305 Tai trai, ốc đỏ là vàng thợ khay
Đây là câu tục ngữ có liên quan đến nghề khảm trai cổ truyền ở Thăng Long — Hà Nội. Để hiểu câu tục ngữ này, ta phải biết rõ thợ khay là ai? Vì sao “tai trai, ốc đỏ” lại là “vàng thợ khay”?
Muốn biết rõ thợ khay là ai thì phải tìm hiểu một chút về nghề khảm trai, còn gọi là nghề khảm xà cừ. Theo các nhà nghiên cứu thì nghề khảm trai (hay khảm xà cừ) là một trong những nghề cổ truyền nổi tiếng ở Thăng Long - Hà Nội từ xưa. Người ta thường nói tới ba vị tổ nghề này; đó là 1) Trương Công Thành làm quan dưới triều Lý Nhân Tông (1072-1128), sau đi tu, dạy nghề khảm cho dân làng Chuyên Mỹ, được làng Chuyên Mỹ thờ làm thành hoàng; 2) Nguyễn Xim, làm nghề chài lưới ở Thanh Hóa, sống dưới thời Lê Hiển Tông (1740-1786); 3) Dân làng Chuyên Mỹ, tức làng Chuôm, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây thì cho rằng cụ Vũ Vân Kim là ông tổ nghề khảm trai. Con của cụ là cụ Ngân ra Hàng Khay mở mang nghề khảm trai nổi tiếng trong và ngoài nước.
Nghề khảm trai lấy vỏ trai, ốc, hến làm nguyên liệu, lấy gỗ quý, như mun, gụ, trắc hoặc lấy sừng làm nền cho hàng khảm. Hàng khảm thường là hộp, khay, sập gụ, tủ chè, hoành phi, câu đối v.v… Quy trình khảm rất công phu và tỉ mỉ, đòi hỏi người thợ phải kiên nhẫn và khéo tay. Người ta phải rất kì công mài vỏ trai, ốc, hến để lấy xà cừ, lớp mỏng tang có màu sắc óng ánh ở phía trong của vỏ trai, ốc, hến… Lấy được xà cừ rồi còn phải hơ lửa nóng để uốn cho phẳng. Sau đó, người thợ, người thợ khảm dùng những công cụ nhỏ xíu, như cưa (có lưỡi làm bằng dây có đồng hồ), giũa (nhỏ và dẹt), dao tách trỏ (nhỏ mà sắc) v.v…), để tạo ra những mảnh xà cừ có kích cỡ và màu sắc khác nhau thích hợp tới từng phần của họa tiết đã được chạm trổ trên gỗ, hay sừng. Công đoạn cuối cùng là dùng sơn ta gắn các mảnh xà cừ vào gỗ (gọi là cốn). Cứ như thế, hàng trăm mảnh xà cừ được ghép vào, tạo nên những bức tranh, hay hàng chữ đã được xác định từ trước, rồi còn phải mài, đánh bóng cho đến khi chúng hiện lên óng ánh, lung linh… mới thôi.
Sản phẩm của nghề khảm trai gồm có nhiều loại, như trên đã nói, song phổ dụng nhất và nổi tiếng nhất cả ở trong nước cũng như ở ngoài nước là các loại khay. Vì thế, thợ làm nghề này được dân gian gọi là thợ khay hay là thợ khảm. Cái nghề thợ khay này không nặng nhọc, nhưng phải kì công, khéo léo, và người thợ kiếm được bát cơm, manh áo cũng không phải là dễ. Chả thế mà có cô gái đã chua ngoa nói:
Hoài người lấy chủ thợ khay,
Cò cưa kí quéo có ngày không cơm.(Ca dao)
Nhưng nếu là thợ giỏi, có tay nghề cao, thì đúng là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Khi đó, cô nào lấy được anh thợ khay thì là một diễm phúc:
“Nhà em mả táng hàm rồng
Thì em mới lấy được chồng thợ khay”(Ca dao)
Đối với người thợ khay thì ngoài những đức tính như kiên nhẫn, tỉ mỉ, cẩn trọng, khéo léo ra, còn phải có tài sáng tạo. Vì khảm là một loại mỹ nghệ cao cấp, nguyên liệu lại hiếm hoi khó chế tác, cho nên người thợ rất quý nguyên liệu. Đặc biệt là những thứ quý hiếm như “tai trai” “ốc đỏ”.
Khi khảm tranh, hoặc các họa tiết trên khay, trên hộp hoặc hoành phi, câu đối, người ta rất cần có những mảnh xà cừ có màu sắc khác nhau. Màu ánh bạc lóng lánh, mà xanh biêng biếc thì không thiếu. Nhưng màu đỏ, màu vàng thì thật là hiếm và rất khó tìm. Thì đây, ốc đỏ cấp cho người thợ khay xà cừ có màu đỏ, tai trai, một bộ phận nhỏ nhoi của vỏ trai cấp cho người thợ khay màu vàng, đậm hay nhạt là tùy thuộc vào từng loại vỏ trai. Đó là những thứ nguyên liệu quý hiếm đến mức có giá trị được ví như vàng đối với người thợ khay. Vì thế mà trong “làng” khảm, người ta đã đúc kết, lưu truyền cho đời sau một kinh nghiệm có giá trị như một chân lý:
“Tai trai, ốc đỏ là vàng thợ khay”
Những người thợ khay, hay còn gọi là thợ khảm này, vốn là những người quê ở làng Chuyên Mỹ (làng Chuôm), huyện Phú Xuyên, Hà Tây, từ giữa thế kỉ XIX đã đến thôn Tô Mộc, tổng Tiền Tức, thuộc huyện Thọ Xương cũ sinh sống bằng nghề khảm trai (khảm xà cừ) vào đồ gỗ, đồ sừng…, mà mặt hàng độc đáo nhất là các loại khay đựng lớn, nhỏ rất đẹp. Nơi những người thợ này làm ăn sinh sống được gọi là phố thợ khảm (gồm cả Tràng Tiền và Hàng Khay), từ 1886 đổi gọi là phố Paul Bert. Sau năm 1945, phố này được tách thành hai phố là Tràng Tiền và Hàng Khay, nằm theo trục đông - tây. Hàng Khay ở ngay bờ nam Hồ Hoàn Kiếm, nối từ Tràng Tiền đến Tràng Thi, thuộc quận Hoàn Kiếm ngày nay. Đó là một trong 36 phố phường nổi tiếng của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
“Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai,
Hàng Buồm, Hàng Thuốc, Hàng Bài, Hàng Khay…”(Ca dao)