Món quà tinh thần gởi tặng Christiane từ: MuaThuDuoiMua, Minh Chau, ngay xua 1972, nguyenninhtran, Lang Tu, tlh, giamchua, nguyển saigon
Cây cảnh Thiên(lá bỏng)
Cây cảnh thiên còn gọi là cây thuốc bỏng hay cây sống đời giống có hoa đỏ hay vàng, nở hoa vào cuối năm và tết là (Kalanchoe pinnata (Lam)) cho quả có hạt nhiều nhất là giống hoa vàng, hạt rất dễ mọc, thường được trồng vào chậu để lưu niên hay trông ra đất, gần tết đánh trồng vào chậu nhỏ. Hoa nở rất bền. Cây trồng được bằng thân cành. Giống Bryophyllum calycinum Salish) lá to hơn. Hoa cũng
mọc thành chùm song hoa không nở xòe mà cụp và rủ xuống màu trắng xanh phớt hồng.
Cây trồng vào núi non bộ. Giống bỏng men Nam to lá hơn, ít phân cành trồng trong chậu được. Cây non mọc tự nhiên từ khía lá răng cưa. Lá làm thuốc chữa bỏng có chứa nhiều kháng sinh, sắc tươi uống chữa viêm đường ruột. Cây cảnh thiên thuộc họ canh thiên (Carassulaceae). Cùng họ với cây cảnh thiên có cây thạch liên đài còn gọi là liên tọa (tòa sen) hay cây hoa đá (Cotyledon glanca Baker). Cây chịu đựng mọi bất thuận. Lá rất dày, nếu đất tốt và ẩm, cây sẽ to và vươn dài . Thường trồng vào chậu để ở nơi cao cho cành rủ xuống. Thạch liên đài trồng bằng thân cành. Cũng có thể chỉ lấy một lá còn nguyên chân cuống, giâm xuống đất, không cần vùi kín đất, trên ehe phù mùn rác, ít lâu sau từ lá sẽ cho cây con.
Bón thường xuyên bằng bã chè vừa giữ được độ ẩm vừa eo nhiều đạm thực vật.
Cây thạch hên đài có thể trồng vào vò ốc biển to để treo lên tường trong nhà hay ngoài hiên.
Hoa Ngọc Lan
Ngọc lan có hai giống hoa trắng (Mechelia alba D.C) cây cao to và giống hứa vàng, cũng gọi hoàng lan (Michelia Champaca L.) thuộc họ ngọc lan Magllohaceae).
Ngọc lan thân lá đều đẹp, hoa nhỏ và thơm, hoa đùng để ướp chè và cất tinh dầu nước hoa được. Tuy thân gỗ to xong gỗ xốp, xấu. Cây rất chịu nắng, không kén đất, xong cần ẩm. Cây được trồng nhiều ở đình chùa và công viên, vì cây chiếm đất nhìêu.
Gần đây nó đã được trồng nhiều để lấy hoa cúng gài mái tóc, kẹp sách và cho vào ví, túi cho thơm. Thông dụng nhất là giống hoa trắng. Ngọc lan trồng bằng cành chiết. Ngọc lan rất khó chiết, phải chọn cành một năm tuổi và mọc thẳng đứng, bóc vỏ vào chung quanh tiết Đông chí (22/12), cần để cho vết thương ra mô sẹo rồi hãy bó bầu. Tỉ lệ cho cành ra rễ mới cao. Cây hoa vàng có thê trồng bằng cây con từ hạt. Hàng năm các hoa không lấy hết, sẽ cho quả chín rụng xuống gốc và lên cây vào mùa xuân, mùa thu đánh đem trồng.
Ngọc lan vàng cây nhỏ nhưng khỏe. Các cụ xưa thường dùng cây này làm gốc để ghép ngọc lan trắng.
Cây hoa Lan tua
Hoa lan tua còn có tên gọi hoàng lan cũng gọi lan vàng hay lan tây. Tên khoa lọc Cananga odorata (lamk) Hkok. f. et thams. Cây to cao thuộc họ na (anonoceae), cho cành ngang, hoa ra ở nách lá, hoa màu xanh khi chín chuyển màu vàng và có mùi thơm ngát. Cây ra hoa chủ yếu vào mùa hè. Lá xanh tốt quanh năm, khác cây na cùng họ này. Lan tua không rụng lá về mùa đông, gỗ xốp xấu, cây chịu mọi điều
kiện bát thuận, thường trồng để lấy hoa cúng và cho mùi thơm ở eáe vườn hoa. Loài hoa này còn có một giống cây thấp nhỏ, hoa bé, có thê trồng được trong
chậu có tên tiểu hoàng lan, có thể tạo thế và tạo dáng được nguồn gốc từ Đà Lạt. Một cây khác như thân bụi, mọc ở đồi núi trung du gọi là cây hoa giẻ.
Cây trồng làm cảnh được và có thề trồng vào chậu. Cây tiểu hoàng lan có thể chiết được, còn cây hoàng lan rất khó ra rễ, chì nhân giống bằng cây con mọc từ hạt. !
Cây hoa Đại (hay sứ)
Tên khoa học plumena rubra L. var acutifolia (poir) bail. Họ trúc đào (Apocynaceae). Hoa đại có nhiều giống với nhiều màu hoa. Giống thường gặp là hoa trắng, phía dưới chân cánh màu vàng. Giống có màu đỏ thẫm và giống thay màu trắng phía ngoài cành lá màu vàng nhạt. Hoa đại ra ở phía đầu cành từng chùm vào suốt mùa hè. Mùa đông cây rụng hết lá trơ cành giống như những chiếc sừng hươu. Hoa có mùi thơm nhẹ, phơi khô có thể thay nấm hương được. Hoa phơi khô còn dùng làm thuốc hạ huyết áp. Cây to nhưng gỗ không làm gì được.
Cây đại thường được trồng ngoài đất hay vào bồn ở các cơ quan và đình chùa. Nhà tư ít người trồng. Cây hoa đại tự nó có dáng thế đẹp, thân gỗ xù xì Gần đây người ta cũng trồng cây nhỏ vào chậu. Cây hoa đại rất ưa ánh sáng. Nếu cớm nắng thậm chí không lớn lên được, cây chịu được tất cả các hoàn cảnh không thuận khác.
Cây sống được rất lâu năm. Khi cắt cành giâm nên để chân cành khô nhựa một vài hôm mới trồng xuống đất. Chân cành đỡ bị thối nếu trồng xuống tưới nhiều nước hay gặp mưa.
Cây hoa Muồng cúng
Cassica alata sp. Họ vàng (Caesal - pimaceae). Cây thân gỗ sống lâu năm, cho hoa màu vàng thành chùm rất sai hoa. Cây thuộc loại cây nhỏ, trồng ở bồn tại các dinh thự hoặc bên viỉa hè lấy bóng mát và cho hoa đẹp. Cây chịu khỏe với hạn và nước, nắng hay cớm. Trồng bằng cây con gieo từ hạt. Hoa cũng được làm hoa gói để cúng vào lúc hiếm hoa nên gọi tên muồng cúng.
Cây hoa Đăng tiêu
Có hai giống, đăng tiêu lá nhỏ tecoma capensis linh và giống hoa to tecoma grandiflora loisel thuộc họ núc nác (pngnoniaceae) có nguồn gốc từ châu Mỹ.
Hoa kết thành ngự, sai hoa và lâu tàn màu đỏ da cam. Hoa nở suốt mùa hè và mùa thu. Làm giàn hoặc cho leo trên các giàn xi măng trên sân thượng, hoa rủ xuống trông như các chiếc đèn lồng nên có
tên đăng tiêu.
Đăng tiêu không kén đất, ưa ánh sáng và không chịu úng ngập. Giâm cành dễ sống vì ngay ở các đốt lá đó luôn luôn ra rễ sẵn.
Cây hoa đào
Cây đào có nguồn gốc từ nước Ba Tư và được trồng ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Mông Cổ, Lào... vừa cho hoa đẹp vừa cho quả ăn.
Tên khoa học: Prunus persica, Stokes (amygdalus persica Linn).
Thuộc họ: Hoa Hồng (Rosaceae).
Ở Việt Nam nhiều nhất là Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang... ở Lâm Đồng được trồng tại Đà Lạt.
Mô tả:
Cây đào là loại cây nhỏ. Lá đơn, hình mác (hẹp đầu thuôn và nhọn) mọc so le, cuống ngắn, hoa màu hồng, gần như không cuống. Quả hạch hình cầu đầu nhọn có một rạch nhỏ lõm vào chạy dọc theo quả. Ngoài vỏ quả có nhiều lông mịn. Quả chín màu nâu đỏ, hột cứng trong có nhân. Cây được trồng làm cảnh vào ngày tết, và còn làm thuốc chữa bệnh
- Bộ phận dùng: Quả hạt, lá, hoa.
- Thành phần hóa học:
Phần thịt quả đào có chứa chất màu, 15% chất đường, các acid (citríc,tartric), vitamin C, một ít tinh dầu...
Hạt đào có chứa 50% dầu 3,5% amygdalin, ít tinh dầu, men emunsin.
Lá đào có amygdalin, acid tanic, curmarin.
Hoa có chất kampferol.
- Công dụng, liều dùng:
Đào nhân (nhân hạt đào) dùng chữa ho; hành huyết dùng làm thuốc điều kinh, nhuận táo, liều dùng 4-5g dạng thuốc sắc.
Lá đào thường được nấu nước dùng ngoài tắm ghẻ, lở, ngứa.
Hoa đào dùng làm thuốc thông tiểu tiện, tiêu thủng. Liều dùng 3-5g dạng sắc. Đàn bà có thai không nên dùng.
Cây cúc mốc
Cây cúc mốc có tên khoa học là (Graphalium spp.). Các cụ xưa yêu hoa cúc là các giêng cúc đại đóa hoa to. Cây cúc mốc hoa thật xấu song cây lá lại đẹp. Lá mọc vòng ở đỉnh cành như những bông hoa có lông trắng như mốc trắng, long lanh dưới sương như được phủ một làn tuyết mỏng. Lá nhỏ dày, bỏ vào ấm trà làm trà có mùi thơm của cúc. Cúc mốc cũng "diệp bất ly thân, hoa vô lạc địa" làm cho cây có khuyết tất, vì lá già chết vẫn bám chặt vào thân cây. Cây sống lâu năm thường trồng vào chậu nhỏ, có dáng như một cây cổ thụ. Người ta đặt cúc mốc bên đá cảnh gọi là thạch cúc.
Cúc mốc trồng bằng giâm cành vào mùa xuân dễ dàng. Có thể tạo dáng, tạo thế được nhất là các thế huyền, thế hòanh. Thuộc họ cúc (Compositeae)
Hoa Huỳnh Anh
Hoa huỳnh anh có Tên khoa học: Allamanda cathartica. Họ: Apocynacea. Cây cũng rất
thông dụng ở Việt Nam và thường được trông leo lên hàng rào của các ngôi nhà. Màu vàng
đặc trưng, rực rỡ và hoa huỳnh nam đã làm cho loại cây này trồng nên thông dụng. Là loài cây dễ trồng, phát triển khá nhanh ưa nắng và thường được nhân giống bằng phương pháp giâm cành.
Trong quá trình phát triển cây cần được dẫn đường bằng cách cột và ta cũng cản cắt tỉa để cày lên xúm xuê, cho nhiêu hoa khi cây đã lên đúng chiều dài càn thiết. Nhóm Huỳnh Anh hoa vàng còn có mấy loại khác như Huỳnh Anh lá nhỏ (tên khoa học: Allamanda cathartica cv). Huỳnh Anh hoa vàng nghệ: (tên khoa học: Allamanda schottii). Ngoài ra, Huỳnh Anh có hoa màu hồng (tên khoa học: Allamanda blanchettii) hay màu ngọc tên khoa học: Allamanda violacea) là 2 loại lạ nhưng không thông dụng làm vì cây ít hoa hơn, không nổi bật bằng các dạng huỳnh anh nhóm hoa vàng. Khá lạ và độc đáo trong nhóm hoa huỳnh anh thuộc họ Apocynaceae còn có một loài cây xuất hiện ở Việt Nam khá lâu tên là Cẩm Anh tên khoa học: Strophanthus gratus).
Loài cây hoa leo này có hình dáng giống Huỳnh Anh nhưng lá xanh bóng đè hơn, cây phát triển nhặt lá hơn. Hoa nở rộ vào đâu mùa khô, còn mùa mưa thì không có hoa.
Ngoài công dụng là trong leo hàng rào để trang điểm cho ngôi nhà, nhóm Huỳnh Anh lá nhồ
thường được trong bồn để tạo khối có hoa rất đẹp, ta phải cắt tạo dáng thường xuyên thì cây
mới nhặt hoa và thật rực rỡ. Hoa Huỳnh Anh nếu trồng ở nơi mát, (ánh sáng chiếu trực tiếp ít hơn giờ mỗi ngày) thì cây sẽ cho ít hoa cành vươn dài hơn, không đẹp bằng những cây trồng ở những nơi nắng sáng chan hoà (100% ánh sáng).
Hoa Hồng leo
Tên khoa học: Rosa spp, HỌ Rosaceae. Có một số loại hoa hồng có khả năng leo như hông tường vi hồng tám xuân, hồng dây hoa trắng nhồ thông dụng Việt Nam. Dù ràng trên thế giới có nhiều loại hoa hông leo nhưng do đặc tính nuôi trồng của hoa hồng là không ưa nhiệt độ, ẩm độ quá cao như ở Việt Nam nhất là ở phía Nam nên độ bền của các cây hoa hồng nuôi trồng không lâu. Duy chỉ có các tỉnh phía Bắc, các vùng cao nguyên thì nuôi trồng dễ dàng hơn. Hoa hồng vừa đẹp vừa có hương thơm nên mọi người đều yêu thích. Cây phát triển khá nhanh nếu môi trường thích hợp, độ vươn xa cũng không bằng các loại dây leo khác, nên thường trồng ở những nơi có diện tích nhỏ: cột, cổng hay một khoảng vách nào đó hoặc có thể trông bôn hoa trên cao để cho cây vươn xỏa dài ra.
Hoa hồng thường được nhân giống bàng cách giâm hay chiết cành, còn phương pháp ghép
cành cũng được sử dụng để tạo nên những cây hoa hồng có sức phát triển tốt, màu hoa
theo ý muốn.
Hoa hồng đẹp và cây lại có gai, nên ngoài tác dụng trang trí còn có tác dụng là trồng để bảo
vệ cho ngôi nhà bạn. Hồng tầm xuân là loài được trồng nhiều ở hàng rào bảo vệ nhất vì cây phát triển rất khoẻ và dễ nhân giống, dễ chăm sóc.
Cây hoa Lựu
Cây hoa lựu còn gọi thạch lựu vì hạt giống như 1 viên đá trong suốt. Trong dân gian ngơời ta gọi là cây thìn lựu, tên khoa học là Punica grantatum thuộc họ lựu (Punicaeeae). Cây hoa lựu cánh kép màu hoa đỏ rực, ra hoa cả đầu cành. Hoa lá thân cành đều đẹp.
Cây lựu thân bụi phát triển cành nhiều. Giống lựu cho quả nhỏ, trồng làm cây cảnh, trồng vào nhậu được. Còn giống lựu cho quả ăn, thân cành và cây phát triển to.Có giống hoa đỏ, khi chín da quả màu đỏ tươi, giống hoa vàng cho quả da màu vàng. Khi chín quả lựu nứt ra trông thấy cả hạt, giống hoa đỏ kép không cho quả trồng đề chơi hoa hay tạo dáng. Lựu chịu đựng khỏe, chăm sóc thế nào cũng được song là cây rất ưa ánh sáng và chịu hạn hơn nhiều cây khác. Rễ lựu có chất độc pelletiein và isopelletierin được dựng để trừ giun sán. Vỏ quả lựu khô sắc uống trị bệnh tiêu chảy. Cây lựu hoa to và lựu cho quả cũng cú thể trồng vào bồn, vườn hoa.
Nếu nơi cớm nắng không cho quả, hoa được. Cây lựu trồng bằng cành chiết. Giâm cành bánh tẻ vào mùa xuân cũng rất dễ sống.