VỊNH NGUYỄN KHUYẾN
Chiều câu cá trên hồ năm cũ
Trúc cần thả đủ một lần câu
Cá đâu không thấy vang động nước
Tỉnh lặng im lìm rước bóng sâu
Nước biếc mặt hồ đâu xanh thẫm
Sắc màu mây nhẩm gọi thời gian
Nghe như chan chứa tình non nước
Chợt vọng lại từ trước nghìn xưa
Thuở xưa ấy nơi hồ Trúc Bạch
Một cỏi người của buổi loạn ly
Mang hồn chí sĩ thương non nước
Ôm nổi lòng đau trước bể dâu
Biết về đâu cho vơi uất giận
Vì một lần vai gánh quê hương
Mối tơ vương nặng lòng chí sĩ
đã mấy Thu chất đủ tiếc thương
Vườn trúc cũ trơ xương tuế nguyệt
Chút giọt sầu luyến tiếc người xưa
Trúc xưa tạ thế đà lâu lắm
Chắc vẫn nặng lòng với núi sông
Đông Hòa
[i] ( viết bài này về " Trúc sơn yên tử " )
--------------------------------------------
VỊNH QUỐC HỒN
Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Mọi người hướng vọng đến tổ tịên
Trong năm lễ hội viếng Đền Hùng
Gợi tưởng nhớ thuở xưa tích cũ
Việt Nam trước nghìn năm hộ quốc
Bởi giặc gây nhiều cảnh tan hoang
Bắt dân vào rừng thiêng nước độc
Tìm voi , tê giác cống hàng năm
Sự cai trị vô cùng khắc nghiệt
Nhân dân ta nổi dậy nhiều nơi
Đã sản sinh Danh nhân tế thế
Mang thân mình gánh nợ non sông
Nhiều danh tích vang xa bốn biển
Các đời Vương ngắn ngủi ra đời
Như Trưng , Triệu , Lý Vương , Hắc Đế
Đức Phùng Hưng* khởi nghĩa Ngô Quyền
Những trận Bạch Đằng Giang Lịch Sử
Hay vang xa Tiết Liệt Hát Giang*
Nơi Hai Bà xưa đà tuẫn tiết
Vì trận vong chinh chiến trầm mình
Nay tưởng nhớ tâm linh cao cả
Ba nén nhang chấp hướng tổ tiên
Lòng khấn nguyện Linh Hồn Tử Sĩ
Vì non sông yên nghĩ nghìn thu
Thân xác đã không nơi nương dựa
Tan theo đất mẹ giữa Quê hương
Oai võ thay chí hướng Anh hùng
Dòng Lịch sử nghìn trùng thương tiếc
Đông Hòa
* Bố Cái Đại Vương ,
* nơi Bà Trưng , Bà Triệu tuẫn tiết
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : CHỮ HIẾU
Phận làm con chữ Hiếu phải suy
Vì công đức dưỡng dục sinh thành
Khi còn nhỏ ẵm bồng sữa Mẹ
Lúc lớn lên chí hướng lời Cha
Mang dũng khí sa trường nợ nước
Bước về nhà Hiếu tạ song thân
Mới Hay ! Thân trai nòi giống Việt
Một lòng trinh vì nước vì nhà
Ấy ! Chữ son làm con phải hiểu
Học Hiếu Lễ đễ biết tôn thờ
Mai khi thành danh sự ở đời
Cũng phải lấy đây làm cột mốc
Dốc trọn đạo tiếng đời muôn thuở
Người ngợi ca hai chữ hiếu trung
Cho nên sống ! Cũng thường phải nhớ
Khi chết đi ! Danh rạng nghìn trùng
Đông Hòa
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : CHIẾN SỸ TRẬN VONG
Cuộc đời như một giấc chiêm bao
Thời gian mau đã tóc phai màu
Mấy chục năm đau lòng kẻ sĩ
Chỉ vì mang năm tháng lời thề
Lời thề ấy trong đêm cô tịch
Đứng dưới cờ chiến dịch khởi binh
Ánh thép vang hai chữ ân tình
Vì non nước trung trinh đáp tạ
Đã cùng nhau chữ son vững dạ
Sống đã cùng chí nguyện vì dân
Dù cho thân có phải bỏ mình
Nhưng khí tiết linh hồn bất diệt
Nay ra đi vì non sông Đất Việt
Trên sa trường chi xiết hiểm nguy
Vì đất nước hi sinh sự sống
Giữ một lòng Trung Hiếu non sông
Nay nơi đây giữa đông lạnh vắng
Bao năm rồi chẳng bóng người thân
Một cõi người vì dân bất tử
Xác thân kia tứ xứ xá gì
Nay trước Linh Vật (*) Khấn chi Thần
Chi Tướng , Chi Quân , đồng tiến lễ
Hãy về ! Theo tế tạ Linh Thần
Chung hưởng Thiên Địa đắc vị thân
Chi Lễ Bái Tạ
Đông Hòa
* Đồ cúng
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : HỊCH CẦN VƯƠNG
Tay kiếm thép trong đêm cô tịch
Trong đêm loang loáng Hịch Cần Vương
Nợ núi sông bởi lẽ chữ thường
Thù non nước sự đời cương toả
Nay vì nước thân chinh trừ giặc
Hỡi Anh Hùng Tụ Nghĩa về mau
Khắp mọi nơi hãy dấy binh đao
Cùng nổi dậy đánh quân xâm lược
Nay theo Hịch bước đi các hướng
Hỡi toàn dân tướng sĩ chung lòng
Quét đất Việt cho sạch thù trong
Mang Thanh bình Tổ Quốc Quyết sinh
Nay Trẫm (*)mang Long Bào Ấn Tín
Trước trời Nam tuyên Lễ Khởi Binh
Hào Kiệt khắp ngã hãy quên mình
Để cùng Trẫm Chí Nguyện vì dân
Quét cho nhanh sạch lũ hung tàn
Mang no ấm đến cho trăm họ
Đông Hòa
(*) Vua Hàm Nghi
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : LAM SƠN KHỞI NGHĨA
Khi ấy nhà Hồ vừa thất thế
Giặc Minh phương bắc vội xâm lăng
Nhằm cướp nước xoá tan Quốc Việt
Đem hung tàn trải khắp non sông
Lúc ấy có nhiều người trẻ tuổi
Vì Quê Hương khởi nghĩa dấy binh
Đất Lam Sơn khởi nghiệp Anh Hùng
Mang trí lớn trên đường phục Quốc
Đêm hôm ấy Lũng Nhai Thề Hội
Mang quyết tâm chiến thắng quân Minh
Ra tối thượng vì dân giết giặc
Gọi Nghĩa Sĩ tôi luyện thao trường
Và như thế mười năm ròng rã
Chí khí quân dâng ngút trời xanh
Tây Đông Quan diệt quân Mộc Thạnh
Trận Chi Lăng Liễu Thăng bỏ mình
Bọn Lương Minh , Thôi Tụ , Hoàng Phúc
Bị thúc vây tứ hướng tan quân
Vương Thông thân hàng Đồng Quan ! Hãm
Thế lực Minh nhanh chóng suy tan
Thảm thay ! Mười vạn Quân Minh
Trong một lúc Đế chế tan tành
Thành hàng binh chờ về cố quốc
Thanh bình nay lại thuộc nước Nam
Bao danh tiếng sử xanh ghi tạ
Nào Trịnh Khả đến Phạm Văn Sào
Lê Chất , Lê Lai , Trần Nguyên Hãn
Nguyễn Xí ,Cầm Quý , Xa Khả Tham
Nguyễn Trãi , Nguyễn Chích , Đào Công Soạn
Đinh Lễ , Lý Triện , Lê Văn An
Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng
Lê Ngân , Lê Sát , Lưu Nhân Chú
Những Công Thần Vị Quốc Vi Thân
Buổi Lập Quốc Nước tên Đại Việt
Điện Kính Thiên Lập Tự xưng Vương
Danh xưng “ Duệ Anh Vũ Đại Vương"(*)
Lấy Quốc Bảo “ Bình Ngô Đại Cáo”
Làm Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Nam
Vậy :” Sau hai mươi năm chinh chiến”
Đất Nước ta có cảnh Thanh Bình
Chấp hai tay dưới Điện Uy Phong
Thập Nhị Hương bái tương tứ hướng
Khấu nghinh lễ Tiền Quy Chính Ngọ
Cầu Linh Hồn Tướng Sĩ , Tử Sĩ
Lam Sơn khởi nghĩa Tụ Hưng Kỳ
Trên Linh Vật dưới Thập Nhị Khí
Ngang hai hàng đôi Trụ Giáp Tề
Kính Vong Hồn các ngã lộ về
An hưởng lạc đồng thân kính cáo !
(*) Lê Lợi Đông Hòa
----------------------------------------------------
Lời Bình : 1418 - 1428 khởi nghĩa Lam sơn thành công vang dôi , Lê Lợi lên ngôi sau khi chiến thắng nhà Minh , trong năm năm trị vì đã giết , bức tử hoặc lưu đày nhiều bậc công thần như Trần Nguyên Hãn , Phạm văn sào.....v....v.......nên trong bài thơ tế này không nêu đích danh tuy ông là lãnh tụ khởi nghĩa . Những công thần kia không đọc được suy nghĩ cũa Phạm Lãi và cái giá phải trả của Văn Chủng vì Việt Vương Câu Tiển thời Xuân Thu ........do vậy những cái chết của họ thật đáng thương tâm ( Theo sử học )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : MỐI HẬN NON SÔNG (*)
Biết làm sao khi nhìn đất nước
Thân làm Vua (*) trước cảnh suy vong
Nước non nay vang tiếng bi thương
Của muôn vạn thần dân Việt Quốc
Ai oán thay ! Trên cao Chín Bệ
Nhìn nước mất nhà tan xót lòng
Biết làm sao vì còn trẻ non
Mà cứu khổ cho nòi giống Việt
Nay thân đã mang gông xiềng xích
Thực dân(*) đày trên đảo hoang vu
Trông về xa biển xanh vần vũ
Nhớ cố hương vô kể vọng thu
Tiếc ngày qua thù chưa thể trả
Hận ôm thêm cả nhục quê hương
Nên nơi đây bao nỗi chán chường
Vương kỷ niệm xuôi hồn quá khứ
Đông Hòa
(*)Giặc Pháp
(*)Vịnh : Nỗi lòng Thiên tử )
(*)Thành Thái , Duy Tân , Hàm Nghi
(*)Viết năm 1979 chỉnh sửa năm 2005 )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : NGUYỄN TRUNG TRỰC
Dòng Cửu Long xanh màu nước biếc
Gợi tiếc thương một đấng Anh Hùng
Vì non sông chữ Hiếu trung trinh
Đền nợ nước vinh thân quốc sử
Nhớ từ xưa trên dòng Nhật Tảo (*)
Máu quân thù chao khắp mặt sông
Dương Đông , Cửa Cạn (*), sạch hung tàn
Vũng Gù , Vàm Cỏ Đông (*),Tây kiếp sợ
Bình Trinh , Bến Lức (*), mồ chôn giặc
Thủ Thừa , Long Thành (*), trơ bóng thù
Hòn Chồng , Hàm Ninh (*), dân nổi lên
Vén mây mù trên vai Bá Tánh
Nguyễn Trung Trực Anh Hùng Dân Tộc
Sống vì Dân thác cũng vì dân
Trí thân trai Anh Dũng liều mình
Vì chữ Hiếu vinh thân đáp trả
Hỡi ! Linh Hồn đã vì Tổ Quốc
Hãy về đây trong cảnh an vui
Chinh chiến xưa vùi chôn quá khứ
Đất nước nay hết bóng giặc rồi
Một Tổ Quốc Sơn Hà cội Việt
Trí hiên ngang tiết liệt còn đây
Sống vì nước chữ Trung trọn đạo
Nợ tình thâm chữ Hiếu thân mang
Vai nặng gánh Sơn Hà xã tắc
Dưới gót chân Non Nước Quê Hương
Trước một thời đất nước tang thương
Người đã chết Tâm Linh sống mãi.
Đông Hòa
(*) Địa Danh thời bấy giờ
( viết năm 1974 chỉnh sửa năm 2005 )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Thuở ấy từ thời Vua Tự Đức
Non sông trong vực thẳm lầm than
Giặc ngoại , thù trong đang dày xéo
Đói khổ cơ cầu dân thán oan
Khi ấy vang tiếng chàng trai Nguyễn
Xa quê du học thuyết Tây kỳ
Vì cải cách ba lần dâng sớ (*)
Mong nước ta xoay trở mạnh giàu
Nhưng lúc ấy vào thời phong kiến
Không thèm nghe tiếng nói của người
Cho đó phường yêu dân ngoại đạo (*)
Thì làm sao ích nước lợi nhà
Cứ như thế ba lần đổi sớ
Với sở tâm cải cách non sông
Ông chỉ mong dân chúng sang giàu
Bao hạnh phúc ấm no trăm họ
Nếu lúc ấy sớ đó trọng dụng
Thì dân ta chung hưởng thái bình
Đâu nhìn cảnh An nam hộ quốc
Đến trăm năm chốc mấy đời người
Ơi hỡi ! Nay người xưa khuất bóng
Có hay trong sử sách vang danh
Một Đấng nam trung thành sĩ khí
Tâm hồn vì đất Việt thiêng liêng
Ơi hỡi ! hỡi hồn thiêng xưa ấy
Hãy về đây chung với Tổ Tiên
Chuyện xưa ngày cũ dù lỡ dỡ
Nhưng sử đời vẫn nhớ người xưa
Đông Hòa
( * Nguyễn Trường Tộ cãi đạo theo Thiên Chúa )
* Ngày xưa thời phong kiến hành động này rất nguy hiểm vì có thể làm cả gia tộc bị giết hại , do vậy người ba lần dâng sớ là một người rất anh hùng vì dân và vì nước )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : TÂY SƠN KHỞI NGHIỆP
Vào thuở xưa khi thời suy loạn
Vua yếu hèn đất nước ly tan
Hai Đàng Nam Bắc phân chia định
Nhân dân chia cắt rất điêu linh
Khi ấy nươc nhà thời thống khổ
Nơi Trung Kỳ thổ xứ Tây Sơn
Đã sản sinh Chí Nghĩa Anh Hùng
Bao Dũng Tướng Vì dân định Quốc
Một Anh Hùng Tây Sơn (*) đất Võ
Thà bỏ thân không khuất cường hào
Ra sa trường mưu lược hoằng thao
Thân nghiệp lớn vì dân tạo phúc
Hỡi ! Anh Hùng Tây Sơn Quốc phục
Chí Hùng Anh trong cuộc Bắc chinh
Chống Quân Thanh nghìn vạn tràn sang
Mồng Năm Tết sấm vang Chiến Thắng
Trận Ngọc Hồi (*) tan quân Sĩ Nghị
Đến Đống Đa (*) Nghi Đống bỏ mình
Tàn quân Thanh sống chết dẫm nhau
Gây nên cảnh Nhị Hà (*) biển xác
Họ Tôn kia xoạt quăng Ấn tín
Vứt phục quan rút chạy quy hồi
Vì tham sống đê hèn nhục nhã
Mang cả về Kinh Bắc triều Thanh
Anh Hùng thay ! Non Sông Nước Việt
Từ ấy nay biệt bóng Bắc xâm
Một chí cả Tây Sơn Quốc Lập
Nhập chung dòng máu Lạc Âu ta
Hỡi ! Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Về chứng kiến Tân Hôm Lễ Tịnh
Chư Tướng , Hữu Binh , Tả Quân
Trung Quân Ký ,Quân Kỳ , Hậu Nhu
Đại Lễ Hình Tây Sơn Đại Thắng
Tất Lễ Tây Sơn Lĩnh Chi Thần
* Địa danh Đông Hòa
( Viết năm 1978 chỉnh sửa năm2005 )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : THƯỜNG KIỆT BẮC CHINH
Thời ấy đời Thần Tông nhà Tống
Nhiếp Chính Công An Thạch họ Vương
Nước Nam ta đương thời họ Lý
Đời Thánh Tông dân cảnh thanh bình
Khi ấy có họ Ngô tên Tuấn
Quan ba Triều Lý Thất Hoàng Gia
Lập kỳ công Vua ban họ Lý
Thành danh Lý Thường Kiệt Uy Phong
Vua Nhà Tống ý đồ thôn tính
Muốn nước ta nô lệ diệt vong
Sai Thẩm Khởi , dõng tướng Lưu Di
Tăng đồn lũy chọn ngày Nam tiến
Thấy thế giặc cực kỳ nguy biến
Vua Nam cùng Tướng Sĩ chuyển binh
Lý Thường Kiệt , Giám Chính Tông Đản
Mười vạn quân hùng hậu Bắc Chinh
Tiến đánh chiếm các Châu Nhà Tống
Ung Châu , Liêm Châu , Khâm Châu mục
Chém Lê Thủ Tiết , Tô Giám diệt thân
Tổng quân địch giết hơn mười vạn
Tống thân sai Quách Quỳ , Triệu Tiết
Duyệt hợp binh Chân Lạp , Chiêm Thành
Lần thứ hai tiến đánh nước Nam
Khí thế giặc tam công hãn tiến
Trong thế biến mới hay hào kiệt
Dốc lòng vì Việt quốc xả thân
Dụng tốc binh Thần Dũng bất ngờ
Quan quân Tống trở tay không kịp
Sông Như Nguyệt thấm tràn máu giặc
Nghìn quân thù chết chẳng toàn thây
Mới Hay ! Khí tiết ấy Lý Thường
Một Lương Đống cứu nguy Tổ Quốc
Nay dâng lộc trước Linh Tiền Điện
Thái Quân Viện , Thái Bảo , Kỹ Thần
Lục Hương Kỳ , tứ khấn , tứ bái
Lý Thượng Quân Thái Uý Nghi
Nhất tâm khấu non sông chi tạ
Nhì Tam khấu Tả Quân chi vị
Đông Hòa
( Viết 1/1975 sửa chửa 12/2005 )
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : TRẦN QUỐC TOẢN
Thân Hào Kiệt nước nhà lâm nạn
Khi Nguyên Mông phương Bắc tràn sang
Hai mươi vạn tiến quân dũng mảnh
Hầu đặt nền đô hộ nước Nam
Thế giặc thật vô cùng nguy biến
Hội Bình Than viện kế cứu nguy
Trong lúc ấy Hoài Vương Quốc Toản
Mười sáu tuổi sáng ngời Dũng Tướng
Vì non sông vực nước một lòng
Cùng quê hương hợp nghĩa tiến quân
Hữu Kỳ Phong ghi Phá Cường Địch
Tả Kỳ Phong chữ Báo Hoàng Ân
Diệt Thát Đát cứu nguy Tổ Quốc
Nhớ lại lúc Bình Than họp lão
Chê trẻ non không để cho vào
Cam trên tay nổi xung bót nát
Mới hay rằng Dũng Khí ngất trời
Nay sử xanh ghi lời công đức
Tam hương khấn tứ lạy nhục khấu
Hữu Binh Kỳ Hộ Thiên Chi Điện
Tả Quốc Tín Ngũ Vị Chi Thần
Đông Hòa
--------------------------------------------------------------------------------
Vịnh : Trưng Nữ Vương (*)
Thời ngoại xâm Việt dân thống khổ
Ách nô lệ bạo Hán hung tàn
Nơi Mê Linh trang Nữ Anh Hùng
Năm Giáp ngọ trùng quang non nước
Hai thớt Voi mở đầu đi trước
Vạn tinh binh cất bước Dũng chinh
Thành Luy Lâu khinh xuất tan tành
Bọn Tô Định hồi quan chịu tội
Trong chốc thôi ! Sáu lăm thành trì
Đi trở về ca khúc khải hoàn
Hai Nữ Chúa lên ngôi Cửu Ngũ
Huý Đại Tự tên Trương Nữ Vương
Năm Tân Sửu ! Hán sai Mã Viện
Cùng Phục Ba nam tiến tái xâm
Hai mươi vạn sói lang đốc tiến
Việt quân ta chẳng chốc diệt vong
Hỡi ôi ! Thân nhi nữ cùng đường
Giòng Hát giang đầy những bi thương
Trong thế cùng thượng thân hủy phế
Hơn sa tay loạn thế cuồng đồ
Than ôi ! Hai Bà Trưng tiết liệt
Vì non sông hào kiệt nữ nhi
Chí khí cao ngun ngút khắp trời
Vang hậu thế muôn đời Sử tạ
Nay trước Tả Điện ! Tiền Vọng khấu
Hồn hầu theo hương khói trở về
Vạn Vong Quân các ngã lộ hoang
Về hưởng lạc cung hoan Kính Hỹ
Đông Hòa
(*) Trưng Vương ( 41 - 43 ) mất ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý mão là hai vị vua Nữ đầu tiên của Việt Nam , đánh dấu mốc son trong trang sử cứu nước , tuy thất bại nhưng những thành quả Hai Bà đạt được đã mở đầu cho những cuộc nỗi dậy của Nhân dân Việt Nam sau này !
[/i]