XI
Buổi sáng sớm tôi và Như cùng đi vào trại Kỳ Sơn đón anh Nguyên về. Hai người ngồi chung một băng ghế. Tôi cảm thấy vui trong lòng được nghe những câu chuyện với tiếng nói dễ thương của Như. Chuyện về gia đình, về riêng cô, và một thành phố sau chiến tranh. Lúc xe ngừng bên ngoài con đường dẫn vào trại, trời sáng hẳn. Số người tù được thả cũng đông, họ cùng về Đà Nẵng bằng nhiều chuyến xe đò ra phía Bắc, đi ngang qua đây, dừng lại. Đây là một chuyến về đặc biệt, chủ xe thương tình không lấy tiền, và trên xe, nhiều hành khách hỏi han và mua quà bánh mời ăn.
Anh Nguyên gặp lại tôi và Như, anh rất mừng.
Ra tới Đà Nẵng, ba chúng tôi đi ăn quán, mừng vui cho ngày anh Nguyên được về. Chúng tôi chỉ nói chuyện bình thường trong cuộc sống, phần anh Nguyên đã có lá thư riêng của Như gởi, còn những thư khác được bỏ vào bao giấy là của chị Phượng Nga. Tôi hơi ái ngại, nhưng rồi, nghĩ cuộc đời vô thường, xét đoán thêm chi cho mệt.
Sau bữa ăn, ba người về nhà với gia đình cô Như. Tối hôm qua nói chuyện với bà Tri, tôi giải thích cặn kẽ cho bà hay về trường hợp của tôi ngày ra đi hôm đó, còn phần chị Phượng Nga, hoàn toàn tôi không có được tin tức nên không tìm hiểu thêm gì cả. Tôi cố tránh những chuyện úp mở của bà Tri về một người chị dâu của mình mà tôi vốn rất kính trọng. Hôm nay có mặt anh Nguyên, trước khi về, tôi gọi riêng Như ra nói cho cô hay, hai anh em chỉ ghé thăm chào ông bà và cô sau đó, sẽ qua nhà người cậu ở chơi một hôm, ngày mai vào Sài Gòn.
Cô Như khóc, tôi an ủi.
- Tôi rất quý mến cô, coi cô như là em gái của tôi.
- Em hiểu, nhưng má em suy nghĩ không đúng.
- Ở xa, cũng chẳng biết chuyện như thế nào. Cô đừng bận tâm chi cả.
- Vâng, em hiểu anh.
Anh Nguyên đang hồi nhớ lại những ngày cuối cùng của cuộc chiến và những ngày tháng dài ở trong các trại tù. Anh nhớ nghĩ đến đứa con trai của anh, còn người vợ, anh im lặng.
Ngày đi và trở về của tôi gần đúng một tuần lễ như đã định. Vừa tới nhà, xuống xe lô, trông thấy anh Nguyên cả nhà reo lên.
Anh vào nhà, sung sướng, được sống trong giây phút tự do quý giá nhất cuộc đời.
- Lăng được về chưa?
- Về rồi, sớm hơn hai anh em mình một năm.
Rất mau chóng, cơn ác mộng ngày tháng cũ nhẹ nhàng tan biến. Trong gia đình, ba mẹ tôi hết sức yên tâm, trở lại cuộc sống thường ngày và không mấy lo toan về vật chất. Bây giờ anh em chúng tôi, mỗi người đều đóng góp. Chỉ trừ mẹ tôi lo việc bếp núc, còn cả nhà ai cũng có việc làm. Ba tôi hiểu biết về Đông y, và khá chữ Hán nên ông thường đi chữa bệnh, viết thuê, vào dịp Tết, ông viết câu đối trên giấy hồng bày bán như loại tranh nhân gian. Anh Nguyên làm một quầy vé số, được khách, nhờ anh mát tay nên người mua hay trúng, nhất là tính được các con số đề. Buổi tối, anh dạy học thêm ở tư gia. Các em tôi, cũng chạy hàng buôn bán hàng ngày. Về phần mình, tôi vẫn giữ nghề bán báo và buôn sách cũ. Tôi có chiếc xe đạp hiệu Peugeot, bền chắc, bắt thêm trước sau những cặp nẹp để chở cho được nhiều báo. Hai công việc trong nghề này, bỏ mối với số lượng vài ngàn tờ ăn huê hồng, sau khi xong nhiệm vụ giao hàng, tôi chạy bán lẻ, tới các điểm bến xe, thảo cầm viên, nơi giải trí, vào những buổi sáng sớm là tạt nhanh qua các quán cà phê. Sống với nghề bán báo ở Sài Gòn, ăn được nhất là mùa bóng đá. Tôi yêu nghề, làm ăn chân chính, có nhiều đại lý muốn thuê tôi ngồi bán hàng trả lương tháng, nhưng tôi không nhận. Tôi chạy ngoài tự do, vừa kiếm tiền cũng được khá. Tôi không chỉ bán báo, còn bán thêm cả sách cũ. Nguồn sách cũ tôi đi mua kí lô ở các vựa, hoặc lấy hàng từ khu chợ sách cũ ở góc đường Calmette - Bùi quang Chiêu.
Giữa tháng 8/84, bên gia đình cậu Nghiêm đi đoàn tụ. Vài tuần trước khi lên đường, mợ Rose gọi tôi và Lăng lên phụ giúp mợ bán bớt các thứ đồ đạc trong nhà để có tiền mua sắm và chi tiêu hàng ngày. Trong thư nước ngoài cậu gởi về, những thứ đem theo chỉ có tranh, câu đối, liễn và sách văn học cổ Trung Quốc.
Tình hình chính trị ở trong nước theo xu hướng Liên Xô đang có sự thay đổi, cởi trói, mở rộng kinh tế thị trường cho tư nhân và các tiểu thương làm ăn. Thời bao cấp, sẽ lần xóa bỏ. Và, đến giữa tháng giêng năm 1986, tù cải tạo lần lượt cho về nhiều, mỗi đợt cũng vài trăm làm cho gia đình nào cũng phấn khởi. Cùng với những đợt thả tù nhanh chóng, những tin đồn về chương trình HO xôn xao, ồn ào trở lại. Nguồn tin này có từ năm 1979, giai đoạn Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng. Vào thời điểm ấy có một phái đoàn của Mỹ qua Việt Nam, họp bàn với chính phủ
Hà Nội, mới đầu có sự ưng thuận, nhưng rồi Mỹ rút, vì phía Việt Nam quá đòi hỏi sự bồi thường chiến tranh theo Hiệp định Paris. Hà Nội dựa hiệp định Paris chỉ nhắm điều lợi, nếu như họ tôn trọng hiệp định này một cách đúng đắn thì miền Nam năm 75 sẽ không có ngày 30 tháng tư, và nếu đất nước thống nhất cũng ở trong một tinh thần hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc hai miền. Khi hay tin phái đoàn Mỹ trở về mà không đạt được sự mong muốn về việc tìm kiếm tù binh Mỹ mất tích, nguồn hy vọng của anh em tù cải tạo tắt ngấm. Đến nay, dường như hai bên thỏa thuận gặp lại. Có thể, Mỹ đã đồng ý nên Hà Nội đã cho thả tù về, mỗi đợt mỗi tăng.
Bây giờ ngoài miền Trung, làng quê ở Quảng Trị của chúng tôi chỉ còn là kỷ niệm. Gia đình tôi, dì Quyên đã vào sinh sống ở Sài Gòn, lui tới với nhau luôn. Khi có tin về chương trình HO, mọi người bàn tán, hết sức mong đợi và rất tin tưởng. Bỗng một buổi sáng đó, tờ tuần báo Công An loan tin vui về chương trình này, bản tin khá dài, nội dung nhiều chi tiết hấp dẫn, và chỉ trong nửa ngày bán hết sạch. Sau báo Công An, nguồn tin trên dồn dập xuất hiện nhiều kỳ trên các nhật báo phía Nam là Sài gòn giải phóng, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, đến cả những báo về chuyên môn cũng ăn theo, không chỉ Sài Gòn, báo địa phương cũng loan tin.
Anh Nguyên, Lăng và tôi gặp nhau thảo luận thật kỹ về chương trình này. Chúng tôi hết sức phấn khởi, tin tưởng, vì ai cũng đều ở trên ba năm trong trại cải tạo. Lăng chỉ kém tôi và anh Nguyên có một năm mấy tháng.
Rồi sau khi cân nhắc, suy tính, chúng tôi đồng nhất trong việc ra Hà Nội nạp thẳng tiền và làm hồ sơ ngoài đó. Thời gian lo chạy các thứ giấy tờ cũng mất đến ba tháng mới làm xong.
Ngày lên đường, chúng tôi đi xe lửa, mua vé toa nằm tàu Thống Nhất. Khi đoàn tàu xê dịch, lăn bánh, lòng tôi nôn nao lạ thường. Tiếng còi từ đầu máy cất lên, lúc ngắn, lúc dài, vang dội xa khắp nơi trong thành phố.
Tôi hỏi:
- Mình có xuống Quảng Trị không Lăng?
Anh Nguyên đề nghị:
- Ra Hà Nội làm xong giấy tờ, khi về, mình đi xe đò để xuống Đông Hà, rồi vào Quảng Trị.
Một giọng lo ngại, Lăng nói:
- Không biết ra Hà Nội, thủ tục giấy tờ lâu không?
- Ngoài Trung ương, công việc chắc là dễ dàng, tôi nói.
Khi ra khỏi vùng ngoại thành, đoàn tàu bắt đầu chạy nhanh hơn với tốc độ đường trường. Ngồi bên cửa toa chúng tôi ngắm cảnh trí bên ngoài, lòng vui lên bởi chuyến đi, vừa được dịp nhìn quang cảnh quê hương từ sau một cuộc chiến thương đau và điêu tàn. Dù hoàn cảnh ra sao chăng nữa, chúng tôi cũng đã được sống sót, và bao nhiêu năm tháng qua khói lửa lắng chìm không còn nghe tiếng súng pháo kích, tiếng bom đạn gầm thét nữa.
Tàu chạy suốt ngày đêm, tới các ga lớn tàu mới ngừng đỗ khách xuống và lấy thêm khách lên. Những quang cảnh nhà ga, nơi nào cũng thấy cảnh tượng xô bồ, hỗn loạn. Khác hẳn ngày trước đây, ở nhà ga các chuyến tàu đi hay đến, luôn có được một không khí ồn vui, vừa thân thiết. Bây giờ, hành khách hết sức lo sợ nạn cướp giựt.
Tới ga Quảng Trị tàu ngừng, chiếc đầu máy đậu ngay bên tháp nước đối diện với căn nhà cũ của gia đình tôi ngày xưa. Ba anh em ùa ra khỏi toa, nhảy xuống, bước đi nhanh về phía toa đầu máy, dừng lại chỗ bóng im dưới tháp nước. Từ bên đây nhìn qua khỏi bãi đất trống, thấy rõ con đường bên kia, nhưng chúng tôi không còn nhận ra được căn nhà xưa nữa. Ở bên đó, trên phần đất nhà tôi, nay là những căn tôn lụp xụp làm sát nhau đã che khuất đi tất cả, không thể hình dung lại được hết từng dấu vết rõ ràng về căn nhà cũ của mình. Cho dù vậy, chúng tôi vẫn đứng lâu, yên lặng nhìn và cố gắng nhớ. Khi nghe tiếng xíp lê thổi, chúng tôi trở về toa. Rồi, sau một tiếng còi ngắn, đoàn tàu lại rời ga Quảng Trị, nỗi buồn nhớ trong tôi hẳn còn đọng, chưa tan. Khi đoàn tàu vào cây cầu, cùng lúc nhìn xuống dòng sông nay chỉ còn trơ cát, chúng tôi hiểu rằng, chiến tranh trong mùa hè 1972 đã tàn phá, hủy diệt cả thành phố ở đây, nơi mà chúng tôi đã sống qua trọn thời thơ ấu, và cả thời niên thiếu.
Từ đây, cả đoàn tàu tiến ra phía Bắc. Ở Đông Hà, chúng tôi còn nhận ra chút ít khi được nhìn thấy dòng sông, và từ cây cầu, chúng tôi ước tính ra được thời gian trên dòng sông con đò dọc về đến bến Bãi Sa đầu quê làng Xuân Thành. Đó là quê ngoại của ba anh em chúng tôi. Ngày xưa ấy, sau phiên chợ chiều vào mỗi cuối tháng, dì Quyên hay đưa chúng tôi về quê ngoại theo chuyến đò dọc. Nắng chiều chưa tắt, con đò lướt đi nhanh trên mặt nước, hai bên bờ sông là làng mạc, lũy tre xanh, khói lam từ các mái nhà tranh vươn cao, từng cảnh trông thấy thật là êm dịu, dào dạt, tức cảnh nhưng không làm được thơ, mà hồn thơ cứ luôn dâng đầy. Khi dòng sông sắp ra tới cửa biển, cũng vừa lúc, đò dọc tắp vào bến Bãi sa đầu làng để đỗ khách.
Bây giờ đây, dòng sông cũng đã xa rời những kỷ niệm khiến chúng tôi nghĩ hình ảnh quê cũ đổi khác nhiều. Về sau, mỗi lần đọc lại truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn, tôi lại nhớ đến bến sông, con đường, và ngôi nhà của ông bà ngoại tôi hơn hết.
Suốt phía Bắc, đoàn tàu bắt đầu chạy trong cảnh trời dần dần tối. Tôi chợt nhớ bài Làng tôi của Tế Hanh, khi nhìn cảnh trí trên con sông Nhật Lê, và lúc này đây tàu vừa ra khỏi thị xã Đồng Hới.
Trong bữa ăn tối, ba anh em cùng chuyện trò. Những người bạn ngày trước thời đi học đến với mỗi chúng tôi qua hình ảnh các trại tù được gặp gỡ nhau sau ngày tàn chinh chiến. Tôi nhớ rõ từng chi tiết, và kể lại buổi chiều xuống tàu ở cảng Hải Phòng, rồi lên tàu ở đấy đi lên vùng Tây Bắc. Đi lên đó, nhìn cảnh, nhìn sông và núi mới thấy ra, nhận ra những nét thiên tài trong nhạc của Phạm Duy và Văn Cao.
Anh Nguyên chợt hỏi tôi:
- Khi ở trại tạm trú bên Mỹ, Thụy có ra phố chơi không?
- Có. Hôm đó cả chị Phượng Nga nữa, cùng đi chuyến xe buýt xuống San Diego, ra thăm biển, rồi về lại vùng quận Cam. Nước Mỹ, ngay tiểu bang Cali, thấy lớn thật.
Lăng hỏi tôi:
- Anh ở bên đó bao lâu, mới về lại bên này.
- Coi như mình đi sáu tháng ra nước ngoài.
- Lúc đó mà anh ở lại, giờ này khỏe khoắn rồi.
- Cũng không hay trước được. Biết bao nhiêu người cùng nghĩ là xa quê hương, chỉ mong muốn về.
Bữa ăn ngon, nhờ mua được nguyên con gà và mấy chai bia Sài Gòn khổ lớn. Bên ngoài đêm xuống, trời dịu mát. Và rồi, yên lặng chúng tôi ngủ ngon một giấc đến lúc tàu ra tới Hà Nội mà không hay.