by bevanng » 22 Mar 2017
Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Tôi bỗng hỏi:
- Ngày trước, chú đã ở Hội An?
- Chú làm việc ở đó ba năm mới ra ngoài này.
- Chú có mặt ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.
Chú Hoàng gật đầu. Tôi đốt thêm điếu thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm tôi nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy tôi đã đến thăm, đi chơi cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, tôi nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình người chú. Lăng với tôi là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì Quyên mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ. Mẹ tôi, dì Quyên, cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngoại tôi có sáu người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy loạn những gia đình người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngoại rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của Lăng và chú Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở đó, tôi chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi tôi gặp lại chú Hoàng sau này khi đã lớn, đó lần đầu tiên tôi đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi tôi rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thoảng Lăng có viết thư cho tôi. Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho anh ít sách truyện và báo Xuân để đọc. Luôn luôn anh em sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngoại nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em bên nhà tôi. Người ở bên ngoài nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngoại rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ tôi rất ít học, và ba tôi làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với mảnh bằng Tiểu học. Vào thời gian gia đình gặp hoạn nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng tôi không dám chuyện trò, tôi luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, tôi biết mình nên đi tìm đến một vùng đất mới. Và, tôi rất tin cậy ánh sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.
- Cháu có muốn xin việc làm ở Huế không?
- Dạ không. Cháu không thể ở ngoài này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.
- Cháu đi học Sĩ quan được không?
- Không được, vì cháu không có bằng Tú Tài.
- Nếu cháu ở lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.
- Cháu không nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.
Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly. Tôi thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.
Một giọng thản nhiên, chú nói:
- Con cháu, đứa nào chú cũng thương.
- Dạ, cháu biết.
Nắng ấm ấp, sáng sủa, tự dưng lòng tôi cởi mở.
- Bây giờ, chị Nguyệt sao rồi chú?
- Nó thi đậu vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
- Chị Nguyệt đi dạy, cũng hay đó.
- Nó thi rớt loạt nhì, hai kỳ luôn.
- Cháu cũng bị hỏng loạt nhì.
Có tiếng kẻng của người lính canh đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe khách trong vội vàng.
Chú Hoàng đi traction An Lợi, tôi lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng chiếc một nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này, lòng tôi tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Tôi thoáng nghĩ đến Liên An trong mối tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thoảng qua. Ngày rời xa Đà Lạt, lòng tôi rất buồn. Tôi đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý của tôi có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, tôi vừa kịp chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.
Tôi mua được giá vé học sinh. Thời gian còn sớm, tôi vào quán ở phòng đợi ăn tô mì nóng và uống ly cà phê. Tôi hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh, mưa nhỏ hạt, tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói tôi vẫn cảm thấy vui thích với sự cô đơn.
Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới sân ga trở nên vắng, và rồi sắp đến giờ tàu khởi hanh. Tôi không cảm thấy nôn nao, vì hiểu được rằng chuyến đi này của tôi không còn mong ngày trở lại nữa. Trong một thoáng nhớ đậm màu khói thuốc, tôi chợt nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời tôi xin gởi lại thành phố này.
Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống ga Phan Rang gần nửa đêm. Tại đây, tôi chuyển sang tàu đi ra Huế.
Trưa hôm đó, tôi đạp xe tìm đến nhà Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng, người chú ruột.
Tôi gặp một cô gái từ trong vườn bước ra, vội cất tiếng chào hỏi. Cô gái chỉ cho tôi lối rẽ xuống bến sông. Tôi chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng, nên để xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy tôi xuất hiện, hai ông bà nhận ra ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Tôi ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột vừa nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, tôi cảm thấy thực sự gần gũi với mọi người trong gia đình.
Một lúc sau, tôi đứng dậy đi cùng với một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua vòm cổng, tôi đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang tắm la hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên chiếc giường tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy tôi. Đi xa, nay trở về gặp được người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong cách đây hai ngày nên tôi không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học các em nhỏ trong nhà. Đông biết tên tôi, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui tự nhiên mang đến là Đông và tôi cùng tuổi, cùng học cùng một lớp. Vừa chuyện trò với anh em, tôi để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo trên bậc đá. Một lúc sau, tôi bỗng lên tiếng hỏi:
- Em học lớp mấy rồi?
- Dạ Đệ Lục.
- Em học trường nào?
- Dạ, Đồng Khánh.
Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn tôi. Sau đó, tôi đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên cô.
- Em tên là An, phải không?
Cô gái cười, nhìn tôi nói:
- Anh đoán tên không đúng.
- Vậy em cho anh biết tên đi.
- Không.
Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn tôi. Rồi cô hỏi:
- Sao anh gọi tên em là An?
- Hình ảnh nhỏ bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.
- Hay là, một người bạn gái anh tên An.
- Không, không phải vậy.
- Nói cho em nghe chuyện đi.
- Không có ai hết. Chỉ có em cho anh tên An, thôi.
- Anh đặt tên cũng hay, cô gái nói.
- Vậy tên em, cho anh gọi là Liên An
- Em tên thật là Kim Ly.
Tôi tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai chiếc áo cánh xong, cô gái lấy cái thau nhựa múc nước để xả. Tôi nhìn dáng điệu của cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả xong nước chót rồi vắt khô áo. Bên cô, tôi có được ngày trở về sau nhiều năm đi xa. Liên An, cái tên tôi hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một loại thảo mộc, và nhớ đến Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d'Avray.
Giặt xong, Liên An còn ngồi lại chuyện trò với tôi. Tôi nhận ra niềm vui của Liên An trong ánh mắt nhìn qua tôi, mỉm cười với cái tên tôi gọi cô. Tuy nhiên, biết thế tôi không tin chắc rằng cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.
Vừa mới biết nhau, nhưng tôi và Liên An nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn trong trí nhớ nên tôi chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để cho Liên An tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh đào, những con đường dốc, những ngôi nhà ngói đỏ, các tu viện, những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ khi nắng buổi sáng chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu hỏi, hay là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ thương của Liên An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, tôi có ý nghĩ nay mình đã trở nên khác hẳn.
Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.
Vừa ra khỏi xe, tôi bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy tôi bước nhanh đến chào và hỏi:
- Chú đợi xe cơ quan?
- À. Chú đợi cháu.
- Dạ.
Tôi theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Tôi không biết người chú định nói gì, nhưng tôi cứ đi theo. Ngồi trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Tôi uống nước đá chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Tôi và chú đốt điếu thuốc trong lúc chờ bữa ăn.
- Chừng nào cháu đi?
- Dạ tuần tới.
Chú nhìn lại vẻ mặt tôi và tôi ước tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đoạn trường đầy chông gai, trắc trở.
Khi bữa ăn mang ra, tôi cảm thấy đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.
- Ăn đi cháu.
- Dạ, cháu mời chú.
Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ, rồi hỏi:
- Cháu muốn nghe lời chú không?
Tôi đáp:
- Dạ. Lúc nào cháu cũng coi chú như ruột thịt.
- Cháu ở lại Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngoại ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.
Tôi đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết tôi sẽ nói ra sao để chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, tôi mới mở lời:
- Gia đình cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại, anh em của cháu chẳng dám tơ tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và tôi ăn thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng đứa cháu trống trải, đơn độc, chú Hoàng lặng im, suy nghĩ về hoàn cảnh của tôi như là con của chú phải đi xa vậy.
Xong bữa ăn, chú Hoàng và tôi tiếp tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán tôi nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì.
Một câu chân tình, dì Hường Vân hỏi:
- Vào Sài Gòn, cháu vẫn tiếp tục học?
- Dạ không, cháu tìm việc làm.
Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn lo lắng. Tôi nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn lúc ấy nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, tôi có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, tôi nghe mà như ôm giữ cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.
- Ít ngày nữa, con đi.
Tôi đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ nhà người dì, tôi ra đường đón xe lam xuống phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.
Vừa thấy tôi xuất hiện, Thúy Hà rời ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:
- Rất tiếc truyện không được đăng.
Tôi chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho tôi hạnh phúc về một lá thư của tôi mà chính tay nàng đã mở ra xem. Tôi rất vui với sự chân tình của nàng.
- Cả nhà đi vắng?
Cả nhà qua thăm bác Phúc.
Tôi và Thúy Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.
- Tiếc quá, tôi nói.
- Sao mà tiếc?
Nàng hỏi tôi, không đưa mắt nhìn. Tôi nói:
- Nếu truyện được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để làm món quà tặng Thúy Hà.
- Bày vẽ ra.
- Thực lòng đó.
- Không được đăng thì mình viết truyện người khác.
Nàng đáp lời tôi, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Tôi hỏi:
- Mà truyện viết được không?
- Không được. Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.
- Thì truyện viết phải tưởng tượng.
- Đồng ý, nhưng phải tôn trọng sự thật.
- Có nhiều sự thật trong đó, biết không?
- Đâu, sự thật nào đâu?
- Hà đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.
- Có thấy, nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.
Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ tôi mơ thấy cảnh tôi và nàng chơi cờ ca rô trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, tôi có thêm thắt đôi chút để hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.
Truyện ngắn tôi viết 10 trang, Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho tôi. Tôi cầm lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.
Nàng mỉm cười nhìn lại tôi. Hai người cùng vui chuyện, nhờ vậy, tôi quên được nỗi buồn về sự hỏng thi.
- Ngày mai, anh trở ra lại Huế.
- Anh đi Sài Gòn không?
- Có. Đi, nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.
Giọng tôi nói thật chân tình, cảm động. Thúy Hà ngước mắt nhìn tôi. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho tôi là nụ cười trong cặp mắt sáng của nàng.
Anh ra đi bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hoàn cảnh anh, đi xa như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng đến lúc cần.
Em,
Thúy Hà
…
Ngày hôm sau với cuốn sổ tay, tôi hòa mình trong cuộc sống người dân làng ở đây. Tôi vừa quan sát, đồng thời tìm kiếm những người có thể biết rõ về án mạng đã xảy ra khiến một người lính ở bên Trung đoàn bị bắn tử thương. Cái chết của người lính này không được phơi bày rõ ràng, tìm can phạm mập mờ giữa quân du kích và lính địa phương. Trong quán giải khát nơi tôi ngồi uống vào buổi chiều hôm qua là nơi xảy ra vụ thách thức và tranh chấp giữa lính Trung đoàn và nghĩa quân. Và do đâu có chuyện này xảy đến, tôi đi tìm hiểu, ngờ đoán rằng đôi bên có sự liên hệ đến một cô gái trong làng này. Dần dần, tôi đi đến một kết luận có thể là đúng. Nhưng không chỉ mặt này, tôi còn tìm hiểu thêm những sinh hoạt trong vùng này mà đơn vị các Tiểu đoàn thường biệt phái đến tăng cường.
Và, suốt thời gian công tác, tôi ăn cơm hàng ngày và cùng sinh hoạt với anh em lính nghĩa quân. Sau khi ghi nhận khá đầy đủ các sự việc, tôi báo cáo qua máy truyền tin về trung đoàn, ít ngày sau, có chuyến trực thăng tiếp tế đến, tôi theo trở về đơn vị.
Nhưng, trưa hôm ấy máy bay không đáp xuống sân trung đoàn mà ở Tiểu khu. Nhân tiện có ngày về thành phố, tôi tìm đến thăm Liên.