Page 1 of 1

Năm Dậu, Nhớ Con Gà Trong Lục Súc Tranh Công

PostPosted: 28 Jan 2017
by phongluu2010
Image

Tết Đinh Dậu đang sắp đến, Phong Luu chợt nhớ tới con Gà trong giờ học Việt Văn của năm Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) thời Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Thời đó chương trình Việt Văn chia ra 2 môn Kim Văn và Cổ Văn. Phần Kim Văn thì học tử những trích đoạn tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nhóm Tự Lực Văn Đoàn, học cách viết một bài luận văn với các thể văn Miêu Tả (tả động vật, tả thực vật, tả đồ vật, tả người, tả cảnh) Thuật Sự (những việc thông thường) Thư Tín (thăm viếng, giao thiệp thông thường).
Phần Cổ Văn thì học Văn vần như Tục ngữ, Ca dao và trích giảng những truyện bằng thơ Lục bát hay Song thất Lục bát như Trê Cóc, Nhị Thập Tứ Hiếu, Lục Súc Tranh Công…
Văn xuôi thì học các truyện như Nam Hải Dị Nhân bản kể của Phan Kế Bính, Truyện Cổ Nước Nam bản kể của Nguyễn Văn Ngọc…
Mục đích của môn Việt Văn là giúp cho học sinh có thể nắm bắt và thấu hiểu giá trị về hình thức và nội dung của một tác phẩm hay một đoạn văn, qua đó hun đúc tính khí và tâm hồn, mở mang kiến thức về văn học, thu thập những điều bổ ích cho việc luyện viết văn.
Môn Việt Văn của lớp Đệ Thất năm xưa, phần Cổ Văn có dạy truyện Lục Súc Tranh Công, là một tác phẩm văn học dân gian từ rất lâu đời, dạy cho học sinh cảm nhận được thời đại và tâm hồn của cha ông, nhằm bảo tồn vốn quý của văn học nước nhà.
Sau này khi lớn chút, Phong Luu mới biết ra…là có nhiều nhà văn mình đã học, và tất cả các văn nghệ sĩ hiện đang sống ngoài miền Bắc, tác phẩm của họ vẫn được in ấn phát hành một cách trang trọng, và được giảng dạy trong chương trình học đường của miền Nam. Tại sao lại như thế? Chỉ vì chế độ Việt Nam Cộng Hòa không được phép và không có quyền đưa các vấn đề chính trị, đảng phái vào chương trình của học đường!
Không riêng gì văn học, mà tất cả các bộ môn nghệ thuật khác của thời xưa cũ và thời tiền chiến cũng đều được trân quí bảo tồn. Giới học thuật và các văn nghệ sĩ tự do sáng tác, đã để lại một số lượng tác phẩm khổng lồ chỉ trong thời gian hai mươi mốt năm ngắn ngủi. Nhìn lại mới thấy rằng chưa có thời kỳ nào trong lịch sử Việt Nam, tinh hoa tụ hội sáng rực cả bầu trời và xuất hiện nhiều bậc kỳ tài đến vậy…

**********

Trong kho tàng truyện Nôm của Việt Nam, Lục Súc Tranh Công là một truyện rất hài hước kể về 6 con vật nuôi trong nhà gồm: Trâu, Chó, Ngựa, Dê, Gà, Lợn.
Một hôm chúng cải nhau loạn cả lên, con nào cũng giành phần phải về mình trong việc có công giúp đỡ loài người, chê các con khác là đồ ăn hại vô tích sự.
Đầu tiên, Trâu tị với Chó, Chó cãi lại, đến lượt Chó tị với Ngựa, rồi Ngựa với Dê, Dê với Gà, Gà với Lợn. Không con nào chịu con nào. Nhờ có lời giảng giải của chủ nhà, 6 con lại hiểu nhau hơn và con nào cứ yên phận làm tròn công việc con ấy.
Tác giả chưa rõ là ai, nhưng xét những tiếng dùng trong truyện: ghe (nhiều), lóng (nghe), ben (bì, ví), mè (vừng), bươi (bới) v.v...phần nhiều là tiếng miền trong, thì tác giả có lẽ là người ở vùng Nghệ Tĩnh trở vào. Giọng điệu và lối hành văn có thể vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, vì câu từ chải chuốt âm vận du dương, khác với những áng văn chất phác thời cổ nhiều.
Truyện thuộc thể loại bình dân, nhưng tác giả là một người học vấn uyên bác, dùng rất nhiều điển tích cổ để miêu tả một cách đặc sắc về tính cách, tập quán sinh hoạt của từng loài gia súc, mỗi con đều có một khẩu khí một địa vị riêng. Cuộc đời của chúng hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong cách chúng lý luận nhìn nhận sự vật, khiến ta phải mỉm cười và cảm động, thấy rằng chúng đáng được loài người thương yêu và đối xử tốt đẹp nhiều hơn thế nữa…

**********

Khởi đầu là anh Trâu, một hôm Trâu cảm thấy buồn vì số phận mình sao quá hẩm hiu, cuộc đời mình chân lấm tay bùn quần quật cực khổ ngoài đồng, còn thằng Chó suốt ngày ăn no rồi trững giỡn, chủ đi đâu cũng đi theo để…nịnh, Trâu thấy chướng mắt lắm nên lên tiếng phân bì…
………..

Chó cãi lại Trâu, rồi kể công trạng của mình, đến lượt Chó tị với Ngựa, rồi Ngựa tị với Dê.
Sau khi Dê tranh cãi quyết liệt, Dê quay sang khiếu nại với chủ về anh Gà:

Dê phát ngôn, bèn trở nại gà :

"Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
Nuôi giống gà thật vô ơn ngãi.
Thấy chủ vãi đám ngò, vạc cải
Túc nhau bươi chếch gốc, trốc cây.

Thấy người trồng đám đậu, vồng khoai,
Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
Rất đến đỗi thấy nhà lợp rạ,
Kéo nhau lên vậy vã tâng bầng.

Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
Trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào để bén dây
Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?"
………..

Gà nỗi giận, cho rằng Dê không biết chuyện dỏng dõi oai hùng của mình, liền kể cho ông chủ nghe về gia thế sự nghiệp hiển hách của giống Gà, đưa ra 5 đức lớn của gà là: Ðầu có mồng như đội mão là Văn, chân có mang cựa nhọn như gươm giáo là Võ, thấy kẻ địch trước mặt vẫn xông vào là Dũng, kiếm được cái ăn biết kêu đồng loại cùng hưởng là Nhân, ngày ngày cứ tới đúng giờ thì gáy là Tín…và sau đây là…

Tâm Sự Của Một…Con Gà

Gà nghe nói, nóng gan, nóng phổi,
Liền nhảy ra, chớp cánh, giương đầu.
Này này ! gà ngũ đức thẳm sâu :
Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm đủ.

Trên đầu đội văn quan một mũ ;
Dưới chân đeo hai cựa thần thương.
Ðã ghe phen đến chốn chiến trường.
Lập công trận vang tai, lói óc,

Thủa Tây Lũng tam canh trống thúc ;
Gà gáy đầu ba tiếng đêm khuya,
Một tiếng rằng : thiên nhật tác thì ;
Hai tiếng rằng : quốc tộ tác xương,
Ba tiếng rằng : nhân gian tác lạc,

Ðã cứu nạn Mạnh Thường đặng thoát ;
Lại khuyên người Tấn Sĩ năm canh.
Hễ ai toan cải dữ về lành,
Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc điệp.

Coi giò gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy, toại lòng người đãi đán,
Cứ mấy điều mà đoán,

Ðã tỏ việc phải chăng ?
Giận anh dê cứ nói việc ăn,
Khéo kiếm chác những điều xoi tệ.
Dê biết lễ gà cũng biết lễ,

Dê phong Chủ Bộ, gà chức Tư Thần.
Nói vài điều đã biết xứng cân,
Huống gà có ngoại khoa biết mấy ?
Chưa biết ai hay rầy, hay khuấy,

Chưa biết ai ngủ sớm ngủ mê.
Gà không người chăn giữ đi về,
Nên gà mới lỗi lầm bươi móc.
Dê lầm thế không ai xem sóc,

Việc phá dê bằng chín bằng mười.
Bữa ăn gà tốn kém mấy hơi?
Nói những chuyện so chày buộc chặt.
Kể ít chuyện cho dê biết mặt,

Kẻ rằng gà vô thú trong đời.
Chẳng nhớ xưa đêm sáng, tốt trời,
Xui kẻ nhớ vợ hiền thêm chạnh.
Thức vua Thính làm lành giấc tỉnh.

Gà thua dê một hàm râu nịnh,
Nghĩ lại coi không ích lợi chi.
Gà dễ đâu có dám phân bì,
Nói điều phải mà nghe cho đặng ?"

Dê nghe nói công lênh nhẹ nặng,
Mới biết suy hơn thiệt mọi điều :
"Thôi, thôi, nói ít biết nhiều,
Dê xin chịu lập tờ tự thuận"

Gà còn hãy chưa nguôi cơn giận,
Bèn phát ngôn thưa chủ một lời :
"Như chúng gà vốn đạo làm tôi,
Giữ một tiết thức khuya dậy sớm.

Thủa ấu thơ người còn tríu trớn;
Ðến lớn khôn đều có riêng quan.
Ai siêng bươi, siêng móc thì no,
Bằng biếng lặt, biếng tìm thì đói.

Gà gẫm lại thân gà thêm tủi,
Làm tôi người không đặng nhờ chi.
Heo ăn rồi ngủ ngáy sì sì,
Giả ngây dại, biết gì việc chủ.

Ngắm diện mạo, dị hình, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi, chẳng phải giống chơi
Chạy rau cám, như tiền nội án.

No đú mỡ, nhảy quanh, nhảy quất,
Ðói xép hông, cắn máng, cắn chuồng.
Mỗi một ngày ba bữa ròng ròng,
Ðã chẳng thấy bữa nào sai chạy,
Bán bối gì mà người yêu vậy ?
Mù quáng chi mà phải báo cô?"
……….

Sau đó Heo lên tiếng trả lời Gà. Chủ nhà thấy con nào cũng có lý nên ông giải hòa cho bọm chúng, sáu con vật hiểu nhau hơn và không tị nạnh nhau nữa, con nào cũng tốt nếu làm tròn công việc của mình. Chủ nhà vui vẻ hạ bút:

Nhân rảnh thảo ra một lúc
Chép ra cho rõ sự đời
Sự này cũng sự nói chơi
Ai muốn thì đọc mà cười cho vui.

HẾT

Phong Lưu


***************************************

Phong Luu mến tặng các bạn yêu thích truyện Lục Súc Tranh Công, đọc mua vui trong ba ngày Tết…

LỤC SÚC TRANH CÔNG (Vô Danh Thị)

Tựa:

Trời hóa sinh muôn vật
Ðất dong dưỡng mọi loài,
Giống nào là giống chẳng có tài;
Người đâu dễ không nhờ vật.
Long chức quản bổ thiên, dục nhật.
Lân quyền tư giúp thánh, phò thần.
Quy thông hay thành bại, kiết hung .
Phụng làu biết thạnh suy, bĩ thái.
Trong trời đất ba ngàn thế *
Ðều xưng rằng tứ vật chí linh.
Nhẫn đến loài lục súc hi sinh,
Trời cho xuống hộ người dương thế.

Image

Ngưu (Trâu)

Trâu mỏi nhọc, trâu liền năn nỉ :
"Một mình trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã.

Dạy rằng: đuổi trâu ra thảo dã,
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng.
Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông;
Vừa đến buổi cày bừa bua việc.

Trước cổ đã mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cày;
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây,
Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn.

Trâu mệt đà thở dài, thở vắn,
Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
Liệu vừa đứng bóng mới thôi,
Ðói hòa mệt, bước khôn dời bước.

Ai thong thả, trâu nào ben đặng ?
Trâu nhọc nhằn, ai dễ thế cho?
Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,
Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở

Làm không kịp thở,
Ăn không kịp nhai.
Tắm mưa, trải gió chi nài !
Ðạp tuyết, giày sương bao sá !

Có trâu, sẵn tằm tơ, lúa má,
Không trâu, không hoa quả, đậu mè,
Lúa gặt cất lên đà có trâu xe,
Lúa chất trữ, lại để dành trâu đạp.

Từ tháng giêng cho đến tháng chạp,
Kể xuân, hè, nhẫn đến thu, đông,
Việc cày bừa, nông vụ vừa xong,
Lại xe gỗ, dầm công liên khói ,

Bất luận xe rào, xe củi.
Nhẫn đến loài phân bổi , tranh che
Hễ bao nhiêu nhất thiết của chi,
Thì đã phú mặc trâu chuyên chở.

Bao quản núi non hiểm trở ?
Chi nài khe suối dầm dề ?
Cong lưng chịu việc nặng nề,
Cay đắng những lời dức lác !

Ăn thì những rơm khô, cỏ rác,
Ở quản chi ràn lấm, tráp nè.
Trâu dựng nên nông nọ, nỗi kia;
Trâu làm đặng căn trên, bồ dưới.

Nghĩ suy lại công trâu cho phải,
Lẽ cho trâu thao lụa mặc dày.
Không chi thì quần vải, dải gai,
Không chi thì khố lưỡi cày cũng khá

Ăn cho phải những cơm với cá,
Không nữa thì rau cháo cũng nên
Ðến mai sau già cả sức hèn,
Cũng bảo dưỡng bổ công lao lý.

Khi mạng một chẳng đơm, chẳng tế;
Lẽ "sinh cử, tử táng", mới ưng.
Thủa sống đà không dạ yêu đương,
Khi thác lại đoạn tình siêu độ.

Bảo nhau sắm con dao, cái rổ,
Khiến nhau vơ mớ củi, nắm nè.
Rằng : Trâu này cốt Phật xưa kia,
Phát đình liệu cho hồn thăng thiên *.

Còn hình tích giống chi để lại,
Người người đều bàn bạc với nhau:
Kẻ thì rằng : Tôi lãnh cái đầu,
Người lại nói : Phần tôi cái nọng.

Kẻ giành lòng bóng ép gối mà kê,
Còn sừng đem về ép thoi làm lược.
Kẻ thì chuốc hoa tai, làm bầu liều.
Làm tù và mà thổi cũng kêu,

Tiện con cờ mà đánh cũng tốt.
Kẻ thì làm cái mõ, cáo hộp,
Người lại tỉa cán quạt, cán dao.
Còn giò chia nhau,

Làm nham, làm thấu.
Trâu gẫm lại là loài cầm thú,
Phận sau chịu vậy, dám nài !
Trâu thác đã công nghiệp phủi rồi,

Trâu sống lại kiện nài với chủ :
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ
Ơn Tề vương vô tội kiến tha
Tưởng chưng khi sức mọn tuổi già,

Cám Ðiền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân còn dặn,
Sao ông chủ vội quên ?
Chẳng nhớ câu "Dĩ đức hành nhân".

Lại lấy chữ "Báo ân dĩ oán !"
Nói chi nữa cho dài chuyệnvãn ?
Thưa chủ xin nói thép một lời :
Nhưng loài muông, vô tướng, vô tài,

Nuôi giống ấy làm chi cho nhọc ?
Ăn cho lớn, dưỡng vai, dưỡng vóc,
Giỡn với nhau vạch cửa, vạch sân,
Một ngày ba bữa chực ăn,

Thấy đến việc lén mình lét lét.
Chưa rét đã phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng còn,

Ba ông táo lộn đầu, lộn óc,
Chưa sốt đà nằm dài thở dốc.
Le lưỡi ra phỏng ước dư gang.
Lại thấy người lơ đĩnh lơ hoang

Tài ăn vụng thôi thì hơn chúng.
Nhưng muông biết cày nương, bừa ruộng,
Thì muông kể biết mấy công ơn ?
Muông, người cho ăn cháo, ăn cơm,

Trâu, người bắt nhai rơm, nhai cỏ.
Khi muông thác tống chung, an thổ,
Có gạo tiền cấp táng toàn thân,
Trách một lòng chủ ở bất công,
Hậu ư bạc, bạc đem làm hậu".

Image

Khuyển (Chó)

Muông nghe nói, giận đau phế phổ,
Liền chạy ra sủa mắng vang tai :
"Trời đã sinh các hữu kỳ tài,
Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ.

Bởi vì đó lớn vai, lớn vế,
Thì chuyên lo nông bổn cày bừa,
Vốn như đây ốm yếu chân tay,
Cũng hết sức gia trung xem xét.

Trách sao khéo thổi lông tìm vết ?
Giận thày lay vạch lá tìm sâu.
Ai ai đều phận thủ như nhau ;
Khắn khắn cũng một lòng phò chủ.

Kẻ đầu kia, người việc nọ,
Ðứa coi ngoài có đứa giữ trong.
Ðêm năm canh con mắt như chong :
Ðứa đạo tặc nép oai khủng động.

Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Ðứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.

Bao quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, lòn hang.
Anh trâu sao chẳng biết thương,
Nỡ lại tra lời sanh nạnh.

Ăn thì cơm thừa, canh cặn,
Ăn thì môn sượng, khoai sùng
Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều,
Có cũng rằng, không cũng chớ.

Trâu rằng : trâu ăn rơm với cỏ
Mà còn có một thằng chăn,
Tốn áo quần cùng tốn cơm ăn,
Nỗi lại tới gạo tiền đằng khác;

Tính chắt lót một năm hai đạc,
Về thằng chăn đã hết một trâu.
Cũng mạnh cày, mạnh kéo nên giàu,
Hãy cho nhẹm mình trâu là quí.

Vốn như đây gia tài ủy ký,
Mà chủ không tốn kém đồng nào.
Nếu không muông coi trước giữ sau,
Thì của ấy về tay kẻ trộm.

Trâu biết nói, trâu không biết xét,
Suy mình muông công nghiệp đã dày,
Khi sống thì giữ gìn của đời,
Khi thác xuống giữ cầu âm *,

Người có phước, muông đưa ra khỏi,
Ai vô nhân, qua chẳng đặng đâu !
Chủ có lòng suy trước,xét sau,
Khi lâm tử gạo tiền tống táng.

Chủ đã có công dày ngãi rộng,
Muông dễ không tiếp rước đãi đưa,
Thấy anh trâu chưa biết căn do,
Nói vài chuyện, kẻo chê muông dại".

Trâu với muông hai đàng đối nại,
Chủ nghe qua khó nỗi xử phân :
"Thôi đừng nhĩ ngã thiệt hơn.
Phú lưỡng bạn dĩ hoà vi quí".

Hai vật đã tương đồng hoan hỉ,
Lại cùng nhau từ tạ một lời :
"Như luận trong công nghiệp hai tôi:
Ăn có bữa, lo không có bữa.

Dám thưa người, báu gì giống ngựa,
Mà trau tria lều trại nhọc nhằn ?
Ăn cho ăn những cháo đậu xanh,
Ở thì ở những tàu lợp ngói.

Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
Sắm sửa cho, chẳng biết chừng nào,
Suy tính lại, dư trăm, dư chục.

Sắm lá vả, sắm yên, sắm lạc,
Sắm chân đưng hàm thiếc, dây cương.
Dời tiền, dời hậu bao vàng,
Thắng đái, dây cương thếp bạc.

Gẫm giống ấy :
Nết na giớn giác,
Tính khí chàng ràng,
Tuy đang khi mọi vẻ nghiêm trang,

Trong gia sự nhiều điều ngơ ngáo.
Nghề cày bừa, nghe coi lếu láo,
Việc bắn săn coi cũng ươn tài,
Chủ nuôi không biết chủ là ai,

Nhà ở, chẳng biết nhà mà lại.
Dại không ra dại,
Khôn chẳng nên khôn ;
Ngất ngơ như ốc mượn hồn.
Nuôi giống ấy làm chi cho rối".

Image

Mã (Ngựa)

Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai :
"Ớ ! này, này, tao bảo chúng bay,
Ðố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?

Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Ðã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.

Mỏi gối nưng phò xã tắc,
Mòn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,

Ông Cao Tổ năm năm thượng mã,
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia,
Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
Vì cậy có Thanh Long, Xích thố

Ðã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Ðàng xa xôi ngàn dặm quan sơn
Ngựa phi đệ một giờ liền thấu.

Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần cán, giữ gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.

Các chú những nằm trong xó bếp,
Tài các ngươi ở chốn quê mùa.
Ðừng đừng buông lời nói khật khù
Bớt bớt thói chê bai giớn giác,

Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế".

Ngựa nói lâu, gẫm càng hữu lý,
Vậy chủ bèn phân giải một lời :
"Ðại tiểu các hữu kỳ tài,
Vô đắc tương tranh nhĩ ngã".

Trâu với ngựa cùng muông ba gã,
Mới ra ngoài từ tạ phân nhau.
Ngựa giận dê, đứng lại giây lâu,
Bèn phát trạng cáo nài với chủ :
"Dê với ngựa cũng là giống thú,
Chăn đồng chăn, nuôi cũng đồng nuôi,
Dê, người cho ăn nhảy chơi bời,
Ngựa, người bắt kỵ biều,, luân tế.
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
Hình con con, bụng lớn chang bang;
Cáng náng như đứa có hạ nang,
Sớn sác tợ con chàng kẻ cướp.
Nghề tế kiệu coi đà xấu vóc,
Việc cày bừa nhắm bóng cũng ươn ;
Hễ thấy người thấp thoáng đôi bên,
Liền há miệng kêu la : bé hé".

Image

Dương (Dê)

Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,
Liền chạy ra vác mặt, vênh râu ;
Dê nói rằng : "Ta đọ với nhau,
Thử anh lớn hay là tôi lớn.
Anh đã từng vào dinh, ra trấn,
Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ?
Mạnh thì lo việc nước, việc vua.
Song chớ khá cậy tài, cậy tướng,
Ai có tài, chủ ban chủ thưởng,
Ai không công, tay làm hàm nhai,
Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai ;
Không hề phạm đậu mè, hoa quả.
Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa,
Bớt bớt, đừng ỷ thế, cậy tài,
Ai chẳng biết đuôi ngựa thì dài,
Dài thì để xua mòng, đuổi muỗi ;
Vốn như đây đuôi tuy vắn vỏi,
Ðây cũng không mượn ngựa nối thêm.
Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm.
Ba gò sỏi, dê đà xong việc.
Việc dê thì dê biết,
Việc ngựa thì ngựa hay
Bừa cày, có thú bừa-cày,
Kiệu tế, có muông kiệu tế,
Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
Ðể hòng khi về hạng tư văn ;
Ðể dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ yên, kỳ phước.
Hễ có việc, lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Ngựa tuy rằng hình tượng lớn cao,
Tam sanh lễ, ai dùng đến ngựa ?
Dầu đến việc làm đình, làm chợ,
Cũng lấy dê trảm thảo, bồi cơ ;
Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khấn cầu tổ đạo.
Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo :
Tử Cống sao dê sống bỏ đi ?
Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy,
Dê nào có thiếu chi công trạng ?
Nói cho xứng đáng,
Há dễ cơ cầu,
Dê tuy rằng vô vĩ, vô đầu,
Quan phong Trường tu chủ bộ.
Hèn như dê mà dám đọ,
Tiện như dê, quí bất khả ngôn.
Ngựa rằng : Ngựa ở chốn quyền môn,
Phong cho ngựa chức chi nói thử ?
Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa,
Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?"

Ngựa nghe qua tỏ đặng sự tình,
Dê rằng : bé, ai hay chức lớn ?
Dê nói lại tài dê cũng rắn,
Ngựa thưa qua, sức ngựa thêm rồng :

Chủ phê cho lưỡng bạn tương đồng,
Chắp sự giả các tư kỳ sự.
Lời tự thuận hai đàng xong xả,
Dê phát ngôn, bèn trở nại gà :

"Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
Nuôi giống gà thật vô ơn ngãi.
Thấy chủ vãi đám ngò, vạc cải
Túc nhau bươi chếch gốc, trốc cây.

Thấy người trồng đám đậu, vồng khoai,
Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
Rất đến đỗi thấy nhà lợp rạ,
Kéo nhau lên vậy vã tâng bầng.

Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
Trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào để bén dây
Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?"

Image

Kê (Gà)

Gà nghe nói, nóng gan, nóng phổi,
Liền nhảy ra, chớp cánh, giương đầu.
Này này ! gà ngũ đức thẳm sâu :
Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm đủ.

Trên đầu đội văn quan một mũ ;
Dưới chân đeo hai cựa thần thương.
Ðã ghe phen đến chốn chiến trường.
Lập công trận vang tai, lói óc,

Thủa Tây Lũng tam canh trống thúc ;
Gà gáy đầu ba tiếng đêm khuya,
Một tiếng rằng : thiên nhật tác thì ;
Hai tiếng rằng : quốc tộ tác xương,
Ba tiếng rằng : nhân gian tác lạc,

Ðã cứu nạn Mạnh Thường đặng thoát ;
Lại khuyên người Tấn Sĩ năm canh.
Hễ ai toan cải dữ về lành,
Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc điệp.

Coi giò gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy, toại lòng người đãi đán,
Cứ mấy điều mà đoán,

Ðã tỏ việc phải chăng ?
Giận anh dê cứ nói việc ăn,
Khéo kiếm chác những điều xoi tệ.
Dê biết lễ gà cũng biết lễ,

Dê phong Chủ Bộ, gà chức Tư Thần.
Nói vài điều đã biết xứng cân,
Huống gà có ngoại khoa biết mấy ?
Chưa biết ai hay rầy, hay khuấy,

Chưa biết ai ngủ sớm ngủ mê.
Gà không người chăn giữ đi về,
Nên gà mới lỗi lầm bươi móc.
Dê lầm thế không ai xem sóc,

Việc phá dê bằng chín bằng mười.
Bữa ăn gà tốn kém mấy hơi?
Nói những chuyện so chày buộc chặt.
Kể ít chuyện cho dê biết mặt,

Kẻ rằng gà vô thú trong đời.
Chẳng nhớ xưa đêm sáng, tốt trời,
Xui kẻ nhớ vợ hiền thêm chạnh.
Thức vua Thính làm lành giấc tỉnh.

Gà thua dê một hàm râu nịnh,
Nghĩ lại coi không ích lợi chi.
Gà dễ đâu có dám phân bì,
Nói điều phải mà nghe cho đặng ?"

Dê nghe nói công lênh nhẹ nặng,
Mới biết suy hơn thiệt mọi điều :
"Thôi, thôi, nói ít biết nhiều,
Dê xin chịu lập tờ tự thuận"

Gà còn hãy chưa nguôi cơn giận,
Bèn phát ngôn thưa chủ một lời :
"Như chúng gà vốn đạo làm tôi,
Giữ một tiết thức khuya dậy sớm.

Thủa ấu thơ người còn tríu trớn;
Ðến lớn khôn đều có riêng quan.
Ai siêng bươi, siêng móc thì no,
Bằng biếng lặt, biếng tìm thì đói.

Gà gẫm lại thân gà thêm tủi,
Làm tôi người không đặng nhờ chi.
Heo ăn rồi ngủ ngáy sì sì,
Giả ngây dại, biết gì việc chủ.

Ngắm diện mạo, dị hình, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi, chẳng phải giống chơi
Chạy rau cám, như tiền nội án.

No đú mỡ, nhảy quanh, nhảy quất,
Ðói xép hông, cắn máng, cắn chuồng.
Mỗi một ngày ba bữa ròng ròng,
Ðã chẳng thấy bữa nào sai chạy,
Bán bối gì mà người yêu vậy ?
Mù quáng chi mà phải báo cô?"

Image

Trư (Heo)

"Chú gà chớ lung lăng múa mỏ,
Giữ, có ngày cắn cổ chẳng tha !
Ghét thương thì mặc lượng chủ nhà,
Chớ thóc mách kiếm lời phỉ báng.

Như các chú lao đao đã đáng,
Heo thong dong ăn nhảy mặc heo.
Nội hàng trong lục súc với nhau,
Ai sánh đặng mình heo béo tốt ?

Vua ngự lễ Nam Giao đại đột,
Phải có heo mới gọi tam sanh,
Ðừng đừng quen lời nói lanh chanh,
Bớt bớt thói chê ai ăn ngủ,

Kìa những việc hôn nhân giá thú.
Không heo ra, tính đặng việc chi?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng.

Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.

Làng xã tới lao đao, láu đáu,
Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
Khiêng heo ra để lại giữa dòng,
Mọi việc rối liền xong trơn trải.

Phải chăng, chăng phải,
Nghĩ lại mà coi,
Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước.

Bởi gà nhỏ nói lời lấn lướt,
Nên phải phân ít chuyện mà nghe.
Dễ heo nào có dạ dám khoe ?
Khắn khắn cũng lo làm việc phải.

Heo cũng biết đền ơn báo ngãi,
Heo cũng hay tiêu họa, trừ tai,
Toái thân phấn cốt chi nài ?
Nát thịt tan xương bao quản ?

Lòng thờ chủ ngay đà tỏ rạng.
Thân mình này ví bẵng như không.
Tại chú gà lời nói khùng khùng,
Mới sinh sự so đo trường đoản".

Vậy chủ bèn phân đoán,
Phê một câu khúc tận kỳ tình :
"Gà biết chữ xả sinh thủ ngãi ;
Heo đặng câu tịnh sinh, tịnh dục "

Nhân rảnh thảo ra một lúc,
Chép ra cho rõ sự đời
Sự này cũng sự nói chơi,
Ai muốn thì đọc mà cười cho vui.

HẾT

Phong Luu