CUỘC CÁCH MẠNG NỘI TÂM*
* Trong chương này, tác giả nêu lên quan niệm của mình về ý nghĩa của hoạt động chính trị tại xã hội Ấn Độ, một xã hội hết sức phức tạp với nhiều đảng phái chính trị, nhiều tôn giáo, nhiều phân chia giai cấp, nhiều thành phần xã hội (ND).Trước khi con tàu khởi hành thì đây thật là một cảnh tượng hối hả ngược xuôi. Đoàn tàu dài được chất đầy toa, tràn ngập cả người và khói thuốc; mỗi khuôn mặt hành khách giấu kín sau một tờ báo; thế nhưng thật may là cũng còn một vài chỗ trống. Con tàu điện không bao lâu đã ra khỏi các vùng ngoại ô, xe tăng tốc chạy xuyên qua những vùng làng mạc, qua mặt cả ô tô và xe buýt trên đường quốc lộ chạy song song với đường rầy. Đây là một vùng quê tuyệt đẹp, xanh tươi, những ngọn đồi thoai thoải với vài thị trấn cũ xưa còn ghi nhiều dấu ấn lịch sử. Hôm nay là một ngày đầu xuân, ánh mặt trời sáng nhẹ, các loại cây ăn quả vừa mới hé những nụ hoa sắc hồng và trắng. Cả miền quê xanh mướt, tươi trẻ; những chiếc lá non láng bóng rung rinh trong ánh nắng. Thật là một ngày của thiên đường nhưng đoàn tàu thì đầy cả những con người mệt lử và không khí thì ngập ngụa khói thuốc. Một cô gái nhỏ ngồi với mẹ bên kia lối đi và người mẹ đang giải thích cho con không được nhìn ngó người lạ, thế nhưng cô bé không để ý gì lắm và vì vậy chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. Kể từ đó cô xem ra thấy tự nhiên hơn, hay ngước nhìn xem thử có ai ngó mình không và mỉm cười khi ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Bây giờ thì cô đang buồn ngủ, nằm co trên ghế và bà mẹ đắp cho cô một chiếc áo.
Thật là vui thích được chạy dọc theo con đường xuyên qua những cánh đồng, nằm trong vô số vẻ đẹp và sự trong lành. Trên con đường lát đá, mọi người vẫy tay chào khi xe chúng tôi ầm ầm chạy qua. Những con bò trắng chậm chạp kéo xe chất đầy phân bón, vài ông lái xe hẳn đang hát vì miệng họ mở to; nhìn trên mặt ai cũng đoán được họ đang vui thích trong không khí mát dịu buổi sáng. Những cánh đàn ông, đàn bà trên cánh đồng đang cuốc đất, trồng cây, gieo hạt.
Tôi bước dọc lối đi, giữa hai hàng ghế, lên đến đầu tàu. Tôi đi ngang toa hàng ăn, qua khỏi nhà bếp, mở cánh cửa và đi vào trong toa chứa hành lý. Không ai ngăn tôi lại cả. Nhiều va-li được xếp ngăn nắp trên giá đựng hành lý, nhãn hành lý tung bay trong hơi gió lùa. Tôi đi ngang qua một khung cửa khác và ở đó có hai tay lái tàu. Bao quanh tôi toàn là những chiếc cửa sổ to rộng, chúng cho ta một cái nhìn không chút chướng ngại về cảnh vật đồng quê thật dễ thương. Một trong hai người đang điều khiển bộ phận điện, trước mặt anh là nhiều thứ đồng hồ. Người kia ngồi nhìn và nhàn rỗi hút thuốc, anh nhường chỗ ngồi cho tôi, lấy một chiếc ghế đẩu ngồi sau lưng. Anh nhất định đòi tôi phải ngồi và bắt đầu nêu vô số câu hỏi. Giữa các câu hỏi, anh lại dừng để chỉ các lâu đài trên đỉnh đồi, một vài tòa trong đó đã đổ nát, một vài tòa khác còn được giữ gìn cẩn thận. Anh giải thích ý nghĩa của những thứ đèn xanh đèn đỏ nọ và mỗi lần cứ đến ga là vén đồng hồ lên xem đúng giờ hay không. Chúng tôi chạy với vận tốc chừng từ 100 đến 110 km/giờ, vòng quanh các đường cong, leo lên những độ dốc thấp, qua những chiếc cầu cũng như chạy những đoạn dài và thẳng; nhưng không bao giờ quá 110 km/giờ. “Nếu trạm vừa rồi mà ông ra khỏi xe, lấy một chiếc khác”, anh nói, “ông sẽ đến một thị trấn mang tên một vị thánh nổi tiếng”. Đẩy cần máy hết mức, chúng tôi chạy ào ào qua những trạm với những địa danh của những ngày tháng xa xưa. Thế rồi chúng tôi chạy dọc theo một bờ hồ xanh biếc mù sương, chỉ vừa nhìn được thị trấn bên kia bờ. Thời xưa có một trận chiến nổi tiếng đã xảy ra nơi đây mà kết quả của nó đã định đoạt số mệnh của những người sống tại vùng này. Chúng tôi sớm đi qua chiếc hồ, leo lên khỏi lũng, bò quanh những ngọn đồi, bỏ lại đằng sau những cây ô-liu và cây bách, đến một vùng quê lởm chởm hơn nhiều. Người ngồi sau tôi gọi tên một con sông nhiều bùn khi chúng tôi đi qua, xem ra sông hơi nhỏ và quá hiền lành so với tên tuổi tiếng tăm của nó. Người kia, tay rời cần lái chỉ một hai lần trong suốt hai tiếng rưỡi đồng hồ lái con tàu, thay mặt cho cả hai xin lỗi không nói được tiếng Anh. “Nhưng không sao”, anh nói, “vì ông hiểu được thứ tiếng tuyệt vời của chúng tôi”.
Chúng tôi đến ngoại ô của thành phố lớn và bầu trời xanh đã sẩm lại vì khói mù của đô thị.
Chúng tôi ngồi trong một căn phòng nhỏ nhìn ra vùng hồ tuyệt đẹp và không khí thật yên tĩnh mặc dù lũ chim ríu rít vui đùa. Trong nhóm có một người đàn ông cao lớn, tráng kiện và cương nghị, với đôi mắt tinh mà dịu, với một lối nói chậm rãi và cân nhắc. Vì anh đang ham được nói, mọi người khác đều im nghe, thế nhưng họ cũng tham gia câu chuyện khi thấy cần thiết.
“Từ nhiều năm nay tôi tham gia chính trị và làm những gì mà tôi thật tâm nghĩ là tốt cho đất nước. Điều đó cũng không có nghĩa là tôi không tìm kiếm quyền hành và địa vị. Tôi có tìm kiếm nó thật, tôi đấu tranh chống lại kẻ khác cũng vì nó, và chắc ông cũng biết, tôi đã đạt được nó. Cách đây nhiều năm, tôi nghe đến ông lần đầu, và mặc dù nhiều điều ông nói là đúng nhưng tất cả quan niệm sống của ông chỉ làm tôi quan tâm một cách tạm thời, chưa bao giờ nó bắt rễ trong tôi. Thế nhưng, trong những năm qua, với tất cả những cuộc đấu tranh và đau xót, có một cái gì đã chín dần trong tôi; và trong thời gian gần đây lúc nào tiện thì tôi cũng tham dự các cuộc nói chuyện và thảo luận của ông. Tôi thật sự nhìn ra được những gì ông nói, chúng là phương cách duy nhất để thoát ra khỏi những khó khăn lầm lạc của chúng ta. Tôi đi nhiều nơi như châu Âu, Mỹ và cả tại Nga, tôi cũng tìm kiếm những giải pháp. Tôi cũng tham gia đảng phái và thành tâm hợp tác với các nhà lãnh đạo. Thế nhưng bây giờ tôi rút lui khỏi mọi thứ. Tất cả đều lụn bại và vô hiệu, mặc dù trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác tôi cũng có một số tiến bộ. Sau khi đã suy nghĩ nhiều về điều này, tôi bắt đầu xem xét lại từ đầu, và bản thân tôi cũng sẵn sàng tiếp thu một cái gì mới mẻ và sáng tỏ”.
Muốn xem xét, ta không được bắt đầu với một kết luận, với một lời tuyên thệ trung thành hay với một thành kiến; ta không được có ham muốn sẽ thành công, không được đòi hỏi phải có hành động tức khắc sau đó. Nếu ta kẹt vào một trong những thứ đó, sự xem xét đích thực hoàn toàn không thể xảy ra. Để xem xét từ đầu toàn bộ vấn đề của cuộc sống, tâm phải cởi bỏ hết động cơ cá nhân, bỏ mọi tâm trạng bối rối, bỏ mọi sự tầm cầu quyền lực cho bản thân mình hay cho phe nhóm, vì thực ra cả hai chỉ là một. Phải thế không, thưa ông?
“Xin đừng nói “thưa ông”! Dĩ nhiên đó là phương cách duy nhất để xem xét và hiểu ngộ mọi thứ nhưng tôi không biết có đủ khả năng làm được thế không?”.
“Khả năng” đến với sự chuyên chú trực tiếp và hồn nhiên. Muốn xem xét những vấn đề khác nhau của cuộc sống, chúng ta phải bắt đầu nhưng đừng dính mắc vào bất cứ thứ triết học nào, ý thức hệ nào, hệ thống tư duy nào hay mẫu hình hành động nào. Khả năng hiểu ngộ không phải là một vấn đề của thời gian mà nó là sự nhận thức tức khắc, phải thế không?
“Nếu tôi biết vật gì là độc hại thì tránh nó là điều rất dễ, tôi chỉ cần đừng đụng đến nó. Tương tự như thế, nếu biết mọi kết luận chỉ ngăn chặn tôi không cho xem xét được tất cả vấn đề của cuộc sống thì dĩ nhiên mọi kết luận, dù có tính cá nhân hay tập thể, đều tự rơi rụng. Tôi chẳng cần tranh đấu để thoát khỏi chúng. Không phải thế sao?
Đúng, thế nhưng một nhận thức rõ ràng về một sự kiện không phải là bản thân sự kiện. Thật sự thoát khỏi mọi kết luận là một điều hoàn toàn khác*. Một khi con người thấy mỗi thành kiến đều ngăn cản một sự xem xét toàn triệt, thì ta cố gắng nhìn vấn đề không thành kiến. Thế nhưng vì thói quen, tâm có khuynh hướng rơi lại vào óc tôn thờ thẩm quyền, vào truyền thống bắt rễ đã sâu, và ta cũng cần phải ý thức về các khuynh hướng này, đừng để chúng can thiệp vào sự xem xét của ta. Nên nhớ kỹ điều này rồi chúng ta tiếp tục câu chuyện. Bây giờ, điều gì là yêu cầu cơ bản nhất của con người?
* Nơi đây tác giả nói đến một vấn đề hết sức quan trọng, đó là sự khác biệt giữa cái biết của trí năng (intellectual) và cái biết đích thực, cái biết hồn nhiên. Nơi đây người ta dễ nghĩ đến các câu chuyện thiền, trong đó người hỏi hãy bị dính mắc vào cái biết trí năng, còn thiền sư đứng trong vị trí của cái biết hồn nhiên. Thường thì các vị thiền sư im lặng hay trả lời một cách nghịch lý, còn Krishnamurti thì sẵn lòng dùng ngôn từ giảng giải, mặc dù ông biết người nghe không mấy ai lĩnh hội (ND). “Thực phẩm, áo quần, nhà ở; thế nhưng phân phát một cách công bằng những thứ này cho tất cả mọi người thật là một điều khó vì tính chất của con người là tham lam và muốn độc chiếm”.
Hẳn ông cho rằng con người được động viên và giáo dục bởi xã hội nên hôm nay mới có những tính chất đó? Bây giờ, hẳn ông tin là một xã hội khác, bằng pháp luật hay các thứ cưỡng bách khác, sẽ buộc con người không tham lam và độc chiếm nữa; thế nhưng nó chỉ sinh ra một phản ứng ngược lại và như thế sẽ có mối mâu thuẫn giữa một bên là cá thể và bên kia là ý hướng do Nhà nước hay do một nhóm người có quyền lực đặt định ra. Muốn có một sự phân bố công bằng về thực phẩm, áo quần hay nhà ở, cần thiết phải có một hình thái tổ chức xã hội hoàn toàn khác, không phải sao? Thực tế là quốc gia với chính phủ riêng biệt của họ, các phe nhóm quyền lực và các cơ chế kinh tế chống đối lẫn nhau, cũng như hệ thống phân chia giai cấp và các định chế tôn giáo - mọi phía đều tự cho giải pháp của mình là đúng đắn duy nhất. Tất cả những thứ này cần phải chấm dứt, điều đó có nghĩa là toàn bộ quan niệm tập quyền, do thẩm quyền xây dựng nên, quan niệm sống đó cần phải chấm dứt.
“Tôi thấy đó mới thực là một cuộc cách mạng”.
Đó là một cuộc cách mạng triệt để về mặt tâm lý và cuộc cách mạng như thế thật là thiết yếu nếu ta muốn khắp nơi trên thế giới không ai phải thiếu thốn các điều kiện vật chất cơ bản. Trái đất là của chúng ta, không phải là của Anh, Nga hay Mỹ, không phải là của tín đồ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo. Tất cả mọi thứ phân biệt này cần phải ra đi nếu chúng ta muốn có một cơ chế về kinh tế và xã hội hoàn toàn khác. Cơ chế này phải bắt đầu với ông và tôi.
“Liệu tôi có thể hoạt động chính trị để cho một cuộc cách mạng như thế xảy ra được không?”
Xin hỏi, ý ông muốn gì khi nói hoạt động chính trị? Phải chăng hoạt động chính trị, dù là hình thái gì, là tách rời khỏi sự hoạt động toàn thể* của con người hay cũng là một phần của nó?
* Hoạt động toàn thể hay toàn diện: total action. Đây là một khái niệm được Krishnamurti nhiều lần nói đến. Theo tác giả, con người hay bị “phiến diện” vì cuộc sống luôn luôn có tính chất “chia cắt”. Vì thế hoạt động của con người đều có tính chất “phiến diện”, không phải là một “hoạt động toàn thể”. Khi con người trực nhận chính mình “là nhân loại”, là cái toàn thể thì lúc đó sẽ có hoạt động toàn thể. Đề tài này sẽ được trở lại trong nhiều bài khác, nhất là trong phần cuối (ND). “Khi nói hoạt động chính trị là tôi nói hoạt động trên bình diện của chính phủ: Làm luật, kinh tế, quản lý, vân vân…”
Chắc rồi, nếu hoạt động chính trị cách ly khỏi hoạt động toàn thể của con người, nếu không quan tâm sâu sắc đến toàn bộ cuộc sống của con người, tình trạng tâm lý lẫn đời sống vật chất, thì chỉ tác hại, chỉ mang thêm rối loạn và đau khổ; và đó chính là điều hiện nay đang xảy ra trên toàn thế giới. Với tất cả các vấn đề của mình, con người không thể tác động với toàn thể nhân cách chứ đừng trong tính cách của một thể tính chính trị, cách ly khỏi tình trạng tâm lý và “tâm linh” của mình hay sao? Một ngọn cây bao gồm cả rễ, thân, cành, lá và hoa. Một hành động mà không có tính chất toàn diện, toàn thể, thì hành động đó chỉ dẫn đến đau khổ. Thế nên chỉ có hành động toàn diện của con người mới đúng đắn, chứ không phải hành động chính trị, hành động tôn giáo, hành động kiểu Ấn Độ… Hành động mà mang tính chia cắt, phiến diện, chỉ đưa đến sự tranh chấp trong nội tâm lẫn với bên ngoài.
“Điều đó cho thấy phải chăng hoạt động chính trị là không nên?”
Hoàn toàn không phải thế. Tính chất toàn diện của hành động không ngăn cản những hoạt động chính trị, giáo dục hay tôn giáo. Nhưng chúng không được là các hoạt động riêng lẻ, chúng phải đều là thành phần của một quá trình nhất quán được phát biểu khác nhau trong những hướng khác nhau. Điều quan trọng chính là quá trình nhất quán này chứ không phải là hoạt động chính trị riêng lẻ, cho dù hoạt động đó trước mắt có lợi đến mấy cũng thế thôi.
“Tôi nghĩ là mình đã hiểu những gì ông nói. Khi đã hiểu ngộ hết về con người, hay về chính tôi, thì khi cần, sự chú ý của tôi có thể quay đến mọi hướng, nhưng mọi hoạt động của tôi thì phải nằm trong mối liên hệ trực tiếp với cái toàn thể. Hành động mà mang tính chất cách ly, từng phần, chỉ sinh ra tình trạng rối loạn, điều này từ từ tôi đã hiểu. Nhìn thấy tất cả điều này, không phải với con mắt của nhà chính trị, mà là với tính cách của một con người, thì quan niệm sống của tôi đã thay đổi hoàn toàn. Tôi không còn là người của xứ sở nào, của phe nhóm nào, của tôn giáo riêng biệt nào. Tôi cần biết đến Thượng đế cũng như cần có thực phẩm, quần áo và nhà ở; thế nhưng nếu tôi tìm một cái riêng lẻ bất cần cái khác thì sự tìm kiếm chỉ dẫn đến những dạng khác nhau của thất bại và rối loạn. Vâng, tôi thấy như vậy. Các lĩnh vực chính trị, tôn giáo, giáo dục liên hệ chặt chẽ với nhau.
“Đúng thế, thưa ông, tôi không còn là một nhà chính trị hoạt động trong một khuynh hướng chính trị nhất định. Tôi là một con người, không là một người của đảng phái nào, chẳng phải tín đồ của Ấn Độ giáo hay Thiên Chúa giáo. Tôi muốn giáo dục con cái. Chúng ta có thể nói về vấn đề này chăng?”
Một cuộc sống hội nhập và hành động chính là sự giáo dục. Sự hội nhập không xảy ra bằng cách tự ghép mình vào một khuôn mẫu, dù đó là khuôn mẫu của chính mình hay của người khác. Sự hội nhập xảy ra khi ta thấu hiểu nhiều loại ảnh hưởng tác động lên tâm; khi có ý thức về chúng mà không bị chúng trói buộc. Cha mẹ và xã hội thường tác động lên trẻ con bằng sự gợi ý, bằng những mong ước cũng như cưỡng bách tế nhị không nói hẳn ra lời, bằng cách lặp đi lặp lại các niềm tin và giáo điều. Giáo dục là, giúp trẻ con ý thức về tất cả những ảnh hưởng này, với tất cả tác động nội tại và tâm lý của chúng, giúp trẻ con hiểu ngộ mọi cách thức làm con người bị thẩm quyền chi phối, giúp trẻ con không bị ràng buộc trong mạng lưới của xã hội.
Giáo dục không chỉ là truyền đạt cho một thanh niên những cách kiếm được một nghề, mà giúp cho người đó tự phát hiện ra mình yêu mến những gì; lòng yêu thương này không thể có nếu người thanh niên chỉ đi tìm sự thành công, tiếng tăm hay quyền lực. Phải giúp cho trẻ con hiểu biết, đó mới là sự giáo dục.
Tự biết mình chính là giáo dục. Trong giáo dục không có thầy giáo lẫn điều được dạy dỗ, chỉ có sự học vấn; nhà giáo dục cũng như học trò, cả hai đều là sự học vấn. Sự tự do không có chỗ bắt đầu lẫn chấm dứt, vô thủy vô chung; hiểu như thế chính là giáo dục.
Mỗi một điều nói trên cần phải được ngẫm nghĩ sâu xa, chúng ta không có thì giờ để đi vào từng chi tiết.
“Tôi nghĩ là hiểu một cách tổng quát những gì ông quan niệm về giáo dục. Nhưng đâu là các ông thầy dạy những phương cách mới mẻ này? Các nhà giáo dục đó đâu có?”
Ông đã hoạt động chính trị từ bao nhiêu năm rồi?
“Quá lâu nên tôi không còn nhớ. Tôi e rằng chắc cũng trên hai mươi năm”.
Chắc chắn là, muốn đào tạo nhà giáo dục, ta phải làm việc cũng gian khổ như ông làm trong trường chính trị - nhưng cần sự nỗ lực to lớn hơn nhiều với một sự hiểu biết sâu sắc về mặt tâm lý. Đáng tiếc thay, xem ra không ai quan tâm đến sự giáo dục đúng đắn, đó là điều quan trọng hơn hẳn mọi yếu tố khác để mang lại một sự chuyển hóa cơ bản trong xã hội.
“Phần lớn chúng tôi, nhất là các nhà chính trị, chỉ quan tâm đến kết quả tức thời, thế nên chúng tôi chỉ suy nghĩ ngắn hạn, không có một tầm nhìn lâu dài. Bây giờ xin hỏi thêm, trong những gì mà chúng ta đã nói, đâu là điều liên quan đến sự thừa kế?”
Ông muốn nói thừa kế gì, thừa kế tài sản vật dụng hay thừa kế tinh thần?
“Tôi muốn nói thừa kế tài sản. Thú thật với ông, về “thừa kế’ thì xưa nay tôi chưa nghĩ đến loại thừa kế khác”.
Cả hai như nhau. Thừa kế tinh thần chẳng qua cũng là thứ bị quy định như thừa kế tài sản; cả hai đều hạn chế và giữ chặt tâm trong một khuôn mẫu riêng biệt của xã hội, chúng ngăn chận một sự chuyển hóa toàn triệt của xã hội. Nếu ta mong muốn có một nền văn hóa hoàn toàn khác, một nền văn hóa vắng bóng tham vọng và sự chiếm hữu, thì sự thừa kế tinh thần trở thành chướng ngại.
“Theo ông, thừa kế tinh thần là gì, nói một cách chính xác?
Đó là sự khắc ghi của quá khứ lên tâm thức còn trẻ trung; là sự bị quy định ý thức hay vô ý thức phải phục tùng, phải rập khuôn. Các phe phái chính trị thời nay làm điều này rất hiệu quả, cũng như giới Thiên Chúa giáo từng làm từ nhiều thế hệ. Các hệ phái tôn giáo khác cũng đang làm điều này, nhưng không ráo riết hay hiệu quả được như thế. Cha mẹ và xã hội đang uốn nắn tâm thức của trẻ con bằng truyền thống, niềm tin, giáo điều, kết luận, ý kiến và sự thừa kế tinh thần này ngăn chặn sự hình thành một trật tự xã hội mới.
“Tôi hiểu; nhưng ngăn chận lại dạng thừa kế này hầu như là điều bất khả, không phải sao?”
Nếu ông thật lòng thấy cần phải ngăn chặn loại thừa kế này, thì không phải là ông cần chú trọng hết sức trong việc cho con ông một thứ giáo dục đúng đắn sao?
“Xin nhắc lại, phần lớn chúng tôi đều bị vướng mắc trong những ưu tư và lo âu riêng, nên nếu có muốn cũng không thể đi vào những vấn đề này một cách sâu sắc. Chúng tôi là một thế hệ toàn những người nói cho vui hay nói một đường làm một nẻo. Vấn đề thừa kế tài sản cũng là một chuyện khó khác nữa. Tất cả chúng tôi đều muốn sở hữu một cái gì, một miếng đất, nhỏ mấy cũng được hay làm chủ một con người khác; nếu không thì chúng tôi cũng muốn có riêng ý thức hệ hay niềm tin. Chúng tôi thật không thể sửa đổi trong việc chạy theo sở hữu”.
Thế nhưng khi nhận ra sâu sắc rằng thừa kế của cải cũng tiêu cực như thừa kế tinh thần, thì ông sẽ tìm cách giúp con cái thoát khỏi cả hai dạng thừa kế. Ông sẽ dạy cho chúng biết thế nào là đủ, không hề phụ thuộc vào ơn nghĩa của chính ông lẫn của người khác, biết yêu thích công việc của mình, có niềm tin nơi khả năng của chính mình để làm những việc không mang tính chất tham vọng, không tôn thờ thành tích; ông sẽ dạy chúng có một cảm nhận liên đới trách nhiệm và nhờ đó mà biết chỗ nào ta không nên tham dự vào. Khi đó trẻ con sẽ không có nhu cầu phải thừa kế tài sản của ông. Chúng sẽ là những con người tự do ngay từ đầu, không phải nô lệ vào cả gia đình lẫn xã hội.
“Đó là một điều lý tưởng mà tôi e rằng không bao giờ thực hiện được”.
Đó không phải là lý tưởng, không phải là một điều phải được hoàn thành trong miếng đất của ảo tưởng xa vời. Sự thấu hiểu chính là bây giờ đây, không phải trong tương lai. Sự thấu hiểu là hành động. Sự thấu hiểu không hề đến trước rồi hành động theo sau; mà sự thấu hiểu và hành động là không thể phân chia. Khi ta thấy một con rắn thì ngay khi đó là hành động. Nếu trong những gì đã nói sáng nay, chân lý được thấy biết thì hành động nằm ngay trong sự nhận thức đó. Thế nhưng chúng ta quá bị vướng vào ngôn từ, vào những gì do trí năng tạo dựng, nên ngôn từ và trí năng trở thành vật cản của hành động. Cái gọi là hiểu biết do trí năng đem lại chẳng qua là nghe những lời diễn đạt suông, hay nghe những ý niệm, và loại hiểu biết đó không có giá trị, như lời mô tả một món ăn là vô nghĩa cho một người đang đói. Hoặc là ông thấu hiểu hoặc không. Thấu hiểu là một quá trình toàn diện, nó không hề cách ly khỏi hành động, nó cũng không phải là kết quả của thời gian*.
* Một quá trình toàn diện, tức thì, độc lập với thời gian chính là sự trực nhận chân lý mà tác giả sẽ còn nhắc đến trong những bài sau (ND).