Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018

Image
Bụi Đường


Vĩnh Hảo


Chương một

Từ tháng mười, ở Hội An thỉnh thoảng có những cơn mưa lớn, lạnh. Những ngày kế tiếp không mưa, sương mù giăng ngập mỗi sáng. Từ hiên nhìn ra vườn chỉ thấy một màu trắng xóa như bông. Lạnh cắt da. Chẳng ai muốn ra vườn sớm. Chỉ khi nắng lên cao mới thấy vài người xăn tay hái rau hay xăm đất cho những luống cải xanh còm đẫm sương trên bẹ lá. Chim chóc, côn trùng hình như cũng đợi chờ cho đến lúc con người làm việc mới chịu cất tiếng ríu rít, rí rả để chào đón một ngày mới. Có tiếng lóc cóc, lục cục của mấy chiếc xe bò lăn trên đường nhựa. Có con bò vui miệng kêu ọ lên một tiếng làm cho con chó nào đó đang ngon giấc, phải giật mình sủa rân.
Vụ lúa mùa này vừa cấy xong hai hôm trước. Chúng tôi được nghỉ ngơi vài ngày để chuẩn bị công việc khác: trồng rau, đậu, bắp... Cho nên sáng nay tôi mới rảnh rỗi đứng ở hàng hiên, nhìn ngắm nắng mai chan hòa trên khu nghĩa địa quanh vườn chùa.
Những mộ bia cái lớn cái nhỏ, chen chúc nhau như giành đất. Vài ngôi mộ được xây đồ sộ, có mái che, có hàng rào và cổng khóa tươm tất. Trong khi đó, nhiều ngôi mộ khác chỉ được vùi lấp sơ sài; có bia chăng cũng chỉ là những miếng gỗ nhỏ mà mưa nắng bốn mùa đã biến chúng thành những thanh củi mục, chơ vơ, hoang lạnh. Từ xã hội chết là khu nghĩa địa, người ta vẫn có thể nhận dạng dược vẻ phức tạp nhiêu khê của xã hội sống bên ngoài. Vậy mới biết, cái động của lòng người làm cho cái tĩnh của vạn vật cũng phải lung lay theo...
Tôi khoác thêm bên ngoài chiếc áo nhật bình nâu cho đỡ lạnh, đi lang thang trong vườn. Suy nghĩ vẩn vơ. Từ ngày Phật học viện giải tán và tăng sinh, học sinh như tôi trở thành “nông sinh”, tôi không có dịp để suy nghĩ mông lung như vầy. Huống chi trong phương pháp tu tập của Thiền tông, sự vận dụng trí óc để chạy theo, đuổi bắt ngoại cảnh, đều bị coi là những tạp niệm, hay vọng niệm, làm trở ngại cho sự định tâm, kiến tánh. Tôi đã ý thức được điều đó ngay từ khi khởi lên những ý nghĩ chẳng dính nhập gì đến công phu tu tập. Nhưng rồi dòng suy tưởng vẫn cứ tuôn chảy ồ ạt, lan man... như một cơn nước lũ vội vàng cuốn qua những lũng thấp và đồng bằng: ngõ ngách sâu hay cạn, rộng hay hẹp trên đường đi của nó đều được khai phá, len lỏi và lấp đầy. Ban đầu tôi còn dùng các phương pháp nhiếp tâm để gạt phăng những ý nghĩ đó đi, nhưng khi chúng quay trở lại với một vài hình ảnh, một vài kỷ niệm đẹp của quá khứ, tôi lại dễ dãi buông thả dây cương... Tâm ý tôi bấy giờ như con ngựa hoang, tung vó mịt mù trên đồng cỏ hoang sơ.

Năm ấy tôi tám tuổi, mới học lớp bốn. Chiều đi học về cất tập vở xong là ra sân, chơi đủ trò với mấy anh em nhỏ trong nhà. Chơi đánh đáo, tạt lon, giựt cờ v.v... Nhà tôi lúc ấy có khoảnh sân lát gạch khá rộng, chơi đùa rất thích. Thỉnh thoảng cũng có chơi những trò chơi của con gái như lò cò, nhảy dây, đánh thẻ... Con nít mà, chơi thứ gì vui là thích rồi, có phân biệt trai gái chi. Chơi xong vào tắm rửa ăn cơm. Buổi tối rủ nhau qua chùa sư nữ tụng kinh. Xong thời kinh, về ngủ một giấc thật ngon. Trong mơ chỉ thấy toàn mộng đẹp (thấy được xem phim, đi chơi hay được ăn các món ngon...). Cuộc đời con nít của tôi trôi qua êm ả như vậy bỗng nhiên mùa hè năm đó lại dậy sóng.
Sát cạnh nhà tôi là nhà của anh Long, một giáo sư trung học. Chị Thanh vợ anh Long cũng dạy học ở một trường tiểu học nào đó tại Nha Trang. Hai vợ chồng có một đứa con trai tên Minh và một đứa con gái tên Hằng. Hai nhà sát nhau nên chúng tôi cũng thường qua lại để chơi chung với nhau nhiều trò chơi. Minh sáu tuổi rồi nên có thể tham dự những trò chơi của bọn anh em chúng tôi, còn bé Hằng thì quá nhỏ nên chỉ ngồi ngó. Buổi chiều đó như thường lệ, anh em chúng tôi bày trò chơi trong sân, nhưng chẳng thấy Minh qua. Đến khi chơi xong mới thấy nó xuất hiện ở cửa sổ (cái cửa sổ này mở ra phía sân trước nhà tôi), và bên cạnh Minh lại ló ra một khuôn mặt dễ thương của một cô gái nào đó không phải là bé Hằng. Cô gái ấy lớn hơn Minh, trạc tuổi tôi thì phải. Đôi mắt cô to tròn, đen láy với hai hàng lông mi cong như... lông mi búp bê. Tôi chỉ kịp nhìn thấy được đôi mắt ấy là bủn rủn cả tay chân, chẳng chơi được trò trống gì nữa. Mà cô bé này cũng lạ, thấy tôi bủn rủn, luýnh quýnh thì cũng e lệ nấp vào sau cái màn cửa sổ; một lúc sau mới thấy ló đầu ra lại với một phần tóc đen nhánh phủ một bên trán và con mắt bên trái long lanh như tìm kiếm tôi. Tôi không chịu đựng nổi cái nhìn e ấp đó. Tôi mắc cỡ, lảng vào trong nhà.
Sau giờ cơm tối mà trời hãy còn sáng. Tôi lại ra sân, với từng bước dè chừng. Tôi không chơi nữa, chỉ đứng ở cửa ngõ dưới hàng bông giấy nhìn ngựa xe qua lại... và thỉnh thoảng tôi liếc mắt nhìn về hướng nhà của thằng Minh. Nhà bên ấy, lũ trẻ con ăn cơm xong cũng ra đứng đứng ngồi ngồi trước ngõ. Liếc qua liếc lại, tôi và “nàng” lại thấy nhau, rồi lại thẹn thùng, mắc cỡ. Đứng chơi một chốc thì có một người anh của tôi bước ra. Anh ấy cao nhòng, được coi như là một trong những anh lớn của tôi, nhưng thực ra anh mới có mười hai tuổi. Anh đứng lặng lẽ chẳng nói gì, chỉ ngó bâng quơ ra đường (chắc là chờ đợi cô bạn gái nào đó đi ngang). Vậy mà anh cũng bắt được tia nhìn của “đôi trẻ”. Có lẽ khởi nguyên là từ đôi mắt tôi: đôi mắt tinh ranh tám tuổi đã biết “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ”. Anh bước vài bước từ cửa ngõ ra sát mé đường rồi quay lại. Từ vị trí đó, anh tạo thành một hình tam giác giữa anh, tôi và cô bé hàng xóm ở nhà Minh. Anh cố ý làm vậy để có thể nhìn thấy “chúng tôi” và cũng để cho chúng tôi nhìn thấy anh rõ hơn. Anh tằng hắng mấy tiếng để gây sự chú ý. Rồi anh gọi cô bé kia:
“Ê, ê!” (vì chẳng biết tên cô bé ấy).
Tôi chẳng hiểu anh muốn gì nên vừa ngó anh, vừa liếc sang bên kia. Bỗng thấy anh một tay chỉ vào tôi, một tay chỉ cô bé ấy, vừa cười vừa nói:
“Ê, ê! Thằng Khang nè!”
Cô bé vội vàng chạy trốn vào nhà. Tôi cũng đỏ mặt, nấp mình sau tường rào. Tim tôi đập rất mạnh. Anh chỉ chọc hai đứa tôi vậy thôi (cái trò đó người ta gọi là “cắp đôi”), rồi quên đi, không bao giờ để ý đến nữa. Nhưng hai đứa chúng tôi trở thành bạn. Vậy là, “một hôm trận gió tình yêu lại”.
Cô bé ấy tên là Trang, trong nhà thường gọi là Xù (một cái tên không thích hợp gì với nước da trắng mịn của cô cả). Tên Xù đọc nghe chẳng hay, nhưng tôi cứ gọi Trang bằng cái tên ấy một cách tự nhiên, như người nhà bên đó thường gọi. Ngày nào chúng tôi cũng qua lại chơi với nhau. Cũng hồn nhiên như ai vậy. Con nít mà. Tuy nhiên, trong những trò chơi, tôi và Trang thường tránh né chuyện chạm tay nhau. Lỡ có bị buộc phải nắm tay nhau như trong trò chơi kéo co (vì tôi và Trang là đầu tàu của hai phe) thì cũng ngại ngùng, mất tự nhiên. Thường thường, hễ tôi đứng về phe của Trang thì phe “chúng tôi” phải thắng; nhưng nếu tôi và Trang đứng về hai phe đối nghịch thì phe tôi lúc nào cũng chịu phần thua. Bởi vì, tôi không bao giờ có ý chí đấu tranh để thắng Trang, dù chỉ trong một trò chơi con nít. Tôi chỉ thích nhìn ngắm Trang cười sung sướng, hả hê trong thắng lợi. Trang ngang tuổi tôi mà đã ra vẻ đàn chị, chững chạc, ít cười nói; cho nên chọc được Trang cười là tôi thích thú rồi, đâu cần phải chiến thắng gì nữa.
Chơi đùa với nhau suốt ngày chưa đủ. Buổi tối, chúng tôi còn rủ nhau đi tụng kinh ở chùa sư nữ gần nhà. Chẳng ai bắt buộc hay kêu gọi khuyến khích gì cả mà chúng tôi cứ đi tụng kinh siêng năng, chẳng bỏ một tối nào. Đám con nít đi tụng kinh tối lúc đó gồm có năm đứa. Phía nhà tôi bốn, phía bên đó chỉ có mình Trang. Minh và bé Hằng thỉnh thoảng mới đi một lần nhưng rồi cũng về sớm trước khi khóa lễ kết thúc. Trong “trò chơi” tụng kinh này, tôi mới thực sự thắng được Trang dù không cố ý, vì tôi thuộc rất nhiều bài kinh ngắn, mà lại có giọng to, đọc nghe sang sảng. Trang chỉ đọc lí nhí trong họng như con chim con bị lạnh. Hễ thấy tôi ngưng đọc và có ý lắng nghe thì Trang cũng ngưng, làm bộ vén tóc, sửa thế ngồi. Trang tụng kinh không hay, không giỏi bằng tôi, nhưng về phần nghiêm trang thì Trang vượt hơn tôi nhiều. Nét mặt Trang rất thành khẩn lúc đứng trước điện Phật. Và càng thành khẩn, Trang càng đẹp, càng dễ thương hơn. Đôi khi, ở những lúc mà chỉ có sư cô chủ lễ xướng đọc một mình bài phục nguyện dài, tôi ngồi phía đối diện chỉ biết ngắm nhìn Trang say sưa. Không những Trang có đôi mắt đen láy thật đẹp mà còn có sóng mũi cao, cái miệng nhỏ với đôi môi đỏ chót như thoa son. Ít có cô bé nào có nét mặt trang nghiêm mà đằm thắm như Trang, vẻ trang nghiêm trầm lặng ấy cuốn hút tôi kinh khủng.
Có lần, tôi và bầy em theo xe Jeep của người anh rể đi dạo mát chơi dọc bờ biển sau giờ cơm tối. Khi trở về thì bên chùa đã tụng kinh (nhà tôi cách chùa hai căn; nhà Trang cách chùa một căn). Tôi rủ bọn em qua chùa nhưng không đứa nào chịu đi, tôi bèn đi một mình. Bước vội ở hàng hiên bên hông chánh điện (trên lầu), tôi nhìn vào cửa sổ thấy Trang đang quỳ lạy. Phía trên bục cao gần bàn thờ Phật thì có bốn sư cô, nhưng phía dưới thì chỉ có hai cụ già và một mình Trang. Hai cụ già đứng ở hàng trước, Trang lui ở hàng sau. Tôi đứng lại bên cửa sổ, trong bóng tối, nhìn lén Trang lạy Phật. Mỗi lần lạy xong Trang cứ quay đầu nhìn ra cửa chính như mong đợi ai. Với sự bén nhạy tình cảm của con nít, tôi biết đúng là Trang mong đợi tôi. Trang không ngờ tôi đi cửa hông chứ không phải là cửa chính như lệ thường. Rồi bất chợt khi ngồi xuống trở lại để tụng nốt đoạn kinh chót, Trang quay nhìn về hướng cửa sổ và bắt gặp tôi. Trang cười, tôi cũng cười. Rồi Trang đưa tay ngoắc tôi vào tụng kinh, điệu bộ giống như ra lệnh, như thể Trang có thẩm quyền nào đó đối với tôi vậy. Tôi ngoan ngoãn bước vào, đứng bên Trang.
“Sao đi trễ vậy?”
“Ờ... tại đi chơi mới về.”
“Suỵt, nói nhỏ nhỏ á. Ham đi chơi lắm.”
Rồi hai đứa chúng tôi ngồi kế bên nhau, tụng kinh. Đó là lần đầu chúng tôi tụng chung một cuốn kinh. Kinh Pháp Hoa của chùa có đóng bìa dày, đẹp, cất trong tủ khóa; mỗi người đến tụng chỉ được các sư cô đưa cho một cuốn, không đưa dư. Tôi đến trễ không có kinh, phải tụng chung với Trang. Tôi là người đọc ké nên chỉ ngồi im, thụ động để Trang lật kinh khi qua trang. Bàn tay Trang có những ngón búp măng trắng, nhỏ. Tôi tụng kinh không được chú tâm. Chẳng thấy, chẳng biết kinh là gì nữa, chỉ để tâm đến bàn tay lật kinh mà thôi (giống như kẻ mê chấp chỉ chăm chăm ngó vào ngón tay chỉ mặt trăng chứ không chịu nhìn chính mặt trăng ấy).
Xong thời kinh, hai đứa chúng tôi cùng về. Tự dưng hai đứa đi rất chậm, không giống như mọi đêm trước. Mà lại chẳng biết phải nói gì với nhau. Đến ngang cổng nhà của Trang, tôi ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Thôi Xù vô nhà đi, mai qua chơi nghen.”
“Ờ...”
“Về nghen, Xù,” tôi lại nói trước khi quay đi.
“Khoan đã. Người ta biểu đừng kêu như vậy nữa mà cứ kêu hoài. Người ta tên Trang chớ bộ.”
“Ờ... không kêu vậy nữa, xin lỗi Xù nghen, ủa, Trang...”
Trang làm mặt giận, đẩy cánh cổng gỗ, bước vào trong. Nhưng rồi cũng cười với tôi trước khi vào nhà. Tôi về tắm rửa, lên giường ngủ mà con mắt cứ thao láo. Tôi nhớ cảm giác ấm cúng khi ngồi bên Trang. Tôi nhớ điệu bộ vừa giận lẫy vừa trách yêu của Trang.
Hôm sau tôi dậy sớm, cứ ra sân trông ngóng Trang qua chơi. Bắt đầu từ ngày đó, chúng tôi không còn chơi đùa hồn nhiên như trước kia nữa. Trang bấy giờ chỉ ngồi nhìn, ít khi tham dự trò chơi. Tôi và Trang trở thành những “người lớn” trong bầy trẻ ham vui. Và thích nhất vẫn là mỗi tối qua chùa tụng kinh. Đi sớm trước khóa lễ, chúng tôi đứng ở lan can trên lầu hóng gió mát từ phía sông thổi vào. Thực ra từ chỗ chúng tôi đứng, cũng chỉ thấy được con sông chỗ khuất chỗ hiện phía sau những căn nhà mái tôn lụp xụp. Trong bóng đêm, cứ chỗ nào thấy ánh đèn lấp lóa lung linh thì biết chỗ đó là nước sông. Người lớn chỉ gọi nó là cái đầm (đầm xương Huân), nhưng bọn nhỏ chúng tôi cứ gọi sông cho tiện. Chẳng có đề tài gì để nói với nhau, thỉnh thoảng chúng tôi lại đem chuyện sông ra mà nói vu vơ. Nào là con sông này dơ quá. Nào là sông gì mà chẳng thấy ghe thuyền đâu cả. Nào là ngôi sao hôm hôm nay mọc sớm quá không thấy bóng nó in dưới nước... Hết chuyện nói thì làm thinh mà nhìn trời, nhìn đất. Vén tóc mai. sửa lại kẹp tóc. Bẻ ngón tay. Gỡ lớp sơn ri sét trên lan can. Yên lặng, nhưng vẫn cứ thấy thích thú trong lòng.
Những ngày mùa hè êm đẹp ấy rồi cũng trôi qua. Khi học sinh các trường lục tục sửa soạn cặp táp và bút mực để vào niên khóa mới, tôi có nhiều đề tài để nói với Trang hơn.
“Sắp sửa đi học lại rồi. Mua tập vở chưa?” tôi hỏi.
“Chưa,” Trang đáp nhỏ.
“Học trường nào vậy?”
Trang làm thinh một lúc rồi nói, chẳng nhìn tôi:
“Đâu có học ở Nha Trang đâu.”
“Vậy hả!”
Tôi ngạc nhiên nói vậy mà thực chẳng hiểu nổi không học ở Nha Trang có nghĩa là sao; và vì Trang không giải thích gì thêm, tôi cũng chẳng dám mở miệng hỏi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018

Vài hôm sau, các anh chị lớn của tôi có tổ chức một chuyến đi tắm ở một đảo Bích Đầm, ngoài khơi biển Nha Trang. Bầy trẻ chúng tôi được ba mẹ cho phép đi theo. Chúng tôi sợ bị bỏ lại nên nhắc mẹ đánh thức dậy từ sáng sớm để ngồi chờ các anh chị dẫn đi. Con tàu sắt nhỏ do mấy anh lính hải quân lái, chạy đâu chừng non một giờ đồng hồ trên biển là tới. Đến đảo, tôi mải mê hụp lặn, bơi lội, chẳng biết mệt mỏi, nhàm chán, xế chiều trên đường về nhà, tôi mới nhớ đến cô bạn nhỏ hàng xóm. Tôi ước ao có thể chia xẻ được những vui thú của mình với Trang. Căn nhà của Trang, không khí sinh hoạt bên nhà Trang sao lúc nào cũng thấy tẻ lạnh, buồn hiu. Nếu không ở sát bên nhà tôi, bầy trẻ bên ấy chắc còn chịu cảnh tiêu điều ảm đạm hơn. Tôi nghĩ, giá như chuyến ra đảo này có Trang đi cùng. Nhưng ao ước đó chắc chắn là chẳng bao giờ có thể xảy ra. Số người đi có giới hạn. Anh chị tôi còn không dám rủ bạn bè theo huống chi bầy trẻ chúng tôi.
Về nhà tắm lại nước lạnh, thay áo quần xong là tôi chạy qua nhà Trang ngay. Nhưng tôi chỉ vào được trong cái sân nhỏ. cửa sắt đã đóng kín mít, có ổ khóa thật lớn bên ngoài: cả nhà đi vắng. Tôi buồn bã quay về. Chốc chốc lại chạy qua, nhìn cái ổ khóa xem có còn đó không. Chiều tối, bên trong nhà Trang vẫn chưa lên đèn. Cái ổ khóa màu trắng bạc ánh lên trong bóng đêm, nhìn là biết ngay nó còn sờ sờ ra đó. Tôi đến chùa tụng kinh một mình. Ngồi tụng cho có lệ vậy thôi chứ trong lòng thấy buồn vắng vô hạn. Tụng kinh xong, tôi về ngang nhà Trang vẫn thấy trong nhà tối thui. Vậy là hồi sáng sớm, khi bên nhà tôi lo đi tắm đảo thì bên này, gia đình Trang cũng lên đường đi xa ở đâu rồi.
Suốt buổi sáng kế tiếp, tôi thẫn thờ ngồi trước sân nhà, chờ đợi cánh cửa sổ phía nhà Trang mở ra—cánh cửa sổ mà khi nào muốn trò chuyện hoặc rủ tôi qua chơi là Trang mở toang nó ra, giả vờ ngồi xem truyện tranh hay ngó bâng quơ đâu đó trên trời. Mấy đứa bạn trai học chung lớp tôi đến rủ đi tắm biển, tôi không buồn đi. Cứ ngồi đó, chờ đợi.
Đến chiều, trước giờ cơm, tôi mới thấy cánh cửa sổ ấy mở ra, nhưng bức màn màu xanh da trời bên trong hãy còn thả xuống, chẳng thấy ai ngồi nơi ấy. Tôi nghe rộn rã trong lòng, hớn hở chạy qua nhà Trang. Tôi gặp ngay Minh đứng chơi ở cửa sắt. Thấy tôi là Minh nói ngay:
“Đi rồi. Không có ở đây nữa đâu.”
Cái thằng Minh này mới có sáu tuổi mà lém lỉnh quá. Nó làm như trong nhà nó, tôi chỉ quen có một mình Trang thôi vậy. Nhưng lúc ấy, tôi cũng đâu có chấp nhứt gì (mà còn thấy hãnh diện nữa là khác, vì điều đó không phải là một sự công nhận bất thành văn rằng tôi và Trang là đôi bạn thiết, là bạn của nhau hay sao!). Tôi hỏi lại:
“Đi đâu?”
“Đi Phan Rang chớ đi đâu.”
Ngập ngừng một lúc, tôi hỏi tiếp:
“Phan Rang là ở đâu?”
“Phan Rang xa lắm. Hồi hôm qua Minh với bé Hằng theo ba má đi Phan Rang với con Xù để đưa nó về lại với ba má nó đó. Xa lắm. Đi xe đò mà thấy lâu lắc à!”
“Chừng nào mới trở lại đây?”
“Không biết nữa. Nếu ba má nó cho nó đi thì nó đi. Nghe má Minh nói khi nào nghỉ hè thì cho nó đi Nha Trang chơi.”
“Vậy hả!”
Thất thểu quay về nhà, tôi đứng dưới giàn bông giấy trước ngõ một lúc, rồi vụt chạy vào trong, chui xuống một góc tối của bàn thờ. Khóc.
Chúng tôi chưa đủ lớn để biết trước những gì sắp xảy ra. Có lẽ Trang đã không biết rõ ngày nào sẽ trở về Phan Rang, hoặc có biết trước ngày đó nhưng không biết rằng khi hai người bạn thân chia tay nhau, họ cần nói với nhau những lời từ biệt. Cũng có thể vì nhớ nhà quá nên khi biết là sắp sửa về quê, Trang đã vô tình quên luôn người bạn trai cạnh nhà.
Tôi chỉ khóc có một lần thôi. Những ngày kế tiếp tôi không khóc nữa, có thể đi học bình thường, vui chơi với chúng bạn, nhưng mỗi lúc đi ngang nhà Trang là tôi thấy một nỗi buồn rùng dậy, bóp nhẹ từng hồi trái tim bé xíu của mình.
Nhà tôi là kiểu nhà xưa lợp ngói âm dương, gồm có ba gian. Gian giữa phía trước có bàn thờ Phật. Sau bàn thờ Phật là bàn thờ ông bà tổ tiên. Hai bên là hai phòng ngủ của bà ngoại và ba mẹ tôi. Trên bàn thờ ông bà và hai phòng ngủ ấy có gác bằng gỗ lim rất chắc. Ba gian gác không dùng để ở mà để cất chứa những vật dụng ít dùng đến của gia đình, có thể coi căn gác gỗ đó như là cái kho chứa vậy thôi. Riêng một nửa phần gác chính giữa, ở phía trước, lại đặt chỗ thờ riêng đức Phật Thích Ca bằng tranh rất lớn. Tôi thường ngước nhìn lên đức Phật ở trên cao ấy, cầu nguyện, ao ước... và trong một lúc quay quắt nhớ cô bạn nhỏ, tôi đã viết tràn một xấp giấy học trò dòng chữ: “Ước gì Trang của con trở về.” Viết xong, tôi cuộn tròn xấp giấy lại, ràng giây thun cho gọn rồi ném cuộn giây lên trên gác—tôi không dám ném lên trên bàn Phật, vì nơi đó mẹ tôi thường thay nước cúng mỗi sáng có thể phát giác được lời nguyện âm thầm của tôi. Lời nguyện đó tôi chỉ dám thố lộ với đức Phật mà thôi. Ngài ngự ở trên cao, hẳn ngài biết tôi gởi lời ước của tôi lên đó—tuy không đúng ngay bàn thờ của ngài thì cũng gần gần đó chứ có ở đâu xa! Ném cuộn giấy lên gác rồi, tôi mới thấy nhẹ nhõm trong lòng. Và tôi bắt đầu hy vọng Trang sẽ quay trở lại một ngày nào đó. (Lúc đó tôi không biết rằng chuyện tôi viết lên giấy như vậy cũng chẳng khác gì hình thức dâng sớ trong triều đình, hay trong các khóa lễ cầu nguyện trong chùa; chỉ khác là hành động ném “sớ” lên gác trông không được nghiêm trang cung kính mà thôi).
Vài tháng sau, khi tôi quên béng luôn về cuộn giấy gởi gắm ước nguyện thì mẹ tôi sai hay anh lớn lên gác lục soạn và quét dọn. Chính anh Hậu, người đã “cắp đôi” tôi và Trang, người vô tình làm “mai mối” cho chúng tôi, đã phát giác ra cuộn giấy đó. Anh vừa phủi bụi trên cuộn giấy vừa nói:
“Cuộn giấy gì vậy ta? Chắc di chúc gì của ông ngoại hay ông cố gì đó để lại kho tàng cho nhà mình đây.”
Rồi anh tháo ra đọc, đọc xong đưa anh Chu là anh lớn nhất trong nhà:
“Đứa nào viết tầm bậy tầm bạ gì đó. Chữ này là chữ mấy đứa nhỏ mà. Anh đọc thử coi nè. Ước gì Trang của con trở về. Nghĩa là sao? Viết cả trăm câu giống như bị chép phạt vậy.”
Anh Chu đọc xong, cười ngất, hỏi:
“Chữ đứa nào vậy?”
“Chắc chữ thằng Khang chứ ai. Thấy nó hay qua chơi với con nhỏ gì bên nhà anh Long đó. Chắc con nhỏ đó tên Trang.”
Tôi đứng ở dưới nghe được thì hết hồn tính lảng đi chỗ khác, nhưng đã bị anh Hậu gọi lại:
“Khang, xấp giấy này của mày phải không?”
Từ trên gác, anh ném cuộn giấy xuống chỗ tôi. Tôi lượm lên là biết đích xác đây là tác phẩm của mình chứ không còn chối chạy đi đâu được nữa. Nhưng tôi rán nói quanh khi mở ra đọc được chính dòng chữ và giọng văn rất thiết tha của mình:
“Đâu biết của ai.”
“Xạo đi mày, thằng ranh. Chữ mày chứ không ai khác. Còn Trang là con nhỏ bên kia kìa, phải không?”
Tôi cứng họng, xấu hổ, nhưng cũng không chịu thua: “Nhớ rồi. Chữ của em đó. Nhưng mà Trang là chị Trang ở Mỹ sắp về thăm nhà chứ đâu phải con nhỏ nào đâu!”
“Vậy chứ con nhỏ bên nhà anh Long tên gì, nói mau, nói mau, không được suy nghĩ!”
Tôi đáp liền:
“Tên Xù!”
“Hả? Mày nói gì, nói lại coi? Tên gì?”
“Tên Xù!”
Hai anh tôi ôm bụng cười nghiêng ngả:
“Tên Xù! Ha ha, ha ha...”
Cười đã rồi, anh Chu kêu tôi lại, nghiêm giọng nói:
“Lo học đi nghe. Không có xù xì gì nữa hết. Mới bi lớn mà đã biết trồng cây si, bị người ta “xù”, rồi ước mơ hả? Lãng mạn! Ranh! Chưa tới tuổi đâu mày!”
Tôi chẳng hiểu anh nói gì. Thích thì làm bạn với nhau chứ có đi trồng cây si cây siếc gì đâu! Dù sao, cũng đã thoát nạn. Tôi đem xấp giấy ra ngoài sân đốt. Ngay lúc đó tôi mới thấy buồn trong lòng vì bị xúc phạm. Phải, anh tôi cười cái tên gọi ở nhà không được hay của Trang chính là đã xúc phạm tôi rồi. Người lớn thường hay chú trọng cái tên lắm. Thực ra tên Xù có gì là xấu đâu. Phải nhìn, phải ngắm, phải nói chuyện, phải cùng đi chùa, cùng ngồi tụng kinh bên cô gái ấy mới thấy được cái đẹp, cái dễ thương của cô ta. Cái tên thì nghĩa lý gì! Nhưng mà anh Hậu này cũng kỳ khôi!
Chính anh đã cắp đôi tôi với Trang, vậy mà anh cũng chẳng thông cảm cho thằng em này chút nào. Trái tim của thằng con trai này đâu phải cái tim heo tim bò bán ngoài chợ thịt đâu! Nó có cái rung động rất nhiệt thành của nó chứ. Đâu phải lấy nó ra mà giỡn chơi, rồi bỏ bê không ngó ngàng, không giúp đỡ, rồi còn bắt bẻ, la rầy! Tôi còn tự trách mình, cảm thấy mình đã làm một việc lỗi rất hèn nhát đối với Trang. Tôi nhớ có lần Trang đã yêu cầu tôi đừng gọi Trang bằng tên Xù nữa. Tôi đã hứa, đã từ bỏ (dù rằng tôi thấy cái tên đó rất dễ thương!), nhưng bây giờ, vì sợ bị đánh đòn hay rầy la mà tôi đã khai ra cái tên ấy để các anh cười ghẹo bạn mình. Tôi hối hận vô cùng. Nhưng quả tình là tôi không đủ can đảm để quay trở vào, cãi chính; và có cãi chính chăng thì cũng trễ rồi. Các anh ấy sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận tên Trang khi đã biết được tên Xù.
Vậy rồi mùa hè lại tới. Tôi thấp thỏm chờ đợi Trang “trở về”. Bất kể lời cảnh cáo của anh Chu. Anh cảnh cáo vậy thôi chứ chuyện con nít hàng xóm kết bạn với nhau thì có gì trầm trọng để quan tâm. Rồi nhiều ngày qua, nhiều ngày qua. vẫn không thấy bóng “người xưa” trở lại. Cho đến tận tháng bảy, giữa mùa hè, sau khi đi tắm biển về, tôi mới thấy dáng Trang với mái tóc đen nhánh xõa ngang vai, thấp thoáng sau cánh cửa sổ quen thuộc ấy. Tôi không ngăn được vui mừng, xúc động, chạy nhanh đến gần Trang, gọi với giọng vừa hân hoan vừa bồi hồi:
“Trang!”
Cô bé quay lại, hơi ngỡ ngàng một chút, rồi cười ngay:
“Trang đâu mà Trang! Mơ hả? Mới hồi sáng nói rồi mà còn Trang, Trang cái gì!”
Tôi ngớ ngẩn hỏi lại:
“Hồi sáng nào? Nói cái gì đâu?”
Cô bé trợn mắt nguýt một cái dài rồi nói:
“Hồi sáng này chớ hồi sáng nào. Người ta nói rồi mà không nhớ hả? Người ta tên Thúy chớ đâu phải tên Trang đâu!”
Nói rồi cô bé quay qua giỡn với bé Hằng, bỏ tôi đứng như trời trồng ở đó. Ban đầu tôi nghĩ chắc Trang muốn đùa với tôi, hay đã quên mất tôi rồi chăng. Nhưng chỉ một giây ngắn ngủi là tôi sực nhớ lại lời cô bé vừa rồi mới nói. Rõ ràng cô ta không phải là Trang “của tôi”. Trang của tôi đâu có nói nhiều, đâu có nguýt người ta với đôi mắt sắc lẻm như vậy, đâu có “ít hiền” như vậy! Và tôi cũng đâu có nói chuyện với cô ấy hồi sáng bao giờ. Chắc chắn là có gì lầm lẫn, cả tôi lẫn cô ấy.
Cô bé này có lẽ là em kế của Trang. Dù có khuôn mặt rất giống nhưng cô ấy ốm, thấp người hơn, mà tính tình cũng khác với Trang nữa. Cô có vẻ liến thoắng, nhanh nhẹn, vui vẻ chứ không trầm lặng, buồn buồn và hiền dịu như Trang. Vậy là tôi đã lầm. Tôi chỉ còn hy vọng là có Trang cùng đi với cô bé này và có lẽ Trang đang ở đâu đó trong nhà. Tôi đứng nán lại một chút để xem Trang có xuất hiện không. Một lúc thì Minh bước đến gần cửa sổ. Tôi mừng quá ngoắc Minh, hỏi liền:
“Trang đâu rồi?”
“Con Xù đó hả? Nó đâu có đi.”
“Vậy chứ ai mà giống... quá vậy?”
“Ồ, con Thúy đó mà. Nó là em con Xù đó. Kỳ này tới phiên nó.”
“Vậy hả?”
Té ra là vậy. Đúng là em của Trang chứ không phải là Trang. Tôi tiu nghỉu quay vào nhà. Không biết Trang có tất cả mấy chị em và khi nào mới đến phiên Trang được ra Nha Trang nghỉ hè. Thôi thì cứ chờ đợi vậy.
Vào nhà, gặp Hữu, đứa em trai kế của tôi đang ngồi viết vẽ gì đó. Tôi bỗng sực nhớ lại là thằng em này có khuôn mặt hao hao giống mình lắm, chắc là hồi sáng nó đã nói chuyện với Thúy, bây giờ Thúy tưởng lầm mình là nó. Tôi buồn bã ngồi xuống gần Hữu, nói:
“Bên nhà thằng Minh có con Thúy giống hệt Trang, tao tưởng Trang nên kêu. Té ra không phải.”
Hữu cười lăn trên giường. Cái thằng! Chuyện có gì đâu mà cũng cười dữ vậy đó. Tôi gượng gạo cười theo. Hữu nói: “Hồi sáng em thấy nó, cũng tưởng là chị Xù. Vậy mà không phải. Nó tên là Thúy. Nó thích em lắm đó!”
Thằng ranh! Tôi bỏ đi chỗ khác cho Hữu cười một mình. Đã tới phiên của Hữu và Thúy. Tính ra thì bây giờ tôi và Trang được chín tuổi, Hữu mới bảy tuổi (có lẽ Thúy cũng cỡ đó). Như vậy, năm ngoái khi tôi và Trang quen nhau thì hai đứa cũng tám tuổi rồi chứ đâu có “quá nhỏ” như Hữu và Thúy! Thiệt hậu sinh khả úy!
Ấy vậy mà sang năm, rồi năm kế, rồi năm kế tiếp nữa, cũng chẳng thấy Trang trở lại bao giờ. Tôi không ngờ là chúng tôi chưa nói lời từ biệt cuối cùng nào với nhau mà đã xa nhau mãi mãi như vậy. Thúy cũng không trở lại sau mùa hè đó. Nhưng tôi thấy Hữu không có vẻ gì buồn bã quay quắt như tôi cả, có lẽ vì Hữu và Thúy không thân nhau như tôi và Trang. Vậy cũng mừng. Tôi không muốn em tôi phải vấp nhằm cái “kinh nghiệm khổ đau” mà tôi đã trải qua.

Bốn năm sau mùa hè quen Trang, tôi đã vào chùa làm chú tiểu. Kể từ đó, hầu như tôi đã không còn nghĩ gì đến cái quá khứ “lãng mạn” ấy nữa. Và từ ngày vào chùa đến giờ, cũng đã được năm năm rồi. Vị chi là chín mùa hè trôi qua từ khi tôi quen Trang. Ngôi sao hôm hãy còn mọc lên mỗi chiều tối nhưng con sông xưa nay đã thành bình địa và thay vào đó là khu chợ Đầm và những dãy chung cư cao ngất. Những hoa phượng năm ấy đã hóa thân thành cát bụi và đêm về, không có những ánh đèn lấp lóa, lung linh dưới dòng nước đen nghịt nữa. Vậy mà hôm nay, tự dưng tôi lại thả hồn quay về với những kỷ niệm xa xưa ấy. Tôi lắc đầu, ngồi xuống bên hiên của dãy phòng học bỏ hoang và tự chế tâm mình bằng cách nhìn chăm chú vào một viên sỏi màu nâu lú lên giữa bãi cát trắng trước mặt.
Khi tôi đứng dậy thì mặt trời đã lên khá cao. Lại có một đám tang với đoàn người lặng lẽ kéo vào khu nghĩa trang. Nghe nói chính quyền mới cấm tụ họp đông đảo và cấm luôn những hình thức có vẻ mê tín theo cách nhìn của họ. Cho nên đám tang đã ít người mà lại không kèn không trống, không sư sãi hay cha xứ nào đi theo, tang quyến ủ rũ, khách đưa tang thì có vẻ như đang dè chừng nguy hiểm bao quanh; trông cảnh ấy còn thê lương thảm hại hơn cái thực tế là có một người thân vừa nằm xuống vĩnh viễn.
Khung cảnh ngôi chùa được bao quanh bởi một bãi tha ma quả nhiên là có phần ích lợi cho vấn đề tu dưỡng. Nhưng mặt khác, hình như nó cũng tàn bạo dìm chết trong tôi bao sức sống và ước vọng căng tràn của tuổi trẻ. Sau những phút êm đềm ôn lại chuyện xưa, lần đầu tiên từ ngày xuất gia, tôi cảm thấy ngán ngẩm cái dấu hiệu buồn tẻ, tiêu điều nơi cảnh sống này. Mỗi sớm mai thức dậy chỉ nhìn thấy chung quanh là mồ mả. Chiều xuống, nắng hồng cũng trải những vệt buồn trên những nấm mồ hoang lạnh. Giữa khung cảnh ấy, thử hỏi một khát vọng tươi vui đẹp đẽ nào có thể đâm chồi nẩy lộc được! Dĩ nhiên xuất gia rồi thì bao khát vọng thế tục cũng phải dẹp bỏ mới có thể nhẹ nhàng bước vào khung trời tự tại giải thoát. Nhưng rõ ràng là hình ảnh sự chết—một mặt khác của cuộc đời—cũng có khả năng như sự sống: có thể hủy hoại và làm đắm chìm tâm hồn người ta. Khác chăng là một bên tĩnh, một bên động; một bên khô cằn, một bên tươi tắn. Mà đã dìm đắm thì không còn có thể nói đến cơ hội để vươn thoát được.
Lưng tôi rịn ướt mồ hôi khi nẩy sinh những ý nghĩ ấy. Tôi không biết tôi nghĩ như vậy có đúng chăng. Và tôi bỗng nghi ngờ về khả năng tu tập của mình. Nếu ở một hoàn cảnh sống khác, tâm tôi sẽ như thế nào? Tôi có thể bước ngang cuộc đời với một tâm thái tự tại vô ngại chăng. Một điều rất rõ là khi nhìn đám tang kia, lòng tôi bỗng chùng xuống, chán chường, mệt mỏi. Cái gì đã khiến tôi như vậy? Phải chăng là lòng bi mẫn? Hay chỉ vì cái thói quen nhìn cuộc đời như là miếng giẻ rách vô giá trị? Nếu quả là vĩnh viễn thoát ly hẳn thế tục, tôi sẽ không còn thở dài, buồn bã khi chứng kiến những thăng trầm, sinh tử đang diễn ra bất tận trước mắt nữa. Tôi chưa làm được điều đó. Thỉnh thoảng, lòng tôi vẫn thấy xôn xao, lay động. Và hình như trong tôi có một thôi thúc nào đó rất mơ hồ, mà lại dễ chịu. Cái thôi thúc tôi không hiểu nổi nhưng có thể cảm nghe được sự mãnh liệt của nó đang âm ỉ ở một góc nào đó trong tâm mình. Những dấu hiệu ấy chẳng bao giờ thích hợp với Thiền đạo. Như vậy, tôi còn cần phải cố gắng, cần phải nỗ lực tu tập nhiều hơn nữa để đạt được trạng thái hoàn toàn tịch lặng không còn bóng dáng của những đau khổ, buồn thương...
Một làn gió nhẹ từ vườn rau thổi tới, mát rượi. Tôi hân hoan quay trở về phòng và sực nhớ rằng hôm nay tôi có hứa sẽ đi cùng chú Tửu qua chùa Phước Lâm thăm thầy Thiện Phước và vài người bạn bên đó, đồng thời để tôi mượn bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ Hán. Tôi đang có hứng thú để chép lại bộ kinh Pháp Hoa này, một phần để hiểu sâu hơn về bộ kinh mà tôi đã có tụng đọc từ thời bé thơ đầy kỷ niệm ấy, phần khác để ôn và học thêm chữ Hán mà từ khi Phật học viện giải tán, tôi không có dịp nhìn tới.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018

Chương hai

Từ chỗ tôi, chùa Long Tuyền, đến chùa Phước Lâm, nếu đi đường lộ chính, vòng qua phố Hội An, cũng mất gần một tiếng rưỡi đồng hồ mới đến. Cho nên chúng tôi chọn đường tắt, tức là sẽ băng ngang trại lính Đại Hàn bỏ hoang phía sau chùa, qua nhiều khoảnh ruộng nhỏ và những xóm nhà lụp xụp nép mình dưới những rặng dương xanh đàng xa. Chú Tửu gọi lối đi như vậy là “đi đường ruộng, ” chỉ mất chừng hơn nửa giờ.
Trại lính hình như cũng được xây một cách dã chiến, cho nên khi nó bị bỏ hoang, chúng tôi đi ngang đó như ngang một bãi sa mạc, chẳng còn dấu hiệu gì rõ rệt chứng tỏ trước đây đã có mấy trăm quân nhân đồn trú. Lác đác đây đó một vài tấm ri đã rỉ sét. Trong vòng hai tháng đầu tiên miền Nam mất vào tay người cộng sản, đồng bào địa phương đã vào đây khuân, vác, lôi, kéo... tất cả những gì còn sót lại của trại. Từ tôn, gỗ, ván, cọc sắt, lưới chống đạn B40, vỏ đạn đại bác, cho đến giây thép rào hay những chiếc giày không cùng cỡ... chẳng có thứ chi mà người ta phung phí bỏ qua. Thậm chí có những món mà khi nhặt về, người ta chưa nghĩ ra nó sẽ được sử dụng vào việc gì trong tương lai, nhưng cứ mang về cái đã; chắc chắn sẽ có một lúc nào dùng tới, còn hơn là không có gì hết—một bác Phật tử ở gần chùa đã nói như thế (làm như thể khi những người “vô sản” nắm chính quyền thì thiên hạ sẽ không còn có tài sản gì hết vậy!). Xa xa về hướng tây, ngoài vòng rào của trại lính, một cái đài liệt sĩ cao vút được dựng lên trên bãi cát khô cằn mà cỏ không chịu mọc. Có lẽ hồi trước đã có nhiều trận đánh lớn diễn ra tại đây và những du kích quân tấn công vào đồn lính này đã thất bại, chết thảm quanh vùng. Đài tưởng niệm được xây để ghi công những người đó. Như vậy, nhìn chung, khung cảnh bao quanh chùa Long Tuyền xác xơ, cằn cỗi, khô khốc, chỉ có những dấu hiệu của chiến tranh và chết chóc. Phản diện của cái xác xơ tiêu điều ấy chính là ngôi chùa Long Tuyền. Từ xa nhìn lại, tôi mới thấy được cái đẹp đơn sơ mà lại tráng lệ của ngôi chùa ấy—không phải là sự tráng lệ của một kiến trúc đồ sộ, nguy nga, mà là vẻ tráng lệ, huy hoàng của một bức tranh tuyệt sắc mà chỉ có cặp mắt và đôi tay của thiên nhiên mới tạo ra nổi. Vâng, quả là chùa Long Tuyền với mái ngói tường rêu, bao bọc bởi một số cây cao mọc không trật tự, không ngăn nắp, mới có được dáng vẻ hài hòa với thiên nhiên một cách đặc biệt như vậy. Bên cạnh tháp Đa Bảo là một cây bàng cổ thụ, tàng lá nửa xanh nửa đỏ, rộng như một cánh dù hay một tai nấm khổng lồ. Quanh bờ ao ở góc phải tam quan là mấy cây dương cao vút không hề bận tâm chuyện đứng thẳng hay ngay hàng: cây thì xiêu bên đông, cây thì vẹo bên tây. Lác đác quanh vườn chùa là những cây ăn trái như cây xoài, mận, ổi, ô-ma, sa-bô-chê... và những loại cây cảnh hay tạp lục khác như da, gòn, bồ đề, phượng vĩ, bạc hà, bạch đàn, so đũa, sầu đông... Cây nào muốn mọc ở đâu thì mọc, tự do như cỏ mùa xuân, miễn là đừng mọc ngay trên lối đi hay trong phòng tăng là được rồi. Vậy mà lại đẹp. Bước xa hơn, nhìn lại, Long Tuyền chỉ còn là một hải đảo xanh um, nổi bật lên giữa bãi cát trắng phau của xã Cẩm Hà.
Qua khỏi trại lính bỏ hoang, chúng tôi mới thực sự thấy được dấu hiệu của sự sống. Đồng ruộng với những lá lúa non mơn mởn mới cấy vài ngày, ánh lên dưới nắng mai một màu xanh mướt, mát dịu cả mắt; nheo mắt mà nhìn, trước mặt tôi, những khoảnh ruộng vuông đan kết với nhau trở thành một tấm lụa rộng, đẹp, gợn lên những đợt sóng lăn tăn mềm mại khi có gió vờn qua.
Trong một phút bâng khuâng, tôi bỗng buột miệng nói với chú Tửu:
“Hồi xưa người ta vẫn mơ là khi có hòa bình rồi, trại lính và nhà tù sẽ biến thành bệnh viện và trường học. Những đất bỏ không sẽ được khai khẩn thành ruộng rẫy, xây dựng thành khu dân cư trù phú. Vui sướng biết bao! Phải chi... nước mình hòa bình mà không còn cộng sản hay quốc gia, không có chuyện phân biệt phe phái để trả thù, đày đọa nhau...”
“Chú mơ mộng quá. Giấc mơ hòa bình của chú hồi còn ở trường Bồ Đề trước bảy lăm đến giờ vẫn y nguyên há! Hai bên vì phúc lợi dân tộc, cùng bỏ súng xuống để nói chuyện với nhau trong thương yêu, hiểu biết! Thực ra người quốc gia có thể làm được chuyện đó, nhưng mấy ông Việt cộng thì khó lắm. Tôi chẳng biết vì sao, chỉ cảm thấy là hình như họ không phải là loại người có thể nói chuyện mà không mang theo những hận thù, cố chấp.”
“Có lẽ vì họ được đào luyện để trở thành những người như vậy. Mà hình như khi mình có thành kiến, cho rằng họ cố chấp, không thể nào thay đổi, thì chính mình cũng là những người cố chấp rồi đó, phải không chú?”
Tửu cười:
“Cũng đúng... nhưng thực tế thì họ cố chấp thực đó chứ. Họ đang hăng say chuyện chiến thắng nên chỉ muốn trả thù, muốn ra lệnh, muốn làm mọi thứ theo ý họ, đâu cần phải nói chuyện hay hỏi ý ai nữa. Rồi kết quả là trường học, nhà thương giảm xuống, đồn công an và nhà tù tăng thêm...”
“Cho nên những người quốc gia đã bỏ súng, bây giờ muốn lượm lên, đánh lại. Và giấc mơ hòa bình vẫn cứ là giấc mơ. Chú thử nghĩ xem, làm sao tôi có thể hết ước mơ hòa bình được chứ!”
Chúng tôi cùng cười. Nụ cười chẳng mang theo một chút vui nào cả.
Đến chùa Phước Lâm, chúng tôi vào dãy hậu liêu tìm thăm vài người bạn, rồi tìm thăm thầy Thiện Phước, một giáo sư cũ của chúng tôi ở trường Bồ Đề cũng như ở Phật học viện. Phòng thầy nằm ở dãy nhà phía trái của chánh điện. Thấy chúng tôi, thầy vui mừng đưa vào phòng khách ngồi chơi, uống trà.
“Chú Khang độ này lớn hẳn đó nghe. Mới mấy tháng nghỉ học mà đã cao to quá, hơn tôi cả cái đầu. Năm này bao nhiêu rồi?”
“Dạ mười bảy.”
“Cha, mười bảy mà vậy đó, cao lớn trổ mã ra, mà đẹp trai nữa! Kiểu này thì chết chắc! Coi chừng nghe...” thầy nói nhỏ giọng xuống, “coi chừng Ma-đăng-già bắt cóc chú đó!” rồi cười ha hả.
Tôi cũng cười theo chứ chẳng nói chi. Từ ngày vào chùa cho đến lúc đó, thỉnh thoảng nghe chuyện một tu sĩ sa ngã vì vấn đề tình cảm đến nỗi phải hoàn tục, tôi thường thấy tội nghiệp cho họ mà trong tôi cũng nẩy sinh chút khinh thường, ngạo mạn. Tôi cho rằng chỉ vì họ thiếu nghị lực, thiếu cương quyết. Có chút chuyện đàn bà, con gái mà không vượt qua nổi thì làm sao nói chuyện kiến tánh thành Phật! Trong cửa chùa có thiếu gì phương pháp để xa lánh hay cắt tuyệt con đường ái dục. Nội bốn phép quán căn bản và thông dụng nhất là Tứ niệm xứ cũng đủ sức để chống lại cái nạn Ma-đăng-già rồi. Mà thật ra cũng chẳng cần dùng chi cả bốn pháp quán, chỉ cần một thôi, như quán thân bất tịnh chẳng hạn, là đủ. Bao nhiêu cám dỗ, bao nhiêu cái đẹp chim sa cá lặn, sắc nước hương trời, nghiêng thành đổ nước... cũng là thứ vất đi!
Pháp quán thân bất tịnh được giải thích và triển khai thành nhiều cách. Nhưng tựu trung vẫn là phương pháp quán xét thân thể một cách tường tận để nhìn rõ mặt trái nhơ bẩn, xấu xí, vô giá trị của nó. Hồi xưa, đức Phật bảo các đệ tử mà sức định tâm quán tưởng còn kém, vào rừng tìm đến nơi những người nghèo hay giai cấp cùng đinh đem vất xác chết người thân của họ, ngồi nhìn và suy tưởng trước một tử thi từ ngày đầu tiên cho đến ngày thịt da rữa nát, từ từ chỉ còn bộ xương. Người đã quen việc quán tưởng (cũng gọi là niệm, hay quán niệm) thì chỉ cần ngồi xếp bằng chỗ thanh vắng, tự phân tích chi li về thực chất của từng bộ phận trong cơ thể mình như da, thịt, mỡ, lông, tóc, móng tay, móng chân, máu, mủ, đờm, dải v.v... Trong khi thực hành pháp quán ấy, đương sự đâm nhờm tởm, khinh ghét, không say đắm vào thân nữa, đánh bạt đi sự mê chấp vào một cái thân đẹp đẽ thơm tho. Và khi sự quán sát hay quán tưởng thuần thục, đương sự có thể nhìn một người đang đứng trước mặt mình như nhìn một bộ xương khô, hay một cơ thể lở loét dơ bẩn...
Còn Ma-đăng-già thì được kể trong truyện tích Phật giáo như là một tấm gương rất sáng cho cả người tu bên nam phái lẫn nữ phái. Ma-đăng-già là một thiếu nữ thuộc giai cấp hạ tiện của An Độ thời đức Phật. Một hôm Ma-đăng-già đang xách nước giếng, bỗng có nhà sư tên là A-nan (em họ của Phật) đi khất thực về ghé xin nước uống. Dâng nước cho nhà sư rồi, nàng phát giác rằng nhà sư này quá đẹp, từ diện mạo đến thân tướng đều sáng rỡ, uy nghiêm, thế gian khó có người sánh được, về nhà, nàng đem lòng tưởng nhớ, tương tư. Mẹ nàng biết được bèn giúp con bằng cách nhờ một thầy phù thủy cho bùa chú để bắt cóc A-nan về làm chồng, vì biết rằng xin “cưới chồng” một cách chính thức sẽ không bao giờ được chấp nhận. Không rõ do vì bùa chú linh thiêng hay vì A-nan trong một phút yếu lòng, đã nghe lời mời của Ma-đăng-già, bước vào nhà của cô ta. Khi Ma-đăng-già đóng cửa lại, A-nan mới sực tỉnh, biết rằng mình là người tu, không được phép vào nhà nữ nhân theo cách đó, bèn tưởng nhớ đến Phật và tìm cách thoát về được. Những ngày kế tiếp, Ma-đăng-già thấy A-nan đi ngang nhà là cứ lò dò bám theo, chẳng làm gì, chỉ để nhìn ngắm và tìm cơ hội mà ôm thôi. A-nan sợ hãi mà chẳng biết làm sao, bèn thưa lên đức Phật, xin chỉ cách đối phó. Đức Phật bảo A-nan hãy mời Ma-đăng-già về tịnh xá để Phật nói chuyện. Ma-đăng-già nghe Phật mời thì đâm sợ, nhưng vì quá yêu A-nan nên cũng mạnh dạn đến tịnh xá. Đức Phật hỏi:
“Cô yêu A-nan thực sao?”
“Dạ... phải.”
“Cô muốn lấy A-nan làm chồng không?”
“Dạ... muốn.”
“Với một điều kiện, cô bằng lòng không?”
“Dạ mấy ngàn điều kiện cũng được.”
“Vậy cô hãy cạo tóc xuất gia, tu học đàng hoàng như một ni cô trong vòng một năm, sau đó ta sẽ cho phép cô lấy A-nan làm chồng.”
Ma-đăng-già mừng rỡ chấp nhận điều kiện duy nhất mà cô thấy có vẻ dễ thực hiện do đức Phật đưa ra. Nhưng đâu chừng nửa năm siêng năng và liên tục thực hành các pháp quán tưởng thiền định, trong đó có cả pháp quán thân bất tịnh, Ma-đăng-già giác ngộ, thấy được sự say đắm lố bịch của mình trước kia, quỳ lạy Phật sám hối. Lúc bấy giờ, A-nan vẫn chưa chứng đắc được quả nào. Ma-đăng-già là kẻ đến sau mà lại thành công trước. Và dưới đôi mắt giác ngộ của Ma-đăng-già lúc đó, chính A-nan, nhà sư có thân tướng đẹp đẽ và đức hạnh vẹn toàn ấy cũng chỉ là một gã phàm phu tục tử.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018


“Chú Khang, nghĩ gì vậy?” thầy Thiện Phước hỏi.
“Dạ, đâu có gì,” tôi đáp.
“Dạo này chú có sáng tác thơ văn gì không?”
Chú Tửu đáp thay tôi:
“Cuốc ruộng thì có. Văn thơ gì nữa thầy.”
“Cuốc ruộng à? Chú Khang cũng ra ruộng sao?” thầy Thiện Phước lại ngạc nhiên.
“Dạ, con cũng lớn rồi chứ có nhỏ nhít gì nữa thầy,” tôi đáp.
“Cuốc giỏi mà dai sức lắm đó thầy,” chú Tửu lại chêm vào.
“Làm ruộng thì làm chứ, bên này tụi tôi cũng ra ruộng hết chứ có ai ở không đâu. Khi nào rảnh thì cứ đọc sách, viết. Văn thơ phải luyện, chú à. Chẳng có thiên tài nào ngồi không mà thành tựu được sự nghiệp cả. Viết văn, ôi, cái nghề cao quý làm sao!” thầy Thiện Phước nói.
Tôi nhìn ra ngoài sân, chỗ mấy con chim sẻ đang nhảy, nói bâng quơ:
“Nhưng luyện văn rồi viết cái gì, viết cho ai đây!”
“Chú còn trẻ mà sao bi quan quá. Hễ mình có tài thì phải có chỗ dùng chứ. Viết hay thì ở xã hội nào mình cũng phục vụ được mà. Huống chi, đất nước đã hòa bình rồi.”
“Hòa bình? Thầy nghĩ rằng đất nước hòa bình rồi sao!” tôi hỏi.
“Chứ còn gì nữa. Không còn hai phe bắn giết nhau. Hết chiến tranh, không phải hòa bình thì là gì! Và bây giờ là lúc tuổi trẻ tụi mình đứng ra xây dựng và phục vụ đất nước.”
“Con thấy hình như thực tế không đơn giản như thầy nghĩ,” chú Tửu chen vào.
“Nghe chú Nguyện nói ở các tỉnh, người ta đã có chiến dịch bài trừ văn hóa đồi trụy gì đó. Sách vở của chế độ trước phải đem giao nộp cho ban văn hóa địa phương; nếu không, ban văn hóa cũng vào từng nhà để lục xét, tịch thu. Sắp tới lượt thị xã Hội An trong một ngày gần đây,” tôi tiếp lời chú Tửu.
“Thì họ tịch thu những gì được liệt vào loại đồi trụy thôi, còn cái chi đẹp cũng được giữ lại. Làm vậy thì tốt chứ có sao đâu. Văn là vẻ đẹp mà. Cái gì không đẹp thì vất bỏ đi, dẹp cho sạch đi, để đất nước chỉ còn những gì tươi mát, trong sạch, đẹp đẽ. Không phải rằng đó cũng là một trong những ý nguyện mà người tu mình đeo đuổi, thực hiện sao?” thầy Thiện Phước lại say sưa giải thích.
Lời thầy ấy cũng làm tôi hoang mang không ít. Từ ngày có chế độ mới, tăng sinh chúng tôi đều bỏ học, chỉ ở trong chùa, vừa tu tập vừa làm ruộng rẫy mà sống, mọi tin tức sinh hoạt của xã hội bên ngoài đều mù tịt; có biết gì chăng thì cũng chỉ là “nghe nói”. Tôi đã nghe nói như vậy, như kia... Nay thầy Thiện Phước cũng nói như vậy, như kia... Biết đâu là đúng, là sai. Nhưng, tôi bỗng sực nhớ ra một điều, và buột miệng nói liền:
“Nếu nói rằng dẹp đi những cái đồi trụy xấu xa, giữ lại cái đẹp thôi, thì tại sao các Phật học viện lại phải đóng cửa, không đào tạo tăng sĩ nữa? Nghe nói trường đại học Vạn Hạnh trong Sài Gòn cũng bị nhà nước tịch thu. Còn các trường Bồ Đề trên toàn quốc, không còn trường nào thuộc giáo hội nữa. Tất cả đều trở thành trường của nhà nước.”
Thầy Thiện Phước định nói gì đó, nhưng tôi cứ nói tiếp, nên thầy phải ngưng mà nghe:
“Còn chuyện viết văn làm thơ... có còn tờ báo nào nữa đâu mà viết. Nghe chú Nguyện nói tờ Thằng Bờm của bác Nguyễn Vỹ hay các tờ Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc v.v... của Duyên Anh, bây giờ cũng dẹp hết rồi. Chỉ nói các tờ báo dành cho thiếu nhi đó thôi, không cần phải đề cập đến những tờ báo tư tưởng, văn nghệ khác của người lớn, cũng đã thấy là có cái gì bất ổn rồi. Loại sách báo như vậy cũng đồi trụy, cũng xấu xa cả sao! Còn những tờ của Phật giáo như Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Hải Triều Ầm, Viên Âm, Đuốc Tuệ, Liên Hoa... đều đã đình bản. Các sách của thầy Nhất Hạnh, của thầy Phạm Công Thiện, sách của ông Nguyễn Hiến Lê, Bùi Giáng, Doãn Quốc Sỹ và nhiều tác giả khác nữa, bất kể họ viết về chủ đề nào, đều bị tịch thu, đốt... Thầy từng cho con mượn các sách báo đó để đọc mà, có cái gì đồi trụy trong đó chăng? Trường học cũng lấy, báo chí cũng dẹp, cái gì thuộc về tư nhân là bị dẹp bỏ không cần biết nội dung đích thực của nó. Mọi thứ đều trở thành của nhà nước. Vậy thì còn cái gì để bàn hay làm nữa!”
Nghe tôi nói vậy, thầy Thiện Phước như giật mình, nhìn tôi một lúc, trầm ngâm suy nghĩ, rồi lắc đầu, cười cười, không phát biểu gì nữa. Chú Tửu thấy vậy bèn lấy chân đá vào chân tôi cho tôi im, rồi chú nói:
“Chắc cũng có những sai lầm gì đó trong thời gian đầu, rồi sau sẽ sáng sủa hơn, phải không thầy?”
Thầy Thiện Phước gật gù nói ngay:
“Tôi cũng nghĩ vậy. Buổi giao thời tất phải có những lệch lạc, từ từ rồi người ta điều chỉnh lại hết.”
“Vậy rồi sau này, chuyện tu học của tụi con chắc cũng bình thường trở lại, phải không thầy?” chú Tửu tiếp tục hỏi.
“Chắc chắn rồi,” thầy Thiện Phước trả lời rồi nhìn qua tôi.
Tôi hơi dịu xuống một chút, nhưng cũng hết muốn phát biểu điều gì. Chú Tửu thấy không khí im lặng quá, lại hỏi tiếp:
“Thầy nghĩ ngoài chuyện tu học ra, tăng sĩ có cần phải làm gì để đóng góp cho đất nước những ngày hết chiến tranh chăng?”
“Hay, câu hỏi hay. Dĩ nhiên là phải đóng góp rồi. Xưa nay, tăng sĩ Phật giáo chúng ta thiếu những đóng góp thực tiễn cho cuộc đời. Bây giờ là cơ hội tốt để chúng ta xăn tay lên, làm việc. Từ thành thị đến thôn quê, sau thời gian dài với bao tàn phá của chiến tranh, đất nước và cả lòng người nữa, cần được bồi đắp, hàn gắn những vết thương đó. Người tu sĩ Phật giáo phải có mặt khắp nơi để thực hiện hoài bão cứu người, giúp đời mà họ hằng ôm ấp.”
Tôi lại chen vào:
“Chuyện xăn tay làm việc là phải rồi, chẳng ai muốn từ chối. Nhưng con thấy hình như nó không đơn giản như thầy nghĩ. Hình như giữa người tăng sĩ Phật giáo và những người cầm quyền của chính quyền mới có một khoảng cách rất xa, khó có sự cảm thông để có thể cùng làm việc xây dựng đất nước được. Hơn nữa... hình như cuộc chiến chưa chấm dứt. Con vẫn còn nghe phong thanh rằng có tàn quân đánh phá ở các vùng biên giới, hoặc thỉnh thoảng xuất hiện ở rừng Sát trong nam, hoặc ở các rừng già cao nguyên...”
“Đó chỉ là chuyện lẻ tẻ. Họ là tàn quân, không phải là một chính phủ hẳn hoi như trước. Tàn quân của một chính quyền sụp đổ hoàn toàn chỉ được nhìn như là quân phiến loạn thôi. Chỉ có chiến tranh giữa quân đội của hai chính phủ, hai quốc gia chứ làm gì có chiến tranh giữa một chính phủ và một đám tàn quân. Đất nước đã hòa bình.”
“Con không nghĩ vậy. Con có cảm giác là nửa phần đất miền Nam đang bị người cộng sản xâm chiếm, và người dân miền Nam bất mãn, muốn giành lại đất này,” tôi nói.
Thầy Thiện Phước cười phá lên:
“Làm gì có chuyện xâm chiếm. Nước Việt Nam của người Việt Nam. Tàu chiếm, mình chống; Pháp xâm lăng, mình đánh; Nhật và Mỹ xua quân vào, mình đuổi. Cái gì gọi là xâm chiếm chớ? Mình có chiếm nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật, nước Mỹ đâu! Mình giành lại đất Việt của mình thôi mà. Người cộng sản Bắc Việt là người Việt Nam chứ có phải người ngoại bang đâu! Cũng là anh em một nhà cả!”
“Nhưng...”
Tôi định nói điều gì đó mà chẳng nói được. Sự hiểu biết của tôi còn cạn cợt quá, không đủ để cãi lý với thầy ấy. Hình như trong tôi không nẩy ra được ý niệm nào rõ rệt về những người cộng sản, về chính quyền mới. Chỉ có những hình ảnh là đọng rõ trong tâm tưởng. Vâng, đó là những hình ảnh đơn thuần là hình ảnh, chẳng phải ý niệm để có thể phát ra lời lẽ: hình ảnh những người bộ đội, công an cộng sản từ miền Bắc mang súng, mang cờ, mang biểu ngữ vào Nam, thay đổi đột ngột nếp sống xã hội, làm hãi sợ người dân miền Nam. Tù đày, xử tử, đốt sách báo... Những hình ảnh ấy kinh khủng quá, vượt quá sự tưởng tượng của tôi. Đâu phải tôi chưa từng đọc truyện, sách hay báo viết về chiến tranh, về những vụ đẫm máu trong những cuộc chiến trên thế giới. Tôi đã từng lên án chiến tranh, ghê tởm sự giết chóc. Nhưng ít nhất tôi cũng có thể chấp nhận, hay đúng hơn, có thể hiểu được tâm trạng và hoàn cảnh của hai kẻ đối địch cầm súng bắn nhau ngoài trận địa; chứ không sao nhìn nhận được sự kiện những kẻ nắm bạo lực trong tay, trấn áp, đày đọa những người cô thế không phương tự vệ. Bất kể những kẻ có vũ lực và uy quyền đó nhân danh ai, nhân danh chủ nghĩa nào, tôn giáo nào, ý thức hệ nào để chèn ép hay tước đoạt quyền sống và sự tự do của kẻ khác, tôi đều thấy kinh tởm và bất bình trong lòng.
Cho nên, tôi rất ngạc nhiên khi thấy thầy Thiện Phước có vẻ như đã dành nhiều thiện cảm cho chính quyền mới. Thầy cũng như một số người dân miền Nam khác đã đón nhận chính quyền mới như là đại diện của một lý tưởng rất gần gũi với dân tộc. Có lẽ là do sự lạc quan, tin tưởng thái quá vào một chế độ ở những lời rêu rao của nó mà không nhìn thấy cái thực tế cũng như bản chất sâu xa bên trong. Tôi chưa đủ trưởng thành về tuổi tác cũng như về kiến thức để có những nhận định đúng đắn về chế độ mới, nhưng tôi đã sớm thấy, bằng sự nhạy bén xúc cảm của mình rằng, cái gì thường được phô trương quá đáng về bề mặt thì thường ít có giá trị về bản chất; và tổ chức, đoàn thể nào được bành trướng, phát triển nhờ sự hỗ trợ của quyền lực để cưỡng bức kẻ khác theo mình thì thường không phải là tổ chức hay đoàn thể tốt đẹp, bất kể tổ chức đó trưng bày những lý tưởng thiêng liêng cao cả nào.
Tăng sĩ Phật giáo, không thể hời hợt như những thường dân trong sự nhận định và hợp tác với các thế lực chính trị thế tục. Huống chi, tôi vẫn có niềm tin rằng những người tăng sĩ Phật giáo khi đã chọn lý tưởng giải thoát giác ngộ làm sự nghiệp tất sẽ không còn chọn lựa một thứ lý tưởng thế tục tầm thường nào khác. Cho dù một chính quyền hay một thứ đảng phái nào đó đề ra những phương châm, những chính sách hay ho để cải thiện đời sống xã hội, con người, điều đó cũng không nói được rằng họ đã có lý tưởng quý giá đáng để người tăng sĩ bỏ lý tưởng của mình mà đi theo. Hai thứ lý tưởng đó khác nhau; một bên là lý tưởng thế tục, một bên là lý tưởng tôn giáo (cứ cho Phật giáo là một tôn giáo theo cách phân loại và định nghĩa đơn giản nhất). Nếu cho rằng con người tôn giáo cũng phải có những lối đi không thể thoát ly thế tục—chẳng hạn chuyện tham gia phục vụ xã hội, phục vụ con người—và người tăng sĩ phải bắt tay vào việc xây dựng cuộc đời thì sự can dự vào cuộc đời ấy cũng đã được đề cập và được khích lệ bởi chính lý tưởng (Đại thừa) Phật giáo. Và như vậy, sự thay đổi của các chính quyền thế tục cũng không thay đổi hay thêm bớt gì cho lý tưởng cứu đời của tăng sĩ Phật giáo. Chỉ có các chính quyền ngăn cản hay hỗ trợ cho tăng sĩ Phật giáo thực hiện con đường cứu khổ ban vui, chứ không hề có chính quyền nào “dạy” hay “ảnh hưởng” lý tưởng thế tục của họ vào lý tưởng của tăng sĩ Phật giáo cả. Từ lý tưởng giác ngộ cho đến phương châm nhập thế độ sanh của Phật giáo đều đã thể hiện đầy đủ những bước đi cao đẹp được truyền tiếp bởi nhiều thế hệ tăng sĩ thoát tục; qua đó, những kẻ nối gót hiển nhiên đã tự gia nhập vào hàng ngũ ấy một cách cao cả, tuyệt vời, không cần phải vay mượn, mô phỏng, ngạc nhiên hay thán phục bất kỳ một chủ thuyết, ý thức hệ hay lý tưởng xã hội nào khác. Nếu có chăng một sự tán thưởng của tăng sĩ Phật giáo đối với một chính sách nào đó của một chính quyền thì sự tán thưởng này cũng chỉ nhằm khích lệ một đường hướng tốt đẹp mang lại lợi ích cho số đông, chứ không phải là một sự tán thưởng bởi sợ hãi, xu nịnh hoặc ngưỡng mộ đến nỗi phải sát nhập lý tưởng xuất trần cao đẹp của mình vào thứ lý tưởng thế tục của phe nhóm cầm quyền ấy.
Tăng sĩ, những kẻ trọn đời dấn mình vào sự nghiệp hoàn thiện nhân cách và mưu cầu hạnh phúc cho thế gian (mà không một đòi hỏi gì cho mình về quyền lợi vật chất hay ngay cả những thứ quyền lợi tinh thần như danh tiếng, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ của kẻ khác) chính là những tấm gương đẹp cho những người thế tục tham cầu lợi dưỡng tự soi, phản tỉnh, chứ không phải là ngược lại.
Tháng trước, chú Phương từ Nha Trang ra cho tôi hay rằng những chú tiểu cùng học với tôi trước kia đa phần đã hoàn tục và hòa nhập vào xã hội mới. Tin đó đã làm tôi buồn bã nhiều ngày. Nhưng sau đó, tôi đã tự an ủi mình rằng, chỉ vì những chú tiểu ấy còn tùy thuộc vào gia đình nhiều quá nên không cưỡng lại được sự dẫn dắt của gia đình trước mọi hoàn cảnh—nhất là hoàn cảnh mới hiện nay, một xã hội với một chính quyền cũng do người Việt Nam nắm lấy nhưng rất xa lạ với tâm tư và nếp sinh hoạt truyền thống của đồng bào miền Nam. Nhưng nay, tôi biết thêm là có một vài người dù còn khoác mặc áo tăng sĩ, đã tỏ ý ngưỡng mộ một lãnh tụ thế tục, hay phấn khởi trước sự phô trương hào nhoáng lý tưởng cách mạng xã hội của một phe nhóm chính trị cầm quyền. Điều này mới làm tôi giật mình và sửng sốt hơn. Có thể trước mắt tôi, thầy Thiện Phước, là một người điển hình cho số người ấy. Tôi không sao hiểu nổi. Tôi thấy không còn hứng thú để nói chuyện với thầy ấy, bèn nhắc chú Tửu đi gặp thầy trụ trì chùa Phước Lâm để mượn bộ kinh Pháp Hoa chữ Hán rồi ra về.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018


Cái bệnh chung của những người cuồng tín, mê tín là thích lý luận, thích rao truyền những điều mình đã học thuộc và hăng hái thuyết phục người khác theo mình mà chẳng cần biết, chẳng cần tìm hiểu gì về quan điểm và niềm tin của đối phương cả.
Mà khi kẻ đi chinh phục tin chắc rằng cái gì của mình cũng đúng (và của kẻ khác tất nhiên là sai!) thì hắn sẽ không từ chối việc áp đặt niềm tin và quan điểm của mình lên kẻ khác. Sự áp đặt này là mầm mống của tai họa, gieo rắc chiến tranh khắp nơi. Lịch sử cho thấy nó còn khốc liệt hơn những cuộc chiến bắt nguồn từ tham vọng chiếm hữu đất đai, tài sản hay từ khát vọng quyền lực. Lý do rất dễ hiểu: kẻ tham lam quyền lợi có thể không có cao vọng bắt buộc kẻ chiến bại phải tin và hiểu như mình; nhưng kẻ đi chinh phục bằng ý thức hệ và tín lý thì lúc nào cũng lận theo lưng cả tham vọng quyền lợi.
Tôi rất buồn khi biết thầy Thiện Phước có vẻ “thích” chính quyền mới một cách vô điều kiện. Nhưng tôi vẫn quý mến thầy, một phần vì thầy là tăng sĩ trẻ có tài của giáo hội, một phần vì thầy là một người trí thức biết tôn trọng suy nghĩ và niềm tin của kẻ khác. Dù có ca ngợi chế độ mới, thầy ấy đã không có ý cố gắng thuyết phục tôi đi theo. Thôi thì đành đường ai nấy đi, miễn là làm được điều gì lợi ích cho cuộc đời là được rồi.
Đâu chừng tháng sau thì tôi nghe tin thầy Thiện Phước không còn ở chùa Phước Lâm nữa. Thầy đã tự nguyện hoàn tục để dấn thân vào công cuộc xây dựng đất nước mà chính quyền mới kêu gọi. Sức học của thầy cộng thêm những đức tính khiêm cung, nhẫn nại, học được trong chùa, chắc hẳn là sẽ đóng góp được nhiều điều tốt đẹp cho xã hội. Tôi không dám nghĩ là thầy đã sai lầm. Tôi chỉ hy vọng rằng thầy đã có ý hướng dấn thân phát xuất từ niềm thương yêu đối với con người và cuộc đời thì sẽ chọn được phương cách tốt nhất để thực hiện ý hướng ấy chứ không phải là để góp sức làm lớn mạnh một chính quyền, một đảng phái thế tục mà hiện nay, dù không tiếp xúc nhiều với đời, tôi cũng biết là người dân không mấy có thiện cảm và tin tưởng.
“Chú Khang, có khách tìm thăm kìa,” chú Tửu bước vào phòng nói với tôi mà miệng cười tủm tỉm như chế nhạo.
Quay nhìn về hướng cửa, tôi thấy một anh bộ đội ngả mũ bước vào. Tôi chưa nhận rõ anh là ai nhưng anh đã cười, nói thân thiện:
“Khỏe không? Bộ nhìn không ra sao mà nhìn ngẩn người vậy?”
Khi anh ấy đến gần đưa tay bắt, tôi mới thực sự nhớ lại anh là một người bạn cũ không thân lắm. Anh ấy tên Tân, cũng là một chú tiểu, cùng thọ giới Sa-di với tôi ở giới đàn tổ chức tại Phật học viện Quảng Nam này. Anh lớn hơn tôi vài tuổi. Trước kia còn là chú tiểu, anh đã xạm đen; nay đi bộ đội, nước da càng đen sẫm và bóng lên. Chưa đầy một năm mà bây giờ Tân có vẻ vạm vỡ, chắc người ra. Tôi chẳng biết nói gì, chỉ cười.
“Tôi tưởng chú về Nha Trang rồi chứ. Hôm qua ghé thăm chùa Phước Lâm, nghe quý thầy quý chú bên đó nói là chú vẫn còn ở đây để lao động nên hôm nay lập tức qua thăm.”
Tân nói với tôi với giọng mừng rỡ, thân mật thực sự. Nhưng bỗng dưng, tôi thấy có một khoảng cách. Cái khoảng cách kỳ lạ, rất buồn, giữa hai người bạn, hai người quen. Tôi tự hỏi, phải chăng chúng tôi là bạn vì chiếc áo và trở nên xa lạ cũng chỉ vì màu áo?
Trong phòng không có ghế, Tân tự động ngồi trên cái giường nhỏ kê sát giường nằm của tôi. Phòng này hồi trước một chín bảy lăm là phòng ngủ của chúng Ca Diếp. Phòng rộng, chứa mười tám cái giường ngủ nhỏ cho mười tám người nằm. Bây giờ chỉ còn bốn, năm người, nhưng mười tám cái giường cứ còn nguyên đó, chẳng ai buồn dọn đi bớt cho rộng. Chúng tôi ngồi trên hai cái giường đặt ở khoảng cuối gian giữa của phòng. Từ trong nhìn ra, tôi bỗng thấy những cái giường trống toát lên cái vẻ hoang lạnh dễ sợ của một bệnh viện hay một nhà xác. Hình như những hình ảnh lao xao, hốt hoảng, kinh sợ trên nét mặt mọi người trong cuộc di tản vĩ đại của các tháng tàn xuân vừa qua hãy còn tác động mạnh mẽ trong lòng tôi, mà đến lúc này, ngồi im lặng trước người bạn cũ vận quân phục xùng xình của quân đội cộng sản, tôi mới thực sự cảm nhận được. Tôi cười gượng gạo, và vẫn giữ im lặng. Một chặp, nhớ tới câu nói của anh ấy khi nãy, tôi buột miệng nói:
“Về lại Nha Trang cũng là tu học, ở lại đây cũng là tu học, nên tôi thấy không cần thiết phải về. Tôi ở lại đây để tiếp tục tu học, không phải để lao động.”
Nghe tôi nói vậy, Tân có vẻ hơi khựng một chút. Nhưng vốn là người mau mắn, anh cười, nói ngay:
“Chứ lao động có gì xấu đâu mà chối. Bây giờ ai cũng lao động hết. Cả nước lao động. Không còn ai ngồi không chỉ tay năm ngón, bóc lột sức lao động của người khác nữa. Bộ đội như chúng tôi cũng lao động đó, chứ không phải chỉ cầm súng đánh giặc thôi đâu.”
“Tôi đâu cần phải che giấu cái chuyện lao động. Có điều, đó không phải là mục đích khiến tôi ở lại đây. Hơn nữa, lao động chẳng bao giờ là mục đích cả. À, mà thôi, chuyện đó đâu cần thiết để bàn. Anh mới vào bộ đội hả?”
“Mới vào mấy tháng thôi.”
“Thầy Thiện Phước nói hòa bình rồi mà. Vậy mà vẫn còn cần thiết để đi cầm súng sao?”
“Vậy chứ chuyện tu cũng còn cần thiết à?”
“Khi nào con người còn đau khổ thì chuyện tu còn cần thiết chứ. Chuyện tu đâu lệ thuộc vào sự đổi thay của các giai đoạn chiến tranh hay hòa bình. Cũng không phải khi gặp nạn thì vào chùa trốn nấp, đến khi thấy yên thì bỏ ra ngoài mà tung hoành ngang dọc.”
“Chú nói vậy là đụng chạm lắm đó nghe, tôi có trốn nấp trong chùa hồi nào đâu. Tôi đi tu, bây giờ thấy không cần thiết phải tu nữa, nên tôi ra ngoài, đi bộ đội, đóng góp đời mình cho đất nước. Chuyện đó hay quá trời, chú khuyến khích mới phải chứ.”
Tôi bật cười lên:
“Ủa, nói chơi vậy mà cũng đụng chạm sao? Vậy mà tôi tưởng... Thôi, xin lỗi...”
Lúc ấy, chú Tửu và Dũng bước vào. Tân ngồi yên, chào các chú kia bằng một nụ cười. Tôi nhớ lại hình như trước kia, khi còn ở chùa, tôi chưa thấy chú ấy chào người khác bằng cách chắp tay bao giờ. Tân ngông nghênh, nhìn người bằng nửa con mắt, chẳng muốn kết bạn với ai mà cũng chẳng ai muốn kết bạn với chú ấy. Nhưng hồi đó, chẳng hiểu sao Tân cứ tìm cách làm thân với tôi, mua sách tặng, rồi nói chuyện triết lý vu vơ. Tôi cũng trò chuyện với Tân như đã trò chuyện với nhiều chú khác trong khóa an cư và thọ giới năm ấy, nhưng không thể thành bạn thân được. Vậy mà sau khi thọ giới, trở về chùa Phước Lâm, Tân cứ viết thư, gởi sách đến tặng tôi, và vẫn ghi trong thư rằng tôi là người bạn thân nhất của anh ấy. Bây giờ, có lẽ vì vẫn còn coi tôi như người bạn “thân nhất” mà Tân đến thăm tôi bất kể tôi có vui vẻ tiếp đón hay không.
Có sự hiện diện của những người khác trong phòng, hình như Tân không nói chuyện được tự nhiên nữa, bèn rủ tôi ra sân. Tôi miễn cưỡng đi dạo với Tân qua hết khoảnh sân rộng trước chánh điện rồi qua hàng hiên mát của dãy phòng học. Đứng lại một lúc ở tam cấp, Tân nói:
“Hình như mấy chú ở đây nhìn tôi với cặp mắt lạ lắm, chẳng có chút cảm tình nào. Nhưng mà thây kệ mấy chú ấy. Tôi cóc cần tình cảm gì của mấy ổng. Tôi đến thăm Khang hôm nay vì nghĩ đến người bạn xưa. Chẳng hiểu sao, tôi chẳng bao giờ quên được Khang. Tôi biết Khang lúc nào cũng dửng dưng, chẳng thấy quan trọng gì ở cái tình bạn lỏng lẻo giữa hai tụi mình, nhưng nói thiệt, đâu phải mình tôi, phải không, hồi đó nhiều người khác tự dưng cũng muốn kết bạn với Khang. Mà rồi Khang cũng đâu có thân với ai. Không hiểu Khang nghĩ gì về những người bạn của mình, nghĩ gì về tôi? Hình như Khang coi thường tất cả vì nghĩ rằng mình vượt xa họ?”
“Tôi đâu có nghĩ gì. Tôi không hề thấy xa cách với bất cứ chú tiểu nào ở chung chùa, hay học chung khóa. Tôi không dám coi thường ai. Mình có cái gì mà coi thường người khác chứ. Tất cả các chú hồi đó đều là bạn thân của tôi.”
“Chính vì coi ai cũng là bạn thân, nên chẳng có ai thực sự là thân cả.”
“Tại sao phải cần sự thân thuộc như một thứ ràng buộc khác của tình cảm. Người xuất gia đâu cần sự gắn bó tình cảm với ai, cho dù sự gắn bó ấy là gắn bó của tình bạn. Có bạn hữu để nâng đỡ nhau, nương tựa nhau tu học. Tốt, rất cần. Nhưng đừng đặt vấn đề người này là bạn thân, người kia là bạn sơ. Bạn thân thì phải đối xử ra sao, bạn sơ thì phải đối xử thế nào! Tất cả là bạn, vậy chưa đủ sao! Cách suy nghĩ và tiếp xử đó cũng chẳng sai trái gì với chuyện tu học cả.
“Bây giờ mà Khang còn nói chuyện tu với học, xuất gia với tại gia! Sao nghe xưa quá!”
“Vậy chứ chú nghĩ rằng... bây giờ không cần phải tu học nữa à!”
“Bỏ quách cho rồi. Mấy lá thư hồi đó tôi viết cho chú những gì bộ chú quên rồi sao?”
“Thư nào? Viết cái gì?”
“Trời đất! Hỏi vậy là biết chú chẳng thèm đọc thư của tôi gởi rồi.”
“À, mấy cái thư chú gởi đó hả... Thì nói chuyện triết lý nhức đầu quá, tôi đọc có hiểu cái chi đâu mà bảo nhớ! Nhưng, chuyện thư từ hồi đó còn xưa hơn chuyện đang nói bây giờ. Trở lại vấn đề tu học. Chú nói chuyện nghiêm chỉnh đi. Chú ở chùa ra mà bây giờ nói chuyện tu học chẳng cần thiết nữa. Chú giải thích đi.”
“Thực ra, tôi đến thăm Khang cũng có mục đích chứ chẳng phải không. Nói thực, tôi thấy những năm ở chùa phí phạm tuổi trẻ quá. Chẳng làm gì giúp ích được cho đời. Mà cũng chẳng mang lại lợi ích cụ thể nào cho chính bản thân. Tôi muốn khuyên Khang nên bỏ sớm chừng nào tốt chừng nấy, như vậy sau này khỏi hối tiếc. Vì không bỏ bây giờ, sau này cũng phải bỏ thôi.”
“Xuất gia là để tu học, không tu học thì phí phạm tuổi trẻ. Xuất gia cũng là để giúp ích cho đời về mặt tinh thần, mình không tu học cho đàng hoàng, cho đến nơi đến chốn thì chẳng giúp ích gì cho bản thân cũng như cho cuộc đời. Điều này có thể áp dụng cho bất cứ con người nào, bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào. Không sống trọn vẹn với màu áo và lý tưởng mà mình đeo đuổi thì cuộc đời kẻ ấy coi như rỗng tuếch. Nếu kẻ nào không tìm được gì hữu ích trong thời gian xuất gia ở chùa thì đó là do kẻ ấy chưa thực sự tu học đàng hoàng. Ý tôi muốn nói, kẻ ấy đã không lấy chuyện học đạo làm mục tiêu mà chỉ mượn chiếc áo để lẩn tránh một cái gì đó ngoài đời. Xuất gia theo kiểu đó thì phí phạm tuổi trẻ là phải rồi. Riêng tôi, tôi không dám nói tôi hiểu đạo nhiều hay đã làm lợi ích gì cho đời, cho người. Nhưng tôi có thể khẳng định rằng, tôi không bao giờ hối tiếc việc xuất gia học đạo của tôi cả. Bạn có thấy cần thiết phải khuyên một người từ bỏ cái gì mà kẻ ấy đam mê, thích thú và dốc trọn cả tâm tư vào đó không? Cũng như bạn bây giờ, đang say mê chạy theo một lý tưởng thế tục nào đó, tôi thấy đâu cần phải phủ dụ bạn rời bỏ để theo tôi. Bạn cứ dốc trọn cuộc đời của bạn vào đó đi sau khi đã tìm hiểu và xác quyết về giá trị của nó.”
“Nhưng ở đây, chuyện tôi khuyên không phải chỉ nhắm vào bản chất, vào giá trị của lý tưởng mà Khang đeo đuổi. Tôi còn nhắm vào cái hoàn cảnh thực tế ngoại tại nữa.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là, như tôi nói khi nãy, nếu bạn không từ bỏ bây giờ thì sau này bạn cũng phải từ bỏ mà thôi. Sẽ không còn tôn giáo nào ngự trị trên mặt đất này nữa. Cái sự thực đó, tôi thương bạn nên muốn nói trước với bạn như vậy để bạn suy tính mà thôi.”
Tôi mỉm cười ngạo nghễ, tự tin:
“Nếu mai sau trên đường tu tập, tôi thất bại hoặc bỏ cuộc thì lý do chắc chắn không phải vì bất cứ kẻ nào hay thế lực nào cưỡng ép cả.”
“Chắc không đây?”
“Chắc chắn. Tôi đã tự do chọn lựa con đường xuất gia thì tôi cũng sẽ tự do chọn lựa con đường hoàn tục. Không ai cưỡng ép được.”
“Đáng tiếc! Để rồi coi,” Tân nói vậy, miệng cười cười. Tôi bỗng không kềm được sự bực bội, nói tiếp:
“Còn nói rằng ở chùa không làm lợi ích gì cho đời thì nông cạn quá. Lợi ích đâu phải lúc nào cũng phải thấy rõ ràng mới gọi là lợi ích. Đám mây bay ngang trời là vô dụng trong mắt anh, nhưng sẽ có ích cho một tâm hồn muốn được ngơi nghỉ nhìn ngắm, phải không? Nếu cứ nhắm vào cái cụ thể thì hiện nay, trong mắt tôi, hay trong mắt người dân miền Nam, bộ đội như anh đâu có làm lợi ích gì cho đất nước. Các anh nói là hòa bình rồi, hết chiến tranh rồi, nhưng quân đội cứ phát triển nhân số. Gần một triệu quân, phải không? Tôi nghe chú Nguyện nói vậy. Khiếp thật! Vậy rồi các anh ở không, tập luyện quân sự, để đánh ai trong tương lai thì chẳng biết, chỉ thấy trước mắt là nhân dân phải lo nai lưng ra mà nuôi các anh. Đưa cái lợi cụ thể mà các anh đóng góp cho đất nước này ra cho chúng tôi xem coi nào?”
“Bây giờ chưa thấy nhưng sau này sẽ thấy. Quân đội ta sẽ sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế... Mặt khác, phải bảo vệ đất nước khỏi sự hăm he tấn công của bá quyền Trung quốc. Đó là những ích lợi sẽ có trong tương lai, khi nào đất nước cần đến.”
“Làm tăng sĩ cũng vậy. Khi nào con người cần đến, tự dưng họ sẽ thấy được cái lợi ích mà người tăng sĩ hiến tặng họ. Cái lợi ích đó không phải là cái cụ thể có thể phô bày ra được; và cũng không phải chỉ là chuyện cơm ăn áo mặc. Anh là kẻ cầm súng không trực tiếp tạo nên cơm áo thì anh hẳn biết điều đó mà, phải không?”
Chúng tôi im lặng một khoảng lâu rất nặng nề. Nắng lên cao. Bãi cát trắng trên khoảnh đất trống bên hiên dãy phòng học hắt lên một màu chóa lòa. Có những dấu chân người, dấu chân chim, dấu chân gia súc, dẫm lên nhau, khỏa lấp nhau, trên mặt cát gợn sóng, tạo nên bức tranh với hai màu trắng đen, đậm nhạt, hỗn độn, không định tính, như tác phẩm của một chàng họa sĩ sáng tác trong tâm trạng không được bình tĩnh. Tôi không ngờ đã có những lúc trên đời, tôi phải nói chuyện không được hòa nhã với bạn bè của mình.
Và điều mà tôi thấy lạ nhất là dòng suy tưởng của tôi, lúc này không còn thuần tính, đơn sơ, mộc mạc như bức tranh thiên nhiên, thiền vị nữa. Hình như dòng sông nào cũng vậy, có những lúc tĩnh lặng, nhưng không sao có thể tránh khỏi những khi sóng gió. Không nhiều thì ít, tôi cũng đã để tâm đến thế sự, điều mà tôi và các bạn đồng tu cùng lứa hầu như không hề để ý đến từ nhiều năm trước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018

Chương ba

Những năm trước một chín bảy lăm, trong chương trình học của Phật học viện chúng tôi đã có dạy sơ về Thiền. Đến mùa hè, viện còn có lớp Thiền vào buổi tối do Thượng tọa giám viện đảm trách, dạy cho quý thầy, quý chú từ các chùa khác trong tỉnh đến nhập hạ an cư. Nhưng có thể nói rằng, luồng khí Thiền được thổi vào sinh hoạt của tăng chúng một cách mạnh mẽ, thấm đậm, là kể từ khi Phật học viện hoàn toàn bị giải tán, tăng chúng thực sự bắt tay vào công việc đồng áng từ ngày này qua tháng nọ như những nông phu chuyên nghiệp, và kể từ khi có sự hiện diện của thầy Như Chấn.
Thầy Như Chấn là đệ tử của Thượng tọa giám viện, vào Sài Gòn học ở Đại học Văn khoa. Đang học ở năm thứ tư, sắp lấy cử nhân văn chương thì có biến động ba mươi tháng tư năm bảy lăm, thầy ấy bỏ Sài Gòn, trở về chùa Long Tuyền, nhập chúng tu tập.
Thầy Như Chấn hãy còn trẻ, chưa quá ba mươi. Tôi độ chừng thầy ấy cỡ hai mươi sáu, hai mươi bảy thì phải. Thầy thấp người, rắn chắc, da xạm đen, làm việc đồng áng rất khỏe và bền bĩ. Chỉ trong một thời gian ngắn sinh hoạt chung với tăng chúng, thầy ấy dường như đã nhận ra sự tẻ nhạt nào đó trong nếp sống lao động vất vả suốt những ngày dài tháng rộng nếu không có thiền khí phập phồng qua cánh mũi của những kẻ xuất trần trẻ tuổi dưới chế độ mới. Không thể nói rằng có thầy ấy thì ở đây mới có thiền. Chính Thượng tọa giám viện đã đề xướng sự tu tập thiền định và đưa sinh hoạt tu tập này vào nề nếp, qui củ từ nhiều năm về trước. Chỉ có thể nói được rằng, những nỗ lực âm thầm, tự phát của tăng chúng trẻ tuổi nơi đây đã bị cuốn theo ý lực mạnh mẽ của thầy Như Chấn để dấy nên một không khí tu tập thiền định mới mẻ hơn, sống động hơn. Tôi và Sáng, người huynh đệ đồng môn và đồng hương rất thân, cũng không khỏi bị cuốn theo giòng thác đó.
Những ngày được nghỉ công việc đồng áng, chúng tôi được thầy Như Chấn giảng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, rồi kinh Lăng Già, Lăng Nghiêm... Những kinh ấy, Thượng tọa giám viện đã có giảng cho quý thầy lớn hoặc cho chúng tôi trước đây, nhưng qua thầy Như Chấn, tôi thấy tâm mình sáng tỏ hơn, thấy rõ con đường và mục tiêu tối hậu của Thiền học Phật giáo. Có thể tâm tôi vào lúc ấy, đã như một miếng đất lành vốn được phát quang sạch sẽ bởi thầy tôi, bởi Thượng tọa giám viện và qua nhiều năm tháng nỗ lực tu tập, nên thầy Như Chấn chỉ cần tưới nước, chăm bón thêm, là những hạt mầm tốt đẹp ương sẵn được vùng dậy, vươn lên, khai mào cho một tiến trình phát triển mạnh mẽ hơn. Và như một người mù được mắt sáng, chẳng biết mỏi mệt trong sự nhìn ngắm cảnh vật, tôi dốc trọn tâm tư vào sự chiêm nghiệm chính bản tâm mình. Tôi sờ mó nó, tìm hiểu nó, rồi đùa giỡn với nó như giỡn với một quả cam, một trái banh... và đôi lúc, tôi ném nó bay vút đi, tan biến vào hư không; rồi khi tôi dõi theo sự tan biến của nó, tôi cũng tan biến theo, và tôi không còn tôi. Và tôi lại soi thấy tôi trong sự phản hiện của hư không...
Càng lúc tôi càng tỏ rõ về tâm mình, đến nỗi tôi nhìn đâu cũng thấy nó. Và khi tôi đọc kinh, nghe kinh, nghe thuyết pháp hay nhìn ngắm một sự việc gì đó, thì những điều này đều như phơi bày, hiển lộ thêm cho cái thấy của tôi về bộ mặt thực của nó. Cái tâm ấy hình như đã mượn những lời giải thích kinh luận, và ngay cả ở những hành vi lập dị của thầy Như Chấn để được khai mở tròn vẹn như một đóa hoa đầu mùa. Và giai đoạn đó có thể nói là giai đoạn bừng sáng nhất của trí tuệ trong tôi. Tôi ngạc nhiên nhiều lần như nghe được, thấy được, hiểu được những điều mình đã nghe, đã thấy và đã hiểu trước. Có khi tôi hiểu trước được cả những gì các vị pháp sư sắp nói ra hoặc đang cố gắng giải thích một cách dễ hiểu và tường tận cho kẻ khác. Tôi đọc lại những sách về thiền học mà trước đây tôi đã từng đọc qua nhiều lần, và lần đọc lại này, tôi thấy tâm tôi sáng hơn, đọc đến đâu là niềm hân hoan bừng tỏa ra đến đó. Niềm hân hoan ấy như chảy tràn theo nhịp thở của tôi, liên tục từ phút giây này qua phút giây khác và được bồi đắp thêm, phát triển bội phần lên mỗi khi sáng tỏ thêm một điều gì khác từ kinh điển hay từ những việc nhỏ nhặt tầm thường hàng ngày. Nhưng kinh nghiệm sâu đậm nhất mà tôi nhớ mãi trong thời gian này là lúc đang kinh hành với tăng chúng vào một thời công phu chiều. Lúc ấy tôi đang rung cái linh nhỏ. Cái linh là một loại pháp khí của thiền môn, có thể diễn tả cho dễ hiểu là một loại chuông nhỏ hình thù như cái khánh, nhưng có tay cầm ở phía trên; bên trong của chuông là một quả lắc bằng đồng. Linh cũng như khánh, được rung theo nhịp trường canh mà cường độ của nó tùy theo nhịp mõ lơi hay nhặt. Lúc nào linh và khánh cũng nhanh gấp đôi nhịp mõ, thường được trỗi lên khi có những bài tán nhịp điệu. Ở các chùa Quảng Nam, linh được rung luôn vào lúc kinh hành niệm Phật. Chiều hôm ấy, tôi vừa lắng nghe chăm chú tiếng phát ra của nó từ sự va chạm của quả lắc và quả chuông nhỏ này, thì bỗng sực hiểu ý nghĩa về âm thanh của một bàn tay, một công án nổi tiếng mà tôi tham cứu (thuật ngữ gọi là đề) nhiều ngày trước đó nhưng chẳng kết quả gì.
Như vậy, việc tu tập của tôi lúc ấy không còn giới hạn trong những thời khóa tụng kinh, ngồi thiền, nghe giảng kinh, mà luôn cả những giờ lao động ngoài ruộng vườn, vẫn không ngưng nghỉ, gián đoạn.
Hầu như sau giờ lao động ngoài ruộng vườn, những giờ còn lại của tăng chúng (không kể quý thầy tỳ kheo lớn tuổi hoặc ngang tuổi thầy Như Chân), đều bị cuốn theo nếp sinh hoạt bừng bừng “thiền khí” do chính thầy Như Chấn dẫn dắt. Quả thật thầy ấy có sức lôi cuốn không thể tả qua đôi mắt sáng rực, rất thần, và qua giọng nói mạnh, sang sảng như chuông đồng. Gần mười chú tiểu còn lại của Phật học viện, kể cả tôi, bỗng trở nên những con cừu non ngoan ngoãn bước theo sự dẫn đạo của thầy ấy.
Nhưng phong trào nào cũng có sự thăng trầm suy thịnh của nó. Chưa đầy hai tháng sinh hoạt thiền đạo rất nề nếp và khởi sắc, phong trào bỗng lắng xuống và có vẻ như tan dần theo sự im lặng nhiều ngày của thầy Như Chấn. Cho đến một đêm, sau một ngày lao động mệt mỏi, bọn sa-di chúng tôi kẻ nằm nghỉ, người ngồi đọc sách trong phòng, bỗng thấy thầy Như Chấn từ ngoài bước vào với vẻ nghiêm trọng. Thầy mặc áo tràng, cổ đeo tràng hạt dài, tay cầm gậy trúc, bước vào đến giữa phòng, nói lớn:
“Tất cả các chú theo tôi. Tất cả. Đi, đi! Các chú hãy đến đạo tràng của tôi để lắng nghe sự huyền nhiệm của Quán Thế Âm.”
Tôi đang chú tâm đọc sách, thấy chuyện nầy xen vào thì không được vui lắm, dù rằng tôi rất thích nghe thầy ấy giảng pháp. Nhưng thầy cứ đứng ở giữa phòng, thúc hối:
“Đi, đi mau! Ai là người mong cầu tri giác vô thượng của chư Phật thì không thể bỏ qua được cơ hội lắng nghe những mật ngôn bất khả tư nghi của Quán Thế Âm.”
Các chú khác, kể cả Sáng, đã vùng dậy mặc áo tràng vội chạy theo thầy Như Chấn mà tôi vẫn còn chần chừ. Chú Tửu là người lớn tuổi nhất trong đám sa-di chúng tôi, ngang tuổi với thầy Như Chấn, cũng có vẻ qui thuận dễ dàng, khoác áo tràng thật nhanh, bước theo các chú kia ra khỏi phòng. Các chú cùng rời phòng vội vã như thực sự sợ mất cơ hội, nhưng tôi thì miễn cưỡng rời khỏi chỗ bàn học của mình, bước từ từ đến chỗ treo móc áo, lấy áo tràng của mình, rời phòng sau chót.
Khi tôi đến phòng thầy Như Chấn thì thấy các chú đến trước đã quỳ dưới đất cả rồi. Các chú đang chắp tay, thành khẩn lắng nghe thầy Như Chấn giảng về Đại Bi Tâm. Tôi cũng quỳ xuống, chắp tay, lắng nghe. Không bài pháp nào từ thầy Như Chấn mà không bổ ích đối với tôi. Những đề tài thầy đề cập thường được trình bày ngắn gọn mà lại súc tích, lời nào đáng lời đó, không thừa không thiếu. Nhưng có thể nói đây là lần đầu tiên tôi miễn cưỡng đi theo các chú kia đến đạo tràng (chỗ thờ Phật) riêng của thầy Như Chấn để nghe pháp. Dường như trong tôi có một lực phản kháng nào đó mà đến lúc này, trong trường hợp này, nó mới bắt đầu manh nha bộc phát. Dù rằng cuối cùng rồi tôi cũng khoác áo tràng để tham dự, nhưng trong lòng đã thấy một cái gì đó không được bình thường. Có lẽ cái tâm vốn nhu nhuyễn, mềm mỏng của tôi cũng có những lúc rất ương ngạnh, cứng cỏi, không chịu xu phụ, không chịu sự dẫn dắt hay chỉ đạo của ai, nhất là sự dẫn dắt này lại mang cái vẻ cưỡng ép, bó buộc. Tôi nghĩ, chỉ có sự cao thượng mới cao thượng chứ không có sự bó buộc nào lại có thể dẫn tới sự cao thượng được cả.
Bài pháp ngắn, đâu chừng mười lăm phút thì dứt. Chúng tôi lục tục quay trở về phòng. Khi máng áo tràng lên cái móc áo, tôi bỗng thấy sự kiện đi nghe pháp vừa qua có một vẻ gì rất buồn cười. Không khí thiền ở đây hình như đã bắt đầu được pha thêm chút thần quyền mê tín nào đó. Tôi không muốn nói sự tôn thờ các vị Phật và Bồ tát theo Mật giáo là mê tín, vì chính tôi đã từng trì tụng thần chú Chuẩn Đề trong nhiều năm. Tôi chỉ thấy rằng, khi người nào không thể cưỡng được sự lôi cuốn của kẻ khác, phó thác hoàn toàn niềm tin của mình cho kẻ khác nắm lấy, hoặc sung sướng được chăn dắt bởi kẻ khác nhiều ý lực hơn, đều là dấu hiệu của sự mê tín. Tinh thần giải thoát của Phật giáo không chấp nhận được điều đó. Và, tôi bắt đầu phản kháng.
Một sáng nọ, đang bước ngang cửa trai đường, tôi và thầy Như Chấn suýt đâm đầu vào nhau vì thầy từ trong bước nhanh ra. Hơi khựng một chút là thầy ấy đã buông lời hỏi:
“Ý của Tổ sư từ Thiên Trúc sang là gì?”
Nguyên văn chữ Hán, câu này là “Như hà thị tổ sư tây lai ý?”. Đây là một công án nổi tiếng của Thiền học Trung Hoa mà ai từng nghiên cứu Thiền cũng đều nghe qua. Công án này được nhắc tới nhiều lần trong những tắc của Vô Môn Quan, một tác phẩm sưu tập nhiều công án nổi tiếng của các thiền sư Trung Hoa. Ý của câu ấy có thể hiểu đơn giản là: mục đích của Tổ sư (Đạt Ma) từ Thiên Trúc sang Trung Hoa là gì? hay mục đích tối hậu của Thiền là gì?
Ngay cái phút suýt va đầu vào nhau mà có thể cất lên được câu hỏi ấy thì quả là thầy Như Chấn đang ở trong mức độ tinh thuần, chú tâm, sống chết với công án ấy, đáng phải kinh sợ. Câu hỏi ấy đưa ra, có thể dành cho tôi, có thể dành cho thầy ấy, có thể cho cả hai, tùy theo trường hợp. Nhưng rõ ràng là thầy ấy đang chờ đợi tôi trả lời. Tôi không nói gì, chỉ cười, rồi bỏ đi.
Thực ra nụ cười và hành động quay đi của tôi không mang ý nghĩa gì của thiền học cả. Trong sách thiền có chán khối gì câu chuyện các thiền sư và môn đệ đối đáp nhau bằng nụ cười, la hét, đánh đập, hoặc những hành vi quái dị khác. Nhưng ở đây, nụ cười của tôi chỉ là nụ cười rất bình thường. Tôi không ở trong tâm trạng đeo đuổi công án nên không thể đối đáp, trả lời một công án. Tôi cũng không thấy thích thú gì trong việc bắt chước sách thiền để tỏ những hành vi “thiền”. Có thể thầy Như Chân đang sống chết với công án ấy và câu hỏi thầy ấy nêu cho tôi là nghiêm chỉnh đối với thầy ấy, nhưng nếu tôi bày đặt trả lời thì sự trả lời của tôi chỉ là mô phỏng, bắt chước, rất kịch cỡm. Tôi không thích làm điều đó. Cho nên, hành động cười và bỏ đi của tôi, chỉ mang một ý nghĩa rất đơn giản: tôi không còn là kẻ dính mắc vào hay tham dự vào “dòng thiền” mà thầy khởi xướng và phát động nữa đâu! Mê tín thần quyền, mê tín khoa học hay mê tín thiền học, cũng đều là mê tín cả mà! Thầy Như Chấn không mê tín, nhưng phong cách dạy thiền, sống thiền của thầy đã vô tình dẫn các chú sa-di ở đây đi vào con đường mê tín lúc nào không hay. Nếu tôi không đứng lại, không phản kháng, tôi sẽ trở thành một con cừu non trong một ngày rất gần. Tôi không thích làm con cừu. Tôi chỉ muốn làm con sư tử.
Tuần lễ sau, tôi bước ngang bàn học của Sáng thì thấy chú bày trên bàn phần đáy của một cái ly thủy tinh bể. Sáng đang săm soi mảnh thủy tinh rất dày ở đáy ly. Tôi đứng lại, hỏi gì vậy. Sáng cười cười, không trả lời, chỉ đưa nguyên mảnh ly bể vào miệng, cắn bể trong răng, rồi nhai rào rạo. Tôi lay chú, hỏi:
“Ai dạy chú làm cái gì kỳ cục vậy!”
“Đâu có ai đâu. Tự tôi muốn làm mà!”
“Nhưng... làm vậy để được lợi ích gì chứ!”
Sáng chỉ cười. Tôi bực mình nói:
“Chú muốn học theo ai cũng được, làm cái gì cũng được, nhưng lúc nào cũng phải tự hỏi chuyện mình làm có lợi ích gì hay không rồi hãy làm.”
Sáng nhỏ hơn tôi hai tuổi, như vậy, lúc đó chú mới mười lăm. Tôi chẳng lớn hơn chú bao nhiêu, nhưng dù sao, tôi cũng có trách nhiệm phần nào với chú vì tôi và chú là hai huynh đệ đồng môn được thầy bổn sư gởi cho đi học ở đây. Đáng ra chú đã về Nha Trang khi Phật học viện giải tán, nhưng thấy tôi không chịu về, chú cũng ở lại theo. Nay chú bỏ công học những huyền thuật vặt vãnh, làm sao tôi khỏi đau lòng. Con đường tu tập giải thoát giác ngộ đâu có cần những huyền thuật kỳ bí để lòe mắt thiên hạ. Nhưng vì chỉ có liên hệ đồng môn chứ chẳng phải ruột thịt gì nên tôi cũng không đủ thẩm quyền để xen vào sâu hơn trong đời sống riêng tư của Sáng. Tôi chỉ biết nhắc nhở chú vài lời, vậy thôi. Chú ấy không nghe.
Những năm đầu mới xa Nha Trang, tôi và chú ấy cũng khắng khít với nhau lắm. Nhưng kể từ khi tôi thọ giới Sa-di (mười giới) và chú ấy hãy còn là chú tiểu (năm giới), tự dưng chúng tôi càng lúc càng ít thân mật như xưa. Không phải do sự khác biệt giới luật đã khiến như thế. Chỉ vì chúng tôi, nhất là tôi, đã trưởng thành hơn; một phần khác cũng vì vào niên học cuối cùng trước biến cố bảy lăm, Thượng tọa giám viện đã chia lớp học thành ba chúng (thay vì hai chúng như cũ) gồm hai chúng Sa-di (mười giới) là chúng A Nan và Ca Diếp, một chúng Sa-di (năm giới) là chúng La Hầu La. Tôi ở chúng Ca Diếp, Sáng ở chúng La Hầu La. Mỗi chúng chừng mười đến mười lăm người, có phòng riêng biệt. Từ chỗ đó, chúng tôi bắt đầu chia cách nhau, không gần gũi để nhắc nhở hay giúp đỡ nhau nhiều như trước. Cho nên bây giờ, chuyện Sáng làm, tôi không có ảnh hưởng gì mạnh mẽ để can dự, khuyên răn. Lời khuyên của tôi dĩ nhiên không có tác động gì nhiều nữa. Nhất là con người của chú ấy, hình như là một mẫu người dễ sa vào chỗ mê chấp, cuồng tín.
Hôm sau, tôi đang ngồi đọc sách trong phòng, chú Dũng bỗng đến gần khều tôi, nói nhỏ:
“Chú Khang à, chú Sáng học ai mà nhai mẻ chai thấy ghê quá!”
Chú Dũng này là chú Dũng người quận Đức Dục, tỉnh Quảng Nam, ở chùa Long Tuyền chứ không phải chú Dũng người Ban Mê Thuột bạn cũ lúc mới xuất gia của tôi ở chùa Hải Đức Nha Trang. Chú Dũng này lớn hơn tôi chừng một, hai tuổi; tánh tình rất cởi mở, dễ thương. Tôi nói:
“Chẳng biết chú ấy học từ đâu. Nhưng chuyện nhai mẻ chai chỉ là tà thuật vặt vãnh, đâu có cần thiết gì cho chuyện tu học cũng như cho cuộc đời mà phải học chứ. Thiệt là tầm phào. Tôi không ngờ chú ấy lại đi vào con đường mê tín thần quyền như vậy. Tôi có khuyên nhưng chắc chú ấy chẳng thèm nghe đâu.”
“Ừ, phải rồi, thần quyền, chú nói đúng. Chỉ có mấy người học thần quyền mới làm cái chuyện đó. Hình như thầy Như Chấn là một nhà thần quyền cao tay ấn lắm.”
“Cái gì, thầy ấy có học thần quyền à? Tôi nghĩ là thầy theo Mật tông mà.”
“Ừ thì thần quyền cũng khác gì Mật tông Phật giáo bao nhiêu đâu, cũng trì tụng mật ngôn, thần chú, cũng xài bùa phép...”
“Nhưng mục đích của Mật tông là giải thoát giác ngộ chứ đâu có giống như mấy người học thần quyền được. Mật tông Phật giáo đâu chủ trương lấy bùa chú, thần thông làm cứu cánh.”
Im một lúc, chú Dũng nói:
“Có lẽ tôi nói sai. Thầy ấy không học thần quyền, chỉ theo Mật tông thôi. Nhân thấy mấy người bạn xài phù phép, tà thuật, thầy ấy cũng đem bùa chú Mật tông ra để chứng tỏ mấy cái thuật đó chỉ là trò chơi thôi đó mà. Chú Sáng thấy vậy thì ham, đòi học. Tôi nghe rằng thầy Như Chấn không dạy chú Sáng nhai mẻ chai. Chú Sáng nài nỉ học hoài không được, bèn tự động làm, vì tin rằng hễ người khác làm được thì mình cũng làm được.”
“Tầm bậy tầm bạ. Cái tướng chú ấy ngó thấy hiền, lúc nào cũng lim dim niệm Phật, vậy mà cũng học đòi quyền phép quá hở! Nhưng học để làm gì, để hù dọa người ta sao! Mà nhai mẻ chai một mình hình như không thấy thích, cho nên hôm qua chú ấy đợi tôi đến nơi, mới đưa lên miệng mà cắn, nhai, muốn cho tôi chứng kiến để nể phục.”
“Ừ, thấy ghê quá,” nói rồi chú Dũng bỏ đi.
Một lúc sau, tôi mới đoán được rằng có lẽ chú Dũng nói chuyện với tôi để phân bua chuyện nhai mẻ chai của chú Sáng, muốn cho tôi biết rằng thầy Như Chấn không hề dạy cái thuật đó cho chú Sáng. Chỉ tự chú Sáng làm lấy mà thôi. Chú Dũng là sư đệ của thầy Như Chấn và là người rất ngưỡng mộ thầy Như Chấn; chú ấy không muốn thầy Như Chấn bị mang tiếng là đã dạy tà thuật cho sư đệ của tôi.
Tháng sau, thầy Thông Nghĩa từ Nha Trang ra, đón chú Sáng về quê. Sáng về đến Nha Trang thì bệnh nặng, được đưa về nhà điều trị. Sáng hoàn tục luôn từ lúc ấy, để rồi sau đó không lâu, đi làm một anh công an của xã huyện gì đó tại Diên Khánh, một quận ngoại ô Nha Trang.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018


Thực ra, trước khi nghe tin chú Sáng hoàn tục làm công an, tôi đã nghe chuyện thầy Thiện Phước cởi áo tu ra làm cán bộ nhà nước, nên tôi đã không ngạc nhiên nhiều lắm, chỉ thấy buồn thôi. Buồn vì chú Sáng tuổi còn non dại, học hành chưa đến nơi đến chốn, làm sao giữ vững được tâm chí khi dấn thân vào đời. Huống chi, chú ấy có thể đóng góp được gì cho dân tộc, cho quê hương bằng chiếc áo công an mà trong mắt người dân miền Nam hiện nay, chỉ là biểu tượng của bạo lực, kềm xiết! Những vị công an của chế độ mới là những vị hung thần, làm cho mọi người hãi sợ và ngầm căm ghét. Sao chú Sáng lại chọn con đường và chiếc áo ấy để vào đời. Phải chăng vì hoàn cảnh gia đình hay vì tâm nguyện xây dựng đất nước như thầy Thiện Phước từng nói? Tôi không tin chú Sáng có được tâm niệm cao đẹp và vững chãi như thầy Thiện Phước. Cái tuổi mười lăm của chú Sáng, với trình độ tu học non nớt, kiến thức phổ thông nông cạn... xông pha vào đời sẽ chết lịm trong đời. Bao nhiêu công hạnh gìn giữ, trau luyện lâu nay trong cửa chùa hẳn là phải mất hết.
Về phần thầy Thiện Phước, tôi nghe rằng khi vào đời, thầy đã về quê, Duy Xuyên, giữ một chức vụ quan trọng gì đó trong ủy Ban Nhân Dân Quận, quản lý các hợp tác xã, chuyên bán bách hóa, thực phẩm. Công việc ấy, chức vụ ấy, thực ra có to tát gì đâu đối với một người đã từng nuôi mộng thành Phật, hoặc cái mộng nhỏ hơn Phật là làm một vị tăng trưởng, một vị Bồ tát cứu độ nhiều chúng sinh. Tuy nhiên, như đã có lần nói chuyện với thầy trước đây, tôi biết dù thế nào đi nữa, thầy ấy đã có mục tiêu, có chủ đích rõ ràng và cao đẹp khi quyết định cởi áo để tham gia công tác xây dựng đất nước theo lời kêu gọi của nhà cầm quyền mơi. Chuyện nhà cầm quyền mới có thực tâm xây dựng đất nước hay không thì không thể bàn nói được, nhưng thầy Thiện Phước thì chắc chắn là thực tâm. Nhà nước được thêm một cán bộ giỏi nhưng giáo hội thì mất đi một nhân sự tốt. Chỉ mong rằng sự góp mặt của người cán bộ ấy vào dòng đời là một chọn lựa thích đáng.
Một số người, trong đó có một số ít tu sĩ Phật giáo, điển hình là thầy Thiện Phước, đã cho rằng con đường xuất gia, việc làm của những người xuất gia, có vẻ như xa cách với cuộc đời, chẳng đem lại lợi ích thực tiễn nào cho cuộc đời. Cái lợi ích thực tiễn đó, là một cách nói cho văn vẻ chứ thực ra, chỉ có nghĩa là lợi lạc về vật chất, về cơm ăn, áo mặc, thuốc men, tiền bạc, nhà cửa... Dù rằng những người có quan niệm như vậy đã không phủ nhận tính chất cao quý trong mục tiêu và ý hướng phụng sự cuộc đời của Phật giáo, nhưng cách suy nghĩ đó—tức là có ý trách Phật giáo không thực tiễn—có lẽ hơi nghiêm khắc nếu không nói là hơi lệch lạc với mục tiêu tối hậu của Phật giáo. Vì hiểu lệch lạc như vậy mà họ muốn cải cách, muốn thay đổi, muốn Phật giáo phải có những chương trình cứu tế xã hội này nọ như những đoàn thể khác, tôn giáo khác. Thực ra, những công tác từ thiện xã hội, những chương trình đóng góp “thực tiễn” cho cuộc đời, cho con người, không hề là những việc làm trái ngược, mâu thuẫn gì với tinh thần nhập thế của Đại thừa Phật giáo mà còn là những phương tiện thiện xảo được khuyến lệ nữa là đàng khác. Tuy nhiên, không phải là phải có những công việc ấy thì một tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, mới có giá trị để tồn tại nhiều thế kỷ; không phải là phải có những việc ấy thì sẽ có nhiều người giác ngộ hơn trên cuộc đời. Mục tiêu cao quí nhất của Phật giáo là đem lại trí tuệ giác ngộ cho con người; bằng trí tuệ đó, con người mới thực sự tự cứu lấy mình ra khỏi những triền phược đau khổ của cuộc đời.
Chính tôi cũng đã có lần nghĩ rằng người tu sĩ Phật giáo cần phải làm cái gì đó tích cực hơn, thực tiễn hơn việc thiền định và tụng niệm. Những suy nghĩ ấy một phần do tính năng động của tuổi trẻ, phần khác cũng do ảnh hưởng những lời kêu gọi của một tăng sĩ có khuynh hướng cải cách xã hội và sinh hoạt Phật giáo nổi danh là thầy Nhất Hạnh qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là cuốn Đạo Phật Hiện Đại Hóa. Tăng sĩ trẻ, hay đúng hơn là lớp tăng sinh mới lớn như tôi, đọc sách của thầy Nhất Hạnh mà mê như trước đây người ta đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung và Ngọa Long Sinh, hay đọc tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn. Thầy ấy đề nghị những phương pháp đóng góp thực tiễn cho cuộc đời qua công tác xã hội. Và thầy ấy đã làm thực, chứ không phải chỉ trên lý thuyết. Công việc của thầy, có thể được nhìn thấy cụ thể qua Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở Thủ Đức. Đó thực ra không phải chỉ là một trường đặc biệt đào tạo tăng ni trẻ thành những tác viên xã hội, mà chính yếu là mở rộng cho nhiều thanh niên nam nữ thế tục có tinh thần dấn thân phụng sự xã hội. Cán bộ của trường này đã làm được rất nhiều điều hữu ích để hàn gắn, xoa dịu vết thương lở lói của con người trong thời buổi chiến tranh và thiên tai thường kỳ ấy. Tác phẩm và việc làm của thầy Nhất Hạnh, quả là tiếng chuông cần thiết được gióng lên ở những giai đoạn có vẻ như im lìm thụ động của Phật giáo. Nhưng không phải những lời kêu gọi ấy, những việc làm ấy, là những giá trị mới được trang điểm thêm cho bản chất của Phật giáo. Chúng chỉ mới mẻ ở bề mặt. Và chúng chỉ mới mẻ đối với Việt Nam. Do hoàn cảnh và nhân tình thuận lợi hơn, các thiền sư Nhật Bổn (điển hình là Thiền sư D.T. Suzuki) và Trung Hoa (chẳng hạn Thái Hư Đại sư) đã đi trước thầy Nhất Hạnh Việt Nam nhiều năm về tư tưởng dấn thân phục vụ xã hội, cải cách, hay hiện đại hóa Phật giáo. Nhưng các vị ấy cũng không đem lại những chất liệu mới cho Phật giáo. Họ chỉ làm mới mẻ sinh hoạt Phật giáo để thích hợp với thời đại mà thôi.
Từ nền tảng từ bi và vô trước (không chấp nê ở hình thức bề ngoài), Phật giáo qua con mắt so đo của phàm tục, mặc nhiên trở thành một tôn giáo tiêu cực trong những hành hoạt có tính cách hay mục tiêu bành trướng tổ chức, chiêu dụ nhân sự như một vài tôn giáo khác trên thế giới đã làm: Nhưng điều này không kết luận được rằng những người tăng sĩ Phật giáo Việt Nam đã không làm gì cho dân tộc, cho đất nước. Cứ nhìn về thôn quê Việt Nam là biết vai trò dấn thân của tăng sĩ Phật giáo Việt Nam như thế nào. Đâu phải làm việc từ thiện xã hội theo kiểu cứu trợ, cho cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thì mới thể hiện được lòng từ bi. Tăng sĩ ở các chùa vùng quê, những ông thầy chùa làng, đã đóng góp cho xã hội một cách thầm lặng, vô hành. Tùy theo nhân duyên, cơ cảm mà ứng hiện. Những đóng góp đó không đếm kể được bằng bản báo cáo thu chi, hay biên bản cứu trợ... Điều khác nhau giữa việc làm của các tổ chức từ thiện xã hội, các đoàn thiện nguyện cứu trợ và tăng sĩ Phật giáo truyền thông ở các chùa, các khuôn hội địa phương là: một bên có tổ chức hẳn hoi và nhân sự đông đảo, một bên là cá nhân tự phát; một bên gây được tiếng vang rầm rộ với báo chí truyền thanh, với lực lượng nhân sĩ trí thức thành phố và những người hoặc những cơ quan có của trong và ngoài nước đóng góp cổ động, một bên là sự im lặng, ẩn nhẫn của những nhà tu chất phác sống lam lũ như những nông dân, chia xẻ với dân quê từng cọng rau, hạt thóc, những niềm đau khổ từ nhỏ đến lớn, và những giọt mồ hôi đổ xuống ruộng đồng quê hương.
Phật giáo không ngăn cản cán bộ lao mình vào công việc cứu tế xã hội, đóng góp thực tiễn cho xã hội. Tất cả những công việc ấy đều là phương cách thể hiện lòng từ bi, rất nên làm. Nhưng phải biết rằng đó không phải là cứu cánh. Trong nỗ lực hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ, người xuất gia Phật giáo không đủ thời giờ để nghĩ đến những cái thực tiễn hơn, ngay cả những cái thực tiễn muốn đời và đầy hấp lực đối với cá nhân con người là lợi danh, tiền tài, vật chất... Trách người tu sĩ Phật giáo không đóng góp cái thực tiễn cho cuộc đời cũng chẳng khác nào đã trách đức Phật Thích Ca chuyện từ bỏ ngai vàng để xuất gia tầm đạo và chứng được tuệ giác, cứu độ khắp chúng sinh! Vương quyền còn vất bỏ, còn coi là phù phiếm, thử hỏi có thứ vật chất hay danh vị nào to lớn hơn hoặc được coi là cao quý hơn để dâng tặng cuộc đời? Đã xem vật chất là phù phiếm thì hẳn là không nghĩ đến chuyện dấn thân vào đời để mang lại lợi ích thực tiễn (được hiểu là niềm vui có đầy đủ vật chất) cho cuộc đời! Những người xuất gia cũng theo gương Phật, từ bỏ gia đình, từ bỏ danh vị, tiền tài, coi thường lợi lạc vật chất, nên cũng trở thành những kẻ vô sản thực sự như đức Phật; và vì biết rằng họ là những người thực sự vô sản, không ai đòi hỏi sự đóng góp thực tiễn của họ. Những người đau khổ của thế gian mong đợi nơi những tăng sĩ Phật giáo những cái gì khác hơn, cao hơn, quí hơn thứ vật chất phù du mà họ có thể nhận được từ bất cứ tổ chức từ thiện xã hội nào.
Có lẽ thầy Thiện Phước, chú Tân, chú Sáng, và một số chú khác bạn học của tôi, đã không nghĩ vậy. Họ muốn làm một cái gì thực tiễn hơn cho cuộc đời bằng con đường nhập thế, và đã tham gia làm việc với chính quyền mới qua những chiếc áo cán bộ, bộ đội, công an... Tôi không dám vội kết luận rằng con đường của họ là sai; nhưng tôi tin rằng thời gian và thực tế sẽ cho họ thấy rằng, không phải con người thế gian chỉ có khát vọng duy nhất là được cơm ăn áo mặc. Người xuất gia Phật giáo có thể đóng góp cho cuộc đời rất nhiều bài học về sự tự kiểm soát thân tâm, tự cứu khổ cho mình. Những thứ đó dĩ nhiên là không ăn được, không mặc được. Nhưng không phải vì vậy mà không thực tế. Không phải vì vậy mà cho là không có đóng góp. Sự đóng góp về tinh thần còn to lớn trăm ngàn lần so với vật chất—mà thực ra, đó không phải là điều có thể đo lường được; và nếu cần đem so đo, có thể nói một cách sòng phẳng như nhân vật Tất Đạt trong cuốn Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh tức sư cô Trí Hải, dịch từ truyện Siddhartha của Hermann Hesse) đã trả lời thương gia Vạn Mỹ khi được hỏi về sự đóng góp của mình cho cuộc đời:
“Mỗi người cho cái mà mình có. Người lính cho sức mạnh, người thương gia cho hàng hóa, người thầy cho kiến thức, người làm ruộng cho lúa, người chài lưới cho cá. ”
Tôi không sợ mình trở thành kẻ vô dụng trên cuộc đời vì thiếu sự đóng góp thực tiễn. Tôi chỉ sợ không đủ trí tuệ và năng lực ý chí để thành tựu con đường xuất gia của mình mà thôi. Dù sao, những thay đổi trên đất nước, những thay đổi từ các thầy, các bạn của mình, cũng phần nào thúc đẩy tôi nỗ lực hơn trong việc tu tập. Trước kia tôi vốn đã siêng năng, nay tôi càng siêng năng hơn, siêng năng đến độ không còn chút thì giờ nào của tôi trong ngày mà nằm ngoài mục đích thiền định, trì tụng kinh chú... Ngay cả những giờ cuốc ruộng hay làm vườn, cũng là những giờ tu tập thiêng liêng của tôi. Huống chi, từ ngày đất nước đổi thay chính quyền và tăng sĩ chúng tôi không đến trường lớp nữa, tôi còn việc làm nào hứng thú hơn trong ngày để bận bịu ngoài chuyện tu tập! Cho nên, hoàn cảnh vừa trở ngại mà cũng vừa thuận lợi ấy quả thực đã khiến tôi không còn cách chọn lựa nào khác hơn là dồn tất cả thì giờ của mình vào một việc. Ừ thì cái mộng đi du học Ấn Độ, Thái Lan hay Nhật Bản cũng tan rồi. Ừ thì chuyện tập tành viết văn làm thơ cũng không còn chỗ dụng, không còn cần thiết nữa. Thì thôi, nhác cuốc này, đôi quang gánh đầy nước này, mỗi bước chân, mỗi giây phút, đều là sự vươn mình hướng đến cội nguồn thanh tịnh ban sơ...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 27 May 2018


Kinh nghiệm của người đi trước cho thấy rằng trong việc tu tập, kẻ nào có thái độ hay khuynh hướng càng cực đoan, thái quá bao nhiêu, càng thất bại bấy nhiêu. Đã có người bị điên vì tu thiền gắt gao mà không đúng phương pháp. Đã có người đổ bệnh nặng nằm liệt giường, không làm được việc gì ngay cả việc niệm Phật. Đã có người đạo mạo nghiêm trang, nghiêm trì giới luật, tu tập không ngừng hở giây phút, vậy mà lại vướng vào ái nghiệp, không thoát ra khỏi, phải hoàn tục lập gia đình... Bao nhiêu chuyện đó, tôi đã từng được quí thầy, quí bạn lớn tuổi hơn, nói lại cho nghe mà không tin. Nhất là cái quan niệm cho rằng càng tu gắt càng bị đổ nghiệp ra, phá hoại đường tu của mình. Tôi không thể tin điều ấy được. Tôi nghĩ, càng tu, nghiệp càng nhẹ mỏng đi thì đúng hơn. Vậy nên, cũng với tâm ý cực đoan sẵn có, tôi lại một lần nữa, lao vào con đường tu tập một cách say mê, cuồng nhiệt... quyết tâm thành tựu sự nghiệp giác ngộ ngay trong hiện kiếp, không cần phải hứa hẹn lần lữa vào kiếp sau.
Tôi đổ bệnh thật.
Dù vậy, tôi vẫn không nghĩ là bị đổ nghiệp ra như người ta nói. Tôi cho rằng chính vì quá chú trọng ở mặt tâm thức, bỏ quên không chăm sóc phần cơ thể mà đâm bệnh. Đó chỉ là phản ứng tác dụng vật lý thông thường chứ không phải đổ nghiệp gì hết. Nhưng bệnh đã kéo đến, thì phải chịu. Tất cả là bốn thứ bệnh nổi lên trong cùng một thời gian.
Buổi sáng hôm đó, tôi và chú Tửu cùng gánh nước giếng đem đổ vào các bồn nhà bếp, nhà cầu như mọi hôm. Tôi kéo gàu từ giếng lên, chú Tửu gánh đi. Khi nào chú Tửu mệt, tôi gánh, chú ấy kéo gàu. Đang lúc kéo một gàu đầy nước, sắp đổ vào đôi gánh của chú Tửu, tôi bỗng trợt chân ở thềm rêu, té nặng, cả người tôi đổ xuống nền xi măng quanh giếng, sẵn gàu nước trên tay, tôi chống xuống nền đất để tránh va đầu và mặt vào nền giếng. Vậy mà mặt và một bên cằm tôi cũng va rất mạnh xuống thềm. Cái gàu múc nước cắt từ đầu bom, bằng gang pha thép rất chắc, đinh đóng vào cũng khó thủng, vậy mà với sức va mạnh từ tay tôi dồn xuống, cũng bị móp đi một cách dễ sợ.
Ngày đó, nguyên một bên hàm phải của tôi bị ê ẩm, đau buốt thấu trong xương, không nhai thức ăn được. Nuốt cháo lỏng cũng khó khăn. Đành nhịn.
Qua một đêm, sáng thức dậy, quai hàm tôi càng nhức nhối hơn. Không những thế, mắt tôi bỗng đổ ghèn, đỏ, xốn xang, khó chịu. Đến trưa, tôi lại phát giác thêm là từ khóe môi trái kéo lên tới cánh mũi, tự dưng lại bị lở loét như bị dời ăn. Chưa hết, không rõ vì phải nhịn đói hay vì lo âu, bệnh cũ của tôi, đau bao tử, tái phát. Những cơn đau quằn quại, xóc cả phần bụng phía trên, khoảng gần ngực. Tôi phải kềm chế bằng cách tập trung tư tưởng vào giữa chặng lông mày để quên cơn đau. Có khi tôi quán tưởng một luồng khí mát mẻ, dễ chịu, đang thấm nhuận khắp người, nhất là vùng bụng. Cơn đau dịu thì tôi ngủ. Chẳng có thuốc men gì để chữa trị. Chú Tửu đề nghị đưa tôi đi bác sĩ. Tôi cười, nói một cách khó khăn vì quai hàm tôi cứng ngắc, không há miệng lớn được:
“Đâu có tiền mà đi bác sĩ.”
“Lên xin tiền Thượng tọa.”
“Không.”
“Chứ để kéo dài như vậy sao?”
“Một vài ngày sẽ hết mà.”
“Bậy. Phải đi bác sĩ. Còn không thì... đến ông Đông y sĩ Như Tấn đi. Chắc ông ấy không tính tiền bọn mình đâu. Ông ấy là cư sĩ tại gia thọ giới Bồ tát mà.”
“Không. Ông ấy chữa bệnh và bán thuốc lấy tiền sinh sống mà.”
“Thì mình trả tiền, cũng rẻ hơn là đi bác sĩ.”
“Không. Tôi không còn tiền.”
“Tôi có. Mượn thêm chút ít nữa là đủ. Không sao đâu.”
“Thôi, không đi đâu.”
“Vậy cạo gió há?”
“Cạo gió?! Tôi đâu có bị trúng gió gì đâu mà cạo!”
“Xì, cạo gió, cắt lễ, xông, không bớt bệnh này cũng bớt bệnh kia mà.”
Tôi phì cười, không chịu. Bọn tăng sinh nghèo như chúng tôi, từ mấy tháng nay, ai bệnh gì cũng chỉ cạo gió, xông, chứ chẳng có thuốc men mà uống. Các hiệu thuốc của tư nhân đã đóng cửa. Còn bác sĩ tây y Phật tử độc nhất thường khám bệnh miễn phí cho chùa đã bỏ đi Sài Gòn hay đi học tập cải tạo mất rồi. Trong chùa hiện nay, thuốc cảm còn khan hiếm nói chi những thuốc trị các bệnh kinh niên hay ngoại thương đặc biệt của tôi. Cho nên, hễ có chú nào bệnh, bất kể bệnh gì, thì chú khác đè cổ xuống mà cạo gió, cắt lễ. Cứ tin tưởng ở khả năng thần diệu của môn cắt lễ, cạo gió—vốn chẳng tốn kém gì lắm mà ai cũng có thể làm được—rồi thì bệnh gì cũng qua hết. Vậy mà cũng có người ghiền cái môn chữa trị này lắm, cứ đòi cạo gió, đòi cắt lễ, dù rằng có khi chỉ bệnh sơ sơ hoặc không bệnh gì cả. Tôi chẳng ham chi mà còn ngán sợ nữa, nên không cho chú Tửu cạo.
Đến ngày thứ ba, hàm tôi tê cứng đến độ không cử động được, cũng không thể nói được một tiếng thì thào nào. Và vì đã nhịn đói ba ngày, người tôi mệt lả, không ngồi dậy nổi. Nằm lì luôn.
Quí thầy, quí chú trong chùa phải ra ruộng hàng ngày. Đến chiều tối họ mới về tới, lo cơm nước rồi tụng thời kinh Tịnh độ. Không ai có thì giờ nhìn ngó đến tôi, ngoại trừ chú Tửu. Chú cũng ra ruộng nhưng lúc nào về tới chùa là lo chăm sóc tôi trước. Nhưng như đã nói, thuốc men không có, cháo cơm tôi không ăn được, chú ấy biết chăm sóc bằng cách nào khác hơn là hỏi han đôi lời, ngồi quạt, hoặc giặt dùm áo quần của tôi. Vậy thôi. Hình như chú ấy có vẻ buồn bực vì hoàn cảnh bất lực của mình trước tình trạng bệnh hoạn của tôi. Thấy chú đang lục soạn đống thư từ, sách vở trong hộc tủ, tôi khều chú, lấy giấy, viết cho chú mấy chữ:
“Tôi và chú đổi giường nằm. Tôi sẽ tự trị bệnh trong ba ngày kế tiếp. Đừng có lo. ”
Chú nhìn tôi ngờ vực. Hình như chú không hiểu tôi đang tính đường nào. Nhưng rồi chú cũng lo dọn giường của chú, mang mùng màn của tôi qua đó. sở dĩ tôi chọn chỗ nằm của chú vì đó là chiếc giường nằm ở cuối phòng, giữa hai cửa sổ, khuất gió, có thể giăng tạm mùng màn để tạo nên một căn phòng, hay một túp lều nhỏ cho tôi ngay trong căn phòng tập thể rộng rinh này. Chùa chúng tôi không có phòng riêng cho cá nhân các chú sa-di trẻ, chỉ có phòng tập thể thôi. Muốn có một chỗ riêng biệt khỏi phiền ai, khỏi ai phiền mình, phải tạm thời dựng lấy một chỗ tương đối kín đáo như vậy.
Tôi gượng gạo cười với cái miệng khô cứng, rồi gắng rời khỏi giường, đi ra buồng tắm và nhà vệ sinh. Chú Tửu bước theo, định dìu tôi. Tôi khoác tay bảo không. Từ phòng tăng đến phòng vệ sinh cũng không xa gì mấy, vậy mà tôi đi cũng khó nhọc, như một cụ già lụm khụm đã tàn hơi sức, bước khập khựng từng bước một.
Trở về chỗ nằm, tôi bật đầu ngồi trì tụng thần chú Chuẩn Đề trong ba ngày ba đêm liên tục. Trong ba ngày đó, tôi cảm nghe thân tâm mình khinh an, nhẹ nhàng, cất lên giữa hư không như một sợi tơ mỏng. Có khi tôi thấy mình là một âm thanh bay vào vô cùng. Trong nhiều giờ liên tục, tôi kinh qua trạng thái nhất tâm bất loạn thường được nói đến trong kinh điển.
Ngày thứ ba, tôi rời khỏi giường, mắt tôi đã hết đỏ, mũi tôi không còn bị lở, miệng tôi đã cử động được, và bụng tôi không còn đau. Tôi cười với chú Tửu, nói vui vẻ:
“Tôi muốn đi dạo.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018

Chương bốn

Chúng tôi cùng ra vườn rau ở phía phải của chánh điện. Khoảnh vườn này rộng hơn hai mẫu tây. Trước năm bảy lăm, chùa cho một gia đình nghèo canh tác, nay người canh tác đã bỏ đi, chùa lấy lại để trồng rau lang và đậu phụng. Đất vườn rất xấu, loại đất cát y như cát dưới bãi biển, chẳng có màu mỡ gì. Mỗi giống rau hay đậu gieo tỉa xuống đều phải có phân chuồng hay phân u-rê thúc vào mới chịu phát triển. Tôi và chú Tửu được đặc trách tưới vườn rau hai mẫu này hàng ngày trong thời gian mới xuống giống. Nay rau, đậu đã lên cao, có củ, có trái, chúng tôi không phải tưới mỗi ngày nữa.
Ở góc vườn có một cái ao sâu do người trong chùa tự đào lấy. Bằng con đường nhỏ lài lài dẫn xuống ao, chúng tôi gánh nước lên để tưới cho cả vườn rau rộng. Đất này cũng lạ, cứ đào đại xuống chừng ba, bốn thước là có nước mạch tuôn ra, tạo thành ao. Ao không rộng lắm, đường kính chỉ độ chừng năm, sáu thước, nhưng có chỗ sâu lút đầu người. Vì ao sâu, nước sạch, lại nằm biệt lập trong khuôn viên chùa, nên có những buổi trưa trời nắng gắt, tôi và chú Tửu không ngăn được ý thích ngâm mình dưới lòng nước mát rượi ấy, và cũng bơi được vòng vòng trong ao như những đứa trẻ chăn trâu vậy. Chỗ đó vắng vẻ, không người qua lại. Thỉnh thoảng quên chuyện oai nghi tế hạnh, làm những ông Phật con tắm ao kể cũng thú vị.
Chúng tôi ngồi xuống trên bờ ao. Nước ao trong vắt. Lâu lâu mới thấy một con chuồn chuồn tinh nghịch làm gợn lên những vòng sóng nhỏ, lan nhanh trên mặt nước.
“Chú hết bệnh, tôi thực là mừng,” chú Tửu nói. Thấy tôi không nói gì, chú tiếp:
“Ngày đầu tiên, thấy chú ngồi mãi trong mùng... tôi thực e ngại. Sợ là đủ thứ bệnh khác lại nổi lên. Có khi tôi nghĩ bậy bạ là chú sẽ ngồi thiền rồi... tịch luôn. Mà sao lại có điều thần diệu như vậy nhỉ? Mấy thứ bệnh, không thuốc trị, tự dưng kéo đi hết. Có phải nhờ chú trì tụng thần chú không? Thần chú nào mà linh quá vậy?”
Tôi chỉ mỉm cười, không trả lời chú Tửu. Mặc dù tôi đã trì tụng thần chú Chuẩn Đề—một trong năm bộ chú thông dụng và nổi tiếng của Mật tông—trong suốt ba ngày đêm vừa qua, nhưng tôi biết rằng, chỉ có sự định tâm, không tạp niệm, mới đem lại những hiệu quả bất ngờ (mà người ta quen gọi là sự linh nghiệm). Có nghĩa rằng nếu tôi trì tụng một câu thần chú khác, hay một câu niệm Phật khác một cách chú tâm trong ba ngày ấy, kết quả cũng y hệt. Điều quan trọng vẫn là sự định tâm, bất loạn. Có điều, câu thần chú Chuẩn Đề tôi đã quen niệm từ nhiều năm, hẳn là dễ đưa tôi đến trạng thái nhất tâm hơn.
“Có một lá thư và một cái điện tín trên bàn, chú đã đọc chưa?”
“Vậy sao? Tôi đâu có để ý. Của ai vậy?”
“Của thầy Thông Chánh, từ Phật học viện Hải Đức Nha Trang. Lá thư đến trước, điện tín đến sau. Điện tín nói thầy Thông Chánh sẽ đến đây trong vòng một, hai ngày nữa.”
“Thiệt sao? Thầy ấy ra chơi hay có việc gì không? À, chắc đọc thư thì biết.”
“Ra thăm xem chú bệnh hoạn làm sao đó mà.”
“Sao chú biết?”
“Thì... thì tại tôi nóng ruột nên gởi thư về Phật học viện Hải Đức báo cho thầy Thông Chánh.”
“Trời ơi, chuyện đó có gì đâu mà phải báo. Chú làm vậy lỡ đến tai gia đình tôi, ba mẹ tôi lo lắng, đâu có ích gì.”
“Thôi lỡ rồi, sau này tôi không làm như vậy nữa. Nhưng phải nói thực rằng lúc thấy chú bệnh mà không thuốc chữa, tôi nóng ruột nóng gan lắm. Chẳng còn cách nào khác hơn là báo về Nha Trang để thầy Thông Chánh hay gia đình chú tìm cách...”
“Cám ơn chú. Chỉ sợ là mất công thầy Thông Chánh phải ra đến đây chỉ để thăm khi mình đã hết bệnh, và bệnh cũng đâu có nặng nề gì lắm đâu!”
“Nặng chứ sao không, xương hàm tê cứng, ê răng không nhai được, miệng không thể há, cả tuần phải nhịn ăn... còn chờ nặng đến cỡ nào mới báo!”
Trở về phòng, bóc lá thư của thầy Thông Chánh ra xem, tôi mới biết rằng thầy ấy dự định ra Hội An đưa tôi về Nha Trang để trị bệnh chứ không phải chỉ ra thăm. Thư cũng cho biết bổn sư của thầy Thông Chánh là Hòa thượng Thích Trí Hữu, vị trụ trì khai sơn chùa Ấn Quang, đã viên tịch. Linh cốt của Hòa thượng đã được đưa ra chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn Non Nước để xây tháp thờ tại đó. Thầy Thông Chánh nhân dịp tháp tùng phái đoàn đưa linh cốt ra Non Nước, ghé chùa Long Tuyền để đưa tôi về Nha Trang.
Nhiều tháng nay, từ khi phải bỏ trường lớp để lao động ruộng vườn, tôi không có thì giờ để bận tâm nghĩ đến Nha Trang và những người thân thuộc của tôi nơi thành phố đẹp và hiền hòa ấy. Tôi không nhớ và cũng không hiểu rõ do đâu mà tôi đã quyết định ở lại, không trở về Nha Trang, khi Phật học viện nơi đây đã giải tán. Hình như quyết định ở lại ấy chỉ là để chứng tỏ tâm chí của mình không bị lung lay bởi hoàn cảnh, thời thế—không phải những người cộng sản kéo vào miền Nam thì cái thằng tôi này kinh hoảng, tất tả bỏ trường, chạy về quê để nương bóng thầy bổn sư, gần gũi gia đình thân thuộc; không phải hoàn cảnh lao động cực nhọc lam lũ, ăn uống cực khổ thiếu thốn ở ngôi chùa Long Tuyền này khiến cho thằng tôi này phải chán ngán bỏ đi... Tóm lại, chuyện tôi không về Nha Trang thực ra đâu có cái gì cao thượng, ý nghĩa, như những bức thư từ Nha Trang gởi ra, khen ngợi.
Đã có một thời tôi được thầy bổn sư gởi đến chùa Linh Phong để học làm việc, học chịu cực khổ. Lúc đó tôi đã học việc một cách miễn cưỡng. Nay tôi tự ý ở lại chùa Long Tuyền, cũng là một cách học việc, mà cũng để chứng tỏ mình đã trưởng thành, sẵn sàng phóng mình vào những lò trui luyện khả năng chịu đựng khổ nhọc. Cái tâm chí ngạo nghễ của đứa con trai mới lớn thường như vậy. Thích gian nan, thích khổ nhọc, để chứng tỏ mức độ trưởng thành của mình. Nay tôi ôn lại những điều đó với một nụ cười nhạt. Tôi thấy không cần phải chứng tỏ với mọi người bất cứ điều gì về thằng tôi này nữa.
Tất cả các chú từ Nha Trang ra Hội An học cùng một khóa với tôi, đều đã trở về từ những ngày đầu của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời. Chú Sáng về Nha Trang trễ hơn các chú khác, nhưng cũng từ hôm tháng sáu, hai tháng sau biến cố ba mươi tháng tư. Bây giờ là tháng mười hai âm lịch, tức là đã qua tháng giêng năm một chín bảy sáu. Có nghĩa là tôi đã sống chín tháng dưới chế độ mới mà chưa nhìn lại được bộ mặt của Nha Trang, chưa thăm lại chùa xưa, thầy bạn cũ và nhất là gia đình ruột thịt của mình trong hoàn cảnh mới của đất nước. Ngay cả chuyện viết thư về Nha Trang tôi còn không giữ được mức độ thường xuyên mỗi tuần một lần như xưa. Có khi hai tháng tôi mới viết về cho gia đình một lần; và ba, bốn tháng mới viết thư cho thầy bổn sư của tôi—thầy Hải Tuệ, và người anh tinh thần hướng dẫn tôi tu học từ lúc mới xuất gia—thầy Thông Chánh.
Bây giờ đọc lá thư của thầy Thông Chánh viết từ Nha Trang, trong trí tôi bỗng hiện lên rõ ràng ngôi chùa Hải Đức trên núi cao, cây cối xanh um, đẹp đẽ... Và bỗng thấy một nỗi niềm gì đó rộn rã, bâng khuâng, dâng lên nhè nhẹ trong lòng. Tôi tưởng tôi đã như một tượng đồng, tượng gỗ, bất động trước hoàn cảnh. Nhưng không phải vậy. Sau ba ngày im lặng chú tâm thiền định và trì tụng kinh chú, tôi như một kẻ mông muội vừa bước ra khỏi cơn mê dài với một tâm hồn và một thể xác dường như là mới mẻ, tinh anh, vui không tả được. Chẳng phải tôi thành Phật thành Thánh gì đâu. Chỉ đơn giản là một con người mới, với tâm tư sảng khoái, nhẹ nhàng và yêu đời hơn. Cho nên, đọc bức thư của thầy Thông Chánh gợi ý là nên trở về Nha Trang, tự dưng tôi thấy là tôi muốn trở về thật. Tôi vẫn thường thích đi đây đi đó, xa cách quê hương chừng nào tốt chừng đó. Nhưng đã xa Nha Trang một thời gian khá lâu rồi, bây giờ tôi nhìn về xứ ấy như nhìn về một thế giới mới lạ, đầy quyến rũ, mời mọc. Một thế giới mới lạ trong cái nhìn mới, của một con người mới trong tôi. Tôi biết tôi không còn thuộc về ngôi chùa Long Tuyền này nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018


Thầy Thông Chánh đến chùa Long Tuyền vào buổi sáng, khi những người trong chùa đều đã ra ruộng. Tôi vẫn còn được dưỡng bệnh trong chùa với vài công tác nhẹ nên đã có nhiều thì giờ để ngồi nói chuyện với thầy ấy. Thầy Thông Chánh có mang theo thư của thầy bổn sư gởi tôi, trong đó kèm một ít tiền xe. Mẹ tôi cũng gởi một lá thư ngắn, hẹn tôi về sẽ nói chuyện nhiều hơn. Cả thầy bổn sư lẫn bên phía gia đình tôi, đều mong tôi. Thầy Thông Chánh cũng khuyên tôi nên về lại Nha Trang. Dĩ nhiên là tôi không từ chối.
Tôi bỏ lại tất cả sách vở, đồ đạc của mình, biếu chú Tửu. Hành lý mang theo của tôi chỉ là tấm y và bộ đồ vạt hò để thay đổi. Vỏn vẹn chỉ có vậy. Có cái gì thật vui thú, sảng khoái trong hành động xách hành lý ra đi, và nhất là hành động bỏ lại tất cả “tài sản" của mình. Có lẽ đây là lần thứ hai trong đời, tôi nhìn rõ được nỗi vui của sự ra đi và buông bỏ. Lần thứ nhất, cách đây cũng chỉ gần sáu năm, lúc tôi trốn nhà đi tu với hai bàn tay không, vứt sách vở vào thùng rác của bến xe đò.
Tuy nhiên, lần này, trong những kinh sách tôi để lại, có bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ Hán tôi chép tay đã hơn hai phần ba, còn dang dở, chú Tửu nói để chú chép tiếp cho trọn và sẽ mang bản kinh gốc trả lại cho chùa Phước Lâm. Đó là công việc nửa chừng duy nhất mà tôi đành phải gác qua, bỏ lại, tại ngôi chùa Long Tuyền này. Điều đó làm cho nỗi vui ra đi của tôi bị giảm đi khá nhiều. Và không hiểu sao, trong nhiều năm, tôi vẫn không quên được rằng có một bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ Hán do tôi chép tay chưa trọn, đã để lại nơi ngôi chùa ấy. Có lẽ trên thực tế cuộc đời cũng vậy, hễ có một nguyện ước không thành thì con người sẽ ngậm ngùi ôm mãi nỗi bất an, buồn lắng, không nói được với ai, không giũ bỏ được, đành chôn sâu ở đáy lòng bằng sự chồng chất của thời gian. Một nguyện ước nhỏ, hay một lời hứa nhỏ mà không giữ được, có thể sẽ khiến tâm chí mình buông lơi, dễ dãi, để rồi không giữ được cái nguyện ước và lời hứa lớn.
Buổi chiều cùng ngày, tôi theo thầy Thông Chánh ra bến xe Hội An, đi Non Nước. Thầy Thông Chánh vẫn còn chút việc phải làm ở đó trước khi đưa tôi về lại Nha Trang. Nghe nói đi Ngũ Hành Sơn Non Nước, tôi càng thích thú. Sau một thời gian làm nông, bây giờ mới có dịp thưởng ngoạn phong cảnh đẹp nhất của xứ Quảng.
Chúng tôi đến Non Nước vào lúc chập choạng tối. Leo tam cấp đến chùa Linh Ứng thì màn đêm cũng vừa buông. Muốn sao rực rỡ giữa tấm màn nhung đen huyền ảo ấy. Lên đến sân chùa rồi, tôi vẫn còn nghe được tiếng sóng biển vỗ lên bờ cát dưới chân núi. Âm thanh có khi như những tiếng gầm thịnh nộ của một hung thần, nhưng cũng thực hùng tráng, ngạo nghễ, và cao thượng đến nỗi tôi có thể cảm được trong đó vẻ diễm lệ, huy hoàng của bộ mặt, của dáng dấp thiên nhiên, hay của một khúc anh hùng ca bất tận mà chỉ thiên nhiên mới là chàng nhạc sĩ duy nhất có thể tấu lên nổi.
Trên chùa đang có ba vị thầy khác từ Sài Gòn ra, cùng ở lại với chúng tôi. Họ đều là đệ tử của Hòa thượng Trí Hữu, tức là huynh đệ đồng môn của thầy Thông Chánh. Quý thầy họp mặt, trò chuyện vui vẻ, luôn tiện bàn việc xây tháp thờ cố Hòa thượng bên hông chùa.
Chùa không đủ chỗ ngủ cho nhiều khách, chúng tôi phải nằm chung trên một bộ ván rộng bằng gỗ lim. Gió từ biển thổi vào cửa sổ khiến cho cái mùng cứ bị thụng vào phía trong, có khi chân mùng hổng lên khỏi chiếu. Chúng tôi phải lấy sách chằn lại. Dù sao, gió mát cũng dễ chịu. Trước khi ngủ, tôi vẫn còn nghe được tiếng sóng biển đập mạnh lên bờ. Hùng tráng, kiêu sa, bất tận. Chưa có đêm không ngủ nào lại thú vị đối với tôi như đêm nay.
Sáng hôm sau, quý thầy đã bắt tay vào việc xây móng cho ngôi tháp. Tôi là một bệnh nhân “con nít” trong mắt quý thầy nên được ở không. Tôi dạo ra phía tam cấp, ngồi trên hàng lan can xây bằng đá, nhìn về hướng biển. Nơi đây quả là lý tưởng để ngồi ngắm trời, ngắm biển. Gió từ hướng khơi lùa vào không ngừng. Tôi có thể nếm được vị mặn và thấy được màu xanh của đại dương qua những làn gió lồng lộng ấy. Địa thế chùa Linh Ứng trên ngọn núi nhỏ này quả là đặc biệt so với các chùa khác mà tôi biết. Khoảng cách giữa chân núi và mặt biển chẳng bao xa. Ngồi ở đầu núi mà tôi còn có thể thấy được những con còng vội vã dấu mình dưới cát hoặc chạy lơn tơn tìm thức ăn mỗi khi sóng rút khỏi bờ. Sương mai hình như vẫn chưa tan hết trên mặt biển rộng. Có lẽ vì mặt trời dù đã lên cao nhưng bị các đám mây dày cộm che khuất đi.
Tôi ngồi chơi một mình như thế khá lâu. Bỗng thấy có hai người tiến đến gần, lên tiếng chào:
“Chào anh.”
Tôi quay lại nhìn. Một anh bộ đội mặc quân phục, và một thiếu nữ mặc đồ bà ba. Tôi chỉ biết thoáng như vậy chứ không nhìn rõ mặt mũi và tuổi tác họ thế nào. Tôi bỡ ngỡ đáp lại:
“Chào anh chị.”
Tưởng vậy là xong, chuyện ai nấy làm. Nhưng không phải. Họ muốn bắt chuyện làm quen với tôi.
Họ xì xầm nói nhỏ với nhau điều gì đó rồi anh bộ đội hướng về tôi, hỏi tiếp:
“Anh đi tu ở chùa này, phải không ạ?”
“Không. Tôi là khách. Tôi ở Nha Trang,” tôi miễn cưỡng trả lời.
“Tôi ngạc nhiên là sao tuổi trẻ như anh lại đi tu nhỉ!” Tôi nhìn về hướng biển. Cảm thấy câu hỏi của anh bộ đội không dính nhập gì đến vẻ thanh cao, lộng lẫy của một ngày mới đang ẩn hiện trên mặt nước xanh thẫm bao la trước mắt. Chuyện đi tu có gì lạ mà phải thắc mắc kìa! Sáu năm xuất gia rồi, chưa có ai gặng hỏi tôi câu đó với vẻ vừa thương hại, vừa mai mỉa như anh bộ đội này. Không, hình như có một lần. Lần ấy, người ta không gặng hỏi nhưng trêu ghẹo với ý mỉa mai như thế. Chuyện đó xảy ra vào một buổi sáng sau ngày bộ đội cộng sản chiếm thành phố Đà Nẵng. Lúc đó, tôi và mấy chú tiểu cùng quê Nha Trang phải đi bộ từ Đà Nẵng về Hội An. Trên đường phố, một đoàn công-voa chở bộ đội cộng sản chạy qua, bị nghẽn lối đâu đó phía trước nên phải chậm lại. Các anh bộ đội trên xe nhìn chúng tôi, chỉ chỏ rồi la lối đủ điều:
“Ê, ăn mặc gì mà luộm thuộm thế!”
“Thầy tu miền Nam đấy, các đồng chí không biết à!”
“Thầy tu mà trẻ thế!”
“Sao lại đi tu hở mấy sư bác, thất tình hay mồ côi mồ cút đây?”
Chúng tôi im lặng bước đi, nhưng chú Cửu kéo tay tôi, sợ hãi:
“Coi chừng, họ bắn mình kìa!”
Tôi quay đầu nhìn lên phía mấy anh bộ đội, thấy một anh cầm súng hùng hổ như định bắn chúng tôi. Không biết anh hăm dọa đùa hay thật mà những anh bộ đội đứng kế bên chận lại, níu tay níu chân, ngăn cản dữ lắm. Bọn tiểu chúng tôi không làm gì sai trái nên chẳng sợ ai bắn mình. Nhưng trong lòng cũng không khỏi buồn đôi chút vì bị nhìn như những đối tượng “phải bắn bỏ”. Có lẽ trong mắt người cộng sản, tu sĩ chúng tôi là những kẻ vô dụng, trốn chạy nghĩa vụ công dân...
Bây giờ, anh bộ đội và thiếu nữ kia cũng nêu câu hỏi tương tự. Tuy lời lẽ và cách hỏi lịch sự hơn, nhưng ý nghĩa vẫn là thế. Họ không chấp nhận được sự kiện xuất gia của những người trẻ tuổi. Tuổi trẻ đối với họ, là phải xăn tay đóng góp cho đất nước những công tác “cụ thể, thực tiễn”. Những cái cụ thể và thực tiễn ấy không thể được tìm thấy trong lời kinh tiếng kệ, trong lời cầu nguyện, hay trong sự quán tưởng, định tâm, sám hối, tu sửa thân tâm, hoàn thiện nhân cách, dẹp trừ bản ngã... ít nhất, những điều cụ thể phải được người khác nhìn thấy, sờ mó, hoặc có thể nhai nuốt, hay nhét được vào túi áo, túi quần...
Tôi im lặng không đối đáp gì với anh bộ đội. Một phần vì câu nói của anh không hẳn là một câu hỏi yêu cầu trả lời; phần khác, tôi thấy tôi không có bổn phận phải giải thích chuyện xuất gia của mình cho những người lạ, những người luôn nghĩ rằng mình cao thượng, đúng hết, biết hết...
Tôi nhìn ra biển khơi. Nước bây giờ đã mất màu xanh thẫm, đang chóa lên ánh nắng mai như một tấm lụa hoàng kim rực rỡ. Có con hải âu từ cao đâm mình xuống nước bắt mồi rồi bay vút lên không, liệng một vòng trước khi bay vào bãi, đáp xuống mô cát vắng. Bãi biển Non Nước không phải là bãi biển có nhiều người tắm và dạo chơi như bãi biển Nha Trang. Dọc suốt chiều dài của bãi chỉ là cát và cát. Xa xa mới có vài người đang kéo lưới. Một chiếc thuyền chài nhỏ tấp vào gần đó. Biển buổi sớm đầy nắng mà lại vắng người như vậy.
Thiếu nữ kia thúc đẩy gì đó khiến anh bộ đội lại lên tiếng:
“Anh trẻ thế mà đi tu, ắt là có vấn đề gì với cuộc đời đấy nhỉ!”
Tôi quay lại nhìn họ một thoáng, đáp họ bằng một nụ cười. Rồi tôi cáo từ họ bằng một tay đưa lên, tỏ ý không muốn nói chuyện vừa là để xin lỗi. Tôi rời chỗ, rảo bước vào trong chùa. Không phải là tôi có thành kiến gì với họ. Tôi chỉ cảm thấy rằng cái khoảng cách giữa họ và tôi không thể nào làm cho xích gần lại với nhau được bằng vài câu trao đổi. Và, vài câu trao đổi như thế phỏng có ích gì cho đôi bên! Chỉ đưa đến ngộ nhận, hiểu lầm thêm thì có. Thôi thì im lặng, cười. Ai hiểu sao cũng được. Tôi nghĩ lúc đó tôi có cố gắng giải thích gì thì cũng chỉ đưa đến tranh luận, mà tôi vốn là loại người không bao giờ ham thích chi chuyện tranh luận cả.
Vào trong sân chùa, tôi đi vòng ra phía hông chánh điện để xem quý thầy lo việc xây tháp. Thầy Thông Chánh bảo tôi vào trong nghỉ ngơi cho khỏe. Tôi quay trở vào sân chùa thì anh bộ đội và thiếu nữ khi nãy cũng vào đến. Họ đứng ở sân như chờ đợi tôi. Tôi vào ngồi ở dãy trai đường (nhà ăn) phía sau chánh điện. Anh bộ đội và thiếu nữ cũng theo tới, tự động ngồi vào hàng ghế đối diện chỗ tôi. Cái chuyện tự động ngồi chẳng ai mời này tôi mới chứng kiến lần đầu tiên. Anh bộ đội lại tiếp tục hỏi tôi với vẻ mặt đầy mỉa mai, khiêu khích, trong khi thiếu nữ kia thì cứ nhoẻn miệng cười như muốn tán trợ một cuộc tranh biện kỳ thú mà cô nghĩ rằng người yêu bộ đội của cô với biện chứng duy vật, với chủ thuyết Mác-Lê vô địch và bao bài học chính trị thuộc lòng không thiếu một chữ, hẳn là sẽ nắm phần thắng.
“Thôi thì anh không muốn trả lời chuyện riêng tư của anh. Nhưng anh có thể cho tôi biết rằng có phải anh tin có ông Phật thực sự nằm ở trong bức tranh kia chăng?” Vừa nói, anh bộ đội vừa trỏ vào bức tranh Phật nơi bàn thờ nhỏ ở giữa trai đường.
Tôi chỉ thấy buồn cười, muốn đứng dậy bỏ đi, vào trong mà nằm nghỉ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, nếu từ chối nói chuyện thì hóa ra sẽ không có cơ hội nào để giải thích cho họ hiểu, làm giảm đi thành kiến của họ đối với các tu sĩ Phật giáo; cho nên tôi có ý định mở miệng trả lời. Vừa lúc đó, thầy Thông Chánh bước vào, cắt ngang ngay:
“Gì vậy chú Khang? Sao không vào nghỉ ngơi mà còn ngồi đây?”
Anh bộ đội khẽ gật chào thầy Thông Chánh rồi với vẻ tự mãn có thừa, anh chuyển đối tượng, tấn công thầy Thông Chánh ngay:
“A, tôi có thắc mắc muốn hỏi anh nầy rằng có phải các anh tin tưởng một ông Phật nằm ở trong bức tranh kia không. Hẳn là phải tin, đứng không? Vì tin nên mới thiết lập bàn thờ như thế.”
Thầy Thông Chánh mỉm cười nói, giọng rất vui vẻ:
“Vậy chứ quý vị có tin có ông Hồ Chí Minh trong bức ảnh mà quý vị thường lộng kiếng treo trong nhà hay trong các cơ quan nhà nước không nhỉ?”
“Ô, ảnh Bác Hồ đấy à. Chuyện khác nhau chứ. Treo ảnh Bác là để tưởng nhớ công ơn, sự nghiệp của Bác chứ không phải là chúng tôi tin có Bác ngự ở trong ảnh ấy.”
“Chúng tôi cũng vậy. Thờ Phật là để tưởng niệm công ơn của Phật, và để hàng ngày nhìn thấy mà tự nhắc nhở mình noi gương tốt của Phật, chứ không phải là mê tín có một đức Phật ngồi trong ảnh. Cũng là một hình thức của sự tưởng nhớ thôi, thưa quý vị.”
“Nếu cũng là sự tưởng nhớ thôi thì sao chúng ta lại không treo ảnh Bác Hồ nhỉ? Bác Hồ yêu nước, đóng góp rất nhiều cho đất nước, nêu gương tốt cho nhân dân mọi tầng lớp, thế thì tại sao chúng ta không tôn thờ Bác Hồ Việt Nam của chúng ta lại đi thờ ông Phật của một nước khác. Bác Hồ cũng giống ông Phật chứ có khác gì đâu mà phải cất công rước ông Phật từ ngoại bang đem về để thờ!”
“Tại quý vị mới đọc được có sách của “Bác” và sách do nhà nước in thôi, chứ chưa đọc được sách nào khác nên không thấy được sự sai khác giữa một nhà cách mạng dân tộc với một giáo chủ sáng lập một tôn giáo của nhân loại.
Nếu quý vị có cơ hội đọc nhiều sách của các nước, các dân tộc, các tôn giáo, các chủ thuyết, triết học khác... hẳn là quý vị sẽ còn muốn tưởng nhớ và tôn thờ nhiều vị khác nữa chứ không phải chỉ riêng ông Hồ Việt Nam của quý vị đâu. Trên thế giới còn có biết bao nhiêu người vĩ đại, đáng tôn quí. Những bậc vĩ nhân, hiền triết đó là của nhân loại chứ không phải của riêng nước nào. Nếu ông Hồ Chí Minh của quý vị xứng đáng cho các nước khác tôn thờ, chắc quý vị cũng hãnh diện, cũng mừng, chứ đâu muốn ngăn cản người ta tôn thờ, phải không? Như vậy, Phật dù là người Ấn Độ, nhưng quá siêu tuyệt thì nhân dân các nước làm sao khỏi tôn sùng, ngưỡng mộ. Mà trên thực tế, ông Hồ Chí Minh trong mắt quý vị là một người có công với đất nước, nên quý vị nhớ ơn và cho rằng đất nước này phải nhớ ơn; nhưng có dân nào, nước nào khác biết đến Hồ Chí Minh là ai đâu. Trong khi đó, Phật là một người Ấn Độ nhưng cả thế giới đều biết, và trải qua hai mươi lăm thế kỷ rồi, và sẽ còn nhiều thiên niên kỷ nữa, nhiều người trong nhiều nước vẫn còn xưng tụng, tôn thờ Phật. Đó là chỗ khác nhau, quý vị phải thấy chứ. Ở những đất nước không có chiến tranh, người ta đâu có tôn thờ chiến sĩ cách mạng. Nhân dân Việt Nam chúng ta vì phải bị chìm ngập trong chiến tranh liên tục cả ngàn năm nên chỉ biết tôn thờ và hãnh diện với những chiến công, những chiến sĩ anh dũng, những con số thương vong tử nạn của phe địch... Thực ra, chiến sĩ cách mạng thường chỉ có mỗi một đức tính anh hùng để được ca tụng thôi. Mà tính anh hùng, chỉ là một hạt cát trong sa mạc đức hạnh của một vị Phật, một con người đã hoàn toàn giác ngộ, không còn say đắm bất cứ thứ dục lạc nào của thế gian. Đó là chưa kể đến tính anh hùng cũng có rất nhiều mức độ, nhiều loại khác nhau, tùy theo trường hợp và quan niệm riêng của mỗi dân tộc, mỗi thời đại, chứ không phải cứ xông ra trận địa thì mới là anh hùng. Cũng không phải chiến thắng thì tất nhiên phải là anh hùng. Chẳng hạn, đức Phật của chúng tôi có nói: “Thắng một vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.” Bao nhiêu đó cũng đủ thấy khác nhau xa lắm rồi. Cho nên, nói ông Hồ Chí Minh y hệt như Phật thì chẳng khác gì đem đom đóm mà so với mặt trời. Đom đóm cũng phát ánh sáng, mặt trời cũng phát ánh sáng, nhưng khác nhau đấy chứ!”
Anh bộ đội tím cả mặt mày. Ngồi cười gượng gạo một lúc, chẳng biết nói gì thêm. Thấy không khí có vẻ căng thẳng, thầy Thông Chánh cười nói:
“Quý vị đã viếng cảnh chưa? ở đây có nhiều hang động thiên nhiên đẹp lắm. Cứ dạo chơi, khi nào khát nước thì ghé vào đây, chúng tôi có nước mưa, uống mát và ngọt lắm.”
Anh bộ đội gật gù rồi đứng dậy, kéo thiếu nữ kia đi. Tôi nhìn theo thấy anh đi lảo đảo như người bị thương. Cũng may là thầy Thông Chánh nói chuyện với họ bằng giọng nói và điệu bộ vui vẻ, cởi mở, nên đã không có gì đáng tiếc xảy ra. Tính về tuổi tác thì thầy Thông Chánh và anh bộ đội kia có lẽ là xấp xỉ nhau. Đâu chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi là cao. Nhưng giữa hai chàng thanh niên Việt Nam đó, quả là có một khoảng cách ghê gớm ở nhân sinh quan, ở lý tưởng và sứ mệnh riêng của mỗi người. Họ sinh cùng thế hệ mà còn vậy, nói chi giữa thế hệ của họ đối với thế hệ của tôi, hay giữa một người bộ đội miền Bắc đối với bản thân tôi—một chú tiểu mới lớn, làm người dân thuần túy chưa tham gia trực tiếp vào cuộc chơi chiến tranh ý thức hệ của hai miền Nam Bắc.
Nếu không có thầy Thông Chánh đến nói chuyện với họ, tôi không biết lối giải thích của tôi sẽ dẫn cuộc nói chuyện đến đâu. Dù rằng những câu hỏi ấu trĩ chứng tỏ trình độ nông cạn của anh bộ đội kia chẳng có gì hóc búa, đòi hỏi trình độ lý luận cao, nhưng tôi vốn không phải là người có khoa ăn nói, có thể tôi sẽ khiến cho câu chuyện dây dưa, kéo dài. Những gì tôi có thể nói được, thường là để làm vui lòng kẻ khác, giải thích thỏa đáng cho kẻ khác hơn là để đánh bại họ. Nói theo cách đó cần phải có thời gian. Tôi thầm cám ơn thầy Thông Chánh đã kết thúc được cuộc nói chuyện ấy một cách ngắn gọn. Nhưng chỉ một lúc sau đó, tôi bỗng cảm thấy thương cảm cho anh bộ đội ấy. Không ai trên đời đáng thương cho bằng một kẻ vô minh mà lúc nào cũng tưởng mình sáng suốt. Tôi buột miệng thốt lên:
“Cũng tội nghiệp cho họ.”
Thầy Thông Chánh nối lời tôi:
“Ừ, tội nghiệp. Họ sinh ra và lớn lên trong môi trường như vậy nên họ phải trở thành những người như vậy. Họ không được may mắn như mình mà họ tưởng họ may mắn hơn. Họ chỉ biết một chuyện mà họ nghĩ họ biết hết...”
Tôi vẫn thường có thói quen từ nhỏ đến giờ là hay buồn vào lúc ngủ trưa mới thức dậy; nhất là những lúc thức dậy mà rảnh rỗi không có việc gì để làm. Chẳng hiểu vì sao. Tôi chưa tìm được giải đáp cho cái thói quen ấy. Chỉ cảm thấy buồn lặng trong lòng mỗi trưa thức dậy thấy nắng vàng hanh ngoài ngõ, hay nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà. Bất cứ tiếng động nào, cảnh vật nào, cũng đều gợi lên nỗi buồn mênh mang trong tôi vào cái giấc ngủ trưa mới thức dậy ấy. Giống như người bị bỏ lại sân ga vì đi trễ một chuyến tàu, mà chuyến tàu ấy là chuyến tàu quan trọng đưa hắn đến một nơi nào đó rất vui thú, để gặp một người nào đó rất thân thương. Không, chắc không phải chỉ có vậy. Nỗi buồn còn to lớn hơn. Hình như đó là cảm giác lo âu và thất vọng vì dã không làm được gì ý nghĩa, không làm được gì đáng làm, khi thời gian chảy trôi từng giây từng phút ở bên ngoài. Và hình như đó cũng là nỗi buồn nhớ da diết của một kẻ mồ côi lang bạt kỳ hồ từ thuở nhỏ, chẳng biết quê hương chòm xóm của mình thực sự ở đâu, chẳng tưởng được mặt mũi cha mẹ và người thân như thế nào, chỉ thấy nhớ, nhớ, và nhớ...
Buổi trưa thức dậy ở ngôi chùa trên núi. Tôi nằm im một lúc thật lâu trên bộ ván gỗ sục tìm cái gì đã mất, đã quên... khiến cho tâm hồn phải quặn lên từng hồi như vậy. Tôi không tìm thấy gì cả. Chỉ nghe thật rõ tiếng ồn ào của nhiều người ngoài sân chùa. Tiếng cười nói càng rộn bao nhiêu, lòng tôi càng chùng xuống bấy nhiêu. Tôi bước ra xem, thấy một tốp rất đông các đoàn sinh Gia Đình Phật Tử đến sinh hoạt ngoài trời. Các em thanh thiếu niên nam nữ đang vây quanh một anh huynh trưởng ở giữa vòng. Anh thổi còi bày nhiều trò chơi rất sôi nổi, thú vị. Tôi đứng nhìn một lúc thì bao nỗi buồn khi nãy tan biến. Tôi vui lây theo nụ cười của những người trẻ tuổi thế tục. Thế giới tươi vui ấy tôi đã không có được từ lúc vào chùa xuất gia. Lâu nay tôi không thèm để ý đến, cho đó chỉ là những trò chơi trẻ nít, vô nghĩa đối với con đường xuất gia. Bây giờ, đã trưởng thành hơn một chút, tự dưng tôi lại thấy có chút nuối tiếc ân hận nào đó. Tôi không ân hận chuyện xuất gia, nhưng lại tiếc đã không được vui chơi trọn vẹn với tuổi xanh của mình. Tôi tự hỏi: “Tại sao hồi nhỏ mình không xin ba me cho vào Gia Đình Phật Tử kìa?”, “Tại sao mình phải đi tu từ lúc nhỏ, sao không chờ lớn lên rồi hãy đi tu, chẳng hạn đi tu lúc mười bảy tuổi như bây giờ?”
“Sao, thức dậy rồi hả? Ngủ ngon không?” thầy Thông Chánh từ phía hông chùa bước vào hỏi.
Tôi giật mình quay lại, lúng búng nói:
“Dạ, ngủ cũng được một giấc thì nghe ồn...”
Nhìn vẻ mặt của tôi lúc đó, có lẽ thầy Thông Chánh đã đoán được phần nào tâm sự của tôi. Thầy nói:
“Họ chơi vui quá hả?”
“Dạ, thấy vui.”
“Hồi nhỏ chú Khang có vào Gia Đình Phật Tử không?”
“Dạ không.”
“Cho nên bây giờ thấy tiếc phải không?”
“Đâu có, đâu có tiếc.”
Chúng tôi im lặng quan sát những trò chơi. Có khoảng hơn ba chục thanh thiếu niên nam nữ tuổi từ bảy, tám đến hai mươi. Huynh trương cao tuổi nhất đâu chừng hai mươi bảy, hai mươi tám, ngang với thầy Thông Chánh. Anh ấy điều khiển trò chơi thật linh động, hào hứng. Tôi đang mê say quan sát thì thầy Thông Chánh tiếp, giọng thầy có vẻ nửa đùa nửa thật:
“Ở những tiệc vui của cuộc đời, chúng ta chỉ thấy những nụ cười, chỉ thấy vẻ thanh lịch đẹp đẽ nhất mà những người dự tiệc mang đến. Chúng ta không thấy được cuộc sống riêng lẻ của từng người ở ngoài bữa tiệc ấy. Khi những người này rời sinh hoạt Gia Đình Phật Tử trở về nhà, họ cũng có những nỗi khổ, hoặc những gì rất buồn tẻ, rất chán, chờ đón họ... À, chú thấy anh huynh trưởng đứng giữa vòng không? Nhìn mặt có thấy quen không? Nhớ lại thử xem? Không nhớ à. Kìa, nhìn bức tranh treo nơi cột.”
Tôi nhìn về hướng thầy Thông Chánh trỏ, thấy bức hình trắng đen, lộng kiếng mà hôm qua, tôi đã được xem, được giải thích rồi. Trong hình là một tu sĩ Phật giáo đang ngồi xếp bằng giữa đường lộ, đem thân mình để ngăn chặn mấy chiếc xe tăng đang chạy tới. Thầy Thông Chánh nói bức tranh đó do một ký giả ngoại quốc chụp, đăng trên báo Time của Mỹ. Chuyện xảy ra năm một chín sáu sáu, khi ông Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh quân đội tấn công, bắn đại bác vào một số chùa chiền ở Đà Nẵng. Vị tu sĩ ngồi thiền cản đường xe tăng ấy, pháp danh là Chánh Trí, chính là anh huynh trưởng đang hướng dẫn Gia Đình Phật Tử ngoài sân. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa bùi ngùi nhìn vị huynh trưởng ấy. Thầy Thông Chánh nói tiếp:
“Anh ấy hoàn tục trước một chín bảy lăm. Lăn lộn với đời để tìm những ý nghĩa, những mục tiêu khác mà anh cho là đẹp hơn, thiết thực hơn những gì anh đã làm trong chùa. Nhưng cuối cùng anh cũng chán chường, thất vọng, biết việc hoàn tục của mình là sai lầm, muốn quay trở về với chùa mà hoàn cảnh gia đình níu kéo, không thực hiện được. Đành vào Gia Đình Phật Tử làm người anh cả hướng dẫn các thế hệ sau học đạo. Đời anh ấy từ lúc hoàn tục, phải trải nhiều hệ lụy đau khổ lắm. Bây giờ gắng gượng tìm vui trong việc hướng dẫn đàn em sinh hoạt...”
Tôi nghe chuyện đó bỗng đổ mồ hôi khắp người. Phải, thầy Thông Chánh nói phải. Thế gian giống như một tiệc vui mà ai cũng muốn tham dự. Nhưng không có tiệc vui nào kéo dài.
Dù thầy Thông Chánh không cho, tôi cũng đòi theo thầy xuống núi vác đá lên chùa để xây tháp. Tôi chưa hoàn toàn lại sức nên chỉ vác được vài ba tảng đá nhỏ mỗi tảng nặng chừng mười kí-lô cũng đã mệt lử. Cũng có thể vì dốc núi cao quá, đi lên đi xuống với hai tay không cũng thấy mệt, nói chi vác đá trên vai.
Buổi tối vào mùng, tôi không còn nghe được tiếng sóng biển ì ầm đập vào bãi. Tôi mệt và ngủ rất sớm. Trong mộng, tôi thấy có nhiều thiếu nữ rượt đuổi tôi trên bãi biển dậy sóng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018

Chương năm

Ngôi tháp của Hòa thượng Trí Hữu chỉ mới được hoàn tất ở phần móng và thân tháp, chưa tô nước xi-măng láng, phết vôi, viết câu đối... Phần việc còn lại ấy sẽ do thầy đương kim trụ trì, cũng là một đệ tử của Hòa thượng, đảm nhận. Vậy là chúng tôi lên đường, không nấn ná thêm ngày nào dù rằng mấy ngày ở Non Nước kể cũng thú vị. Ngoài ra, vì cũng đã cuối năm âm lịch, thầy Thông Chánh cần phải có mặt tại Nha Trang trước Tết để phụ lo dọn dẹp, làm vệ sinh quanh núi cùng quý thầy khác ở chùa Hải Đức như mọi năm.
Qua cửa sổ của xe đò, tôi sung sướng nhìn ngắm cảnh đẹp quê hương. Dãy Trường sơn hùng vĩ ẩn hiện ở trời tây sau những lớp sương dày buổi sáng. Sát ven quốc lộ, thỉnh thoảng lại mọc lên một túp lều tranh hay một dãy nhà san sát tụm lại với nhau tạo thành một khu phố chợ nhỏ cho vùng thôn dã. Còn lại là những cánh đồng bát ngát, trùng điệp nối nhau, dọc suốt con đường xuôi nam. Đất trời quê hương khi nghĩ đến, tôi thường có ngay trong đầu hình ảnh của những đám ruộng bao la ấy. Tôi đã từng ngắm cảnh ruộng đồng như vậy trong những chuyến đi xa, từ Nha Trang vào Thành, Cam Ranh, Phan Rang, hay từ Nha Trang ra Hội An, Đà Nẵng, Huế... Vậy mà lần nào nhìn lại, ngắm lại, cũng thấy đẹp, thấy rộn rã một nỗi yêu thương thế nào đó rất sâu, rất thấm. Dường như chỉ có màu xanh lá mạ và màu xanh da trời khi cùng được trải dài theo chiều ngang của tầm mắt mới phản hiện được sự kết hợp hài hòa nhất giữa đất trời mênh mông, ừ thì cũng là đồng lúa xanh dưới vòm trời biếc mà tôi thường cùng chú Tửu đi “coi nước” từ lúc mới cấy—tức là trông coi nước trong ruộng có đầy đủ không—; cũng là những ngọn mạ xanh tươi mà tôi từng học cấy, học gặt, học đập, học suốt, học phơi, học cào, học đãi, học sàng... vào mùa gặt. Đồng ruộng nơi đâu cũng một vẻ như nhau thôi. Nhưng bây giờ, những khoảnh ruộng xanh ngát hai bên đường hiển hiện trước mắt tôi một vẻ đẹp khác hơn. Quyện theo sắc màu mềm mại óng mướt của những ngọn lúa, tôi còn thấy được rõ ràng cả tình yêu và sức sống của người dân nước tôi.
Bao nhiêu bom đạn chiến tranh đã rơi xuống đất này. Bao nhiêu người dân vô tội đã ngã xuống ruộng này. Mồ hôi và máu của họ đổ ra cho niềm hy vọng một ngày mai tươi sáng của quê hương. Họ không có những ước mơ to lớn như nhà lầu, xe hơi, danh vọng, tiền tài, chức tước... Họ chỉ mong mỏi bom đạn đừng rơi nữa và dân một nước hãy chung sống hòa bình với nhau, bám lấy đất này, vun bồi đất này mà sống. Bây giờ, chiến tranh đã kết thúc—vâng, nói như thầy Thiện Phước: chiến tranh đã chấm dứt—nhưng đất nước hai miền bây giờ đồng lúc, phải bị dẫn dắt vào một cuộc phiêu lưu hoang tưởng khác. Cuộc phiêu lưu ấy vốn đã chẳng mang lại gì tốt đẹp, an vui cho một nửa phần đất phía trên, nay lại bức hiếp luôn cả nửa phần còn lại phải dấn vào. Nó còn khiến người dân bất an, sợ hãi hơn cả tiếng bom rơi, đạn nổ của thời chiến tranh. Nhìn đất mộng, nhìn những bác nông phu thay trâu kéo cày, những người đàn bà lom khom cấy mạ... tự dưng tôi thấy ấm ức trong lòng một điều gì đó. Điều này tôi sẽ không nói được với ai, ngay cả với thầy Thông Chánh, người anh tinh thần rất thân rất quý của tôi. Tôi chỉ biết nghẹn và thực sự muốn khóc. Tôi không ngờ lúc này tôi lại mẫn cảm như vậy. Mấy tháng trước tâm tôi như gỗ đá đến độ tôi có thể tưởng được rằng tám gió có thổi cũng chẳng lay động gì (bát phong xuy bất động: tám ngọn gió thổi không bị động tâm. Tám ngọn gió ấy là được và mất, phỉ báng và ca tụng, khen và chê, vui và buồn)! Có lẽ sau cơn bệnh, sau một cơn dằn xóc cả tinh thần lẫn thể xác, tôi đã mất đi phần nào sự tự chủ. Cũng có thể là, theo cách nói của thế gian, tôi đã bắt đầu bước vào giai đoạn đẹp đẽ nhất của đời người, qua đó, bao yêu thương và khát vọng tuổi trẻ đâm chồi nẩy lộc mạnh mẽ, sung mãn, tự do, không sức nào ngăn trở nổi...
Chúng tôi về đến Nha Trang vào lúc nắng chiều đã tím cả chân trời phía tây. Leo đến bậc cấp chót của chùa Hải Đức thì đèn điện trong chùa đã thắp cả rồi. Chúng tôi cùng đến bái thầy Hải Tuệ, vị bổn sư của tôi.
“Mới về tới hả?”
“Dạ.”
“Thôi, xuống dưới tắm rửa, cơm nước gì đi cho khỏe, ngày mai ngày mốt hãy nói chuyện.”
Tôi lui được vài bước thì thầy Hải Tuệ gọi giật lại, hỏi: “Đã ăn uống bình thường lại được chưa?”
“Dạ, bình thường rồi ạ.”
Thầy im một lúc rồi nói:
“Không có gì phải vội vã. Cái thường hằng thì không có mất đâu mà sợ, mà lo tìm gấp.”
Tôi theo thầy Thông Chánh bước xuống nhà ăn, vừa bước đi vừa tự hỏi tại sao thầy tôi có thể đoán được những nỗ lực tinh thần của tôi trong việc tu tập. Phải chăng người xuất gia nào cũng trải qua giai đoạn đó trong tuổi thanh niên của mình? Và phải chăng vị thầy nào trước đây cũng đã từng đổ bệnh, từng sống chết với sự định tâm, nỗ lực truy tìm chân lý... rồi trở thành một con người mới, như tôi hôm nay? Con người mới sẽ là một con người rất bình thường, sống ở chùa như cây cỏ mọc trên rừng, không cần bày biện những lý tưởng cao xa hay những mục tiêu to lớn nào hết. Cứ hít thở không khí lành mạnh, cứ làm tất cả những công việc chay tịnh ở chùa là tự dưng sẽ đến mục tiêu, sẽ đạt lý tưởng, có thể hôm nay, có thể ngày mai ngày mốt, hay một ngày không tên nào đó, không cần phải nỗ lực tìm kiếm, không cần phải hăm hở ngày một ngày hai lo đào bới công án, thoại đầu để thành Phật thành Thánh lập tức.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018


Nhân sự của nhà bếp hồi trước năm một chín bảy lăm hùng hậu lắm. Nay chỉ còn có cô Bảy và chú Đông. Cô Bảy nấu ăn, chú Đông rửa chén. Ngoài ra, có một công việc rất nặng nhọc là bỗ củi do thầy Huệ An đảm trách. Như vậy, kể luôn thầy ấy vào nhóm nhân sự nhà bếp, vị chi ba người.
Cái lò nấu của viện là loại lò đặc biệt do viện thuê một kiến trúc sư vẽ kiểu, vì viện cần một loại bếp qui mô để nấu ăn cho tập thể đông người. Lò nấu trông như một cái bệ, đúc bằng gạch, tô xi-măng, chia làm hai phía bởi một ống khói vuông lớn cao vút khỏi mái nhà; mỗi phía có ba lò, vị chi là sáu lò, mỗi lò có diện tích gần một mét vuông; mỗi lò lại có tám vĩ sắt nặng chồng, lắp lên nhau theo thứ tự từ lớn đến nhỏ như các vòng của hồng tâm, khi nấu nồi lớn thì lấy bớt các vĩ sắt nhỏ ở khoảng giữa ra, khi nấu nồi nhỏ thì lắp các vĩ lớn vào cho vừa với kích thước của đáy nồi đang sử dụng. Tám vĩ sắt với tám kích thước khác nhau như thế cho phép người ta nấu bất cứ loại nồi hay chảo nào. Phía dưới hai cái lò nằm ở giữa có một khung hổng để đun củi, và củi này thường là loại củi lớn mới đủ sức nung nóng cho cả ba lò. Nếu muốn lửa tập trung nơi lò giữa thì ngăn hai lỗ thông hai bên bằng hai tấm vỉ sắt. Chính vì cái kiến trúc đồ sộ đó mà việc bỗ củi đòi hỏi nhiều công sức. Trước năm bảy lăm, có trên hai trăm thầy học tăng trẻ ở đây, chuyện bỗ củi cung ứng cho nhà bếp được chia phiên cho những thầy mạnh khỏe và quen việc. Nay viện chỉ còn trên dưới hai mươi người phải chia nhau nhiều công tác khác nên không đủ người để cáng đáng công việc này nữa. May mà có thầy Huệ An tự nguyện nhận lấy, làm một mình, suốt ngày, từ tháng này sang tháng nọ.
Thầy Huệ An gốc người Nam, chẳng rõ tỉnh nào. Người thấp, lưng hơi khòm. Hai vai, một xệ xuống, một kéo lên, lúc đi thì chỉ có một tay trái đánh đàng xa, còn tay phải thả lỏng xuống, bất động xuôi theo thân hình. Chẳng phải bị tật nguyền gì, chỉ tại thầy quen như vậy. Thầy có đôi mắt lộ, sáng quắc. Thường cười nói vui vẻ với mọi người. Khi cười thì cười sang sảng với từng chuỗi dài, bất kể giờ giấc nào, nhưng cũng có khi thầy im lặng suốt ngày, chẳng nói năng gì, trông như là đang giận hờn ai. Có người hỏi tới thì trợn mắt, lầm lì bỏ đi. Nhưng thực ra thì thầy chẳng bao giờ hờn giận ai cả. Tánh tình bất nhất, khó hiểu như vậy nên có người cứ tưởng là thầy bị “mát giây” hay bịnh tâm thần chi đó. Hôm nay, sau mấy năm đi xa gặp lại thầy dưới bếp, tôi hơi ngạc nhiên vì cách ăn bận của thầy. Cứ tưởng là một anh lính nào đến chùa làm công quả. Đầu thầy đội mũ cát-két, loại của địa phương quân. Chân mang giầy lính. Áo may-ô ngắn tay nhớp nhúa đẫm mồ hôi. Quần ka-ki rằn ri, lại là của quân đội. Tôi nghĩ, có lẽ vì công việc bỗ củi đòi hỏi như vậy, chứ cứ mặc những quần áo vạt hò mỏng manh của nhà tu thì làm sao chịu nổi, rách nát hết thì lấy tiền đâu mà may. Trước năm bảy lăm, dù học tăng có xăn tay làm công tác gì cũng phải giữ áo quần tươm tất, không vì công việc mà mất oai nghi thể diện của tập thể. Nếu có mặc may-ô để bỗ củi thì cũng ở chỗ khuất chứ không phải đi nghinh ngang dưới bếp—nơi thường có Phật tử qua lại hay tụ tập đông nhất. Từ sau năm bảy lăm, hình như những luật tắc oai nghi của nhà chùa cũng theo hoàn cảnh lao động tay chân của người dân cả nước mà nới lỏng ra. Chẳng ai chấp nhất chuyện một tăng sĩ mặc đồ nửa tăng nửa tục hay hoàn toàn thế tục như cách ăn bận của thầy Huệ An. Hơn nữa, thầy ấy đã là người bất chấp dư luận, đã là người mà ai cũng cho là “mát giây ” thì chuyện chấp nhất có còn ý nghĩa gì nữa đâu!
Cô Bảy người Bình Định, là một bà mẹ hiền của một quân nhân tử trận. Mất con, cô vào chùa làm công quả, cầu nguyện và làm mẹ hiền của nhiều chú tiểu hay nhiều học tăng trẻ từng sống ở viện Hải Đức này. Đêm ngày cô lo nấu nướng phục vụ chư tăng không biết mỏi mệt và cũng không biết đòi hỏi phần thưởng nào khác cho mình ngoài sự cầu nguyện cho đứa con chết trận. Cô là người làm công quả tín tâm, thuần thành và “dễ thương” nhất trong số những người làm công quả ở chùa mà tôi biết. Các thầy ở tứ xứ từng ghé qua hay tu học một thời gian ở chùa Hải Đức cũng đều công nhận như vậy. Cô không những là một đệ tử cúc cung tận tụy lo làm việc chùa mà có khi còn thể hiện được cái tình của một bà mẹ đối với quí thầy, quí chú trẻ tuổi. Không biết có phải người con chết trận của cô xưa kia là một chú tiểu nên bây giờ cô thương quý và chăm sóc quí thầy quí chú như con ruột? Cô không phải chỉ biết lo chuyện nấu nướng. Cô còn thăm hỏi, giúp đỡ quí thầy quí chú từng món quà hay món tiền để mua sách vở học, mua thuốc uống khi bệnh. Tiền bạc ở đâu cô có thì chẳng ai biết. Chỉ thấy cô mua món này món nọ để biếu quí thầy quí chú khi cần thiết. Thầy Thông Chánh nói mấy tháng sau tháng tư bảy lăm, có một bận viện Hải Đức bị thiếu hụt tiền chợ, cô Bảy đã đem tiền túi của cô để lo thực phẩm cho viện một thời gian.
Còn chú Đông thì quê ở Đại Điền, Diên Khánh, là một gã đàn ông lực lưỡng, có bộ mặt thô kệch với cái trán thấp đầy vết nhăn, nhíu lại như một miếng vải nhàu nằm trên đôi mắt lộ với đôi ngươi đỏ ngầu của một người say sưa. Sống mũi không có, dẹt như muốn hõm vào trong tạo thành một cái rãnh băng ngang giữa hai mắt. Hai cánh mũi to mà lại bẹt ra, chừa hai cái lỗ toang hoác tưởng chừng có thể nhét vào được cả hai viên bi thủy tinh. Miệng chú thì rộng nhưng đôi môi quá mỏng khiến cái môi trên cứ vểnh lên như một ụ đất, hay như hình dạng của một cái mái nhà. Răng chú thì vàng khè, đóng từng bợn nâu ở giữa các kẽ. Có lẽ vì chú hút thuốc rê quá nhiều. Chú thường mặc chiếc áo cộc tay, màu nâu, loại vải nhà chùa. Không bao giờ thấy chú mặc quần dài. Lúc nào cũng cái quần xà-lỏn lúc màu trắng, lúc màu nâu. Tướng đi chú nặng nề, đôi chân trần không bao giờ mang dép nện thình thịch trên nền đất, có thể nghe được từ xa. Hình tướng dị hợm như vậy đó nhưng tánh tình chú rất dễ thương, ai nói gì cũng cười. Có khi cũng biết giận dỗi nhưng chỉ chút xíu là lại cười, bỏ qua ngay. Nghe nói trước kia chú Đông cũng là một nhà sư, cùng thời hoặc sau thầy bổn sư của tôi vài năm. Chú tu sao đó mà không thành, phải bỏ ngang, rồi cuối cùng lại trở vào chùa xin một phòng nhỏ, không phải để làm thầy tu mà để làm một cư sĩ quanh năm công quả, tự nguyện gánh những công việc cực nhọc nhất trong chùa. Có lần tôi nài chú kể chuyện đời cho nghe mà chú kể gì đâu dài dòng với cái giọng khàn khàn khó hiểu, cuối cùng là cười sằng sặc, khiến tôi cũng chẳng biết nãy giờ chú nói gì. Ai hỏi tới chuyện đời tư của chú cũng đều được chú kể theo cung cách như vậy, cho nên, con người thô kệch mà chất phác đó dù có mặt hàng ngày ở chùa mà hãy còn là một nhân vật huyền sử, còn ẩn giấu đâu đó trong đôi mắt đục là cả một thời quá khứ oanh liệt hay đầy đau khổ... Chẳng ai biết nổi.
Nhà bếp của viện nằm ở một vị trí khá đặc biệt: nơi hội tụ của hai con đường Bình Minh và Hoàng Hôn. Từ chùa Long Sơn (Tỉnh Hội) qua viện Hải Đức, người ta băng hết con đường Hoàng Hôn bọc theo lưng núi thì đến ngay nhà bếp của viện. Phía dưới xóm xưởng đi lên cũng vậy, từ con đường đá lởm chởm của đường Bình Minh tẻ lên tam cấp cao, vừa dứt bậc cấp cuối cùng thì đến ngay hông nhà bếp với dãy phòng ăn nhỏ của các chú tiểu và khách thập phương. Như vậy, từ cái băng ghế gỗ ở góc nhà bếp, nơi mà chú Đông hay nằm tréo giò trên đó để ngủ trưa, người ta có thể quan sát được kẻ đến người đi qua hai con đường nói trên. Mà thiên hạ đến viện, sau khi vượt qua một trong hai con đường ấy, tự dưng ai cũng muốn ghé vào nhà bếp để nghỉ ngơi, xin nước uống, trước khi đi thăm viếng quí thầy quí chú hoặc lễ Phật. Cho nên, nói đến viện Hải Đức mà không nói đến cái nhà bếp này thì coi như chỉ thấy được vẻ tĩnh chứ chưa thấy được chỗ động của nó. Nhà bếp ở đây là địa điểm quan trọng lắm. Nó là điểm gặp gỡ, là nơi tựu về, là tụ giao thông của những con đường lớn nhỏ trên viện. Quí thầy từ hai dãy tăng phòng muốn đi xuống trai đường, chánh điện hay nhà khách, cũng phải đi ngang hoặc xéo qua góc nhà bếp. Bao nhiêu thiền sư lỗi lạc của nhiều thế hệ tăng sĩ, bao nhiêu tao nhân mặc khách của chốn bụi hồng lạc bước hoặc hăm hở đến đây cũng đều ghé ngang hoặc ngồi nghỉ trên chiếc băng gỗ dựa vào cây cột chính của nhà bếp. Và hôm nay, mới từ phương xa trở về, tự dưng tôi lại tìm thấy từ nhà bếp của viện một hoạt cảnh, hay đúng hơn, một bức tranh sống động và thơ mộng nhất mà chỉ từ cái nhà bếp với lịch sử nhiều năm hội tụ mới có thể vẽ nên được. Đó là sự tập trung một cách hài hòa và tự nhiên của ba nhân vật dị thường: thầy Huệ An, cô Bảy và chú Đông. Một tăng, một nữ cư sĩ và một nam cư sĩ. Họ là những người ít nói nhất, chỉ biết lặng lẽ làm việc, làm những việc nặng nhọc nhất, tầm thường nhất, từ sáng đến tôi. Từ điểm hội tụ, họ xuất hiện như những cánh hoa rừng. Những cánh hoa ấy không tượng trưng cho trí tuệ cao vời của tăng môn hay kiến thức quảng bác của tục khách. Chúng chỉ mọc lên một cách hoang dại, sơ khai, không cần tự tô điểm mà cũng không phải để tô điểm một cái gì. Chúng chỉ có mặt và trong im lặng, tự thể hiện bản thể của chúng.
Thầy Huệ An bước đến gần cười khì với tôi khiến tôi giật mình quay trở về với thực tại. Thầy nhìn tôi, ngoẻo đầu một bên, ngắm nghía một lúc, rồi vừa cười nói, vừa bỏ đi chỗ khác:
“Biết rồi, biết rồi!”
Cả tôi và thầy Thông Chánh đều chẳng rõ thầy ấy biết gì mà nói là biết rồi. Chúng tôi được cô Bảy dọn cho một mâm cơm ở phòng ăn nhỏ gần nhà bếp. Nhìn tôi, cô nói:
“Chao ôi, chú Khang bây giờ cao lớn quá, lại rắn chắc nữa. Chắc chú có làm ruộng làm rẫy phải không?”
“Dạ, có,” tôi cười đáp.
“Tội nghiệp chưa. Mấy thầy mấy chú ở các nơi khác bây giờ phải làm việc cực nhọc suốt ngày, đâu có thì giờ tu học. Chú về đây ở luôn đi, ở đây đâu có làm việc dữ vậy. À, mà nghe nói chú bị bệnh, phải không? Vậy thì về đây dưỡng bệnh luôn, đừng đi đâu nữa nghe.”
“Chú ấy dự định trở về đây đó, cô coi chùa mình đủ gạo cho chú ăn không?” thầy Thông Chánh vừa cười vừa nói chen vào.
“Mô Phật, hồi trước ở đây có trên hai trăm thầy, bây giờ về hết còn có mười mấy thầy thì chuyện cơm gạo đâu có khó khăn gì! Mười chú, hai chục chú như vầy chùa cũng còn lo được nữa là.”
Cô Bảy xuống bếp trở lại. Tôi dùng cơm mà suy nghĩ vẩn vơ. Trong luật chùa, người thọ trai chỉ được nghĩ đến công lao khó nhọc của nhiều người đã mang đến thức ăn cho mình chứ không được phóng tâm nghĩ tưởng qua chuyện khác. Tôi đã tập quen với sự ăn cơm trong chánh niệm như vậy rồi, nhưng không hiểu sao hôm nay, tôi lại buông thả tâm ý dễ dàng như vậy. Tôi đang nghĩ về chuyện cơm gạo trong chùa qua vài câu trao đổi khi nãy giữa thầy Thông Chánh và cô Bảy. Rõ ràng là từ gần một năm nay, sau biến cố một chín bảy lăm, vấn đề thực tế cơm gạo đã trở thành điều phải quan tâm của những người đang ở chùa. Đành rằng người xuất gia phải nhớ nghĩ đến công lao của những người tạo ra cơm áo cũng như những người mang áo cơm đến cho mình. Tức là cũng đã dành thời giờ trong ngày để nghĩ về nguồn gốc cơm áo. Nhưng khi chuyện cơm áo trở thành điều kiện để dung nhập một người vào chùa, thì điều này đã làm mất đi phần nào sự thơ mộng của đời sống, cũng như đã làm giảm đi rất nhiều cái tình cảm cao đẹp nhẹ nhàng giữa những người trong chùa với nhau. Trở về chùa Hải Đức này, tôi đã không gặp khó khăn gì trong chuyện khẩu phần ăn uống (nói theo cách nói của thời đại) hay phòng ốc—vì dù sao Hải Đức cũng là ngôi chùa gốc mà tôi đã thế phát xuất gia trước kia, và thầy Hải Tuệ bổn sư của tôi hãy còn gánh trách nhiệm nặng nề ở đây. Tuy nhiên, thử tưởng tượng, nếu một vị tăng sĩ lạ từ đâu đến xin tá túc tu học mà những thầy có trách nhiệm ở đây phải suy tính—dù chỉ một vài giây thoáng qua—về vấn đề khẩu phần cơm gạo... thì quả là cửa thiền đã nhuốm mùi tục lụy. Trước năm bảy lăm, thầy Thông Chánh, cũng như tôi, chỉ biết lo chuyên tu học, có đời nào lại mở miệng ra nói đùa một câu về chuyện cơm gạo! Có lẽ ngôi viện Hải Đức đồ sộ này đang lâm vào hoàn cảnh bế tắc kinh tế thế nào đó mà tôi chưa được rõ. Tôi nhớ lại ngôi chùa Long Tuyền ở Hội An mà tôi vừa rời xa mới tuần lễ. Ở đó, từ khi lớp học bị giải tán vào tháng ba năm một chín bảy lăm, học tăng chúng tôi phải làm việc suốt ngày suốt tháng để tự túc kinh tế. Long Tuyền là ngôi chùa ở vùng quê, có ruộng vườn để canh tác. Còn viện Hải Đức trên núi cao này... Chỉ được cái là có cảnh đẹp. Nếu Phật tử không đóng góp cúng dường, chẳng rõ nguồn tài chánh căn bản sẽ đến từ đâu—tôi quên khuấy đi rằng ngay từ lúc nhỏ mới xuất gia, tôi đã từng biết rằng viện còn có xưởng vị trai hỗ trợ kinh tế. Tự dưng tôi phải quan tâm đến vấn đề đó, quan tâm thực sự, không còn chút thơ mộng nào sót lại trong tâm hồn. Tôi hỏi thầy Thông Chánh:
“Viện mình có tổ chức làm ruộng làm vườn hay sản xuất chi không vậy thầy?”
“Ờ... ban giám đốc cũng có tính đó, nhưng chưa quyết định. Nghe nói là Thượng tọa Đổng Minh sẽ giao một số công việc cho anh em làm ở hãng vị trai. Chú biết là lâu nay tài chánh của viện là nhờ bên hãng vị trai đài thọ chứ gì? Bên hãng lâu nay chỉ do một số cư sĩ đảm trách. Nay có lẽ sẽ mở rộng thêm nhiều ngành nghề sản xuất khác, rồi đưa tăng sĩ của giáo hội, đặc biệt là nhân sự của viện Hải Đức, vào cáng đáng. Thời buổi này, ở chùa nào cũng vậy thôi. Phải lo tự túc kinh tế. Ít nhiều gì anh em mình cũng phải bắt tay vào việc tăng gia sản xuất để sinh sống. Dù sao, công việc ở hãng vị trai là công việc sản xuất tiểu thủ công nghệ, cũng nhẹ nhàng chứ không quá nặng nhọc và chiếm nhiều thì giờ như công việc ruộng rẫy ngoài Hội An mà chú từng trải. Nhưng đó là chuyện tương lai, bây giờ chú đang bệnh, lo dưỡng bệnh cái đã. Ăn đi.”
Qua ngày hôm sau, trong bữa điểm tâm tại phòng ăn, tôi được gặp đầy đủ tất cả nhân sự còn sót lại của viện. Tính tổng cộng cả thảy khoảng chừng trên hai mươi người, một con số quá nhỏ so với khu viện rộng lớn. Hầu hết quí thầy ở đây tôi đều biết và họ cũng đều biết tôi. Duy có thầy Tuệ Sỹ là tôi mới gặp lần đầu. Năm một chín bảy tư, khi Phật học viện Trung Đẳng Hải Đức đổi thành Viện Cao Đẳng Hải Đức, thầy Tuệ Sỹ được mời từ Sài Gòn về để giảng dạy cho sinh viên tăng tại đây. Lúc đó, tôi đang học tại Phật học viện Quảng Nam ở Hội An nên không được biết thầy.
Tôi từng nghe tiếng cũng như đã có đọc bài của thầy viết trong tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh. Tôi cũng có mua vài cuốn sách của thầy viết và dịch. Nhưng sách của thầy, tôi đọc mà chẳng hiểu gì mấy vì chưa đủ trình độ. Chỉ có mấy bài thơ của thầy là tôi mê và thuộc lòng. Thầy Tuệ Sỹ nhỏ người, ốm. Nước da ngăm đen. Trán thấp, nhưng lông mày rậm đen làm nổi bật đôi mắt sáng, thông minh và hiền từ. Đôi hàng lông mi của thầy cũng đặc biệt: cong, dài và đen sậm như loại lông mi giả mà trước khi xuất gia, tôi từng thấy các chị của mình dùng để gắn chồng lên lông mi thật của họ. Sóng mũi thầy cao, thanh. Môi thường mím, nhưng khi nói cười thì biểu lộ cả một trời phóng khoáng, cởi mở. Thầy là típ người rất lôi cuốn kẻ khác. Lần đầu gặp thầy, tôi đã mến thích ngay.
Trong ngày đó, mẹ tôi đã lên viện để tìm thăm tôi. Bà vẫn gầy ốm như xưa, nhưng trông héo hắt, buồn bã và đầy âu lo. Cho đến lúc đó, tôi vẫn chưa cảm thông được hoàn cảnh của mẹ, của gia đình. Mấy năm xa nhà, tôi chỉ biết lo tu học, hầu như không màng gì đến chuyện gia đình của mình nữa. Nay về đến Nha Trang, gặp mẹ, tôi vẫn còn mù tịt không biết gì hơn về gia đình vì mẹ tôi chẳng bao giờ hé miệng, mà cũng vì tôi không phải là người biết gợi chuyện cho mẹ nói.
Vài ngày sau là đến Tết. Tôi xin phép thầy Hải Tuệ về thăm nhà vào đúng ngày mồng một. Tôi đi bộ từ viện về đến nhà—ngôi nhà năm xưa với bao kỷ niệm ấu thời mà tôi biết là vẫn còn đó. Nhưng từ xa nhìn về hướng nhà, tôi đã ngạc nhiên không thấy giàn bông giấy đỏ rực trước ngõ mà xưa nay, nó chính là điểm dấu nổi bật nhất của nhà tôi trên suốt con đường Nguyễn Thái Học này. Đó là giàn bông giấy rậm rịt đan qua cái cổng dẫn vào nhà. Giàn bông với hai gốc già tuổi hơn tôi, nghe nói là do ông ngoại tôi trồng lấy, nay đã bị bứng đi. Ngõ trước bây giờ trở nên trống vắng, trơ trụi thế nào ấy. Ngay cả bức tường thành quét vôi trắng cũng bị đập vỡ hai phần, chỉ còn lại một phần nhỏ hai bên cổng vào. Qua cổng rồi, tôi lại còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng hơn một nửa cái sân lót gạch phía trước cũng đã được dựng lên trên đó một căn phòng, đóng bằng ván ép, bít bùng. Cái sân chơi này là thế giới thần tiên của bọn nhỏ chúng tôi hồi đó. Và làm sao tôi có thể quên được ở phía bên phải cái sân chơi, có cái cửa sổ nhỏ của nhà bên cạnh mà cô bé tên Xù thường lấp ló nhìn qua, rồi trốn nấp... một dạo xa xưa. Cảnh cũ giờ này không còn gì nữa. Trước mắt tôi là một thế giới bít bùng, tường vách, ván gạch, chen chúc như giành nhau từng tấc đất, không kể gì những không gian, những khoảng trống thơ mộng cần thiết. Tôi ngơ ngẩn đứng giữa khoảnh sân còn lại, nhìn vào nhà trong, không dám tin rằng đây là căn nhà xưa mà tôi từng lớn lên. Biết đâu chừng tôi lạc vào nhà người hàng xóm, vốn cũng có nhà gạch tường vôi với mái ngói âm dương y hệt! Vừa lúc đó, đứa em trai út của tôi cùng đứa cháu trai nhỏ gọi tôi bằng cậu, từ phía sau cái hẻm nhỏ, bước ra. Thấy tôi, chúng mừng rỡ, kéo tôi vào nhà sau. Nhà sau hồi xưa chỉ là nhà ở tạm của gia đình ông cậu Hai (anh ruột mẹ tôi), nay trở thành “nhà tôi”. Và “nhà tôi” của năm xưa thì nay đã đổi chủ. Chủ mới chẳng ai xa lạ, cũng là đứa em con cậu của tôi thôi. Người em con cậu của tôi với tư cách cháu đích tôn của ông ngoại, đã về chiếm ngự căn nhà từ đường của tộc họ mà trước năm bảy lăm không ai chịu ngó ngàng ngoại trừ mẹ tôi. Còn căn phòng đóng bằng ván ép ở sân trước thì là “nhà” của cậu Tư của tôi, tức là cha ruột của người em con cậu ấy. Mợ tôi mất từ lâu nên cậu tôi bước thêm bước nữa, có hai con với một người đàn bà góa chồng. Cả bốn người sống trong căn phòng nhỏ trước sân đó. Rõ ràng đất nước thay ngôi thì nhà tôi cũng đổi chủ và đổi luôn cả cái bề ngoài phong quang cổ kính của ngày cũ.
Bây giờ, cả gia đình tôi, phải chen chúc vào cái nhà sau ấy. Cũng may là gia đình cậu Hai (cậu đã bị Việt Minh tử hình, chỉ còn mợ và ba người con gái) vì đã có nhà khác nên mới nhường cái nhà sau cho gia đình tôi có chỗ che mưa núp nắng.
“Dù sao, đó cũng chỉ là cái vỏ bề ngoài,” tôi tự an ủi như thế khi bước vào “nhà mình”. Ba mẹ tôi đông con lắm, những mười bốn đứa lận. Người chị lớn nhất của tôi du học tại Mỹ, lập gia đình và ở luôn bên đó. Người chị thứ hai lấy chồng sĩ quan Không quân của chế độ cũ, đang sống với con tại Sài Gòn chờ chồng đi học tập cải tạo. Anh thứ ba lập gia đình, đã có con, cũng ở Sài Gòn. Người chị thứ năm cũng đã lập gia đình, chồng là sĩ quan ngành Tâm lý chiến, mất tích trong chiến tranh, gởi đứa cháu trai cho gia đình tôi trông nom rồi phiêu dạt ở đâu trong Sài Gòn chưa thấy quay lại. Như vậy, trong mười bốn người con, chỉ có bốn người lập gia đình ở riêng; kể thêm tôi ở chùa nữa là năm người không có mặt trong nhà. Số còn lại là chín người tất cả, “quây quần” bên ba mẹ tôi trong cái nhà sau nhỏ xíu như chuồng bồ câu ấy.
Nhà tôi đã bị khánh tận. Hai chữ khánh tận đó được tôi hiểu rõ nhất là từ hoàn cảnh của gia đình ngày hôm nay. Đó là thực tế mà tôi biết được chỉ sau một vài phút ngồi trong nhà, nhìn anh chị em qua lại hay nói chuyện với nhau. Anh chị em tôi đang lao xao trong nhà thì đổi thành im lặng khi tôi mới bước vào. Đã nhiều năm không gặp mặt, bây giờ tôi về, cả nhà hãy còn ngỡ ngàng. Hình như họ không biết đón tiếp tôi bằng tư cách nào và bằng cách thể hiện nào. Họ chỉ nhìn tôi, cười chào. Những nụ cười chực khóc. Những nụ cười nửa như muốn che giấu, nửa như muốn bộc lộ tất cả những khổ đau, ấm ức trước sự suy sụp của đại gia đình trong hoàn cảnh mới của đất nước, cả nhà tôi đều thất nghiệp. Thật là một điều khó có thể tin nổi! Tính từ người chị kế tôi trở lên, cả nhà đều có trình độ đại học và một nửa nhân số ấy là giáo sư trung học, giáo viên tiểu học. Cả nhà đổ ra ngoài tìm kiếm việc làm đã nhiều tháng qua mà không ai có được một công việc nhỏ. Họ sẵn sàng chịu làm cu-li bốc vác, phu kiều lộ hay bất cứ công việc hạ tiện nào khác mà vẫn không được chính quyền mới khứng nhận. Lý do đơn giản là vì ba tôi đã làm việc cho chế độ cũ, khiến cả nhà bị kết chung một tội qua một bản cáo trạng bất thành văn là “ngụy quyền”. Ngần ấy người bị thất nghiệp hơn chín tháng rồi, bao nhiêu tài sản (thực ra có bao nhiêu đâu!) trong nhà biến thành vật đổi chác lấy gạo nuôi thân. Hữu, đứa em trai kế tôi, phải tình nguyện vào Đoàn Thanh niên Xung phong sau một thời gian tìm việc không có. Đoàn Thanh niên Xung phong thực ra là một đoàn thể bán quân sự dấn thân vào những nơi biên địa, rừng sâu, khai phá, dọn đường, đón chịu mọi tai họa để lót đường cho Quân Đội Nhân Dân tiến tới nơi muốn tiến. Chỉ có mình Hữu là tìm được lối thoát ra khỏi căn nhà tù túng, nghèo đói và sa cơ này với cái giá khá đắt là hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho một công việc và lý tưởng mà nó biết rằng không có gì cao đẹp.
Ba tôi là Chủ sự, kiêm một lô chức vụ quan trọng của Tòa Hành Chánh Tỉnh, bị bắt đi học tập cải tạo từ lúc chính quyền cộng hòa sụp đổ. Nay ông vừa được tạm thả về vì bị phù thủng quá nặng lại còn bị áp huyết cao, hay nói mê nói sảng trong tù. Ba tôi chỉ ngồi một chỗ, ngâm đôi chân sưng vù trong chậu nước nóng. Anh chị em tôi, kẻ đứng người ngồi, ủ rũ, chán chường. Ngày Tết mà không khí trong nhà như có đại tang. Không bánh mứt, không trà, không pháo, không hoa, không nụ cười, không tất cả. Trước cảnh tượng buồn thảm đó, tôi muốn rơi nước mắt. Trong gia đình, ngoại trừ những anh chị đang ở xa, có lẽ tôi là người duy nhất đang có mặt ở đây mà không phải chịu chung cái cộng nghiệp khổ đau, tủi nhục ấy. Chúng tôi im lặng ngồi chung trong một gian nhà nhỏ, chẳng ai nói một lời. Chỉ có đứa em út mười một và đứa cháu trai bốn tuổi của tôi là còn biết đùa giỡn với nhau một cách vô tư. Nhưng tôi biết rõ, chúng đã chẳng có áo quần mới hay tiền lì xì để vui Tết cho đúng với lứa tuổi hồn nhiên của chúng. Và tôi cũng biết rằng, nếu tôi nấn ná ngồi lâu hơn một chút, có thể tôi và cả nhà sẽ cùng rơi nước mắt trên nền gạch hoa của ngày đầu xuân. Tôi đứng dậy, gởi lại tất cả tiền bạc có trong túi áo nhật bình cho cả nhà vui xuân hay mua thực phẩm. Rồi tôi vội vã quay trở về chùa.
Ba ngày Tết cũng trôi qua. Những ngày kế tiếp, tôi được thầy Thông Chánh đưa xuống bãi biển hóng gió. Có khi, chúng tôi đón gió biển từ ngôi tháp chuông trên đỉnh đồi Trại Thủy, hoặc băng đường núi, qua Kim Thân Phật Tổ, để nhìn ngắm biển và phố Nha Trang qua làn sương mỏng buổi chiều. Những cảnh trí thơ mộng và đẹp đẽ đó lúc nào cũng vậy, rực rỡ một cách cao khiết và không bị chi phối bởi sự đổi thay của đất nước qua các chế độ. Nhưng quả thật là bấy giờ tôi chỉ nhìn mà không thấy được, không thưởng thức được gì nữa. Tôi hãy còn đau xót trong lòng. Căn bệnh thể xác tôi mang trong người đã có vẻ thuyên giảm rất nhiều nhưng nỗi đau tâm hồn thì tôi lại bắt đầu nhuốm lấy. Nỗi đau đó không đơn giản như là sự xót thương cho hoàn cảnh gia đình, cho hoàn cảnh xã hội chung quanh. Hình như đó còn là một cảm giác thiếu vắng, một mong đợi bất thành. Từ ngày về Nha Trang, hình như trong sâu thẳm tâm thức của mình, tôi đã cưu mang một nỗi hy vọng nào đó. Tôi muốn tìm một cái gì mới mẻ, tươi đẹp và bền bĩ hơn. Rõ ràng là khi hăm hở lao đầu vào hư không một cách cực đoan, tâm thức con người không bị vỡ nát đi bởi sự va chạm mà lại bị lộn nhào về phía khởi điểm.
Khi lững thững từ đỉnh đồi trở về phòng riêng, lần đầu tiên trong đời, tôi bỗng cảm nhận được một nỗi đau khổ quằn quại trong tự đáy tim mình. Tôi đau khổ. Đây không phải là cái đau khổ của một người bị trúng mũi tên độc. Tôi không bị trúng mũi tên nào cả. Tôi chỉ nghe được tiếng những mũi tên rít gió vụt bay qua, từ bốn phương, từ tám hướng... và tôi rung lên, rơi té xuống vực thẳm hun hút không bao giờ thấu đáy. Ôi, nỗi đau không nói được nên lời. Nỗi đau cần được tựa vào một người nào khác, cần được an ủi và cần được chăm sóc một cách êm mát... Phải rồi, tôi biết rồi: tôi cần một người bạn. Trước đây tôi từng có những người bạn khá thân: Dũng, Kính, Sáng, Tửu... Bây giờ họ không có quanh tôi, nhưng nếu có, tôi cũng không cần họ nữa. Thiện hữu tri thức, ồ, những người bạn mà khi gần họ, trong ta nẩy sinh thêm những hiểu biết và tăng lớn thêm những hạnh nguyện cao cả... Tôi không cần họ nữa. Vì họ sẽ không làm được gì với nỗi đau khổ của tôi. Tôi cần một người bạn khác với những người bạn mà tôi có trước đây. Một người bạn có thể không cần những cao vọng hay tham vọng giải thoát của tôi. Tôi không thể hình dung được người bạn ấy sẽ như thế nào. Nhưng tôi biết, người bạn ấy, cũng như tôi, là một người đau khổ và cô đơn kinh tợn. Tâm thức bềnh bồng mà lại bộng rỗng như tôi bây giờ cần có một ngõ thoát, hay ít ra, phải có một người bạn như thế.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018

Chương sáu

Sống ở viện đâu chừng nửa tháng thì tôi đâm ra chán ngấy chuyện dưỡng bệnh. Thật ra tôi có còn bệnh hoạn gì nữa đâu. Những cơn bệnh trước đây chỉ là ngoại thương, duy có căn bệnh đau bao tử có thể gọi là kinh niên, nhưng cũng đã dịu đi rồi. Tôi không muốn chỉ nằm không, đi dạo, ngắm cảnh... nữa. Tôi muốn tìm cái gì vui thú hơn, bèn theo thầy Thông Chánh đến thư viện của viện để mượn sách.
Thư viện do thầy Tuệ Sỹ phụ trách trông coi, chỉ mở cửa sau giờ cơm buổi chiều, hoặc khi có thầy ấy ngồi khảo cứu trong đó. Kinh sách đủ loại. Ngoài các bộ kinh đồ sộ của Phật giáo như Đại Bát Nhã, Đại Tạng và Tục Tạng Kinh bằng Hán văn và Phạn văn, còn có hàng chục ngàn sách báo phổ thông, từ loại biên khảo, đến các tác phẩm văn chương, tư tưởng triết học cho đến các truyện tiểu thuyết tình cảm, xã hội v.v... Chẳng thiếu thể loại nào. Sách ngoại ngữ (Anh, Pháp, Đức, Nhật...) cũng đầy hai tủ lớn. Tôi chưa có trình độ sinh ngữ để đọc thẳng sách ngoại ngữ nên chỉ tìm đọc các tác phẩm và tác giả ngoại hạng trên thế giới qua các bản dịch Việt ngữ. Nghe nói sách của thư viện đã bị thất thoát khá nhiều vì có một bận lộn xộn trước biến cố tháng tư bảy lăm, thư viện chẳng có ai trông coi. Vậy mà số sách còn lại của thư viện cũng đủ làm tôi choáng ngộp. Thư viện này đã lập từ lâu, từ khi tôi chưa xuất gia. Năm, sáu năm trước, lúc còn làm chú tiểu ở đây, tôi cũng biết có thư viện nhưng đâu có thì giờ và cũng chưa đủ trình độ để tự tìm đọc sách báo từ thư viện. Mấy năm tu học ở Hội An, rồi làm ruộng rẫy, tôi cũng chưa có cơ hội nào được vào một thư viện để tìm sách đọc. Bây giờ, lần đầu tiên đứng trước một rừng sách, tôi không khỏi rung động, sáng rỡ cả đôi mắt. Tôi ham hố mượn cả chồng sách đem về phòng đọc. Vì là người trong viện, tôi không cần phải làm thẻ hay thủ tục gì rườm rà. Thầy Tuệ Sỹ chỉ việc ghi tên tôi vào sổ mượn sách với các tên sách muốn mượn, vậy là xong.
Sách đem về, tôi đọc ngấu nghiến một tuần, mười bữa, rồi đem trả, mượn sách khác. Cứ tưởng theo đà đó thì sẽ đọc được hết các sách Việt ngữ của thư viện. Nhưng thầy Thông Chánh nghĩ sao đó, cho rằng chuyện đọc sách tùm lum, không có kế hoạch, không có chương trình như vậy chẳng được ổn, bèn tính đến chuyện kèm học cho riêng tôi. Ban đầu, chưa soạn được một chương trình thích hợp, thầy tạm thời dạy thêm Anh ngữ cho tôi. Nhưng chỉ một thời gian sau, thầy đề nghị tôi học môn này với thầy Phước An, còn thầy ấy thì dạy kèm tôi môn Hán văn. Thầy Phước An dạy tôi Anh ngữ qua cuốn Kinh Tân ước của Thiên Chúa giáo. Thầy Phước An có dụng ý gì trong việc chọn Kinh Tân Ước làm sách dạy thì tôi không biết; chứ riêng tôi, tôi rõ biết trình độ của mình lúc đó, dù có cởi mở cách mấy cũng không nuốt trôi nổi bản kinh của một tôn giáo khác được viết bằng Anh ngữ cổ. Cuối cùng, xét vì chỉ có thầy Tuệ Sỹ với sức học uyên bác mới có thể dạy được nhiều môn học và dạy đủ mọi trình độ trong thời gian dài lâu, thầy Thông Chánh đề nghị giao tôi cho thầy Tuệ Sỹ kèm dạy và quyết định mọi thứ liên quan đến việc học của tôi. Nghe đề nghị như vậy, tôi rất thích. Vậy là sau khi thưa chuyện với thầy Tuệ Sỹ và được sự đồng ý, thầy Thông Chánh đưa tôi đến phòng riêng của thầy Tuệ Sỹ để học. Chương trình học do thầy Tuệ Sỹ soạn lấy, dựa vào trình độ của tôi qua sự thử nghiệm của thầy. Cách thử nghiệm cũng đơn giản lắm: thầy đưa tôi một tập trong Đại Tạng Kinh (bản Hán), bảo tự dịch thử cái tựa của A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. Tôi đem về dịch trong vòng một ngày, tôi đem lên trình. Thầy đọc qua, cười phì. Bảo rằng tôi dịch kinh luận sao mà chải chuốt, bóng bẩy quá; nói trắng ra là giọng văn của tôi là giọng văn để sáng tác văn chương chứ không phải để dịch kinh hay dịch cái gì có tính cách nghiêm túc như loại biên khảo, nghị luận. Vậy là, trong môn Hán văn, thay vì dạy tôi bằng kinh luận Phật giáo, thầy dạy tôi thơ Đường. Nhưng trong môn kinh luận Phật giáo, thầy cũng giảng tôi nghe kinh Lăng Già qua bản Hán văn, bắt tôi học và dịch từng chữ từng câu một trước khi nghe thầy giảng giải nghĩa lý sâu xa bên trong—một sự sắp xếp cân bằng, hợp lý; vừa tránh sự cục bộ, vừa giữ lấy được cái gốc. Ngoài môn Hán văn và kinh Lăng Già, thầy còn dạy tôi Anh ngữ nữa. Ba môn học, sáu buổi dạy. Nghỉ được ngày chủ nhật. Tôi khá bận rộn vào thời gian đó vì tuy chỉ có ba môn nhưng bài vở của thầy Tuệ Sỹ cho rất nhiều. Thầy Tuệ Sỹ là một nhà thông thái trẻ tuổi của Phật giáo, có trí thông minh học một biết mười rất đáng sợ. Với sức thông minh kinh người đó, thầy tưởng ai cũng có thể học nhanh, hay đúng hơn, thầy mong đợi người khác cũng thông minh như thầy nên cho bài vở thật nhiều. Tôi phải vất vả chạy đuổi theo mới thanh toán kịp bài vở và khỏi bị rầy trách.
Học được với thầy Tuệ Sỹ đâu chừng một tháng thì một chiều nọ, công an thành phố, mười mấy người, lên viện bao vây, lục xét, kiểm tra nhân số thường trú của viện (họ gọi là nhân hộ khẩu thường trú). Lúc đó tôi vừa học xong, rời phòng thầy Tuệ Sỹ trở về phòng riêng. Nửa đường, ghé vào phòng chú Phùng, người sư huynh đồng môn. Phòng chú Phùng là một cái phòng nhỏ xíu như cái kho chứa đồ linh tinh, nằm bên hông phía sau của phòng khách và tổ đường. Hai đứa chúng tôi ngồi trò chuyện với nhau trong khoảng thời gian công an xét chùa mà chẳng hay biết gì cả. Công an đi lùng các dãy phòng tăng phía trên, lùa hết quí thầy quí chú xuống phòng khách, cả thầy Tuệ Sỹ cũng bị mời xuống trình diện tại phòng khách để kiểm tra. Nói chuyện một lúc, chú Phùng bỏ tôi ngồi đó để xuống bếp lấy nước sôi chế trà.
Tôi ngồi nơi bàn học của chú, lấy sách đọc. Xuống bếp, chú Phùng bị công an mời luôn qua phòng khách để “làm việc”. Chỉ còn mình tôi là vô tình chẳng hay biết, cứ ngồi ung dung đọc sách chờ chú Phùng lấy nước sôi châm bình trà mới.
Khi công an rút đi rồi, chú Phùng trở về phòng và nhớ sực lại là nãy giờ tôi hãy còn ngồi đây.
“Ủa, chú còn ở đây? À, té ra nãy giờ chú đâu có ra trình diện đám công an thành phố hả?”
“Trình diện gì? Chờ trà của chú đó.”
“Không biết thực à? Mô Phật, nãy giờ họ lục xét, kiểm tra tùm lum mà chú ngồi đây đọc sách tà tà như vậy, còn chờ trà nữa, sướng chưa!”
“Có chuyện đó sao! Tôi đâu có biết. Mà kiểm tra gì vậy?”
“Kiểm tra những người có tên trong hộ khẩu của viện. Ờ, chú đâu có phải dân thường trú ở đây đâu, vậy chú đâu cần phải ra gặp họ làm gì.”
“Tôi không phải dân thường trú. Ừ nhỉ, phải xin ghi tên vào hộ khẩu mới được gọi là thường trú. A, tôi không thường trú, tôi chỉ là một kẻ sống tạm. Thế giới này không phải là chỗ thường trú của tôi.”
Chú Phùng cười nói:
“Từ ngữ bây giờ gọi chú là dân tạm trú đó, chú à.”
“Tạm trú hả? Hay đó chứ. Tạm trú trong cõi tạm, ha ha.”
Té ra có một cuộc kiểm tra nhanh chóng vừa diễn ra trong viện. Cuộc kiểm tra này vì nhằm vào ban ngày nên chủ yếu là xem những người có tên trong hộ khẩu (tức Tờ Khai Gia Đình của chế độ trước) có đủ mặt hay không. Có lẽ vì vậy mà tốp công an không để ý đến những người khách viếng chùa cũng như những người đang sống ở chùa mà không có tên trong hộ khẩu như tôi. Dù sao, nếu họ tìm thấy tôi trong phòng chú Phùng, hẳn là họ cũng lôi tôi ra ngoài thẩm tra giấy tờ, rất là phiền phức. Có thể họ sẽ đuổi tôi trở về “nguyên quán”, mà nguyên quán theo họ, có nghĩa là địa phương mà một người dân được coi là cư dân thường trú và có tên chính thức trong một tờ hộ khẩu ở chính địa phương đó. Họ sẽ không chấp nhận tôi ở viện Hải Đức này vì tôi chỉ hợp lệ với tờ hộ khẩu của chùa Long Tuyền ngoài Hội An mà thôi. Trong thế giới hữu hạn và trần tục, hình như càng mong đợi nhiều “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” chừng nào thì lại càng chuốc lấy nhiều sự lệ thuộc, tù túng và khổ đau chừng nấy. Ngày rời Hội An, tôi có đi theo chú Tửu đến công an ấp, ủy Ban Nhân Dân Xã và Thị Xã để xin giấy thông hành vào Nha Trang, ủy Ban Xã không cho tôi đi, giữ đơn của tôi lại, bảo chờ ủy Ban Nhân Dân Tỉnh cứu xét. Tôi không cần chờ cứu xét, cứ bỏ đi. Bây giờ, tôi chẳng có giấy tờ gì hợp lệ đối với chính quyền địa phương tại Nha Trang mà có thể là cũng đã mất luôn sự hợp lệ đối với chính quyền Hội An Quảng Nam nữa. Điều này rõ là phiền nếu công an Nha Trang hỏi tới giấy thông hành của tôi.
Vào buổi cơm chiều của ngày đó, thầy Hải Tuệ nhìn tôi với vẻ lo lắng. Rồi thầy nói với thầy Phước Châu, vị quản chúng mà cũng là người có trách nhiệm phụ tá thầy tôi để lo các công việc hành chánh, sổ sách của viện:
“Chú Khang từ Hội An về. Không biết vấn đề hộ khẩu lo làm sao?”
“Dạ... Chắc để hỏi ý ông Điệp xem sao. Nghe ông nói sắp có đợt làm lại hộ khẩu mới để cho những người tạm trú được vào thường trú chính thức nên mới có vụ xét chùa hồi xế chiều vừa qua. Nếu đúng là có làm hộ khẩu mới, mình nói ông ấy xin ghi tên chú Khang vào luôn thể.”
Ông Điệp là ai tôi chẳng biết. Nghe nói gia đình ông xuất hiện ở viện từ lúc lộn xộn đầu năm bảy lăm, được viện cho ở tạm nơi kho gạo củi dưới chân núi. Nói rằng kho chứ thực ra nơi này trước kia là một dãy nhà gọi là Tịnh nghiệp đường, được dùng làm chỗ tu học và tịnh trú cho các thiện nam tín nữ phát nguyện thọ Bát quan trai giới mỗi tháng, do đó ngoài chỗ thờ Phật còn có phòng ngủ riêng ở phía sau, đầy đủ tiện nghi điện nước. Từ những năm chiến tranh, Tịnh nghiệp đường trở thành nơi tạm trú cho một vài gia đình Phật tử thân tín có công với viện di cư từ Huế hay Quảng Trị vào. Và cũng từ đó, Tịnh nghiệp đường tạm thời biến thành kho. Khi gia đình ông Điệp đến thì dãy kho đang bỏ trống, viện cho họ ở tạm. Gia đình ông Điệp chỉ có hai vợ chồng không con, ở tạm như vậy cũng thoải mái. Nhưng đến khi “cách mạng vào”, gia đình ông ở luôn đó, không đi đâu nữa. Cuối cùng, kho gạo củi của viện trở thành nhà ông Điệp. Ông Điệp làm hẳn hộ khẩu riêng của gia đình ông tại dãy nhà kho đó, không những vậy, ông còn trở thành tổ trưởng tổ dân phố của khóm nhà sát chân núi và bao gồm luôn cả hộ khẩu của viện Hải Đức nữa. Từ đó, gạo của viện có mua về thì đưa thẳng lên nhà bếp của viện, còn củi thì chứa trong ga-ra bỏ phế đối diện dãy nhà kho chứ không dám phiền gia đình ông coi sóc nữa—ga-ra trước kia chứa hai chiếc xe của viện, nay xe đã bị nhà nước trưng thu nên biến thành nhà chứa củi cho tiện. Chỉ còn một phòng nhỏ của dãy kho ba gian là được dùng làm nơi cho quí thầy trên viện gởi xe đạp.
Ngày hôm sau, thầy Hải Tuệ cho mời ông Điệp lên viện để nói chuyện về tôi. Điều này trông có vẻ như là nhà chùa phải xin phép một ông tổ trưởng thế tục để cho một người xuất gia được ở lại tu học. Đầu óc cố chấp và khinh bạc của tôi vốn không chịu được cái điều ngược ngạo ấy. Cho nên khi chú Lịch, một chú tiểu mới xuất gia, sư đệ của tôi, đến gõ cửa gọi tôi ra phòng khách để ông Điệp xem mặt, tôi không đi. Thực ra theo thầy Thông Chánh cho tôi biết, tổ trưởng không có quyền hạn gì trong việc lập hộ khẩu của hộ thường trú khác. Vậy mà không hiểu sao, thầy tôi lại cứ muốn hỏi ý ông Điệp.
“Thưa với thầy là không có tôi ở đây,” tôi dặn chú Lịch.
“Lỡ thầy bảo đi tìm thì sao?”
“Nói là tìm hoài không thấy.”
“Ghê quá, nói dối với thầy em sợ...”
“Đây không phải là nói dối với thầy. Đây là giữ thể diện cho viện đó, chú không biết à? Ông Điệp là cái gì mà hạch sách đòi thầy phải đưa cho gặp người này người kia rồi mới nói chuyện! Thầy chỉ cần cho ông ấy biết là có một người mới đến, khi nào làm hộ khẩu mới thì ghi thêm tên người ấy vào, đưa xuống cho công an chứng nhận. Bộ có ông Điệp xem mặt rồi thì công an mới chứng nhận sao?”
Chú Lịch ra trình với thầy là tôi vắng mặt. Hình như ông Điệp không tin, hoặc cho rằng việc tôi vắng mặt là thiếu lễ phép với ông thì phải, nên sau một lúc nói chuyện với thầy tôi, ông cứ một mực khẳng quyết là chuyện hộ khẩu của tôi không thể làm được. Chú Lịch đứng hầu quạt cho thầy tôi, đã kể lại tôi nghe.
“Trường hợp chú Khang này, tôi thấy chắc khó mà vào hộ khẩu của viện được đấy thầy ạ,” ông Điệp nói.
“Sao vậy? Hồi trước chú ấy ở đây mà. Trong Tờ Khai Gia Đình của chế độ cũ có tên chú hẳn hoi. Chú đi học ở Hội An nay trở về lại thì phải dễ dàng chứ,” thầy tôi hỏi lại.
“Thì... thì tại chú không có mặt ở đây lúc kê khai hộ khẩu. Tờ Khai Gia Đình hồi xưa bây giờ có giá trị gì đâu. Lúc kê khai hộ khẩu thì ai ở đâu ở yên đó. Nguyên quán chú ở Hội An thì nay cứ trở về Hội An chứ đâu có việc gì phải trở về Nha Trang.”
“Nguyên quán của chú ấy là Nha Trang đó bác, chẳng phải ở Hội An dâu.”
“Hộ khẩu ở đâu là nguyên quán ở đó. Chắc chú ấy đã có hộ khẩu ngoài Hội An, vậy cứ để chú ở Hội An đi, về Nha Trang làm gì rắc rối lắm.”
“Bởi nghĩ là có rắc rối nên mới hỏi ý bác xem có cách nào không? Chú ấy bị bệnh mà, ở ngoài đó đâu có đủ tiện nghi bằng trong này. Bây giờ chỉ muốn xin ghi tên cho chú ấy được tạm trú thôi. Khi lập hộ khẩu mới chắc chính quyền cũng cho chú vào chính thức thường trú luôn.”
“Hộ khẩu của viện hiện nay trên hai chục người. Càng đông càng khó vào thêm. Nhà nước họ đâu muốn tập trung đông đảo, nhất là quí thầy quí chú ở đây đa phần nằm trong tuổi thanh niên. Khó lắm thầy ạ. Tạm trú cũng không được nữa nói chi thường trú. Sao chú ấy không chịu ở yên ngoài đó, lại chạy vào đây làm gì thế. Có được hộ khẩu ngoài Hội An là may phước lắm rồi, còn dời đổi làm gì cho sinh chuyện.”
“Tôi nói với bác rồi, tại chú ấy bệnh nên tôi mới gọi về đây.”
“Ôi trời, thầy khéo lo. Ở đâu cũng có bệnh viện của nhà nước lo cả rồi, ngoài đấy hay trong này cũng vậy thôi.”
“Bệnh viện nhà nước à? Ôi chao, có thuốc men gì đâu. Quí thầy ở viện đây có bệnh cũng do viện tự lo thuốc lấy chứ có bệnh viện nào có thuốc tốt mà chữa trị. Ở đây chữa toàn thuốc tư, bác sĩ tư cả đó bác à.”
Ông Điệp ngưng một lúc rồi cũng kết luận:
“Tôi nghĩ là công an không cho chú ấy nhập hộ khẩu của viện đâu. May ra thầy có thể xin cho chú nhập hộ khẩu ở một chùa nào đó ít người. Viện đông lắm rồi.”
Thầy tôi thở dài:
“Hai chục người thì có gì mà đông. Bác không nhớ hồi trước ở đây có trên hai trăm người sao?”
“Hồi đó khác, hồi này khác...”
Chú Lịch chỉ nghe ngang đó thì trở lại phòng tôi, kể tôi nghe. Buổi chiều, sau giờ ăn, thầy Hải Tuệ gọi tôi, dạy:
“Chuyện xin cho con vào hộ khẩu của viện, theo cách ông Điệp nói, chắc là không được. Vì người ta không thích viện mình đông người. Giảm đi thì dễ dàng chứ tăng thêm thì khó lòng lắm. Cho nên, thầy tính là mai mốt con qua chùa Linh Phong xin thầy Trừng Hùng cho ghi tên vào hộ khẩu bên đó. Chỉ xin ghi tên vào hộ khẩu thôi, còn ở thì cứ ở đây. Ban đầu thì xin tạm trú. Đến đợt khai hộ khẩu mới, họ sẽ chứng nhận cho con được thường trú luôn. Thầy nghĩ đó là cách hay nhất. Thầy Trừng Hùng nể thầy sẽ hết lòng lo cho con chuyện đó. À, trước kia con cũng đã từng tu học ở chùa Linh Phong một thời gian mà, phải không? Thôi, mình chỉ mong được yên ổn tu học, người ta muốn sao thì mình cứ làm theo phép tắc của họ cho xong đi. Ẩn nhẫn, chịu khó mới có điều kiện tốt mà tu học được.”
“Dạ,” tôi đáp.
Tôi chỉ có thể cứng đầu cứng cổ với người khác, chứ với thầy tôi thì tôi chẳng bao giờ cứng đầu nổi. Thầy dạy sao thì nghe vậy, chẳng dám có ý kiến gì.
Hôm sau, tôi cùng thầy Thông Chánh qua chùa Linh Phong, tức là chùa Núi. Năm năm trước tôi được thầy tôi gởi đến đây để học làm một chú tiểu ở chùa nhỏ thay vì làm một chú tiểu thảnh thơi ở viện Hải Đức. Thầy Thông Chánh là người biết rõ nhất chuyện thầy Trừng Hùng xưa kia đối xử không được tốt với tôi nên trên đường đi, thầy có vẻ e ngại dùm tôi:
“Thiệt là oan gia đường hẹp! Rốt cuộc rồi cũng đâm đầu vào chỗ ông Trừng Hùng. Thôi kệ, cứ làm cho được cái hộ khẩu cho yên thân đi. Thầy Trừng Hùng bây giờ chắc cũng đổi tính rồi chứ không như trước nữa đâu. Với lại chú đâu có xin ở chùa Núi đâu, chú vẫn ở viện mà.”
“Đâu có sao thầy. Con không nghĩ hay lo sợ gì chuyện thầy Trừng Hùng. Chỉ thấy không vui khi người xuất gia mình, hay nói chung là các chùa mình, phải bị kiểm soát chặt chẽ, phải chịu sự lệ thuộc vào các lề luật của thế gian nhiều quá.”
Thầy Thông Chánh im lặng không nói gì. Chúng tôi đi thêm một đoạn đường dài nữa thì đến chân chùa Núi, rồi phải leo mấy trăm bậc tam cấp nữa mới đến chùa Linh Phong. Chúng tôi không vội vào trong, ngồi nghỉ mệt dưới hai tàng cây rộng của hai cây me cổ thụ hai bên tam quan. Ngồi đây có thể thấy được xe cộ qua lại trên quốc lộ I và khóm nhà dọc theo con đường dẫn vào viện Hải Đức. Từ một vị trí cao, quan sát thiên hạ sinh hoạt, di động, là một trò chơi vô cùng thú vị của những kẻ kiêu kỳ và nhiều cao vọng. Khi con người dưới mắt mình nhỏ bé như con kiến, sự vận chuyển cử động của họ trở nên buồn cười và hèn mọn. Riêng tôi, lúc nào nhìn ngắm cảnh người và vật từ núi cao, tôi đều cảm thấy tinh thần mình phấn chấn, vươn lên, có cảm giác như mình bỗng trở nên cao thượng và vượt hẳn những buộc ràng của thế gian dưới núi. Tôi nói với thầy Thông Chánh:
“Đúng ra người xuất gia chúng ta phải ở trong một hoàn cảnh khác hơn. Không thể bị buộc ràng bởi các qui chế và luật tắc của thế gian.”
“Muốn vậy thì phải... ở trong rừng sâu hoặc ở tít trên những núi cao, nơi không có bóng dáng và sinh hoạt của con người.”
“Phải. Chứ thầy nghĩ xem... Các chùa mình phải cúi đầu tuân phục những anh công an địa phương thì chán quá đi!”
“Sống trong quốc gia nào mình phải chịu cái phép tắc thông lệ của quốc gia đó chứ đâu có trường hợp ngoại lệ được.”
“Bởi vậy mới nói là chán quá đi! Mấy anh công an học mốt văn minh của xã hội chủ nghĩa, nói chuyện với quý hòa thượng, thượng tọa cao niên chỉ gọi anh xưng tôi, lại ra vẻ quan quyền, kênh kiệu, hống hách. Truyền thông sa môn lâu nay không cúi đầu trước vương quyền, nay phải xuống nước với mấy anh công an ít học... Còn gì là chí nguyện xuất trần nữa...”
Tôi nói đến đó thì máu nóng bừng dậy. Thầy Thông Chánh tỏ ý lo ngại, và hình như thầy không thích tôi để ý chi đến những vấn đề đại loại có liên quan đến chính quyền mới như vậy.
“Thôi, nói chuyện khác đi.”
Tôi ngồi một lúc, bỗng nhớ đến một bài thơ ngũ ngôn, tôi nói:
“Hồi đó chú Tâm Hạnh có làm bốn câu thơ chép tặng con, để con đọc thầy nghe:
Mây giăng ngập đầu núi
Chí nguyện vượt núi rừng
Cô thân bên bờ suối
Không nhà kiếp vẫy vùng.”

Tôi đọc đến mấy chữ “không nhà kiếp vẫy vùng” thì bỗng ứa nước mắt. Thầy Thông Chánh vỗ vai an ủi tôi:
“Tùy thời tùy cảnh mà sống và thể hiện bi nguyện của mình. Xã hội mới có những điều trái ý với mình, nhưng không phải rằng chính trong những nghịch cảnh như vậy chí nguyện của mình mới trở nên kiên cường hơn sao?”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018

Tôi nghe được lời đó thì rúng động cả tâm can. Mười điều tâm niệm trong Luận Bảo Vương Tam Muội, tôi thuộc lòng từ lâu và thường đọc hàng ngày lúc còn ở Hội An; vậy mà từ khi về đến Nha Trang lại quên lãng, không hề đọc được tới một lần nữa. Nay nhờ thầy Thông Chánh nhắc lại một ý trong mười điều tâm niệm ấy, tâm tôi bừng nở ra, phấn khích vô cùng. Tôi mím môi ngước nhìn trời cao, đọc tiếp đoạn cuối trong mười điều tâm niệm:
“Ngày nay những người học đạo trước hết không chịu dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại áp đến thì không thể đối phó. Chánh pháp chí thượng, vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào!”
Ngồi thêm một lúc ở bậc tam cấp, chúng tôi mới vào trong để gặp thầy Trừng Hùng.
“A Di Đà Phật, thầy khỏe không?” thầy Thông Chánh chào trước.
“Mô Phật, lâu quá thầy mới qua chơi, a, có chú... Khang, phải không? Chà, lớn quá hỉ? Chú mới từ Hội An về đó hỉ?”
Tôi chắp tay chào thầy Trừng Hùng rồi đứng chờ thầy Thông Chánh thưa chuyện. Nghe chuyện, thầy Trừng Hùng hỏi:
“Thầy Hải Tuệ không qua được hở thầy?”
“Thầy bệnh. Thầy nhờ tôi qua nói dùm với thầy một tiếng để lo cho chú ấy sớm chừng nào tốt chừng nấy kẻo sắp tới đợt làm hộ khẩu mới rồi. Nếu thầy muốn có thầy Hải Tuệ nói chuyện cho được rõ ràng hơn thì để tôi về trình lại, hôm khác thầy Hải Tuệ khỏe sẽ qua thưa chuyện với thầy sau.”
“Đâu có, tôi chỉ hỏi thăm thầy ấy thôi. Ai nói lại chẳng được. Mình chú Khang qua đây nói còn được nữa là. Có thầy qua chơi là quí lắm rồi. Thôi, uống nước đi. Chuyện hộ khẩu cho chú Khang dễ thôi. Đây cũng có một chú từ Huế mới vào, tôi sẽ lo hộ khẩu luôn một thể.”
Dĩ nhiên thầy Trừng Hùng không thể nào quên được rằng ngôi chùa Linh Phong mà thầy ấy đang trụ trì là do thầy tôi ủy nhiệm. Thầy Hải Tuệ bổn sư của tôi mới đúng là vị trụ trì chính thức của ngôi chùa này. Sau vì bận rộn quá nhiều Phật sự, thầy tôi giao ngôi chùa Linh Phong này lại cho thầy Trừng Hùng. Nay thầy tôi chỉ nhờ vả thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào hộ khẩu với lời nhắn rằng dù sao trước kia tôi cũng là một chú tiểu từng tu học ở đây, tức là muốn đứng về mặt tình cảm để nhờ thầy ấy giúp đỡ chứ không hề lấy uy quyền cựu trụ trì để ép thầy Trừng Hùng giúp tôi. Vậy mà thầy Trừng Hùng vẫn cứ muốn theo nguyên tắc hành chánh, hay thứ nguyên tắc cứng nhắc do chính thầy tự đặt ra để tôn phò, thẳng thừng đòi hỏi thầy tôi bệnh hoạn phải đích thân hạ san (Hải Đức) để thượng san (Linh Phong) mà đến nói chuyện hộ khẩu cho tôi. Cũng may thầy Thông Chánh bén nhạy nhận biết, chọc thủng cái nguyên tắc đó khi nó vừa manh nha.
Để xã giao, thầy Thông Chánh và tôi theo thầy Trừng Hùng lên chánh điện lễ Phật và đi dạo quanh chùa để biết thêm những đổi mới sau nhiều năm không đặt chân đến. Xuống đến dãy nhà phía đông của chánh điện, tôi gặp hai chú, một chú pháp danh là Phước Đức, một chú pháp danh là Nguyên Thể. Chú Đức chính là người mà thầy Trừng Hùng nói là từ Huế mới vào. Chú Thể cũng từ Huế vào nhưng từ trước năm bảy lăm. Chú Đức lớn hơn tôi khoảng năm, sáu tuổi, đã thọ Sa Di thập giới (sa-di có thể phân làm hai hạng, một hạng là Sa di ngũ giới, tức chỉ giữ năm giới cấm, về hình thức thì sa-di hạng này gồm các chú tiểu còn để chỏm, khi hành lễ chỉ mặc áo tràng lam; hạng thứ hai là Sa di thập giới, như chú Đức và tôi, giữ mười giới, đã cạo chỏm, đắp y vô-tướng, gọi nôm na là “y trơn”, nghĩa là loại ca-sa không có điều, không có những ô vuông như ca-sa của các thầy tỳ-kheo). Chú Thể đâu chừng mười bốn, mười lăm tuổi, còn để chỏm. Chú Đức da ngăm đen, tướng người vạm vỡ như lực sĩ trong khi chú Thể thì da trắng xanh, ốm nhom. Trong khi thầy Thông Chánh trò chuyện với thầy Trừng Hùng, tôi và chú Đức cũng trao đổi với nhau chuyện học hành, chuyện trường lớp trước năm bảy lăm, và chúng tôi đã trở thành bạn hữu thật nhanh chóng. Nói chuyện với nhau một lúc, chú Đức kéo tôi ra sân, vừa đi vừa nói:
“Khi nãy chú nói chú được thầy Tuệ Sỹ kèm học, phải không? Vậy là chú may mắn lắm đó. Nghe nói mấy thầy bên viện cũng như ở các chùa có xin học mà thầy ấy không dạy. Chú có thể xin thầy ấy cho tôi học chung với chú không?”
“À, có người học chung thì vui lắm chứ. Nhưng tôi chẳng biết thầy ấy có chấp nhận không nữa. Để tôi dọ ý trước xem sao.”
“Chú nói thầy ấy dạy chú ba môn chứ gì. Tôi chỉ xin học ké môn kinh Lăng Già thôi. Nói thực, từ ngày Phật học viện tan rã đến giờ, chẳng được học một chữ nào cả, buồn quá. Ở đây, tối ngày cứ đi cúng, chẳng ra làm sao hết. Nếu chú xin được cho tôi học kinh Lăng Già, tôi cám ơn chú hết sức đó.”
Thấy chú Đức hiếu học, tôi thực cảm động. Chợt nghĩ đến tình cảnh của chú và chú Thể hôm nay, trong lòng bỗng nghe bùi ngùi thương cảm. Nhớ lại ngày xưa, có dạo chính tôi cũng đã trải qua nửa năm nơi ngôi chùa này. Những khó nhọc nào hồi đó thì bây giờ tôi quên khuấy cả rồi, nhưng tôi chưa quên được rằng thầy Trừng Hùng vốn là mẫu người rất thủ cựu, khó tính. Tuổi trẻ nào đem vào ngôi chùa Linh Phong do thầy ấy trụ trì thì chắc chắn là phải trở thành tuổi già một cách nhanh chóng. Tự dưng tôi bỗng ái ngại thay cho chú Đức và chú Thể. Tôi hứa với chú Đức ngay về việc xin học với thầy Tuệ Sỹ.
Tự tay thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào sổ hộ khẩu, ở phần dưới của cuốn sổ dành cho những người tạm trú, nơi có sẵn tên của chú Đức. Như vậy, trong hộ khẩu chùa Linh Phong, chỉ có tôi và chú Đức là tạm trú. Thấy thầy Trừng Hùng ghi tên tôi vào sổ hộ khẩu rồi, thầy Thông Chánh mới chịu yên tâm kéo tôi về. Nhưng nghe nói là thầy Trừng Hùng cũng cần phải đem sổ hộ khẩu ấy xuống ủy Ban Nhân Dân địa phương để chứng nhận là có tên tôi mới được xin ghi vào, chứ không phải chủ hộ tự ghi là xong.
Qua ngày hôm sau, trong giờ học Anh ngữ, tôi xin phép thầy Tuệ Sỹ cho chú Đức cùng học với tôi môn kinh Lăng Già. Thầy có vẻ không được vui lắm, hơi do dự một lúc rồi mới đồng ý. Chiều đó, tôi qua chùa Linh Phong báo cho chú Đức biết để cùng học với tôi môn kinh Lăng Già vào ngày kế tiếp. Thầy Trừng Hùng biết được, gọi chú Đức lại, hỏi:
“Mi đã thuộc lòng hai thời công phu và bốn cuốn luật Sa Di chưa? Có biết là kinh Lăng Già rất cao, tao đây học qua mà chưa nắm vững mà bây đòi học thì sẽ không hiểu chi hết chăng!”
“Môn này do thầy Tuệ Sỹ giảng dạy thì lo gì chuyện không hiểu. Không hiểu thì hỏi, hỏi thì được giải thích thêm; hơn nữa, thầy ấy thừa biết trình độ người học để giảng giải chứ sao không! Chú Khang học được thì tôi cũng học được!”
“Thằng Khang đó à, hứ, hắn khác, mi khác. Hắn lúc nào cũng muốn đi băng, đi tắt ngang, học ngoài chương trình, học thêm, học kèm, lộn xộn, mất hết căn bản! Mi muốn hư như hắn à?”
Tôi đang đứng nói chuyện với chú Thể, nghe được lời qua tiếng lại giữa hai người lại có nhắc đến mình là “thằng hư” thì cũng giật mình. Té ra, trong mắt thầy Trừng Hùng, tôi là một đứa hư đốn, không có nền tảng...
Khi chú Đức đưa tôi ra cổng, tôi nói:
“Thôi, nếu chú không đi học được thì để tôi thưa lại với thầy Tuệ Sỹ. Nói thực với chú, tôi sợ thầy Trừng Hùng cho rằng tôi rủ rê chú...”
“Xì, ổng nói gì thì nói. Được học với thầy Tuệ Sỹ mà không học thì uổng!”
Vậy là từ đó, mỗi tuần một buổi, chú Đức qua viện Hải Đức học chung với tôi môn kinh Lăng Già. Tôi với chú càng lúc càng thân thiết với nhau hơn vì trong hoàn cảnh không Phật học viện của những năm mới đổi thay chính quyền, tôi và chú là hai tu sĩ trẻ duy nhất ở Nha Trang đang cùng học chung “một lớp”.

Phòng riêng của tôi là căn phòng khá đặc biệt vì nó không phải là một trong những căn phòng thuộc các dãy tăng phòng của viện. Những ngày đầu mới về Nha Trang, tôi được sắp xếp nằm ở một phòng tập thể sát bên hông chánh điện, chung với mấy chú tiểu. Sau đó chẳng bao lâu, tôi được thầy Thông Nghĩa (sư đệ của thầy Thông Chánh) giới thiệu cho một căn phòng bỏ trống rất lý tưởng. Đó là cái gác trống nằm phía bên trái của chánh điện. Hai bên chánh điện của chùa có gác chuông và gác trống. Hồi xưa, chuông trống được đặt trong hai căn gác này. Nay chuông trống cũng được đặt hai bên chánh điện nhưng ở ngoài, ngay trước cửa mở vào căn gác cho tiện. Hai căn gác bỏ trống, thầy Phước Châu (vị quản chúng của viện) chiếm cái gác chuông để nghỉ trưa (vì thầy có một phòng riêng khác rộng rãi hơn), còn lại cái gác trống, thầy Thông Nghĩa giao chìa khóa cho tôi, bảo tôi lấy đó làm phòng ở. Tôi vào xem, thấy thật là lý tưởng. Và có thể nói đó là lần đầu tiên trong đời, tôi được một phòng riêng, không chung đụng với ai khác. Căn gác gồm hai tầng. Tầng dưới ngoài cửa chính mở ra thềm trước của chánh điện còn có ba cửa sổ thật lớn ở ba hướng còn lại. Cửa sổ phía trong ăn thông với dãy phòng của mấy chú tiểu, tức là dãy phòng cũ mà tôi nằm trước đó, đã được đóng bít lại bằng ván ép dày. Cửa sổ đối diện với cửa ra vào thì mở ra hướng nam, nơi có những cây bông sứ cao lớn rợp bóng, gió lùa xì xào suốt ngày đêm; có cái “đơn” (tức là chiếc đi-văng loại một người nằm) đặt sát cửa sổ đó. Cửa sổ còn lại mở ra phía đông nam, tức là hướng chính diện của ngôi chùa. Từ cửa sổ này nhìn ra, có thể nhìn thấy những hàng dương và bạc hà cao lớn trước sân chùa; thấp thoáng sau những tàng lá rũ vi vút gió ấy là dãy núi Hoàng Ngưu xanh thẫm ở xa. Chiếc bàn học nhỏ đặt ngay nơi cửa sổ này. Diện tích của phòng đâu chừng mười hai mét vuông, kể ra thì khá hẹp, nhưng tôi cũng chẳng mong gì hơn thế nữa. Tôi chỉ cần một phòng riêng ngăn cách với mọi người, vậy là đủ. Huống chi, ngoài diện tích mười hai mét vuông ở tầng dưới, tôi còn có khoảng mười mét vuông khác ở tầng trên nữa. Bên cạnh cửa ra vào có một cầu thang bằng gỗ đưa lên tầng trên. Gác chuông trông nhỏ dần ở phía trên nên diện tích tầng trên hẹp lại. Tầng trên này trống trơn, chẳng có bàn ghế hay giường chõng gì. Bốn vách có bốn cửa khung tròn mang hình chữ Thọ, có thể coi như là bốn cửa sổ tròn, không có cánh cửa. Những khe hở từ bốn khung chữ Thọ này cũng đủ mang gió mát từ tứ phía lộng vào. Tuy có bất tiện là các khung chữ Thọ này không mở ra được, tầng trên cũng rất lý tưởng cho việc tĩnh tọa tham thiền. Các cửa sổ cao, khi đứng thì hưởng được gió mát, ngồi thì khuất gió. Đóng cửa ra vào, rồi đóng luôn cả cái nắp đậy cầu thang là có thể yên tâm tọa thiền, không sợ bị ai quấy rầy. Mà thực ra, gác trống của tôi nằm ở vị trí rất biệt lập, tách hẳn với các dãy tăng phòng khác, suốt ngày chẳng ai tới lui. Nửa tháng một lần sám hối lúc tám giờ tối mới có thiện nam tín nữ tụ tập ở khoảng thềm trước của chánh điện. Ngoài ra, chỉ vào ba tháng mùa hè mới có Phật tử tập trung tụng niệm vào giờ ngọ mỗi trưa. Khi họ tập trung làm lễ thì tôi cũng có mặt trên chánh điện để làm lễ, chẳng lấy gì làm phiền. Nhiều người trong viện, ngay cả thầy tôi, cũng chẳng biết rằng gác trống đã trở thành căn phòng riêng của tôi nên ít khi nào có người ghé vào phòng tôi. Đúng ra việc sắp xếp chỗ ở cho tăng chúng ở viện phải do thầy quản chúng đảm trách; nhưng từ sau năm bảy lăm, khi mà nhân số hai trăm người giảm xuống thành hai mươi mấy người thì việc sắp xếp không còn cần thiết nữa. Quá nhiều phòng bỏ trống, những người còn ở lại, ai muốn chọn phòng nào thì chọn, sở dĩ những ngày đầu, thầy tôi sắp tôi ở chung với mấy chú tiểu vì không muốn lạm dụng uy tín của thầy để cho tôi một phòng riêng chung dãy với quí thầy lớp trước. Căn phòng ở gác trống, thực ra không phải là căn phòng chính thức; tôi có chiếm giữ nó cũng sẽ không ảnh hưởng gì đến sinh hoạt của các thầy tỳ kheo trong viện cả. Do đó, sau này, khi biết được tôi ở gác trống không do sự sắp xếp của thầy hay vị quản chúng, thầy cũng hoan hỉ chứ không rầy trách gì.
Do vị trí gác trống tọa lạc ở một góc riêng biệt, thanh vắng và gần với sân trước của ngôi chánh điện, tôi thường rảo bộ và ngồi nơi thềm đá gần trụ cờ để ngắm cảnh chiều tà kéo lê những vệt nắng cuối cùng trên đồng lúa bát ngát phía đông nam. Đồng lúa ấy bắt đầu từ xã Đồng Nai gần Phước Hải và biển Nha Trang, ngang qua núi Hoàng Ngưu và Đồng Bò, song song với quốc lộ I chạy dài đến tận các xã phía nam của thành phố Nha Trang. Khoảng kết thúc của đồng lúa lại được nối liền với rừng dừa và con sông Nha Trang ở phía tây và tây nam của Nha Trang, cảnh trí chung quanh tôi là sự nối kết bất tận của những màu xanh. Trời xanh, biển xanh, núi xanh, đồng xanh, rừng xanh, sông xanh và gần tôi nhất, lá xanh từ các ngọn cây tỏa ra, rũ xuống, vươn lên, từ tứ phía. Nhưng giữa một vòm trời đất xanh xanh ấy, tôi vẫn thường thích thú dõi theo những cánh cò trắng bay từ phía Đồng Nai ngang qua ruộng lúa gần Đồng Bò, vượt khỏi những đọt cây cao dọc quốc lộ, vòng sau lưng ngôi chùa Kim Sơn trên một ngọn núi khác ở phía nam, thấp thoáng qua bãi sương lam trên những rặng dừa, rồi mờ hẳn trong ráng hồng rực rỡ ở phía tây nam. Ngày nào cũng như ngày nào, cứ vào khoảng sau sáu giờ một chút, có một đàn cò trắng, xếp thành hình chữ V, bay qua. Năm phút sau, lại có một đàn cò khác, cũng xếp thành hình chữ V, bay qua. Rồi đâu chừng ba phút sau nữa, có con cò bay một mình, đuổi theo đàn cò thứ nhì. Có lẽ đó là con cò ham chơi, lúc nào cũng về muộn. Cũng có thể nó là con cò yếu sức nhất, không theo kịp sức đập cánh của đàn. Mà không biết chừng nó là con cò thích bay lẻ, thích một mình vỗ cánh thong dong vào những phút muộn màng nhất sau một ngày đi hoang. Tự dưng tôi thấy thích con cò lẻ ấy. Và như vậy, mỗi khi chờ ngắm hai đàn cò kia bay qua, bao giờ tôi cũng hồi hộp chờ đợi con cò bay lẻ phía sau, như thể chính nó mới thực sự thể hiện được kiếp sống và đường bay cô liêu kỳ tuyệt giữa lằn ranh huyền ảo của đất trời thiên thu.

Chiều hôm ấy, giờ Hán văn, tôi đến phòng thầy Tuệ Sỹ. Từ xa, tôi đã nghe tiếng đàn tây-ban-cầm (guitar) từ phòng thầy vọng ra, lúc trầm ấm, lúc réo rắt. Tôi bước nhẹ vào phòng thầy, khẽ kéo chiếc ghế, ngồi xuống một bên, chờ đợi. Ngón đàn của thầy vô cùng điêu luyện. Lúc đó, tôi chưa học đàn, chưa biết đàn, nhưng cũng có chút nhạy bén về âm nhạc để thưởng thức tài nghệ độc tấu tây ban cầm của thầy (vì dù sao, từ thuở nhỏ, tôi đã từng nghe các anh chị trong nhà đàn địch ca hát, và chiếc máy hát trong nhà tôi cũng đã từng phát thanh liên tục nhiều giờ trong ngày qua yêu cầu của khá nhiều sở thích dị biệt trong nhà). Bản nhạc thầy đang đánh là một bản nhạc cổ điển Tây phương tôi chưa từng nghe qua thì phải. Nhưng bản nhạc quen hay lạ đối với tôi lúc đó không quan trọng lắm; chỉ cái phong cách vừa trình tấu vừa thưởng thức một cách đam mê của thầy ấy mới thực sự làm tôi rung động, thích thú và bị cuốn theo dòng nhạc lúc nào không hay. Thầy nằm trên đi-văng, gối đầu hơi cao, hai tay ôm đàn, mắt nhắm lim dim, mười ngón tay như những vũ công tinh thuần, nhảy múa nhịp nhàng và uyển chuyển trên những phím đàn với những tiết điệu lúc thăng, lúc trầm, lúc êm dịu, lúc bập bùng xôn xao... Và ở tấu khúc chót của bản nhạc, tôi nghe chừng như từng đợt sóng nước tràn níu vào bờ xanh, lung lay những lá cỏ trên bãi cát vàng, và một con cò trắng vụt bay lên, bay lên... Thầy ấy như đắm mình trong một trạng thái xuất thần, nơi đó chỉ có sự trôi lướt của những thanh âm và sự im lặng, nối đuôi nhau, rồi cuống quít quyện vào nhau, lan tỏa ra, tràn ngập, tràn ngập... Tôi cũng hoàn toàn chìm lắng vào dòng âm ba vi diệu đó.
Tiếng đàn ngưng bặt khá lâu rồi mà tôi vẫn còn như thất thần ngồi im một chỗ. Đến khi thầy ấy hỏi tới, tôi mới giật mình.
“Vào lâu chưa?”
“Dạ... cũng mới thôi,” tôi đáp.
Thầy đến bàn nước pha cà-phê, hớp vài hớp, hút xong một điếu thuốc, rồi thầy bắt đầu dạy tôi môn Hán văn với bài Dằng Vương Các Tự của Vương Bột, bậc kỳ tài được xưng tụng là một trong Tứ kiệt của thời Sơ Đường, Trung Hoa.
Thầy kể tôi nghe rằng năm đó đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Dư đãi tiệc ở gác Đằng Vương, mời hết các văn thi sĩ cùng các đại gia vọng tộc đến để xin mỗi người một bài tự trong bữa tiệc, mục đích là để khoe tài văn chương thi phú của người con rể. Vương Bột từ xa đi thuyền buồm đến cũng vừa kịp lúc nhập tiệc. Đô đốc Hồng Châu thấy Vương Bột nhỏ tuổi (mới mười lăm, mười sáu), có ý khinh dễ, không mời tham gia viết bài tự. Sau vì nể lời các đại văn nhân khác mà miễn cưỡng trao giấy bút cho Vương Bột viết thử. Vương Bột cầm bút viết một mạch. Viết đến đâu, có người của đô đốc chép lại từng đoạn đem dâng đô đốc xem thử; đô đốc đọc qua mấy đoạn đầu liền giật mình.
“Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ; Tinh phân Dực, Chẩn, Địa tiếp Hành, Lư. Khâm Tam Giang nhi đái Ngũ Hồ, Khống Man Kính nhi dẫn Ầu Việt. Vật hoa thiên bảo, Long quang xạ Ngưu, Đẩu chi khư; Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp...”
Đến đoạn bất hủ của Vương Bột thì đô đốc run lên bần bật, không dám đem bài tự của chàng con rể đưa ra nữa. Đoạn ấy như sau:
“Hồng tiêu vũ tễ,
Thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng trưởng thiên nhất sắc. ”

(Thuở ấy tôi chưa dịch nổi, nhưng sau này, tôi có thể tạm dịch sát nghĩa như vầy: Khi cầu vồng tan và mưa tạnh hẳn, muốn sắc ảnh chiếu rực rỡ trên đường mây. Có con cò lẻ cùng bay với ráng chiều, trong khi làn nước thu và vòm trời rộng thì chung một màu bạc ánh).
Khi thầy Tuệ Sỹ đọc và dịch qua bốn câu ấy, nhất là hai câu sau, tôi cũng run lên bần bật như đô đốc Hồng Châu năm xưa vậy.
Chiều hôm đó, tôi không dám ngồi trước thềm rêu trước sân chùa để dõi theo bóng con cò lẻ bay ngang đồng lúa. Không dám làm nhưng rất thèm muốn. Vâng, dù đóng cửa phòng, leo lên gác trống cao, ngồi khuất dưới bốn khung chữ Thọ, tâm tôi vẫn như làn nước thu, ảnh hiện đường bay cô độc của con cò trắng lướt qua cùng mây chiều.
Qua ngày hôm sau, tôi viết một lá thư thật ngắn cho thầy Tuệ Sỹ:
“Kính thầy,
Con không học nữa, không đủ sức học nữa. Nếu một ngày nào đó con có thể đi học lại bình thường, mong thầy đón nhận. Và quan trọng nhất, xin thầy đừng giận trách về việc bỏ học của con hôm nay. ”

Tôi cũng báo cho chú Đức biết để chú khỏi phải đến học kinh Lăng Già với thầy Tuệ Sỹ nữa, vì tôi không học thì có lẽ thầy cũng không muốn dạy lớp đó nữa. Chú Đức la lên:
“Trời ơi, tôi có một giờ học như vậy mà chú báo hại làm cho mất luôn!”
Tuy vậy, chú ấy cũng cười vui với tôi, chẳng hỏi lý do vì sao tôi quyết định bỏ học. Đó cũng là thói quen của Đức. Chú thường chờ đợi tôi tự động giải thích hơn là nêu câu hỏi.
Còn thầy Thông Chánh là người biết sớm nhất, hỏi tôi:
“Sao, có chuyện gì vậy? Đâu phải chú học không nổi, phải không? Hay chú thấy mệt? Có bệnh trở lại không?”
“Không. Con không bệnh, nhưng... Con thấy hình như có một cái gì uổng phí khi tốn quá nhiều thì giờ để vào lớp, để làm bài...”
Thầy Thông Chánh cười, nhưng nói với giọng rất buồn:
“Học hành chẳng bao giờ uổng phí thì giờ cả. Không nỗ lực lúc trẻ thì sẽ ân hận sau này, như bản thân tôi đây, chừng này tuổi mà có làm được tích sự gì đâu.”
Tôi nhìn thầy ấy, tính nói một câu, nhưng không nói, chỉ nghĩ thầm trong bụng:
“Thầy thì lúc nào cũng khiêm cung, tự hạ; thực ra, chính bản thân thầy, cuộc đời tu hành của thầy đã là một tuyệt tác rồi... Cần gì phải làm nên tích sự gì khác bằng vốn liếng sách vở!”
Thấy tôi chẳng nói năng gì, thầy Thông Chánh khoác tay, bảo đừng bàn tới chuyện đó nữa, khi nào có hứng cảm học hành thì lo học. Thầy ấy lúc nào cũng dễ thương, cũng thông cảm và chiều chuộng tôi như vậy.
Ít hôm sau, mẹ tôi đến chùa, tìm gặp tôi, nói liền:
“Thầy Tuệ Sỹ có cho me biết là con bỏ học. Thầy nói con thông minh, học được lắm, mà sao lại bỏ học, thầy chẳng hiểu. Thầy bảo me khuyên con nên học lại, đừng có ham chơi...”
“Con không biết nữa. Chỉ thấy là không học được, cần phải nghỉ học. Con không muốn học bất cứ cái gì trong thời gian này.”
Thuyết phục tôi không được, mẹ tôi về.
Nửa tháng sau, thầy Tuệ Sỹ nhập thất, không tiếp xúc ai, không ra khỏi phòng, trong vòng một tháng. Và trong vòng một tháng thầy Tuệ Sỹ nhập thất, tôi bắt đầu đọc thơ của nhiều thi sĩ từ thơ Đường Trung Hoa cho tới các thi nhân Việt Nam tiền chiến, hiện đại... rồi tôi tập làm thơ. Tôi tưởng tôi sẽ là thi sĩ và sẽ sống với thơ, thơ, thơ, là đủ hạnh phúc rồi, không cần phải học hành chi nữa. Cái ngông cuồng đó là do từ đâu? Tôi không rõ. Có thể là do bẩm tính ham chơi biếng học có sẵn từ nhỏ. Có thể do tác động từ chính con người thơ mộng của thầy Tuệ Sỹ. Mà cũng có thể là do ở phía trời xa, mỗi lúc chiều tà, có một con cò trắng nhỏ, một mình bay ngang lưng núi thẳm, khuất dần trong cụm mây chen ánh hồng rực rỡ ở trời tây... Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018

Chương bảy

Có thể nói là do ở tuổi mới lớn, cùng với cái tâm lười biếng một cách đáng ghét của một kẻ vừa khỏi bệnh, nên khi được đặt vào hoàn cảnh thơ mộng của chùa Hải Đức, tôi bỗng dưng trở nên hư hỏng, buông thả, dễ dãi với chính mình một cách quá đáng. Quen với cái đà “dưỡng bệnh”, tôi hầu như đánh mất đi ý thức tự nguyện khép mình vào kỷ luật và cả thời khóa tu tập hàng ngày mà tôi vẫn thường tinh tấn theo đuổi xưa nay. Khi nào đến phiên tôi tụng kinh thì tôi đắp y lên điện Phật tụng kinh; ngoài khóa lễ được thầy quản chúng cắt đặt đó, tôi không hết lòng thiền định hay trì tụng danh hiệu Phật trong phòng riêng nữa. Nói “không hết lòng” có nghĩa rằng ngay cả trong những lúc đang tọa thiền, tôi cũng không được định tâm cho lắm; và tôi cũng chẳng có chút cố gắng nào trong việc kềm giữ tâm ý mình khi biết nó đang chạy rông như một con ngựa bất kham. Quả thực là tâm chí tôi đã vô cùng xuống dốc. Đôi lúc thức dậy nửa đêm, tôi ngồi lặng trên giường, tự phản tỉnh, tự răn nhắc chính mình, nhưng rồi đâu vẫn vào đấy. Khi chuông báo thức buổi khuya trổi lên, tôi cũng thức dậy theo mọi người, nhưng đó chỉ là thức theo thói quen, chứ không phải thức dậy để tọa thiền hay tụng niệm. Và thay vì dành những giờ phút thanh tịnh buổi sớm để lắng tâm tu tập, tôi đọc sách, đọc truyện, có khi là những truyện tiểu thuyết trữ tình. Đối với một người thế tục, sinh hoạt như thế kể cũng khá lành mạnh rồi: dậy sớm, đọc sách đọc truyện chứ có phải cờ bạc rượu chè hay làm hại gì ai đâu! Nhưng đối với một tăng sĩ ở chùa, hay đối với chính tôi, một thằng tôi đang ở tình trạng sa đà buông lung nhất, tôi cũng tự biết, tôi đã dần dần trở thành một “phi hảo tăng”, tức là tăng sĩ không tốt—đây là từ thông dụng trong chùa, đọc thấy trong luật Sa-di Oai Nghi. Không có sự đau khổ nào to lớn bằng cái đau khổ của một kẻ tự biết mình sa lầy mà không bấu víu hay níu kéo vào đâu được để ngoi lên.
Nhớ năm xưa mới xuất gia, được thầy chỉ dạy, tâm chí tôi bừng bừng hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ, nhất định cầu làm Phật, bằng không thì cũng làm một vị tăng chân chính, xứng đáng là rường cột của đạo pháp. Không bao giờ tôi có thể tưởng được rằng có ngày tôi xuống dốc một cách tàn hại như vầy. Đã có lúc tôi hứa sẽ quyết tâm vượt qua, nhưng rồi ý chí tôi mềm lũn, và tôi lại dấn bước vào sự dễ dãi, buông xuôi, mặc tình cho tháng ngày trôi qua.
Tôi từng có cảm giác là mình trở nên mới mẻ hơn từ lúc vừa hết bệnh ở Hội An, từ lúc lên xe đò trở về Nha Trang. Nhưng phải chăng con người mới của tôi là như thế này? Tôi thực không hiểu sao tôi không còn chút năng lực hay chút quyết tâm nào để chống lại sự buông thả tâm ý của mình. Không những tôi bắt đầu tập tành làm thơ, viết văn, học nhạc, thổi sáo, đàn và ca hát...
Tất cả những thứ kể trên, những trò tiêu khiển của những người lớn thế tục, tôi đều hăm hở tự học lấy. Viết văn, làm thơ, tôi say mê viết những truyện dài đầu tay của mình vào thời gian ấy; ngoài ra, tôi còn làm cả một tập thơ trên trăm bài. Học đàn, tôi nhờ người ta mua giúp một cây đàn ghi-ta cũ, rồi tự tôi xuống phố mua cuốn sách Tự Học Tây Ban cầm của Lan Đài và Hoàng Bửu, tự học mò lấy cho qua phần nhạc lý căn bản, sau đó, thỉnh thoảng tôi ghé về nhà vài tiếng đồng hồ để anh tôi chỉ thêm về phần thực hành. Với sự miệt mài tập luyện, tôi mau chóng nắm vững các thế bấm hợp âm (gamme) để đệm hát. Rồi tôi lại tập hát. Có bao nhiêu tập nhạc ở nhà, tôi mượn hết, bất kể là loại nhạc gì. Như vậy, từ dân ca đến tình ca của Cung Tiến, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn Từ Linh, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Đức Huy... tôi đều hát qua. Tôi cũng thuộc lòng khá nhiều bản tình ca trong khi trái tim quê mùa của tôi chưa biết nhảy đập gì theo điệu yêu đương cả. Học sáo, tôi mua cây sáo trúc ở một hiệu sách, mua cả cuốn băng nhạc và sách dạy thổi sáo của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa. Chỉ trong vòng vài tháng, tôi đã nghiễm nhiên trở nên một “người lớn”; không những chỉ là người lớn, mà còn là một “nghệ sĩ”. Vâng, khi làm tất cả những điều trên, quả là tôi cảm thấy mình có vẻ như một người lớn, một nghệ sĩ thực thụ. Làm sao có thể phủ nhận được rằng một kẻ thức khuya dậy sớm, ngồi viết văn làm thơ bên tách cà-phê đen nóng, hoặc ngồi đàn ca một mình dưới những đêm trăng... lại chẳng phải là một người lớn, một nghệ sĩ!
Hệ quả của sự ham thích làm người nghệ sĩ là tính chất ướt át lãng mạn bắt đầu manh nha trong cách diễn đạt văn thơ của tôi. Cho nên, khi đọc một vài bài thơ của tôi, thầy Thông Chánh đã tỏ ý lo ngại, hỏi tôi:
“Sao bài nào cũng có chữ em hết vậy? Em là ai? Có phải là chú có một đối tượng thương yêu kiểu trai gái ngoài đời?”
Tôi ngụy biện:
“Không, có ai đâu, em ở đây chỉ là nhân cách hóa, cụ thể hóa chân lý mà thôi. Tôi tìm em có nghĩa là tôi tìm chân lý đó mà.”
Dù tôi đã giải thích như vậy, thầy Thông Chánh cũng không yên tâm. Thầy nói:
“Chân lý đó đâu cần phải cụ thể hóa bằng một từ ngữ gợi hình gợi ý như vậy! Mà cần gì phải cụ thể hóa, chân lý thì cứ nói là chân lý chứ cần gì phải gọi bằng em! Nguy hiểm lắm chứ chẳng lợi ích chi cả. Chú không biết là ngôn từ cũng có đời sống riêng và mỗi chữ, mỗi tiếng nói đều có biểu tượng của chúng sao! Khi chú lặp đi lặp lại từ ngữ em, không phải là một hình ảnh nào đó hiện lên trong đầu chú sao? Chân lý của chú sẽ mượn hình ảnh một nữ nhân để đến với chú. Rồi chú sẽ làm gì với cái chân lý đó?”
Tôi cười, không đáp. Có lẽ thầy Thông Chánh không nhớ hoặc không cảm thấy như tôi lúc đó rằng những bài thơ có đầy những chữ như chân lý, lý tưởng, lý trí, thể tính, trí tính, trí tuệ, trí thức, tri thức... thì chẳng còn gì là thơ. Nhưng tôi cũng đâu có quên là thầy Thông Chánh từng nhắc nhở tôi rất nhiều về chuyện đề phòng nữ nhân. Một câu tôi nhớ hoài là: “Ninh dĩ xích đồng uyển chuyển nhãn trung, bất dĩ tán tâm tà thị nữ sắc” (có nghĩa là: “Thà lấy thỏi đồng nung đỏ lăn vào mắt chứ không đem cái tâm tà vạy để liếc nhìn sắc đẹp của nữ nhân”). Những lời khuyên nhắc ấy trước kia tôi rất trân trọng vì biết đó là thiện chí hướng dẫn, bảo vệ của thầy ấy dành cho một người sơ tâm, bản lãnh yếu kém như tôi. Với kinh nghiệm tu tập nhiều năm, chứng kiến nhiều người vấp ngã, thầy ấy không muốn thằng bé ngoan hiền, mới lớn như tôi phải sa chân vào những cạm bẫy. Thầy ấy vẫn còn muốn dìu tôi đi từng bước thận trọng, chín chắn. Nhưng bây giờ, những lời khuyên nhắc của thầy ấy đã mất hết tác dụng. Tôi nghĩ tôi đã thành người lớn và tôi muốn tự mình sắp đặt đời sống của chính mình. Tôi không muốn bất cứ ai kiểm soát hay răn nhắc gì tôi nữa—ngay cả thầy bổn sư của tôi cũng vậy, tôi chỉ thấy thầy nhìn tôi từ xa, im lặng; có lẽ thầy đã nhìn rõ hiện tượng “nên người” từ tôi, nên để mặc tình tôi tự do sinh hoạt chứ không can dự vào như hồi tôi còn bé. Chỉ có tình cảm thân thiết giữa tôi với thầy Thông Chánh là còn dùng dằng, dây dưa một thời gian ngắn, rồi mỗi lúc mỗi trở nên xa cách dù rằng chúng tôi vẫn còn sống chung trong một mái viện, ăn chung trong một phòng ăn, tụng kinh chung nơi một đạo tràng... Tất cả đều bắt nguồn từ sự ương ngạnh của tôi, từ ý chí muốn tự lập của tôi. Dĩ nhiên khi tôi trưởng thành, có ý chí tự lập, thì đó niềm vui cho những người đã từng hướng dẫn, giáo dục tôi. Nhưng nếu sự trưởng thành ấy chỉ là sự tăng trưởng của một cái bản ngã, hay là sự lớn mạnh bề mặt của một cơ thể theo thời gian và tuổi tác thì điều này lại khác. Huống chi chính vì hăm hở chạy theo ảo tưởng trưởng thành ấy mà tôi ngấm ngầm cắt đứt sự liên hệ tốt đẹp xưa nay giữa tôi và thầy Thông Chánh. Sự kiện này, có khi tôi tự thấy là vô ơn, bạc bẽo. Tôi không thể ngờ được là nó có thể xảy ra cho một chú tiểu vốn ngoan ngoãn biết nghe như tôi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,666
Posts: 14176
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 11 guests