Nước Nga và Putin: Những cuộc đời song song
Một quốc gia được yêu quý, một vị tổng thống khó nhằn
Vladimir Putin hẳn biết rõ mình làm gì với chó. Tổng thống Nga yêu chó, nhưng Angela Merkel thì không. Thực ra bà sợ chó, đặc biệt sau khi bị một con chó tên Bessi tấn công vào tháng 8 năm 1995. Khi đó Merkel đang đạp xe bên ngoài ngôi nhà nghỉ cuối tuần của bà ở Uckermark thì con chó săn của người hàng xóm xông đến cắn vào đầu gối bà. Sau đó, Merkel từ bỏ việc đạp xe và có khuynh hướng tránh xa lũ chó. Một người như Putin hiểu rõ những điều như thế. Ông có bản năng để nhận ra.
Nên khi Angela Merkel, vừa tuyên thệ nhậm chức thủ tướng, thăm chính thức Moscow vào tháng 1 năm 2006, Putin vạm vỡ cơ bắp đã tặng bà một chú chó búp bê đồ chơi. Nó ngồi trên tay ghế bà cho đến khi cố vấn ngoại giao của bà, Christoph Heusgen, có cơ hội cầm lên và mang ra khỏi điện Kremlin một cách kín đáo nhất có thể. Đây là phần đầu của vở kịch nhỏ đầy ác ý. Phần tiếp theo đến sau đó một năm. Lần này Putin tiếp đón Merkel trong dinh thự công vụ của ông bên bờ Biển Đen. Cánh cửa bỗng mở ra và con chó giống Labrador của ông, Koni, xông vào trong phòng, khịt mũi Merkel rồi nằm xuống chân bà. Các máy quay đã ghi lại cảnh tượng Merkel môi mím chặt, chân bắt chéo chặt còn Putin thì dạng chân, ngả người ra sau ghế, mi mắt hạ thấp vẻ trịch thượng - có thể được miêu tả như một điệu bộ ác dâm. Rõ ràng Merkel không thích những chuyện như vậy. Kể từ đó, những buổi gặp giữa bà và Putin luôn tuân thủ chặt chẽ những chương trình chính thức và làm theo các nghi thức ngoại giao bài bản, nên chó được giữ kỹ ở xa.
Cũng như với Hoa Kỳ, trong tim mình Merkel biết hai nước Nga - nước Nga của riêng bà, và một thứ có thể được gọi là nước Nga “công việc”. Nhưng chúng ta đã thấy, Angela Kasner biết đến nước Nga “riêng” nhờ những cuộc thi ngôn ngữ ở trường, những chuyến thăm đất nước này và văn học Nga - Tolstoy và Dostoevsky nằm trong số những tác giả ưa thích của bà. Trái với lời đồn, bà chưa từng học ở Nga, nhưng bà đã thăm Moscow cũng như miền nam nước Nga và vùng Caucasus. Khía cạnh này của nước Nga có liên hệ tích cực với nữ thủ tướng, vốn yêu ngôn ngữ Nga và thông thạo thứ tiếng này. Song nước Nga “chính trị” thì không thể tách rời khỏi Vladimir Putin.
Putin đã làm tổng thống suốt năm năm vào lúc bà trở thành thủ tướng. Sau đó ông hoán đổi vai trò để làm thủ tướng trong một thời gian trước khi quay lại lãnh đạo quốc gia vào năm 2012. Kể từ khi Merkel làm chủ tịch CDU, Putin đã luôn là nhà lãnh đạo Nga. Không chỉ thế, họ gần như bằng tuổi nhau - Putin hơn bà hai tuổi - và có những bước đi tương tự nhau trên đường đời, gần như thể họ là hình ảnh phản chiếu của nhau. Putin từng sống năm năm ở Dresden nơi ông chứng kiến sự sụp đổ của Đông Đức và Hiệp ước Warsaw và trở nên thông thạo tiếng Đức. Merkel lớn lên tại thị trấn Templin có quân Xô viết đồn trú, phô diễn năng khiếu ngoại ngữ bằng cách học tiếng Nga, và cũng giống Putin, bà đã trực tiếp nếm trải sự sụp đổ của Bức tường. Tuy Merkel luôn tán dương Tây Đức và thể hiện tình yêu tự do của bà bằng cách làm theo nền chính trị phương Tây, thì 1989, năm đổi thay vĩ đại, rõ ràng đã không biến Putin thành một nhà dân chủ nhiệt tình. Mỗi khi Merkel và Putin gặp gỡ, hai thế giới quan liền xung đột nhau. Với Merkel, sự sụp đổ của Bức tường Brlin là một trải nghiệm giải phóng, còn với Putin, một trung tá KGB, đó lại là một sự kiện bi thảm. Ông xem sự sụp đổ của khối Xô viết như một thất bại lịch sử.
Nên không có gì ngạc nhiên khi mối quan hệ cá nhân giữa họ có ảnh hưởng sâu sắc lên quan hệ Đức-Nga nói chung. Theo nghĩa này, chính sách ngoại giao nhất định mang một chiều hướng cá nhân. Và cũng không có gì ngạc nhiên khi những cuộc gặp giữa hai người đôi khi vẫn ghi dấu ấn bằng sự mỉa mai cay độc. Tuy một lượng đáng kể lòng tôn trọng đã phát triển giữa hai người suốt nhiều năm qua, sự kình địch của họ chưa bao giờ thật sự mất đi, và dấu hiệu nguội lạnh nhỏ nhất trong mối quan hệ của họ luôn được cảm nhận một cách thích thú. Khi Merkel tiếp đón Putin ngay sau khi ông trở lại làm tổng thống, bà quở ông bằng giọng điệu nghiêm nghị của một người mẹ rằng ông lại đến trễ như mọi lần - có lẽ ám chỉ đến Mikhail Gorbachev, người từng nói rằng “cuộc đời trừng phạt người đến quá trễ.”
Putin đáp trả rằng đó là tính cách Nga - chắc chắn bà đã biết về điều đó. Hai người họ đã có nhiều cuộc tranh cãi gay gắt. Merkel cùng các cố vấn của bà sẽ không bao giờ quên một chuyến thăm Crimea vào năm 2007. Một năm trước đó bà đã giành được sự kính trọng trong nước vì đã dùng chuyến thăm đầu tiên của bà đến Moscow sau khi thắng cử để gặp gỡ những chính trị gia đối lập người Nga. Putin, vốn không có nhiều phụ nữ trong đoàn tùy tùng của mình, đã phải hiểu rằng ông đang không đối phó với một người phụ nữ mà ông có thể đề nghị tổ chức một cuộc trình diễn thời trang làm minh chứng cho sự hợp tác Đức-Nga.
Song bài kiểm tra sức mạnh thực thụ đầu tiên diễn ra ở Sochi. Trong chương trình nghị sự chỉ có ngành công nghiệp dầu hỏa và khí đốt, các vấn đề an ninh và Ukraine - toàn những chủ đề thông thường. Putin đóng vai sĩ quan KGB. Đôi khi ông lớn tiếng, rồi ông hạ giọng và nói bằng tông nhẹ và đều, sử dụng những từ ngữ tục tĩu, viết nguệch ngoạc lên các văn bản, chỉ tay vào các số liệu và vung tay - tất cả là những phương thức giao tiếp do cơ quan tình báo đào tạo. Không có gì ngạc nhiên khi loại hành vi này gợi cho Merkel nhớ về Stasi. Bà đứng dậy trước mặt ông: những phản xạ xưa cũ của bà bỗng được kích thích, về sau những người có mặt nói rằng có lúc ông (Putin) đã siết cánh tay bà.
Bầu không khí đối đầu này vẫn tồn tại giữa Merkel và Putin. Tuy nhiên Tổng thống Nga đã học được rất nhiều từ đó và giờ đang cố gắng đánh bại Merkel trong môn sở trường của bà. Ví dụ, nếu nữ thủ tướng phê phán cách giới cầm quyền Nga giải quyết những khoản đóng góp nước ngoài dành cho các đảng phái chính trị, Putin sẽ phản pháo bằng cách viện dẫn luật pháp Đức về từ thiện và xã hội cùng với những điều kiện áp đặt đối với hoạt động chính trị. Thông điệp của ông là: có gì khác nhau đâu? Trong những cuộc va chạm này, đôi khi thật khó mà không có ấn tượng rằng nữ thủ tướng và ngài tổng thống giống một cặp vợ chồng già đã quá quen với các mánh lới của nhau. Như Merkel thường nói, bạn phải luôn cảnh giác với ông ấy. Còn Putin cũng luôn thận trọng tương tự.
Sự thiếu tin tưởng căn bản này không ngăn Merkel theo đuổi những chính sách có lợi cho Nga nếu chúng trùng khớp với niềm tin của bà. Chẳng hạn, vào tháng 4 năm 2008, như chúng ta đã biết, bà đã chống lại sức ép mãnh liệt từ Hoa Kỳ khi họ muốn dọn đường cho Gruzia và Ukraine gia nhập NATO. Tại hội nghị NATO ở Bucharest, chính Merkel là người từ chối thi hành thứ được gọi là “Kế hoạch hành động thành viên” (Membership Action Plan) cho hai quốc gia bất ổn này. Hoa Kỳ chủ yếu muốn củng cố cho Gruzia và dùng nước này làm một bức tường thành và tiền đồn tại khu vực biên giới phía nam của Nga, cũng như cánh cổng dẫn đến Trung Á, vốn giàu tài nguyên thô. Merkel phản đối - ở đó có quá nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết, rủi ro chiến tranh thường xuyên, một nền dân chủ không bền vững và một lựa chọn ngôi vị tổng thống kỳ lạ đối với Saakashvili, người mà cách duy nhất lấy danh tiếng là nịnh bợ Washington.
Tổng thống George W. Bush phản ứng một cách giận dữ trong khi Putin bày tỏ sự biết ơn. Theo quan điểm của Merkel, quyết định của bà hoàn toàn khách quan - rốt cuộc, bà có đủ lý do để làm mất mặt Putin. Vị tổng thống Nga đã công kích bà năm trước đó tại hội nghị Munich về chủ đề an ninh, khi ông phát biểu một bài bút chiến đầy bạo lực nhằm vào phương Tây như thể hai bên đang trên bờ vực chiến tranh. Merkel ngồi với vẻ mặt lạnh lùng và không nói gì, và toàn bộ tổ chức an ninh phương Tây cũng thế.
Merkel từng hy vọng rất nhiều vào vị tổng thống chuyển tiếp của Putin, Dmitri Medvedev, nhậm chức vào mùa xuân năm 2008. Mặc dù cú chuyển giao quyền lực được kiểm soát kỹ lưỡng và vị tổng thống mới chỉ là học trò của nhà cựu tổng thống, nữ thủ tướng vẫn hy vọng việc kinh doanh với Nga từ nay sẽ dễ dàng hơn. Từ lâu bà đã nằm trong nhóm những người nghĩ rằng hai người họ đại diện cho hai thái cực, và rằng một ngày nào đó Medvedev sẽ thoát khỏi Putin để phát triển phong cách của riêng mình. Bà từ chối chấp nhận học thuyết cho rằng với tư cách đại diện cho một nước Nga chuyên chế và quan liêu, Putin kiểm soát hoàn toàn Medvedev, người vốn ủng hộ giới tài phiệt chính trị. Cuối cùng, bí ẩn này được vén màn bởi chính nhiệm kỳ tổng thống của Medvedev, khi vị nguyên thủ quốc gia sắp rời nhiệm sở tiết lộ kế hoạch thật sự của cú chuyển giao quyền lực tại một buổi họp báo: việc họ hoán đổi vai trò đã được chuẩn bị trước đó nhiều tháng. Merkel thất vọng sâu sắc - bà đã bị bịp.
Cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất liên quan đến Nga xảy ra trong nhiệm kỳ của Medvedev khi, vào đầu tháng 8 năm 2008, tổng thống Gruzia Mikheil Saakashvili tấn công Nam Ossetia đang đòi ly khai sau hàng loạt khiêu khích lẫn nhau. Nhiều công trình nghiên cứu dài và chi tiết đã được viết về vụ bùng nổ này, nguyên nhân và tiến trình của tất cả những sự thù địch đó: ngày hôm nay chúng có thể được tóm tắt lại chỉ bằng vài từ. Saakashvili đánh giá quá cao sức mạnh của bản thân ông và muốn tạo ra xung đột. Trông đợi hỗ trợ của nước ngoài, ông kích động dân chúng và phản ứng lại những lời chế nhạo, ông tấn công và nhanh chóng rơi vào bẫy của người Nga. Nước Nga đáp trả bằng một đợt phản công và chiếm lấy Nam Ossetia, vốn đã tuyên bố độc lập kể từ đó nhưng chỉ được bốn nước công nhận - dĩ nhiên bao gồm Nga.
Merkel theo sát cuộc khủng hoảng dưới cái bóng của Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, vừa nhậm chức chủ tịch EU và đang liên tục qua lại giữa hai bên đối đầu như một vị tu sĩ. Quan ngại chính của bà là đối với Hoa Kỳ, trong trường hợp họ bị buộc phải thể hiện tình đoàn kết chính trị với Saakashvili nhiều hơn. Tuy nhiên, cơn giận dữ của bà được hướng vào Nga, vốn đang khoe cơ bắp bằng màn diễu binh hàng đoàn xe tăng ở trung tâm Gruzia, cách rất xa Nam Ossetia. Nữ thủ tướng ủng hộ Sarkozy và phải gánh chịu một lượng chỉ trích đáng kể, chủ yếu từ Hoa Kỳ: nếu Saakashvili được cho phép gia nhập NATO sớm hơn ba tháng thì đã không có cuộc chiến nào. Merkel bị cáo buộc một cách gián tiếp tội bật đèn xanh cho Nga, bởi vì quyết định của bà đồng nghĩa rằng đây có thể là cơ hội cuối cùng để củng cố những đường biên giới ở phía nam Caucasus.
Sai hết, Merkel trả lời: chính Saakashvili khơi mào cuộc chiến, và sẽ không tốt lành gì cho NATO nếu ông ta làm thế dưới sự bảo hộ của tổ chức này. Dù sao chăng nữa, trong suốt cuộc xung đột bà đã bay đến gặp Medvedev rồi Saakashvili ở Tbilisi. Bà tỏ rõ trong chuyến bay về rằng bà đã có quyết định của mình. Khi cân nhắc giữa sự xuẩn ngốc của Saakashvili và phản ứng mất cân xứng của người Nga, bà đã nói: “Gruzia là một đất nước tự do và độc lập, và mọi đất nước tự do và độc lập đều có thể quyết định, cùng với những thành viên của NATO, làm thế nào và khi nào họ có thể được chấp thuận vào trong tổ chức này. Sẽ có một báo cáo sơ bộ vào tháng 12, rồi sẽ rõ lối để (Gruzia) đăng ký làm thành viên NATO.” Đây là câu chữ mang thương hiệu Merkel: “Cùng với những thành viên của NATO” - nói cách khác, Đức cũng phải đồng ý. Thậm chí bốn năm sau đó, “lối” vẫn chưa “rõ,” nhưng Merkel muốn nhấn mạnh trước Nga rằng bà sẽ không dung thứ cho loại hành vi chiếm đóng từng chứng kiến trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Sau bảy năm làm thủ tướng, Merkel luôn duy lý đến mức gây khó hiểu xung quanh vấn đề nước Nga. Vào lúc bắt đầu nhiệm kỳ thủ tướng, bà đã vận dụng mối quan hệ gần gũi của người tiền nhiệm với Putin - với tư cách phiên bản trái ngược trực tiếp với Schröder, kết quả là bà đã dễ dàng giữ khoảng cách và tận dụng sự thừa nhận mà bà giành được trước đó. Một cuộc gặp với những chính trị gia phe đối lập, một ly rượu vang với các thành viên đảng Dân chủ - và một khoảng cách hợp lý với nhóm đầu sỏ chính trị đã được khôi phục. Những người đàn ông hay khoe mẽ nam tính như Gerhard Schröder và niềm đam mê tắm hơi của Helmut Kohl không thuộc sở thích của bà. Bà cũng dị ứng với quan điểm lãng mạn mà nhiều người Đức vẫn dành cho nước Nga, những người luôn nhìn thấy một sợi dây tinh thần nối giữa hai nước. Merkel đương nhiên yêu Nga như một quốc gia, nhưng là theo cách riêng của bà. Bà gặp khó khăn với phe nhóm hay sùng bái Nga trong CDU, những người đã tạo dựng ấn tượng của họ về Nga trong thời của Gorbachev và Yeltsin, và hiện đang cáo buộc bà đã thất bại trong việc thu lợi chiến lược từ di sản đó. Bà đáp rằng những tháng ngày của Gorbachev đã qua lâu rổi - rằng nước Nga ngày xưa giờ không còn tồn tại nữa.
Những sáng kiến về Nga từng được áp dụng bởi ngoại trưởng đầu tiên của bà, Frank-Walter Steinmeier - bộ sáng kiến hiện đại hóa kết hợp với chiến lược về Trung Á - giờ đang bị xếp xó, có lẽ vì thế giới đã lại đổi chiều còn Nga thì đã thi hành một chính sách phá rối, không chỉ đối với những vấn đề như Iraq hay Syria, vốn ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng quốc tế. Nga giờ đây hiếm khi chấp thuận bất cứ sáng kiến đối ngoại nào do Đức hay EU đề xuất. Nước này không còn bận tâm tìm kiếm tình hữu nghị, mà muốn giữ khoảng cách và đang bận xây dựng một Liên minh Á-Âu, một khối ảnh hưởng mới. Bản thân Merkel cũng xây dựng một thái độ duy lý hơn đối với Nga. Quốc gia này từ chối mọi nỗ lực xích lại gần nhau, và sau nhiều năm trong cương vị tổng thống lẫn thủ tướng, Putin đã rắn lại thay vì mềm ra, sự chống đối của Nga đã mạnh hơn và đang tái định nghĩa chính nó. Giữa tâm điểm cuộc khủng hoảng đồng euro, Merkel đã luôn né tránh chủ đề này - song với tư cách một nước láng giềng châu Âu, Nga sẽ không biến mất khỏi bản đồ.