vào nhà kho, nhưng bố tôi chẳng thèm động đến những gì tôi đem vào, ngay cả lúc ông ngủ say, thức ăn tôi đưa vào đều không được ông đưa vào mồm, làm như trong đó có chất độc vậy. Ông cầm thức ăn lên và không hề có chút lịch sự nào, ném thẳng xuống đất, một chút đau lòng cũng không hề lộ ra, không thèm nghĩ rằng chút thức ăn ấy là do tôi ép cái bụng ăn không biết no của mình lại để dành phần cho ông. Bố chỉ ăn những gì bác Vu và lão Triệu mang đến, đó là những chiếc bánh bao, bánh quẩy, thi thoảng cũng có một ấm trà nhạt thếch.
Bố tôi dùng báo cũ và chiếu trúc rách bó chặt thân thể lại nhằm chống chọi với cái rét. Ông không còn chỗ nào để đến, cũng không muốn tìm chỗ nào khác, quyết tâm biến cái nhà kho thành phần mộ của mình. Tôi là người mà ông không muốn gặp nhất nên chỉ có thể đứng giữa những trận gió lạnh, cách một bức tường mà nhìn ông, có khi đứng đến cả mấy tiếng đồng hồ để nhìn bố trở ngược quay xuôi cái thân hình bị bó trong báo và chiếu trên đống gạch vụn. Mỗi lần trở mình, bố tôi chẳng khác một khúc gỗ tròn lăn qua lăn lại, lăn đến những chỗ lồi lõm, ông cố gắng đến mười mấy lần mới lăn qua được. Tôi cũng đã từng chạy đến để giúp đỡ nhưng ông la hét đến độ những đường gân xanh trên cổ nổi gồ lên, thậm chí còn chụp lấy gạch vỡ định choảng vào đầu tôi. Bởi thế, tôi chỉ còn cách đứng ngoài cửa sổ nhìn bố. Gió lạnh thổi ào ào làm mũi tôi, tai tôi đỏ bầm, làm thân thể tôi tê dại. Nhưng gió bấc càng mạnh, càng lạnh, toàn thân tôi cứng đơ, lạnh buốt, lòng tôi mới đỡ lên một tí, hình như chỉ nhờ có vậy, tôi mới cảm thấy tội lỗi của mình nhẹ đi ít nhiều.
Một buổi chiều, mười mấy người thợ xây mang theo dụng cụ đến nhà kho. Họ nheo mắt, kéo chỉ, bắt đầu công việc cải tạo nhà kho cũ. Kéo chỉ xong, họ trát xi măng theo đường chỉ rồi tay phải cầm bay, tay trái cầm gạch, chăm chú ngắm nghía. Ngoài việc ngắm nghía dịch chuyển những viên gạch cho ngay ngắn, họ còn ước lượng sức nặng của mỗi viên gạch, sự chuyên tâm của họ quyết không thua kém gì so với việc tuyển chọn nhân tài, nghiêm trang chẳng khác nào đang thẩm vấn những viên gạch, như sự chúng không nghe lời, ảnh hưởng đến công việc của họ. Những viên gạch nào không vừa mắt đều bị họ vất qua khung cửa sổ một cách thẳng thừng, những viên nào vừa ý thì họ dùng bay tiện sạch vữa cũ, trát vữa mới lên rồi cẩn thận, nắn nót sắp chồng lên theo đường chỉ. Ánh nắng từ trên mái ngói tỏa xuống, rơi vào tay, vào bay, vào mặt mũi họ. Nhưng tùy theo sự di chuyển của cơ thể họ, ánh nắng cũng nhảy nhót, biến đổi vị trí liên tục, thoạt nhìn có cảm tưởng là không phải họ mà là ánh nắng đang di động. Bụi bay mù mịt trong nhà kho, tiếng cười nói ầm ào. Những viên gạch cũ đang phát huy tác dụng trong giai đoạn mới, từ đồ phế thải biến thành bảo bối.
Những lớp gạch được xếp lên nhau càng lúc càng nhiều, trong góc tường chỉ còn lại một đống gạch cuối cùng, bố tôi đang ngủ trên đó. Chỉ cần một viên gạch bị ai đó lấy đi là vị trí nằm của bố tôi lại một lần thay đổi, không ngừng hạ xuống theo nhịp độ lấy gạch của họ, cuối cùng thì đôi chân của bố đã thấp đến sát đất trong khi chiếc đầu vẫn còn ở trên cao. Tất nhiên, chiếc chiếu đang bó chặt cơ thể bố tôi cũng đã nghiêng, chiếc bát ăn cơm và ấm nước đặt bên cạnh cũng đã lăn xuống. Nước trà văng tung tóe, bánh bao cũng lăn tít mấy vòng và chiếc chiếu đột nhiên bị lật ra, để lộ khuôn mặt râu ria xồm xoàm của bố tôi. Tôi xin nhấn mạnh, đó là chiếc chiếu của nhà Triệu Sơn Hà, cũng chính là chiếc chiếu mà chúng tôi đã từng dùng để vây hai con chó, lúc này nó đã được dùng để cuốn lấy bố tôi. Những người thợ xây ngừng tay, vất bay, ngồi xuống mấy bức tường đang xây dở hút thuốc. Bụi và khói thuốc quyện vào nhau bay bảng lảng trên đầu họ. Họ thì thầm bàn tán: Nên chăng ném bố tôi ra ngoài cửa sổ như đã ném những viên gạch hỏng?
Cuối cùng tất cả đứng dậy, nhổ toẹt đầu thuốc lá đang ngậm trên môi, tay vỗ phành phạch lên mông, khiêng tấm chiếu và cả bố tôi trên đó ra khỏi nhà kho. Bố tôi lăn lộn trên tấm chiếu giống như những cọng rau đang nhào lộn trong nổi canh sôi sùng sục, đôi chân lòi ra khỏi chiếu đá loạn xị, gào rú điên cuồng:
- Đừng!… Không được đưa tao đi khỏi đây! Tao phải chết ở trong nhà tao! Chỉ cần chúng mày cho tao thêm vài ngày nữa, sức khỏe tao hồi phục thêm một tí, tao sẽ chết cho chúng mày xem. Đứng dậy được đầu tao sẽ đâm vào tường, bò dậy được tao sẽ treo cổ. Nếu chúng mày còn sót lại một chút lương tâm thì hãy giúp tao treo một chiếc dây thừng lên xà ngang, thắt một cái thòng lọng rồi chúng mày nhét cổ tao vào đó…
Bọn thợ xây vất bố tôi như vất một con chó chết lên chiếc xe ba gác ở ngoài cổng. Chiếc xe chao đảo, bánh xe tự động lăn về phía trước nửa vòng, một gã thợ xây to cao nhìn tôi, quát lớn:
- Kéo bố mày đến xưởng số 3!
- Không! - Bố tôi gào lớn.
Ngày ấy đúng mùa đông, là lúc gió bấc đang gào rú, cái mũi của bố tôi nhanh chóng biến thành một củ cà rốt cứng ngắt, đôi môi nhanh chóng thâm sì như lông quạ, tiếng kêu nhỏ dần, cuối cùng hầu như không còn chút sức nào nên đã tắt ngấm, đôi mắt khép lại như ngủ. Tôi cởi chiếc áo khoác trên người đắp lên cơ thể ông, kéo chiếc xe ba gác đi thẳng về xưởng số 3.
Xe vẫn chạy, người vẫn đi lại trên đường nhưng hầu như tôi không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, hình như cả xe lăn người chỉ là những cái bóng. Lá vàng phủ đầy trên mặt đất nửa khô nửa trơn tuột. Bánh xe buýt trượt qua lá vàng không hề gây nên tiếng động nào, ngược lại hai chiếc bánh xe ba gác cán lên lá vàng lại vang lên những tiếng lạo xạo. Lần đầu tiên kéo một chiếc xe nặng đến như vậy nên đi chẳng bao xa, mồ hôi đã thấm ướt lưng áo tôi. Gió tạt vào mặt càng lúc càng mạnh, đôi chân của tôi mỏi đến độ như muốn rời khỏi cơ thể mà bay lên cao. Khi chạy xuống con dốc của bờ đê, chiếc xe đuổi theo tôi; khi kéo lên con dốc của bờ đê, chiếc xe như kháng cự tôi, chạy ngược lại phía sau, sức kéo mạnh đến độ cánh tay tôi tê dại, đau buốt khiến tôi muốn buông tay. Đúng vào lúc tôi muốn buông tay thì chiếc xe bỗng nhiên trở nên nhẹ hều giống như lúc chạy xuống bờ đê. Ngoái đầu nhìn lại, tôi thấy Tiểu Trì đang thở phì phò, miệng phun khói trắng, chống hai tay lên thành sau của xe, ra sức đẩy. Mồ hôi lấm tấm trên trán, gương mặt đã đỏ giờ lại đỏ lên bội phần khác lạ với ngày thường.
Tiểu Trì chính là Trì Phượng Tiên nhưng mọi người vẫn thường gọi nó là Tiểu Trì, là đứa béo nhất lớp tôi. Nó béo vì bố nó làm trưởng cửa hàng thực phẩm, có cơ hội được ăn thịt nhiều hơn chúng tôi. Chẳng qua, được gọi là béo vào thời ấy so với béo vào thời nay là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Thời ấy, được gọi là béo thực ra chỉ ngang bằng với những người bình thường thời nay, có nghĩa là so với những người gầy thì có thêm chút thịt, thế thôi. Chính vì có thêm chút thịt mà Tiểu Trì khác hẳn những đứa trẻ bình thường thời ấy. Gương mặt của nó đã từng được chúng tôi dùng để đặt câu cho từ “đỏ hon hỏn”, mỗi lần gặp phải từ này trong sách là chúng tôi lập tức liên tưởng ngay đến gương mặt của Tiểu Trì. Nó được ăn no mặc ấm, không có lý do nào mà không đỏ hon hỏn.
Chúng tôi vừa kéo vừa đẩy chiếc xe ba gác đến xưởng số 3, rất nhiều người vây lại chung quanh. Bố tôi mở mắt:
- Đây là đâu? Các người là ai? Có thể chờ cho chân tôi đỡ đau một chút rồi hãy phê đấu không?
- Trường Phong, tôi là Trấn Chi Minh!
- Tôi là Tạ Kiếm Xuyên!
- Tôi là Lưu Thương Hải!…
Từng cái tên chẳng khác nào những phát đại bác vang lên khiến bố tôi cảm động đến độ đôi mắt đỏ hoe. Tôi và Tiểu Trì bị đám đông chen lấn đẩy ra vòng ngoài, đứng thở dốc. Tiểu Trì lôi từ trong túi áo ra một chiếc khăn mùi xoa, chưa kịp hỏi tôi đồng ý hay không đã chủ động lau mồ hôi trên mặt tôi. Tôi hốt hoảng quay mặt né tránh. Tiểu Trì nói:
- Nhiều mồ hôi thế, cậu không lau đi à.
Tôi lắc đầu, trốn tránh đôi mắt của Tiểu Trì.