Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Những tin tức hay, lạ, vui, và hữu ích cho đời sống.
Xin đừng tranh luận về chính trị, tôn giáo, sắc tộc ...

Moderator: A Mít

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 06 Nov 2023

3. Giải mật ung thư


Nếu bạn muốn đánh bại ung thư, trước hết hãy chấp nhận và thấu hiểu nó.
Nếu bạn muốn thoát khỏi ung thư, hãy tập trung vào việc được tự do.
Nếu bạn muốn có nhiều tiếng cười hơn trong cuộc sống, hãy cười nhiều hơn nữa.
Nếu bạn không muốn sợ hãi thêm nữa, hãy làm điều bạn sợ.
Nếu bạn muốn một thế giới tốt đẹp hơn, hãy làm nó tốt đẹp hơn.
Nếu bạn thấy mình là nạn nhân của việc gì đó, hãy thay đổi nhận thức.
Nếu bạn muốn có nhiều bình yên hơn trong cuộc sống, hãy lan tỏa bình yên nhiều hơn.
Chỉ có duy nhất một điều “không làm” mà bạn nên biết:
Không dồn tâm sức vào những việc bạn không muốn cho bản thân và những người khác.
Thay vào đó, hãy tập trung ý nghĩ vào điều bạn muốn. Sức khỏe, niềm vui, sự phong phú, tự do và bình yên là những thứ chúng ta lựa chọn trong cuộc sống, chứ không phải là những thứ tồn tại tách biệt với chúng ta.


Kết nối các mảnh


Mary đến gặp tôi khi cô ở tuổi 39. Một năm trước, cô được chẩn đoán là mắc ung thư * giai đoạn muộn. Bác sĩ ung thư của cô đã chỉ định một lộ trình điều trị thông thường theo đúng chuẩn - xạ trị và hóa trị - nhưng chẳng ăn thua. Ngay sau đó, ông ta khuyên cô phẫu thuật cắt bỏ v_ú phải. Cuộc phẫu thuật diễn ra ngay trước kỳ kinh nguyệt của cô. Cô cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều khi các bác sĩ thông báo rằng họ đã loại bỏ hoàn toàn ung thư và tình hình bây giờ đang trong tầm kiểm soát. Các bác sĩ của cô ấy không biết rằng, theo môn thời sinh học1, nguy cơ ung thư tái phát tăng bốn lần ở những phụ nữ phẫu thuật trước một tuần hoặc trong kỳ kinh nguyệt so với những người phẫu thuật ở những thời điểm khác. Khi có kinh nguyệt, khả năng miễn dịch và lượng sắt trong máu thấp hơn rõ rệt. Do đó cơ thể của cô ấy không có khả năng phá hủy tất cả tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật. Vì thế, người phụ nữ này có nguy cơ cao bị ung thư phát sinh ở các phần khác của cơ thể.

1 Thời sinh học (chronobiology) là khoa học nghiên cứu đồng hồ sinh học của cơ thể căn theo các chu kỳ của Trái đất và được mã hóa trong các tế bào của chúng ta. Cơ thể chúng ta được phú cho ít nhất 100 chiếc đồng hồ như vậy, và chúng không liên quan gì đến thời gian đồng hồ cơ học của chúng ta. Ví dụ như nhịp sinh học ngày đêm (circadian rhythm) chịu trách nhiệm cho vô số chu kỳ nội tiết xác định lúc đói, tâm trạng, sự trao đổi chất, tốc độ tăng trưởng và lão hóa. Muốn có thêm thông tin, hãy tìm đọc cuốn Timeless Secrets of Health & Rejuvenation (TG).

Chẳng hề ngạc nhiên khi mà một năm sau phẫu thuật v_ú, Mary bắt đầu than phiền về những cơn đau dữ dội ở cột sống phía dưới và đầu gối trái. Mười năm trước, cô đã được chẩn đoán gai đốt sống ở cột sống phía dưới1, do mọc ra bất thường và sụn bị cốt hóa ở rìa các khớp cột sống. Tuy nhiên, lần này, xét nghiệm cho thấy có tế bào ung thư xương phát triển ở đoạn dưới của cột sống và đầu gối trái. Phẫu thuật v_ú và hệ quả là sự ức chế hệ miễn dịch, như thường diễn ra, đã khuyến khích hàng triệu tế bào ung thư phát triển ở những phần khác đã suy yếu của cơ thể. Vì thế, tế bào ung thư bắt đầu phát triển ở phần cột sống phía dưới, nơi sức đề kháng đặc biệt thấp trước sự hình thành ung thư.

1 Gai đốt sống là thoái hóa cột sống và biến dạng của khớp nối giữa hai hoặc hơn hai đốt sống (TG).

Mary cũng bị các vấn đề kinh nguyệt trầm trọng trong một thời gian dài như cô còn nhớ. Thêm vào đó, cô còn được chẩn đoán là thiếu máu. Tuy vậy, dù đã uống viên sắt đều đặn trong nhiều năm, do đó thường xuyên thấy buồn nôn và co thắt dạ dày, nhưng cô ấy vẫn thiếu máu. Cô nói với tôi rằng hệ tiêu hóa của cô ấy “không bao giờ làm việc đúng cách” , và táo bón thường kéo dài 3 đến 5 ngày liền. Kiểm tra của tôi cho thấy trong gan của cô có hàng nghìn viên sỏi.
Mary kể nhiều năm qua cô đã được điều trị bằng cách dùng phối hợp rất nhiều loại kháng sinh cho tất cả các loại nhiễm trùng. Chắc chắn rằng thường xuyên sử dụng kháng sinh làm tăng mạnh nguy cơ ung thư *. Theo nghiên cứu về ung thư, nguy cơ ung thư * cao gấp hai lần ở những phụ nữ đã uống từ 25 đợt kháng sinh trở lên, bất kỳ loại nào trong 17 năm so với những người không dùng chút nào.
Hồi nhỏ, Mary ăn rất nhiều kẹo, bánh, kem và sô cô la. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa nguy cơ ung thư * cao hơn ở phụ nữ và chế độ ăn nhiều đường (đặc biệt nước ngọt và đồ ăn tráng miệng ngọt phổ biến). Các nhà khoa học hiện nay tin rằng lượng insulin được giải phóng bổ sung để xử lý các loại tinh bột và đường đơn giản trong những thực phẩm đó làm cho tế bào phân chia và estrogen trong máu tăng. Cả hai yếu tố đó (tế bào phân chia, estrogen tăng) có thể góp phần phát triển ung thư. Có điều, hiện tượng kháng insulin do thói quen ăn quá nhiều đường có thể dẫn tới đột biến, tạo ra 80% tất cả các loại ung thư.
Một nhân tố phổ biến khác trong các tình trạng này là căng thẳng cảm xúc, gây nên biến động nồng độ hoốc môn cortisone trong cơ thể, mà cortisone có vai trò điều tiết nhiều quá trình sinh lý, trong đó có đáp ứng kháng viêm, chuyển hóa carbohydrate, chất béo và protein. Theo một nghiên cứu của Đại học Carnegie Mellon Journal of the American Medical Association số ra ngày 10-10-2007], các nhà khoa học cũng đã xác lập được rằng căng thẳng làm suy yếu hệ miễn dịch và đóng vai trò trực tiếp trong sự phát triển bệnh tim, nhiễm trùng đường hô hấp trên, bệnh hen suyễn, một số bệnh nhiễm virus, mất cân bằng tự miễn, thậm chí cả việc vết thương sẽ khỏi như thế nào.
Hơn thế nữa, căng thẳng có thể ảnh hưởng đến thói quen hằng ngày của chúng ta, khiến chúng ta dần rơi vào vòng đau ốm luẩn quẩn và tiến triển sang, ví dụ như, tình trạng ăn vô độ, uống rượu hoặc hút thuốc - mà đến lượt mình, những thói quen này khiến chúng ta càng cảm thấy tệ hại hơn, do đó càng căng thẳng hơn. Tựu chung lại, mất cân bằng cảm xúc, về bản chất, chính là nhân tố nguy hiểm nhất dẫn đến ung thư.

Những nguyên nhân thuộc về cảm xúc của ung thư


Quay trở lại câu chuyện của Mary, cô có một tuổi thơ buồn vì cha mẹ cô thường xuyên trục trặc. Khi tôi hỏi, cô thậm chí còn không thể nhớ nổi có khi nào cha mẹ mình cơm lành canh ngọt với nhau. Là người rất nhạy cảm, mọi thứ với cô nặng nề và sâu đậm hơn so với người anh trai hướng ngoại. Cô thường xuyên cảm thấy bất an, sợ hãi và chán nản. Với nụ cười đầy đau khổ trên mặt, Mary nói rằng cô luôn luôn cảm thấy bị giằng xé giữa bố và mẹ, và không thể chọn ủng hộ ai.
Ăn uống cùng bố mẹ là việc rất khó khăn với cô. Cô buộc phải ngồi ăn trong khi bị một bầu không khí rất căng thẳng. Thỉnh thoảng mọi người cùng giữ im lặng để không khơi ra bất cứ xung đột mới nào. Bây giờ cô có ác cảm mạnh đối với thức ăn và sợ hãi đồ ăn, nên cố nuốt ngấu nuốt nghiến, thường vừa đứng hoặc vừa lái xe vừa ăn.
Mary phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong công việc. Cô làm giáo viên và cảm thấy rằng học sinh được phép trút thất vọng vào mình, còn bản thân thì phải giữ kín nó bên trong. Khi trở về nhà, dường như cô muốn hét lên với mấy đứa con của mình, điều đó lại khiến Mary dằn vặt thêm. Cô muốn trở thành một người mẹ tốt, nhưng lại tin rằng mình không thể, cô không biết đối xử thế nào là tốt cho lũ trẻ. Mary nói với tôi rằng dường như cô không bao giờ muốn trở thành một giáo viên đứng lớp, cô chỉ muốn trở thành huấn luyện viên thể dục.
Nỗi thất vọng vì không thực hiện được ước nguyện là nguyên nhân chính khiến Mary bị ung thư. Ngay từ bé, cô đã được dạy phải tuân theo chuẩn mực xã hội, có nghĩa là luôn phải làm những gì mà cô được bảo phải làm. Thẳm sâu trong tim mình, Mary có những ước mơ không bao giờ thực hiện được bởi vì cô không muốn khuấy động rắc rối và làm người khác nghĩ xấu về mình.
Để giữ bình yên, Mary làm theo những gì bố mẹ yêu cầu, nhưng bên trong thì sôi sục giận dữ. Buổi sáng khi đến văn phòng của tôi, cô nở một nụ cười xinh đẹp, che giấu nỗi đau trong lòng. Cô đã học được cách giấu kín nội tâm với thế giới bên ngoài. Cô bị tổn thương phần nhiều không phải vì những đau đớn thể chất, mà vì tất cả nỗi thất vọng, sợ hãi và bất an đã được giấu kỹ, những thứ đe dọa những xúc cảm nhạy bén về tình yêu và bình an trong trái tim cô. Những đau đớn thể chất chỉ đơn thuần gợi cho cô ấy nhớ lại những cảm xúc đau đớn sâu sắc đã phải chịu đựng quá lâu. Chính tình trạng không ngớt cố gắng trấn áp hoặc che giấu đi những cảm xúc thật sự bên trong - trong suốt thời niên thiếu và trưởng thành - cuối cùng đã hình thành một cá nhân cần đến một căn bệnh để đưa mọi sự đến một kiểu ngã ngũ nào đó.
Bị giằng xé giữa bố mẹ suốt nhiều năm và bản thân cố gắng làm hài lòng cả hai, Mary không đủ dũng cảm để lựa chọn làm hài lòng bản thân và chỉ bản thân mình mà thôi. Sự chia cắt trong trái tim cô ấy đã rút hết năng lượng và niềm hạnh phúc. Ung thư bắt đầu từ trái tim bị chia cắt, phản ánh toàn bộ nỗi đau và thất vọng không thể diễn tả bao trùm những năm đầu đời của cô.

Tất cả đều từ tâm mà ra, đúng không nhỉ?


Thế nào bạn cũng nói gì mà phán xa thế. Sao có thể như thế được? Chắc chắn là điều này trái với hiểu biết thông thường, nhưng chính cái hiểu biết ấy đã tạo ra môt loạt các bệnh mạn tính và các phương pháp điều trị bệnh độc hại, đắt đỏ, hướng đến triệu chứng và không có tác dụng. Thay vì tiếp tục bước đi trên con đường đó, hãy xem xét rằng các giả dược (chủ yếu được tạo ra để không hề có tác dụng chữa bệnh gì) luôn chứng tỏ có hiệu quả hơn dược phẩm, nên những cảm xúc ngầm ẩn có ảnh hưởng vô cùng lớn đối với cơ thể con người, dù theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực.
Điều gì xảy ra trong cơ thể cảm xúc của chúng ta cũng xảy ra trong cơ thể thể chất của chúng ta, và ngược lại. Ung thư thực sự là một cảm xúc bị kẹt và bị cách ly, một cảm giác không có lựa chọn nào. Tương tự thế, thể chất tắc nghẽn khiến cảm xúc của bạn cũng bị kẹt. Tâm trí và cơ thể không bao giờ tồn tại một cách riêng rẽ cách ly với nhau. Thứ gì ảnh hưởng đến cái này, cũng ảnh hưởng đến cái kia; và điều này diễn ra một cách tự động và đồng thời.
Thông qua sự kết nối tâm trí /cơ thể, bất cứ cảm giác nào mong muốn và mưu cầu sự hài hòa, bình yên, ổn định và một niềm vui đơn giản trong cuộc sống mà bị ức chế cũng đều chuyển thành những phản ứng hóa sinh tương ứng trong cơ thể. Điều này đã khá thành công trong việc tước đi tất cả những phẩm chất tích cực trên của các tế bào trong cơ thể. Các tế bào không phải là những cỗ máy thể chất không cảm xúc, không giác quan về cái “tôi”, không phản ứng về những thay đổi hoặc đe dọa bên ngoài.
Trấn áp cảm xúc gây ra quá nhiều giận dữ và thất vọng ở Mary, đến nỗi xuất phát từ cảm giác sợ không được người khác, trong đó có cha mẹ, yêu quý, cô ấy đã chĩa những cảm xúc tiêu cực này vào chính cơ thể mình. Tâm trí nhiễm độc của cô đã khiến cơ thể nhiễm độc theo, và nó đe dọa chính mạng sống của Mary. Cô ấy đe dọa sức khỏe của các tế bào trong cơ thể mình bằng cách giữ rịt trong lòng những ý nghĩ và cảm xúc hệ trọng nhất.
Bất cứ điều gì bạn giữ trong lòng do sợ bị phê phán hoặc bị tổn thương, thực ra lại biến thành chất độc trong cơ thể. Những chất độc này mạnh đến nỗi nước mắt của bạn có thể đốt thủng cả da rắn. Tôi đã từng chứng kiến hiện tượng này khi sống ở châu Phi. Những giọt nước mắt hạnh phúc, mặt khác, lại không có chút độc chất nào.
Căng thẳng thường xuyên mà Mary trải qua trong bữa tối với cha mẹ đã phá hoại ghê gớm chức năng tiêu hóa của cô. Bị áp lực stress hay căng thẳng, các mạch máu dẫn tới các cơ quan tiêu hóa trở nên chật hẹp và hạn chế, ngăn chúng tiêu hóa ngay cả những thứ thức ăn lành mạnh nhất. Hơn nữa, ăn trong khi cảm xúc buồn bực thì chỉ ức chế việc tiết ra một lượng dịch tiêu hóa cân bằng. Bất cứ khi nào bạn thấy tức giận hay buồn bực, hệ vi khuẩn mật (vi khuẩn có lợi giữ cho mật cân bằng) sẽ bị thay đổi, khiến cho mật bị đặc quánh lại. Căng thẳng cảm xúc liên tục dẫn tới hình thành sỏi trong các ống mật của gan và trong túi mật. Hệ quả là hoạt động tiết mật bị hạn chế đã hạ thấp Agni, ngọn lửa tiêu hóa.1

1 Theo triết lý của y học Ayurveda, Agni là tên gọi ngọn lửa tiêu hóa trong cơ thể. Chính nó phân cắt và tiêu hóa thức ăn trong bụng (BBT).

Mary vẫn còn kết nối việc ăn bữa ăn của cô với nỗi đau buồn cô trải qua khi ngồi cùng bàn ăn với cha mẹ. Nỗ lực vô thức của cô là cố tránh mọi thứ liên quan đến đồ ăn và việc ăn uống, điều đó đã lập trình cho cơ thể cô làm điều tương tự. Cơ thể cô không thể ăn uống và hấp thụ thức ăn đúng cách khi thức ăn bị nhồi nhét vội vã. Nó dẫn đến sự tích tụ một lượng lớn chất thải độc hại trong ruột non và ruột già của cô.
Táo bốn thường xuyên và hấp thụ kém chất dinh dưỡng, trong đó có chất béo, canxi, kẽm, magiê và vitamin, làm suy yếu và kiệt quệ mô xương, tủy xương, và các chức năng sinh sản của Mary.
Khi các mô sinh sản, là phương tiện duy trì thiết kế di truyền (ADN) của các tế bào, bị đói ôxy và các chất dinh dưỡng, thì việc các tế bào bình thường và khỏe mạnh bắt đầu đột biến gien và phân chia một cách bất thường để sống sót qua nạn đói này chỉ còn là vấn đề thời gian. Bình thường, một nhóm các tế bào miễn dịch, các enzyme tuyến tụy và các vitamin sẽ phân cắt các tế bào ung thư trong cơ thể, dù chúng xuất hiện ở nơi nào.
Tuy nhiên, hầu hết các enzyme tiêu hóa đều được dùng hết sạch một cách nhanh chóng khi thức ăn có quá nhiều protein từ động vật như thịt bò, thịt lợn, thịt gia cầm, cá, trứng, pho mát và sữa, cũng như những thức ăn chứa nhiều đường. Trên thực tế Mary sống bằng những thức ăn này. Bị tình trạng tiêu hóa kém và táo bón gần như cả đời, cơ thể cô gần như đã mất toàn bộ thuốc giải độc tự nhiên cho các tế bào ung thư. Ung thư dễ có khả năng xuất hiện ở những người mà chức năng tiêu hóa luôn bị quấy rối và ở những người bị mất đi cảm xúc hạnh phúc, hơn là ở những người có hệ tiêu hóa hoạt động hiệu quả và những người nhìn chung lạc quan, yêu đời.
Bệnh gai cột sống phía dưới của Mary cho thấy là hệ thống nâng đỡ cơ thể bên trong và bên ngoài của cô đã suy yếu, nó biểu hiện thành một phản ứng trực tiếp đối với việc thiếu quan tâm và khuyến khích từ phía cha mẹ. Khi ngồi, người cô dồn về phía trước, và trông tầm vóc cô như thể co lại còn một nửa. Cô nhìn giống một đứa trẻ sợ sệt, không tự tin và thiếu niềm tin. Cử chỉ của cô cho thấy cô đang cố gắng bảo vệ trái tim khỏi bị tổn thương lần nữa. Bên cạnh đó, hơi thở cô nông và không đủ hơi, như thể cô không muốn bố mẹ chú ý đến và, có thể là, trách móc hoặc không đồng tình với cô. Hai đầu gối có tác dụng làm điểm tựa cho toàn bộ cơ thể. Cả một đời nhún nhường và không dám đứng lên vì chính bản thân và những khát khao của mình đã bộc lộ rõ ràng ở tình trạng đầu gối ẩm ương, ngày càng tệ thêm qua nhiều năm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 09 Nov 2023

Những phương thuốc hiệu quả dành cho Mary


Nghiên cứu của Nhật Bản đã chỉ ra rằng ngay trước khi khối u tự teo, thường chỉ chưa đến 24 giờ, các bệnh nhân ung thư đã trải qua một thay đổi sâu sắc trong thái độ đối với chính bản thân mình. Mary cần tạo ra vài thay đổi lớn lao trong cuộc đời mình, một trong số đó là tìm một công việc mới, cho dù công việc đó lương có ít hơn. Trong khi Mary vẫn còn dễ tổn thương với những tình huống căng thẳng và xáo động, thì tâm trạng thấp thỏm lo âu khi ở trường chẳng hề có lợi cho quá trình chữa lành. Cô cũng cần dành nhiều thời gian với thiên nhiên hơn, như dạo chơi dưới ánh nắng mặt trời, trên bãi biển, vẽ vời, nghe nhạc hợp gu và dành thời gian để tĩnh lặng và thiền định mỗi ngày.
Bên cạnh việc tuân theo một nề nếp và chế độ ăn uống mỗi ngày của y học Ayurverda, Mary đã bắt đầu thực hiện nhiều quy trình tẩy sạch để thải chất phân cũ tồn đọng ở đại tràng và làm sạch máu, gan, các mô liên kết khỏi các chất độc tích tụ. Tẩy gan cho ra hàng nghìn viên sỏi làm tắc cả gan lẫn túi mật của cô ít nhất là từ 15 đến 20 năm qua.
Điều quan trọng nhất Mary cần làm là cô phải ý thức hơn về mọi thứ trong cuộc sống của mình, trong đó có việc ăn uống, việc giải tỏa cảm xúc và lắng nghe những tín hiệu cơ thể khi đói, khát và mệt mỏi. Cô cần trở nên có ý thức hơn với những nhu cầu và khát khao của mình và bắt đầu thỏa mãn chúng bất cứ khi nào có thể. Cô phải nhận ra điều quan trọng nhất là cô không cần phải làm bất cứ điều gì không khiến bản thân vui vẻ. Cho phép bản thân phạm sai lầm, và khi đó đừng có phán xét mình. Đó chính là liệu pháp cốt lõi dành cho cô.
Bạn bè và gia đình Mary cũng cần phải hiểu rằng cô ấy đang ở trong một giai đoạn hồi phục vô cùng quan trọng, mà ở đó mọi ý nghĩ và cảm xúc tích cực về cô đều có tác dụng như một hệ chống đỡ to lớn, một sự hỗ trợ mà cô chưa từng có khi còn trẻ. Cô đã bắt đầu cải thiện dần dần sau sáu tháng thực hiện khoảng 60% lời khuyên của tôi. Bây giờ, cô đã cảm thấy căn bệnh đó đã khiến cô hiểu thấm thía hơn về cuộc đời và đưa cô đến một sự thức tỉnh nội tâm chưa từng có bao giờ. Thoát khỏi ung thư, cô tiếp tục cải thiện và phát triển sự tự tin và thái độ chấp nhận bản thân.

Ung thư - một phản ứng khi bị bỏ rơi


Jeromy bị bệnh Hodgkin, là thể u lympho (ung thư hạch bạch huyết) phổ biến nhất, u lympho là những khối u tân sinh ác tính của mô lympho đang biến đổi về tốc độ phát triển, cũng được gọi là ung thư bạch huyết. Y học hiện thời không thể giải thích được nguyên nhân của bệnh này. Bệnh Hodgkin thường bắt đầu ở tuổi trưởng thành hoặc trong khoảng từ 50 đến 70 tuổi.
Khi Jeromy 22 tuổi, anh nhận thấy có hai hạch bạch huyết nổi cộm ở cổ. Vài ngày sau, anh được chẩn đoán bị bệnh Hodgkin. Ở một số người bị bệnh này, thần chết viếng thăm chỉ trong vài tháng, nhưng ở những người khác có rất ít dấu hiệu trong nhiều năm trời, Jeromy là một người trong số đó. Thuộc kiểu người Kapha1, anh có một cơ thể rất khỏe mạnh, dáng thể thao và được trời phú cho rất nhiều sức chịu đựng và sức bền thể chất. Tốc độ trao đổi chất chậm tự nhiên của anh có thể được coi là nguyên nhân của việc bệnh tiến triển chậm.

1 Xem chi tiết về các dạng cơ thể theo y học Ayuverda là Vata, Pitta và Kapha trong cuốn Timeless Secrets of Health & Rejuvenation. Trong ba loại, Kapha là loại cơ thể có xương và cơ khỏe nhất (TG).

Jeromy thực hiện đợt hóa trị đầu tiên vào năm 1979, ngay sau khi được chẩn đoán là bị ung thư hạch bạch huyết, nhưng không thấy cải thiện gì mấy. Năm 1982, các bác sĩ bổ sung xạ trị vào các đợt hóa trị đều đặn, nhưng những đợt điều trị này gây nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng, trong đó có hiện tượng rụng toàn bộ lông tóc và mất khẩu vị. Nỗi khổ sở của anh không phải nhỏ. Nhưng, mặc dù phải chịu vô vàn đau đớn do nhiều đợt điều trị trong suốt 14 năm gây ra, Jeromy vẫn không thoái chí và bi quan. Ý chí chiến đấu quật cường đã cho phép anh tiếp tục làm tổng quản lý cho một doanh nghiệp thành đạt.
Thông qua phương pháp xem mạch của y học Ayurveda và quan sát mắt (mống mắt học) 2, tôi có thể xác định được rằng ngay từ khi còn nhỏ, các chức năng tiêu hóa và dẫn lưu bạch huyết của Jeromy đã bắt đầu suy giảm nhanh chóng. Gan của anh có rất nhiều sỏi. Hóa ra, Jeromy đã từng trải qua một chuyện cực kỳ tổn thương khi mới bốn tuổi, mặc dù ban đầu anh khó có thể nhớ ra đó là chuyện gì. Theo Jeromy, sự kiện gây stress cảm xúc nhất xảy ra lúc anh 21 tuổi, khi người bạn gái gắn bó lâu năm của anh đột ngột chia tay để chạy theo gã khác. Chính xác là sau một năm cô ấy bỏ đi, anh phát hiện hạch bạch huyết ở cổ sưng lên. Bị bạn gái từ bỏ là một trong những cú sốc đau lòng nhất đời. Nhưng trải nghiệm này chỉ đơn thuần khơi gợi lại ký ức bị bỏ rơi thậm chí còn đau đớn hơn trong quá khứ.

2 Những phương pháp chẩn đoán dùng để xác định bất cứ sự mất cân bằng nào trong cơ thể và tâm trí (TG).

Chiến đấu với bóng ma của ký ức


Jeromy chào đời ở một nước đang phát triển, với tình hình chính trị bất ổn. Khi anh lên bốn tuổi, để cho an toàn, cha mẹ gửi anh tới trường nội trú ở một nước đang phát triển khác. Không thể nào hiểu nổi tại sao mình bị chuyển đi như vậy, anh tưởng cha mẹ thôi không còn yêu mình nữa, không còn muốn mình ở bên cạnh nữa. Tất cả những gì anh còn nhớ là cảm giác bị tách rời khỏi thứ mà anh coi là nguồn sống của mình: được ở bên cha mẹ. Mặc dù cha mẹ anh tin rằng gửi anh ra nước ngoài là điều tốt nhất với anh, nhưng anh đột ngột bị mất đi tình yêu thương của những người quan trọng nhất với mình, ở vào cái tuổi anh cần họ nhất. Thế giới nhỏ bé của anh đã sụp đổ vào chính cái ngày đen tối đầu tiên trong đời ấy, và những chức năng chính trong cơ thể anh sau đó cứ dần dần đi xuống.
Jeromy dành hầu hết thời gian trong đời để chứng minh với cha mẹ rằng anh xứng đáng có được tình yêu của họ. Dẫu vậy anh cũng không nhận ra khao khát thành công không lúc nào nguôi trong đời. Anh tự hào nói với tôi rằng anh không bao giờ bỏ cuộc và rằng anh kiên quyết không cho phép bất cứ thứ gì hạ gục mình. Một phần trong anh không thừa nhận rằng anh đang ốm nặng rồi. Vẻ ngoài cơ thể của anh, ngoại trừ cái đầu trọc, chẳng thể hiện chút nào về cuộc chiến mà cơ thể anh đang giành giật. Anh đã đầu tư mọi công sức và thời gian vào công việc, và anh đã rất thành đạt.
Dầu vậy, để chữa lành cơ thể mình, Jeromy cần ý thức được về đứa trẻ bị bỏ rơi trong anh. Anh đã chôn vùi phần đó trong ngóc ngách sâu tối nhất của tiềm thức khi anh lên bốn tuổi, và lần thứ hai khi anh trở thành một chàng trẻ tuổi và bị bạn gái dứt tình. Lần bỏ rơi thứ hai này đã làm bùng phát nỗi đau chôn giấu do anh lầm tưởng bố mẹ bỏ rơi mình.
Cơ thể cất giữ tất cả những trải nghiệm mà chúng ta đã có theo kiểu hệ thống tủ đựng hồ sơ vô hình. Theo đó, tất cả cảm giác giận dữ trong đời đều được dồn vào một hồ sơ, những chuyện buồn dồn vào một hồ sơ khác, và cảm giác bị bỏ rơi được trữ trong một hồ sơ khác nữa. Những ấn tượng này không được lưu trữ theo thời gian tuyến tính, mà được sắp xếp theo tính tương đồng. Chúng nuôi dưỡng con ma ký ức và ngày càng bơm vào nó nhiều năng lượng. Một khi hồ sơ đã đầy ắp, thì chỉ cần một chuyện vô cùng nhỏ cũng làm phụt ra một trận phun trào kinh hoàng và đánh thức con ma ký ức đó, trao cho nó cuộc sống riêng, thoát khỏi sự kiểm soát. Điều này đã xảy ra trong cuộc đời của Jeromy.
Việc bị bạn gái từ bỏ đã đánh thức cảm giác bị bố mẹ bỏ rơi hồi bốn tuổi. Do lờ đi hoặc phủ nhận việc mình bị bỏ rơi này, mà trong vô thức anh đã điều khiển cơ thể mình tạo ra đáp ứng y hệt, đó là ung thư trong chính hệ thống chịu trách nhiệm trung hòa và loại bỏ chất thải độc hại trong cơ thể - hệ bạch huyết. Không thể thoát khỏi bóng ma ký ức trong đó có nỗi sợ hãi và giận dữ thâm căn cố đế từ cảm giác bị bỏ rơi, Jeromy cũng không thể loại bỏ khỏi cơ thể những tế bào chết, các tế bào bị thay thế và các chất thải trong quá trình trao đổi chất.1 Cả gan và túi mật của anh đều đã tích tụ hàng nghìn viên sỏi, gần như làm anh nghẹt thở. Cơ thể anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nảy ra ung thư, và ung thư đó đã tra tấn trái tim cũng như tâm trí anh trong suốt nhiều năm trời.

1 Cơ thể con người phải loại bỏ hơn 30 tỷ tế bào chết, đã bị thay thế và một lượng lớn chất thải trao đổi chất mỗi ngày thì nó mới khỏe mạnh được (TG).

Hãy buông xả, đừng cố chấp tranh đấu


Tất cả các sự kiện trong đời có vẻ như tiêu cực thực ra lại là những cơ hội có một không hai để trở nên hoàn thiện và toàn vẹn hơn bên trong, và để tiến về phía trước. Bất cứ khi nào chúng ta cần trao cho bản thân thêm nhiều tình thương, thời gian và sự trân trọng, nhưng lại không thỏa mãn được những nhu cầu tối quan trọng ấy, thì ai đó hoặc cái gì đó trong cuộc đời chúng ta sẽ đẩy chúng ta về hướng đó. Cảm giác bị bỏ rơi, thất vọng hoặc tức giận với ai đó, nhấn mạnh thêm thái độ thiếu trách nhiệm đối với những thứ tiêu cực xảy ra với chúng ta. Đổ lỗi cho mình hoặc cho người khác vì một tình huống không may sẽ tạo ra cảm giác mình là nạn nhân và dễ biểu hiện thành bệnh. Hơn nữa, nếu chúng ta không hiểu thông điệp gắn liền với bệnh tật mà ta mắc phải, thì chúng ta có thể thậm chí phải đối mặt với cái chết để nhận rõ giá trị của cuộc đời hoặc của việc được sống trong cõi đời này.
Ưng thư, xét trên phương diện phi chính thống, là cách thoát khỏi tình huống bế tắc làm tê liệt trái tim của một người. Nó giúp phá vỡ những khuôn mẫu tội lỗi, nhục nhã cũ kĩ và cứng nhắc đã cầm tù con người, đã giam giữ họ trong cảm giác tự ti không ngớt. Phương pháp y học hiện tại không nhắm vào vấn đề chính đằng sau ung thư này, nhưng quá trình bệnh tật thì có, miễn là nó được phép diễn tiến theo cách của nó. Hóa trị, xạ trị và phẫu thuật chỉ khích lệ tâm lý là nạn nhân ở người bệnh và không có vẻ chữa lành những nguyên nhân gốc rễ của bệnh. Những phép chữa bệnh kỳ diệu xảy ra khi người bệnh giải phóng bản thân khỏi nhu cầu làm nạn nhân và tự dằn vặt, tấn công mình. Khi người ta có cảm giác hạnh phúc và tự chấp nhận bản thân trong nội tâm một cách mạnh mẽ, thì những vấn đề bên ngoài sẽ không gây được tác động lớn có hại nào. Do đó, loại bỏ vấn đề bên ngoài thôi thì có thể chưa đủ để thuyên giảm bệnh; mà còn cần kết hợp với thay đổi suy nghĩ bên trong nữa.
Jeromy cần có sự yêu thương và đánh giá trân trọng mà trước đây anh không được nhận từ cha mẹ. Anh cũng cần dành không gian tâm trí cho những niềm vui và hạnh phúc, dành thời gian cho chính mình, cho việc thiền định, tự suy ngẫm, để được hòa vào thiên nhiên, cảm nhận niềm vui và năng lượng mà thiên nhiên khơi dậy trong mỗi chúng ta. Các tế bào ung thư là những tế bào chiến đấu vì sự sống còn trong một môi trường độc hại, thù địch. Rũ bỏ ý muốn chiến đấu trong cuộc đời này sẽ lập trình lại ADN của cơ thể, nắn lại đường lối chiến tranh và hủy diệt cuối cùng để chuyển sang con đường tái sản sinh lành mạnh. Không cần phải chiến đấu vì sự sống còn của chúng nữa, các tế bào ung thư có thể được cả gia đình tế bào cơ thể chấp nhận một lần nữa. Các tế bào ung thư là những tế bào bình thường bị bỏ rơi bởi những cái mà chúng coi là nhà. Chúng bị tước mất sự nuôi dưỡng và hỗ trợ thích hợp. Trong cơn tuyệt vọng bám víu sự sống, chúng chộp lấy bất cứ thứ gì như người chết đuối vớ được cọc, thậm chí dù đó có là những chất thải tế bào và chất độc. Điều này thực sự đã biến chúng thành những kẻ vô thừa nhận.
Tuy nhiên, giống như chúng ta, các tế bào ung thư cũng cần được biết rằng chúng được yêu quý. Phẫu thuật cắt bỏ chúng ra khỏi cơ thể, dùng thuốc độc hoặc chiếu xạ để tiêu diệt chúng chỉ gây thêm bạo lực đối với cơ thể đã phải đối phó với bạo lực. Muốn sống khỏe mạnh và an bình, chúng ta đặc biệt cần phải làm bạn với các tế bào cơ thể, trong đó có cả tế bào ung thư. Câu nói xưa “Hãy yêu thương lấy kẻ thù của ngươi,” nên được áp dụng với các tế bào ung thư y như áp dụng với con người vậy. Nguyên nhân ung thư của Jeromy là thiếu sự trân trọng bản thân, không cảm thấy mình được yêu và được cần đến, không cảm thấy mình có giá trị hoặc đủ tốt. Do cứ chờ đợi cha mẹ thể hiện tình yêu thương của họ với mình, anh đã phủ nhận tình yêu này dành cho bản thân mình. Jeromy đã nhận ra rằng bệnh của anh thực ra về bản chất là một phúc lành được ngụy trang để giúp anh lần đầu tiên tái phát hiện và yêu thương lấy chính mình.
Chỉ cần có thể nhìn thấy rằng những gì mà chúng ta gọi là bệnh là một sự biểu hiện hoàn hảo cho thế giới nội tâm của mình, thì chúng ta sẽ chú ý hơn tới những gì diễn ra bên trong con người mình, thay vì loay hoay sửa chữa thứ gì đó không thật sự cần sửa chữa. Ung thư, dù có thể khó hiểu đến thế nào đi nữa, cũng có ý nghĩa sâu xa ở đó. Mục tiêu của nó không phải là hủy diệt, mà là để chữa lành cái không còn toàn vẹn như trước nữa.

Ung thư - một công cụ chữa lành hiệu nghiệm


Nhiều năm trước, một phụ nữ đăng tin nhắn lên diễn đàn Curezone.com, Ask Andreas Moritz1 của tôi, hỏi làm sao để giúp cô em song sinh vừa mới được chẩn đoán bị ung thư của mình. Cô nói rằng cô em ấy đã khước từ cô gần như trong cả đời. Cô cũng nói với tôi rằng cô đang cố gắng hết sức để mạnh mẽ vì em mình. Tôi trả lời rằng trở nên mạnh mẽ thực ra không phải là điều em cô và cô cần lúc này.

1 Diễn đàn tên là Ask Andreas Moritz, được lập ra trên website về sức khỏe Curezone.com, nơi tôi đã trả lời hàng nghìn câu hỏi cho độc giả (TG).

Tôi viết cho cô: “Thường thì nguyên nhân ung thư là do cố gắng trở nên mạnh mẽ bên ngoài trong khi không thể hiện hoặc thừa nhận sự yếu đuối và dễ tổn thương bên trong. Lúc này điều em gái cô cần nhất ở cô là trở thành tấm gương cho bản thân cô ấy. Hãy cho cô ấy thấy thực sự thâm tâm cô cảm thấy như thế nào. Hãy cho cô ấy thấy sự dằn vặt, mặc cảm và nước mắt của chính cô vì bị chối từ liên tục, để cô ấy có thể bắt đầu nhận ra những điều này trong chính bản thân mình và nuôi dưỡng can đảm để giải phóng những cảm xúc mắc kẹt khi cô ấy đã khóa chặt cánh cửa bên trong cơ thể mình như thế. Nếu cô muốn cô ấy chữa lành khỏi điều này, thì hãy chỉ cho cô ấy thấy tất cả những yếu đuối và thiếu sót trong cô, và cho phép bản thân cô khóc cho cô ấy và cho chính mình. Như thế cô ấy mới có động lực làm theo y như vậy.”
Tôi tiếp tục giải thích rằng ung thư của em gái cô chỉ đơn thuần là một nỗ lực trong vô thức để giữ cho mọi thứ được giữa rịt bên trong, trong đó có thức ăn, chất thải, nỗi giận dữ, sự bực bội, nỗi sợ hãi và các cảm xúc tiêu cực khác nữa. “Vì lý do này,” tôi viết, “để chữa lành ung thư, người ta phải lộn trái bản thân ra và để cho thế giới nhìn thấy những gì mà họ đang muốn trốn tránh (do một cảm giác tội lỗi và nhục nhã giả). Tội lỗi là một cảm xúc hoàn toàn vô lý và không cần thiết vì con người thực ra không có khả năng làm gì sai trái, mặc dù điều này sẽ cực kỳ khó hiểu nếu người ta không nhận được ra bức tranh lớn hơn của mọi vật. Thực ra có thể bạn không bao giờ gây ra vấn đề cho người khác nếu người đó không cho phép hoặc yêu cầu điều đó (một cách vô thức) bằng chỉ thị trực tiếp từ Bản thể Cao hơn (Higher Self) của họ.1 Cảm giác áy náy (về việc không yêu thương hoặc quan tâm đến người chị em song sinh) chứa những năng lượng tiêu cực mạnh mẽ, bắt đầu nghẽn ứ lại và tấn công các tế bào trong chính cơ thể cô ấy. Ung thư là một cách chọn lựa thay thế của cô ấy để phá vỡ tội lỗi trong tim mình - một cách để cô ấy đưa những niềm tin giả trong tiềm thức về những việc làm sai trong quá khứ tới sự chú ý có ý thức.”

1 Mỗi người đều có một Bản thể Cao hơn hướng dẫn sự tồn tại thân xác của họ cho đến chi tiết nhỏ nhất (TG).

Trong suốt những cuộc chuyện trò với các bệnh nhân ung thư, tôi thường đưa ra chủ đề cái chết, điều mà chắc chắn họ sẽ phải đối mặt. Tôi nói với họ rằng họ không thể nào chết đi được; chẳng ai có thể. Cái chết vật lý chỉ là một trải nghiệm hữu hình, có thực đối với người còn sống. Có rất ít hoặc không có sự liên quan nào đối với Bản thể của người mà cơ thể vừa lìa đời. Trên thực tế, họ thậm chí còn chẳng có cảm giác mất mát ở bất kỳ dạng nào, mà họ chỉ cảm nghiệm một sự thấu đạt trong sự mở rộng niềm vui, trí tuệ và tình yêu. Cái chết vật lý không chạm được đến sinh thể ý thức trước đó trú ngụ và tự biểu hiện mình thông qua thân xác. Một con rắn lột bỏ lớp da cũ của mình thì không băn khoăn về cái phần cơ thể đã chết và bị vứt bỏ.
Chừng nào cảm giác về phần “Tôi” của chúng ta vẫn còn, mà điều này vẫn luôn như thế, thì chừng đó cái chết vật lý không thể hủy diệt chúng ta. Trên thực tế, cái chết là một sự phi trải nghiệm, và do đó, là một ảo ảnh chỉ có thực đối với những ai dựa vào những cảm giác vật lý để xác định điều mình tin tưởng. Khi một người thân yêu đột nhiên biến mất khỏi đời sống của chúng ta do cái chết vật lý, lẽ tự nhiên là chúng ta khóc thương cho người đó, rồi buồn bã, hoặc cảm thấy trống vắng trong lòng. Mặc dù nỗi buồn thương này là có thật, lý do cho nó thì không. Sự mất mát một ai đó xảy ra chỉ liên quan đến người quan sát. Chẳng có gì xảy ra với người biến mất cả; anh ta vẫn là anh ta như lúc nào cũng thế, chỉ có điều không ở trong hình hài vật lý mà thôi.
Cá nhân tôi đã trải nghiệm vài lần chết (bước sang thế giới bên kia)1 trong những trận ốm nặng hoặc chấn thương. Trong trận sốt rét thứ ba ở Ấn Độ đầu những năm 1980, tôi đã chết lâm sàng đến hẳn tám phút; tôi trải nghiệm một cách có ý thức cái chết giống như quá trình ra đời, khi bạn đột nhiên được đồng nhất với trạng thái bên trong, trạng thái mở rộng ý thức và niềm vui thuần khiết. Cha tôi có trải nghiệm y vậy, và cả hai chúng tôi đều không cảm thấy mình đang chết. Thực tế là ngược lại: cường độ của trạng thái sống, tỉnh táo và có ý thức về mọi thứ đã được đẩy lên cao hơn nhiều, đến nỗi cảm giác về việc chết mơ hồ xa xôi như những thiên hà xa thẳm. Ngược lại, bị kéo trở về cơ thể vật lý ốm yếu lại giống với việc đang chết hơn. Khi tôi chôn cất mẹ, đó là một ngày lễ mừng, đúng như mẹ muốn. Thay vì cảm thấy tiếc thương cho bản thân chúng ta khi một người thân yêu qua đời, chúng ta thực sự có thể chọn cách vinh danh và cử hành lễ lạt cho một linh hồn đã siêu thoát bằng cách mừng cho họ. Bạn chỉ nên buồn thương một điều là khi mình chết đi về thể xác thì những người thân yêu mình bỏ lại sẽ không thể cảm nhận được niềm vui khó tin của mình cùng tính quảng đại của việc được tự do và sống thực sự.

1 Trong một trận sốt rét ở Ấn Độ, linh hồn hoặc ý thức của tôi tách rời/thoát khỏi cơ thể vật lý và bay lên, trong khi tôi vẫn hoàn toàn nhận thức được mọi thứ xung quanh. Tôi không cảm thấy sợ chết và không cảm thấy bất cứ sự mất mát nào. Tôi ở trong trạng thái sáng suốt khó tin đến nỗi có thể biết bất cứ điều gì mình muốn biết. Một bác sĩ xác nhận là tim tôi đã ngừng đập.Tôi có trải nghiệm tương tự trong một lần bị ngất.Trái tim tôi ngừng đập năm phút trước khi tôi quay về với thể xác của mình (TG).

Không gì trong bản thể, hoặc thuộc về bản thể, lại đi bất cứ đâu khi ai đó trải qua sự chết. “Theo đó,” tôi viết cho người phụ nữ này, “điều quan trọng hơn cả việc tiếp tục sống trong hình hài trần thế của cô ấy chính là liệu cô ấy có thể có được sự bình an với chính bản thân mình hay không, vì cô ấy sẽ mang mọi thứ theo, ngoại trừ xác thịt và thân thể này. Liệu cô ấy có sẵn sàng chấp nhận và biết đánh giá bản thân như vốn có, và nhờ đó chữa lành bản thân khỏi hành động tự hủy hoại trong vô thức ấy, là hoàn toàn tùy thuộc vào cô ấy, và không ai khác có thể hoặc nên đưa ra quyết định thay cho cô ấy. Dù có khó hiểu thế nào thì cô ấy cũng phải chịu trách nhiệm với mọi thứ đang xảy ra với bản thân. Điều duy nhất cô có thể làm cho cô ấy là thể hiện cho cô ấy biết cô là ai và cô cảm thấy thế nào. Điều này có thể chỉ là chất xúc tác cần thiết để cô ấy trải qua sự chuyển biến của chính mình. Bảo cô ấy phải làm cái nọ cái kia gần như chắc chắn không phải là thứ cô ấy cần. Bằng cách tha thứ, và do đó, chữa lành bản thân là cô đã có thể là người trợ thủ đắc lực nhất đối với cô ấy, miễn là cô ấy cũng có điều đó trong lòng và muốn cởi mở, sẵn sàng chữa lành cho chính mình.”
Nếu bạn có một người thân yêu bị ung thư, bạn có thể đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình chữa lành của họ. Bằng cách mở rộng trái tim mình với họ, và chia sẻ nỗi sợ hãi của chính bạn cùng những yếu đuối mà bạn nhận ra trong mình, bạn đã đang khuyến khích họ mở rộng trái tim với bạn. Hãy để người đó nức nở khóc lóc bao nhiêu cũng được, đừng cố dỗ dành và nói với anh ấy rằng: “Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.” Hãy để anh ấy trải nghiệm nỗi đau, nỗi tuyệt vọng, sự bối rối, sự cô độc, sự vô vọng, nỗi tức giận, nỗi sợ hãi, sự dằn vặt hoặc nhục nhã. Ung thư không thực sự tạo ra những cảm xúc này, nhưng nó có thể khơi chúng lên từ dưới đáy sâu của tiềm thức để đưa lên các mức ý thức cao hơn của những cảm xúc và thấu hiểu. Nếu một người bệnh biết mình được quyền có tất cả những cảm xúc này mà không phải giấu bạn hoặc đẩy chúng trở lại chỗ cũ ở bên trong, thì ung thư có thể là một công cụ rất hiệu nghiệm để tự chữa lành. Chỉ cần sát cánh bên người thân và bạn bè mình mà không phán xét hoặc cố gắng lấy đi nỗi đau của anh ấy là bạn đã trở thành một người chữa lành tốt hơn bất cứ bác sĩ nào khác rồi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

Sức mạnh của việc hóa giải xung đột


Xung đột chưa được hóa giải gần như chắc chắn là một điểm khởi đầu cho bất cứ bệnh tật nào, trong đó có ung thư. Cơ thể lúc nào cũng sử dụng đáp ứng stress để đối phó với những hiệu ứng gây tổn thương của xung đột. Theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí Journal of Biological Chemistry ngày 12-3-2007, hoóc môn căng thẳng epinephrine đã thay đổi các tế bào ung thư tuyến tiền liệt và ung thư v_ú theo những cách có thể khiến chúng đề kháng với cái chết tế bào. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra mức epinephrine tăng vọt khi gặp các tình huống căng thẳng và có thể vẫn tiếp tục ở mức cao như thế trong những khoảng thời gian căng thẳng hoặc trầm cảm kéo dài. Họ phát hiện ra khi các tế bào ung thư được tiếp xúc với epinephrine, thì một protein được gọi là BAD, gây ra cái chết tế bào, sẽ không hoạt động nữa. Điều này có nghĩa là các căng thẳng về cảm xúc có thể không chỉ kích hoạt hoặc góp phần gây ra sự phát triển của ung thư, mà còn phá hoại hoặc làm suy giảm tính hiệu quả của việc điều trị.
Giáo sư đại học người Đức, Ryke Geerd Hamer1, bác sĩ y khoa, người thành lập hệ thống Tân Y học Đức (German New Medicine - GNM) đã phát hiện ra từ những đợt chụp cắt lớp vi tính thường kỳ của hơn 20.000 bệnh nhân ung thư rằng mỗi người đều có một thương tổn ở một phần não nào đó, trông như là những cái vòng đồng tâm ở một tấm bia bắn súng hoặc giống với những vòng gợn trên mặt nước khi ném một viên sỏi xuống. Dấu hiệu biến dạng ở não này được gọi là bầy HAMER (HAMER herd). Bác sĩ Hamer sau này phát hiện ra những thương tổn này bắt nguồn từ một trải nghiệm xung đột-sốc, cấp tính-bi kịch và cô lập nghiêm trọng ở bệnh nhân. Bất cứ khi nào xung đột được giải quyết thì hình ảnh cắt lớp thay đổi; phù nề (phù thủng) xuất hiện, và cuối cùng hình thành mô sẹo. Một cách tự nhiên, ung thư sẽ dừng phát triển, trở nên không hoạt động và biến mất.

1 Ryke Geerd Hamer (1935-2017) đã đề xuất một loại y học chữa ung thư thay cho y học chính thống, ông đã từng bị thu chứng chỉ hành nghề y và bị tù vài lần ở Đức và Pháp về tội lừa đảo và hành nghề bất hợp pháp (BBT).

Chỉ cần giúp bệnh nhân giải quyết những xung đột gay gắt của họ và hỗ trợ cơ thể trong suốt giai đoạn chữa lành này, bác sĩ Harmer đã đạt được tỷ lệ thành công cực kỳ cao với liệu pháp điều trị ung thư của mình. Theo báo cáo công khai, sau 4 đến 5 năm được điều trị theo cách đơn giản này, 6.000 trong số 6.500 bệnh nhân bị ung thư gần như đã vào giai đoạn muộn vẫn còn sống.
Khi gặp được công trình của bác sĩ Harmer, tôi kinh ngạc vì cho đến tận lúc đó tôi vẫn cảm thấy hầu như mình đơn độc với niềm tin cả đời rằng ung thư là một cách cần thiết để cơ thể giải quyết một tình trạng thể chất/tinh thần/cảm xúc phi tự nhiên. Lần đầu tiên tôi viết về việc ung thư không phải là bệnh là trong lần xuất bản đầu tiên của cuốn Timeless secrets of Health & Rejuvenation, tận hồi năm 1995. Từ khi bắt đầu làm việc với ung thư vào năm 1981, lúc nào tôi cũng bảo bệnh nhân là cái cần điều trị không phải là ung thư, mà là toàn bộ cơ thể. Có nghiên cứu mới ra đời thực sự ủng hộ điều đó, trong đó có cả lần xuất bản được cập nhật, bổ sung của cuốn Ung thư không phải là bệnh này.
Có bằng chứng rõ ràng cho thấy ung thư cần một vài, ít nhất hai hoặc ba, yếu tố nguy cơ cùng tham gia thì mới có thể phát triển và cho phép bắt đầu quá trình chữa lành. Một trong những đồng yếu tố phổ biến nhất là bức xạ ion hóa, từ việc chụp X quang, chụp tuyến *, chụp cắt lớp máy tính thường ngày, v.v…
Trên thực tế, nghiên cứu đã chỉ ra rằng đến 75% các loại ung thư là do tổn hại bức xạ như thế gây ra, mặc dù phải có ít nhất một đồng yếu tố khác. Điều này có thể xảy ra mà không có bất cứ xung đột tình cảm hay tâm lý nào trước đó, và tôi có thể chứng thực cho điều đó. Tương tự thế, việc thiếu vitamin D triền miên cùng với một hoặc hai đồng yếu tố nữa, như chế độ ăn nhiều chất béo trans, cũng có thể gây ra loại ung thư như ung thư hắc tố. Nếu được phép, ung thư có thể kích hoạt một đáp ứng thải độc mạnh trong cơ thể và rồi biến mất, nhưng nó có thể dễ dàng xuất hiện trở lại nếu người này tiếp tục tránh ánh nắng mặt trời. Tôi cũng làm việc với những chấn thương kiếp trước biểu hiện dưới dạng những tình huống xung đột gay gắt trong kiếp này. Nếu không làm cân bằng được những biến cố cũ, thì có thể Tân Y học Đức cũng chẳng giúp được gì cho một người có bệnh.
Tuy nhiên, dù tôi đánh giá cao công trình sâu sắc và quan điểm của bác sĩ Hamer, giữa chúng tôi vẫn có những khác biệt. Nếu bác sĩ Hamer cổ vũ cho trạng thái sức khỏe tinh thần và thể chất mà công trình của ông có ý đạt đến, thì tôi lại muốn chấp nhận tất cả. Những gì ông ấy ăn và lối sống ông ấy chọn chắc chắn có tác động đến sức khỏe của chính ông. Bởi thế khi ông ấy quan niệm rằng thức ăn không liên quan gì thì tôi thấy có gì đó chưa ổn. Tôi đã từng giúp hàng triệu người lấy lại sức khỏe chỉ nhờ đúng một việc là điều chỉnh chế độ ăn uống. Tuy nhiên, tôi vẫn vui khi thấy có người khác có quan điểm giống hoặc tương tự với mình về ung thư.
Thuốc hóa trị được biết đến là có thể tạo ra nhiều loại ung thư mới hung hãn và phát triển nhanh hơn nhiều so với ung thư không phải do dùng thuốc, nhất là khi các nguyên nhân ngầm ẩn vẫn còn ở đó. Những thuốc này tạo ra nhiều sỏi mật trong các ống mật của gan đến nỗi, nếu không tống sạch chúng đi, thì hệ miễn dịch và khả năng chữa lành của cơ thể sẽ chậm chạp tới mức chỉ những người khỏe mạnh nhất mới có thể sống sót sau một thử thách như vậy. Chẳng phải là kỳ tích gì khi thuốc hóa trị giảm được kích thước khối u, và nó có thể không bao giờ loại bỏ được tất cả các tế bào ung thư, đó là lý do tại sao ung thư tái phát trong quá nhiều trường hợp đến vậy.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực hành Thiền Siêu việt (TM) có thể giảm phần lớn nhu cầu và phí tổn chăm sóc sức khỏe kiểu cũ. Một nghiên cứu trên bệnh nhân cao tuổi đã so sánh các cá nhân trên 65 tuổi thực hành thiền Siêu việt với một nhóm đối chứng đồng đảng, có điểm chung ở tuổi tác, giới tính và các yếu tố khác. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng trong khoảng thời gian hơn năm năm, nhóm thực hành thiền tốn ít hơn 70% tiền chăm sóc sức khỏe so với nhóm đối chứng. Điều này cực kỳ đáng phấn khởi vì nhóm tuổi này chiếm một tỷ lệ chi phí y tế khá lớn so với dân chúng nói chung. Chi phí chăm sóc cao dành cho người già là vấn đề lớn đối với nhiều chính phủ và các công ty bảo hiểm y tế trên khắp thế giới [Herron, R. E. Cavanaugh, K., “Chương trình Thiền Siêu việt có thể giảm chi phí y tế cho người già?”, Nghiên cứu về giảm chi phí theo thời gian ở Canada, Journal of Social Behavior and Personality 2005,17: 415- 442].
Vậy thì tại sao thiền lại có hiệu quả rõ rệt như vậy trong việc giảm nhu cầu can thiệp y tế, thậm chí ở cả những bệnh nhân ốm yếu nhất và dễ tổn thương nhất? Có thể là vì quan niệm phổ biến cho rằng sức khỏe cảm xúc của chúng ta độc lập hoàn toàn với sức khỏe thể chất là sai trầm trọng chăng?

Ung thư là chuyện “không thương lấy mình”


Nhiều bệnh nhân ung thư đã dành cả đời để giúp đỡ và hỗ trợ người khác. Sự phục vụ tận tụy của họ có thể là một phẩm chất đáng quý, tùy vào động lực đằng sau nó. Nếu họ hy sinh và quên cả sự khỏe mạnh của chính mình để tránh đối mặt với nỗi xấu hổ, dằn vặt hoặc cảm giác vô dụng trong lòng, thì thực sự họ đang cắt đi chính chân tay trên người mình. Họ hiến dâng bản thân không vụ lợi cho việc làm hài lòng người khác để mà, đổi lại, họ được yêu quý và được người ta biết ơn vì những đóng góp của mình. Tuy vậy, điều này chẳng khác nào một sự thừa nhận vô thức việc không thương lấy chính mình. Điều này có thể khóa chặt những vấn đề chưa được giải quyết, những nỗi sợ và cảm giác vô dụng trong ký ức tế bào của các cơ quan và mô trong cơ thể.
“Hãy yêu thương hàng xóm như chính bản thân ngươi” là một trong những yêu cầu cơ bản nhất để chữa trị ung thư. Ý nghĩa thực sự của câu này là lòng nhân ái với người khác phụ thuộc vào khả năng yêu thương và biết trân trọng chính bản thân chúng ta. Nói cách khác, để thực sự yêu thương một ai đó mà không có sợi dây ràng buộc và sở hữu, thì ta phải yêu thương và chấp nhận trọn vẹn con người của chính ta với đầy đủ những thói xấu, sai lầm và thiếu sót... có thể có. Mức độ quan tâm đến trạng thái hạnh phúc về thể xác, tâm trí, và tinh thần của chính chúng ta sẽ quyết định mức độ chúng ta có thể chăm sóc người khác. Phê phán bản thân, hoặc không thích vẻ ngoài, lối cư xử hay cảm nhận của mình, thì nghĩa là chúng ta đóng sập trái tim, cảm thấy mình vô giá trị và thấy xấu hổ. Tránh phơi bày mặt tối của mình (một phần bản thể mà chúng ta không thích) với người khác do sợ bị bỏ rơi, chúng ta cố gắng giành lấy tình yêu của người khác bằng cách làm họ hài lòng. Bằng cách này, chúng ta cho rằng mình có thể nhận được tình yêu mà chúng ta không thể trao cho chính mình. Tuy nhiên, lối tiếp cận này có thể không liên quan lắm đến tình yêu thương và không hiệu quả về lâu về dài.
Cơ thể của bạn lúc nào cũng tuân theo những mệnh lệnh từ tâm trí. Những xui khiến nội tâm như suy nghĩ, cảm xúc, cảm nhận, khát khao, niềm tin, động lực, sở thích, và sở ghét đều giống như phần mềm lập trình cho tế bào của bạn mỗi ngày. Thông qua sự kết nối tâm trí/cơ thể, các tế bào của bạn không còn cơ hội nào khác ngoài việc tuân theo mệnh lệnh truyền xuống qua ý thức hoặc tiềm thức. Như nghiên cứu ADN đã chứng minh, bạn thực sự có thể thay đổi cấu trúc di truyền và hành vi của ADN trong một khoảnh khắc. ADN của bạn lắng nghe mọi lời bạn thì thầm với bản thân, và nó cảm thấy mọi cảm xúc mà bạn trải nghiệm. Hơn nữa, nó còn đáp ứng tất cả cảm xúc trong số đó. Bạn lập trình chính bản thân mỗi phút mỗi giây trong ngày, ở cấp độ ý thức và vô thức. Nếu muốn, bạn có thể viết lại chương trình theo ý mình, với điều kiện bạn thực sự tự ý thức về bản thân. Một khi bạn biết mình thực sự là ai, thì bạn không thể nào không yêu mến, chấp nhận và quý trọng chính bản thân mình. Bạn không thể phán xét mình vì những lỗi lầm trong đời, vì không hoàn hảo, vì không phải lúc nào cũng trở thành người mà người khác muốn được nữa. Nhìn nhận bản thân dưới ánh sáng này là bạn gửi đi một tín hiệu yêu thương tới các tế bào của mình. Tác dụng gắn kết của tình yêu thương đã thống nhất những khác biệt và giữ mọi thứ được hài hòa, trong đó có cả các tế bào trong cơ thể bạn. Khi tình yêu, không nên nhầm lẫn nó với nhu cầu yêu thương hoặc sự quyến luyến, không còn là một thực tế được trải nghiệm hằng ngày nữa, thì cơ thể bắt đầu tan rã và trở nên ốm yếu.
Gia tăng tình thương yêu là lý do chính mà chúng ta tồn tại trên Trái đất này. Những người yêu thương bản thân cũng có khả năng yêu thương người khác, và ngược lại. Họ phát triển dựa trên việc chia sẻ hết tấm lòng của mình với người khác, với các động vật khác và với môi trường tự nhiên. Người nào chấp nhận hoàn toàn bản thân mình thì không thực sự sợ hãi cái chết; đến lúc chết, họ sẽ ra đi bình an mà không có bất cứ niềm nuối tiếc hoặc ăn năn hối hận gì trong tim.
Bất cứ khi nào chúng ta đóng cửa trái tim với chính bản thân mình, thì chúng ta sẽ cảm thấy cô độc, cơ thể sẽ bắt đầu trở nên yếu ớt và bệnh tật. Người ta biết rằng những góa phụ và những người xa lánh sự đời, hoặc những người không có ai để chia sẻ những cảm xúc sâu sắc nhất của mình, là những người dễ phát triển ung thư nhất.
Các tế bào của cơ thể bạn là những người hàng xóm thân thiết nhất mà bạn có thể có, và chúng cần phải cảm thấy tình yêu thương và sự chấp nhận bản thân của bạn để biết rằng chúng là một phần trong bạn và rằng bạn quan tâm đến chúng. Tự thưởng cho mình một buổi mát xa tinh dầu, đi ngủ đúng giờ, ăn thức ăn dinh dưỡng và sống có nề nếp lành mạnh là những thông điệp hết sức đơn giản nhưng rõ nét của tình yêu thương, thúc đẩy tế bào của bạn sống hài hòa với nhau. Đó cũng là những thông điệp duy trì hoạt động loại bỏ chất độc hiệu quả và không có một chút khiếm khuyết nào. Chẳng có gì là phi khoa học ở việc này. Bạn có thể đến thăm nhiều bệnh viện và hỏi bệnh nhân liệu họ có cảm thấy hài lòng với cuộc sống của họ trước khi mắc bệnh hay không. Câu trả lời áp đảo là “Không”. Không cần phải là một nhà nghiên cứu y học, bạn sẽ có thể thực hiện một trong những nghiên cứu quan trọng nhất mà bất cứ ai từng thực hiện. Bạn thể nào cũng vấp phải nguyên nhân gây bệnh phổ biến nhất là không yêu thương bản thân hoặc, nói cách khác, không hài lòng về cuộc sống của mình. Không hạnh phúc hay không hài lòng trong cuộc sống có lẽ là dạng stress cảm xúc nghiêm trọng nhất mà bạn có thể đẩy mình vào. Trên thực tế nó là yếu tố nguy cơ lớn đối với nhiều bệnh tật, trong đó có ung thư.
Các nghiên cứu đã cho rằng những căng thẳng cảm xúc có thể làm tăng gấp ba lần nguy cơ ung thư *. Một trăm phụ nữ có khối u * đã được phỏng vấn trước khi họ biết mình bị ung thư *. Một nửa số đó từng phải chịu một chuyện vô cùng đau buồn trong năm năm gần đây, như mất người thân. Tác động của căng thẳng cảm xúc hoặc những bất hạnh có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến chức năng tiêu hóa, bài tiết và miễn dịch, do đó khiến cơ thể nhiễm độc ở mức cực kỳ cao. Chỉ tống khứ ung thư ra khỏi cơ thể bằng những vũ khí hủy diệt hàng loạt thì không thể loại bỏ được những nỗi đau cảm xúc chưa được giải quyết đằng sau nó.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

4. Trí tuệ của cơ thể ra tay hành động


Ung thư không thể giết bạn


Như bất kỳ bệnh nào khác, ung thư không phải là hiện tượng có thể định nghĩa một cách rõ ràng, cũng không phải đột ngột và ngẫu nhiên xuất hiện ở một (số) bộ phận nào đó của cơ thể, như cây nấm trồi lên trên mặt đất. Mà đúng hơn, ung thư là kết quả của nhiều khủng hoảng về chất độc, có ít nhiều tác động hút cạn kiệt năng lượng, theo như nguồn gốc chung của chúng. Chất kích thích, chấn thương tình cảm, cảm xúc bị kìm nén, lối sống không điều độ, mất nước, thiếu hụt dinh dưỡng, ăn quá nhiều, các phản ứng stress, thiếu giấc ngủ sâu, tích tụ kim loại nặng (nhất là từ amalgam1 trong trám răng), tiếp xúc với hóa chất và không đủ ánh sáng mặt trời là những yếu tố ngăn cản cơ thể tự loại bỏ những chất thải trao đổi chất, chất độc và 30 tỷ tế bào chết mỗi ngày. Khi những tế bào chết này tích tụ ở bất cứ bộ phận nào của cơ thể, điều này tự nhiên sẽ dẫn tới phản ứng tiến triển như kích ứng, sưng tấy, xơ cứng, viêm nhiễm, lở loét và phát triển tế bào bất thường. Cũng như bất cứ bệnh nào, ung thư chẳng qua chỉ là sự khủng hoảng độc tính. Nó là nỗ lực cuối cùng của cơ thể để tự thoát khỏi các chất độc bẩn thỉu và các hợp chất có tính axit tích tụ lại do cơ thể đã không thể loại bỏ được chất thải của trao đổi chất, chất độc và tế bào phân hủy.

1 Hợp kim của thủy ngân với các kim loại khác, chắc như xi măng, được gọi là hỗn hống trong tiếng Việt (BBT).
Ung thư luôn biểu hiện như là kết quả của tình trạng nhiễm độc trong cơ thể. Nó không bao giờ là nguyên nhân gây ra bệnh tật, mà đúng hơn là phản ứng đối với một tình trạng thể chất không lành mạnh đã tiến xa. Đối xử với ung thư như thể nó là nguyên nhân gây bệnh cũng giống như việc làm sạch một cái nồi nấu ăn bẩn (cơ thể bị nhiễm độc tố) bằng bùn nhơ (hàng loạt các chất độc hại trong hỗn hợp hóa trị liệu). Chắc chắn, sử dụng các chất độc hại để điều trị cho cơ thể đang vật lộn vì quá tải chất độc sẽ không bao giờ mang lại kết quả mong muốn là một cơ thể thanh sạch, hoạt động tốt. Dĩ nhiên,bạn có thể quăng cái nồi đi và thế là vấn đề được giải quyết. Nhưng khi chuẩn bị bữa ăn mới, bạn sẽ phải đối mặt với vấn đề thậm chí lớn hơn: bạn không có gì để bỏ đồ ăn vào. Tương tự, khi giết chết tế bào ung thư, chúng ta dường như cũng giết luôn bệnh nhân, có thể không ngay lập tức, nhưng từ từ.
Bất chấp những nỗ lực lớn lao và tiền bạc vô kể của các cơ quan y tế (vì bất cứ lý do gì), tỉ lệ tử vong do ung thư không hề giảm trong hơn 50 năm qua. Mặc dù phẫu thuật có thể giúp trung hòa hoặc loại bỏ nhiều chất độc hại được một khối u kiểm soát, và có nhiều ca bệnh cải thiện được tình hình, nhưng cả phẫu thuật lẫn hai biện pháp điều trị chính (xạ trị và hóa trị) đều không loại bỏ được nguyên nhân gây ra ung thư. Những gì xảy ra với Tony Snow cũng có thể xảy ra với những người khác. Bệnh nhân ung thư có thể trở về nhà sau một đợt điều trị thành công, an tâm và rõ ràng đã được chữa khỏi, nhưng vẫn tiếp tục làm cạn kiệt năng lượng cơ thể và tích tụ độc tố như anh ta đã làm trước đây (bằng cách vẫn ăn những thực phẩm có hại như cũ và vẫn sống theo lối tai hại cũ). Hệ miễn dịch, chưa lại sức sau cuộc can thiệp y tế gây thương tổn, có thể không chịu nổi lần thứ hai. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân chết, thì đó không phải vì ung thư, mà vì những nguyên nhân không được điều trị tận gốc. Với tỷ lệ ung thư thuyên giảm rất nhỏ nhờ điều trị y tế (7%), lời hứa của bác sĩ với bệnh nhân ung thư rằng họ sẽ khỏi hoàn toàn bằng cách tiêu diệt khối u chỉ là lừa phỉnh, đó là còn nói nhẹ nhàng. Bệnh nhân hiếm khi được cho biết cái gì biến một tế bào bình thường, khỏe mạnh thành ra suy yếu, hư hỏng, bất thường.
Tế bào khối u là tế bào hoảng loạn do thiếu thức ăn, nước, ôxy và không gian. Tìm cách sống sót là bản năng di truyền cơ bản của nó, cũng như của chúng ta. Để sống sót trong một môi trường axít khắc nghiệt như vậy, những tế bào khiếm khuyết buộc phải đột biến. Chúng bắt đầu nuốt chửng tất cả những gì chúng có thể để duy trì sự sống, kể cả chất độc. Chúng lọc được thêm chất dinh dưỡng, như đường glucose, magiê và canxi, từ dịch mô nhiều hơn nhu cầu của chúng nếu là những tế bào sinh trưởng bình thường. Để sản xuất ra cùng một lượng năng lượng như tế bào bình thường, tế bào ung thư cần lượng đường nhiều gấp 15 lần. Tế bào ung thư cần lên men glucose, đó là phương pháp sản xuất năng lượng tế bào rất không hiệu quả và lãng phí, chẳng khác gì việc đốt nhiên liệu hóa thạch trên hành tinh này. Tuy nhiên, những tế bào lân cận khỏe mạnh hơn, dần dần bị suy yếu trong quá trình này và rồi đến cả một cơ quan trở nên rối loạn chức năng do kiệt quệ, suy dinh dưỡng hoặc bị tiêu phí. Khối u ung thư luôn tìm kiếm thêm năng lượng để phân chia và sinh sôi tế bào. Đường tinh chế là một trong những thực phẩm cung cấp năng lượng ưa thích của chúng. Thèm đường có thể là dấu hiệu cho hoạt động tế bào quá mức, và nhiều người ăn quá nhiều đường cuối cùng có khối u phát triển trong cơ thể.
Dường như điều hiển nhiên là các tế bào ung thư phải chịu trách nhiệm cho cái chết của một người; đấy là lý do chính mà hầu hết phương thức điều trị y tế đều hướng đến việc phá hủy chúng. Tuy nhiên, các tế bào ung thư không phải thủ phạm, giống như động mạch bị tắc không phải là lý do thật sự gây ra bệnh tim. Trong thực tế, các tế bào ung thư giúp cơ thể bị tắc nghẽn nặng sống lâu hơn một chút. Lý do gì khiến hệ miễn dịch phải bỏ qua các tế bào ung thư đang túm tụm lại với nhau để hình thành khối u - những tế bào mà nó có thể dễ dàng tiêu diệt? Lời giải thích hợp lý duy nhất là những tế bào này đang làm một nhiệm vụ quan trọng trong một cơ thể chứa đầy chất thải độc hại.
Tự nhiên đã cung cấp một ví dụ rõ ràng về điều này khi chúng ta xem xét chức năng của nấm mũ độc. Một cây nấm mũ là phần thân mang bào tử của nấm. Bạn sẽ gọi một cây nấm độc như thế là ác hoặc xấu xa chỉ vì nó giết chúng ta nếu chúng ta ăn nó? Không. Sự thật là những cây nấm đó ở trong rừng thu hút và hấp thụ chất độc từ đất, nước và không khí. Chúng là một phần cần thiết cho hệ sinh thái trong thế giới tự nhiên của chúng ta. Mặc dù tác dụng làm sạch của loại nấm này là không đáng kể, nhưng nó cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của khu rừng và của các cư dân tự nhiên ở đó. Thật ra, sự sống của toàn bộ hành tinh này phụ thuộc vào sự tồn tại của nấm mũ.
Tương tự như vậy, các tế bào ung thư không hề ác, mà thực ra, chúng phục vụ một mục đích tốt là hấp thụ một số chất độc trong cơ thể mà nếu không làm thế cơ thể sẽ chết ngay lập tức. Tế bào khỏe mạnh, bình thường không bao giờ chọn cách đầu tiên là đột nhiên trở nên độc hại hoặc ác tính, nhưng chúng buộc phải làm thế khi không còn cách nào khác để tránh cho cơ thể rơi vào một thảm họa tức thì. Nếu cơ thể bị chết, thì đó không phải tại ung thư, mà vì lý do căn bản dẫn đến nó.
Để tiếp tục công việc ngày càng khó khăn của chúng, những tế bào khối u đó cần phát triển, ngay cả khi phải đổi lấy sự tổn hại các tế bào khỏe mạnh khác. Nếu không có hoạt động của chúng, một cơ quan có thể đột ngột mất đi cấu trúc đã suy yếu và suy sụp. Một số tế bào ung thư thậm chí còn rời bỏ khối u và đi vào dịch bạch huyết, dịch này mang chúng đi đến những phần khác của cơ thể cũng đang phải chịu mức độ độc tính cao hoặc nhiễm axít. Sự lan rộng này của các tế bào ung thư gọi là di căn. Tuy nhiên, tế bào ung thư được lập trình để chỉ định cư ở những vùng đất giàu độc tính (tính axít), một môi trường mà chúng có thể sống sót và tiếp tục sứ mệnh giải cứu bất bình thường của mình. Chúng đã đột biến để có thể sống trong môi trường độc hại, thiếu ô xy, nơi chúng giúp trung hòa ít nhất một số chất thải trao đổi chất bị mắc kẹt như axít lactic và mảnh vụn tế bào phân hủy.
Trong những trường hợp này, hệ miễn dịch sẽ mắc sai lầm chết người nếu phá hủy những tế bào bị xa lạ hóa đang thực hiện một phần sống còn trong công việc của hệ miễn dịch. Nếu không có khối u, một lượng lớn chất độc bẩn, tích tụ từ xác tế bào chết đang phân hủy, có thể đục thủng thành mao mạch, lọt vào máu và gây chết người chỉ trong vài giờ hoặc vài ngày. Quan trọng là phải nhớ rằng tế bào ung thư vẫn là tế bào của cơ thể. Nếu chúng không còn cần thiết nữa, một lệnh đơn giản từ ADN có thể bắt chúng ngừng phân chia một cách vô tội vạ.
Khối u không thể giết bất cứ ai (trừ khi chúng làm tắc một đường lưu thông quan trọng). Chúng ta đã chắc chắn rằng tế bào ung thư không chứa thứ vũ khí nào để phá hủy bất cứ thứ gì. Ngoài ra, đại đa số tế bào trong một khối u không phải là tế bào ung thư. Tế bào ung thư không thể hình thành mô; chỉ tế bào khỏe mạnh mới có thể. Một khối u không thể tồn tại nếu không có các tế bào bình thường giữ chúng lại với nhau. Nếu tính ra, thì số tế bào ung thư trong một khối u tuyến tiền liệt hoặc khối u phổi chẳng hạn, cũng chẳng đe dọa mạng sống gì cho lắm.
Khối u hoạt động như miếng bọt biển thấm chất độc lưu thông và tích tụ trong máu, dịch bạch huyết và dịch mô. Những chất độc này mới là ung thư thực sự, và chúng tiếp tục lưu hành nếu như khối u không lọc chúng ra. Khi phá hủy khối u, chúng ta đã giữ lại ung thư thực sự cho tới khi một khối u mới được tạo ra (gọi là tái phát). Bồi thêm chất độc dưới dạng thuốc hóa trị, kháng sinh, chất trấn áp miễn dịch..., ung thư thực sự (gồm các chất độc) tiếp tục lan rộng, trở nên dồn ứ và hung hăng hơn. Khi ta loại bỏ lối thoát duy nhất của những chất độc đó là khối u, ung thư thực sự bắt đầu phá hủy cơ thể. Nói cách khác, điều trị và bỏ mặc không loại bỏ ung thư thực sự (những chất độc) chính là cái giết chết người bệnh. Tế bào ung thư không gây nguy hiểm cho mạng sống của một người, nhưng bất cứ thứ gì tạo ra nó thì có.
Xin được nhắc lại lần nữa, tế bào ung thư ở bên trong khối u là vô hại, cắt bỏ, đốt cháy hay đầu độc một khối u không ngăn được ung thư thực sự tiếp tục lan rộng. Trừ khi ung thư thực sự được giải quyết bằng việc làm sạch cơ thể và phục hồi chức năng tiêu hóa và thải loại bình thường, thì sự phát triển tế bào ung thư vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực chữa lành và sống sót tự nhiên của cơ thể.
Nỗ lực cơ thể bỏ ra để duy trì khối u lớn hơn nhiều so với để loại bỏ nó. Nếu cơ thể không bị buộc sử dụng ung thư như là một trong những chiến thuật sống sót cuối cùng, nó sẽ không chọn phương án cuối cùng này - gọi là cuối cùng bởi vì rất có thể nó đã thất bại ở những nỗ lực sống sót khác. Như đã đề cập trước đó, hầu hết các khối u (90% - 95%) tự xuất hiện và tự biến mất hoàn toàn mà không cần đến bất cứ can thiệp y tế nào. Hàng triệu người sinh sống đi lại bình thường có ung thư trong cơ thể và không bao giờ biết đến chúng. Không có phương pháp điều trị ung thư nào thậm chí sánh được một phần nhỏ với cơ chế chữa lành tự nhiên của cơ thể, mà chúng ta đã gắn mác là bệnh tật. Ung thư không phải là bệnh, nó rất bất thường, nhưng rõ ràng nó là cơ chế sinh tồn, chữa lành và tự vệ rất hiệu quả.
Chúng ta nên cho hệ thống phức tạp và phát triển nhất trong vũ trụ này - cơ thể con người - thêm một chút tin tưởng so với những gì nó nhận được đến giờ, và tin rằng nó biết cách làm công việc của mình một cách hoàn hảo, ngay cả trong tình trạng kinh khủng nhất.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

Cơ thể cố gắng đến tuyệt vọng để sống


Không ai muốn bị tấn công cả; ngay cả những tế bào của cơ thể cũng thế. Các tế bào chỉ rơi vào thế phòng thủ và biến thành ác tính khi chúng cần đảm bảo sự sinh tồn của chính chúng, ít nhất là đến khi nào không thể nữa thì mới thôi. Bệnh tự thuyên giảm khi các tế bào không còn cần phải tự vệ nữa. Giống như mọi loại bệnh khác, ung thư là một cuộc khủng hoảng chất độc, mà khi được phép đi đến tận cuối cuộc hành trình tự nhiên, nó sẽ tự động loại bỏ các triệu chứng của mình.
Trong số 30 tỷ tế bào mà một cơ thể khỏe mạnh thay thế mỗi ngày, có ít nhất 1% là tế bào ung thư. Vậy chẳng lẽ điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta nhất định sẽ bị ung thư? Chắc chắn là không rồi. Những tế bào ung thư là sản phẩm của một đột biến được lập trình, giữ cho hệ miễn dịch của chúng ta cảnh giác, hoạt động tích cực và được kích hoạt.
Mặc dù vậy, tình hình thay đổi khi cơ thể không còn đối phó được nữa với sự hiện diện không dứt của các tế bào mòn hỏng, bị hư hại và bị ung thư do những tác động rút cạn năng lượng. Kết quả là dịch gian bào dần bị tắc nghẽn. Điều này có thể ảnh hưởng đến cả sự vận chuyển chất dinh dưỡng tới tế bào lẫn việc loại bỏ chất thải ra khỏi tế bào. Hệ quả là, một lượng lớn xác tế bào chết bắt đầu phân hủy, để lại một đống các mảnh vụn protein thoái hóa. Để loại bỏ chúng, cơ thể dùng một phần những protein độc hại này để tạo màng nền cho các mạch máu và tống phần còn lại vào các ống bạch huyết, dẫn tới việc nghẽn mạch bạch huyết. Tất cả những điều này làm gián đoạn các quá trình trao đổi chất bình thường và khiến một vài nhóm tế bào trở nên xa lạ đến mức chúng trở nên yếu ớt và tổn thương. Trong số các tế bào này, một phần lớn trải qua đột biến gien và trở nên ác tính. Một khối u ung thư sinh ra, thế là khủng hoảng nhiễm độc đã đạt đến đỉnh điểm.
Nếu áp dụng đúng phương pháp, một khối u to như quả trứng có thể tự teo và biến mất, dù nó ở trong não, dạ dày, * hay buồng trứng. Quá trình chữa trị bắt đầu khi khủng hoảng nhiễm độc dừng lại. Một khủng hoảng nhiễm độc kết thúc khi chúng ta chặn đứng sự rút kiệt năng lượng cơ thể và loại bỏ những chất độc hiện có ra khỏi máu, ống mật, đường tiêu hóa, mạch bạch huyết và các dịch mô. Nếu cơ thể không bị tổn hại nghiêm trọng thì nó hoàn toàn có khả năng tự chăm sóc bản thân mình. Mặt khác, sự can thiệp y tế làm suy giảm khả năng tự thuyên giảm tới gần như bằng ‘không’ vì những tác động trấn áp và làm suy nhược. Chỉ những người nào có thể trạng và ý chí mạnh mẽ mới có thể sống sót sau cuộc điều trị này và chữa lành bản thân.
Hầu hết các loại ung thư đều xảy ra sau khi đã liên tục đưa ra cảnh báo cho cơ thể. Những cảnh báo đó có thể là:
• Đau đầu đến nỗi bạn phải liên tục uống thuốc giảm đau1
• Mệt mỏi khiến bạn liên tục uống cà phê, chè hoặc nước ngọt để giữ đầu óc tỉnh táo
• Lo lắng khiến bạn cố gắng kiểm soát bằng chất nicotin
• Thuốc bạn uống để xua đi những triệu chứng không mong muốn
• Nhức đầu sổ mũi theo mùa nhiều đến nỗi bạn không có thời gian để chúng tự hết và tự khỏi
• Không dành đủ thời gian để thư giãn, cười đùa và tĩnh lặng
• Những xung đột mà bạn vẫn tránh
• Làm ra vẻ rằng bạn lúc nào cũng khỏe mạnh trong khi không phải vậy
• Có nhu cầu muốn làm hài lòng người khác, trong khi cảm thấy vô giá trị và không được họ yêu thương
• Tự ti đến mức lúc nào cũng muốn chứng minh bản thân với người khác
• Tự thưởng cho mình thức ăn để an ủi mỗi khi cảm thấy không xứng đáng

1 Bạn có thể tìm hiểu nguyên nhân gây đau và chuyện gì xảy ra khi bạn kìm hãm cơn đau đó trong Chương 2 trong cuốn Timeless Secret of Health & Reịuvenation (TG).

Tất cả những triệu chứng này và những triệu chứng tương tự như thế đều là những chỉ dấu nguy cơ nghiêm trọng đối với việc phát triển ung thư hoặc các bệnh khác.
Không có sự khác biệt cơ bản nào về sinh lý giữa sự phát triển một cơn cảm lạnh xoàng với sự xuất hiện khối u ung thư. Cả hai đều là nỗ lực của cơ thể nhằm rũ bỏ các chất độc tích tụ, nhưng ở những cấp độ mạnh yếu khác nhau, uống thuốc để loại bỏ nhức đầu sổ mũi hoặc nhiễm trùng đường hô hấp trên, trước khi để cơ thể có cơ hội loại bỏ chất độc tích tụ, có tác động gây ngạt thở nghiêm trọng đối với các tế bào của cơ thể và tác động ức chế lên niềm tin vào giá trị bản thân của bạn. Nó buộc cơ thể giữ lại một lượng lớn chất thải tế bào, các chất có tính axít và có thể là cả các hóa chất độc hại từ thuốc trong dịch mô (mô liên kết) quanh tế bào. Do liên tục phá hoại những nỗ lực tự làm sạch của cơ thể, các tế bào này ngày càng bị chặn đứng nguồn cung cấp ôxy và chất dinh dưỡng. Điều đó thay đổi cơ chế trao đổi chất cơ bản và cuối cùng là tác động đến bản thân phân tử ADN. Rốt lại bạn không còn cảm thấy là chính mình nữa.
Trú ngụ trong nhân của mọi tế bào, ADN sử dụng sáu tỷ gien của nó để chỉ đạo và điều khiển mọi bộ phận và chức năng của cơ thể. Không có đủ nguồn cung dinh dưỡng tối cần thiết, ADN không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thay đổi chương trình di truyền của nó để đảm bảo sự tồn tại của tế bào. Các tế bào đột biến có thể sống sót trong một môi trường đầy chất thải độc hại. Chẳng bao lâu chúng bắt đầu bòn rút chất dinh dưỡng từ các tế bào xung quanh. Để sống sót, các tế bào thiếu dinh dưỡng này cần trải qua đột biến gien, dẫn tới việc ung thư lan rộng hoặc phì đại. Sự phát triển ung thư mang tính kỵ khí, tức là chúng phát triển và tồn tại mà không cần ôxy.
Người đạt giải Nobel, bác sĩ Otto Warburg là một trong những nhà khoa học đầu tiên chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa tế bào bình thường và tế bào ung thư. Cả hai loại đều lấy năng lượng từ glucose, nhưng tế bào bình thường dùng ôxy để kết hợp với glucose, còn tế bào ung thư phân giải glucose mà không cần ôxy, do đó chỉ lấy được 1/15 năng lượng trên một phân tử glucose mà tế bào bình thường tạo ra. Rõ ràng tế bào ung thư đã chọn cách tương đối kém hiệu quả và kém năng suất này vì chúng không thể tiếp cận ôxy được nữa. Các mao mạch cung cấp ôxy cho một nhóm tế bào, hoặc cho mô liên kết xung quanh các tế bào (thường là cả hai), có thể bị tắc nghẽn nghiêm trọng do các tạp chất độc hại, các chất độc như phụ gia thực phẩm, hóa chất, protein dư thừa, hoặc mảnh vỡ tế bào đang phân hủy. Do đó chúng không thể vận chuyển đủ ôxy và chất dinh dưỡng.
Vì nguồn cung ôxy và chất dinh dưỡng của chúng đã bị chặn đứng, nên các tế bào ung thư háo đường một cách vô độ. Điều này có thể giải thích tại sao những người thèm ăn thức ăn ngọt có nguy cơ phát triển ung thư cao hơn, hoặc tại sao các bệnh nhân ung thư thường muốn ăn rất nhiều đường hoặc bánh kẹo. Chất thải chủ yếu từ quá trình phân giải glucose không cần ôxy của các tế bào ung thư là axít lactic, điều đó có thể giải thích tại sao cơ thể của bệnh nhân ung thư lại nhiễm axít, ngược lại cơ thể của người khỏe mạnh lại mang tính kiềm.
Để đối phó với mức axít lactic cao đầy nguy hiểm này và để tìm ra một nguồn năng lượng khác, gan chuyển hóa ngược một phần axít lactic thành glucose. Khi làm điều đó, gan sử dụng 1/5 năng lượng mà một tế bào bình thường có thể rút ra được từ glucose, nhưng nó gấp đến ba lần năng lượng mà một tế bào ung thư có thể lấy ra từ đó. Để nuôi sống tế bào ung thư, cơ thể phải tăng sinh mạch máu mới, đưa ngày càng nhiều đường đến chỗ chúng. Điều đó có nghĩa là càng nhiều tế bào ung thư sinh sôi, thì ngày càng ít năng lượng còn lại cho tế bào bình thường; do đó dẫn đến tình trạng thèm đường. Trong một cơ thể nhiễm độc, nồng độ của cả ôxy và năng lượng có xu hướng tụt xuống rất thấp. Điều đó tạo ra một môi trường mà ung thư có thể lan rộng dễ dàng. Nếu các chất độc và nguồn thức ăn của ung thư không bị triệt tiêu, và mức ôxy tăng mạnh, thì quá trình trao đổi chất lãng phí đi kèm với ung thư này sẽ trở thành tự duy trì và ung thư có thể lan xa hơn nữa. Dẫu vậy nếu người bệnh có chết thì cũng không phải do ung thư; mà là do các mô cơ thể bị lãng phí và cuối cùng là tình trạng nhiễm axít.
Hiện nay, người ta tin rằng đột biến gien là nguyên nhân chính gây ra ung thư. Nhưng sự thực nó chỉ là một hiệu ứng của nạn đói của tế bào, và chẳng gì hơn là một nỗ lực tuyệt vọng nhưng thường bất thành của cơ thể để sống sót. Điều tương tự xảy ra trong cơ thể một người khi chúng ta sử dụng thuốc kháng sinh để chống lại một đợt nhiễm trùng. Hầu hết các vi khuẩn gây nhiễm trùng đang bị thuốc kháng sinh tấn công đều sẽ chết, nhưng một số vẫn sống sót và tái lập trình hệ gien của chúng rồi trở nên kháng thuốc kháng sinh. Chẳng ai muốn chết, vi khuẩn cũng vậy.
Quy luật tự nhiên đó cũng áp dụng cho cả các tế bào của chúng ta. Ung thư là nỗ lực cuối cùng của cơ thể để sống sót, chứ không phải là nỗ lực tự sát, như hầu hết mọi người vẫn nghĩ. Nếu không có đột biến gien, các tế bào đó trong cơ thể sống trong một môi trường độc hại, yếm khí, đơn giản là sẽ bị nghẹt thở và chết. Tương tự với vi khuẩn bị thuốc kháng sinh tấn công, nhiều tế bào trên thực tế đầu hàng cơn lũ độc chất và chết, nhưng một số tự điều chỉnh để thích nghi được với những thay đổi bất thường trong môi trường tự nhiên của chúng. Những tế bào này biết rằng cuối cùng thì chúng cũng chết, một khi chiến thuật sinh tồn cuối cùng này không giữ được cho cơ thể sống sót.
Để hiểu ung thư và điều trị nó thành công hơn những gì chúng ta đang làm hiện nay, chúng ta có thể phải thay đổi hoàn toàn quan điểm hiện tại về nó. Chúng ta cũng có thể phải đặt ra câu hỏi về mục đích của nó trong cơ thể và tại sao hệ miễn dịch lại không thể ngăn nó lan rộng. Tuyên bố rằng ung thư là một bệnh tự miễn cứ thế phát tác để giết chết cơ thể là chưa thỏa đáng. Một quan niệm như thế (về việc cơ thể cố gắng tự sát) đi ngược lại với những nguyên lý cốt lõi của đời sống vật chất. Sẽ có lý hơn nhiều nếu nói rằng ung thư chẳng là gì ngoài một nỗ lực cuối cùng bấu víu lấy cuộc sống này.
Bằng cách loại bỏ tất cả chất thải dư thừa ra khỏi đường tiêu hóa và bất cứ khối chất độc hại nào ra khỏi các ống mật, mô liên kết, mạch bạch huyết và máu, các tế bào ung thư sẽ không có lựa chọn nào mà buộc phải chết hoặc đảo ngược chương trình di truyền lỗi. Nếu chúng không quá độc hại, thì chắc chắn chúng có thể lại hoàn lương thành tế bào bình thường, khỏe mạnh. Những tế bào kỵ khí và những tế bào bị tổn thương nghiêm trọng ấy không thể tự điều chỉnh mình thích nghi với một môi trường sạch sẽ, đủ khí ôxy nên có lẽ chỉ làm được một việc cuối cùng là chết. Nhờ làm sạch triệt để sỏi và các chất độc khác trong gan và túi mật, sức mạnh tiêu hóa của cơ thể sẽ được cải thiện đáng kể, do đó tăng cường sản sinh các enzyme tiêu hóa. Các enzyme tiêu hóa và trao đổi chất có các tính chất chống ung thư rất mạnh. Khi cơ thể đang được thông tắc thông qua việc tổng vệ sinh cơ thể và được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ, những enzyme mạnh mẽ này có thể dễ dàng tiếp cận với các tế bào của cơ thể. Những tế bào bị tổn thương vĩnh viễn hoặc các phần tử khối u dễ dàng và nhanh chóng được trung hòa và được loại bỏ.
Nhiều người trên thế giới đã chữa khỏi ung thư theo cách này. Một số người ý thức được điều đó vì các khối u được chẩn đoán của họ đã tự teo nhỏ mà không cần bất cứ hình thức điều trị y tế nào, nhưng hầu hết vẫn không bao giờ biết rằng mình đã mắc ung thư vì họ chẳng bao giờ được chẩn đoán. Sau khi trải qua một trận cảm cúm, một tuần ho lên ho xuống, đờm dãi rũ rượi, hoặc vài ngày sốt cao, nhiều người đào thải một lượng lớn chất độc và, cùng với chúng, là mổ khối u. Nghiên cứu ung thư trên các bệnh nhân thập tử nhất sinh ở Trung tâm Ung thư M.D. Anderson ở Houston, bang Texas đã tiết lộ một biện pháp điều trị hứa hẹn để giết các tế bào ung thư bằng cách khiến chúng bị cảm lạnh; tức là tiêm vào khối u một virus gây cảm lạnh. Mặc dù vậy, có thể phải tốn chút thời gian trước khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng một vài cơn cảm lạnh có thể làm được y như thế. Do đó, không cần phải can thiệp vào những cơ chế tự sửa chữa của cơ thể, một người có thể tự thuyên giảm ung thư, dễ dàng và không mấy phiền phức, khó chịu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

Ung thư tuyến tiền liệt


Những phương pháp điều trị đầy rủi ro

Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hơn ba phần tư đàn ông được chẩn đoán ung thư hoặc có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt đã được điều trị quyết liệt, tuy rằng hầu hết ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm và sẽ không bao giờ đe dọa tới mạng sống của một người. Và nhiều biện pháp điều trị quyết liệt này có những tác dụng phụ nghiêm trọng, không kém phần nghiêm trọng trong số đó là chứng đi tiểu không tự chủ được và chứng bất lực. Do đó nghiên cứu này đề nghị phác đồ điều trị khôn ngoan nhất là theo dõi sát sao, tức là ghi nhận mọi diễn biến của bệnh và chỉ điều trị nếu nó tệ đi.
Thêm vào đó, vì các xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) để xác định ung thư tuyến tiền liệt hoặc nguy cơ ung thư hoạt động bằng cách xác định một chỗ viêm cụ thể, mà chỗ viêm đó có thể là do một đống các yếu tố khác, nên những xét nghiệm này nổi tiếng không đáng tin cậy. Các bác sĩ sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt bằng cách đo mức kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt, một chỉ dấu của viêm tuyến tiền liệt. Nhiều bệnh nhân lúc đó được yêu cầu lấy sinh thiết tuyến tiền liệt, thường là để xác định chắc chắn họ không có ung thư. Cần lưu ý rằng những biện pháp sàng lọc và điều trị xâm lấn này khiến bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng hoặc biến chứng sau này, đó là chưa kể đến các siêu khuẩn nguy hiểm ngày càng nhiều trong bệnh viện.
Vậy thì tại sao lại phải chịu rủi ro ấy? Các cơ hội xảy ra là đại đa số những trường hợp này sẽ tự khỏi bệnh.
Thực ra đã có đủ bằng chứng khoa học cho thấy hầu hết ung thư tuyến tiền liệt tự mình biến mất nếu ta cứ để mặc chúng. Một nghiên cứu của Thụy Điển được tiến hành năm 1992 đã phát hiện trong số 223 người đàn ông có ung thư tuyến tiền liệt chớm phát nhưng không chữa trị gì hết, chỉ có 19 người chết trong vòng 10 năm chẩn đoán. Xem xét một phần ba đàn ông ở EC (Cộng đồng châu Âu) mắc ung thư tuyến tiền liệt, chỉ có 1% chết (cũng không nhất thiết do ung thư này), cho nên điều trị bệnh vẫn là một vấn đề còn phải bàn cãi. Điều này đặc biệt đúng khi nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc điều trị không làm giảm tỷ lệ tử vong.
Hơn nữa, tỷ lệ sống sót ở những nhóm được điều trị theo kiểu chỉ theo dõi chờ đợi cao hơn so với nhóm được phẫu thuật tuyến tiền liệt. Trong thủ thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TURP), một ống dài độ 0,6 cm được đẩy vào trong dương vật, ngay dưới đáy bàng quang, và sau đó tuyến tiền liệt sẽ được “nướng” bằng một vòng kim loại nóng. Đây còn lâu mới là một thủ thuật an toàn, một nghiên cứu đã phát hiện một năm sau phẫu thuật, 41% những người này phải mặc bỉm vì mất khả năng kiểm soát đi tiểu mạn tính do bàng quang, và 88% bất lực trong quan hệ tình dục.
Ngay cả thủ thuật sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể có những hậu quả nghiêm trọng. Theo nhiều nghiên cứu, ngày càng có nhiều đàn ông được sàng lọc bằng xét nghiệm PSA chết vì ung thư tuyến tiền liệt hơn so với những người không xét nghiệm. Một bài xã luận trên tạp chí British Medical Journal đã đánh giá giá trị xét nghiệm này với bình luận: “Hiện tại, có một điều chắc chắn về xét nghiệm PSA là nó có hại.” Xét nghiệm PSA dương tính đủ cao thường dẫn đến sinh thiết tuyến tiền liệt- một thủ thuật đau đớn có thể gây chảy máu và nhiễm trùng. Bằng chứng đã cho thấy một số lượng lớn các sinh thiết này là hoàn toàn không cần thiết. Trên thực tế, chúng có thể nguy hiểm đến tính mạng. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm có đến 98.000 người chết do những sơ suất trong khi xét nghiệm y tế, trong đó có xét nghiệm PSA.
Một vấn đề nghiêm trọng khác của các xét nghiệm PSA là chúng có tiếng là không đáng tin cậy. Trong một nghiên cứu năm 2003 do Trung tâm ung thư Memorial Sloan-Kettering ở thành phố New York thực hiện, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng một nửa số đàn ông có mức PSA đủ cao để được đề xuất làm sinh thiết đã có những xét nghiệm theo dõi sau đó cho thấy mức PSA bình thường. Trên thực tế, các bác sĩ ở Trung tâm Nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson (FHCRC) ở Seattle đã ước lượng rằng sàng lọc bằng PSA có thể dẫn đến tỷ lệ chẩn đoán quá mức ở hơn 40% người. Tệ hơn nữa, một nghiên cứu nhức nhối đã phát hiện ra có 15% những người đàn ông cao tuổi có chỉ số PSA được coi là hoàn toàn bình thường lại mắc ung thư tuyến tiền liệt - một số có khối u tương đối phát triển.
Có một xét nghiệm đáng tin hơn nhiều so với PSA. Xét nghiệm ít được biết đến hơn đó là xét nghiệm kháng thể chống chất ác tính trong huyết thanh (AMAS) rất an toàn, không đắt đỏ, và chính xác đến hơn 95% trong việc phát hiện tất cả các loại ung thư. Mức kháng thể chống chất ác tính tăng cao khi có bất cứ tế bào ung thư nào trong cơ thể, và chúng có thể được phát hiện trước nhiều tháng so với các xét nghiệm lâm sàng. Bạn có thể biết thêm thông tin về xét nghiệm AMAS, và các tài liệu khoa học tán thành nó, ở website http://www.oncolabinc.com /.
Nếu những người đàn ông biết cách tránh tích tụ chất độc trong cơ thể, thì có lẽ ung thư tuyến tiền liệt có thể trở thành loại ung thư ít phổ biến nhất và ít nguy hiểm nhất trong mọi loại ung thư. Điều trị quyết liệt cho ung thư tuyến tiền liệt chớm phát là một vấn đề gây tranh cãi, nhưng nó cũng nên là vấn đề tranh cãi cho mọi loại ung thư, ở mọi giai đoạn phát triển, nhất là khi các biện pháp đơn giản như làm sạch các cơ quan thải loại, chế độ ăn uống cân bằng, khử ách tắc và thường xuyên phơi nắng có thể trang bị cho cơ thể những gì cần thiết để tránh khỏi ung thư.
Có một vài liệu pháp điều trị tự nhiên khác cho chứng phì đại tuyến tiền liệt cũng nên biết. Ví dụ tinh chất rễ cây tầm ma (nettle) từng được chứng minh là hiệu quả hơn thuốc men chính thống cho bệnh phì đại tuyến tiền liệt.
Cây óc chó và lựu cũng chứa các hợp chất giúp ức chế tế bào ung thư tuyến tiền liệt, không cho chúng tương tác với testosterone và lan rộng. Tăng lượng hấp thụ omega-3 và hạ thấp mức cholesterol bằng cách thường xuyên tập thể dục và ăn uống lành mạnh cũng rất hiệu quả.
Một liệu pháp thiên nhiên khác hay bị các chuyên gia y tế phản đối, nhưng có thể hữu ích trên vài phương diện. Trước đây, tôi chỉ viết về tác dụng tiêu cực của cà phê, nhưng tôi phải thừa nhận rằng đó không phải là toàn bộ sự thật. Trên thực tế, nó có những lợi ích vô cùng tích cực đến khó tin, đặc biệt đối với đàn ông. Mặc dù uống cà phê có thể gây ra mất nước và nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng khác, nhưng với những người vẫn còn đủ nước, thì cà phê có thể là một vị cứu tinh.
Trong nghiên cứu được thực hiện ở Trường Y tế Công cộng Harvard (HSPH) các nhà khoa học đã cho rằng cà phê (có hay không có caffein) có thể giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt nguy hiểm đến 60%, cũng như tránh một loạt các bệnh tật khác, trong đó có bệnh Parkinson, tiểu đường loại 2, sỏi mật, ung thư gan và xơ gan. Nó cũng được chứng minh là giúp ngăn ngừa ung thư *. Đó là vì nó chứa nhiều hợp chất chống ôxy hóa tự nhiên có thể giảm viêm và điều hòa insulin. Trà xanh cũng có tác dụng tương tự với lượng caffein ít hơn một cốc cà phê trung bình.
Hãy tránh tất cả các thực phẩm từ sữa (trừ bơ không muối). Một nghiên cứu của Harvard công bố năm 1998 đã phát hiện ra nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng đến 50% và gần gấp đôi với ung thư tuyến tiền liệt di căn ở những người đàn ông tiêu thụ nhiều sản phẩm từ sữa. Các nhà nghiên cứu này đã quy trách nhiệm nguy cơ ung thư cao từ việc tiêu thụ sữa cho tổng lượng canxi nạp vào cao. Mức canxi cao ở cơ thể được biết đến là làm tăng nguy cơ ung thư. Một nghiên cứu khác của đại học Harvard, được đăng vào tháng 10-2001, khảo sát lượng hấp thụ sữa ở 20.885 người đàn ông và nhận ra những người tiêu thụ nhiều nhất có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 32% so với những người tiêu thụ ít nhất.
Nạp dư thừa lượng canxi có thể gây ra các biến chứng sau:
• Sỏi thận
• Thoái hóa khớp/thấp khớp và thoái hóa mạch máu
• Canxi hóa mô mềm
• Cao huyết áp và đột quỵ
• Lượng cholesterol VLDL tăng
• Rối loạn tiêu hóa
• Rối loạn tâm trạng và trầm cảm
• Mệt mỏi kéo dài
• Thiếu hụt khoáng chất, bao gồm magiê, kẽm, sắt và phốt pho
• Can thiệp vào tác dụng chống ung thư của vitamin D
Về phì đại tuyến tiền liệt
Các thuốc kê đơn cho phì đại tuyến tiền liệt thúc đẩy quá trình chuyển hóa testosterone thành estrogen. Điều này có thể tăng rất nhiều nguy cơ ung thư. Những người đàn ông uống chúng thậm chí còn có bộ ngực nở nang như phụ nữ. Cũng nên cẩn thận với thức ăn có tác dụng giống estrogen, trong đó có các sản phẩm từ đậu nành và các loại khác, mà cả đàn ông và phụ nữ đều được khuyên dùng. Có nhiều cách khác tốt hơn để phòng ngừa phì đại tuyến tiền liệt. Trong một nghiên cứu được đăng trên British Journal of Urology International, các nhà nghiên cứu ở trường Đại học Chicago đã đánh giá kết quả của gần 20 thử nghiệm đối với Permixon, một chiết xuất thương mại của cây cọ rẻ quạt (palmetto). Kết quả vô cùng tích cực, trong đó có cải thiện dòng chảy nước tiểu, giảm tình trạng mót đi tiểu gấp và tiểu đau, cải thiện mức độ trống rỗng của bàng quang, giảm kích thước tuyến tiền liệt sau hai năm và cải thiện rõ rệt chất lượng cuộc sống. Trong một thử nghiệm, chiết xuất cây cọ rẻ quạt cho ra kết quả tích cực tương tự các thứ thuốc, nhưng không có rối loạn chức năng tình dục đi kèm thuốc. Permixon được sản xuất ở châu Âu và chưa có ở Hoa Kỳ, nhưng có các thực phẩm bổ sung khác ở đây cũng hiệu quả tương tự. Hãy tìm hiểu các sản phẩm cho tuyến tiền liệt chứa beta-sitosterol, như “Prostate Care” của Healthy Choice Nutritionals. Thậm chí nó còn hiệu quả hơn cả cây cọ rẻ quạt.
Một nghiên cứu của Trung Quốc cho thấy uống năm cốc trà xanh mỗi ngày có thể làm chậm quá trình phát triển ung thư tuyến tiền liệt. Nghiên cứu này được đăng trực tuyến trên International Journal of Cancer ngày 7-10-2003 (tập 108, số 1, trang 130-135). Nghiên cứu gần đây hơn (nghiên cứu theo thời gian của Trung tâm Y tế Công cộng Nhật Bản, năm 2007) cho thấy đàn ông có thể giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt đến một nửa. Nghiên cứu khác chỉ ra rằng trà đen cũng có lợi ích lớn, trong đó, nó có thể giảm phì đại và ung thư tuyến tiền liệt ở những người đàn ông uống chỉ năm cốc mỗi tuần. Trà đen cũng có thể phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt.
Một liệu pháp vô cùng hiệu quả bao gồm việc uống nước luộc súp lơ đun trong khoảng nửa lít nước, uống một nửa lượng nước này khi đói bụng vào buổi sáng và một nửa còn lại vào chập tối. Lặp lại hằng ngày cho đến khi ung thư hoặc phì đại tuyến tiền liệt khỏi hẳn. Có thể nhận thấy kết quả chuyển biến trong vòng một tuần.
Sản phẩm “Healthy Prostate & Ovary” là hỗn hợp một số thảo dược Trung Quốc và Việt Nam thường được coi là thuốc bổ cải thiện sức khỏe của buồng trứng, tuyến tiền liệt, *, các cơ quan khác và các mô. Nó cũng hỗ trợ thải độc và sản sinh năng lượng, cũng như thúc đẩy cơ chế đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Nó chứa chiết xuất hoàng kỳ (rễ), trạch tả (rễ), trinh nữ hoàng cung (lá), khổ qua (quả), đu đủ (lá), và mãng cầu Xiêm (lá). Rõ ràng là những người đàn ông và phụ nữ Việt Nam uống nước lá trinh nữ hoàng cung hiếm khi mắc các bệnh tật ở hệ thống sinh sản. Ở Hoa Kỳ, sản phẩm này được NutriCology phân phối.
Nếu dương vật xuất hiện vết đỏ, hãy mát xa nó bằng gel tinh chất lô hội hai lần mỗi ngày. Nhiều vấn đề về tuyến tiền liệt là do cặn nước tiểu tắc đọng ở dương vật và biến mất khi dùng gel này. Bạn nên lưu ý kỳ sạch chỗ da bị tấy trong vòng vài ngày.
Với chứng phì đại tuyến tiền liệt, tôi nhiệt tình khuyên bạn nên thực hiện một đợt liên tục làm sạch gan và một hoặc vài đợt làm sạch thận.1

1 Để được Hướng dẫn từng bước, xem trong cuốn sách của tôi: The Amazing Liver and Gallbladder Flush (TG).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

Tại sao hầu hết ung thư đều tự nhiên biến mất


Mọi khủng hoảng chất độc, từ một chứng ung thư phức tạp đến một đợt nhức đầu sổ mũi đơn giản, thực ra là để chữa lành, mà khi được hỗ trợ bằng các biện pháp làm sạch cơ thể, sẽ dẫn đến một sự phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu bị can thiệp bởi các biện pháp ức chế triệu chứng, thì sự phục hồi thường là yểu mệnh này có thể dễ dàng biến thành một tình trạng bệnh mạn tính. Thật không may, các nhà nghiên cứu ung thư đã không dám hoặc không thèm quan tâm đến việc tìm ra một phương thuốc tự nhiên để điều trị ung thư; họ không được đào tạo và không được trả tiền để làm chuyện đó. Thậm chí nếu họ có vô tình vớ được một phương pháp tự nhiên, thì nó chẳng bao giờ được công khai rộng rãi.
Thực ra, đôi khi vẫn có một số bác sĩ và nhà nghiên cứu xuất chúng cố gắng công bố thành công của các biện pháp thay thế trong điều trị ung thư trên các tạp chí y học và khoa học. Những nỗ lực này gần như lúc nào cũng bị phỉ báng là lang băm, mặc cho tỷ lệ thành công đáng kinh ngạc của nhiều người trong số những bác sĩ bị gọi là lang băm ấy. Ví dụ, bác sĩ Robert Good, Chủ tịch Viện Sloan Ketterin, một bệnh viện giảng dạy của Đại học Y Cornell, từng ba lần được đề cử giải Nobel, mặc dù vậy cũng không thể đăng tải được thành tích chữa bệnh không chê vào đâu được của mình, chỉ đơn giản vì nó quá gây tranh cãi và quá đối lập so với quan niệm chính thống.1

1 Lưu ý của biên tập [ở nguyên bản]: Trong khi tác giả biết được công trình của vị bác sĩ này vào năm 2011, thì trên các phương tiện truyền thông công chúng vào thời điểm cuốn sách này phát hành (2016) vẫn không có thông tin gì về vị bác sĩ này. Bổ sung của BBT tiếng Việt: Không rõ vì sao biên tập viên bản tiếng Anh cho rằng không có thông tin gì về bác sĩ Robert Good. Xin đơn cử một ví dụ là tờ New York Times có đăng bài ngày 18-6-2003 đưa tin nhân dịp vị bác sĩ này vừa mới mất ở tuổi 81 (xem https:// www.nytimes.eom/2003/06/18/us/robert-a- ... n-immunol- ogy-dies.html), trong đó có nói ông là cha đẻ của miễn dịch học hiện đại và đi tiên phong trong ghép tủy.

Có thể bạn băn khoăn không biết tại sao lại không có bất cứ nghiên cứu khoa học nào về các liệu pháp điều trị ung thư thay thế được đăng trên các tạp chí y học. Câu trả lời sẽ rõ ràng khi đọc những tuyên bố như tuyên bố năm 1978 của một viên tập viên tạp chí y khoa hàng đầu trả lời đề nghị của bác sĩ Good về việc đăng tải những tìm tòi phát hiện về liệu pháp thay thế: “Ông không thấy đây chẳng qua chỉ là một trò bịp bợm thôi hay sao?” Bạn chỉ có thể tưởng tượn ra phản ứng của cộng đồng y khoa nếu người ta bảo họ rằng nhiều loại ung thư thực sự biến mất mà không cần điều trị gì hết.
Một trong những loại ung thư phổ biến nhất và được điều trị quá đà nhất là ung thư v_ú. Phần đông bác sĩ hoặc không biết hoặc không thông báo cho bệnh nhân của mình biết rằng một trong những dạng ung thư v_ú phổ biến nhất, cacxinoma (u biểu mô) ống tuyến v_ú tại chỗ (DCIS), hiếm khi xâm lấn, không dễ gì phát hiện được và về cơ bản là không có triệu chứng. Do đó không hề ngạc nhiên khi các chẩn đoán DCIS tăng vọt chỉ khi phương pháp chẩn đoán thông qua chụp X quang tuyến * ra đời. DCIS được giải quyết tốt nhất là thông qua theo dõi sát sao và thay đổi lối sống - nhưng chẩn đoán đơn thuần về mối đe dọa này cũng đã đủ để thuyết phục những người phụ nữ cả tin rằng họ chỉ có lựa chọn duy nhất là xạ trị, hóa trị, phẫu thuật quyết liệt, tốn tiền và độc hại cùng với các biện pháp điều trị chính thống khác mà sau này chúng có thể tạo ra thêm cho bệnh nhân các vấn đề mà trước đây không tồn tại.
Trong khi đó, ngành y từ chối phân biệt giữa các dạng ung thư xâm lấn thực sự và DCIS, tiếp tục khăng khăng cho rằng y học chính thống đang cứu sống nhiều mạng người thông qua việc phát hiện sớm và điều trị không cần thiết cho một chứng bệnh thường là vô hại này. Tuy nhiên, không may cho các giới chức y học, có khả năng cao hơn nhiều là tỷ lệ 96% - 98% bệnh nhân DCIS sống sót được 10 năm không phải do tài năng chữa bệnh của họ, mà chỉ đơn giản vì bản chất lành tính của DCIS.
Bác sĩ y khoa Rose Papac, một giáo sư về ung thư ở Trường Y của Đại học Yale, từng chỉ ra rằng hiện nay có rất ít cơ hội để nhìn thấy chuyện gì sẽ xảy ra đối với các loại ung thư nếu để mặc không điều trị ung thư. “Ai cũng cảm thấy buộc phải điều trị ngay tức khắc khi họ thấy những chứng bệnh này,” Papac nói. Ông đã nghiên cứu các ca ung thư tự thuyên giảm. Bị bao vây bởi nỗi sợ hãi, và trong một số trường hợp, còn có cả hoang tưởng về việc tìm ra phương thuốc hiệu nghiệm tức thì cho chứng bệnh đáng sợ này, nhiều người đã không để cho cơ thể của họ có cơ hội tự chữa trị, mà thay vào đó quyết định hủy diệt những gì không cần phải hủy diệt. Đây có thể là một trong những lý do chính khiến hiện tượng tự thuyên giảm chỉ xảy ra ở tương đối ít bệnh nhân ung thư.
Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều năm qua đã báo cáo rằng nhiều vấn đề sức khỏe, như thương hàn, hôn mê, mãn kinh, viêm phổi, thủy đậu và thậm chí xuất huyết, có thể làm lóe lên những đợt thuyên giảm tự phát của ung thư. Tuy nhiên, hiện chưa có những lý giải chính thức về việc những hiện tượng thuyên giảm tự phát liên quan ra sao đến sự biến mất của ung thư. Vì chúng là những hiện tượng không được giải thích, dường như không có cơ sở khoa học, nên chúng không được sử dụng cho nghiên cứu ung thư sâu hơn. Hệ quả là lợi ích của cộng đồng khoa học trong việc phát hiện cơ chế tự chữa lành ung thư của cơ thể vẫn gần như là không có. Những sự chữa lành thần kỳ này dường như xảy ra thường xuyên nhất ở một số dạng ung thư ác tính: ung thư thận, u hắc tố (ung thư da), u lympho (ung thư bạch huyết) và u nguyên bào thần kinh (một loại ung thư tế bào thần kinh ở trẻ sơ sinh).
Hãy nhớ rằng hầu hết các bộ phận cơ thể đều có chức năng thải loại, đó là lý do lại sao các loại ung thư gan, thận, đại tràng, phổi, mạch bạch huyết và da lại có nhiều khả năng biến mất khi những cơ quan và hệ thải loại lớn này không bị quá tải chất độc nữa. Tương tự, các khối u ác tính không phát triển trong một cơ thể khỏe mạnh với các chức năng phòng vệ và sửa chữa còn nguyên vẹn. Chúng chỉ phát triển ở một môi trường đặc thù trong cơ thể, một môi trường khuyến khích và tạo thuận lợi cho sự phát triển của chúng. Làm sạch một môi trường như thế, bằng bất cứ cách nào, có thể tạo ra một khác biệt to lớn đối với việc chữa lành ung thư.
Một khủng hoảng chất độc như viêm phổi hoặc thủy đậu, nếu không bị ức chế hoặc chống trả, thì sẽ loại bỏ một lượng lớn các chất độc và giúp các tế bào được thở thoải mái trở lại. Sốt, đổ mồ hôi, mất máu, tiết dịch nhầy, tiêu chảy và nôn mửa là những kênh bổ sung để chất độc thoát khỏi cơ thể. Sau khi phân rã và loại bỏ chất độc mà không bị cản trở, hệ miễn dịch nhận được một cú hích tự nhiên và vô cùng cần kíp. Kích thích miễn dịch được làm mới lại dựa trên việc giảm toàn diện chất độc trong cơ thể hẳn cũng đủ để đối phó với một khối u ác tính, vốn không còn gây nguy hiểm gì cho sự sống của cơ thể nữa. Những bệnh không mong muốn là thủy đậu, viêm phổi, sốt hoặc các triệu chứng khác thực ra có thể lại là một món quà của Thượng đế (nói theo kiểu phi khoa học) có khả năng cứu tính mạng một người. Nếu từ chối món quà này có thể sẽ mất mạng.
Nhiều người chết một cách không cần thiết vì họ đã bị ngăn cản không đi hết tất cả những giai đoạn của bệnh. Bệnh tật chẳng là gì ngoài những nỗ lực của cơ thể nhằm tạo ra các kênh thoát cho các chất độc bị mắc kẹt. Xử lý dập tắt triệu chứng là chặn đường thoát ra của những chất độc này. Điều đó có thể làm cơ thể tắc thở và ngăn cản các chức năng sống còn của nó. Cơ thể sinh ra đã có xu hướng và khả năng tự chữa lành. Điều trị y tế nên hạn chế trong phạm vi hỗ trợ cơ thể trong nỗ lực này chứ không phải can thiệp vào quá trình đó. Mô hình y tế hiện tại dựa trên sự trấn áp và can thiệp, chứ không phải là hỗ trợ và giúp đỡ. Nguyên tắc này đặc biệt áp dụng cho các chương trình tiêm chủng vắc xin và các yếu tố hiếm khi được xem xét khác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 18 Nov 2023

5. Những nguyên nhân chính gây ung thư


Đời sống nhiều độc hại


Tất cả chúng ta đều biết rằng mình đang sống trong một thế giới ô nhiễm hơn bao giờ hết. Rằng florua trong nước, thủy ngân trong chất trám răng, BPA (bisphenol A) trong các công- ten-nơ, thuốc trừ sâu trong thực phẩm và lối sống ngày càng ít vận động của chúng ta, đều không tốt cho cơ thể chút nào.

Florua
Florua từ lâu đã được tán dương là một phương thuốc cho sâu răng. Nhưng chất độc thần kinh cực mạnh và cũng là chất ô nhiễm công nghiệp này không ích lợi như những lời tuyên truyền của nha khoa trong năm thập kỷ qua. Người Mỹ tốn đến 50 tỷ đô mỗi năm để điều trị sâu răng bằng florua. Một nghiên cứu đã cho rằng lớp bảo vệ bằng florua còn lại trên men răng chỉ dày 6 nanomét - tức là mỏng gấp 10.000 lần một sợi tóc. Lượng florua không đáng kể này cố thực sự bảo vệ men răng hay không vẫn còn là một câu hỏi lớn.
Thêm nữa, chắc chắn là không có bằng chứng cho thấy việc tiêu thụ florua qua đường nước có thể đem đến bất cứ lợi ích nào cho răng của bạn. Florua là chất độc, một khi được tiêu hóa, nó có thể gây ra những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Nó liên quan đến hiện tượng giảm IQ (chỉ số thông minh) ở trẻ và làm tổn hại não. Bốn mươi phần trăm trẻ em Mỹ có dấu hiệu nhiễm flo ở răng, chứng tỏ răng tiếp xúc quá nhiều với chất độc này.
Theo thời gian, florua có thể tích tụ trong các mô cơ thể và dẫn đến những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác, như tăng hấp thu chì, gián đoạn tổng hợp collagen, tăng động và/ hoặc chứng ngủ lịm, rối loạn cơ, viêm khớp, chứng sa sút trí tuệ, rạn xương, suy giảm chức năng tuyến giáp, ức chế hình thành kháng thể, tổn hại gien và gây chết tế bào, rối loạn hệ miễn dịch, vô sinh và thậm chí cả ung thư xương. Một hệ thẩm thấu ngược là cách loại bỏ florua khỏi nước đáng tin cậy nhất cho bạn.
Nguyên nhân thực sự gây sâu răng là thừa mứa axít, được tạo ra từ đường khi nó được vi khuẩn chuyển hóa. Thật thú vị là, có nhiều nơi con người không vệ sinh răng miệng nhưng không hề bị sâu răng, vì họ không ăn quá nhiều đường, trong khi đường lại là thứ phổ biến trong chế độ ăn ở Mỹ, nơi nguồn calo số một là từ xi rô ngô có lượng đường fructose cao.

Hóa chất trong nhà bếp và phòng tắm
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hầu hết phụ nữ mang thai đều có nhiều chất hóa học trong cơ thể, trong đó có một số chất đã bị cấm từ thập niên 1970. Nhiều chất độc trong số này được tìm thấy phổ biến trong các sản phẩm chúng ta sử dụng hằng ngày - trong nhà bếp, phòng tắm, văn phòng, trong thực phẩm, quần áo của chúng ta. Thông qua kết quả phân tích của khoảng 160 hóa chất khác nhau, các nhà khoa học đã phát hiện ra các biphenyl polyclo hóa (PCB), các loại thuốc trừ sâu chứa clo hữu cơ, các hợp chất peclo hóa (PFC), các phenol, các polybrominated diphenyl ether polybrôm hóa (PBDE), các phthalat, các hyđrôcacbon thơm đa vòng (PAH) và peclorat trong máu và mô của gần như mọi phụ nữ được xét nghiệm.
Các biphenyl polyclo hóa (polychlorinated biphenyls - PCB): Chất hóa học công nghiệp này góp phần gây ra ung thư và làm suy giảm sự phát triển não của thai nhi. Mặc dù đã bị cấm ở Mỹ hàng thập kỷ nay, nhưng nó vẫn tiếp tục làm ô nhiễm môi trường.
Nhóm thuốc trừ sâu chứa clo hữu cơ (organochlorine pesticides): Hầu hết là các thuốc diệt côn trùng (trong đó có DDT) phổ biến trong các sản phẩm thông thường hiện nay và trong nguồn cung thực phẩm. Trong cơ thể, chúng phân rã chậm và có thể tích tụ ở các mô mỡ. Chúng có liên quan đến những tổn hại thần kinh, dị tật khi sinh, bệnh Parkinson, bệnh hô hấp, suy giảm chức năng hệ miễn dịch, rối loạn hoóc môn và tất nhiên, cả ung thư.
Các hợp chất peclo hóa (perfluorinated compounds - PFC): Những hóa chất này được dùng trong các dụng cụ nấu ăn chống dính. Nghiên cứu đã chỉ ra sự liên quan của chúng với hiện tượng trẻ sinh ra nhẹ cân, khiến chúng có nguy cơ mắc các vấn đề phát triển.
Các phenol: Những chất này được tìm thấy trong nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân và chất tẩy rửa trong gia đình. Chúng có thể gây hại cho tim, phổi, gan, thận và mắt, cũng như làm rối loạn hệ nội tiết.
Các diphenyl ether polybrôm hóa (polybrominated diphenyl ethers - PBDE): Chúng là những chất phụ gia chống cháy cho nhựa, được sử dụng cho ti vi, máy tính, ghế xô pha và những đồ gia dụng khác. Chúng làm gián đoạn quá trình tiết hoóc môn và cũng có thể tác động tiêu cực đến việc học tập và làm suy giảm trí nhớ.
Các phthalat: Những chất gây rối loạn nội tiết này có trong nhiều sàn nhựa vinyl, chất tẩy rửa, một số loại nhựa, sản phẩm chăm sóc cá nhân như xà phòng, chất khử mùi và keo xịt tóc, túi nhựa và đồ đóng gói thực phẩm, đồ chơi, và thậm chí là cả những túi trữ máu và ống truyền tĩnh mạch.
Các hyđrôcacbon thơm đa vòng (polycyclic aromatic hydrocarbons - PAH): Những chất sinh ung thư rất mạnh này thoát ra khi đốt cháy các chất như xăng dầu hoặc rác thải.
Các peclorat (perchlorates): Những muối lấy từ axít pecloric này được dùng trong công nghiệp quốc phòng và sản xuất pháo hoa. Vì chúng có thể hòa tan trong nước nên nhiều nơi trên thế giới bị ô nhiễm diện rộng. Chúng có thể làm rối loạn việc sản xuất hoóc môn và chức năng tuyến giáp, cũng như kích hoạt những rắc rối trong sự phát triển của bào thai.
Bisphenol A (BPA): Đây là chất gây rối loạn hệ nội tiết, đặc biệt có thể gây tổn hại cho sự phát triển của bào thai. Chúng có trong nhiều loại nhựa, nên càng ngày người tiêu dùng càng ý thức được chúng là một chất độc nguy hiểm. Những năm gần đây, các công ty bắt đầu cung cấp các giải pháp thay thế không có BPA để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm an toàn hơn. Những người ủng hộ sức khỏe thuận tự nhiên cũng đã và đang cảnh báo về styrene, một hóa chất phụ gia dùng trong các sản phẩm như cốc cà phê dùng một lần và hộp xốp đựng thức ăn. Bộ Y tế và Dịch vụ nhân sinh Hoa Kỳ (HHS) từ lâu đã bị ngành hóa chất gây sức ép để lờ đi những nguy hiểm của các chất độc này, chỉ gần đây mới đối mặt với thực tế và đưa chúng vào danh sách các chất sinh ung thư.1

1 http://ntp.niehs.nih.gov/go/roc12 (TG).

Đúng như dự đoán, ngành hóa chất nhanh chóng chỉ trích bước đi này và tuyên bố rằng việc phơi nhiễm với BPA và styrene chẳng có nguy hiểm đáng kể nào. Thậm chí Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cũng không hối thúc công chúng thôi dùng thực phẩm đóng hộp, chai nhựa và hộp đựng thực phẩm bằng nhựa hoặc xốp, dù chúng có chứa những chất sinh ung thư nguy hiểm này.2

2 Lưu ý của biên tập [ở nguyên bản]: Có thể tình hình đã khác hoặc đang chuyển khác ở thời điểm năm 2016.
Mức độ xâm nhập vào môi trường của những chất này thực sự đáng báo động. Một nghiên cứu của Tổ Công tác Môi trường đã kiểm tra các mẫu máu của những đứa trẻ sơ sinh và nhận thấy trung bình có 287 chất độc (trong đó có thủy ngân, thuốc trừ sâu và PFC) trong cơ thể trẻ. Các bào thai, trẻ sơ sinh và trẻ em rất dễ bị ảnh hưởng, điều đó càng góp phần gia tăng tỷ lệ dị tật, hen suyễn, các chứng dị ứng nghiêm trọng đến rối loạn phát triển thần kinh lúc mới sinh.
Natri benzoat
Một hóa chất đặc biệt nguy hiểm khác gần như có ở mọi nơi hiện nay là natri benzoat. Được sử dụng làm một chất bảo quản trong nhiều thứ thực phẩm, nó chính là một chất sinh ung thư, tạo điều kiện phát triển ung thư và giết chết các tế bào khỏe mạnh. Trong khi ở nhiều loại trái cây có thể có axít benzoic tự nhiên ở nồng độ tương đối thấp, thì phiên bản hóa chất này của nó được tổng hợp trong phòng thí nghiệm từ phản ứng của axít benzoic và natri hyđrôxit.
Rủi thay, tình cờ đây cũng là một trong những chất ức chế nấm mốc rẻ nhất và hiệu quả nhất trên thị trường, và đúng như chúng ta dự đoán, FDA khăng khăng cho rằng nồng độ được dùng trong việc bảo quản thực phẩm là an toàn. Thật đáng bất ngờ, chất độc này thậm chí còn xuất hiện ở cả những thức phẩm được gắn mác tự nhiên. Nó đặc biệt nguy hiểm khi kết hợp với vitamin C hoặc E, vì chúng sinh ra benzen, một tác nhân sinh ung thư đã biết. Nó cản trở chất dinh dưỡng và làm các ty thể tế bào mất đi ôxy. Nếu được phép làm tắc nghẽn các mô, nó có thể gây ra bệnh Parkinson, thoái hóa thần kinh và lão hóa sớm. Natri benzoat dù dùng lượng bao nhiêu cũng không an toàn, và chất độc này dần dần tích tụ có thể tăng nguy cơ phát triển ung thư lên rất cao.
Thủy ngân
Một nghiên cứu của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đã phát hiện thủy ngân có trong mọi mẫu cá trên khắp nước Mỹ. Nồng độ thủy ngân tăng cao không chỉ có trong cá, mà còn trong cả những loài động vật khác ăn cá, dù ở những nơi xa xôi trên hành tinh này. Theo CDCP, chỉ cần ăn cá hai lần trở lên mỗi tuần là có thể tăng nồng độ thủy ngân gấp bảy lần so với những người không ăn thường xuyên.
Người ta cũng có thể phơi nhiễm thủy ngân thông qua chất trám răng và vắc xin. Thủy ngân là chất độc thần kinh rất mạnh, không hề an toàn và cần phải tránh càng xa càng tốt. Trẻ em và bào thai đặc biệt dễ tổn thương, và khi phơi nhiễm với thủy ngân, các bé có thể mắc hội chứng chậm phát triển trí tuệ, bại não, điếc và mù. Như nhà thần kinh học nhi khoa ở Maỵo Clinic, bác sĩ Suresh Kotagal đã tổng kết: “Thực sự trẻ em không bao giờ được nhiễm một chút thủy ngân nào.”

Cồn, nhôm và ung thư v_ú
Nguy cơ ung thư v_ú tăng lên là một phản ứng với việc sản xuất estrogen dư thừa, vì estrogen tăng lên trong cơ thể có thể làm tăng nồng độ sắt tự do. sắt bình thường được gắn trong máu (được gọi là transferrin) và tế bào (gọi là ferritin) - tuy nhiên, estrogen tăng cao trong cơ thể (do tiêu thụ đậu nành, một số dược phẩm nhất định, nhiều loại nhựa và chất độc khác, cũng như được sản sinh tự nhiên từ tế bào mỡ) có thể giải phóng sắt khỏi những dạng kết hợp của nó, gây viêm nghiêm trọng và tổn hại các gốc tự do.
Tiêu thụ cồn và hấp thụ nhôm (từ chất khử mùi, vắc xin và đồ hộp thực phẩm,...) cũng có thể gia tăng mức sắt tự do. Một nghiên cứu đã nhận ra cho dù tiêu thụ lượng cồn vừa phải tầm 3 đến 6 cốc rượu mỗi tuần cũng gia tăng nguy cơ ung thư v_ú đến 15%. Những người uống nhiều, khoảng 30 cốc trở lên mỗi tuần làm tăng nguy cơ lên đến 50%. Một trong các nhà nghiên cứu ở đây, James Garbutt, bác sĩ y khoa công tác tại đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, đã nhận xét: “Nghiên cứu này quan trọng ở chỗ nó đã theo dõi các phụ nữ tham gia trong thời gian dài và xác nhận cũng như khẳng định chắc chắn hơn mối quan hệ giữa việc uống rượu và ung thư v_ú. Với một xã hội có nhiều phụ nữ uống rượu như xã hội chúng ta, đây là một phát hiện quan trọng và phụ nữ cần phải biết về nó.”

Lối sống ít vận động có thể giết bạn
Ở phương Tây, lối sống ít vận động phổ biến hơn bao giờ hết. Không phải là chuyện lạ khi người ta cả ngày ngồi bên bàn và cả đêm ngồi trước màn hình ti vi, thay vì tham gia các hoạt động thể chất có ý nghĩa. Các chuyên gia sức khỏe cảnh báo ngày càng nhiều rằng lười vận động có thể nguy hiểm chẳng kém gì hút thuốc. Như bác sĩ tim mạch David Coven công tác ở Trung tâm Bệnh viện St. Luke’s-Roosevelt, New York đã nói: “Hút thuốc chắc chắn là một yếu tố nguy cơ chính cho bệnh tim mạch và ngồi yên một chỗ cũng nguy hiểm chẳng kém.”
Nghiên cứu tìm ra mối quan hệ nhất quán giữa việc lười vận động lâu ngày với vô vàn các vấn đề sức khỏe, như bệnh tim, béo phì, tiểu đường, ung thư và chết non. Tuy nhiên, luyện tập điều độ (như 30 phút đi bộ nhanh) cũng tạo ra điều kỳ diệu trong việc đối phó với những vấn đề này. Nó có thể giúp bạn kiểm soát trọng lượng cơ thể, cũng như giải tỏa căng thẳng, lo lắng và trầm cảm.
Và vấn đề này không chỉ giới hạn ở những người lớn đang làm việc. Trẻ em cũng không vận động đủ, do đó đối mặt với nhiều hệ lụy sớm hơn so với các thế hệ trước. Giữa đống bài tập ngày càng nhiều, trò chơi điện tử và quá nhiều thời gian xem ti vi, trẻ em đang tăng cân ngày càng sớm và tự đưa mình vào những lo toan cả đời về sức khỏe.
Hoạt động dù ít hay nhiều thì cũng còn hơn không. Đi bộ, đạp xe đi làm, hoặc bơi ở hồ bơi. Đừng để lối sống lười vận động của thế giới hiện đại dẫn ta đến các vấn đề sức khỏe đáng lẽ có thể phòng ngừa dễ dàng.

Mặc áo ngực gây hại cho đường thoát của bạch huyết


Có các yếu tố khác ảnh hưởng đến tuyến lưu thông bạch huyết. Thường xuyên mặc áo ngực (xu chiêng) có hại cho sự thông suốt của mạch bạch huyết và có thể gia tăng nhiều nguy cơ phát triển ung thư v_ú. Một số nghiên cứu khác đã xác nhận mối liên hệ này. Năm 1991, C. Hsieh và D. Trichopoulos đã nghiên cứu kích thước v_ú và việc thuận tay trái/phải dưới góc độ là những yếu tố nguy cơ cho ung thư v_ú. Họ lưu ý trong những phát hiện của mình là những phụ nữ tiền mãn kinh không mặc áo ngực có nguy cơ ung thư v_ú ít hơn một nửa so với những người đồng trang lứa thường xuyên mặc [Europen Journal of Cancer, 1991; 27(2):131-5]
Một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí Chronobiology International năm 2000 nói rằng mặc áo lót làm giảm lượng melatonin được sinh ra trong cơ thể và làm tăng nhiệt độ cốt lõi ở sâu trong cơ thể. Melatonin là một chất chống ôxy hóa mạnh và là hoóc môn cải thiện giấc ngủ, chống lão hóa, đẩy mạnh hệ miễn dịch, làm chậm sự phát triển của một số dạng ung thư, trong đó có ung thư v_ú.
Các nghiên cứu toàn diện nhất về chủ đề này được một cặp vợ chồng nhà nhân chủng học y tế ứng dụng là Sydney Ross Singer và Soma Grismaijer tiến hành. Họ là tác giả của cuốn Dressed to kill: the link between breast cancer and bras (Quần áo làm chết người: mối quan hệ giữa ung thư v_ú và áo ngực). Họ đã nhận thấy là những người Maori, dân tộc bản địa ở New Zealand, hòa nhập vào văn hóa phương Tây và bắt đầu thói quen mặc áo ngực, có tỷ lệ ung thư ngang với những người đồng trang lứa ở phương Tây. Mặt khác, những người thổ dân Úc chưa bị Tây hóa, thú vị thay lại gần như không mấy khi bị ung thư v_ú. Điều này cũng đúng với những người Nhật Bản, những người Fiji theo lối sống phương Tây và những phụ nữ ở các nền văn hóa khác đã chuyển sang lề thói mặc áo ngực; và khi đó, tỷ lệ ung thư v_ú của họ tăng vọt.
Đầu thập niên 1990, Singer và Grismaijer đã nghiên cứu thói quen mặc áo ngực ở 4.500 phụ nữ trong năm thành phố rải rác ở nước Mỹ. Họ nhận ra cứ 3 trong 4 phụ nữ mặc áo ngực 24 giờ mỗi ngày mắc ung thư v_ú. Trong số những người chỉ mặc áo ngực hơn 12 giờ mỗi ngày và không mặc khi đi ngủ, chỉ có 1 trong số 7 người mắc. Đây là tỷ lệ hơi cao so với tỷ lệ ung thư v_ú chung là 1 trong 8 người. Nếu so sánh, chỉ có 1 trong số 152 phụ nữ mặc áo ngực ít hơn 12 giờ mỗi ngày là bị ung thư v_ú và chỉ có 1 trong số 168 phụ nữ hiếm khi hoặc không bao giờ mặc áo ngực mắc ung thư v_ú. Nói cách khác, phụ nữ mặc áo ngực 24 giờ mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư v_ú cao gấp 125 lần những người hiếm khi hoặc không bao giờ mặc. Thật thú vị là, những người phụ nữ không mặc áo ngực có tỷ lệ ung thư v_ú bằng tỷ lệ này ở đàn ông!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Dậy thì sớm và ung thư v_ú


Những cô gái ở Hoa Kỳ và các quốc gia hiện đại đang đến tuổi dậy thì rất sớm, và điều đó được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư v_ú của họ. Chỉ mới vài chục năm trước, các dấu hiệu sinh học cho thấy tuổi dậy thì ở nữ giới - bắt đầu có kinh nguyệt, v_ú nở và phát triển lông mu và lông nách - thường xảy ra ở khoảng tuổi 13 hoặc hơn. Và đầu thế kỷ 20, tuổi dậy thì thường là 16 hoặc 17. Ngày nay, ngày càng nhiều bé gái mới chỉ 8 tuổi đã xuất hiện nhiều dấu hiệu trên. Có vẻ như là các cô gái Mỹ gốc Phi đặc biệt nhạy với hiện tượng dậy thì sớm. Hiện nay các bé chỉ 5 đến 6 tuổi là đã có dấu hiệu dậy thì trước tuổi (cũng được gọi là phát dục sớm). Dậy thì sớm khiến các bé gái có nhiều estrogen hơn - một nguy cơ lớn đối với ung thư v_ú do hoóc môn. Theo dữ liệu được nhà sinh học Sandra steingraber công bố, các bé gái có kỳ kinh nguyệt đầu tiên trước 12 tuổi có nguy cơ ung thư v_ú cao hơn 50% so với những bé bắt đầu kỳ kinh nguyệt ở tuổi 16. Theo bà, “Cứ lùi kỳ kinh nguyệt đầu tiên của một bé gái một năm, thì chúng ta có thể phòng ngừa được hàng ngàn ca ung thư v_ú.”
Trong số các nguyên nhân tiềm ẩn cho xu hướng này có tỷ lệ béo phì tăng cao và tính lười hoạt động ở trẻ nhỏ, sữa công thức từ bò và đậu nành dành cho trẻ em, hoóc môn tăng trưởng từ bò thường thấy trong sữa bò, hoóc môn và chất kháng sinh trong thịt bò, và các sản phẩm đậu nành không lên men, như sữa đậu nành và đậu phụ, có tác dụng như estrogen. Tác dụng giống estrogen của đậu nành còn vượt quá cả tác dụng giống estrogen của thuốc ngừa thai từ 4 đến 5 lần. (Xem thêm trong phần “Đậu nành - chất sinh ung thư” ở người dưới đây). Những nguyên nhân khác có thể bao gồm bisphenol A và phthalat (có trong nhiều loại nhựa, như các loại chai hộp đựng đồ ăn thức uống cho trẻ, chai nước và lớp lót thành bên trong lon nước ngọt), những hóa chất nhân tạo khác ảnh hưởng tới cân bằng hoóc môn (như những hóa chất được tìm thấy trong mỹ phẩm, kem đánh răng, dầu gội đầu và chất nhuộm tóc), những căng thẳng ở nhà và ở trường học, việc xem ti vi và sử dụng các phương tiện truyền thông quá nhiều.
Cho trẻ em ăn thức ăn rắn quá sớm cũng có thể tăng nguy cơ béo phì, một yếu tố quan trọng gây nguy cơ phát triển ung thư sau này. Trong một nghiên cứu được đăng trong tạp chí Pediatrics, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng những đứa trẻ được nuôi sữa công thức bắt đầu ăn thức ăn đặc trước bốn tháng có khả năng béo phì trước tuổi lên ba gấp 600% so với những đứa trẻ bắt đầu ăn sau đó.
Nghiên cứu này cũng nhận thấy sự khác biệt dinh dưỡng đáng kinh ngạc giữa sữa mẹ và sữa công thức cho trẻ. Sữa công thức thường chứa nhiều đường tinh chế và thành phần biến đổi gien, và điều đó cũng gia tăng khả năng béo phì ở trẻ lên đến 20%. Quyết định nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ tốt hơn về mặt dinh dưỡng mà kháng thể tự nhiên trong sữa mẹ còn có thể giúp trẻ nhỏ chống nhiễm trùng trong giai đoạn vô cùng dễ tổn thương này.

Bóng đèn huỳnh quang gây ung thư


Nếu bạn thay bóng đèn dây tóc cũ bằng bóng đèn huỳnh quang compact (CFL) để tiết kiệm tiền và sống thân thiện với môi trường, thì bạn nên biết rằng một nghiên cứu của Đức đã phát hiện ra những bóng đèn này chứa các chất sinh ung thư độc hại. Những chất này bao gồm phenol, một chất độc mang tính axít nhẹ từ nhựa than đá (hắc ín), và styrene, một chất hyđrôcacbon dạng lỏng không bão hòa. Những chất độc này có thể sản sinh ra sương mù điện (electrical smog)1 có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe con người.

1 Thuật ngữ chỉ các loại bức xạ điện từ nhân tạo không gây ion hóa, phát ra từ các đồ dùng, thiết bị điện và điện tử thông thường có điện từ trường biến thiên, như điện thoại di động, máy tính, v.v… Với ngụ ý chúng gây ô nhiễm môi trường (BBT).

Do đó, các nhà nghiên cứu khuyên dùng bóng đèn loại này càng ít càng tốt, trong điều kiện được thông gió tốt, và nhất là để chúng cách xa đầu. Giống như những nguồn ánh sáng nhân tạo khác, chúng có thể làm gián đoạn việc sản xuất melatonin trong cơ thể, được biết đến là một yếu tố khác gây ung thư cũng như gây ra chứng đau nửa đầu. Hơn nữa, nếu những bóng đèn này bị vỡ hoặc rạn nứt, chúng có thể rò bụi độc chứa thủy ngân ra ngoài.

Ngộ độc do đường


Chúng ta không nên ngạc nhiên về chuyện tiểu đường là yếu tố then chốt góp phần gây ra ung thư. Trên thực tế, tạp chí Diabetes Care đã đăng vào tháng 5-2011 rằng bệnh tiểu đường có thể làm tăng gần như gấp đôi nguy cơ phát triển một loại ung thư nào đó.
Một nghiên cứu khác gợi ý rằng một đứa trẻ Mỹ bình thường tiêu thụ đến gần hai cân đường mỗi tuần. Thông tin gây sốc này phần lớn là kết quả của cuộc tình nồng nàn của người Mỹ với thức ăn vặt vô bổ, những bữa ăn chế biến sẵn và nước ngọt chứa đường. Và lối sống lan nhanh như bệnh dịch này đang tạo ra nhiều ca tiểu đường mới với tốc độ đáng báo động.
Do đó chẳng cần nói cũng biết phòng tránh tiểu đường là một việc quan trọng thế nào để phòng ngừa ung thư. Hay ho ở chỗ, thần dược được đề cập đến ở đầu cuốn sách này - vitamin D - lại là một cách để làm điều đó. Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm y tế Tufts ở Boston đã phát hiện ra 2.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày trong 12 tuần có thể cải thiện rõ rệt chức năng của tuyến tụy cho những người lớn quá cân ở giai đoạn tiền tiểu đường. Cứ tăng mỗi 5 ng/ml mức vitamin D, thì giảm 8% nguy cơ tiểu đường.
Hơn nữa, nếu bạn có ung thư, điều quan trọng là bạn nên dừng ăn đường tinh chế, được chế biến ngay tức khắc. Đường tinh chế không chứa một chút chất dinh dưỡng cần thiết nào để đồng hóa1 số đường đã được ăn vào. Tiêu thụ những loại đường này đã làm cạn kiệt kho dự trữ chất dinh dưỡng và năng lượng của cơ thể (nếu còn bất cứ chất nào), chẳng còn lại mấy (hoặc chẳng còn lại chút nào) cho các nhiệm vụ khác. Ung thư không bao giờ giết người; chỉ có việc loại bỏ các mô cơ quan mới lấy đi tính mạng. Ung thư và việc loại bỏ đó đi liền với nhau. Ăn đường sẽ nuôi dưỡng các tế bào ung thư trong khi làm tế bào khỏe mạnh đói khát.

1 Đồng hóa (assimilation) là quá trình tổng hợp các chất đơn giản thành các chất phức tạp trong cơ thể, ngược lại với dị hóa (BBT).
Các chất tạo ngọt tự nhiên như stevia và Xylitol không cướp đi nguồn dinh dưỡng và năng lượng của cơ thể. Stevia không có chút calo nào, bởi thế nó không thể làm thức ăn cho các tế bào ung thư. Xylitol chứa calo (ít hơn đường khoảng 40%), nhưng nó đi vào máu rất chậm nên chỉ số đường huyết thực phẩm (glycemic index) của nó cũng thấp hơn nhiều. Nếu ăn vừa phải, Xylitol không gây ra vấn đề gì. Tuy nhiên, cacbohyđrat tinh chế, như pasta, bánh mỳ trắng, bánh ngọt, nhanh chóng được phân giải thành glucose và hoạt động như đường tinh chế. (Lưu ý: cacbohyđrat phức hợp, được tìm thấy trong ngũ cốc nguyên khai và gạo trắng Basmati được vo nước cũng tốt, nhưng tránh hầu hết các loại gạo trắng đánh bóng vì giá trị dinh dưỡng của nó đã bị rút kiệt.)
Rõ ràng là chúng ta nên tránh đồ ăn thức uống chứa nhiều đường, như sô cô la, kem và nước ngọt có ga. Các thực phẩm từ sữa gây tắc nghẽn mạch bạch huyết như sữa, sữa chua và pho mát cũng không có chỗ trong bữa ăn của ai đó đang muốn chữa khỏi ung thư, mặc dù bơ nhạt (không mặn) thì an toàn. Nhắc lại, tế bào ung thư là những tế bào bình thường đã trở thành kỵ khí - chúng bị buộc phải dừng kết hợp với ôxy và lấy chất bổ cũng như năng lượng từ những loại đường như lactose và glucose. Do đó, tránh những thực phẩm chứa chúng là khôn ngoan.

Đậu nành - một chất sinh ung thư ở người?


Ngành thực phẩm, vận hành theo cách tương tự ngành dược, đã thuyết phục được dân chúng rằng đậu nành có ích cho sức khỏe. Đậu nành thậm chí còn được ca ngợi là thức ăn thần kỳ sẽ cứu thế giới khỏi nạn đói. Những người ủng hộ đậu nành tuyên bố nó có thể cung cấp nguồn protein lý tưởng, làm giảm cholesterol, phòng vệ chống ung thư và bệnh tim, làm dịu bớt các triệu chứng mãn kinh và tránh loãng xương. Tuy nhiên, khi bạn nhìn vượt ra khỏi thông tin tuyên truyền, sự thực về đậu nành lại vẽ nên một bức tranh rất khác. Mặc dù đậu nành có hàm lượng dinh dưỡng ấn tượng, nhưng các sản phẩm từ nó về mặt sinh học lại vô ích cho cơ thể, vì những lý do được giải thích dưới đây. Ngày nay, đậu nành được sử dụng trong hàng ngàn sản phẩm thức ăn khác nhau, dẫn đến gia tăng diện rộng bệnh tật ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
Đậu nành chứa một số hợp chất can thiệp vào quá trình hấp thụ vitamin và chất khoáng. Ví dụ, axít phytic trong đậu nành dẫn đến thiếu hụt canxi, magiê, đồng, molipđen, sắt, mangan, và đặc biệt là kẽm trong đường tiêu hóa, cũng như vitamin E, K, D và B12. Người ta cũng ước đoán rằng 100 gram protein đậu nành đã có thể cung cấp đủ lượng estrogen như một viên thuốc tránh thai. Nó cũng chứa haemaglitinin, một chất thúc đẩy tạo huyết khối, gây nguy cơ cao tắc động mạch và đột quỵ.
Với việc đậu nành được trồng ở các trang trại sử dụng thuốc trừ sâu và trừ cỏ độc hại gây ung thư - và nhiều nơi trồng cây biến đổi gen1 - nên càng có nhiều bằng chứng cho thấy đậu nành là một yếu tố nguy hiểm nghiêm trọng với sức khỏe. Thêm nữa, quá trình chế biến đậu nành điển hình thường bao gồm công đoạn rửa bằng axít hạt đậu trong các bể nhôm, do đó nhôm độc hại có thể thấm vào sản phẩm ở mức cao. Ngoài vài sản phẩm ngoại lệ như miso, tempeh2 và các sản phẩm đậu nành được lên men cẩn thận khác, đậu nành không phù hợp cho con người tiêu thụ. Ăn đậu nành, sữa đậu nành và đậu phụ thường xuyên sẽ làm tăng nguy cơ mắc các trọng bệnh. Bên cạnh đó, đậu nành hay gây dị ứng. Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy các sản phẩm từ đậu nành:

1 Ở Hoa Kỳ, 80% đậu nành là từ cây đậu nành biến đổi gien (TG).
2 Miso: một loại gia vị của Nhật Bản rất giống tương Việt Nam. Tempeh là một loại bánh của Indonesia làm từ đậu nành lên men (BBT).



• Gia tăng nguy cơ ung thư v_ú ở phụ nữ, tổn thương não ở cả đàn ông và phụ nữ và những dị tật ở trẻ sơ sinh.
• Góp phần gây rối loạn tuyến giáp, đặc biệt ở phụ nữ.
• Thúc đẩy hình thành sỏi thận (vì dư thừa mức oxalat kết hợp với canxi trong thận).
• Làm yếu hệ miễn dịch.
• Gây ra những chứng dị ứng thực phẩm nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ chết người.
• Giảm nhanh trọng lượng não ở những người lớn tuổi.
Các sản phẩm từ đậu nành chứa:
• Phytoestrogen (isoflavone) genistein và daidzein, những chất này bắt chước và thỉnh thoảng chặn đứng hoóc môn estrogen.
• Axít phytic, làm giảm hấp thụ nhiều vitamin và chất khoáng, trong đó có canxi, magiê, sắt và kẽm và do đó gây thiếu chất khoáng.
Chất kháng dinh dưỡng hoặc chất ức chế enzyme, ức chế những enzyme cần thiết để tiêu hóa protein và hấp thụ axít amin.
• Haemaggluttin (chất làm vón máu), gây vón hồng cầu và ức chế hấp thụ ôxy và tăng trưởng.
• Chất ức chế trypsin, có thể gây phì đại tuyến tụy và cuối cùng là ung thư.
Các phytoestrogen là những tác nhân kháng tuyến giáp rất mạnh, có trong đậu nành với lượng lớn. Trẻ sơ sinh chỉ được nuôi bằng sữa công thức dựa trên đậu nành có hợp chất estrogen trong máu cao gấp 13.000 đến 22.000 lần trẻ em được uống sữa công thức dựa trên sữa bò. số estrogen này tương đương với estrogen trong ít nhất năm viên thuốc tránh thai mỗi ngày. Vì lý do này mà dậy thì sớm ở các bé gái, cũng như chậm phát triển ở bé trai, có liên quan đến việc sử dụng sữa công thức từ đậu nành. Sữa công thức từ đậu nành dành cho trẻ em và sữa đậu nành có liên quan đến bệnh tuyến giáp tự miễn và có thể dẫn tới tử vong.
Năm 2007, một cặp vợ chồng bị kết tội giết người và phải chịu án tù chung thân vì để đứa con 6 tuần tuổi của họ đói đến chết bằng cách cho bé uống sữa đậu nành và nước táo ép. Các chuyên gia về đậu nành lại một lần nữa đang kêu gọi phải dán nhãn mác rõ ràng và đủ thông tin cảnh báo trên tất cả các sản phẩm sữa đậu nành sau sự kiện này và sau khi nhiều đứa trẻ khác phải nhập viện hoặc chết trong những hoàn cảnh tương tự.
Chỉ duy nhất các sản phẩm từ đậu nành như miso, tempeh và natto cung cấp chất dinh dưỡng mà cơ thể hấp thụ dễ dàng và sử dụng được. Để các sản phẩm từ đậu nành giàu dinh dưỡng và lành mạnh, chúng phải được lên men cẩn thận, theo những phương pháp chế biến truyền thống được sử dụng ở Nhật Bản. Thường thì, đậu nành phải được lên men ít nhất qua hai mùa hè, lý tưởng ra là 5 - 6 năm, thì nó mới có lợi cho cơ thể.
Một nghiên cứu trên 700 người Indonesia cao tuổi đã chỉ ra rằng đậu nành lên men đúng cách, như tempeh, miso, natto và giá đậu nành (không biến đổi gien), có ích cho việc cải thiện trí nhớ, đặc biệt ở những đối tượng tham gia trên 68 tuổi. Nghiên cứu cũng chứng thực rằng tiêu thụ nhiều đậu phụ (ít nhất một lần mỗi ngày) sẽ đi kèm với chứng sa sút trí tuệ, nhất là ở những người trên 68 tuổi. Nghiên cứu này được đăng trên Dementia and Geriatric Cognitive Disorders, ngày 27-6- 2008; 26(1):50-57- Nếu bạn muốn tránh chứng sa sút trí tuệ, thì hãy tránh tất cả các món sữa đậu nành đã chế biến, đậu phụ, bánh kẹp đậu nành, kem đậu nành, pho mát đậu nành và những thức ăn vặt linh tinh khác có chứa đậu nành.
Mặc dù có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng đậu nành không lên men là sản phẩm sinh ung thư và cũng làm tổn hại ADN và nhiễm sắc thể, nhưng ngành thực phẩm đậu nành nhiều tỉ đô la vẫn biến thứ thực phẩm phần lớn là vô dụng này thành một trong những thức ăn giàu dinh dưỡng được sử dụng rộng rãi nhất mọi thời đại. Trong một văn bản, phát ngôn viên của công ty Protein Technologies, Inc. nói rằng họ đã có đội ngũ luật sư để nghiền nát những kẻ phản đối, có thể mua các nhà khoa học để đưa ra bằng chứng, sở hữu các kênh truyền hình và báo chí, có thể lèo lái các trường y và thậm chí có thể gây ảnh hưởng tới chính phủ...”
Chuyên gia về lipid và cũng là nhà dinh dưỡng, tiến sĩ Mary Enig giải thích một trong những lý do chính đằng sau cuộc cách mạng đậu nành này. Bà nói: “Nguyên nhân vì sao có quá nhiều đậu nành ở Mỹ đến vậy là họ (ngành đậu nành) bắt đầu trồng đậu nành để chiết xuất dầu và dầu đậu nành đã trở thành một ngành rất lớn. Một khi họ có nhiều dầu để làm nguồn cung thực phẩm, thì họ có nhiều bã protein đậu còn bỏ lại, và bởi lẽ họ chỉ có thể cho gia súc ăn một lượng rất nhỏ, nên họ phải tìm thị trường khác cho nó.” Nói cách khác, con người đã trở thành một thùng chứa rác hiệu quả và được việc cho ngành công nghiệp thực phẩm, trong khi ngành y ngày càng ăn nên làm ra vì được điều trị cho nhiều chứng bệnh do đậu nành gây ra. Điều này không hề khác với việc đổ florua độc hại - một sản phẩm thải nguy hại từ các nhà máy nhôm - vào hệ thống cấp nước đô thị để cứu trẻ khỏi bị mọc răng xấu, kém. Thải loại florua theo cách khác thì cực kỳ tốn kém.
Các loài động vật lên men tự nhiên cho thức ăn trong bụng trước khi hấp thụ chúng có thể phân giải các chất ức chế enzyme có trong đậu nành và rồi sử dụng protein. Không phải tất cả các loại thực phẩm được nuôi trồng trên hành tinh này cũng đều có ích cho con người. Trên thực tế, động vật cư ngụ trên hành tinh này rất lâu trước con người; do đó, hầu hết thức ăn thực ra được tạo ra để nuôi sống và duy trì giới động vật. Gần đây việc bổ sung lượng lớn đậu nành không lên men vào chuỗi thức ăn của con người đã có những hậu quả tai hại cho sức khỏe của hàng triệu con người và sẽ tiếp tục như thế nếu người dân không tự tìm hiểu về những trò bịp bợm của ngành thực phẩm và các cơ quan chính phủ được cho là bảo vệ chúng ta khỏi những hiểm nguy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Tại sao khoai tây chiên có thể gây ung thư


Khoai tây chiên và những thực phẩm giàu cacbohyđrat khác ở dạng rán (chiên), nướng hoặc rang, xào chứa hóa chất acrylamide, được đánh dấu là chất sinh ung thư ở người. Phụ nữ ăn khoảng một suất khoai tây chiên mỗi ngày có thể tăng gấp đôi nguy cơ mắc ung thư buồng trứng và niêm mạc tử cung, theo một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Cancer Epidemiology, Biomarker & Prevention.
Acrylamide được các nhà khoa học Thụy Điển vô tình phát hiện trong thực phẩm vào tháng 4-2002 khi họ tìm thấy một lượng lớn hóa chất trong khoai tây chiên và bánh mì được hâm nóng ở nhiệt độ trên 120 độ C. Trước đó, người ta tin rằng acrylamide chỉ là một hóa chất công nghiệp. Việc sản sinh ra acrylamide trong quá trình đun nóng được chứng minh là rõ ràng phụ thuộc vào nhiệt độ. Nấu quá nhiệt và hâm nóng thức ăn trong lò vi sóng cũng có thể sinh ra một lượng lớn acrylamide. Thức ăn luộc hoặc không được gia nhiệt không chứa acrylamide.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học kiểm tra dữ liệu được Nghiên cứu Đoàn hệ Hà Lan (NLCS) thu thập về chế độ ăn uống và sự xuất hiện ung thư ở 62.573 phụ nữ. Những người
ăn nhiều acrylamide nhất, 40,2 microgram mỗi ngày, có nguy cơ mắc ung thư niêm mạc tử cung cao hơn 29% và nguy cơ ung thư buồng trứng cao hơn 78%. Thật bất ngờ, trong số những người hấp thụ acrylamide nhiều nhất, những phụ nữ không bao giờ hút thuốc có tỷ lệ mắc ung thư niêm mạc tử cung cao hơn 99% và ung thư buồng trứng cao hơn 122%.
Tạp chí Journal of the American Medical Association (JAMA) số ra ngày 15-3-2005 có một bài viết nhan đề “Hấp thụ acrylamide và nguy cơ ung thư v_ú ở phụ nữ Thụy Điển”, của Lorelei A. Mucci, tiến sĩ khoa học (ScD), thạc sĩ Y tế Công cộng (MPH). Đoàn hệ là đối tượng nghiên cứu gồm 43.404 phụ nữ Thụy Điển trong Đoàn hệ Lối sống và sức khỏe Phụ nữ (Women’s Lifestyle and Health Cohort). Nguồn acrylamide lớn nhất mà họ nạp vào người là từ cà phê (54% tổng số acrylamide), khoai tây chiên (12%) và bánh mỳ nướng giòn (9%).

Đèn điện và ung thư


Như đã giải thích bên trên, có một mối liên kết mạnh giữa mức hoóc môn melatonin thấp và ung thư. Theo Russell Reiter, giáo sư sinh học tế bào và kết cấu ở Trường Đại học Texas, melatonin bảo vệ vật chất di truyền để không bị đột biến. Trong một buổi họp ở London, ông phát biểu: “Đèn chiếu sáng ban đêm ức chế việc sản sinh melatonin của cơ thể và do đó có thể gia tăng nguy cơ đột biến liên quan đến ung thư.” Scott Davis, trưởng khoa dịch tễ học ở Đại học Washington đã nói rằng “trong khi mối liên hệ giữa ánh sáng đèn ban đêm và ung thư chỉ giống như một vệt kéo căng trên bề mặt, thì có cả một cơ sở sinh học ngầm bên dưới hỗ trợ điều đó.” Cả Davis và Reiter đều đang nghiên cứu tác động của ánh sáng ban đêm đến việc sản xuất hoóc môn nữ mà đến lượt nó, lại có thể tác động đến nguy cơ ung thư v_ú. “Chúng tôi đã nhận thấy có mối quan hệ giữa ánh sáng điện ban đêm và làm việc ca đêm với nguy cơ ung thư v_ú,” Davis nói. “Các nghiên cứu cho thấy làm việc ban đêm gây gián đoạn hoạt động của melatonin, dẫn tới sản xuất dư thừa hoóc môn ở phụ nữ.”
Việc tiết melatonin kiểm soát chu kỳ thức/ngủ bình thường trong cơ thể đồng thời tác động đến huyết áp, nhiệt độ cơ thể và độ nhạy insulin. Một nguồn phát sáng đơn độc trong giấc ngủ cũng đủ để quấy rối nhịp sinh học ngày đêm vô cùng quan trọng và tác động xấu tới việc sản xuất melatonin. Cơ thể cần 7 đến 9 tiếng ngủ không gián đoạn, không có ánh sáng quấy nhiễu để tự tái tạo bản thân và duy trì sức khỏe tối ưu. Tuân thủ quy tắc đơn giản này có thể cải thiện tình trạng sức khỏe chung và niềm yêu đời của bạn, đó là chưa kể đến việc bạn giảm được nhiều nguy cơ ung thư.
Melatonin, được tiết ra trong khoảng thời gian 9 giờ 30 tối và đạt mức đỉnh vào khoảng 1 giờ sáng, cũng kiểm soát một gien rất mạnh đảm bảo các tế bào không sống quá tuổi thọ bình thường của chúng. Nếu chúng sống lâu hơn dự trù, thì chúng sẽ trở thành ung thư. Thông điệp ở đây là hãy ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi ngày, bắt đầu từ 10 giờ đêm. Hãy tắt hoặc che chắn bất cứ thứ ánh sáng nhân tạo nào xung quanh bạn để tối đa hóa lợi ích của một giấc ngủ ngon.
Bên cạnh đó, như đã đề cập, hãy ra ngoài trời đều đặn mà không sử dụng kính râm hoặc kem chống nắng. Đây là hai biện pháp hiệu quả nhất để điều trị và phòng tránh ung thư. Tia tử ngoại mang tính diệt trùng (UV-C) giết chết các tế bào vi trùng bằng cách làm tổn hại ADN của chúng. Ánh sáng này kích hoạt một phản ứng giữa hai phân tử thymine, là một trong những bazơ tạo thành ADN. Tia tử ngoại ở bước sóng này (UV bước sóng ngắn hoặc UV-C) khiến các phân tử thymine liền kề trên ADN bị dime hóa (nhị trùng hóa). Dime thymine hình thành sau đó rất ổn định. Nếu có đủ những lỗi này tích tụ trong một ADN của vi sinh vật, thì nó sẽ bị ức chế nhân đôi, do đó, trở nên vô hại.
Càng tiếp xúc lâu với tia UV-C, càng hình thành nhiều dime thymine trong ADN. Nếu các quá trình của tế bào bị gián đoạn vì tổn hại ADN, thì tế bào đó không thể thực hiện được chức năng bình thường của nó. Nếu tổn hại này lan rộng, tế bào đó sẽ chết.
Cả UV-C có tính sát trùng lẫn UV-B làm rám nắng cộng với sản sinh vitamin D đều tham dự vào quá trình này. Thú vị là, người ta thường cho rằng dân số ở những nơi khí hậu nóng, tiếp xúc với mặt trời nhiều nhất thì ắt phải có tỷ lệ u hắc tố cao nhất, nhưng thực ra không phải vậy. Như đã lưu ý ở trên, ung thư da xảy ra chủ yếu ở những người sống tại nơi ít được tiếp xúc với mặt trời nhất trên thế giới, ở những người thường xuyên thiếu hụt vitamin D, những người dùng kem chống nắng để bảo vệ làn da của họ, và ở những người chủ yếu sống trong nhà.
Cũng có những thực phẩm nhất định (thực phẩm có tính axít mạnh như chất béo trans từ thức ăn rán, thịt, pho mát tan chảy, khoai tây chiên, nước ngọt có ga, rượu, v.v…) và các hóa chất khi được ăn vào hoặc được bôi lên da dưới dạng kem chống nắng chứa chất sinh ung thư sẽ phản ứng với các tia UV, điều này có thể dẫn đến đáp ứng viêm hoặc đột biến tế bào.
Giả thiết cho rằng chỉ đột biến tế bào thôi cũng có thể dẫn đến ung thư hiện đã bị nghiên cứu bác bỏ. Nó là một yếu tố cần thiết, nhưng trước đó cũng cần có sẵn những thay đổi môi trường tế bào thì đột biến này mới có thể tiến triển tới mức phân bào bất thường và phát triển khối u. Một lần nữa, thật sai lầm và lạc hướng khi tuyên bố rằng mặt trời có thể gây ung thư. Theo quan điểm của tôi, đột biến tế bào là một đáp ứng điều chỉnh sinh học để tế bào có thể sống sót sau khi đã phơi nhiễm với những chất rất độc hại, nguy hiểm và để đối phó với những hiệu ứng hóa học của những căng thẳng cảm xúc và thể chất.
Mặt trời chỉ giúp cho đáp ứng này có khả năng xảy ra, chứ không thể gây ra nó mà không có các đồng yếu tố khác. Thiếu vitamin D và căng thẳng cảm xúc, cả hai đều ức chế hệ miễn dịch, là các đồng yếu tố, và bởi thế thiếu ngủ, đồ ăn vặt vô bổ, thuốc men y tế và tắc nghẽn ống mật trong gan cũng vậy. Ung thư, nếu có xảy ra, cũng là cơ chế chữa lành, chứ không phải là nguyên nhân, của một bệnh. Nếu nó bị trấn áp hoặc bị tấn công và các nguyên nhân gốc rễ vẫn còn đó, thì quá trình chữa lành này sẽ dừng lại và các triệu chứng biến mất hoặc suy giảm - điều này bị hiểu nhầm là bệnh tình thuyên giảm - chỉ để rồi sẽ quay lại và lợi hại hơn xưa. Nếu các đồng yếu tố này được loại bỏ và ung thư được hỗ trợ thông qua các giai đoạn chữa lành khác nhau, thì nó sẽ tự biến mất và không tái phát nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Ô nhiễm không khí và căng thẳng ở thành phố


Như NaturalNews.com thông báo vào tháng 5-2008, một nghiên cứu ở Canada đã chứng minh rằng phụ nữ nào có v_ú chứa từ 25% mô đặc trở lên thì có nguy cơ ung thư v_ú gấp 5 lần so với phụ nữ có v_ú nhiều mỡ hơn. Nghiên cứu này cũng nhận ra ở phụ nữ có v_ú đặc nguy cơ mắc một khối u v_ú được phát hiện trong vòng một năm sau khi chụp X quang tuyến v_ú âm tính nhiều hơn gấp 18 lần.
Nghiên cứu do Bệnh viện Vương phi Grace ở London (Anh) thực hiện năm 2007 và trình bày trước Hội X quang Bắc Mỹ cho thấy phụ nữ sống và làm việc trong các thành phố có nguy cơ mắc ung thư v_ú lớn hơn nhiều so với những phụ nữ sống ở thôn quê. Để xác định lý do của hiện tượng này, các nhà nghiên cứu đã khảo sát mô v_ú của 972 phụ nữ nước Anh ở độ tuổi từ 45 đến 54. Họ phát hiện v_ú của những người sống và làm việc trong các thành phố có mô đặc chiếm 25% trở lên nhiều gấp đôi phụ nữ nông thôn.
Các nhà nghiên cứu đặt ra giả thuyết là có thể dân cư thị thành tăng mật độ v_ú vì các chất độc trong không khí ô nhiễm đã làm gián đoạn hoóc môn. Theo họ, căng thẳng cũng có thể là một yếu tố.
Ở đây, tôi muốn bổ sung là thủ thuật chụp X quang tuyến v_ú được quảng bá mạnh cũng có thể góp phần gây ra ung thư v_ú ở phụ nữ có mô v_ú đặc hơn, vì đã làm tổn thương nó. Mô v_ú mỡ hơn, mềm hơn có thể chống đỡ được tác động tổn thương tiềm tàng của việc sàng lọc này tốt hơn nhiều.
Lò vi sóng


Đã bao giờ bạn từng băn khoăn là vi sóng đã làm gì với nước, với thức ăn và với cơ thể bạn chưa? Các nhà nghiên cứu Nga đã phát hiện ra giá trị dinh dưỡng suy giảm, các hợp chất sinh ung thư và phân ly phóng xạ nguy hiểm cho não trong gần như tất cả các thức ăn được nấu nướng trong lò vi sóng. Theo nghiên cứu này, ăn quá nhiều bữa ăn hâm nóng như thế cũng có thể gây mất trí nhớ và mất tập trung, bất ổn định cảm xúc và suy giảm trí tuệ. Trong khi nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng của thức ăn được nấu trong lò vi sóng, các nhà khoa học Nga này đã phát hiện ra sự suy giảm đáng kể trong trường năng lượng sống của họ. Điều này được ghi nhận trong tới 90% thức ăn được chế biến bằng lò vi sóng.
Bên cạnh đó, các vitamin B complex, C và E liên quan đến việc giảm căng thẳng và phòng tránh ung thư và bệnh tim, cũng như những khoáng chất vi lượng cần thiết cho hoạt động tối ưu của não và cơ thể, bị lò vi sóng biến thành vô dụng, dù chỉ trong khoảng thời gian nấu nướng rất ngắn ngủi. Thức ăn nấu bằng vi sóng bị giảm hàm lượng dinh dưỡng đến mức chẳng khác gì các tấm bìa các tông. Một nghiên cứu đã chứng minh điều này bằng cách so sánh các cây được tưới nước đã qua lò vi sóng với cây tưới nước bình thường; chỉ trong vòng 7 ngày, các cây tưới nước lò vi sóng đã chết.
Nếu bạn không muốn thiếu hụt chất dinh dưỡng, bạn nên loại bỏ thiết bị này khỏi căn bếp nhà mình. Bên cạnh đó, tất cả các lò vi sóng đều có những chỗ rò rỉ không thể tránh khỏi. Do đó, bức xạ tích tụ trong các đồ dùng trong bếp, và chúng lại trở thành nguồn bức xạ.
Sử dụng lò vi sóng để đun nấu thức ăn dẫn đến các chứng rối loạn bạch huyết và làm mất khả năng phòng thủ của cơ thể trước các loại ung thư nhất định. Nghiên cứu này đã nhận thấy tỷ lệ hình thành tế bào ung thư tăng trong máu của những người ăn thức ăn nấu bằng lò vi sóng. Những người Nga này cũng thông báo về tỷ lệ gia tăng ung thư dạ dày và đường ruột, rối loạn tiêu hóa và bài tiết, tỷ lệ phần trăm u tế bào cao hơn, trong đó có cả saccôma (ung thư mô liên kết).
Công nghệ vi sóng lần đầu tiên được sử dụng ở Đức vào thập niên 1930. Đầu chiến tranh thế giới thứ 2, các nhà khoa học Đức đã phát triển một hệ thống ra đa dựa trên vi sóng tạo ra bằng máy móc kỹ thuật. Trong suốt mùa đông lạnh giá khắc nghiệt, những người lính ngồi quây quần bên màn hình ra đa để lấy hơi ấm, nhưng rồi họ mắc ung thư máu.
Sau đó, quân đội Đức bỏ không dùng ra đa nữa. Tuy nhiên, sau khi các nhà khoa học Đức biết rằng vi sóng làm nóng mô cơ thể người, họ nghĩ rằng những sóng này cũng có thể đun nóng thức ăn, thế là họ phát minh ra lò vi sóng để cung cấp cho những người lính Đức những bữa ăn ấm bụng để chiến đấu với Liên Xô. Tuy nhiên, những người lính ăn thức ăn nấu trong lò vi sóng này cũng mắc ung thư máu, giống như những kỹ thuật viên ra đa. Kết quả của phát hiện này là lò vi sóng bị cấm sử dụng trên khắp Đức Quốc xã.
Ngày nay, vi sóng có an toàn hơn 80 năm trước không? Chắc chắn là không rồi vì vẫn là công nghệ ấy. Vi sóng tách rời các liên kết phân tử vốn có tác dụng làm cho thức ăn trở thành những chất giàu dinh dưỡng. Chúng phóng vi sóng tần số cao đun sôi chất ẩm trong thức ăn và bao bì bằng cách lắc các phân tử nước qua lại với tốc độ hơn 1 tỷ lượt đảo chiều mỗi giây. Sự ma sát dữ dội này bẻ gãy các phân tử thức ăn, tái sắp xếp cấu tạo hóa học của chúng thành những cấu hình mới kỳ dị mà cơ thể con người không thể nhận ra đó là thức ăn. Do sự phá hủy cấu tạo phân tử của thức ăn, cơ thể không thể làm gì khác ngoài việc biến thức ăn này thành chất thải - không phải là chất thải vô hại, mà là chất thải hạt nhân.

Những tác dụng phụ khác của việc phơi nhiễm vi sóng:


• Huyết áp cao
• Suy kiệt tuyến thượng thận
• Bệnh tim
• Đau nửa đầu
• Chóng mặt nhẹ
• Mất trí nhớ
• Suy nghĩ lan man rời rạc
• Lo lắng
• Gia tăng cáu bẳn
• Trầm cảm
• Rối loạn giấc ngủ
• Đau dạ dày
• Viêm ruột thùa
• Đục thủy tinh thể
• Rối loạn chú ý
• Tổn hại não
• Rụng tóc
• Rối loạn chức năng sinh sản
Ăn thức ăn bị tổn hại do lò vi sóng có thể dẫn đến một đáp ứng stress đáng kể trong cơ thể, do đó làm thay đổi thành phần hóa học của máu. Ví dụ, ăn rau hữu cơ được nấu nhanh bằng lò vi sóng sẽ khiến mức cholesterol của bạn tăng vọt. Theo nhà khoa học Thụy Sĩ, bác sĩ Hans U. Hertel, “mức cholesterol trong máu ít bị ảnh hưởng bởi lượng cholesterol của thức ăn hơn so với các yếu tố căng thẳng.” Trong khi chính phủ Nga cấm lò vi sóng vào năm 1976 vì một lý do rất hợp lý, thì những thiết bị này đã có một vai trò nổi bật trong bếp ăn hàng ngày của 90% hộ gia đình Mỹ.
Báo cáo cho Forensic Research Document of Agricultural and Resource Economics (Tài liệu nghiên cứu pháp lý về Kinh tế nông nghiệp và tài nguyên - AREC), William P. Kopp viết: “Tác động của phụ phẩm của thức ăn nấu lò vi sóng là dài hạn và vĩnh viễn ở cơ thể con người. Các chất khoáng, vitamin và chất dinh dưỡng của tất cả thức ăn được nấu bằng lò vi sóng bị giảm xuống hoặc thay đổi đến mức cơ thể người thu được rất ít hoặc không thu được lợi ích gì, hoặc cơ thể hấp thụ các chất đã bị thay đổi mà không phân rã được chúng.”
Lò vi sóng biến thức ăn lành mạnh thành chất độc chết người. Hãy nhìn vào nạn dịch ung thư chưa từng có ở nước Mỹ và các nước khác chủ yếu dựa vào lò vi sóng để nấu nướng, thì sẽ là thông minh nếu chúng ta đồng loạt dừng sử dụng chúng.

Mất nước


Ung thư thường xảy ra ở những khu vực mất nước trầm trọng. Nhiều người bị mất nước mà không ý thức được điều đó. Mất nước là tình trạng tế bào không nhận đủ nước cho các quá trình trao đổi chất cơ bản. Các tế bào có thể mất nước vì một số lý do như:
• Thiếu nước nạp vào (uống ít hơn 6 cốc nước lọc mỗi ngày).
• Thường xuyên uống đồ uống có các tác dụng lợi tiểu, như cà phê, trà có caffein, thức uống có ga như nước ngọt có ga, và thức uống có cồn trong đó có bia và rượu.
• Thường xuyên tiêu thụ các đồ ăn có chất kích thích (hoặc chất kích thích) như thịt, gia vị cay, sô cô la, đường, thuốc lá, ma túy, đồ uống có ga, chất tạo ngọt nhân tạo và những thứ tương tự.
• Căng thẳng.
• Uống thuốc dù ít hay nhiều.
• Tập thể dục quá sức.
• Ăn quá nhiều và tăng cân quá mức.
• Xem ti vi quá nhiều mỗi ngày.
Mất nước rõ ràng là đi kèm với cảm giác khát, da khô, nước tiểu sẫm màu hoặc mùi hôi, và mệt mỏi. Tuy nhiên, cũng có nhiều triệu chứng thường bị bỏ qua khác của chứng mất nước mạn tính, như ợ nóng, táo bón, nhiễm trùng đường tiểu, lão hóa sớm, cholesterol cao và tăng cân.
Mất nước làm đặc máu, do đó buộc tế bào phải từ bỏ nước. Nước trong tế bào được dùng để phục hồi độ loãng của máu. Tuy nhiên, để tránh tự tiêu diệt, các tế bào bắt đầu giữ nước, bằng cách tăng độ dày của màng tế bào. Cholesterol, một chất giống như đất sét, bắt đầu bao bọc quanh tế bào, do đó ngăn tế bào mất nước. Mặc dù biện pháp khẩn cấp này trước mắt có thể giữ được nước và cứu sống tế bào nhưng nó cũng giảm khả năng hấp thụ nước mới cũng như những chất dinh dưỡng đang rất cần thiết. Do đó, một phần nước và chất dinh dưỡng mà tế bào không thể hấp thụ sẽ tích tụ trong các mô liên kết xung quanh tế bào, gây ra tình trạng sưng phù cơ thể và giữ nước ở hai ống chân, thận, mặt, mắt, cánh tay và những bộ phận khác. Điều này dẫn tới tăng cân đáng kể. Đồng thời, huyết tương và dịch bạch huyết trở nên đặc và tắc nghẽn. Mất nước cũng ảnh hưởng đến độ lỏng tự nhiên của mật, do đó thúc đẩy hình thành sỏi mật. Tất cả những tác nhân này kết hợp lại đủ để kích hoạt cơ chế sinh tồn là đột biến tế bào.
Trà, cà phê, các thức uống có ga và sô cô la đều có chất độc và chất kích thích thần kinh là caffein. Chất kích thích độc hại này kích thích tuyến thượng thận và, ở một mức nào đó, kích thích nhiều tế bào cơ thể, giải phóng các hoóc môn stress là ađrênalin và cortisol vào dòng máu. Năng lượng đột ngột tăng vọt trong trường hợp này thường được gọi là phản ứng chiến-hay-biến.
Tuy nhiên, nếu tiếp tục tiêu thụ các chất kích thích này đều đặn thì phản ứng phòng vệ tự nhiên này của cơ thể sẽ bị sử dụng quá nhiều và mất hiệu quả. Việc tiết gần như liên tục các hoóc môn stress, vốn là những hợp chất có độc tính cao, cuối cùng cũng làm thay đổi thành phần hóa học của máu và gây tổn hại hệ miễn dịch, hệ nội tiết và hệ thần kinh. Bộ não nguyên sơ không phân biệt những căng thẳng vặt với những tình huống nghiêm trọng chiến-hay-biến, và đáp ứng với cả hai trường hợp bằng cách tiết hoóc môn cortisol, chặn đứng việc tổng hợp protein khi nó chuẩn bị cho cơ thể phản ứng với tác nhân gây căng thẳng. Khi chuyện đó xảy ra thường xuyên, những đáp ứng phòng vệ sẽ bị suy yếu, cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng và các bệnh tật khác hơn, trong đó có cả đột biến tế bào.
Sau khi uống một cốc cà phê, năng lượng trong người tăng vọt không phải trực tiếp do caffein; mà đúng hơn, là do hệ miễn dịch đang cố gắng loại bỏ caffein. Tuy nhiên, một hệ miễn dịch quá phấn khích và bị ức chế cuối cùng cũng không thể nào cung cấp ồ ạt ađrênalin và cortisol đầy năng lượng, cần thiết để giải phóng cơ thể khỏi chất độc thần kinh mang tính axít là caffein này. Ở giai đoạn này, người ta nói rằng họ đang quen với một chất kích thích, như cà phê. Họ có xu hướng tăng liều lượng nạp vào để cảm nhận được tác dụng có lợi. Câu thường nghe: “Tôi thèm một cốc cà phê chết đi được”, phản ánh đúng hiểm họa của tình huống này.
Vì các tế bào cơ thể liên tục phải trao một phần nước của chúng để loại bỏ caffein độc hại cho thần kinh, nên việc uống cà phê, trà, nước ngọt có ga thường xuyên khiến cho họ bị mất nước. Vì cứ uống mỗi cốc trà hoặc cà phê, cơ thể sẽ phải huy động khoảng 2 đến 3 cốc nước chỉ để rửa sạch caffein, một sự xa xỉ mà nó không thể nào đáp ứng nổi. Điều này cũng áp dụng với nước ngọt có ga, dược phẩm hoặc bất cứ vật chất hoặc hành vi nào dẫn đến giải phóng hoóc môn stress, trong đó có cả xem ti vi hàng giờ liền. Theo quy tắc, tất cả các chất kích thích đều có hiệu ứng rút nước mạnh ở mật, máu và dịch vị tiêu hóa. Đối với việc chữa lành ung thư, các chất kích thích này chỉ có hại chứ không có lợi, và tốt nhất là nên tránh xa chúng.
Để ngăn ngừa mất nước, hãy đảm bảo uống 6-8 cốc nước lọc không lạnh mỗi ngày. Cũng nên tránh uống nước vòi hoặc nước đóng chai. Phần lớn trong lượng nước vòi hoặc nước đóng chai ở Mỹ đều chứa asen, clo, nhôm, florua, dư chất thuốc, phụ phẩm sát trùng nước (DBPs), và bisphenol A, một hóa chất độc hại thường được gọi tắt là BPA.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Làm sao tôi có thể bảo vệ bản thân?


Khi nghĩ đến tất cả những cách thức mà cơ thể bị phơi nhiễm chất độc hằng ngày, rất có thể bạn sẽ hoang mang, tuyệt vọng. Tuy nhiên, có nhiều cách để bạn tự bảo vệ bản thân và gia đình mình.
• Nhớ uống thật nhiều nước! Hầu hết mọi người thường không uống đủ nước để giúp cơ thể tự thanh lọc.
• Tẩy sạch gan, đại tràng, thận và túi mật ít nhất một lần một năm.
• Trữ thức ăn trong bình thủy tinh thay vì trong bình nhựa.
• Chỉ sử dụng những sản phẩm làm vệ sinh nguồn gốc thiên nhiên trong nhà bạn. Giấm và dầu cam là những chất tẩy rửa tự nhiên tuyệt vời. Các cửa hàng bán thực phẩm sạch và thậm chí các đại lý trong chuỗi bán lẻ cũng có các sản phẩm tẩy rửa tự nhiên.
• Ăn uống có chọn lọc các sản phẩm hữu cơ và thức ăn chăn thả thường xuyên nhất có thể để tránh thuốc trừ sâu, sản phẩm biến đổi gien, phân bón và hoóc môn tăng trưởng.
• Tránh ăn cá nuôi kiểu đại trà hoặc nuôi trong trang trại, vì chúng thường chứa chất PCB và thủy ngân.
• Cắt hẳn thức ăn chế biến và các phụ gia thực phẩm nhân tạo, trong đó có chất tạo ngọt và mì chính.
• Bỏ hẳn dụng cụ có lớp Teflon chống dính và chọn đồ nấu nướng có chất liệu an toàn hơn như thủy tinh và gốm sứ.
• Kiểm tra nước vòi và lắp đặt máy lọc nước nếu cần thiết (trong đó có cả vòi tắm hoặc bồn tắm).
• Tránh dùng hương liệu tổng hợp, dung dịch thơm xịt phòng nhân tạo, giấy sấy quần áo (dryer sheets), nước làm mềm vải, v.v… Chuyển sang dùng dầu gội, kem đánh răng, lăn khử mùi và mỹ phẩm nguồn gốc thiên nhiên, sử dụng sản phẩm hữu cơ nếu có thể.
• Sử dụng chất xanh, không độc hại thay thế cho sơn và vinyl thông thường trong nhà bất cứ khi nào có thể.
• Từ bỏ hoặc giảm sử dụng thuốc men đến mức tối thiểu, cả thuốc kê đơn lẫn thuốc bán không cần đơn, cũng như vắc xin.
• Tránh thuốc trừ sâu chứa hóa chất và thuốc đuổi côn trùng chứa diethyl(meta)toluamide (DEET).

Nếu bạn bị ung thư, đặc biệt nên tránh những thứ sau:
Nước khử trùng bằng clo: Clo là một trong những hóa chất gây ung thư mạnh nhất, hãy tránh uống nước vòi chưa được lọc, bơi trong bể bơi khử trùng bằng nước clo hoặc tắm vòi hoa sen không có bộ lọc clo. (Bạn hấp thụ clo qua da nhiều hơn là uống nước vòi.)
Florua trong nước uống đô thị: Nó là chất sinh ung thư giống clo. Florua thực sự làm tăng hấp thu nhôm của cơ thể, được cho là tác nhân gây bệnh Alzheimer. Hãy dùng bình lọc nước để loại bỏ florua.
Bức xạ điện từ: Bức xạ điện từ làm nhiễu loạn trường điện từ của chính cơ thể và phá hoại liên lạc cơ bản giữa các tế bào. Hãy loại bỏ tất cả các thiết bị và đồ dùng điện khỏi phòng ngủ, trong đó có chăn điện và đồng hồ báo thức chạy điện. Đặt một hòn đá ion hóa lớn trong, trên, hoặc dưới hộp cầu chì nhà bạn, nhiều tác dụng độc hại của bức xạ điện từ sẽ bị vô hiệu hóa.
Các thiết bị không dây: Phần này được giải thích ở chương 4.
Thuốc trừ sâu và các hóa chất độc hại khác: Được tìm thấy trong các thực phẩm phi hữu cơ, các sản phẩm tẩy rửa thông dụng trong nhà, các sản phẩm làm đẹp trên thị trường, thuốc nhuộm tóc (xem thông tin bên dưới), dầu gội đầu, nước dưỡng da và các sản phẩm chăm sóc cá nhân khác, những thứ này làm quá tải và ức chế hệ miễn dịch khi tất cả năng lượng và nguồn lực của nó phải đổ dồn để chữa lành ung thư. Đặc biệt tránh mỹ phẩm có bazơ nhôm, bột khoáng chứa bitmut, và lăn khử mùi chứa đầy nhôm vốn được biết đến là gia tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer đến 300%!
Chất nhuộm tóc: Việc những người làm tóc có tỷ lệ ung thư v_ú cao nhất trong tất cả các ngành nghề đã thúc giục các nhà nghiên cứu tìm hiểu mối liên kết giữa thuốc nhuộm tóc và ung thư. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã phát hiện ra những phụ nữ dùng thuốc nhuộm tóc ít nhất mỗi tháng một lần thì có khả năng ung thư bàng quang cao gấp đôi so với người không dùng. Nguy cơ này tăng gấp ba khi những phụ nữ này dùng thuốc nhuộm tóc đều đặn trong 15 năm trở lên.
Những nguy cơ này đều như nhau dù họ sử dụng thuốc nhuộm thường xuyên, nửa thường xuyên hay từng lần gội một. Những hóa chất trong các sản phẩm nhuộm tóc trên thị trường thấm vào sọ và đi vào đường máu. Thận lọc chúng ra và chuyển chúng vào bàng quang nơi chúng gây tổn hại tới các tế bào bàng quang, dẫn đến nhiễm trùng bàng quang thường xuyên và đột biến tế bào.
Để tối thiểu hóa nguy hại do thuốc nhuộm tóc, hãy đảm bảo uống đủ nước mỗi ngày cũng như thải độc thận và gan đều đặn. (Xem hướng dẫn trong cuốn The Amazing Liver and Gallbladder Flush). Thêm vào đó, hãy chọn kỹ thuật giấy bạc hoặc highlight, thuốc nhuộm tóc Henna làm từ cây trồng thiên nhiên, hoặc thuốc nhuộm từ thảo dược, như thuốc nhuộm Aveda và Herbatint.
Asen, a-mi-ăng và niken: Những chất này có thể gây ung thư phổi và các loại ung thư khác. Bạn đừng tưởng rằng phải có ai định đầu độc bạn thì bạn mới nhiễm asen. Chỉ cần bạn ăn gà công nghiệp thường xuyên (không phải nuôi chăn thả hữu cơ) là bạn đã có thể nhiễm kha khá asen rồi. Ngành gia cầm chuộng asen bởi vì nó có tác dụng như chất kích thích tăng trưởng rất hiệu quả. Bác sĩ Ellen Silbergeld, một nhà nghiên cứu của Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins, đã bình luận về việc sử dụng hợp chất asen trong chăn nuôi như sau: “Đó là vấn đề mà mọi người đang cố tỏ ra rằng nó không tồn tại.” Nhưng việc phơi nhiễm với asen phi hữu cơ là một yếu tố nguy cơ cho bệnh tiểu đường. Nó cũng được coi là một trong những nguyên nhân về môi trường nổi cộm dẫn đến tử vong do ung thư trên thế giới. Nếu bạn mắc ung thư tuyến tiền liệt, chẳng hạn, hoặc không muốn mắc nó, hãy tránh ăn gà nuôi ở trang trại công nghiệp.
Dù rất bất ngờ, nhưng theo một báo cáo được CBS News và AP đưa tin ngày 9-6-2011, FDA cuối cùng đã thừa nhận rằng thịt gà bán ở Mỹ chứa asen, một chất độc và chất sinh ung thư cực mạnh có thể gây tử vong ở liều lượng cao. Asen gây ung thư đã được cố tình cho vào gà kể từ thập niên 1940. Mặc dù trước đó FDA đã khăng khăng rằng asen chỉ có trong những phần bỏ đi của con gà chứ không phải ở thịt gà, giờ đây cơ quan này đã thay đổi hoàn toàn ngược lại quan điểm đó.
Tất nhiên, bất cứ người tỉnh táo nào cũng biết rằng nếu bạn đưa asen vào cơ thể người khác hoặc vào một con vật, thì chất đó không thể cứ thế mà đi ra ngoài cùng phân; mà nó sẽ thực sự đầu độc người hoặc con vật đó. Chính vì thế mà trước kia người ta dùng asen để hạ độc người. Tôi không tin một chút nào rằng các nhà khoa học của FDA thực sự cho rằng asen vì một lý do thần kỳ nào đó, sẽ trôi tuột qua hệ tiêu hóa của con gà; mà họ biết tỏng ra rằng vì sao nó được cho ăn asen - để giết chết vật ký sinh và khiến gà mau béo hơn. Để chúng lớn nhanh hơn, asen rõ ràng là phải được hấp thụ vào máu và được đưa tới gan. Mặc dầu vậy, FDA tỏ ra ngạc nhiên khi nghiên cứu của họ phát hiện ra có asen trong gan gà.
Về tuyên bố của FDA cho rằng lượng asen tìm thấy trong gà được nuôi công nghiệp vẫn còn an toàn đối với người tiêu thụ, thế thì tại sao thức ăn Roxarsone cho gà chứa asen lại bị dỡ khỏi quầy bán? Roxarsone được sản xuất bởi một công ty con của Pfỉzer là Alpharma LLC, cũng chính công ty này sản xuất vắc xin và các thuốc độc hại khác. Giờ thì việc họ thực sự bị bắt quả tang là từ từ gây bệnh cho người dân một cách hệ thống bằng một chất sinh ung thư nổi tiếng, nên nếu cứ bán sản phẩm này trên thị trường thì thế nào người dân cũng kiện họ vì gây ra ung thư ở những người tiêu dùng thịt gia cầm.
Như mọi khi, các công ty dược phẩm chỉ có lợi khi người dân bị ốm. Gây bệnh và duy trì bệnh tật cho họ là một mánh lới kinh doanh cũ kỹ của họ. Pfizer vẫn bán thành phần asen ở khoảng một tá các nước khác. Người ta vẫn còn phải băn khoăn là liệu họ sẽ tiếp tục làm thế nữa hay thôi.
Trong khi vẫn khăng khăng tuyên bố rằng gà được nuôi bằng asen an toàn cho người tiêu dùng, FDA tiếp tục tấn công các nhà sản xuất thực phẩm và thực phẩm bổ sung như nước quả cây cơm cháy, nước quả sơ ri, và óc chó, mà website của họ cũng như nhãn mác thực phẩm đều đưa ra bằng chứng khoa học chứng minh chúng có lợi ích cụ thể cho sức khỏe. FDA tuyên bố rằng bạn sẽ phạm luật khi nói, ví dụ, mật ong có thể làm sạch nhiễm trùng da, cho dù có rất nhiều nghiên cứu lâm sàng cho rằng mật ong còn làm thế hiệu quả hơn thuốc kháng sinh rất nhiều.
Giờ thì nếu bạn nghĩ ăn hamburger và bít tết bò là không nhiễm asen, thì hãy nghĩ lại đi. Ngày nay người ta toàn cho gia súc ăn những phần bỏ đi của gà nhiễm arsen thôi. Tại sao lại lãng phí tất cả số asen quý giá này cơ chứ? Phương châm ở đây là: “Hãy dùng đi dùng lại, giá sẽ rẻ gấp hai.”
Benzene: Benzene thuộc vào hàng 20 hóa chất được dùng rộng rãi nhất ở nước Mỹ. Nó có thể gây ra ung thư bạch cầu và các loại ung thư khác. Hút thuốc lá và hít khói thuốc bị động đều là những nguồn phơi nhiễm benzene chính.
Formaldehyde: Chất này có thể gây ung thư mũi và phần hầu - mũi. Formaldehyde thường được sử dụng trong sản xuất các hóa chất phức tạp hơn như polyme và nhựa keo (resin). Nhựa keo được sử dụng trong các sản phẩm keo dán, như trong gỗ dán và các sản phẩm thảm. Formaldehyde cũng có trong các sản phẩm giấy lau, như khăn giấy lau mặt, khăn lau bàn hoặc khăn ăn, hoặc khăn mặt cuộn. Hầu hết các vật liệu cách điện, sản phẩm đúc khuôn và sơn cũng chứa các dẫn xuất của formaldehyde.
Chất độc trong thức ăn/môi trường: Nhiều trẻ sơ sinh ra đời đã bị nhiễm độc do mẹ nhiễm độc. Các mẫu máu của trẻ sơ sinh chứa trung bình 287 chất độc, trong đó có thủy ngân, chất làm chậm cháy, thuốc trừ sâu và hóa chất Teflon, theo một nghiên cứu của Tổ Công tác Môi trường (EWG) năm 2004.
Teflon: Hóa chất trong xoong nồi này cũng là chất sinh ung thư. Đừng bao giờ nấu nướng trong nồi niêu xoong chảo có phủ Teflon. Hãy dùng đồ nấu nướng bằng thủy tinh, gang, thép cacbon, titan và tráng men.
Rèm phòng tắm bằng nhựa PVC: Những chiếc rèm này phát ra mùi nặng và có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho gan cũng như hệ thần kinh, hệ sinh sản và hệ hô hấp của bạn. Mùi này đến từ các hóa chất nguy hiểm chết người, trong đó có toluene, ethylbenzene, phenol, methyl isobutyl ketone, xylene, acetophenone và cumene, tất cả những chất này đều được Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) gọi là những chất gây ô nhiễm không khí nguy hiểm. Theo một bài báo của New York Sun, “người ta đã thử nghiệm một trong những cái rèm này và nó đã giải phóng vào không khí một số lượng lên tới 108 hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, một vài chất trong số đó lưu lại đến gần một tháng.”. Để an toàn, hãy thay rèm tắm PVC nhà bạn bằng rèm vải hoặc cửa kính.
Các chất tạo ngọt nhân tạo, như aspartame và Splenda: Một khi đã vào đến cơ thể người, chúng phân rã thành những hợp chất sinh ung thư rất mạnh.1 Mối liên hệ giữa nước có ga không đường và nguy cơ ung thư gia tăng đã được ghi nhận đặc biệt đầy đủ. Nó cũng đi kèm với các vấn đề sức khỏe từ đau đầu và mất trí nhớ đến động kinh, hen suyễn, rối loạn giấc ngủ, đau bụng và tiểu đường, đó là chỉ nêu vài ví dụ. Tuy nhiên những chất tạo ngọt nhân tạo này vẫn được bán trên thị trường vì những áp lực chính trị và tài chính nặng nề, và được bán dưới nhiều nhãn hiệu: NutraSweet, Equal, AminoSweet, Natra Taste, Spoonful, Canderel và Neotame, cùng nhiều tên khác.

1 Để biết thêm chi tiết về tác động của các chất tạo ngọt nhân tạo, xem Timeless Secrets of Health & Rejuvenation (TG).

Tiêu thụ đồ uống có cồn: Điều này có thể gây tắc ống mật trong gan, ức chế hệ miễn dịch và giảm lượng magiê trong cơ thể - tất cả đều có nguy cơ gây ung thư.1 Năm 2002, tạp chí British Journal of Cancer đã thông cáo rằng 4% tổng số bệnh nhân ung thư v_ú ở nước Anh - khoảng 44.000 ca mỗi năm - là do uống đồ chứa cồn. Và, theo những phát hiện được trình bày tại hội nghị thường niên năm 2008 ở San Diego của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ, dù tiêu thụ một lượng nhỏ cồn thôi cũng có thể tăng đáng kể nguy cơ ung thư v_ú - đặc biệt là ung thư v_ú dương tính thụ thể estrogen/thụ thể progesterone.

1 Một nghiên cứu của Thụy Điển đã chứng minh phụ nữ nạp lượng magiê cao nhất có nguy cơ ung thư thấp hơn 40% so với phụ nữ nạp lượng khoáng chất này thấp nhất. Và các nhà nghiên cứu từ Trường Y tế Công cộng của Đại học Minnesota đã phát hiện ra rằng chế độ ăn giàu magiê giảm tỷ lệ mắc mới ung thư đại tràng (TG).

Nghiên cứu này đã theo dõi hơn 184.000 phụ nữ hậu mãn kinh trong trung bình bảy năm. Những người uống chưa tới một cốc đồ uống có cồn mỗi ngày có nguy cơ ung thư v_ú tăng 7% so với những người không uống tí nào. Những phụ nữ uống 1-2 cốc mỗi ngày có tỷ lệ nguy cơ tăng 32%, và những người uống ba cốc trở lên tăng nguy cơ tới 51%. Nguy cơ này được quan sát chủ yếu trong 70% khối u được xếp loại là dương tính thụ thể estrogen và thụ thể progesterone. Nghiên cứu không thấy sự khác biệt về nguy cơ giữa những người uống bia, rượu vang hoặc rượu liquor mạnh.
Hoóc môn tăng trưởng ở sữa bò: Samuel Epstein, bác sĩ y khoa, một nhà khoa học ở Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Illinois, đã chỉ ra rằng sữa rBGH (sữa có hoóc môn tăng trưởng bò tái tổ hợp) “được bổ sung một lượng lớn yếu tố tăng trưởng tự nhiên (IGF-1), mức dư thừa chất được coi là những nguyên nhân gây ung thư v_ú, đại tràng và tuyến tiền liệt.”
Vitamin tổng hợp: Thuốc bổ sung vitamin (là những vitamin rẻ, vớ vẩn và không methyl hóa) có thể cướp năng lượng của cơ thể bạn và thực sự gây ra thiếu hụt vitamin, trong khi chính vì thiếu hụt vitamin mà bạn muốn bổ sung nó. Vitamin tự nhiên, trong rau củ quả, mặt khác, lại quyên góp năng lượng cho cơ thể bạn.
Các viên vitamin tổng hợp cố 90% là tá dược nhồi cho đầy. Tỷ lệ hấp thụ của các vitamin này thường dưới 5%. Uống nhiều viên bổ sung vitamin cũng có thể đặt gánh nặng lên hệ tiêu hóa, gan và thận. Bên cạnh đó, về cơ bản là không thể nào sản xuất ra các sản phẩm vitamin có cân bằng chuẩn giữa nhiều vitamin trong đó. Mỗi người cần lượng vitamin khác nhau và mỗi thời điểm nhu cầu của một người cũng khác; do đó, không có sản phẩm vitamin nào có thể khớp và đáp ứng nhu cầu đó. Để cho cơ thể quyết định chiết bao nhiêu vitamin từ thực phẩm là cách nạp vitamin thực sự an toàn.
Hấp thu vitamin từ thức ăn lúc nào cũng là cách bổ sung tốt nhất. Vitamin về mặt tự nhiên là chất độc, có tính axít và hoạt tính. Hoa quả và rau củ chứa các tác nhân trung hòa tự nhiên để giữ cho vitamin không gây hại cho cơ thể. Ngay cả một vitamin methyl hóa chất lượng cao (sử dụng đồng enzyme của vitamin) cũng bị tước bỏ những tác nhân này và có thể kích hoạt phản ứng mất cân bằng của cơ thể, như kích ứng da và loại bỏ những vitamin đang có, do đó gây ra thiếu hụt vitamin.1

1 Thông tin chi tiết xem chương 14 cuốn sách của tôi Timeless Secrets of Health & Rejuvenation (TG).


Thịt gia súc, gia cầm hoặc cá nướng: Tháng 4-2008, Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ thúc giục mọi người nghĩ lại về những bữa tiệc thịt nướng. Sau khi phân tích kết quả của 7.000 nghiên cứu, viện này đã kết luận rằng nướng bất cứ loại thịt nào - thịt đỏ, thịt trắng hoặc cá - đều tạo ra các hóa chất sinh ung thư rất mạnh. Rõ ràng là nhiệt độ cao khi nướng đã phản ứng với protein trong thịt đỏ, thịt gia cầm và cá, sinh ra các amin dị vòng, có liên quan đến ung thư. Một dạng khác của những tác nhân gây ung thư là hyđrôcacbon thơm đa vòng, được tạo ra khi nước thịt chảy xuống nguồn nhiệt. Chúng sẽ bốc khói và có thể dính chặt vào thịt.
Viện này đặc biệt nhắm vào thịt đã qua chế biến như bánh mỳ kẹp xúc xích nóng (hot dog), xúc xích, thịt muối hun khói, thịt giăm bông, pastrami (thịt bò hun khói tẩm gia vị), xúc xích salami và bất cứ loại thịt nào đã được muối, hun khói hoặc xử lý để bảo quản được. Các hóa chất được sử dụng để bảo quản thịt làm tăng việc sinh ra các hợp chất sinh ung thư, bất kể thịt được nấu như thế nào. Báo cáo của Viện nói rằng họ “không thể tìm ra được một chút thịt đã chế biến nào an toàn.”
Ăn nhiều fructose và sucrose: Tiêu thụ những loại đường này có thể tăng nguy cơ ung thư tụy, theo một nghiên cứu của các nhà khoa học trường Đại học Hawaii và trường Đại học Nam California. Fructose có tự nhiên trong hoa quả, trong khi sucrose thường được chiết xuất từ mía hoặc củ cải đường. Các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu ăn uống của 162.150 người tham gia vào Nghiên cứu đoàn hệ đa chủng tộc Hawaii - Los Angeles, tìm kiếm bằng chứng cho thấy một chế độ ăn nhiều glucose làm gia tăng nguy cơ ung thư tuyến tụy. Những người ăn nhiều fructose nhất có nguy cơ ung thư tụy cao hơn rõ rệt so với những người ăn ít nhất. Những người uống nhiều nước hoa quả hơn cũng có nguy cơ ung thư tụy cao hơn. Trong khi đó, trong số những bệnh nhân béo phì và quá cân, lượng sucrose nạp vào cao có mối quan hệ tương quan với nguy cơ ung thư tụy cao hơn. Đặc biệt fructose cũng có thể có một tác động tiêu cực mức cao lên hệ thần kinh và thực sự đã tắt chức năng của một số phần của bộ não.
Hút thuốc lá: Thói quen này làm gia tăng tỷ lệ xuất hiện của bất cứ loại ung thư nào vì nó phá hủy khả năng vận chuyển ôxy của máu tới các tế bào của cơ thể, và gây viêm cho chúng. Bên cạnh đó, hút thuốc và hấp thụ khói thuốc thụ động gây ra ngộ độc catmi, một nguy cơ lớn phát triển ung thư. Tuy nhiên, với thực tế này, thái độ kích động của hầu hết các chiến dịch chống hút thuốc lá là cực đoan một cách không cần thiết. Mặc dù hút thuốc đúng là không có lợi, nhưng không phải cứ hút thuốc là mắc ung thư phổi như người ta vẫn nói. Thực ra, nhiều quốc gia có tỷ lệ người hút thuốc cao như Iceland, Nhật Bản, Israel và Hy Lạp, cũng có tuổi thọ được xếp vào hàng cao nhất thế giới.
Kem chống nắng: Ung thư tất cả các thể loại tăng rõ rệt khi kem chống nắng và kính râm được giới thiệu ra thị trường (Xem chương 2 để biết thêm chi tiết).
Làm việc ca đêm: Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu ung thư (IARC) của Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa làm việc ca đêm vào danh mục những nhân tố sinh ung thư tiềm tàng, dựa trên một phân tích về nghiên cứu hiện có về chủ đề này. IARC đã khảo sát các nghiên cứu về những người làm ca đêm, chủ yếu là y tá và các nhân viên phi hành đoàn, và phát hiện ra những người làm ca đêm có khả năng mắc ung thư nhiều hơn những người làm ca ngày. “Đã có đủ số liệu thuyết phục để cho đây là một quy luật tăng ung thư ở những người làm ca đêm,” người đứng đầu đơn vị phân loại tác nhân sinh ung thư của IARC là Vincent Cogliano nói. Rõ ràng là, nhiều năm trời làm việc qua đêm liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư v_ú cao hơn ở phụ nữ, và ung thư tuyến tiền liệt cao hơn ở đàn ông.
Truyền máu: Nếu bạn chọn phẫu thuật ung thư và được truyền máu, làm ơn hãy cẩn thận, vì chuyện này có thể tăng rõ rệt nguy cơ đau tim và tử vong. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc truyền máu gia tăng nguy cơ biến chứng và giảm tỷ lệ sống sót. Hầu hết ngay sau khi máu được hiến, nó bắt đầu mất khả năng vận chuyển ôxy tới tế bào của cơ thể người bệnh. Máu càng được trữ lâu, thì nguy cơ đau tim, suy tim, đột quỵ và chết càng cao.
Ôxit nitơ trong hồng cầu đặc biệt quan trọng đối với vận chuyển ôxy tới các mô cơ thể. Nếu máu được trữ hơn hai tuần, thì nồng độ ôxit nitơ của nó tụt xuống mức có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người bệnh. Việc trữ máu để truyền được chấp nhận tới sáu tuần. Nguy cơ trên có thể giảm bằng cách làm giàu ôxit nitơ trong máu nhưng rất ít bệnh viện làm việc này.
Trong một nghiên cứu được đăng trên tạp chí New England Journal of Medicine ngày 20-3-2008, các nhà khoa học đã phát hiện ra những bệnh nhân được truyền các đơn vị máu cũ hơn có tỷ lệ tử vong ngay trong bệnh viện cao hơn. Trong một năm, tỷ lệ tử vong ít hơn đáng kể ở người bệnh được truyền máu mới hơn. Trong một nghiên cứu khác của trường đại học Bristol, các nhà khoa học phát hiện ra các bệnh nhân được truyền hồng cầu có nguy cơ gặp biến chứng do thiếu oxy trong các cơ quan quan trọng, như đau tim hoặc đột quỵ, cao gấp ba lần. Và một nghiên cứu trước đó của Đại học Duke năm 2004 đã nhận thấy bệnh nhân được truyền máu do mất máu hoặc thiếu máu có nguy cơ chết trong vòng 30 ngày nhập viện cao gấp hai lần. Họ cũng có nguy cơ bị đau tim trong vòng 30 ngày cao gấp hai lần so với những người không được truyền.
Xin lưu ý: Có nhiều lựa chọn thay thế cho truyền máu mà rủi ro thấp hơn nhiều, như truyền máu của bản thân và pha loãng máu. (Xem chi tiết trong Timeless secrets of health & rejuvenation).
Bức xạ ion hóa: Phơi nhiễm bức xạ ion hóa có thể gia tăng nguy cơ một số loại ung thư. Tia X được sử dụng để điều trị các chứng rối loạn như mụn trứng cá hoặc sùi vòm họng có thể gia tăng nguy cơ một số dạng ung thư bạch cầu hoặc ung thư hạch bạch huyết. Bác sĩ sẽ không nói cho bạn điều này, nhưng tia X tích tụ trong cơ thể, và mỗi lần chiếu lại gia tăng nguy cơ, bất kể chiếu cho răng, túi mật, cột sống, phổi hay xương của bạn.
Năm 2006, trên 62 triệu ca chụp CT hoặc CAT được thực hiện ở Hoa Kỳ, gia tăng rõ rệt liều phóng xạ cá nhân mà một người Mỹ trung bình nhận được. Liều phóng xạ từ một lần cắt lớp CT lớn hơn gấp 50 - 100 lần chụp X quang truyền thống. Bức xạ ion hóa có thể sản sinh gốc tự do và phá vỡ những liên kết hóa học quan trọng trong cơ thể, gây tổn hại nghiêm trọng cho các phân tử điều tiết các quá trình của tế bào (như ADN, ARN và protein). Mặc dù cơ thể có thể dễ dàng sửa chữa những tổn hại ấy ở mức độ thấp, nhưng mức bức xạ cao phát ra từ các công nghệ y tế này có thể tạo ra những tổn hại không thể phục hồi cho các mô quan trọng. Theo một bài báo đăng trên New England Journal of Medicine, việc sử dụng chụp cắt lớp CT tăng vọt trong 25 năm qua đã dẫn tới hàng triệu bệnh nhân mỗi năm phải phơi nhiễm một cách không cần thiết với bức xạ nguy hiểm, gia tăng nguy cơ mắc ung thư.
Không có chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp X quang tuyến v_ú nào vô hại. Các nghiên cứu khác đã tiết lộ trẻ em phơi nhiễm với tia X có nguy cơ mắc ung thư v_ú khi lớn lên. Lò vi sóng làm nóng và bắn bức xạ vào thức ăn của bạn cũng nguy hiểm tương tự và có thể gây ung thư máu cũng như các khối u trong não và các bộ phận khác trong cơ thể.
Sự thật về chụp X quang tuyến v_ú:
• Mỗi tia X bạn phơi nhiễm làm tăng nguy cơ tăng trưởng tế bào bất thường ở bạn. Một xét nghiệm nhũ ảnh tiêu chuẩn gây ra phơi nhiễm xấp xỉ 1 rad (liều hấp thụ phóng xạ), gấp khoảng 1.000 lần chụp X quang ngực.
• Viện Ung thư Quốc gia(NCI) đã cảnh báo chụp X quang tuyến v_ú ở phụ nữ dưới 35 tuổi có thể gây ra 75 ca ung thư v_ú khác với mỗi 15 ca mà nó phát hiện ra ung thư.
• Một nghiên cứu Canada phát hiện tăng 52% ca tử vong do ung thư v_ú ở những người phụ nữ trẻ chụp X quang tuyến v_ú hằng năm.
• Bác sĩ Charles B. Simone, từng là cộng sự lâm sàng tại khoa miễn dịch học và dược học ở Viện Ung thư Quốc gia của Mỹ, nói: “Nhũ ảnh gia tăng nguy cơ ung thư v_ú và nguy cơ lan rộng hoặc di căn của một ung thư hiện tại.”
• Sau khi khảo sát 117 nghiên cứu được thực hiện từ năm 1966 đến năm 2005, một nhóm chuyên gia của Hội đoàn Thầy thuốc Mỹ (ACP) phát hiện ra dữ liệu về việc sàng lọc bằng chụp X quang tuyến v_ú cho phụ nữ ở độ tuổi 40 mơ hồ đến nỗi hiệu quả giảm tử vong do ung thư v_ú có thể là 15% hoặc “...gần bằng 0”.
• Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nordic Cochrane ở Đan Mạch phát hiện cứ 2.000 phụ nữ từng chụp tuyến v_ú trong khoảng thời gian hơn 10 năm, chỉ có một người kéo dài được sự sống, còn 10 người là phải chịu những biện pháp điều trị không cần thiết và tiềm ẩn nguy hại. Nghiên cứu đã khảo sát lợi ích và tác động tiêu cực của bảy chương trình sàng lọc ung thư v_ú trên 500.000 phụ nữ ở Mỹ, Canada, Scotland và Thụy Điển.
• Dự án Phát hiện ung thư v_ú, một nghiên cứu dịch tễ học lần đầu tiên được thực hiện trong thập niên 1970, đã phát hiện ra kết hợp cả chụp X quang tuyến v_ú lẫn kiểm tra v_ú lâm sàng cũng không phát hiện được ít nhất 20% ca ung thư. Ngày nay, con số này vẫn không thay đổi. Nhũ ảnh không phải là lúc nào cũng đúng.
• Một trong những chuyên gia ung thư hàng đầu thế giới, bác sĩ Samuel Epstein công tác tại Liên minh Phòng ngừa Ung thư (Cancer Prevention Coalition) đã tuyên bố: “Nhũ ảnh sàng lọc ung thư v_ú đặt ra những nguy cơ to lớn và có tính tích lũy đối với ung thư v_ú cho những phụ nữ tiền mãn kinh... V_ú của phụ nữ tiền mãn kinh rất nhạy cảm với phóng xạ, mỗi 1 rad phơi nhiễm tăng nguy cơ ung thư v_ú lên khoảng 1%. Do đó, nguy cơ gia tăng 10% tích tụ cho mỗi v_ú trong một thập kỷ sàng lọc.”
• Việc ép mạnh ngực trong thủ thuật chụp X quang tuyến v_ú có thể góp phần phân tán những tế bào ung thư hiện có. Các trường y dạy bác sĩ lúc nào cũng phải xử lý hết sức cẩn thận v_ú của một người phụ nữ vì lý do này.
• Nghiên cứu đã xác định một gien gọi là gien sinh ung thư AC, cực kỳ nhạy cảm với thậm chí chỉ những liều phóng xạ rất nhỏ. Một tỷ lệ lớn những người phụ nữ ở Mỹ có gien này, nó có thể gia tăng nguy cơ ung thư do nhũ ảnh của họ. Ước tính có đến 10.000 người có gien AC sẽ chết vì ung thư v_ú mỗi năm do chụp X quang tuyến v_ú.
• Từ khi sàng lọc bằng nhũ ảnh được đưa vào áp dụng, tỷ lệ mắc một dạng ung thư v_ú gọi là cacxinoma ống tuyến v_ú tại chỗ (DCIS) tăng đến 328%.
• Mỗi năm, hàng ngàn phụ nữ phải thực hiện phẫu thuật cắt bỏ v_ú, xạ trị và hóa trị không cần thiết sau khi nhận được kết quả dương tính sai từ một nhũ ảnh.
• Một phân tích tổng hợp của 117 nghiên cứu được đăng trên Annals of Internal Medicine (2007) đã thông báo rằng kết quả dương tính giả trên nhũ ảnh dao động từ 20% đến 56% ở phụ nữ từ 40 đến 49 tuổi.
• Tháng 7-1995, The Lancet viết về nhũ ảnh như sau: “Lợi ích thì rất nhỏ và mơ hồ, nguy hại thì rõ ràng và chi phí thì quá lớn...”
• Người ta đã biết đến việc chụp X quang tuyến v_ú thường xuyên rút ngắn tuổi thọ hơn là cải thiện; với mỗi phụ nữ được lợi từ nhũ ảnh, thì có 10 người khác chết nhanh hơn vì nó. Tuy nhiên, FDA đã phê duyệt công nghệ chụp quang tuyến v_ú mới có liều lượng phóng xạ gấp đôi.
• Chụp nhũ ảnh cộng hưởng từ (MRM), đang được mời chào với các phụ nữ trẻ mơ hồ về nguy cơ ung thư v_ú cao hơn mà nó gây ra, có tỷ lệ dương tính giả cao đến toát mồ hôi: khoảng 25%. Điều này chắc chắn dẫn đến tỷ lệ cao hơn những ca phẫu thuật đoạn nhũ hoàn toàn không cần thiết.
• Như đã được đăng trên Cochrane Library and PubMed số tháng 10-2007, tự kiểm tra v_ú cũng không có ích cho việc cải thiện tỷ lệ tử vong do ung thư v_ú. Hai nghiên cứu dựa trên dân số quy mô lớn (388.535 phụ nữ) ở Nga và Thượng Hải, so sánh việc tự kiểm tra v_ú phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong do ung thư v_ú là giống nhau giữa những phụ nữ tự kiểm tra sát sao với những người không làm. Gần gấp đôi ca sinh thiết (3.406) có kết quả lành tính được thực hiện ở nhóm sàng lọc so với nhóm đối chứng (1.856).
Bên cạnh nguy cơ chẩn đoán dương tính giả cao có thể dẫn đến phẫu thuật hoặc làm biến dạng không cần thiết cùng những sợ hãi, căng thẳng cực kỳ tai hại, bản thân thủ thuật MRI cũng đã rất nguy hiểm. Thực sự, nguy cơ phản vệ với thuốc nhuộm được tiêm vào phần chụp MRI thậm chí còn cao hơn cả tiêm vắc xin. Còn nữa, những xét nghiệm này cơ bản là chẳng có lợi ích y tế nào đối với phụ nữ.
Các chuyên gia không còn đề xuất việc thực hiện một quy trình xét nghiệm ngặt nghèo nữa, nhưng đúng hơn là vì phụ nữ đã biết điều gì là bình thường, và thường xuyên sờ nắn ngực để tìm dấu hiệu của bất cứ thay đổi nào. Họ nên mở rộng tìm kiếm một cục mới hoặc một khối cứng ở v_ú hoặc nách, hoặc những thay đổi bất thường về kích thước, màu sắc, hình dáng hoặc sự đối xứng ở bầu v_ú và núm v_ú, như hơi sưng hoặc hơi đặc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Có biện pháp sàng lọc nào khác an toàn hơn không?

Có, đó là công nghệ sàng lọc không tác dụng phụ và không tốn kém, lại hiệu quả hơn nhiều chụp nhũ ảnh: Chụp ảnh nhiệt hồng ngoại kỹ thuật số độ nét cao (DITI). DITI đo lường bức xạ của nhiệt hồng ngoại từ cơ thể bạn và chuyển thông tin này thành các hình ảnh giải phẫu. Nếu có một sự phát triển bất thường nào đó trong v_ú bạn, thì nó sẽ lộ ra rõ ràng trên ảnh nhiệt họa thành một điểm nóng. Kiểu chụp ảnh nhiệt này đơn giản và không xâm lấn.
Mặc dù được Đại học Duke chấp nhận, nhưng công cụ chẩn đoán này không phải là công cụ chủ đạo. “...Giới chức y học lờ đi công cụ thay thế an toàn và hiệu quả này so với chụp nhũ ảnh, nhất là chiếu sáng xuyên qua mô có chụp quét hồng ngoại”, bác sĩ Epstein chỉ ra.
Nhờ những phát hiện của Viện công nghệ Bắc Carolina (NCIT), một trung tâm nghiên cứu được tư nhân tài trợ, mà chụp ảnh nhiệt được tiến hành với việc áp dụng quy trình do NCIT thiết lập, có thể tìm ra ung thư v_ú đang phát triển sớm hơn 10 năm so với chụp nhũ ảnh.
Dầu vậy điều quan trọng nên nhớ là cá nhân tôi không ủng hộ bất cứ phương pháp sàng lọc nào để chẩn đoán ung thư, vì những lý do đã được giải thích trong cuốn sách này - nó tạo ra cơn hoang mang không cần thiết và gây hại, có thể nối giáo cho bệnh tật, trong khi một ung thư chưa được phát hiện lại có thể tự mình thuyên giảm. Hễ có nỗi sợ và lo lắng mình có thể bị ung thư v_ú, trong khi thực ra bạn không có, hướng tâm trí bạn tập trung vào căn bệnh, thường là đã đủ để thực sự kích hoạt chính căn bệnh trong cơ thể mà bạn vốn lo sợ.
Chỉ cần nghĩ đến những gì nỗi sợ đem lại cho bạn: hơi thở nông, lòng bàn tay rịn mồ hôi, bụng nhộn nhạo, trạng thái dễ bị kích thích, đau đầu, trạng thái không thể nói lên lời, không thể nghĩ thông tỏ, mất phương hướng, bối rối, đau buồn, run rẩy mất kiểm soát, hoảng loạn, không thể vận động, tức giận, cảm thấy yếu đuối và vô dụng. Nếu tiếp tục, bất cứ cảm giác khó chịu nào trong số này cũng đủ để cơ thể giải phóng hoóc môn stress là cortisol, một lần nữa, nó ngăn hấp thụ protein của thức ăn mà phân rã protein tế bào hiện có đến mức lãng phí. Nói cách khác, phản ứng sợ hãi với chẩn đoán ung thư có thể chính là cơ chế khiến bệnh đó trở thành điểm đến cuối cùng.
Bên cạnh đó, áp lực từ bác sĩ và người thân muốn đặt bạn vào việc điều trị đúng cách có thể lớn đến mức bạn cảm thấy không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đâm đầu theo. Cảm giác bị mắc kẹt hoặc bị dồn vào góc tường trong khi cơ thể thấy ốm yếu chắc chắn không hề có ích cho việc chữa lành. Nêu chú tâm vào những nguyên nhân ngầm ẩn như chứng tắc nghẽn và xung đột cảm xúc, như đã được phác ra trong cuốn sách này, thì sẽ có ích hơn nhiều so với điều trị triệu chứng. Quy tắc này cũng đúng với mọi thứ được gọi là bệnh.
Bệnh chẳng là gì ngoài một nhận thức về nỗi sợ hãi, nhưng nó cũng có thể chuyển thành nhận thức của sự chữa lành, cải thiện và một hướng đi mới trong đời.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

6. Tự chữa lành những điều bạn cần biết


Ai chữa được ung thư?


Những người khỏi ung thư hoàn toàn và không hề tái phát thường là ứng cử viên bộc lộ rõ nhất cơ chế gây ra và chữa lành ung thư.
Lúc 43 tuổi, Anne bị chẩn đoán mắc một dạng u lympho vô phương cứu chữa và các bác sĩ tiên lượng cô chỉ sống được ít lâu nữa. Bác sĩ nhiệt tình đề nghị cô làm xạ trị và hóa trị, hai biện pháp phổ biến nhất để chiến đấu với tế bào ung thư. Anne ý thức được rằng những phương pháp điều trị này không chỉ làm tăng rõ rệt nguy cơ ung thư thứ phát, mà có tiềm ẩn nhiều tác dụng phụ. Cô từ chối điều trị, và nói với bác sĩ là nếu dù thế nào ung thư cũng không chữa khỏi được, thì tại sao lại phải tốn công điều trị và vật vã chịu đựng những tác dụng phụ kinh hãi.
Chấp nhận mình có bệnh vô phương cứu chữa, có nghĩa là sắp chết, Anne cảm thấy tự do tìm kiếm những cách khác để khiến cho quá trình chuyển giao này dễ dàng hơn. Thay vì thụ động chấp nhận định mệnh, cô quyết định tập trung vào việc cảm nhận thật tích cực và bắt đầu đóng vai trò năng động trong việc cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của mình. Cô thử mọi thứ từ châm cứu, đến tẩy sạch các cơ quan nội tạng, dùng từ thảo dược đến thiền và quán tưởng hình ảnh, mà tất cả đều là những tín hiệu dứt khoát gửi đến các tế bào cho thấy cô đang quan tâm sâu sát đến chúng. Chứng ung thư của Anne đã thuyên giảm vài tháng sau đó. Trong vòng một năm, tất cả những dấu hiệu rõ rệt của ung thư đã biến mất, trước sự ngạc nhiên của bác sĩ ung thư của cô. Giờ thì, hơn hai chục năm sau, cô không chỉ không còn dấu tích ung thư nào nữa, mà còn cảm thấy mình chưa từng khỏe khoắn và tràn đầy sức sống hơn thế bao giờ.
Hồi mới 38 tuổi, Linda bị chẩn đoán mắc ung thư hắc tố ác tính (dạng hung dữ nhất của ung thư da). Sau vài cuộc phẫu thuật không thành công, người ta báo rằng ung thư của cô đã tiến triển tới giai đoạn cuối và rằng cô chỉ còn sống được một năm nữa. Linda cũng từ chối hóa trị và xạ trị, thay vào đó cô tập trung vào những phương pháp chữa lành tích cực hơn, trong đó có yoga, cầu nguyện, ăn chay, thải độc các cơ quan nội tạng, thiền và quán tưởng hình ảnh hằng ngày. Ngày nay, 22 năm sau khi thoát khỏi án tử hình, cô khỏe mạnh đến nỗi không có dấu tích nào cho thấy, thậm chí dù chỉ một chỗ da bị kích thích.
Cả Anne và Linda đều đã thay đổi toàn bộ thái độ sống của mình - từ chỗ là những nạn nhân bị động của một căn bệnh xâm lấn không thể kiểm soát, đến chỗ là những người tham gia tích cực vào việc bồi dưỡng một cơ thể và tâm trí khỏe mạnh. Tự chịu trách nhiệm cho bản thân chính là bước đầu tiên để dịch chuyển trọng tâm chú ý khỏi ung thư và hướng đến ý thức bồi dưỡng sức khỏe.
Gọi những sự thoái lui bệnh tật này là những phương thuốc diệu kỳ chắc chắn là không hợp lý chút nào. Ngày nay, có vô vàn tài liệu nói về những sự phục hồi ấn tượng từ mọi loại ung thư và gần như mọi chứng rối loạn khác, từ tiểu đường đến mụn cóc và thậm chí đến cả AIDS. Việc một ca ung thư, dù ở giai đoạn cuối có thể tự thoái lui cho thấy hệ miễn dịch không chỉ có tiềm năng quét sạch nhanh chóng và hiệu quả những khối u hiện tại khỏi cơ thể, mà còn ngăn ngừa được sự hình thành những khối u mới, nếu những nguyên nhân của chúng đã được giải quyết. Thay đổi thái độ, từ việc hùng hổ tấn công và tiêu diệt các tế bào ung thư đến việc để mặc chúng yên ổn và loại bỏ những tác động rút cạn năng lượng trong đời, có thể là một nhân tố kích thích đủ mạnh để hệ miễn dịch quét sạch triệu chứng đó (khối u ung thư). Không có nguyên nhân gốc rễ, ung thư cũng chỉ vô hại như một cơn cảm xoàng.
Những người như Anne và Linda không phải là ngoại lệ; có khi họ còn là thường lệ. Cái gọi là tự thoái lui hiếm khi xảy ra một cách tự phát, hoặc không vì lý do rõ ràng nào. Cơ thể xem những nguyên nhân gây ung thư là những cản trở về mặt cảm xúc hay thể chất có thể vượt qua thông qua một khủng hoảng chữa lành, một sự thanh lọc cơ thể cũng như tâm trí và tinh thần. Tham gia tích cực vào quá trình chữa lành và tự chịu trách nhiệm cho bản thân (một cách diễn đạt khác cho lòng yêu bản thân) chắc chắn là cần thiết để chữa lành mọi chứng rối loạn nghiêm trọng, kể cả ung thư. Nếu bạn mắc ung thư, thì không đời nào điều này có nghĩa là bạn là kẻ bất lực.
Khi George, một doanh nhân người Cyprus, bị ung thư thận đến gặp tôi, anh đang trong tình trạng đau yếu nhất của cuộc đời. Mặc dù chẩn đoán là vô cùng tuyệt vọng, nhưng George vẫn còn thở. Miễn là người ta còn thở thì còn có cơ hội phục hồi. George không chỉ phục hồi, mà còn bắt đầu sống một cuộc đời mới toanh, có ý thức hơn, yêu thương và vui vẻ hơn.
Ung thư có tiềm năng vô cùng lớn trong việc tạo ra ý nghĩa và mục tiêu sâu sắc hơn trong cuộc đời của một ai đó, đồng thời gợi lên và giải phóng những nỗi sợ hãi kéo dài trước sự sống và cái chết. Nó có thể chuyển hóa quan điểm bi quan với cuộc đời thành quan điểm lạc quan, cho phép người ta đối mặt với ung thư để nhận thức được lý do tích cực đằng sau nó và mọi thứ khác xảy ra với anh ta trong đời. Sự chuyển hóa nội tại này không cho phép người ta tự xem mình là một nạn nhân bất lực trong tay các bác sĩ ung thư và bác sĩ phẫu thuật. Chữa lành ung thư hoặc một bệnh đe dọa mạng sống tương tự có lẽ là một trong những thành tựu lớn lao và ý nghĩa nhất mà người ta có thể đạt được trong đời.

Loại bỏ nguyên nhân dẫn đến ung thư


Vì ung thư là hệ quả tự nhiên của một lối sống thiếu lành mạnh, nên cách khôn ngoan nhất để đảm bảo bạn không bao giờ có mặt trong đội ngũ bị ung thư là chỉ cần đảm bảo bạn đang làm mọi thứ có thể để bồi dưỡng cơ thể và giúp nó vận hành một cách lành mạnh và hiệu quả nhất. Chìa khóa ở đây chính là một chế độ ăn hữu cơ lành mạnh cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và chất xơ mà không cần các chất phụ gia phi tự nhiên hoặc đường, cũng như việc tối ưu hóa mức vitamin D và luyện tập thể dục thường xuyên. Tối thiểu hóa phơi nhiễm với chất độc môi trường nhiều nhất có thể. Ra ngoài trời. Co giãn gân cốt. Nhảy múa. Mỉm cười với mặt trời. Đi dạo. Ngủ đủ giấc. Sống cân bằng. Cơ thể được tạo ra để tự duy trì; nó chỉ viện đến những biện pháp cực đoan như ung thư nếu bạn không cho nó một lựa chọn nào khác. Quả thật, đó là lẽ phải thông thường.
Khảo sát một số lượng đáng kể các bệnh nhân ung thư trong thời gian tôi hành nghề ở châu Âu suốt thập niên 1990, tôi phát hiện ra tất cả họ, dù mắc dạng ung thư nào, cũng tích tụ một lượng lớn sỏi mật trong gan và túi mật. Nhờ thải loại tất cả những viên sỏi đó ra thông qua một chuỗi các đợt tẩy sạch gan, làm sạch đại tràng và thận trước và sau khi thải độc gan,1 bệnh nhân đã tạo ra những tiền đề thể chất cho gần như bất cứ loại ung thư nào tự thuyên giảm. Điều này cũng được áp dụng cho những ung thư thường được coi là ở giai đoạn cuối.

1 Xem hướng dẫn trong cuốn The Amazing Liver and Gallbladder Flush (TG).

Nếu những người đang tìm cách cải thiện sức khỏe vẫn tiếp tục duy trì một chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh, thì phương thuốc này có khả năng là hiệu quả bền vững. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy nhiều loại rau củ quả có các tính chất chữa trị và phòng ngừa ung thư. Nghiên cứu thực hiện tại Viện Nghiên cứu thực phẩm của Anh đã tiết lộ các loại rau họ nhà cải như cải bắp, cải xoăn, súp lơ xanh và mầm cải Brussel chứa những hợp chất kháng ung thư, chúng kích thích hoặc xui khiến tế bào ung thư tự chết. Những loại rau này có tác dụng thanh lọc mô và máu khá mạnh. Ăn chúng thường xuyên sẽ giảm nhiều chất độc nói chung và loại bỏ nhu cầu cần đến các tế bào ung thư của cơ thể. Một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí Journal of the American dietetic Association cho thấy ăn táo, súp lơ trắng và súp lơ xanh đặc biệt có hiệu quả trong phòng ngừa ung thư đại tràng, ung thư đứng thứ ba trong các loại phổ biến nhất.
Ngoài những thực phẩm này, nhiều thảo dược cũng có tác dụng tẩy sạch và chống ung thư mạnh. Trong số 2.500.000 thảo dược đã được kiểm nghiệm, khoảng 3.000 loài có tính chất chống ung thư đã được chứng minh. Cơ chế chống ung thư của chúng rất khác nhau. Một số tấn công vào quá trình lên men mà tế bào ung thư dựa vào đó để sống sót (các tế bào ung thư sử dụng axít lactic để sản xuất năng lượng tế bào), số khác tấn công trực tiếp lên các tế bào khối u, những số khác thì ức chế sự phân chia tế bào ung thư trong khi cho phép các tế bào khỏe mạnh nhân đôi bình thường, và cuối cùng, một số ảnh hưởng đến độ pH (môi trường axít /kiềm) theo cách sao cho làm giảm hoặc phòng ngừa những nguy cơ phát triển tế bào ung thư ở những bộ phận khác của cơ thể. Nhìn chung, thường thì hầu hết những thảo dược này đều có tất cả những tác dụng được nhắc ở trên. Một vài thảo dược đó là:
• Nấm thái dương (Agaricus blazei)
• Lô hội (nha dam)
• Hoàng kỳ
• Húng quê
• Thiên ma* (cho ung thư v_ú)
• Nhân sâm1
• Nước câu kỷ tử
• Chiết xuất hạt nho
• Mãng cầu Xiêm (xem phần bên dưới)
• Trà xanh 2
• Vỏ óc chó đen
• Rễ ngưu bàng
• Câu đằng lông tơ
• Bạch đậu khấu
• Chaparral3
• Thanh yên (chanh yên)**
• Dầu dừa
• Cogumelo do Sol (Nấm Mặt trời)
• Hạt thìa là đen (Nigella sativa)* 4
• Bồ công anh***
• Thìa là
• Axít ellagic
• Trà Essiac
• Tiểu hồi
• Gừng****
• Thuốc carctol điều trị ung thư bằng thảo mộc (theo y học Ayurveđa)
• Nấm linh chi5
• Rễ cam thảo (dạng bột)6
• Kinh giới ô
• Kinh giới cay (hoặc dầu kinh giới cay)
• Rau mùi tây và cần tây*****
• Trà Pau d’Arco
• Chẽ ba đỏ
• Hương thảo
• Hoa xôn
• Ngũ vị tử bắc
• Nấm hương và nấm tọa kê
• Nghệ (Curcuma longa)
• Giấm và cacbon điôxit
• Hạt óc chó7
• Trà thải độc thận Andreas Moritz www.presentmoment.com
• Trà thải độc gan Andreas Moritz www.presentmoment.com

1 Nhân sâm có thể tăng ôxy hóa tế bào đến 25%, rất có ích cho bất cứ loại ung thư nào (TG).
2 Các nghiên cứu gần đây cho thấy tác dụng đáng kể của trà xanh trong phòng ngừa ung thư đại trực tràng và ung thư miệng ở phụ nữ; và nó có thể giảm 48% nguy cơ phát triển ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn muộn ở đàn ông uống từ năm cốc trà mỗi ngày (trong 14 năm) (TG).
3 Một loại thuốc chế từ lá cây Larrea divaricata và các cây khác cùng chi, mọc ở tây nam Hoa Kỳ và tây bắc Mexico, dùng để chữa nhiều bệnh nhưng được cảnh báo về độ an toàn (BBT).
4 Các nhà nghiên cứu ở Đại học Thomas Jefferson ở Philadelphia đã phát hiện ra một chiết xuất dầu hạt thìa là đen, tên là thymoquinone, có thể chữa trị một trong những dạng ung thư hiểm độc và khó chữa nhất: ung thư tụy. Chiết xuất này đã chặn đứng sự phát triển tế bào tụy, và thực sự cải thiện chức năng vốn có của tế bào, gây ra cái chết của tế bào được lập trình trước, hoặc sự chết rụng tế bào (apoptosis) (TG).
5 Trung tâm Ung thư quốc gia của Nhật Bản đã đưa nấm này vào xét nghiệm dược phẩm; họ phát hiện ra nó thực sự có chất củng cố hệ miễn dịch rất mạnh và chống ung thư. Các nhà khoa học ở Trường Y, Đại học Nhật Bản đã thử nghiệm nấm này trên chuột. Họ phát hiện ra nó làm chậm sự phát triển khối u đến 8% sau 20 ngày. Chuột lang bị ung thư có tỷ lệ phục hồi hơn 99%. Nấm linh chi có thể mua ở chợ châu Á cũng như các cửa hàng sức khỏe ở phương Tây. Chiết xuất nấm linh chi, cũng được gọi là linh chi, cũng được bày bán sẵn (TG).
6 Bột rễ cam thảo là thảo dược có sức chữa lành rất lớn cho cả ung thư lẫn tiểu đường. Nó còn hiệu quả hơn cả thuốc hóa trị trong việc tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng không gây thương tổn hay hủy diệt tế bào khỏe mạnh (TG).
7 Hạt óc chó có thể giảm nguy cơ ung thư v_ú: http://www.webmd.com/breast-cancer/news ... ast-cancer (TG).


* Nói thêm về thiên ma:
Một nghiên cứu của Pháp đăng trên tạp chí Phytomedicine đã chỉ ra chiết xuất thiên ma có thể phòng ngừa và làm chậm quá trình phát triển các tế bào ung thư v_ú. Nghiên cứu được Các Viện Y tế Quốc gia (NIH) và Quỹ Ung thư v_ú Susan G. Komen tài trợ. Thiên ma nổi danh là có ích cho các vấn đề phụ khoa, thận, đau họng và có thể làm dịu một mức nào đó triệu chứng mãn kinh. Chẳng khôn ngoan lắm khi loại bỏ hoàn toàn những triệu chứng mãn kinh bởi lẽ chúng đã được chứng minh là giảm nguy cơ ung thư v_ú đến ít nhất 50%. (Chống chỉ định: Không dùng thiên ma nếu bạn đang dùng hai thứ thuốc hóa trị là doxorubicin và docetaxel, hoặc nếu bạn đang mang thai.)
** Thông tin thêm về nước quả thanh yên (Citrus medỉca):
Phương pháp điều trị bằng thảo dược của y học Ayurveda này được sử dụng để điều trị tất cả các loại bệnh về gan, trong đó có xơ gan, bệnh vàng da, chức năng gan bị hư hại, viêm gan virus B và C, các khối u gan ác tính nguyên phát và thứ phát.
*** Thông tin thêm về bồ công anh
Loại cây thân thảo phổ biến, vốn được coi là chất bổ gan tốt, cũng chống được ung thư. Nghiên cứu của một nhà sinh hóa công tác tại trường Đại học Windsor trên mẫu máu bệnh bạch cầu và chiết xuất rễ bồ công anh1 cho thấy các tế bào bạch cầu đã bị buộc phải chết theo chương trình lập sẵn, hoặc tự sát, trong khi các tế bào bình thường thì không bị ảnh hưởng gì cả. Nói cách khác, chiết xuất rễ cây bồ công anh chỉ nhắm vào tế bào ung thư xấu, không giống như thuốc hóa trị giết cả tế bào tốt.

1 http://www.naturalnews.com/035754_dande ... ntion.html (TG).

**** Thông tin thêm về gừng:
Gừng ức chế COX-2 một cách tự nhiên và là một enzyme gây viêm và đau đớn [Food and Chemical Toxicology 40: 1091-1097, 2002]. Thành phần hoạt tính của gừng là gingerol ức chế sự lan rộng của tế bào ung thư [Cancer Research 61: 850-853, 2001]. Chiết xuất rễ gừng (gingerol) ngăn chặn viêm và làm loãng máu giống như aspirin, nhưng không có các tác dụng phụ có hại như aspirin [Pharmazie 60: 83-96, 2005]. Nước gừng khiến bệnh nhân thuyên giảm triệu chứng buồn nôn và hồi phục tốt hơn so với dùng ondansetron, một loại thuốc thường được kê trong hóa trị liệu [Journal Ethnopharmacology 62: 49-55, 1998]. Nó đã tỏ ra có khả năng ức chế sự phát triển khối u trong đại tràng ở những nghiên cứu trên động vật [Clinical Chimica Acta 358: 60-67, 2005]. Gingerol ức chế sự phát triển của vi khuẩn Helicobacter pylori trong đường tiêu hóa, đó là một loại vi khuẩn có liên quan đến ung thư dạ dày [Anticancer Research 23: 3699-3702, 2003].
***** Thêm thông tin về mùi tây và cần tây
Mùi tây và cần tây chứa apigeni, một chất flavonoid, cũng được tìm thấy trong nhiều thực phẩm tự nhiên khác. Trong các nghiên cứu trên động vật, nó làm chậm sự phát triển của ung thư và làm teo khối u, thậm chí là những khối u v_ú phát triển cực nhanh, cực nguy hiểm. Tiêm chất này có thể là biện pháp thay thế an toàn cho hóa trị độc hại, vì nó không biểu hiện bất cứ dấu hiệu tác dụng phụ nào, dù ở liều cao. Các nhà nghiên cứu đang loay hoay tìm nguồn tài trợ để tiếp tục nghiên cứu trên người vì các công ty dược không có lợi ích gì trong việc tài trợ cho một phương thuốc tự nhiên có tiềm năng chữa khỏi ung thư này.1

1http://articles.mercola.com/sites/articles/archive/2012/06/04/apigen-in-on-breast-cancer-treatment.aspx?e_cid==20120604_DNL_art_2 (TG).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ung Thư Không Phải Là Bệnh, Mà Là Cơ Chế Chữa Lành

Postby bevanng » 19 Nov 2023

Nghệ - “thần dược” của thiên nhiên


Ở Ấn Độ, nơi nghệ là thứ thường xuyên có mặt trong các món ăn, mức độ phổ biến của bốn loại ung thư phổ biến nhất Hoa Kỳ (ung thư v_ú, đại tràng, tuyến tiền liệt và phổi) thấp hơn đến 10 lần. Chủ yếu vì nghệ có chứa hợp chất được gọi tên là curcumin, mà đến nay đã nhiều tài liệu đề cập đến tác dụng chống ung thư của nó. Chỉ cần 9-12 gam tinh bột nghệ mỗi ngày là đủ để cung cấp tác dụng chống ung thư mạnh mẽ. Theo các nghiên cứu, nghệ cũng giúp giảm mức cholesterol; ức chế tiểu đường, bệnh Alzheimer, bệnh đa xơ cứng, hình thành khối u, viêm thấp khớp, HIV, củng cố chữa lành thương tổn và tiết mật, cùng nhiều tác dụng khác. Đã thế, nó lại còn rất ngon nữa. Thật là tuyệt vời, phải không nhỉ?

Triệu chứng mãn kinh thực sự phòng ngừa ung thư v_ú


Nếu bạn ở trong số những phụ nữ đã và đang phải chịu đựng các triệu chứng mãn kinh hoặc đang trải qua thời kỳ này hiện giờ thì hãy thở một hơi thật nhẹ nhõm nào. Nhiều bác sĩ và bệnh nhân coi mãn kinh là bệnh đã không biết rằng các triệu chứng khó chịu đi kèm với mãn kinh thực ra có thể giúp bạn phòng ngừa ung thư v_ú thời kỳ mãn kinh.
Nếu bạn yêu cầu bác sĩ cung cấp hoóc môn để ức chế những triệu chứng này, rất có thể ông ta không nói cho bạn biết rằng thực ra làm thế chính là tăng nguy cơ ung thư v_ú.
Một nghiên cứu năm 2011, đăng trên Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention [20(2): 1-10: ©2011 AACR], đã nhấn mạnh vô cùng rõ ràng những tác dụng to lớn đối với sức khỏe của cảm giác nóng bừng của mãn kinh, đổ mồ hôi ban đêm, mất ngủ, trầm cảm, khô âm đạo, máu kinh nguyệt ra nhiều hoặc bất thường cùng với sự lo lắng.
Những nghiên cứu trước đó đã chứng minh rằng phụ nữ có triệu chứng mãn kinh thì có mức estrogen thấp hơn vì họ trải qua thời kỳ mãn kinh, so với phụ nữ không trải qua cảm giác đó. Tuy nhiên, nghiên cứu mới của một nhóm nhà khoa học trường Đại học Washington và Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson, bang Washington, đã lần đầu tiên đánh giá mối liên hệ giữa triệu chứng mãn kinh và nguy cơ ung thư v_ú.
Kết quả của nghiên cứu được Viện Ung thư quốc gia tài trợ này đã chỉ ra rằng phụ nữ nào từng có triệu chứng mãn kinh thì có nguy cơ ung thư biểu mô ống dẫn sữa xâm lấn, ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn và ung thư biểu mô ống dẫn sữa - tiểu thùy xâm lấn thấp hơn nhiều so với những phụ nữ khác, có thể tới 40% - 60%.
Nguy cơ thấp này không phụ thuộc vào thời gian sử dụng liệu pháp hoóc môn, tuổi mãn kinh và chỉ số khối cơ thể (BMI), vốn được biết đến như là những yếu tố nguy cơ mắc ung thư v_ú.
Bài báo nghiên cứu đã chỉ tiếp ra rằng hiện tượng tăng cường độ cảm giác nóng bừng ở phụ nữ từng trải qua cảm giác này cũng đi kèm với việc giảm nguy cơ tất cả ba tiểu loại ung thư v_ú này.
“Đặc biệt chúng tôi nhận ra những phụ nữ có cảm giác nóng bừng mạnh hơn - dạng sẽ khiến họ phải sực tỉnh giữa đêm khuya - có nguy cơ mắc ung thư đặc biệt thấp,” tác giả chính Christopher I. Li, bác sĩ y khoa, tiến sĩ, một nhà dịch tễ học về ung thư v_ú ở Phòng Khoa học Y tế Công cộng của Trung tâm Hutchinson, nói với truyền thông.
Các nhà nghiên cứu này đã đưa ra kết luận: “Đây là nghiên cứu đầu tiên thông báo rằng phụ nữ từng trải qua triệu chứng mãn kinh có nguy cơ mắc ung thư giảm hẳn, và cường độ cảm giác nóng bừng cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ.” “Nếu được xác nhận, thì những phát hiện này có thể củng cố hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân ung thư v_ú và các yếu tố tiềm ẩn liên quan tới phòng ngừa.”
Theo bác sĩ Li, “trong khi các triệu chứng mãn kinh có thể chắc chắn tác động tiêu cực tới chất lượng cuộc sống, thì nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy có thể đây lại là một tin vui nếu các nghiên cứu trong tương lai xác nhận hiệu quả giảm nguy cơ ung thư v_ú của nó.”
Qua đây, chúng ta cũng có thể học được một bài học quan trọng về việc nghiên cứu. Thay vì hồ đồ cho rằng những triệu chứng gây khó chịu hẳn là dấu hiệu của cái gì đó trục trặc trong cơ thể, chúng ta có thể tin rằng cơ thể không phạm sai lầm, cho dù chúng ta không hiểu nguyên nhân vì sao xuất hiện những triệu chứng bất thường như cảm giác nóng bừng và đổ mồ hôi ban đêm như thế.
Nói cách khác, hãy xem bản thân bạn được ban phước lành, chứ không phải là kẻ bị nguyền rủa, nếu bạn có những triệu chứng này. Khi đó hãy tập trung vào việc chăm sóc cơ thể bằng cách ăn uống lành mạnh, đi ngủ sớm, luyện tập đều đặn, duy trì uống đủ nước và nhận đủ vitamin từ việc phơi nắng thường xuyên.

Ánh nắng - biện pháp điều trị ung thư tự nhiên


Theo một nghiên cứu được đăng trên một tạp chí danh giá Cancer Journal (tháng 3-2002; 94:1867-1875), việc không tiếp xúc đủ với bức xạ tia cực tím có thể là yếu tố nguy cơ lớn cho ung thư ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Những phát hiện từ khảo sát tử suất ung thư ở Bắc Mỹ này trái ngược hẳn với lời khuyên chính thống về ánh nắng mặt trời. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng những ca tử vong từ nhiều kiểu ung thư hệ sinh sản và hệ tiêu hóa ở vùng New England cao xấp xỉ hai lần so với vùng Tây Nam Hoa Kỳ, mặc dù chế độ ăn uống giữa hai vùng này không khác nhau là mấy.
Một khảo sát trên 506 khu vực đã phát hiện ra tử suất ung thư tỷ lệ nghịch với mức phơi nhiễm tia UV-B. Cơ chế thích hợp nhất mà các nhà khoa học đưa ra để giải thích hiệu ứng bảo vệ của ánh nắng là vitamin D, được cơ thể tổng hợp khi phơi nhiễm với tia cực tím B. Theo tác giả của nghiên cứu này, bác sĩ William Grant, phần miền bắc nước Mỹ có thể quá tối trong những tháng mùa đông đến nỗi việc tổng hợp vitamin D hoàn toàn dừng lại.
Mặc dù nghiên cứu chủ yếu tập trung vào những người Mỹ da trắng, các nhà nghiên cứu phát hiện ra xu hướng địa lý ấy cũng ảnh hưởng tới những người Mỹ da màu, họ có tỷ lệ ung thư nói chung cao hơn đáng kể. Như đã đề cập từ trước, hoặc đã được giải thích trong cuốn sách của tôi Heal Yoursef with Sunlight, những người da sẫm màu cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn để tổng hợp vitamin D.
Cũng chính nghiên cứu này chỉ ra rằng ít nhất 13 loại u ác tính, chủ yếu là ung thư hệ sinh sản và hệ tiêu hóa, chịu tác động do thiếu ánh nắng. Tỷ lệ nghịch lớn nhất là với ung thư v_ú, đại tràng và buồng trứng, sau đó là đến các khối u ở bàng quang, tử cung, thực quản, trực tràng và dạ dày.
Để có được tác dụng kiềm chế bệnh tật của ánh nắng, bạn cần phải ra ngoài ít nhất ba lần một tuần, mỗi lần tối thiểu là 15 - 20 phút. Tránh dùng kem chống nắng và kính râm; nếu không bạn sẽ không nhận được lợi ích từ việc phơi nắng.
Để biết thêm chi tiết về sức mạnh chữa lành của ánh mặt trời, và đặc biệt, biết về cách thức mà tia tử ngoại thực sự phòng ngừa và chữa trị ung thư da, cùng với nguyên nhân vì sao hầu hết các ung thư da là do dùng kem và nước chống nắng, hãy đọc chương 8 cuốn sách của tôi Timeless Secret of Health & Rejuvenation.
Mặc dù viên bổ sung vitamin D là cần thiết cho những người sống ở nơi có khí hậu lạnh hoặc trong những tháng ít ánh nắng hơn, nhưng đó không hẳn là lựa chọn tốt nhất. Trên thực tế, các công trình nghiên cứu đáng tin cậy hàng chục năm qua đã khẳng định rất chắc chắn rằng nhiễm độc vitamin D (do dư thừa) thông qua thuốc bổ sung có thể có tác động độc hại, thậm chí còn có thể dẫn tới cái chết.
Không đời nào tôi lại tin tưởng vào Chế độ dinh dưỡng khuyến nghị (RDA)1 đề lấy đủ vitamin, cá nhân tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp thiếu hụt vitamin D dẫn tới ít nhất vài tác dụng phụ trong số những tác dụng phụ đã kể. Thêm vào đó, trong cuốn sách của mình, Heal Yourself with Sunlight, tôi đã bàn luận về nghiên cứu chứng minh khi dùng thuốc bổ sung, vitamin D có thể ức chế hệ miễn dịch. Mặc dù tôi ý thức được rằng thuốc bổ sung có thể nhanh chóng loại bỏ các triệu chứng nhất định của bệnh, nhưng chúng cũng thay thế những triệu chứng đó bằng những triệu chứng khác nghiêm trọng chẳng kém, có khi còn nguy hiểm hơn.

1 RDA là mức nạp hằng ngày các chất dinh dưỡng để đáp ứng được nhu cầu của hầu hết những người khỏe mạnh, do Hội đồng Thực phẩm và Dinh dưỡng, Viện Y tế thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ công bố (BBT).

Giống như vắc xin, thuốc bổ sung ức chế hệ miễn dịch, khi đó cơ thể không còn có được một đáp ứng thích hợp vốn bao gồm viêm, đau, sự yếu ớt, phù nề... Tuy nhiên, cũng không nên hiểu lầm điều này là cải thiện tình hình, mà nên hiểu là làm trầm trọng thêm tình hình. Ánh nắng hoặc vitamin D được tạo ra do cảm ứng từ ánh đèn chiếu không bao giờ có tác động tiêu cực như vậy.
Có một bước tiến khổng lồ đằng sau việc thúc đẩy các thuốc bổ sung vitamin D tổng hợp cho người dân tiêu thụ; và những lợi ích tài chính to lớn cũng liên quan đến việc thực hiện các nghiên cứu chứng minh cho giá trị của nó, không khác gì các cuộc thử nghiệm thuốc đã bị thao túng. Tôi là một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất của vitamin D (mà thực ra nó là một hoóc môn steroid) và tôi đã viết rất nhiều về nó trong 15 năm qua, bởi thế không cần phải thuyết phục tôi về tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên tôi chỉ đề xuất nên rạch ròi khi nhắc tới việc nạp hoóc môn steroid, ngay cả khi đó là các tiền chất như D2. Steroid từng được coi là thần dược với những tác dụng tuyệt vời của nó, nhưng hiện giờ chúng ta đã biết chúng hại nhiều hơn lợi. Tôi chỉ hy vọng là chúng ta không rơi vào một cái bẫy khác nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Kiến Thức Đó Đây



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 41 guests