Nguyễn Chí KhamHÌNH BÓNG CON TÀU
Người Việt Books xuất bản, 2015PHẦN THỨ NHẤTINgày lên đường theo học lớp sĩ quan, tôi cầm trong tay một tờ sự vụ lệnh và giấy nghĩ phép hai tuần. Từ buổi đầu nhập ngũ, nay tôi đã sống trong quân đội được bốn năm. Với đồng lương ít ỏi, nhưng tôi cảm thấy yên bình là người lính làm việc văn phồng thôi, không đến đỗi quá lo sợ chiến tranh. Cũng nhờ vậy tôi có thì giờ học thêm, rồi vẫn cứ theo con đường viết văn với những truyện ngắn đăng trên các nhật báo, tuần báo ngày một nhiều. Và, mỗi lần thấy bài đăng là tôi đi lãnh tiền nhuận bút. Bây giờ, những truyện mang tính cách hiện thực, tiếp xúc ngay cuộc sống hiện tại với hình ảnh người lính luôn là đề tài tôi chọn lựa, đưa ngay vào truyện mình viết theo từng hoàn cảnh. Tôi vẫn ghi nhớ lời ông Thế là quản nhiệm tuần báo Tiểu thuyết thứ năm khuyên bảo, nên lúc gần đây đã thôi hẳn, không viết nữa những câu chuyện tình lãng mạn của tuổi học trò. Tôi bắt đầu viết về những người lính, đời sống trong quân ngũ của chính mình và những kẻ khác.
Tôi là hiệu thính viên, làm việc trong ban ALO. Toàn ban mười người, cấp sĩ quan có Đại úy trưởng ban, ba ông Thiếu úy trẻ, đám lính có tôi và năm đứa bạn nữa. Trừ vị trưởng đến nhiệm sở hàng ngày, còn lại ba xếp nhỏ và chúng tôi chia ca, hai ngày một phiên. Phòng làm việc nằm cuối căn hầm, cạnh lối cửa sau. Trên chiếc bàn dài có lọ bút viết, một cuốn sổ trực dày bìa cứng, ruột giấy ca rô, và hai máy liên lạc PRC 25 và PRC 47. Chúng tôi thường phụ trách máy chính là PRC 25, dùng máy này theo dõi hoạt động các phi cơ L19 thực hiện những phi vụ trong ngày, thường là bay bao vùng, hộ tống đoàn xe, và lúc có mặt ở vùng trận chiến phối hợp trên không với phi cơ khu trục, dưới đất là quân bạn đang chạm súng với địch. Những lúc làm việc tôi hay có sự chú ý, tìm hiểu thêm phần kỹ thuật. Tôi nghe những cuộc đối thoại qua máy rất là ngắn gọn, cụ thể, vừa sinh động. Tôi hiểu được cách dùng ngụy hóa những ký hiệu truyền tin, môn này tôi đã học trong khóa chuyên môn về ngành điều không. Vào giờ phút quân bạn và địch giao tranh dữ dội, cuộc liên lạc tay ba giữa đơn vị hành quân, phi cơ quan sát, phi cơ khu trục đánh bom nghe vang lên ngoài chiến trận thật hào hùng, sôi nổi, rất gay cấn như một trận túc cầu. Giữa vùng trời mờ mịt khói lửa, tôi như nghe ra tiếng gầm thét của bom đạn, nhịp tim đập nhanh hơn lúc hình dung trong mỗi giây phút hiểm nghèo máy bay của các chàng phi công vẫn biểu diễn các pha nhào lộn, oanh kích vào mục tiêu thật chính xác và đẹp mắt. Tôi mơ mộng nghĩ rằng, đó mới thật là lý tưởng và huyền thoại về những chàng phi công, họ được người dưới đất gọi là những hiệp sĩ không trung.
Hôm ấy là một ngày vui, tràn đầy bao ước vọng của tôi trong tương lai. Nhưng ở giây phút hẳn còn đang luyến lưu với đơn vị, lòng tôi bỗng dưng chùng xuống, vấn vương một nỗi buồn.
Khi ra khỏi cổng gác, tôi băng qua bên kia đường đứng chờ xe lam có ý định ghé thăm chị Số con bác cả tôi ở xã Tam Hiệp, nhà nằm gần chợ, cách xa lộ non cây số. Năm đầu tiên tôi lên trung học, chị tôi lấy chồng, ở Quảng Trị hai năm sau đó vào miền Nam. Tuy chị đi xa, ít có dịp trở về làng quê nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh chị thời con gái với nét mặt dịu hiền, cặp mắt to đen, và chị thật đảm đang việc nhà. Anh Nguyên và tôi chỉ có em gái thôi, vì vậy, chúng tôi hay ước mong mình có một người chị như thế để gần gũi mỗi ngày trong cuộc sống bình thường, bằng tiếng nói, câu chuyện vào lúc bữa ăn, hay có một việc gì thấy cần được giúp đỡ.
Bên nội tôi nghèo khó, trong họ hàng không có ai đậu đạt hoặc nên danh vọng cao. Có chú Nguyễn Đặng Anh em kế ba tôi học tới bậc Thành Chung, rồi đi làm thừa phái. Sau khi chú mất, chỉ còn lại ba tôi là khá với tấm bằng tiểu học và làm nghề giáo. Rất sớm hiểu về cuộc đời, nên ba tôi đã cố gắng cho chúng tôi đi học, đồng thời, cũng tìm cách giúp đỡ con cháu ở làng quê cố ra tỉnh để học chữ hay nghề may có chút tương lai về sau. Trong họ hàng, ba tôi là người được các cháu luôn nghe lời, riêng chị Số lúc nào cũng coi ông như một người cha. Thuở từ chốn làng quê ra thành thị, vì nghèo khó chị phải giúp mẹ buôn bán để nuôi em ăn học. Bù lại sự thiếu thốn này, trời cho chị chút nhan sắc để gặp người chồng tốt và sống cuộc đời hạnh phúc.
Làng quê tôi thuộc quận Hải Lãng, tỉnh Quảng Trị. Tỉnh này tuy nhỏ, nhưng có nhiều tài nguyên ở trên rừng và dưới biển. Rừng núi ngược lên vùng Tây Bắc, biển trải rộng về miền Đông. Và, không chỉ một con sông Thạch Hãn chảy qua thành phố mà về mỗi quận hay thị trấn, nơi nào cũng có sông và gần giáp với biển, trong đó, làng tôi ở gần nhất. Ngôi làng này nay vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh, vẫn giữ dáng vẻ đơn sơ, mộc mạc, dân cư thưa thớt, có khoảng chừng một trăm nóc nhà trải rộng trên những con đường đất im bóng, mát dịu dưới những hàng tre. Quanh làng, ở đâu tôi cũng nhìn thấy những đồi cát trắng trông tựa như đàn voi. Vào mỗi buổi sáng, từng đàn chim thiên di từ hướng núi bay ra biển. Rồi buổi chiều trước khi mặt trời lặn, tiếng sóng biển nghe xôn xao, nổi nổi, chìm chìm trong cơn gió rạt rào trôi đi rồi mất hút. Và, đó là tiếng động báo hiệu trước mùa đang tới sẽ yên bình hay là gặp giông bão.
Nhưng bất ngờ, có chuyến xe trong Quân đoàn về Sài Gòn công tác đã cho tôi quá giang. Lên xe, gặp anh tài xế vui vẻ, chúng tôi chuyện trò với nhau thoải mái. Tới Sài Gòn, anh tài thả tôi xuống ngay chỗ bùng binh trước chợ Bến Thành. Từ nơi này, tôi đón xe lam lên chợ Thái Bình tìm đến nhà người dì ở trong một con hẻm đường Võ Tánh.
Buổi sáng sớm hôm sau, tôi đã có mặt ở trạm tiếp liên Tân Sơn Nhất chờ chuyến bay. Trên bảng phi trình có ba chuyến cách nhau nửa giờ, một Pleiku, hai ra Đà Nẵng và Huế. Tôi xin chuyến Đà Nẵng, vì có ý định muốn ghé thăm gia đình ông bà Kha, nhất là mong gặp lại Thúy Hà. Tôi là nhớ Thúy Hà.
Ngày xa ấy, tên của nàng và bao nhiêu kỷ niệm dấu yêu, nàng cũng để lại hết vì muốn được tôi cất giữ.
Duy, chồng Hà lúc bị động viên nhập khóa 22 trường Thủ Đức. Một tháng sau, tôi nhận được điện tín của nàng báo tin sẽ vào Sài Gòn. Tôi cầm bức điện tín tưởng như ở bên cạnh người mình yêu, và trong câu chuyện trao đổi, tôi cứ bâng khuâng với tiếng nói của nàng. Rồi hết thời gian chờ đợi, tôi đón nàng ở trạm hàng không, sau đó đưa về nhà người bác, đến ngày chủ nhật lại cùng nàng đi lên quân trường thăm chồng. Tôi vẫn không ngờ mình gặp lại nàng. Hãy tin rằng, vì yêu, bao nhiêu xa xôi hai chúng tôi vẫn cứ mong đợi, và đi tìm nhau. Nhớ rõ hôm mới đến, nàng xuất hiện ở lối cửa ra phòng tiếp đón tôi thấy nàng thật tươi sáng và rất đẹp. Nàng đẹp hơn thời con gái nữa, thật chẳng ngại ngùng gì nên tôi nói ra điều tôi nghĩ cho nàng hay. Nàng cười, vui sướng như đang yêu, rồi để lộ hết một khuôn mặt kiều diễm cho tôi ngắm. Hình như, việc đi thăm chồng của nàng chỉ là một bổn phận, còn sự rung động tình yêu qua nỗi nhớ là dành riêng cho nàng và tôi thôi.
Thúy Hà ở chơi Sài Gòn khoảng hai tháng, thời gian này mỗi cuối tuần Duy về phép, còn tôi thỉnh thoảng đến gặp, trò chuyện với nàng. Nàng cũng như bên gia đình rất tốt với tôi, nên chi, dù thật yêu nàng tôi vẫn luôn cố gắng giữ một tình bạn của thời đi học.
Còn đến ba tháng nữa Duy mới mãn khóa sĩ quan nên Thúy Hà phải trở ra Đà Nẵng lo thu xếp công việc nhà. Dù có muốn đi làm, nàng cũng phải đợi ngày Duy ra trường nhận đơn vị, lúc ấy, vợ chồng mới dự tính cho nơi chốn ăn ở.
Ngày gặp gỡ cuối cùng, tôi đến thăm. Hai người ngồi ở phòng khách nói chuyện một lúc, sau đó, Thúy Hà lên phòng riêng thay quần áo. Khi Thúy Hà xuất hiện ở lối cầu thang xuống nhà, tôi thấy nàng mặc chiếc áo dài xanh có chấm bông trắng, đôi mắt sáng lên một niềm vui.
Nhà vắng, nên trước khi đi Thúy Hà phải coi lại các cánh cửa. Sau đó nàng cùng tôi rời nhà đi lối cửa bên, ra phía ngoài gặp con hẻm dẫn tới đường lớn. Có chiếc taxi chạy qua, nàng vẫy tay.
Tôi ngồi bên nàng ở băng ghế sau. Người tài xế điều chỉnh lại khóa đồng hồ rồi mới cho xe chạy. Xe hướng lên chợ Bà Chiểu, rẽ trái qua cầu Bông rồi hướng về khu Dakao. Ngồi bên nàng, tôi chẳng dám mong nghĩ tới sự hứa hẹn. Dù sao nữa, nay tôi và nàng có nhau trong tình anh em.
Xe xuống tới Sài Gòn, dừng ở ngay trước cửa chính chợ Bến Thành. Khi ra khỏi xe, ánh nắng buổi chiều trong thành phố ấm hẳn như thể cho tôi một cảm giác mình đang hạnh phúc cùng người yêu. Tôi nhận quen gương mặt Thúy Hà từ một tháng gặp lại nhau, mỗi lần nhìn nàng, tôi phác họa lấy một vài nét riêng nào đó để mà giữ cho mình trong tâm tưởng. Cố nhiên, Thúy Hà rất biết tôi yêu thích nhìn ngắm nàng, nên nàng cũng thật bao dung dành phần hạnh phúc ấy cho tôi.
Hai người đứng giữa đám đông chờ đèn xanh. Trước mặt, con đường tràn ngập những dòng xe cùng với bao nhiêu cảnh tượng huyên náo, ồn ào.
Chỉ đợi hơn một phút, mọi người cùng tràn xuống lối đi bộ qua đường khi đèn xanh bật lên. Rồi, họ tản mác còn tôi và nàng đang dừng bước. Nàng hỏi:
- Bây giờ đi đâu anh?
- Tùy em. Trước hết, em phải mua sắm cho mình đã.
- Còn sớm. Em ở bên anh cả buổi chiều.
- Vậy mình ghé quán nước đi.
- Anh thích xem ciné không?
Tự dưng tôi hơi ngần ngại, rồi nói:
- Tùy em.
- Anh biết rạp nào chiếu phim hay, mình đi.
- Chung quanh đây có nhiều rạp.
Tôi và nàng dời bước. Buổi chiều Sài Gòn thật vui, nhộn nhịp, hai bên lối vỉa hè chỗ nào cũng tấp nập người dạo phố. Thúy Hà đang nói chuyện, về Duy với giọng đùa nghịch rất dễ thương. Tôi thích tiếng nàng nói, nên đi bên nàng tôi chỉ nghe thôi, chan hòa theo nàng, và cứ nhẹ bước, chẳng bận tâm đến câu mình muốn hỏi, thảng hoặc ngắt lời nàng.
Hai người tới rạp Rex. Cuốn phim Vacance Romaine đang chiếu. Bên ngoài, dưới mái hiên đông người. Tôi hỏi ý nàng, sau đó đứng sắp hàng rước quầy để mua vé. Lúc này, chúng tôi cùng đưa mắt nhìn quanh như để tìm kiếm có ai quen. Trong một giây nhỏ, tôi chợt nghĩ đến ngày mai lưới cơn mưa qua ánh đèn nhòa nhạt trên từng con đường, có một chiếc xe ca lặng lẽ đưa Thúy Hà và bao nhiêu người khác nữa rời khỏi thành phố này.
Tôi và Thúy Hà cùng đi vào rạp, lên phía trên lầu đến dãy ghế sau cùng, góc bên trái.
- Ngày mai đi, em nhớ Sài Gòn không?
- Nhớ chứ.
Nàng nhìn qua tôi, một nụ cười thật dễ thương trong cặp mắt.
- Em không nhớ, thành phố này cũng giữ lại em.
- Em cũng phải về chứ.
- Em về, hình ảnh của em vẫn còn ở đây.
- Rồi, cũng có ngày em trở lại.
- Em sẽ trở lại với anh, phải không?
Tiếng nói của hai người chợt nghe nhỏ. Sài Gòn, nơi thành phố này nàng đã đến rồi ngày mai sẽ ra đi.
Ngày mai, tôi vẫn còn được ở bên nàng.
Anh đèn trong rạp hát vừa tắt, buổi chiếu phim bắt dầu. Có hai phim dạo quảng cáo lâu chừng mười lăm phút, rồi đến phim chính. Đây là cuốn phim được dựa theo cuốn tiểu thuyết của nữ văn sĩ người Pháp Odette Ferry.
Hai người cùng xem phim, vừa chuyện trò. Hạnh phúc này, như một món quà nhỏ của Thúy Hà cho tôi. Và, tôi nghĩ mình nên giữ lấy với sự yêu thương, bao dung của nàng. Tôi được nghe giọng nói của Thúy Hà trong âm thanh, tưởng như đó là những sợi chỉ màu đang nối kết niềm vui giữa đôi mắt và những nụ cười của nàng. Riêng với nụ cười, nàng sẽ ban cho kẻ khác một bóng ánh sáng. Đôi lúc, tiếng nói bỗng ngừng hẳn lại, tôi chợt nghe nàng qua hơi thở, và nếu can đảm lên một chút tôi ôm choàng lấy được người mình yêu.
Cuốn phim có nhiều đoạn thật vui. Nước Ý, những thành phố xứ này đang trải rộng ra, đem lại cho trí tưởng tượng của chúng tôi sáng bừng lên giữa những khung cảnh rất thơ mộng. Rồi cuốn phim kết thúc, đèn trong rạp dậy sáng. Tôi và Thúy Hà rời ghế rồi cùng theo khán giả xuống lầu đi ra ngoài.
Trời đang mưa. Mưa nặng hạt nên mọi người còn đứng ở rạp chờ đợi. Tôi lật cổ tay nhìn đồng hồ, mới ba giờ. Trời u ám, vì mưa. Những cơn mưa ở Sài Gòn thường đến trong buổi chiều nhưng cũng mau tạnh.
Nắng chợt bừng sáng lúc mưa vừa tan. Tiếng reo vui trỗi lên, và ngay lập tức, mọi người đổ ào xuống lòng đường.
Trời nắng hay mưa, các khu phố chính vẫn luôn nhộn nhịp. Tôi và Thúy Hà bên nhau, không rời nhau. Hai người sóng bước trên con phố Lê Lợi. Khi vào chợ Bến Thành, Thúy Hà đưa tôi đến các sạp hàng bán quần áo may sẵn. Nàng chọn lựa, mua nhiều loại quần áo đủ cỡ, và có cả áo len ấm nữa. Rời gian hàng quần áo, chúng tôi đi mua bánh kẹo, trái cây ép khô. Bây giờ, cái túi xách không mang theo được dùng để đựng hết các thứ.
Khi chúng tôi ra ngoài, trời lại mưa. Tôi nắm bàn tay Thúy Hà, cả hai cùng vội băng nhanh qua khu building của một công ty xuất nhập cảng đứng núp mưa.
Nước mưa làm ướt tóc và đọng vài giọt trên gương mặt nàng.
- Ngày em vào đây cũng vừa đúng lúc mùa mưa bắt đầu.
Thúy Hà không nói gì. Bất chợt, ý nghĩ về ngày mai nàng rời khỏi thành phố này mang lại cho tôi một nỗi buồn.
- Em về, hành lý nhiều không?
- Cũng nhiều. Mấy thứ này nữa là đủ hai va li.
Mưa lại tạnh, Thúy Hà nói:
- Em cảm thấy đói. Ăn gì đây anh?
Tôi đề nghị:
- Đi ăn bánh cuốn nhe.
Nàng gật đầu.
Đường phố lại đông người. Tôi đưa nàng đến dãy quán bánh cuốn nằm sát nhau trên đường Pasteur. Nơi ghế bàn thấp, hai người ngồi ăn. Bánh cuốn nóng, vừa thêm vị ớt cay. Tôi hỏi:
- Em đã ăn đủ thứ quà ở Sài Gòn chưa?
- Có, em ăn nhiều thứ.
Ngừng ăn, nàng nhìn qua tôi.
- Ngày mai anh có đi làm không?
- Ngày mai, anh được nghỉ.
- Anh làm việc ở Biên Hòa cứ lên về mỗi ngày.
- Có tuần thôi. Khi nào cần, anh mới về dưới này.
Tôi quá hạnh phúc khi được ở bên Thúy Hà, nhớ nàng vô cùng.
- Em ăn ngon không?
- Ngon lắm.
- Em ăn thêm.
- Vừa rồi, anh ăn nữa đi.
- Thôi, để mua nước em uống.
Tôi đứng dậy đi qua xe bán nước mía bên cạnh. Không chờ lâu, tôi mang hai ly lớn về đặt xuống bàn.
- Nước mía ngon lắm, em uống đi.
Tôi đốt điếu thuốc hút, tiếp lời:
- Tối nay em phải đi ngủ sớm.
- Em dễ ngủ mà cũng dễ thức dậy sớm.
- Nhưng cẩn thận, em nên để đồng hồ báo thức.
- Có chứ.
- Ngày mai anh đợi em ở trạm.
- Em sẽ đi taxi đến.
- Về ngoài đó công việc như thế nào, viết thư cho anh biết.
- Em sẽ viết thư cho anh luôn.
- Từ ngày đi xa đến nay, anh được đọc nhiều thư của em.
- Ba mợ vẫn luôn nhắc anh.
- Anh hiểu. Anh đã có được lòng yêu thương của gia đình em.
- Rồi, anh cũng phải lo cho mình nữa.
- Anh chưa nghĩ xa chuyện chi hết.
- Anh cũng phải nghĩ đến thôi.