Page 1 of 1

Thi Vịnh - Đông Hoà

PostPosted: 23 Jul 2006
by donghoa
VỊNH NGUYỄN KHUYẾN

Chiều câu cá trên hồ năm cũ
Trúc cần thả đủ một lần câu
Cá đâu không thấy vang động nước
Tỉnh lặng im lìm rước bóng sâu

Nước biếc mặt hồ đâu xanh thẫm
Sắc màu mây nhẩm gọi thời gian
Nghe như chan chứa tình non nước
Chợt vọng lại từ trước nghìn xưa

Thuở xưa ấy nơi hồ Trúc Bạch
Một cỏi người của buổi loạn ly
Mang hồn chí sĩ thương non nước
Ôm nổi lòng đau trước bể dâu

Biết về đâu cho vơi uất giận
Vì một lần vai gánh quê hương
Mối tơ vương nặng lòng chí sĩ
đã mấy Thu chất đủ tiếc thương

Vườn trúc cũ trơ xương tuế nguyệt
Chút giọt sầu luyến tiếc người xưa
Trúc xưa tạ thế đà lâu lắm
Chắc vẫn nặng lòng với núi sông

Đông Hòa

[i] ( viết bài này về " Trúc sơn yên tử " )


--------------------------------------------

VỊNH QUỐC HỒN

Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Mọi người hướng vọng đến tổ tịên
Trong năm lễ hội viếng Đền Hùng
Gợi tưởng nhớ thuở xưa tích cũ

Việt Nam trước nghìn năm hộ quốc
Bởi giặc gây nhiều cảnh tan hoang
Bắt dân vào rừng thiêng nước độc
Tìm voi , tê giác cống hàng năm

Sự cai trị vô cùng khắc nghiệt
Nhân dân ta nổi dậy nhiều nơi
Đã sản sinh Danh nhân tế thế
Mang thân mình gánh nợ non sông

Nhiều danh tích vang xa bốn biển
Các đời Vương ngắn ngủi ra đời
Như Trưng , Triệu , Lý Vương , Hắc Đế
Đức Phùng Hưng* khởi nghĩa Ngô Quyền

Những trận Bạch Đằng Giang Lịch Sử
Hay vang xa Tiết Liệt Hát Giang*
Nơi Hai Bà xưa đà tuẫn tiết
Vì trận vong chinh chiến trầm mình

Nay tưởng nhớ tâm linh cao cả
Ba nén nhang chấp hướng tổ tiên
Lòng khấn nguyện Linh Hồn Tử Sĩ
Vì non sông yên nghĩ nghìn thu

Thân xác đã không nơi nương dựa
Tan theo đất mẹ giữa Quê hương
Oai võ thay chí hướng Anh hùng
Dòng Lịch sử nghìn trùng thương tiếc

Đông Hòa


* Bố Cái Đại Vương ,
* nơi Bà Trưng , Bà Triệu tuẫn tiết

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : CHỮ HIẾU

Phận làm con chữ Hiếu phải suy
Vì công đức dưỡng dục sinh thành
Khi còn nhỏ ẵm bồng sữa Mẹ
Lúc lớn lên chí hướng lời Cha

Mang dũng khí sa trường nợ nước
Bước về nhà Hiếu tạ song thân
Mới Hay ! Thân trai nòi giống Việt
Một lòng trinh vì nước vì nhà

Ấy ! Chữ son làm con phải hiểu
Học Hiếu Lễ đễ biết tôn thờ
Mai khi thành danh sự ở đời
Cũng phải lấy đây làm cột mốc

Dốc trọn đạo tiếng đời muôn thuở
Người ngợi ca hai chữ hiếu trung
Cho nên sống ! Cũng thường phải nhớ
Khi chết đi ! Danh rạng nghìn trùng

Đông Hòa

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : CHIẾN SỸ TRẬN VONG

Cuộc đời như một giấc chiêm bao
Thời gian mau đã tóc phai màu
Mấy chục năm đau lòng kẻ sĩ
Chỉ vì mang năm tháng lời thề

Lời thề ấy trong đêm cô tịch
Đứng dưới cờ chiến dịch khởi binh
Ánh thép vang hai chữ ân tình
Vì non nước trung trinh đáp tạ

Đã cùng nhau chữ son vững dạ
Sống đã cùng chí nguyện vì dân
Dù cho thân có phải bỏ mình
Nhưng khí tiết linh hồn bất diệt

Nay ra đi vì non sông Đất Việt
Trên sa trường chi xiết hiểm nguy
Vì đất nước hi sinh sự sống
Giữ một lòng Trung Hiếu non sông

Nay nơi đây giữa đông lạnh vắng
Bao năm rồi chẳng bóng người thân
Một cõi người vì dân bất tử
Xác thân kia tứ xứ xá gì

Nay trước Linh Vật (*) Khấn chi Thần
Chi Tướng , Chi Quân , đồng tiến lễ
Hãy về ! Theo tế tạ Linh Thần
Chung hưởng Thiên Địa đắc vị thân

Chi Lễ Bái Tạ
Đông Hòa
* Đồ cúng

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : HỊCH CẦN VƯƠNG

Tay kiếm thép trong đêm cô tịch
Trong đêm loang loáng Hịch Cần Vương
Nợ núi sông bởi lẽ chữ thường
Thù non nước sự đời cương toả

Nay vì nước thân chinh trừ giặc
Hỡi Anh Hùng Tụ Nghĩa về mau
Khắp mọi nơi hãy dấy binh đao
Cùng nổi dậy đánh quân xâm lược

Nay theo Hịch bước đi các hướng
Hỡi toàn dân tướng sĩ chung lòng
Quét đất Việt cho sạch thù trong
Mang Thanh bình Tổ Quốc Quyết sinh

Nay Trẫm (*)mang Long Bào Ấn Tín
Trước trời Nam tuyên Lễ Khởi Binh
Hào Kiệt khắp ngã hãy quên mình
Để cùng Trẫm Chí Nguyện vì dân

Quét cho nhanh sạch lũ hung tàn
Mang no ấm đến cho trăm họ

Đông Hòa

(*) Vua Hàm Nghi

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : LAM SƠN KHỞI NGHĨA

Khi ấy nhà Hồ vừa thất thế
Giặc Minh phương bắc vội xâm lăng
Nhằm cướp nước xoá tan Quốc Việt
Đem hung tàn trải khắp non sông

Lúc ấy có nhiều người trẻ tuổi
Vì Quê Hương khởi nghĩa dấy binh
Đất Lam Sơn khởi nghiệp Anh Hùng
Mang trí lớn trên đường phục Quốc

Đêm hôm ấy Lũng Nhai Thề Hội
Mang quyết tâm chiến thắng quân Minh
Ra tối thượng vì dân giết giặc
Gọi Nghĩa Sĩ tôi luyện thao trường

Và như thế mười năm ròng rã
Chí khí quân dâng ngút trời xanh
Tây Đông Quan diệt quân Mộc Thạnh
Trận Chi Lăng Liễu Thăng bỏ mình

Bọn Lương Minh , Thôi Tụ , Hoàng Phúc
Bị thúc vây tứ hướng tan quân
Vương Thông thân hàng Đồng Quan ! Hãm
Thế lực Minh nhanh chóng suy tan

Thảm thay ! Mười vạn Quân Minh
Trong một lúc Đế chế tan tành
Thành hàng binh chờ về cố quốc
Thanh bình nay lại thuộc nước Nam

Bao danh tiếng sử xanh ghi tạ
Nào Trịnh Khả đến Phạm Văn Sào
Lê Chất , Lê Lai , Trần Nguyên Hãn
Nguyễn Xí ,Cầm Quý , Xa Khả Tham

Nguyễn Trãi , Nguyễn Chích , Đào Công Soạn
Đinh Lễ , Lý Triện , Lê Văn An
Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng
Lê Ngân , Lê Sát , Lưu Nhân Chú

Những Công Thần Vị Quốc Vi Thân
Buổi Lập Quốc Nước tên Đại Việt
Điện Kính Thiên Lập Tự xưng Vương
Danh xưng “ Duệ Anh Vũ Đại Vương"(*)

Lấy Quốc Bảo “ Bình Ngô Đại Cáo”
Làm Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Nam
Vậy :” Sau hai mươi năm chinh chiến”
Đất Nước ta có cảnh Thanh Bình

Chấp hai tay dưới Điện Uy Phong
Thập Nhị Hương bái tương tứ hướng
Khấu nghinh lễ Tiền Quy Chính Ngọ
Cầu Linh Hồn Tướng Sĩ , Tử Sĩ

Lam Sơn khởi nghĩa Tụ Hưng Kỳ
Trên Linh Vật dưới Thập Nhị Khí
Ngang hai hàng đôi Trụ Giáp Tề
Kính Vong Hồn các ngã lộ về
An hưởng lạc đồng thân kính cáo !

(*) Lê Lợi Đông Hòa


----------------------------------------------------
Lời Bình : 1418 - 1428 khởi nghĩa Lam sơn thành công vang dôi , Lê Lợi lên ngôi sau khi chiến thắng nhà Minh , trong năm năm trị vì đã giết , bức tử hoặc lưu đày nhiều bậc công thần như Trần Nguyên Hãn , Phạm văn sào.....v....v.......nên trong bài thơ tế này không nêu đích danh tuy ông là lãnh tụ khởi nghĩa . Những công thần kia không đọc được suy nghĩ cũa Phạm Lãi và cái giá phải trả của Văn Chủng vì Việt Vương Câu Tiển thời Xuân Thu ........do vậy những cái chết của họ thật đáng thương tâm ( Theo sử học )


--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : MỐI HẬN NON SÔNG (*)

Biết làm sao khi nhìn đất nước
Thân làm Vua (*) trước cảnh suy vong
Nước non nay vang tiếng bi thương
Của muôn vạn thần dân Việt Quốc

Ai oán thay ! Trên cao Chín Bệ
Nhìn nước mất nhà tan xót lòng
Biết làm sao vì còn trẻ non
Mà cứu khổ cho nòi giống Việt

Nay thân đã mang gông xiềng xích
Thực dân(*) đày trên đảo hoang vu
Trông về xa biển xanh vần vũ
Nhớ cố hương vô kể vọng thu

Tiếc ngày qua thù chưa thể trả
Hận ôm thêm cả nhục quê hương
Nên nơi đây bao nỗi chán chường
Vương kỷ niệm xuôi hồn quá khứ

Đông Hòa
(*)Giặc Pháp
(*)Vịnh : Nỗi lòng Thiên tử )
(*)Thành Thái , Duy Tân , Hàm Nghi
(*)Viết năm 1979 chỉnh sửa năm 2005 )


--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : NGUYỄN TRUNG TRỰC

Dòng Cửu Long xanh màu nước biếc
Gợi tiếc thương một đấng Anh Hùng
Vì non sông chữ Hiếu trung trinh
Đền nợ nước vinh thân quốc sử

Nhớ từ xưa trên dòng Nhật Tảo (*)
Máu quân thù chao khắp mặt sông
Dương Đông , Cửa Cạn (*), sạch hung tàn
Vũng Gù , Vàm Cỏ Đông (*),Tây kiếp sợ

Bình Trinh , Bến Lức (*), mồ chôn giặc
Thủ Thừa , Long Thành (*), trơ bóng thù
Hòn Chồng , Hàm Ninh (*), dân nổi lên
Vén mây mù trên vai Bá Tánh

Nguyễn Trung Trực Anh Hùng Dân Tộc
Sống vì Dân thác cũng vì dân
Trí thân trai Anh Dũng liều mình
Vì chữ Hiếu vinh thân đáp trả

Hỡi ! Linh Hồn đã vì Tổ Quốc
Hãy về đây trong cảnh an vui
Chinh chiến xưa vùi chôn quá khứ
Đất nước nay hết bóng giặc rồi

Một Tổ Quốc Sơn Hà cội Việt
Trí hiên ngang tiết liệt còn đây
Sống vì nước chữ Trung trọn đạo
Nợ tình thâm chữ Hiếu thân mang

Vai nặng gánh Sơn Hà xã tắc
Dưới gót chân Non Nước Quê Hương
Trước một thời đất nước tang thương
Người đã chết Tâm Linh sống mãi.

Đông Hòa

(*) Địa Danh thời bấy giờ
( viết năm 1974 chỉnh sửa năm 2005
)

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Thuở ấy từ thời Vua Tự Đức
Non sông trong vực thẳm lầm than
Giặc ngoại , thù trong đang dày xéo
Đói khổ cơ cầu dân thán oan

Khi ấy vang tiếng chàng trai Nguyễn
Xa quê du học thuyết Tây kỳ
Vì cải cách ba lần dâng sớ (*)
Mong nước ta xoay trở mạnh giàu

Nhưng lúc ấy vào thời phong kiến
Không thèm nghe tiếng nói của người
Cho đó phường yêu dân ngoại đạo (*)
Thì làm sao ích nước lợi nhà

Cứ như thế ba lần đổi sớ
Với sở tâm cải cách non sông
Ông chỉ mong dân chúng sang giàu
Bao hạnh phúc ấm no trăm họ

Nếu lúc ấy sớ đó trọng dụng
Thì dân ta chung hưởng thái bình
Đâu nhìn cảnh An nam hộ quốc
Đến trăm năm chốc mấy đời người

Ơi hỡi ! Nay người xưa khuất bóng
Có hay trong sử sách vang danh
Một Đấng nam trung thành sĩ khí
Tâm hồn vì đất Việt thiêng liêng

Ơi hỡi ! hỡi hồn thiêng xưa ấy
Hãy về đây chung với Tổ Tiên
Chuyện xưa ngày cũ dù lỡ dỡ
Nhưng sử đời vẫn nhớ người xưa

Đông Hòa



( * Nguyễn Trường Tộ cãi đạo theo Thiên Chúa )

* Ngày xưa thời phong kiến hành động này rất nguy hiểm vì có thể làm cả gia tộc bị giết hại , do vậy người ba lần dâng sớ là một người rất anh hùng vì dân và vì nước )

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : TÂY SƠN KHỞI NGHIỆP


Vào thuở xưa khi thời suy loạn
Vua yếu hèn đất nước ly tan
Hai Đàng Nam Bắc phân chia định
Nhân dân chia cắt rất điêu linh

Khi ấy nươc nhà thời thống khổ
Nơi Trung Kỳ thổ xứ Tây Sơn
Đã sản sinh Chí Nghĩa Anh Hùng
Bao Dũng Tướng Vì dân định Quốc

Một Anh Hùng Tây Sơn (*) đất Võ
Thà bỏ thân không khuất cường hào
Ra sa trường mưu lược hoằng thao
Thân nghiệp lớn vì dân tạo phúc

Hỡi ! Anh Hùng Tây Sơn Quốc phục
Chí Hùng Anh trong cuộc Bắc chinh
Chống Quân Thanh nghìn vạn tràn sang
Mồng Năm Tết sấm vang Chiến Thắng

Trận Ngọc Hồi (*) tan quân Sĩ Nghị
Đến Đống Đa (*) Nghi Đống bỏ mình
Tàn quân Thanh sống chết dẫm nhau
Gây nên cảnh Nhị Hà (*) biển xác

Họ Tôn kia xoạt quăng Ấn tín
Vứt phục quan rút chạy quy hồi
Vì tham sống đê hèn nhục nhã
Mang cả về Kinh Bắc triều Thanh

Anh Hùng thay ! Non Sông Nước Việt
Từ ấy nay biệt bóng Bắc xâm
Một chí cả Tây Sơn Quốc Lập
Nhập chung dòng máu Lạc Âu ta

Hỡi ! Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Về chứng kiến Tân Hôm Lễ Tịnh
Chư Tướng , Hữu Binh , Tả Quân
Trung Quân Ký ,Quân Kỳ , Hậu Nhu

Đại Lễ Hình Tây Sơn Đại Thắng
Tất Lễ Tây Sơn Lĩnh Chi Thần

* Địa danh Đông Hòa

( Viết năm 1978 chỉnh sửa năm2005 )



--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : THƯỜNG KIỆT BẮC CHINH

Thời ấy đời Thần Tông nhà Tống
Nhiếp Chính Công An Thạch họ Vương
Nước Nam ta đương thời họ Lý
Đời Thánh Tông dân cảnh thanh bình

Khi ấy có họ Ngô tên Tuấn
Quan ba Triều Lý Thất Hoàng Gia
Lập kỳ công Vua ban họ Lý
Thành danh Lý Thường Kiệt Uy Phong

Vua Nhà Tống ý đồ thôn tính
Muốn nước ta nô lệ diệt vong
Sai Thẩm Khởi , dõng tướng Lưu Di
Tăng đồn lũy chọn ngày Nam tiến

Thấy thế giặc cực kỳ nguy biến
Vua Nam cùng Tướng Sĩ chuyển binh
Lý Thường Kiệt , Giám Chính Tông Đản
Mười vạn quân hùng hậu Bắc Chinh

Tiến đánh chiếm các Châu Nhà Tống
Ung Châu , Liêm Châu , Khâm Châu mục
Chém Lê Thủ Tiết , Tô Giám diệt thân
Tổng quân địch giết hơn mười vạn

Tống thân sai Quách Quỳ , Triệu Tiết
Duyệt hợp binh Chân Lạp , Chiêm Thành
Lần thứ hai tiến đánh nước Nam
Khí thế giặc tam công hãn tiến

Trong thế biến mới hay hào kiệt
Dốc lòng vì Việt quốc xả thân
Dụng tốc binh Thần Dũng bất ngờ
Quan quân Tống trở tay không kịp

Sông Như Nguyệt thấm tràn máu giặc
Nghìn quân thù chết chẳng toàn thây
Mới Hay ! Khí tiết ấy Lý Thường
Một Lương Đống cứu nguy Tổ Quốc

Nay dâng lộc trước Linh Tiền Điện
Thái Quân Viện , Thái Bảo , Kỹ Thần
Lục Hương Kỳ , tứ khấn , tứ bái
Lý Thượng Quân Thái Uý Nghi

Nhất tâm khấu non sông chi tạ
Nhì Tam khấu Tả Quân chi vị

Đông Hòa

( Viết 1/1975 sửa chửa 12/2005 )


--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : TRẦN QUỐC TOẢN


Thân Hào Kiệt nước nhà lâm nạn
Khi Nguyên Mông phương Bắc tràn sang
Hai mươi vạn tiến quân dũng mảnh
Hầu đặt nền đô hộ nước Nam

Thế giặc thật vô cùng nguy biến
Hội Bình Than viện kế cứu nguy
Trong lúc ấy Hoài Vương Quốc Toản
Mười sáu tuổi sáng ngời Dũng Tướng

Vì non sông vực nước một lòng
Cùng quê hương hợp nghĩa tiến quân
Hữu Kỳ Phong ghi Phá Cường Địch
Tả Kỳ Phong chữ Báo Hoàng Ân
Diệt Thát Đát cứu nguy Tổ Quốc

Nhớ lại lúc Bình Than họp lão
Chê trẻ non không để cho vào
Cam trên tay nổi xung bót nát
Mới hay rằng Dũng Khí ngất trời

Nay sử xanh ghi lời công đức
Tam hương khấn tứ lạy nhục khấu
Hữu Binh Kỳ Hộ Thiên Chi Điện
Tả Quốc Tín Ngũ Vị Chi Thần

Đông Hòa

--------------------------------------------------------------------------------

Vịnh : Trưng Nữ Vương (*)


Thời ngoại xâm Việt dân thống khổ
Ách nô lệ bạo Hán hung tàn
Nơi Mê Linh trang Nữ Anh Hùng
Năm Giáp ngọ trùng quang non nước

Hai thớt Voi mở đầu đi trước
Vạn tinh binh cất bước Dũng chinh
Thành Luy Lâu khinh xuất tan tành
Bọn Tô Định hồi quan chịu tội

Trong chốc thôi ! Sáu lăm thành trì
Đi trở về ca khúc khải hoàn
Hai Nữ Chúa lên ngôi Cửu Ngũ
Huý Đại Tự tên Trương Nữ Vương

Năm Tân Sửu ! Hán sai Mã Viện
Cùng Phục Ba nam tiến tái xâm
Hai mươi vạn sói lang đốc tiến
Việt quân ta chẳng chốc diệt vong

Hỡi ôi ! Thân nhi nữ cùng đường
Giòng Hát giang đầy những bi thương
Trong thế cùng thượng thân hủy phế
Hơn sa tay loạn thế cuồng đồ

Than ôi ! Hai Bà Trưng tiết liệt
Vì non sông hào kiệt nữ nhi
Chí khí cao ngun ngút khắp trời
Vang hậu thế muôn đời Sử tạ

Nay trước Tả Điện ! Tiền Vọng khấu
Hồn hầu theo hương khói trở về
Vạn Vong Quân các ngã lộ hoang
Về hưởng lạc cung hoan Kính Hỹ

Đông Hòa

(*) Trưng Vương ( 41 - 43 ) mất ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý mão là hai vị vua Nữ đầu tiên của Việt Nam , đánh dấu mốc son trong trang sử cứu nước , tuy thất bại nhưng những thành quả Hai Bà đạt được đã mở đầu cho những cuộc nỗi dậy của Nhân dân Việt Nam sau này !

[/i]

PostPosted: 23 Jul 2006
by donghoa
LÝ BẠCH ĐƯỜNG THI

Tôi có người quen tên Lý Bạch
Từ lâu vạch trước mấy ngàn năm
Viết lời thơ nhằm tụng Tân Đường
Cho Vua Chúa Dũng Long đương thế

Ngàn năm trước về thời họ Lý
Vì ngôi vua Thiên Tử triều Đường
Đã đương nhờ Lý Bạch tân thơ
Dùng câu chữ đỡ an non nước

Được khuyến khích ông liền trước tác
Các Đường thơ bảy chữ ra đời
Lúc đương thời ai cũng suy tôn
Một Văn Thánh tài cao Thiên hạ

Đường Đế đã phán ra chỉ dụ
Nói rằng thơ truyền thụ khắp nơi
Tới các Họ toàn dân cùng biết
Để cuối thu viết sử Đường Thi

Thật xuất sắc một tay thi phú
Trên non sông theo cú thất ngôn
Khắp muôn nơi dù chốn quê làng
Ai cũng thuộc danh thơ họ Lý

Đông Hòa

PostPosted: 23 Jul 2006
by donghoa
BƯỚC CHÂN Vì TỔ QUỐC

Anh em ta cùng chung quê nước Việt
Cũng chung mang dòng máu đỏ da vàng
Trái tim ta tuổi trẻ sống hòa chan
Cùng tiến bước dội vang đường tổ quốc

Anh em ta dốc hai bầu nhiệt huyết
Gác tay nhau chung bút viết tình ca
Trên non sông ta liên khúc khải hoàn
Mừng chiến thắng hân hoan hạnh phúc

Ngày lúc ấy sẽ không còn xa nữa
Sẽ đến ngày đón ngọn lửa tương lai
Chí hướng ta đâu phải sống một ngày
Nay vĩnh viễn vì trái tim tổ quốc

Tổ quốc ta bốn ngàn năm văn hiến
Lớp sử ghi bao chiến tích hùng anh
Bước quân hành theo năm tháng chiến chinh
Mang nghiệp lớn trọn một đời gìn giữ

Đông Hòa

PostPosted: 23 Jul 2006
by donghoa
ĐÊM NHỚ XUÂN DIỆU

Bác Xuân năm nào xin hỏi thăm
Tuổi già bóng xế đã bao năm
Trăm năm một thuở tôi nhớ bác
Câu nói ngày xưa đệm thiết tha

Vần thơ ấy trong đêm uyển dạ
Đã nên lời bất hủ nhân gian
Bác định nghĩa chữ yêu như thể
Ngấm tình rồi ngủ mãi tim hoang

Tôi với bác tuy không quen biết
Nhưng cũng thơ một dạ cho người
Bác trước tôi nửa đời cầm viết
Một nửa kia tôi mới chào đời

Cất tiếng khóc non sông cách biệt
Vạn cố hương biết thuở nào tìm
Thời gian tôi lớn theo năm tháng
Một ngày thơ thức dậy trong tim

Bác thi sĩ tôi vừa thi sĩ
Đường bác đi đôi tuổi đời tôi
Lúc nằm nôi nghe tiếng bác rồi
Trong giấc ngủ lời ru của mẹ

Năm tháng trôi người đà xế bóng
Một nhánh Phù dung đã lụi tàn
Tiếng thơ mất giọng đời vẫn nhớ
Đến người thi sĩ của trăm năm

Đông Hòa

PostPosted: 23 Jul 2006
by donghoa
Việt Nam hận thù và tuổi trẻ

Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Một ngàn năm nô lệ rất lầm than
Trăm năm qua dưới ách giặc Tây
Hai mươi năm hận thù nội chiến

Bao thống khổ Việt nam tang tóc
Hằng triệu người ngã xuống vì ai
Khóc làm sao khô giọt lệ rồi
Đành giương mắt trôi qua thế sự
Trên non nước thây tràn máu thắm
Tuổi trẻ nào ! Ai đốt thiêu thân
Chí làm trai vì nước vì dân
Sao lại để sự đời cương tỏa

Ôi ! Việt Nam đất nước tôi yêu
Đến bao giờ sẽ hết điêu linh
Con người Việt đậm giòng máu Việt
Không hận thù chỉ mến yêu thôi

Đông Hòa 1974

PostPosted: 24 Jul 2006
by donghoa
CHÍ HƯỚNG

Một ngọn bút xây nên chế độ
Tựa lưng trang sách đỡ non sông
Chí dũng ấy đông phong cũng nể
Sức làm trai thân để sa trường

Không nhụt chí hiên ngang sông núi
Giúp non sông vui cảnh thái bình
Dù một ngày sẽ phải hy sinh
Nghiệp lớn ấy vì dân đáp trả

Nay bước về người mang nghĩa cả
Trên quê hương đang đổi sắc màu
Thương nước non chinh chiến tranh nhau
Nay thanh bình đón mừng hạnh phúc

Đến cuối đông chúc người viễn xứ
Thư đôi dòng gửi đến phương xa
Dân Việt ta hát khúc hoan ca
Không phân biệt nhà nhà thân ái

Đông Hòa

PostPosted: 24 Jul 2006
by donghoa
BÊN DỐC TÌNH YÊU

Ta đứng đó nhìn về xa khuất
Khói sương mù thâm thấp đồi cao
Gió như chao gẫy nhẹ mây vào
Như đảo nhẹ hoàng hôn vừa thức

Bỗng ta nghe cõi lòng ray rứt
Khi thức nhìn kỷ niệm ngày xưa
Ta bên em mộng mấy cho vừa
Nhưng chưa lúc gởi trao tình ái

Ta ngồi lại bên hàng đá nhỏ
Nhìn xa kia dốc cỏ quanh co
Cũng nơi đây những buổi hẹn hò
Ta em đó thả hồn trêu cỏ

Ta lại đứng bên đường lộng gió
Có mùa xuân nhỏ lệ cho em
Dưới hàng thông đem nhẹ mây vàng
Như dỗ nhẹ màn đêm vừa đến

Đông Hòa

PostPosted: 27 Jul 2006
by donghoa
TẾT NGHÈO
Đông Hòa

Tết đến năm nay không thấy vui
Không kèn không trống cửa mốc sùi
Chén chú chén anh đâu mất cả
So gối thả mình tối ngủ chui

Lợn béo gà thui đâu chả thấy
Sôi mâm quả ấy chẳng tiền mua
Muốn có con cua chầu thần bạc
Nhưng vì nhạt túi phải bỏ qua

Trước nhà đôi phướng thầy vừa dán
Phất phơ theo gió đang vẫy mời
Khách tới trà xơi đành thay vối
Không thôi nước lã cộng chút tình

Gióng bếp đốt thinh dăm đòn tét
Lá xanh gạo vét ! Chả có nhân
Thịt heo , thịt ngỗng .Vâng ! Không có
Thôi đành bó gạo cho nó xong

Nhìn thờ Tổ bông hoa thưa thớt
Dăm cành mai đỏ lợt (*) đầu sân
Thêm ba quả chát vừa đủ lễ
Mấy nén hương thô miệng nhẩm mê

Khấn năm sau ! Trời về phù hộ
Tết nhà ta cổ sướng chút thôi
Thịt xôi đủ lễ chầu tiên tổ
Sau thì rượu, cổ chuốc anh em

Đông Hòa

( * )Mai tứ quý loại này ít ai chưng tết
( Viết bài này tưởng nhớ đến cố Thi sĩ Tú Xương )