IV
Hai tuần lễ sau ngày toàn miền Nam bị chiếm, tình hình Sài Gòn và các tỉnh có nhiều dấu hiệu xấu, căng thẳng. Tình trạng cướp bóc, hôi của, và tiếng súng vẫn còn nổ. Trước nhất, thành phần công chức cao cấp, và sĩ quan cấp tá đã trình diện và được đưa đến các trại tập trung xa xôi. Ban ngày mọi sinh hoạt, dưới bất cứ hình thức nào cũng lộ vẻ vội vàng, tất bật. Trời mau tối, không phải cái tối lạnh và ảm đạm của mùa đông, mà là bóng tối của nỗi sợ hãi. Từ mười giờ đêm, phố vắng, nhà nào cũng đóng cửa.
Tôi ghé qua nhà anh Giang cho anh biết sẽ đi xa chừng một tuần lễ. Nhà anh có chái hiên, dưới cây trứng cá anh đặt một chiếc bàn gỗ, mấy cái ghế thấp để ngồi đó nghỉ chơi, chuyện trò, trà nước hay cà phê.
- Có tính ra Quy Nhơn không?
- Không. Tôi ra Quảng Trị, quê của tôi. Anh biết ngoài đó không?
- Biết chứ. Năm đầu tiên dạy học, mình ra ngoài đó coi thi.
- Quảng Trị điêu tàn rồi.
Một giọng hỏi nhỏ:
- Thụy biết cấp tá đưa đi đâu không?
- Không.
- Tối hôm qua đài BBC đã loan tin.
- Họ đến chỗ nào.
- Không nói rõ.
Buổi sáng trời không mưa. Nhưng vào giữa tháng năm thì mùa mưa cũng đã bắt đầu. Hai anh em uống trà, nhâm nhi mấy miếng kẹo đậu.
Tôi nói:
- Hôm ấy, anh nói chuyện bói Kiều, giờ nghĩ thấy hay và đúng.
- Biến cố tháng tư, giở truyện Kiều ra, bói câu nào cũng thấy đúng.
Lúc này, hay nhất là hai câu:
Bỏ thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu.
Anh Giang có một người anh đi tập kết ra Bắc từ năm 1954. Tôi được nghe anh kể nhiều chuyện về người anh của mình. Và, qua chuyện người anh, tôi cũng nhớ đến những người thân bên gia đình tôi phía nội cũng như ngoại.
Sau một lúc im lặng, nhớ nghĩ về một quá khứ, và người thân, tôi hỏi:
- Anh viết được gì không?
- Thụy có bận đi đâu không?
- Không.
Anh Giang vào nhà, lấy ra một cuốn vở bìa đỏ.
- Mình khởi sự viết truyện dài. Đây chương mở đầu.
Anh Giang viết văn với thói quen chỉ một lần, ít khi sửa, chữ viết đẹp, đều đặn. Tôi cúi mắt xuống trang giấy, đọc thong thả.
Đọc xong, tôi hỏi:
- Chắc là dài lắm.
- Có thể.
Bằng một giọng chậm rãi, anh nói:
- Trước 75, bước qua giai đoạn sau ông Diệm, miền Nam mới thực sự có một ý hướng về tuổi trẻ và cách mạng. Từ nhận thức đó, mình khởi sự vào thời điểm khi cuộc đảo chánh bắt đầu.
Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Giang về nhận định đó. Ở nhà người bạn chơi đến trưa, tôi mới ra về.
Ngày hôm sau, tôi đi chuyến xe suốt sớm từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Sau ngày Đà Nẵng thất thủ, gia đình không nhận được tin tức của anh Nguyên. Tôi đi thế cho cả nhà, trước khi lên đường ba tôi có căn dặn xem tình hình ngoài đó như thế nào, nếu thật sự là khó khăn thì tìm cách đưa chị Phượng Nga và cháu Hoàng vào Sài Gòn sinh sống.
Cũng may xe suốt chạy nhanh, nên mờ sáng hôm sau, đã tới Đà Nẵng. Khi xuống bến xe, nhìn lại thành phố tôi hết sức bỡ ngỡ như một kẻ đang lạc đường. Tôi tìm một quán ăn sáng ở bến xe, sau đó, đến một quán khác uống cà phê. Tôi dự tính đi một tuần, với chiếc ba lô vải đeo vai, trong đó, vài cuốn truyện cũ và mấy bộ quần áo, khăn mặt, ống kem và bàn chải đánh răng. Tôi trở lại thành phố ngày xưa, nơi đây tôi có một năm học, và đã thương yêu một người bạn gái đến nay vẫn còn cất giấu trong tim mình. Tôi không biết gia đình ông bà Kha và Thúy Hà đã đi, hay còn ở lại. Tôi cũng không rõ, bên gia đình bác Hội, dì Vân ra sao? Tôi hôm ấy, đài BBC loan tin Đà Nẵng thất thủ, và mô tả cảnh tượng hỗn loạn của thành phố làm tôi hết sức bàng hoàng, lo lắng. Sự lo lắng và nghĩ ngợi trước nhất là gia đình anh Nguyên.
Trong quán cà phê đông, ồn ào, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình cô độc. Tôi đốt thuốc hút, uống cà phê, với một nỗi chán chường, tuyệt vọng. Tôi nghĩ đến cuộc chiến đã chấm dứt, nhưng thực sự vẫn còn một nỗi ám ảnh lớn, không xóa mờ ngay được. Tôi không hiểu sao miền Nam lại thua trận. Với một triệu quân lính, với 25 triệu dân từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, sao mà không thể kháng cự lại nổi quân CS miền Bắc dù cho quân số của họ hiện diện ở miền Nam vài ba trăm ngàn. Và, tại sao, không đánh mà rút bỏ, từng tỉnh một, rồi chỉ với thời gian không đến hai tháng đã đầu hàng. Tại sao ông Nguyễn Văn Thiệu đã từng là một vị Tướng mà có một kế hoạch, một chiến thuật điên rồ như vậy. Tại sao, không có người lên thay thay thế ông ta khi ông ta đã là một người quẫn trí, đầu óc tê liệt. Mùa hè năm 1972, ông ta còn cái dũng khí của một quân nhân, nhưng về sau này, càng ngày ông càng hèn nhát, lại khư khư bảo vệ ngai vàng của mình, trong khi cả miền Nam đã nguy khốn. Ông Thiệu cứ bám víu lấy Mỹ, trông chờ người Mỹ, nhưng tại sao ông không hiểu rằng, người Mỹ đã thực sự rút lui, không can dự đến cuộc chiến ở miền Nam nữa.
Trời sáng rõ. Trong sinh hoạt buổi sáng, nơi này rất ồn ào, náo nhiệt. Tôi vẫn ngồi ở quán, mắt cố tìm người quen và nhìn quang cảnh trước mắt. Một cách bình yên, những chiếc xe hàng rời bến. Khi ra khỏi cổng bến, hầu như nó biến mất, và không có dấu hiệu gì sẽ trở lại.
Từ bến xe tôi đi bộ đến nhà chị Phượng Nga. Vừa dừng bước trước nhà, tôi cất tiếng gọi anh Nguyên. Có người xuất hiện ở balcon, hơi cúi đầu nhìn xuống.
- Ai vậy?
Tôi nhận ra chị Phượng Nga, và xưng tên.
- Thụy đó hả?
- Vâng.
Ít phút sau, nàng xuống mở cửa rồi đưa tôi vào nhà.
- Ra bằng phương tiện gì?
- Xe đò.
Tôi không thấy có anh Nguyên, nhưng không hỏi, và người vợ cũng chưa nói gì với cậu em về tình trạng của người chồng.
Khi được gặp cả nhà ông bà Tri và các cô gái, tôi lên tiếng chào. Rồi trong bữa ăn sáng mọi người hỏi chuyện, cùng lúc cho tôi biết những ngày cuối cùng ở nơi thành phố này. Khi nghe chuyện từ ông bà Tri, tôi vẫn để mắt với sự thân tình nhìn từng gương mặt các cô em gái chị Phượng Nga. Hồi đó, tôi nghĩ nếu tôi tìm lời nhờ chị Phượng Nga, tôi có thể làm thân với Như hay là với Quỳnh. Nhưng tôi lại không nghĩ đến, cho rằng, tôi còn một thứ hạnh phúc của tự do về cá nhân và tuổi trẻ của mình. Tôi yêu Thúy Hà, nàng cũng yêu tôi. Nhưng tự xét mình vào niềm tin của sự đợi chờ một ngày nào đó, tôi không nghĩ đến. Kể ra, giữa tôi và Thúy Hà đã có những sự thật của tình yêu, dù chỉ là một thời gian ngắn, nhưng lúc nào tôi cũng có thể bám víu lấy từng chuyện cũ đó, tạo riêng cho mình một hạnh phúc. Tôi vẫn nhớ như in một buổi chiều trên căn gác, tôi và Thúy Hà bên nhau, nhỏ to những lời tâm sự ấm áp của tình yêu. Và, không phải lúc này đây, mà ngày tháng đó, về một buổi chiều mưa, về một đêm tối, và về những giây phút nhục cảm khó quên của tôi trên thân xác của nàng, cũng như của nàng đã trọn vẹn cho tôi. Chừng đó, cũng đã là nhiều lắm mỗi khi tôi xét nghĩ lại về bản thân mình. Chị Phượng Nga rất là mến tôi, vừa coi tôi là người bạn thân thiết. Từ ánh mắt và tiếng nói của chị, tôi thấy hiện lên hình ảnh các thiếu nữ dịu dàng như những cánh bướm trắng.
Buổi chiều tới, Phượng Nga làm cà phê thật ngon. Tôi hỏi:
- Bây giờ đây, cả nhà tính như thế nào?
- Thụy có ra Huế và Quảng trị không?
- Không. Ra Đà Nẵng, cốt hỏi tin anh Nguyên để cho trong nhà hay.
- Anh đi đã hơn một tháng nay rồi.
- Ở trại nào, chị biết không?
- Không biết. Họ không cho mình chỗ học tập để đi thăm.
Tôi im lặng. Một giọng buồn, nàng nói:
- Khi Huế mất, mình nói với anh là Đà Nẵng sẽ nguy. Nhưng, anh vẫn tin vào các đơn vị trú đóng bảo vệ Đà Nẵng, nhất là tướng Trưởng còn chỉ huy tất cả các đơn vị trong lãnh thổ. Anh Nguyên còn nói thêm, đồng bào Quảng Trị chạy vào đây tị nạn một thời gian ngắn, họ sẽ về như năm 72. Nhưng mình nói với anh, tình hình lúc này khác, Huế mất rồi, Cộng Sản chiếm thành phố rồi, họ sẽ tấn công Đà Nẵng.
Nhìn lại gương mặt chị Phượng Nga, đôi mắt buồn của chị quá đẹp. Rồi tôi nói với chị:
Ai cũng nghĩ, không thể nào Đà Nẵng mất được. Ở đây, còn phi trường, Sư đoàn 1 Không quân - và nhiều căn cứ của người Mỹ còn hoạt động.
- Anh Nguyên quá tin vào tướng Hinh, tướng Trưởng. Nhưng rồi, hai ông ấy cũng bỏ quân lính, chạy trước.
- Tại sao tình thế lúc ấy, anh không đi.
- Tối ngày 28, anh đưa cả nhà ra bến cảng Tiên Sa, nhưng cảnh tượng ở đó thật hãi hùng.
- Không hiểu sao, quân đội mình không đánh mà bỏ chạy, rồi thua, ở Sài Gòn, ông Thiệu bỏ chạy, ông Hương không thức thời, ông Minh, ông Mẫu bị mắc lừa, lên nắm quyền được một ngày thì tuyên bố đầu hàng. Không ai nghĩ được, VNCH xây dựng 21 năm, đã sụp đổ quá nhanh, chết thật tức tưởi.
- Tại sao Thụy không đi?
- Những ngày cuối hết sức hỗn loạn.
- Ngoài này, tình trạng cướp bóc dữ lắm.
- Hết rồi, thực sự hết rồi.
- Chiến tranh kết thúc, hòa bình rồi, nhưng chẳng có chi vui cả.
- Ngoài này, dân chúng ra sao?
- Ai cũng sợ Cộng Sản.
- Bây giờ, cả một miền Nam lo sợ.