Chúng tôi vào xe, giờ mọi người thong thả quan sát cảnh vật hai bên đường trong lúc Lăng lái xe vẫn giữ tốc độ trung bình. Con đường trống trải, ít xe cộ, hai bên những hàng cây trải dài lấp hết những bóng nắng.
Tôi nhận ra từ chợ về đến nhà chắc cũng gần. Xe bỏ con đường chính vào con đường nhỏ chạy qua một khu công viên và qua một khu nhà thờ gần đó. Dọc con đường nhà ở thưa, cách quãng khá xa, và đất nhà nào cũng rộng cả phía trước và phía sau. Tôi nhìn thấy vòng cung phía trước, cùng lúc xe Lăng về tới nhà, đậu bên lề đường.
- Nhà của Lăng đây.
Tất cả xuống xe, và người nào cũng phụ tay đem một vài thứ vào nhà. Chúng tôi đi bộ qua sân, nhìn hai cây tùng cao lớn, lá rủ xuống nền cỏ, và cỏ vừa mới được cắt tỉa trông rất xinh xắn.
Khi Lăng tra chìa khóa mở cửa, tôi quan sát cảnh vật và nhà ở dọc theo con đường. Sự yên tĩnh nơi này với nắng ấm thật là dễ chịu.
Vào nhà, Lăng bật đèn sáng, hành lý và các thứ đi chợ cất đặt xong, chúng tôi đi một vòng thăm nhà, bên trong từng căn phòng và phía sau là khu vườn.
Tôi hỏi:
- Tiền nhà trả đắt không?
- Sáu trăm một tháng.
- Tiền nhà thôi, còn tiền đất nữa phải không?
- Tiền đất không nhiều, bình quân mỗi tháng hơn một trăm.
Tôi hết sức hài lòng về căn nhà Lăng đang ở. Nhà rộng, có ba phòng chính, hai phòng phụ, bếp rộng từng ngăn và trên sàn, chỗ nào cũng được lót ván rất đều cạnh trông rất là sáng.
Tôi và Thùy có được một phòng dọn sẵn kế bên phòng anh Nguyên và chị Phượng Nga.
Khi chúng tôi bước vào căn phòng riêng dùng để thờ, rất nghiêm trang. Ở bàn giữa thờ Phật Bà Quan Âm hai bên là thờ ảnh song thân bên Lăng và bên cô Thu. Sau khi quan sát một lúc, tôi đi đốt hương, thắp trên bàn thờ Phật trước rồi đến người thân trong gia đình. Tôi không nhớ rõ chú Vinh ba của Lăng, vì lúc đó, tôi còn quá nhỏ.
Thùy và chị Phượng Nga đi xuống bếp. Ba anh em còn đứng trong căn phòng thờ tự, chờ hương tàn. Trong phòng này có một chiếc kệ, có sách Phật và thi ca, ngoài hai sách này còn lưu lại một số báo ngày xưa mà chú Vinh đã có cộng tác. Chú Vinh học đến ban Tú Tài ở Hà Nội, thời đi học chú có viết báo, và công việc ngày xưa chú làm là bên ngành hỏa xa.
Khi tôi cầm lên tờ báo Bạn Đường, Lăng nói:
- Tờ báo này của nhóm Hướng Đạo, xuất bản ở Thanh Hóa. Những người chủ trương là Tạ Quang Bửu, Hoàng Đạo Thúy và Lê Hữu Khải. Ba tôi, cộng tác thường xuyên với báo này, có cả Nguyễn Đình Thi và Huy Cận nữa.
Tôi lật bên trong xem các bài viết và sáng tác. Khi thấy một bài thơ Huy Cận tôi chú ý xem. Bên góc trái tờ báo, đăng bài thơ Cảm Thông vỏn vẹn có bốn câu:
Xa nhau mười mấy tỉnh dài
Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi
Tôi xem qua tờ báo, trong lúc anh Nguyên và Lăng nói chuyện với nhau tiếng nghe nhỏ.
- Hồi trước, dì Út có chụp nhiều tấm hình của tụi mình lúc còn ở làng quê.
- Có, trong cuốn album gia đình có giữ khá nhiều.
- Hồi trẻ, dì Ba và dì Quyên giống nhau hơn cả.
- Dì Ba mất sớm, rồi chú Thừa cũng mất. Hai vợ chồng dì không có con cái.
Hương tàn, chúng tôi ra ngoài đến ngồi ở phòng khách. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài đối diện với cái TV lớn.
- Vào mỗi tối, sau giờ ăn là chương trình coi phim cả nhà.
- Cô Thu đi làm xa hay gần?
- Cũng xa, gần nửa giờ xe.
- Cô làm hãng nào?
- Hãng sản xuất đồ nhựa. Thứ nhựa vừa gia dụng, vừa cả hàng điện tử.
Anh Nguyên nói với Lăng:
- Tôi có đi dự hai buổi hội của Hàm Nghi.
- Đông không?
- Cũng được gần một trăm.
Một vẻ thỏa mãn, anh Nguyên cười nói:
- Mình thuộc thế hệ đầu, nên bọn đàn em cung kính lắm.
- Hàm Nghi mở sau Nguyễn Hoàng hai năm.
Anh Nguyên nhớ rành rẽ giải thích rõ ràng sự thành lập trường vào thời gian đầu mùa thu năm 1956. Ở Huế lúc bấy giờ học sinh quá đông, nên Nha Học Chánh phúc trình lên Bộ xin mở thêm một trường mới. Buổi đầu, lớp Đệ Thất là học sinh ngoài thi vào, các lớp trên, được lấy một số lớp của hai trường Nguyễn tri Phương và Quốc Học chuyển qua.
Tôi vẫn nghe chuyện, vừa xem tờ báo Bạn Đường. Sau khi đọc xong bài tùy bút của chú Vinh ba Lăng, tôi trở lại bài thơ của Huy Cận. Tôi nghĩ đến một cô gái và chàng thi sĩ. Tôi hình dung chuyến xe lửa từ Hà Nội vào miền Trung tới ga Vinh cô gái nói một lời chào từ biệt rồi xuống ga. Cô gái đã xuống đây, còn chàng trai vào đến Hà Tịnh. Tôi rất thích thơ Huy Cận với tập Lửa Thiêng. Khi đọc thơ Huy Cận tôi luôn cảm thấy mình có một nỗi buồn nhẹ nhàng và có một tình yêu như dòng suối, như gió mùa, và rất là nhung nhớ nắng vàng. Tôi rất thích, ngưỡng mộ các nhà thơ thời tiền chiến, trong các nhà thơ này, có Chế Lan Viên người Quảng Trị, quê ở Cam Lộ, là em con chú con bác ruột với hai bà ngoại của chúng tôi.
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Hai câu thơ này thường gợi nhắc tôi nhớ đến Thúy Hà, nhớ một mùa thu năm ấy đã xa, nhưng còn mãi dư âm như một bài hát nghe hay, trong một vẻ đẹp buồn. Bây giờ, tôi đâm ra nhớ Huế, nhớ những câu thơ của Huy Cận tả sự nuối tiếc của thời gian khi linh hồn một mùa áo cũ đã tàn phai.
Đã chảy về đâu những suối xưa
Đâu cơn yêu mến đến không chờ
Tháng ngày vùn vụt phai màu áo
Của những nàng tiên mộng trẻ thơ
Tôi để yên tờ báo nằm trên tay. Trong tiếng chuông đồng hồ vừa điểm giờ và ngân tiếng nhạc, tôi đã nhớ ra được ngày hôm đó, một lần đầu tiên gặp Liên An. Trên đường cùng nhau về một đoạn, chúng tôi đi theo một dòng sông và nhìn qua những cây cầu nhỏ. Trong câu chuyện hai người, tôi nghe Liên An nhắc đến Phượng Nga.
Một giọng của Thùy nói với người chị:
- Em chưa hề biết mặt cậu.
- Chị không hay biết gì về cô bên nhà cả.
- Anh Thụy nhắc đến chị luôn, lúc này em mới hiểu.
- Thụy là người bạn tốt, rất thật lòng với chị.
- Về chị, anh không tiếc một lời khen.
- Với chị, Thụy là một nhà văn tâm tình cho tuổi trẻ.
- Chị có hay đọc truyện của anh Thụy viết không?
- Không bỏ sót. Những nhân vật của Thụy rất là dễ thương, quá gần gũi với mình.
- Chị có nghĩ, anh ấy hình dung chị và dành cho các nhân vật nữ.
- Có thể lắm. Nhưng chị thấy, ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn có trong tâm hồn của Thụy.
Thùy bỗng kết luận:
- Nếu em không lấy anh Thụy, có lẽ em và chị không bao giờ được gặp nhau. Và như vậy, em đã thay thế hình ảnh của chị trong tâm hồn anh ấy.
Phượng Nga cười, bảo:
- Vậy cũng hay.
Giờ ăn trưa, thật vui, ồn ào. Ba anh em như cái máy đứng lên, cùng xuống bếp và ngồi vào bàn ăn.
- Muốn ăn gì trước.
- Thứ nào trước, cũng được.
Tôi yêu cầu món mì Quảng. Rồi mọi cùng theo ý của tôi. Câu chuyện bắt đầu từ anh Nguyên, tôi biết chuyện này anh kể ra là cốt ý để cho Thùy nghe.
- Em thực tình chưa biết Huế.
- Anh sẽ đưa em về đó, tôi nói.
Lăng thêm:
- Không chỉ Huế thôi, chị còn ra đến Quảng Trị nữa.
Hôm nay, Thùy như là một người khách lạ dễ thương, ai cũng chú ý đến nàng.
Buổi chiều, Thu đi làm về tới nhà. Tiếng chuông vừa ngân lên, mọi người đã đứng chờ sẵn bên lối cửa vào nhà.
- Đây là Thu.
Nàng lên tiếng hỏi một người rất giống Phượng Nga.
- Chị Thùy phải không?
Thùy rất vui, và cô Thu đã tới với Thùy một vòng tay ôm rất thân ái.
- Ngày mai, cô Thu có đi làm không?
- Có, hai ngày cuối tuần mới nghỉ.
- Gắng một ngày nữa thôi.
Trong nhà, cơm nước đã sẵn sàng. Thu xin phép vào phòng rửa mặt và thay quần áo. Cũng khá lâu, Thu trở ra trong bộ quần áo nhẹ, và trông thật tươi trẻ.
- Thứ bảy mình đi nhà hàng.
- Không đi Casino sao?
- Hay đó, lên Casino ăn buffet, ngon tuyệt.
Ba chị em ngồi chung ghế sopha. Thùy bên cạnh Thu. Bỗng Thu thốt lên:
- Thùy và chị Phượng Nga quá giống nhau.
Một giọng bình thường, tôi giải thích cho Thu rõ.
- Vậy chị Nga và chị Thùy lần đầu tiên gặp nhau.
- Đúng vậy.
- Hai anh Nguyên và Thụy thật là hay. Một người kiếm gặp chị, còn một người lại tìm ra em. Hay lắm.
- Cô Thu nhớ, ông bà cố và ông bà ngoại đều có hai chị em. Ở bên nhà tôi, ba tôi lấy mẹ tôi là chị, còn chú tôi, lấy dì Ba là em, có cơ duyên cả.
- Có khi là vậy.
Tôi nhìn hết mọi người, rồi nói:
- Có những chuyện đời mình thấy khó tin, tưởng là huyễn hoặc, tiểu thuyết. Nhưng khi biết đó là sự thật, người ta mới thấy ý nghĩa của mỗi con người đều có cơ duyên với trời đất trong thời tiết của bốn mùa.
Sau lời của tôi vừa nói, mọi người lắng nghe câu chuyện của Thùy, trong câu chuyện này có những chi tiết mà tôi thấy lạ, ngày đó không hay.