by bevanng » 13 Nov 2016
Phần 1
Về sự lão hóa
Con người sinh ra, trưởng thành, lâm bệnh rồi từ trần, đó là chu kỳ “SINH LÃO BỆNH TỬ” theo luật thiên nhiên và nhân loại chấp nhận từ ngàn xưa. Nhưng nay đã bước sang thế kỷ 21, với kinh nghiệm sống, với tiến bộ của khoa học, nhất là y khoa, con người có khả năng ảnh hưởng đến hai trong bốn giai đoạn Sinh, Lão, Bệnh, Tử; đó là Lão và Bệnh. Lão là thời kỳ con người lớn lên, tiến về già; Bệnh là lúc cơ thể con người như bộ máy, bị hao mòn, trở nên trục trặc trước khi ngừng hoạt động. Con người hiện đại có khả năng kéo dài tiến trình lão hóa, làm chậm lại quá trình lão suy, làm nhẹ bớt nhiều chứng bệnh do tuổi già và loại hẳn nhiều chứng bệnh làm thiệt mạng người xưa kia. Tóm lại, con người ngày nay có thể tăng tuổi thọ và sống bình an, thoải mái suốt giai đoạn của cuối cuộc đời, giai đoạn mà người Tây phương gọi là Giai đoạn tuổi vàng (The golden years). Cái bí quyết để đạt đến mục đích đó là tìm hiểu tuổi già và phương pháp tổ chức lối sống cho có hiệu năng để hưởng trọn tuổi vàng.
1. GIÀ LÀ GÌ?
Già là gì? Bao nhiêu tuổi được gọi là già? Nếu dễ tính, ta có thể chấp nhận câu trả lời giản dị: Già là một giai đoạn của cuộc đời, cũng như giai đoạn dậy thì của thiếu niên, trưởng thành của trung niên. Trong giai đoạn này, tương tự như ở trẻ em, người già có vài điểm giống nhau và đặc thù đủ để tạo thành một mô hình cho tuổi đó. Nhưng, thực tế cho hay một định nghĩa như vậy chưa đủ thỏa mãn nhiều người.
Trong chu kỳ Sinh Lão Bệnh Tử, ta thấy khâu Lão tiếp liền khâu Sinh. Như vậy phải chăng phương Đông quan niệm rằng con người bắt đầu già ngay khi sinh ra đời? Rồi nếu ta ngẫm nghĩ về chữ “Old” là già trong tiếng Anh thì ta thấy những sắc dân nói tiếng Anh tuồng như cũng đồng quan niệm với người phương Đông về tiến trình già của con người. Chả thế mà họ gọi một đứa bé vừa sinh ra được 1 giờ là “one hour old”, mà một người 90 tuổi là “90 years old”. Mới sinh ra đã là “old” mà sống đến 90 tuổi cũng “old” nốt. Phải chăng Đông Tây gặp nhau ở đây? Ông Oscar R. Ewing, nguyên giám đốc Chương trình An sinh Liên bang Hoa Kỳ đã có nhận xét: “Với con người, không có một định nghĩa khoa học nào cho tuổi già của cơ thể con người. Cái mà chúng ta phải liên hệ tới không phải là một nhóm người già mà là một nhóm bị người khác gán cho nhãn hiệu già, mặc dù khả năng của họ khác nhau”.
Vậy thì rất khó mà định nghĩa hai chữ “tuổi già” hay là đặt một cái mốc để chỉ tuổi già trong quãng đời con người. Phải chăng tuổi già là tuổi giai đoạn cuối đời của con người? Nhưng đời con người kéo dài bao nhiêu năm? Cách đây một thế kỷ người Mỹ sống trung bình được 40 năm, nay họ sống trung bình được 75 năm. Còn ở Việt Nam, tuy không có thống kê, nhưng cứ đọc sử thì thấy rằng vào khoảng đầu thế kỷ vừa qua, vua chúa sống đến 40 tuổi là đã ăn mừng “tứ tuần đại khánh”. Trong nhân gian thì “nhân sinh thất thập cổ lai hi”, tuổi 70 cực kỳ hiếm. Vậy vào thời kỳ đó, tuổi già bắt đầu ở quãng nào của tuổi đời?
Không căn cứ được vào số năm để xác định tuổi già, thì phải dựa vào cái gì? Hay là cứ ví von như các cụ xưa, hứa với nhau sống cho đến khi “đầu bạc răng long”, hoặc nói về cái mệnh đoản của người con gái đẹp mà ngâm nga câu “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng; Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”, ý nói rằng người đẹp cũng mệnh đoản như các ông tướng tài, không sống đến lúc bạc đầu. Cái lối ví von để nói về tuổi già thế mà lại có căn bản khoa học đấy: Các cụ đã sử dụng hệ thống tuổi sinh lý. Vì răng long và đầu bạc là dấu hiệu thông thường nhất của tuổi già.
Các khoa học gia đã thử lấy một số thay đổi của cơ thể khi về già làm mốc sinh học (biomarkers) để định nghĩa sự già. Thí dụ tới tuổi nào thì da bắt đầu nhăn, răng rụng, thính giác giảm... Để có giá trị, mốc sinh học phải tiên đoán được, không tránh được và không đảo ngược được. Mốc sinh học thay đổi tùy theo mỗi cá nhân, ví dụ cùng tuổi, nhưng có người da nhăn, có người da không nhăn, cho nên, già có thể trông thấy, như tóc bạc, da mồi: hoặc cảm thấy, thí dụ cảm thấy mình không còn khỏe, không có nhiều nhiệt huyết như tuổi 20; hay già với những thay đổi thực sự của ngũ quan, lục phủ ngũ tạng đó là chỉ dấu thời kỳ lão suy.
Giai đoạn lão suy là giai đoạn con người có những biến đổi cơ thể theo chiều hướng đi xuống, nghĩa là từ tốt sang xấu, cũng như thay đổi về tính tình, cách đối xử. Da vùng mặt và cổ bắt đầu nhão, tóc bắt đầu bạc thành muối tiêu và với thời gian muối nhiều hơn tiêu, cho đến khi bạc cả đầu, khóe mắt xuất hiện nếp nhăn, răng bắt đầu rụng dần, những chiếc chưa rụng thì lung lay. Công năng cơ thể giảm sút như ăn chậm vì tiêu hóa chậm, ngủ ít, ngắt đoạn vì hệ thống thần kinh suy giảm, đại tiểu tiện chậm vì công năng hệ tiêu hóa yếu, nói năng chậm, trí nhớ sút kém. Thời kỳ lão suy cũng là thời kỳ mà các chứng bệnh liên quan đến tuổi già bắt đầu xuất hiện hoặc tác động mạnh đến toàn bộ cơ thể con người. Ngoài ra, vào tuổi lão suy một số người cũng trở thành thụ động, phụ thuộc không tham gia, có khuynh hướng sống lẻ loi không đòi hỏi.
Cũng nên nhớ sự hóa già ở nữ giới thường muộn hơn và họ thường thọ hơn đàn ông, lý do có lẽ ở nữ giới, dù hay nhiều bệnh hơn, nhưng họ chịu đựng dẻo dai hơn với bệnh tật, và khi về già giác quan của họ thường tinh tường, trí nhớ lâu hơn. Còn ở đàn ông thường bị nhiều stress do việc làm, nhiều bệnh tim mạch, ung thư, tai nạn nên mau già. Sự hóa già cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như gen di truyền, nếp sống cá nhân, gia đình, môi trường chung quanh, địa dư cũng như quan niệm, thái độ của con người trước sự hóa già. Ngoài ra mỗi người già theo một diễn biến riêng biệt, và trong cùng con người, mỗi tế bào, mỗi cơ quan già theo nhịp độ, số lượng khác nhau.
2. CÁC LOẠI TUỔI GIÀ
Như đã nói trên đây, rất khó mà định nghĩa tuổi già. Nếu căn cứ theo tuổi niên đại, tức là số năm con người sống kể từ khi sinh ra đời, thì tuổi già bắt đầu từ tuổi nào? Năm mươi? Sáu mươi? Bảy mươi hay tám mươi? Những con số này đều vô nghĩa nếu không có một hệ thống đo tuổi già khác đi kèm theo, đó là tuổi sinh lý. Ví dụ nếu một người 50 tuổi mà tóc đã bạc hết và các công năng cơ thể đã giảm sút thì người đó xem như đã già. Trái lại một người 60 tuổi mà thân thể còn cường tráng, các công năng cơ thể còn hoạt động điều hòa thì người đó chưa có thể xem là đã già. Còn nhớ khi Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan bị ám sát, các bác sĩ mổ lấy viên đạn ra đều có nhận xét là ngũ tạng của ông ta tốt như ngũ tạng của người trung niên, vì ông ta có đời sống lành mạnh, tích cực, nom ông ta trẻ hơn tuổi thực. Vì tuổi niên đại có thể ghi chép, thống kê nên các xã hội đều dùng số tuổi niên đại vào các mục đích hành chính, pháp lý. Ở các nước Âu, Mỹ, người ta lấy tuổi 65 làm mốc cho tuổi già để áp dụng các chương trình hưu bổng, trợ cấp, y tế miễn phí v.v... Hãy tạm gọi tuổi này là tuổi pháp lý. Người ta suy luận rằng tuổi 65 con người không còn khả năng hoạt động hữu hiệu nữa, cho họ về hưu là vừa. Một điểm đáng lưu ý là, tuổi niên đại trắng đen trên giấy tờ, theo nguyên tắc ta không thay đổi thêm bớt tùy tiện, nhưng tuổi sinh lý là cái mà ta có thể tùy nghi làm tốt xấu. Ta có thể là 60 tuổi với cơ thể một người 40 hay ngược lại. Sự lựa chọn là do chính ta quyết định.
Trong lĩnh vực nghiên cứu, các nhà lão khoa đã phân chia tuổi già làm 7 loại mà khi nhìn kỹ ta có thể thấy tại sao mỗi cá nhân già theo cách khác nhau.
1. Tuổi niên đại. Đây là tuổi mà ta nghĩ trước tiên, nhưng các thầy thuốc lại ít quan tâm tới. Đó là số năm con người sống trên trái đất kể từ khi thoát thai khỏi lòng mẹ.
2. Tuổi di truyền. Khi cha mẹ ông bà thọ lâu thì con cháu cũng có cơ hội sống lâu hơn, vì những hậu duệ này đã được hưởng nhiều gen trường thọ nơi tiền nhân.
3. Tuổi theo thống kê. Đây là số năm trung bình mà con người có hy vọng sống. Tuổi này thay đổi theo thời gian, không gian, và cũng tùy nơi tùy lúc, tùy theo giống tính, phái tính, nghề nghiệp, lối sống, tình trạng sức khỏe.
4. Tuổi theo cấu tạo cơ thể. Các bộ phận cơ thể khi tới một tuổi nào đó sẽ có nhiều thay đổi về cấu tạo, thí dụ như chiều cao con người ngắn lại, thủy tinh thể mắt vẩn đục, thành động mạch cứng, tuyến giáp trạng teo. Thành ra dù ta không có bị bệnh hoạn, tai nạn, tới một thời điểm không định trước, sự chết cũng xảy ra.
5. Tuổi sinh lý. Các chức năng của cơ quan, bộ phận con người trải qua nhiều thay đổi đưa tới sự thay đổi toàn diện.
6. Tuổi theo bệnh tật. Khi qua khỏi một cơn bệnh hiểm nghèo, nhiều người trông thấy, cảm thấy như già đi cả chục tuổi.
7. Tuổi tâm lý. Tâm trí con người trải qua nhiều thay đổi với tuổi cao, nhưng thường chậm hơn so với các thay đổi khác.
3. TIẾN TRÌNH LẢO HÓA
Đứng về phương diện sinh vật học, rất khó mà xác định tiến trình lão hóa. Những biến đổi sinh lý xảy ra trong thời gian, với thời gian chứ không phải vì thời gian đi qua. Những biến đổi đó xảy ra không đồng bộ trong toàn cơ thể con người. Nhịp độ thay đổi khác nhau tùy theo từng bộ phận, từng tế bào. Tiến sĩ Leonard Hayflick, một nhà nghiên cứu ở viện nghiên cứu Vistar, Philadelphia, Mỹ, đã ví cơ thể con người như là một tiệm đồng hồ trong đó có rất nhiều đồng hồ mà mỗi chiếc chạy theo mỗi giờ khác nhau. Các tế bào, các cơ quan trong thân thể con người hoạt động giống như những chiếc đồng hồ độc lập theo nhịp độ khác nhau trên tiến trình lão hóa.
Có người tuy tuổi niên đại cao nhưng tuổi sinh lý thấp. Hiểu biết về tuổi sinh lý rất cần thiết cho tuổi thọ, tuy rằng khoa học chưa có phương pháp chính xác để đo tuổi sinh lý.
Các nhà chuyên khoa bệnh tuổi già đã thử đo chiều dài của vành tai, cơ năng hoạt động của tim, sức mạnh của bắp thịt, khả năng vận động thân thể, màu sắc của tóc v.v... Với hy vọng tìm được một mẫu số để đo lường và tiên đoán nhịp độ của lão hóa, nhưng họ đã không thành công vì có quá nhiều yếu tố chi phối tiến trình lão hóa và những yếu tố đó đã vừa đa dạng mà lại còn không đồng bộ cho tất cả mọi người.
Tác giả Susanne Robb viết về lão hóa như sau: “Lý thuyết gia nào thử giải thích hiện tượng lão hóa của con người cũng vấp phải một sự thử thách lớn lao. Lão hóa có thể xem như một mức độ tăng gia rất phức tạp của sự phát triển hay cũng có thể là một quá trình đi đôi với sự suy thoái và mất mát. Lão hóa có liên hệ với sự phản ứng của cơ thể đối với các ảnh hưởng di truyền và môi sinh. Hơn nữa lão hóa là một quá trình rất cá biệt, bị chi phối bởi nhiều nguồn ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Vì thế tuổi sinh lý đơn phương không thể dùng để tiên đoán một cách chính xác tuổi thọ của một cá nhân”.
Nói tóm lại, vấn đề sống lâu là một vấn đề hoàn toàn cá nhân. Con người chịu ảnh hưởng của di truyền, môi sinh, hoàn cảnh xã hội, lối sống cá nhân, tình trạng tinh thần v.v... nhưng con người cũng có khả năng chi phối đời sống của mình về nhiều mặt để đạt được mục đích sống lâu.
* Con người có thể chặn đứng tiến trình lão hóa không? Tất nhiên là không, nhưng con người có khả năng giảm thiểu các chứng bệnh xảy ra ở tuổi già tức là làm chậm tiến trình lão suy với kết quả là kéo dài tuổi thọ. Tuy nói về vấn đề sống lâu tùy thuộc từng cá nhân, nhưng về phương diện môi sinh trở thành một vấn đề của tập thể. Ví dụ trong một cộng đồng sống xúm xít gần nhau, cùng sử dụng một nguồn nước chung, thì mỗi cá nhân phải có bổn phận giữ cho nguồn nước và không khí được trong sạch và tất cả mọi người trong cộng đồng phải có cố gắng như nhau. Nếu một vài cá nhân trong cộng đồng đó cứ xả rác vào nguồn nước và phun khói vào không khí thì tất cả cộng đồng phải chịu ảnh hưởng xấu của tình trạng môi sinh.
Tuổi thọ của một cá nhân tùy thuộc vào tình trạng môi sinh là thế. Cơ thể con người là một hệ thống mở ngỏ, tác động qua lại với môi sinh. Nó nhận được sự nuôi dưỡng từ môi sinh, nhưng đồng thời cũng chịu đựng từ môi sinh những nguy cơ và đe dọa đối với sự mất còn của nó. May mắn thay, cơ thể có một hệ thống điều chỉnh tự động để bảo vệ. Ví dụ nếu áp huyết bị sụt thì tức khắc hệ thần kinh phát ra tín hiệu để tăng nhịp tim đập, tăng lực co bóp của tim, làm co thắt các mạch máu và kết quả là áp huyết được tăng trở lại mức bình thường, trong một thời gian ngắn chờ sự điều trị.
Ngoài ra, còn có hệ thống miễn nhiễm, miễn dịch để giúp cơ thể bảo vệ khi có sự xâm nhập của vi trùng, virus, nấm (mầm bệnh). Do đó, những người bị AIDS (SIDA) thường tổn mạng vì hệ thống miễn nhiễm bị HIV phá hủy.
* Con người có thể sống đến bao nhiêu tuổi? Trong điều kiện lý tưởng, ví dụ có gen di truyền tốt, có hệ thống điều chỉnh tự động tốt, có hệ thống miễn nhiễm tốt, có hoàn cảnh môi sinh tốt, có điều kiện dinh dưỡng tốt, có lối sống lành mạnh v.v... thì con người, trên lý thuyết, có thể sống rất lâu. Theo Leonard Mayflick tuổi thọ tối đa của con người là từ 110 đến 120. Những nhà nghiên cứu ở Đại học California còn nâng tuổi thọ của con người lên khoảng từ 120 đến 150 tuổi. Hiện nay, riêng tại Mỹ, số người sống trên 100 tuổi đã tới trên 60.000 và sẽ còn gia tăng. Trong lịch sử nhân loại, đã có nhiều người có tuổi thọ rất cao như: người Mỹ Delina Filking sanh ngày 4/5/1815, chết ngày 4/12/1928, thọ 113 tuổi; một ngư phủ Nhật Bản chết năm 1986, thọ 121 tuổi; bà Jeanne Calment, người Pháp sinh tháng 2/1875, mất tháng 8/1997, thọ 122 tuổi v.v...
Giống như các động vật có * khác, loài người trải qua ba giai đoạn sinh tồn như sau:
1. Giai đoạn phôi thai: Giai đoạn này phụ thuộc vào sự nuôi dưỡng của mẹ để sinh trưởng và phòng chống những đe dọa của môi sinh.
2. Giai đoạn tăng trưởng: Đây là giai đoạn mà cơ thể đã đạt được sự cân bằng đối với môi sinh bằng cách bảo trì có hiệu quả các chức năng của tế bào.
3. Giai đoạn lão hóa: Trong giai đoạn này, khả năng bảo trì và sửa chữa các tế bào dần dần trở thành kém hiệu quả, nhiều loại tế bào chết đi và các chức năng của cơ thể suy giảm.
Các khoa học gia tin rằng, con người có một tuổi thọ nhất định tùy theo các yếu tố di truyền và dù cho có loại bỏ hết tất cả các bệnh có khả năng gây tử vong hay là những đe dọa của môi sinh, thì tuổi thọ đó cũng chỉ được tăng thêm 10 năm là cùng. Tuy nhiên tuổi thọ đó là bao nhiêu cho từng cá nhân hay từng cộng đồng thì không thể xác định được. Vậy nếu quý cụ thọ, thí dụ đến 60 tuổi ngày hôm nay, thì quý cụ có thể yên trí rằng quý cụ có những gen di truyền tốt đã giúp quý cụ chống đỡ mọi đe dọa của bệnh tật trong suốt 60 năm nay. Nay quý cụ chỉ cần theo đúng những phương pháp phòng, chống, chữa bệnh và những nguyên tắc căn bản về dinh dưỡng, tập luyện thể chất và tâm trí, thì có thể sống thoải mái, hưởng trọn tuổi vàng.
4. VÌ SAO TA GIÀ?
Về phương diện sinh học, lão hóa là một đặc điểm của các sinh vật “cao cấp” trong đó có loài người. Những sinh vật nguyên sinh ở cấp thấp như vi khuẩn (bacteria), loại chỉ có một tế bào như sinh vật đơn bào đều không già! Những sinh vật này sinh sôi nảy nở mà không cần phải có sự phối hợp của giống cái và giống đực, và đặc biệt chúng chỉ có một hệ thống nhiễm sắc thể trong nhân tế bào. Những sinh vật khác đều có hai hệ thống nhiễm sắc thể, sinh sản qua sự phối hợp của giống cái và giống đực, và bị chi phối bởi tiến trình lão hóa thiên nhiên. Trong các sinh vật này chỉ những yếu tố di truyền trong nhân của tinh trùng ở giống đực và trứng của giống cái là có khả năng bất tử, truyền từ đời này qua đời khác. Ngoài ra tất cả mọi tế bào đều có tuổi thọ riêng rẽ. Có nhiều tế bào không có khả năng tự phân chia và do đó không có thể tự sinh sản, như tế bào của cơ tim, tế bào mô thần kinh của não và tủy sống. Nhiều tế bào khác có tuổi thọ tương đối ngắn và không ngừng được thay thế bởi những tế bào mẹ được phân chia rất nhanh. Đó là những tế bào của máu, của lớp màng lót trong dạ dày và ruột, của các lớp da bên ngoài cơ thể.
Thời gian không làm tế bào già đi nhưng trong thời gian có những “đột biến” xảy ra khiến các tế bào bị ảnh hưởng và biến đổi, kéo theo sự biến đổi của cơ thể và sự suy giảm của các chức năng sinh lý. Nhưng duyên cớ đó gồm có:
1. Đồng hồ sinh học: Cơ thể con người đã được “thảo chương” theo những yếu tố di truyền để cho con người được sinh trưởng, lão hóa rồi chết trong trật tự thiên nhiên vào một thời hạn đã định trước. Khi các đồng hồ sinh học đó điểm giờ định mệnh là khi con người ngưng sống.
2. Sự tích lũy các sai lầm: Đây là sai lầm của các phần tử trong cơ thể. Trong tế bào và mô lành mạnh luôn luôn có một sự luân chuyển các thành phần hệ trọng như: enzym, nội tiết tố (hormon) và chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters). Trong mỗi quá trình luân chuyển thường có khả năng xảy ra những sai lầm và nếu những sai lầm đó tích lũy tới một mức độ nào đó thì những tế bào hoặc mô trở thành bất khả dụng và có thể chết. Ví dụ nếu một hóa chất nào đó ở tế bào não bộ bị suy thoái thì dù cho những tế bào đó còn sống nhưng não bộ cũng mất chức năng điều khiển các bộ phận trong cơ thể, dẫn đến hậu quả là cơ thể chết. Nếu những tế bào khiếm khuyết sinh sôi nẩy nở thì dù cho chúng không nằm trong những cơ quan điều khiển cơ thể, toàn bộ cơ thể cũng có thể bị hủy hoại dẫn đến tử vong như trường hợp các bệnh ung thư.
3. Sự tích lũy các chất phế thải: Trong quá trình biến hóa của từng tế bào, có sự tích lũy các chất phế thải. Sự tích lũy này có thể xem như một phần của tiến trình lão hóa. Về phía các tế bào không có khả năng phân chia như tế bào của cơ tim, thận và não, có một sự tích lũy dần dần của nhiều chất liệu mà các khoa học gia có thể nhận ra dưới kính hiển vi nhờ một phương pháp nhuộm màu đặc biệt. Một trong những chất liệu đó là chất “lipofuscin” biểu hiện tình trạng “hao mòn tả tơi” của mô tế bào về già.
4. Lão hóa các mô liên kết: Mô liên kết là một cấu trúc gồm các chất như nguyên bào sợi, chất tạo keo (collagen), thớ sợi co giãn. Những dấu hiệu của tuổi già do sự lão hóa mô liên kết rất dễ dàng thể hiện như tình trạng da và xương trở thành mỏng hơn và dễ vỡ; phổi, xương sụn, mạch máu mất khả năng co giãn; các bắp thịt và khớp xương trở thành trơ cứng. Sự trơ cứng của mô liên kết bắt nguồn từ liên kết chéo hóa học giữa các chuỗi phân tử dính liền nhau trong cấu trúc của các mô xơ.
5- Sự mất hiệu năng của hệ thống miễn dịch: Nếu có chất lạ xâm nhập cơ thể thì hệ thống miễn dịch sẽ phát giác ra ngay và huy động hệ thống phòng thủ để tiêu diệt hay loại trừ các chất lạ đó. Đó là phương cách mà hệ thống miễn dịch bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, virus, nấm mầm bệnh, đồng thời ngăn chặn sự tích lũy các chất hữu cơ vô dụng trong cơ thể. Các tế bào hay chất liệu nào mà cơ thể không chấp nhận vì bị già cỗi suy yếu hay là ác tính (như ung thư) đều bị phát giác và tiêu hủy. Khi ta già hoặc khi một vài bộ phận trong hệ thống trở thành suy yếu thì hệ thống miễn dịch mất hiệu quả và khi đó cơ thể dễ bị nhiễm độc và dễ bị bệnh ác tính xâm nhập. Ngoài ra, hệ thống miễn dịch còn có thể mất khả năng chuyên biệt của nó và đôi khi còn hủy hoại các cơ quan trọng yếu của thân thể. Tiến trình này gọi là bệnh tự miễn dịch (autoimmune disease). Ví dụ bệnh này có thể hủy tuyến giáp trạng, nang thượng thận và lớp niêm mạc bao tử, gây nên phù niêm. Các chứng bệnh này thường gặp ở người cao tuổi và không phải do sự ngẫu nhiên, cho nên người ta tin rằng có một căn nguyên chung cho các chứng bệnh đó.
Trên đây là tóm tắt các diễn biến xảy ra trong và với thời gian mà hậu quả là sự biến đổi của cơ thể và sự suy giảm của các chức năng sinh lý.
Con người già không phải do thời gian trôi qua mà do sự biến đổi sinh lý hóa. Số năm mà ta đã sống không tương đương với tỷ lệ, mức độ của sự suy thoái sinh lý mà cơ thể ta đã chịu đựng. Bởi thế một người với tuổi niên đại là 60 có thể có một thân thể sung mãn tương đương với người ở tuổi sinh lý 40, hay ngược lại.
5. NHỬNG LÝ THUYẾT VỀ SỰ LÃO HÓA
Để giải thích diễn tiến lão hóa, nhiều khoa học gia đã đưa ra một số thuyết khác nhau. Và, lý thuyết cũng vẫn chỉ là những giả dụ chứ chưa được sự đồng thuận của các khoa học gia. Tại Mỹ, Viện Sức khỏe Quốc gia (National Institutes of Health), Viện Lão khoa Quốc gia (National Institute of Aging) phân chia những thuyết này thành hai nhóm:
1. Nhóm lý thuyết căn cứ trên sự sắp đặt theo chương trình
1.1. Lão hóa theo chương trình. Ngay từ khi thụ thai, gen di truyền đã sắp đặt một trình tự bất biến mà con người sẽ đi qua tám giai đoạn của cuộc đời: thụ thai, phát triển thai nhi, sinh đẻ, tăng trưởng, tuổi dậy thì, tuổi trưởng thành, tuổi già rồi chết. Ta thấy tuổi dậy thì xuất hiện vào 14 - 15 tuổi, tắt kinh khi nữ giới được 45 - 50 tuổi, tóc bạc vào tuổi 50 trở lên, vậy thì sự hóa già cũng được một cái đồng hồ gen sắp đặt sẵn để đến tuổi nào đó, cơ thể suy yếu, già đi rồi mai một.
1.2. Thuyết nội tiết tố. Trong cơ thể, nội tiết tố giữ vai trò quan trọng điều hành nhiều chức năng của các cơ quan, bộ phận: như chuyển hóa cơ bản, tăng trưởng phát triển của cơ thể... Vậy thì rất có thể kích thích tố cũng điều khiển, kiểm soát tiến trình hóa già. Chẳng hạn hormon tăng trưởng giảm dần với tuổi cao và khi về già không còn hormon này nữa.
1.3. Thuyết miễn dịch. Cơ thể khi sinh ra đã được trang bị một hệ thống phòng thủ chống sự xâm nhập của các vật lạ, gọi là miễn dịch. Cũng như bất cứ một lực lượng phòng vệ nào, miễn dịch bảo vệ cơ thể bằng nhiều cách. Có thể là các bạch cầu trực tiếp tấn công, vô hiệu hóa vi khuẩn, nấm bệnh. Có thể là những bạch cầu đặc biệt tạo ra chất kháng thể, lưu thông trong máu và vô hiệu hóa những vật ngoại lai. Lý thuyết hóa già do miễn dịch suy yếu dựa vào hai nhận xét. Thứ nhất là với tuổi già, cơ thể sản xuất ít kháng thể đồng thời phẩm chất cũng kém. Thứ hai là với tuổi già, cơ thể đôi khi tạo ra kháng thể chống lại chính các phân tử protein bình thường, gây ra bệnh tật, suy yếu như trường hợp viêm khớp ở nhiều người già. Như vậy, do sắp đặt trước, khả năng miễn dịch suy giảm với thời gian, cơ thể dễ bị bệnh, sẽ suy yếu, già rồi chết. Thí dụ như khi bị cúm, người trẻ dễ chống lại nó và mau bình phục hơn một người cao tuổi.
2. Thuyết về sự lầm lẫn
2.1. Sự hư hao, tả tơi. Cơ thể, thịt xương, chức năng... hao mòn theo thời gian vì những va chạm, xâm lấn... mà nếu không được chữa trị, tu bổ thì chúng sẽ bị tiêu hủy và loại bỏ, mai một. Thuyết này được nhà bác học người Đức, August Weismann, đưa ra năm 1882. Theo ông ta, sự chết xảy ra là vì một mô hư không bao giờ tự nó tân trang được. Sự hư hao, tả tơi còn làm xói mòn các diễn tiến sinh hóa bình thường trong tế bào, mô, cơ quan. Theo Dan Georgakas, cơ thể già vì thường xuyên bị tác hại bởi nhiều áp lực từ bên ngoài như xúc động cảm giác, va chạm thực chất, nhiễm độc môi trường.
2.2. Liên kết chéo, chất liên kết thường là một hóa chất cột hai phân tử riêng rẽ với nhau. Sự gắn chéo (cross linkage) chất đạm làm tổn thương mô tế bào, ngăn cản sự thu nhập dưỡng chất, bài tiết chất phế thải, đưa đến sự suy yếu của cơ thể. Sự gắn chéo thường thấy ở các phân tử protein trong chất tạo keo, làm da khô, nhăn, không đàn hồi, hay ở khớp xương kém co duỗi, khi tuổi cao. Thuyết này cũng liên hệ tới sự sử dụng chất đường. Khi đường vào cơ thể, nó sẽ bám vào chất đạm, làm đạm chất chuyển sang màu vàng, trở nên bất khiển dụng, gây nguy hại và làm già cơ thể.
2.3. Thuyết về sự tích lũy những sai lầm. Để tăng trưởng, cơ thể liên tục biến chế các phân tử protein và ADN, nhưng những phân tử này không phải lúc nào cũng được sau cùng hoàn hảo. Có nhiều tổn thương trong sự tổng hợp chất đạm tạo ra chất đạm dị hình mà khi tích tụ nhiều sẽ gây hư hao cho tế bào, mô và các bộ phận. Theo thuyết này, khi ta về già thì cơ thể dễ phạm những lầm lỗi kể trên, đưa đến sự già.
2.4. Tích trữ những đột biến. Thuyết này liên quan đến các tế bào thân (somatic cells) là những tế bào luôn luôn sinh sản và hủy diệt. Gen trong tế bào bị ảnh hưởng của tác nhân nguy hại, như tia phóng xạ, hóa chất độc, thay đổi cấu tạo, làm tế bào hư hao, chức năng lệch lạc, khiến cơ thể không còn hoạt động. Sự đột biến này còn truyền sang thế hệ kế tiếp của tế bào khi tế bào này sinh sản.
2.5. Thuyết gốc tự do. Sự tích lũy các tổn thất của các tế bào cũng như cơ quan một ngày nào đó sẽ ngừng hoạt động. Đó là thuyết gốc tự do. Gốc tự do (free radical) là một phân tử hóa học có một cấu trúc khác với những phân tử hóa học thông thường vì nó có một nguồn điện không thăng bằng, một điện tử tự do (free electron). Phản ứng của gốc tự do rất cần thiết cho sự sống vì nó tạo ra năng lượng, sự miễn nhiễm, sự phát tín hiệu của hệ thần kinh, sự tổng hợp hormon, sự co giãn của các thớ thịt nhưng nếu số lượng của gốc tự do quá cao thì lại nguy hại cho sự sinh tồn.
Khi một gốc tự do dính vào một phân tử lành mạnh thì nó biến phân tử này thành một phân tử bất khả dụng, vì gốc này đánh phá cấu trúc của các phân tử, tạo ra những chất phế thải gọi là lipofuscin. chất lipofuscin chặn đứng khả năng tự sửa chữa và sinh sản của tế bào. Với thời gian, tác hại của gốc tự do dẫn đến sự lão suy của tế bào và tạo ra những biến thể, nguồn gốc của các bệnh ung thư. Gốc tự do cũng phá hoại các mô Collagen và mô chun khiến cho da bị mất tính chất co giãn và căng cường, một ví dụ là da mặt bị nhăn nheo ở những người già. Khi hợp với các phân tử protein thì gốc tự do tạo ra liên kết chéo giữa các phân tử, một hiện tượng của lão suy. Nguyên do của lão suy này là các phân tử riêng rẽ của một phân tử bị một chất hóa học hàn lại với nhau và bị mất khả năng hấp thụ nước, dưỡng khí, hay là các chất bổ dưỡng từ các mạch máu.
Gốc tự do tạo ra nguy cơ ung thư, tình trạng suy nhược của người già, bệnh xơ cứng động mạch và bệnh huyết áp cao. Nguồn sản xuất gốc tự do gồm các sản phẩm của sự căng thẳng tâm thần, bệnh tật, mệt mỏi, môi sinh xấu như không khí ô nhiễm khói thuốc hút, ozon, oxy, nitơ và phóng xạ (bao gồm ánh sáng mặt trời, chất phế thải nguyên tử, phóng xạ thất thoát từ lò viba); ngoài ra còn có các chất mỡ oxy-hóa, nước có khử trùng bằng chất chlorin, các chất hóa học trộn vào thực phẩm như nitrit, natri, sulfurdioxid v.v...
Trên đây là tóm lược các lý thuyết cố giải thích sự hóa già. Lý thuyết nào nghe cũng thuận tai nhưng chưa được chứng minh, không có đủ dữ kiện khoa học hỗ trợ và vẫn chỉ còn là lý thuyết.
Tóm lại, khi các tế bào bị hư hại nhanh hơn khả năng tự sửa chữa thì tiến trình lão hóa bắt đầu. Bình thường thì hệ thống miễn nhiễm trong thân thể làm nhiệm vụ phòng ngự và sửa chữa. Hệ thống đó tiêu diệt các tế bào biến thể hoặc bị hư hại do các nguồn tác hại như gen xấu, sự biến thể tự phát, chất độc trong môi trường, vi trùng, gốc tự do, sự gắn chéo, sự tích lũy các phế liệu. Ngoài ra chất chống oxy- hóa tự nhiên (antioxidants) tìm thấy trong sinh tố C và E, selenium có thể ngăn chặn sự cấu tạo của gốc tự do và các phản ứng gắn chéo. Tuy nhiên, nếu hệ thống phòng ngự và sửa chữa cơ thể không đủ sức để đối phó với sự thương tổn các chất tế bào thì không thể ngăn chặn được lão hóa.