Thép Đen - Đặng Chí Bình

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 23 Feb 2010

Tập I - Chương 15

Vào Đất Địch …

Đã bước chân lên bờ, mà người tôi vẫn còn quay cuồng mệt lả, tôi nằm luôn tại chỗ ngoài bãi cát trắng dăm phút cho lại sức. Bây giờ chỉ còn một mình, tôi nhìn vào phía trong, vẫn đen kịt một mầu, không thấy một hình dáng nhà cửa, cây cối. Tuy người chưa hết rã rượi, nhưng theo cái bản tính tự nhiên của sự sinh tồn, tôi vội vơ chiếc ba lô, tay xách đôi dép râu, chúi đầu tiến vào phía trong, chỗ mầu đen, để ẩn nấp nằm nghỉ. Chứ đây là giữa bải cát trắng lồ lộ, nằm làm sao yên. Chạy được vào chục mét, tôi thấy bãi cát có những khoảng, đốm loang lổ mầu đen. Tôi bước chân lên, thì ra là cỏ! Chẳng biết là thứ cỏ quái quỷ gì mọc trên cát lại toàn là gai, đâm vào chân tôi đau nhói. Vội vàng ngồi xuống, tôi thụt chân vào đôi dép râu, rồi tiếp tục lần mò chạy vào sâu nữa, qua hết bãi cát, đất sỏi càng lúc càng dốc lên. Bỗng, tôi bước hụt chân, cả người lẫn chiếc ba lô nặng chịch đều lộn tùng phèo xuống một hố đầy lá và cành cây khô. Sườn tôi đập vào một hòn đá đau điếng, nhưng vì hốt hoảng, căng thẳng, tôi vẫn thục mạng bò lên khỏi hố. Tôi cứ tưởng chiếc hố là cái bẫy của kẻ thù có gài mìn, nó sắp nổ.

Cứ ôm chiếc ba lô lúi húi xê dịch sâu mãi vào phía trong cho đến một lúc người quá mệt, tôi ngồi thụp xuống, ghé sát mặt đất, căng mắt ra nhìn vào màn đêm đen kịt. Nhìn lên nền trời xam xám, bóng mờ mờ của một cây to trước mặt. Tôi lầm lũi tiến về chiếc cây. Tôi đã tỉnh dần, nhìn đồng hồ đã hai giờ hơn. Trời vẫn tối như mực, giơ bàn tay trước mặt không nhìn thấy. Tôi chỉ còn dùng tai, vểnh lên nghe ngóng. Chỉ nghe những tiếng xào xạc của lá cây lẫn vào tiếng rì rào của sóng biển xa xa.

Dựa gốc cây mươi phút đã đỡ mệt, tôi lần mò lấy tay sờ soạng mặt đất chung quanh, xác định điạ hình, đào chôn những thứ tôi không cần mang theo. Đất cát nên tương đối mềm. Tôi lần mò lấy chiếc xuổng con trong ba lô. Đã mấy lần thực tập chôn giấu vật dụng trong đêm, tôi hiểu điều quan trọng nhất là không để rơi ra ngoài một hòn đất mới nào. Một chiếc túi to may sẵn, bao nhiêu đất cát đào lên, đều đổ vào đấy.

Trong lúc loay hoay làm việc, tôi nghĩ đến các vỏ bọc trong kế hoạch khai báo khi bị rơi vào tay địch mà Sài Gòn đã huấn luyện cho tôi. Ngay từ khi đó, tôi thấy Cục Tình Báo miền Nam đã đánh giá cộng sản thật ngây thơ. Vỏ bọc 2 và 3 làm sao cộng sản tin được. Sài Gòn không thấy làm như vậy sẽ gặp hai khuyết điểm: thứ nhất, nó sẽ không tin vào một vỏ bọc nào hết. Thứ hai, chắc chắn thân tôi sẽ nhừ đòn của chúng. Cho nên, lúc này tôi quyết định bỏ hẳn vỏ bọc 2 và 3. Tôi đã chôn mấy chục lọ thuốc Tây của vỏ bọc 2, cả lương khô, bi đông lọc nước, chiếc máy hồng ngoại tuyến, 200 đồng tiền miền Bắc, thuốc lá “Đại Tiền Môn”, diêm quẹt. Những thứ này xét ra không thực tế, lại vừa kềnh càng lỉnh kỉnh, vừa càng dễ bị phát hiện. Tôi chỉ mang theo hai trăm đồng với một chiếc túi dết, cùng một số quần áo lót, nghĩa là những thứ đã cũ của miền Bắc. Những tài liệu, đựng trong một cái túi tí con, tôi đã khâu phía bên trong quần lót. Tài liệu này, ngay từ khi rời Đà Nẵng tôi đã luôn mang theo trong mình. Dù vậy, tôi vẫn thỉnh thoảng phải cho tay vào sờ, vì đó là linh hồn của chuyến đi.

Vì đã có kinh nghiệm, nên chỉ hơn một tiếng đồng hồ tôi đã chôn giấu hoàn hảo. Làm xong, đưa tay sờ độ dày của lá khô bên cạnh, tôi xoa chỗ chôn vật dụng cho bằng như cũ.

Nhìn đồng hồ 3 giờ 30 phút, quá hồi hộp, căng thẳng thần kinh trong khi làm việc tôi không để ý, bây giờ tôi mới thấy chỗ sườn đau ê ẩm, nhoi nhói. Tôi sờ tay vào không thấy sưng. Tôi tự nhủ, kệ nó, rồi nó sẽ khỏi. Lúc này, tôi mới thấy đói và thấm mệt. Tôi gối đầu lên túi dết, dự định nằm một tý để lấy sức. Vừa mệt, vừa thiếu ngủ tôi thiếp đi lúc nào không hay. Khi tai tôi thoáng nghe tiếng người gọi nhau í ới, tôi giật mình thức giấc. Bò nhổm dậy, tôi mở to mắt, vểnh tai lên, hướng về có tiếng người khi nãy. Tôi nhìn đồng hồ mới 4 giờ 30. Trời vẫn còn tối đen. Tôi ngạc nhiên, hay là tôi mơ. Tôi vẫn nhớ đinh ninh lời ông Phan nói: “Nơi đây có thể nghỉ ngơi hàng tuần thoải mái,” nghĩa là khu vực này không có người ở. Với khả năng thính giác của mình, tôi tin là đã nghe đúng, vì vậy tôi tiếp tục nghe ngóng. Nhưng chỉ là tiếng gió rì rào lẫn vào tiếng xào xạc của vài chiếc lá khô rời cành.

Mãi chả thấy gì, vẫn cái im lặng của đêm trường. Một tiếng cú ở đâu xa rúc lên trong đêm khuya, nghe dài lê thê như tiếng thở than của những kiếp người nhiều cực nhọc gian khổ. Tôi lại nằm xuống như cũ. Chưa được mười phút, đột nhiên một tiếng cười dòn ngặt nghẽo của một người con gái, lẫn vào trong gió làm tim tôi thắt lại. Tôi nhỏm bật dậy, tiếng một người đàn ông nghe rõ mồn một:

- Để cái liềm đấy cho tui!

Không còn nghi ngờ gì nữa, với phản xạ tự nhiên, tôi vội vơ lấy cái túi dết và lủi dần, xa hướng có tiếng nói.

Trời sáng dần, mờ mờ, tôi đã nhìn ra cảnh vật. Ngay chỗ tôi ngồi là một chỗ nghĩa địa, lưa thưa một số ngôi mả, lác đác chung quanh vài bụi cây nhỏ cành lá khô cằn như thiếu nước, bụi nào cao nhất cũng chỉ chừng 2 mét. Cả một khu vực, chỉ có một cây to duy nhất chỗ đêm qua tôi đã lần mò tới được. Lướt tầm mắt về những phía xa xa, bao quanh phía trong, toàn là những lũy tre làng ngang dọc. Như vậy, ở đây thật gần xóm làng!

6 giờ, xa xa phía làng, một đoàn người trai gái, liềm hái đang đi về phía tôi. Nhìn quanh, chẳng còn chỗ nào kín đáo để ẩn núp. Gần chỗ tôi đang đứng, chỉ có duy nhất một bụi cây nhỏ, đường kính chừng 2 mét và cao cũng khoảng 2 mét là cùng. Cấp bách quá rồi, tôi đành chui vào đấy, trong khi đoàn người vẫn đang đi tới. Con đường mòn đi qua chỉ cách chỗ bụi cây tôi nấp chừng 6 mét. Trong bụi lại có một ổ kiến vàng to tướng, kiến bò vào chân, vào người tôi cắn nóng ran. Tôi chỉ dám lấy hai tay xoa khe khẽ, không dám làm mạnh vì sợ rung cành lá.

Khi đoàn người đi ngang qua bụi cây, tôi tưởng như nghẹn thở. Nếu có ai đó buồn đi tiểu, rẽ vào bụi cây này, ôi thôi, cuộc đời tôi sẽ … đi đứt! Điều làm tôi hoang mang không ít nữa là họ nói tiếng ríu rít như chim, nhiều tiếng tôi không hiểu được. Tiếng Nghệ An tôi đã biết; ở đây, không phải tiếng đó. Như vậy, đây chỉ có thể là Hà Tĩnh. Thực ra, tôi cũng chỉ suy đoán chứ chưa dám khẳng quyết, vì Phan đã nói rõ ràng: “Chỗ Bình đổ bộ thuộc tỉnh Nghệ An giáp với Hà Tĩnh. Đây là vùng quê hương của họ, họ là thổ công của vùng này. Bình hãy yên tâm!”

Còn một điều nữa, một phần do tinh thần tắc trách của Phan, nhưng phần chính là do tôi. Do tinh thần chủ quan xem thường địch. Tự tin vào khả năng của mình sẽ qua mặt chúng được, cho nên tôi đã không hỏi vùng tôi đến là làng nào, xã nào, huyện nào khi quyết định thay đổi điểm đổ bộ khác. Đó là một khuyết điểm trầm trọng của tôi, người đi vào đất địch để hoạt động.

Nhưng qua thực tế, dù tôi có hỏi kỹ để biết rõ chăng nữa, tôi vẫn bị tình trạng hoang mang như lúc này. Nghĩa là, tôi cảm thấy hải thuyền đã không đưa tôi đến đúng chỗ quy định, mà Phan đã giao ước với họ. Ngồi trong bụi cây, càng suy nghĩ mặt tôi càng nóng lên. Như thế này, thật là đầy cam go, gay cấn: Một người trai Bắc lạ, ở giữa một vùng mà chưa biết đích xác thuộc tỉnh nào, chứ đừng nói làng xóm địa phương.

Lúc này, đoàn người đã xuống ngay một thửa ruộng cách chỗ tôi nấp chừng 200 mét để gặt lúa. Họ cười nói, chuyện trò ầm ĩ. 7 giờ, rồi 8 giờ. Mặt trời chói chang, đỏ như lửa đang bò lên cao từ hướng Đông. Đến đây, tôi mới nhớ lại chiếc mũ cối, vì vội vàng, lại rũ rượi vì say sóng, tôi đã để quên trên hải thuyền. Thật là lúng túng nhiều mặt. Ở trong bụi mãi đâu có được. Trời nắng, khi họ nghỉ gặt, giải lao, họ sẽ kéo vào nơi bóng mát nghỉ ngơi. Tôi bấn cả người lên, ngó ngấp chung quanh. Giá có cách gì bới đất để chui xuống! Phần bị kiến cắn nhiều, lại còn sợ hãi, nên căng thẳng làm tôi tê người đi.

Nhìn lại phía cây to, chỗ tôi chôn giấu vật dụng, cách bụi cây tôi đang nấp chừng 30 mét. Do đêm tối sờ soạng, tôi đã để rơi mấy hòn đất ra ngoài, mà tôi không biết. Hơn nữa, lá phủ ngụy trang chỗ chôn cũng chưa ổn như mình nghĩ. Người tinh ý nhìn thấy, sẽ tò mò, phát hiện ra ngay. Làm sao đây? Đây cũng là chuyện sống chết, tôi phải tìm mọi cách để giải quyết. Tôi lựa một góc khuất do bụi cây che với nơi ruộng của đoàn người đang gặt. Tôi bỏ túi dết lại trong bụi, nằm sấp, bò về phía cây to.

Tôi nhặt những hòn đất vương vãi đút dần vào túi quần, xáo lại những chỗ lá khô cho đồng nhất, rồi tôi bò về bụi, móc những hòn đất bỏ ra.

9 giờ rồi. Mồ hôi tôi ra ướt đẫm áo, vừa vì tinh thần căng thẳng, vừa vì cái nóng oi nồng của mùa Hè. Mới còn sớm mà sao gió thổi từ hướng Tây nồng nực, gió cũng nóng. Lúc này tôi phải quyết định, dù có bị bắt liền tại đây. Muốn hay không tôi cũng phải chui ra ngay khỏi cái bụi cây quỷ quái này. Vì còn một điều gay cấn nữa, khi sớm, vì sợ và vì bị kiến cắn, tôi không để ý. Bây giờ, trời sáng rõ tôi mới thấy trên đầu và chung quanh tôi, toàn là sâu róm! Trong cuộc đời tôi, không hiểu sao loại này tôi ghê sợ nhất. Tôi chẳng biết sợ thứ gì, dù trong rừng gặp hổ hay rắn. Ngay khi còn đi học ở Sài Gòn, có lần tôi đã trèo vào chuồng cá sấu để sờ da nó. Một vài người bạn thân chẳng có thể làm gì được để bắt tôi phải chiều theo ý họ, trừ khi họ có con sâu róm. Chính tên Đặng Trí Hoàn đã cầm một cành điệp có con sâu róm, đuổi tôi chạy dọc suốt mấy phố chung quanh trại học sinh, để xẩy ra một tai nạn giữa hai người đi xe đạp, trên đường phố, đầu năm 1957.

Nghĩ lại lúc ngồi trong bụi cây, bây giờ tôi còn nổi gai ốc lên. Sau này, lúc cộng sản khai thác cung, nếu chúng biết được nhược điểm ấy của tôi, cứ đưa sâu róm dí vào người, không biết lúc ấy tôi sẽ như thế nào. Tôi chui ra khỏi bụi cây ngay! Tay vuốt lại quần áo ngay ngắn, khăn mặt vắt vai, một bên khoác túi dết, tôi đường hoàng đi ra.

Tôi đã có chủ định, cứ phải vào làng. Hiện giờ, tôi chưa xác định được Quốc lộ 1 nằm về hướng nào phía bên trong. Tôi đưa mắt nhìn khắp phía xa xa, trong cái màu xanh bạt ngày của cây và núi, tôi cố chú ý, cũng chẳng thấy vật gì di chuyển. Lúc đó khoảng 9 giờ 30 sáng. Nhìn về phía đoàn người đang gặt, tôi tươi mặt, vừa cười, vừa giơ tay ra hiệu chào và tiến về phía họ. Vài cô gái tự nhiên cười ré lên, tay vẫy vẫy gọi:

- Anh ơi! Đi đâu đấy, xuống đây gặt lúa với chúng em!

Một số thanh niên cũng cười. Tôi cứ tiến bước về phía họ, rồi tay khoắng lên lia lịa, nói to:

- Chào các bạn, vui quá, lúa năm nay có khá không?

Tôi đi đến nữa chừng, rồi vờ chợt xem đồng hồ tay, tôi ngửng lên, tay chỉ về phía làng:

- Chết đã 9 rưỡi rồi, tôi phải vào gặp ông chủ tịch đã!

Mồm nói, chân tôi quay lại phía làng, vừa đi tới vừa ngoái lại, đưa tay vẫy vẫy:

- Chiều nhé, tôi còn ở lại đây đến chiều!

Các cô rối rít léo nhéo, vẫy gọi tôi. Đi dăm chục mét, tôi quay lại cũng vẫy, mấy chiếc bàn tay giữa ruộng cứ giơ mãi lên vẫy tôi. Đã đi xa, qua được “ca” này, tôi cũng thêm phấn chấn tinh thần. Làm sao họ có thể biết được rằng, tôi vừa ngoài biển vào đây đêm vừa qua. Từ nơi bụi cây, dẫn vào làng là một con đường đất đỏ, dài chừng độ 700 mét. Trời nắng chang chang, đầu lại không mang mũ nón, thật là bất tiện. Trên đường đi tới, sẽ càng khó khăn thêm ra.

Vào tới gần làng, tôi thấy trước một chiếc cổng tre là một người đàn ông cởi trần, mặc chiếc quần đùi đen, khoảng năm chục tuổi, ngồi ngay xuống vệ cỏ. Tay ông ta cầm chiếc roi tre, đập đập vào cây khoai nước dưới ruộng như đùa nghịch chơi một mình. Ngay từ xa còn cách khoảng 200 mét, tôi đã thấy lão nhìn phía tôi rồi, thế mà giờ đây tôi đi gần đến, lão vẫn coi như không biết. Thái độ của lão già làm tôi hơi chờn. Theo lẽ thông thường, trong một xóm làng vắng vẻ, thấy một người lạ đi đến, phải trố mắt ra nhìn mãi mới phải. Khi tôi tới, còn độ 2, 3 mét, tôi phải lên tiếng trước xem sao:

- Chào bác, bác ngồi chơi? Cháu vừa ngồi ngoài đó! (tay tôi chỉ về hướng đoàn người đang gặt phía xa) nói chuyện với các anh chị vui quá. Ở ngoài đó cháu mới uống nước đấy, thế mà vào tới đây đã khát rồi. Cháu vào xin bác ngụm nước nhé?

Miệng tôi nói, chân như có vẻ định đi vào cổng. Tôi đã thấy một căn nhà tranh con lụp xụp, với vại nước để bên cạnh chiếc cầu ao bằng 3 thân tre ghép lại. Tôi chào và nói bấy nhiêu lời, mà lão chẳng trả lời tôi một tiếng. Lão ngước nhìn tôi, rồi đứng dậy đi về phía trong làng, nói mấy tiếng cộc lốc:

- Uống nước thì đi theo tui!

Tôi đã tưởng lão câm, bây giờ lão mới nói. Vậy, từ nãy giờ lão là con người tôi đáng sợ. Lão cứ im lặng đi trước, tay vẫn cầm cái roi tre vung vẩy. Tôi phải phá tan cái không khí nặng nề này:

- Vụ mùa năm nay có khá hơn năm ngoái không bác? Năm ngoái cháu về, chỉ thấy tương đối thôi, bác nhỉ?

Im lặng một lúc, rồi lão trả lời tôi, giọng nhát gừng:

- Cũng khá!

Thật khó bắt chuyện! Thôi cứ đành đi theo lão, rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Mà lão dẫn đi uống nước xa thế! Mãi gần giữa làng. Tới nơi, tôi nhìn thấy một sân gạch rất rộng, trên đó mấy người đang gò lưng kéo con lăn lúa bằng đá. Mấy đống khoai lang to tướng bên cạnh sân. Mấy thanh niên nam nữ đang chọn khoai từ đống này sang đống kia. Tôi hiểu ngay, thằng cha già này dẫn tôi vào chỗ chết.

Tôi bỏ lão, sà ngay vào chỗ đống khoai to. Tôi trầm trồ khen những củ khoai lớn và hỏi chuyện mấy người thanh niên đó. Tuy tôi nói chuyện, mắt vẫn không rời lão già chó chết. Lão đi vào căn nhà con phía bên kia sân, trong đó, tôi thấy mấy thanh niên mặc quần áo nâu, mấy khẩu CKC dựng ở mé vách. Tôi đoán là du kích! Lão già ghé tai một người nói gì đó, và người này nhìn về phía tôi. Phải chủ động, tôi chào mấy người nhặt khoai, rồi đi về phía nhà du kích. Lão già mắc dịch trở ra đường cũ, về ngay. Khi đi qua sân lúa, tôi cúi xuống nhặt một bông lúa lên nhấm. Tôi biết mấy tên du kích đang theo dõi, không bỏ sót một hành động nào của tôi. Tôi vẫn đủng đỉnh ở giữa sân, tôi còn nói như đùa với mấy người kéo lúa:

- Như thế này là đốt giai đoạn đấy!

Tôi và mấy ngưòi ấy cùng cười vang. Tôi vừa đi vào nhà, vừa gật đầu chào mấy anh du kích. Thấy thái độ tự nhiên của tôi, một anh có vẻ là chỉ huy, cầm cái tích sứt vôi, rót vào một trong 3 cái chén mẻ, cáu ghét đen xì, đang để lỏng chỏng trên chiếc bàn mộc bám đầy bụi đất. Anh vừa cười vừa nói:

- Mời đồng chí uống nước!

Tôi cầm chén nước và xách luôn cả tích nữa. Uống hết, tôi rót tiếp, miệng như nói một mình: “Tại anh Đạt đây! Hôm qua, tôi đã bảo tôi không uống được nữa, anh cứ cố ép, làm từ sáng đến giờ uống bao nhiêu nước. Còn ngủ nhỡ giờ nữa chứ!”

Anh du kích chỉ huy (trong 3 người, tôi chỉ thấy anh ta nói, nên đoán vậy) chừng độ 25 tuổi, nhìn tôi có vẻ hơi ngập ngừng:

- Thế này không phải, đề nghị đồng chí cho chúng tôi xem giấy tờ?

Tôi tươi nét mặt, nhìn anh, tay cho vào túi sau rút ví, miệng nói:

- Hoan nghênh tinh thần cảnh giác cao của các đồng chí!

Tôi mở ví, rút tờ giấy thông hành, nhưng cố ý dềnh dàng cho họ xem thấy bìa giấy nghĩa vụ quân sự, và một số giấy tờ khác. Anh ta cầm xem, tôi coi như không để ý, chỉ tay ra sân nói với hai anh kia:

- Năm nay, vùng mình khá hơn năm ngoái nhiều!

Trong khi đó, tôi thấy thái độ của anh xem giấy tờ có vẻ ngần ngừ. Thực ra, lúc này ruột tôi cũng đang co thắt lại, chả biết giấy tờ có chính xác không, và tình huống này sẽ dẫn tới đâu. Tuy vẫn nhìn ra sân, nhưng tôi không bỏ sót một cử chỉ nào của họ. Tôi thấy anh đó nói nhỏ gì với một anh du kích khác, hình như có nói đến xã trưởng, rồi anh kia nói không có nhà. Sau đó lại nói đến cơ quan, lại nghe hôm nay Chủ Nhật, rồi tôi chỉ nghe thoáng thấy tiếng “Phong”. Lúc tôi quay lại, anh du kích chỉ huy cầm giấy, mỉm cười nói với tôi, có vẻ ngài ngại:

- Tôi đề nghị anh (bây giờ y gọi tôi là anh, vì giấy tờ là học sinh) theo anh này lên gặp ông chủ tịch.

Tôi sáng mắt lên, vẻ ngạc nhiên, nói:

- Có phải lên nhà ông Phong phải không?

Anh đó mở mắt to nhìn tôi, rồi gật đầu. Tôi quay lại, vừa kéo tay anh du kích sẽ dẫn tôi đi, vừa nói to:

- Hay quá! Tôi cũng đang định đến nhà ông ấy đây. Vậy thôi, nào ta đi!

Thái độ này của tôi đã làm không khí cởi mở hơn. Anh du kích cầm giấy tờ đi trước, không mang súng. Tôi thấy tình hình không căng lắm.Trên đường đi, tôi tìm mọi cách để chuyện trò vui vẻ với anh du kích. Chủ đích trong lòng, tôi chỉ muốn hỏi anh ta đây là làng gì, xã gì, huyện hay tỉnh gì mà thấy điều kiện không thể cho phép. Đã nhiều lần lên tiếng ngập ngừng lên đến cổ họng, rồi lại đành kìm nuốt xuống, chỉ sợ hở cái đuôi ra thì nguy. Đường trong làng vắng vẻ quạnh hiu, lác đác đây đó vài mái nhà tranh trông lụp xụp tiêu điều lẫn vào lũy tre, nghe thật vắng lặng hiu hắt. Trái ngược với trái tim tôi, đang đập thùm thụp như trống làng vào đám.

Tới gần một chiếc ngõ có cổng gạch, anh du kích rẽ vào, tôi biết ngay là nhà tên chủ tịch (không biết là huyện hay xã). Nhìn vào trong, tôi thấy một cái sân gạch, một bà cụ mặc váy nâu, đang khòm lưng hý hoáy cầm chiếc chổi quét ở góc sân. Hai căn nhà làm nối vào nhau thành hình thước thợ, tuy cũng là nhà tranh nhưng rất khang trang sạch sẽ so với những nhà khác trong làng, vỉa hè bó gạch. Khi vào tới sân, một con chó mực con bé tí từ trong nhà bếp ra hè, đứng ngửng đầu lên sủa húng hắng. Bà cụ vừa ngửng lên, mắt hấp háy nhìn chúng tôi, mồm vừa xùy chó. Tôi sà đến chỗ bà cụ, để một tay lên vai cụ, rồi niềm nở:

- Thưa cụ, cụ còn nhớ cháu không ạ, cụ dạo này có được khoẻ không?

Tôi nói to cho tên du kích cũng nghe thấy. Bà cụ đưa đôi mắt kèm nhèm nhìn tôi ngập ngừng:

- Không dám, chào anh, anh đến chơi!

Trong khi đó, mắt và tâm trí tôi còn đang bám sát từng thái độ, cử chỉ của tên du kích. Đó mới là chính, thái độ của y ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mạng của tôi. Tên du kích bước lên nhà trên, rồi đi vào trong buồng. Tôi hỏi bà cụ:

- Ông Phong còn ngủ à cụ?

Bà cụ nói chậm rãi, một cách mệt nhọc:

- Nó, hôm qua đi họp mãi khuya mới về!

Tôi bỏ bà cụ, lên ngay nhà trên để tranh thủ thời cơ. Khi tôi bước vào nhà, thấy tên du kích đang kéo cái điếu bát định hút thuốc. Tôi chưa từng bao giờ hút thuốc lào trước đây, nhưng bây giờ, để tạo không khí chan hòa quen thuộc, tôi cũng sà đến, vê một điếu và hỏi:

- Ông Phong hãy còn ngủ kia à?

Y đã ngậm miệng vào chiếc se điếu, tay đang bật lửa, nên y chỉ gật đầu. Khi y hút xong, thì một người khoảng 35 tuổi, mặc quần đùi màu xám bộ đội đã bạc, đi chân đất, áo sơ mi cháo lòng, da cũng trắng mai mái (chứng tỏ ít ra nắng) đang ở trong buồng bước ra. Mắt còn ngái ngủ, tay đang cầm tấm giấy thông hành của tôi. Tôi quay lại, mặt tươi lên, lớn tiếng:

- Anh Phong, chà bây giờ còn ngủ kia à? Hôm qua tôi ghé xuống Đạt, uống say quá, bây giờ mới ra đây!

Phong như tỉnh hẳn, mở to mắt nhìn tôi, rồi anh ngập ngừng, ngọ nguậy rồi toét thành nụ cười, giơ tay bắt tay tôi. Ánh mắt anh ta thoáng chút ngỡ ngàng. Chắc anh đang băn khoăn lục óc, chả biết đã gặp anh này ở đâu. Rồi có lẽ đổ tại trí nhớ của mình tồi, mặt anh bình thường trở lại, nói một cách xuề xòa:

- Hôm qua họp khuya quá!

Anh ta để tờ giấy xuống bàn, rồi co hai chân lên, ngồi xổm trên ghế. Tên du kích thấy thái độ của tôi với ông Phong như vậy, nên anh ta chào Phong và tôi trở về sân hợp tác xã. Tay đã cầm điếu thuốc, nên tôi đành kéo cái điếu lại, cố gắng hút. Dù tôi không dám rít mạnh, phải kìm ghê lắm, nếu không thì ho, thế mà cũng say đáo để. Phong kéo điếu, bắt đầu hút. Hết say, mặt tôi xụ hẳn xuống nói như phân trần:

- Đấy, anh xem, trước đây tôi khoẻ như vậy, thế mà gần một năm nay, cứ tự nhiên xây xẩm mặt mày.

Thấy nét mặt y trầm tư, tôi nhẹ giọng vẻ thân mật nói tiếp:

- Anh Phong à, tôi học hành như anh đã biết đấy, rất chăm mà cứ học trước quên sau. Cái bệnh tim chó chết này như vậy. Nhiều lúc tôi không muốn sống nữa.

Phong vẻ cảm động, quay lại nhìn con người phờ phạc mệt mỏi (mấy đêm ngày say sóng, không ăn) của tôi, nói như an ủi:

- Làm gì mà bi quan thế! Có bệnh, khoa học ngày nay tiến bộ chữa, sẽ khỏi.

Tôi cười buồn:

- Thực thế! Mới hôm qua ở bến xe, thấy đông người, tự dưng tôi xây xẩm mặt mày. Nếu không có người đỡ, tôi đã ngất, ngã vỡ đầu rồi. Có cái mũ thì cũng lại để quên trên xe. Anh Chí bí thư đoàn đã giục tôi nhiều lần, thậm chí, chính anh phải xin giấy giới thiệu cho tôi ra Hà Nội chữa bệnh, nhân kỳ hè này.

Phong hút thuốc xong, chả để ý gì đến tấm giấy thông hành để trên bàn. Phong vừa cho chân xuống đất định đứng dậy, vừa nói:

- Này, để tôi gửi tiền mua hộ tôi 3 cục “pin” nhé!

Tôi khẽ đập vào tay y, cười:

- Ồ! Anh lạ! Tôi có tiền đây, để tôi mua về rồi hãy tính. Có cần mua gì nữa không, tôi mua một thể?

Phong nghĩ ngợi một lúc rồi lắc đầu. Tôi chậm rãi nói, như thân tình quen thuộc:

- Lúc về, thế nào tôi chả phải ghé vào đây (nhưng thực ra lúc đó, tôi chưa biết đây là đâu), tôi vừa nói vừa cầm tờ giấy thông hành cho vào ví.

Phong còn tiễn tôi ra hè, bắt tay. Tôi chạy lại chỗ bà cụ, cầm tay bà cụ nói:

- Cụ ơi! Cháu đi đây!

Bà cụ lại ngừng quét, ngửng đôi mắt nhập nhèm:

- Phải, anh đi!

Sau này nhiều lúc nghĩ lại, tôi cũng thấy buồn cười. Phong chờ cái thằng chó chết, mãi chả thấy mua “pin” về. Tôi ra khỏi cổng, thấy con đường trước mặt thì cứ đi, chứ cũng không biết con đường sẽ dẫn đến đâu.

Lúc này đã gần 12 giờ trưa, mặt trời càng chói chang như thiêu đốt. Nóng hừng hực, không một ngọn gió, thế mà lòng tôi mát rượi nhẹ nhàng. Chỉ một chút xíu nữa thôi, thì đời tôi đã tịch ở ngay mảnh đất này, nơi tôi đổ bộ. Cho tới nay, tới lúc tôi đang ngồi viết những giòng nỗi niềm này, tôi cũng vẫn chưa biết rõ ràng đấy là đâu. Trên con đường đất trắng bệch vì lâu ngày không mưa, hai bên toàn là ruộng đã gặt rồi, đất cũng đã khô nứt nẻ. Xa xa ngược chiều, một bà cụ đầu đội bó củi đang đi lại. Giữa cánh đồng vắng buổi trưa, tôi quan sát trước sau chả thấy một bóng người, vì thế khi gặp bà cụ, tôi chào vồn vã:

- Trời ơi! Nắng quá cụ ơi! Các cháu đâu không đi làm cho cụ; mà cụ phải vất vả thế này?

Bà cụ thật già, tội nghiệp! Bà cụ này còn già hơn bà cụ nhà tên chủ tịch. Bà cụ hổn hển nói khi tôi đỡ bó cây thanh hao con khô đã rụng hết lá:

- Chúng nó đi hết rồi. Ngày nào tôi cũng phải vào núi để lấy củi đun bếp.

Thấy bà cụ đã quá già, tôi đánh bạo:

- Cụ ơi, cứ đi thẳng đường này là ra đường cái hở cụ?

Bà cụ quay lại, nhìn về phía xa xa, tay cụ vẩy vẩy:

- Cứ đi một thôi nữa là tới đường cái.

Tôi hỏi tiếp:

- Đường nhựa chứ cụ?

Bà cụ gật đầu. Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa, sợ khi bà cụ vào làng, lão Phong hoặc du kích hỏi bà cụ là tên đó hỏi cái gì, bà cụ nói ra thì chết. Tôi phải phòng hờ như vậy, vì chỗ này tuy đã xa làng, nhưng giữa đồng trống, biết đâu chả có những con mắt đang theo dõi. Cẩn tắc vô ưu, không chơi dại! Vì vậy, tôi đỡ bó củi lên đầu cho bà cụ, chào rồi đi lẹ.

Bây giờ tôi mới chú ý, xa xa đã nhìn thấy ô tô chạy. Nhìn trải dài cánh đồng bao la xa tắp, tôi thấy vài người đang đi dưới ruộng khô hướng ra phía đường cái, có người đội cái “rương” màu đỏ cạch. Họ đi tắt qua cánh đồng. Tôi cũng bắt chước họ, xuống ruộng nhắm thẳng phía đường cái, bước tới. Một mình lang thang trên cánh đồng rộng, óc tôi miên man nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến lão Phong chủ tịch. Chắc bây giờ lão đang lục óc xem đã gặp tôi ở đâu! Vậy lão chỉ còn trách cái óc tồi tệ của lão, lão ta đã gặp tôi trong lúc nào đó mà quên rồi. Hội hè họp hành, thiếu gì trường hợp.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 23 Feb 2010

Tập I - Chương 16

Đường Ra Hà Nội …

Trời trong xanh, vài vầng mây trắng lờ lững trôi về phương Nam, hình như muốn ngừng lại nói với tôi:

- Chào mừng chú mày, ta sẽ về Nam báo cho mọi người biết, chú mày đã thoát được một “ca” đặc biệt!

Hai con cò trắng từ phía núi bay sà đỗ xuống mảnh ruộng trước mắt. Tôi đưa mắt nhìn đây đó. Thỉnh thoảng giữa ruộng khô cũng có một vũng nước con đục ngầu. Tôi vục tay mò thấy mấy chú cá rô con, dăm mười con tép nhẩy loi choi. Nếu mà nhà gần đây, tôi đi khắp cánh đồng, chắc sẽ được một bữa ê hề tép kho.

Tôi cứ tung tăng, chân nhẩy choi choi nhởn nhơ trên cánh đồng một mình. Gió thoảng mùi nồng nồng của đất, của những gốc rạ còn lại. Lòng tôi thênh thang mở rộng như cánh đồng này. Chân tôi bước đều, đầu tôi lan man nghĩ đến chiếc bi đông và những viên thuốc lọc nước của Harry cho. Tôi chẳng cần! Chôn tại chỗ, đeo theo càng lỉnh kỉnh. Lúc này, tôi đã thấy khát nước thật sự, nhưng tôi vẫn bằng lòng.

Đã gần tới đường cái, đã nhìn rõ dăm ba mái nhà rải rác dọc theo con đường. Thỉnh thoảng một đám bụi mù cuộn tung, đẩy chiếc xe đi phía trước. Mặt đường nhựa nhưng đầy ổ gà bụi đất. Gần tới đường cái, tôi phải đi vào con đường nho nhỏ sau mấy căn nhà, mới lên đường nhựa. Những căn nhà ở sát mặt đường cũng lụp xụp nghèo nàn, không hơn gì những căn nhà trong làng. Nhiều nhà vắng người, những tấm phên liếp bằng nứa che kín cửa. Những cây cà cây ớt, vài đám rau muống cằn cỗi đầy bụi đường, trong những mảnh vườn con con phía sau nhà, đã nói lên cảnh đời của những người dân địa phương.

Thật may, ngay gần đấy, tôi nhìn thấy cột cây số đầu sơn đỏ, thân trắng, một phía đề “Kỳ Anh 18cs”, một phía đề “Quảng Bình 32cs”. Vậy là Quốc lộ 1 rồi! Như thế, rõ ràng đây là tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây đến ranh giới Hà Tĩnh-Nghệ An phải hàng 30, 40 cây số nữa. Thế có chết con người ta không chứ! Không biết các anh, các bác vì đêm tối mịt mùng nên lầm chỗ, hay vì sợ quá nên vất đại, bỏ của chạy lấy người, bỏ cái nợ để chạy thoát thân? Chẳng biết các anh các bác nghĩ thế nào. Chính tôi cũng như các anh, các bác, lại còn phải sắp lên bờ một mình nữa, biết bao hiểm nguy đón chờ. Như vậy, phải chăng tôi đi vào chỗ chết như thế này, là việc riêng tư của tôi hay sao?

Thấy một quán nước bên đường, ở đầu làng với một cô bé chừng 11, 12 tuổi, mắt toét bán hàng và mấy bác nhà quê đặt quang gánh trước chõng hàng, tôi đường hoàng ghé vào. Tôi mua một tấm mía và hai quả chuối ăn. Trong bụng mấy ngày không ăn, nên tôi muốn ăn cả chục quả, nghĩa là hết chỗ chuối đang bầy đó, nhưng sợ rằng mọi người để ý, nhất là chiếc biển gỗ con đã sứt nẻ, hàng chữ đỏ quạch treo ngay trên vách, phía chéo trước mặt tôi: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Vừa nhai mía, tôi vừa nhìn tấm biển. Bàn chân tôi rung rung, như đang chia sẻ với niềm rạo rực, hân hoan của dạ dầy. Lần đầu tiên tôi mua hàng trên đất Cộng Sản.

Thỉnh thoảng một chiếc xe ô tô chạy qua, đi vào hoặc đi ra thường chạy tuột luôn. Tôi nhớ lại, qua cuộc phỏng vấn anh lái xe ở trại tiếp đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định, tôi đã biết xe không đón khách dọc đường. Vậy nên, giữa đường, nếu anh giơ tay vời, xin đi không đúng là hành động của người dân miền Bắc trong thời gian ấy. Ngoài một vài chiếc đò cũ rích, còn hầu hết là xe GMC hoặc Molotova hay Commanca của bộ đội.

Ăn xong, tôi tiếp tục đi, lúc này đã hai giờ trưa, trời càng nóng dữ. Dọc theo đường không có một bóng cây, chỉ lưa thưa vài bụi cây con hai bên vệ đường, cũng cằn cỗi mốc meo, đầy bụi bặm. Từ mặt đường, hơi nóng hừng hực bốc lên. Tôi đành cuốc bộ, đầu không nón mũ, đi về phía Kỳ Anh. Qua cách lựa lời thăm hỏi, em bé bán hàng đã cho tôi biết, phải về Kỳ Anh nghỉ trọ ở đó, sáng hôm sau mới có xe đi Vinh. Tôi cũng được biết xã này là xã Kỳ Phương. Từ đây về Kỳ Anh còn 18 cây số nữa. Cái nắng thật kinh khủng, tôi tưởng đến khô người đi. Tôi phải lấy chiếc khăn mặt đội lên đầu, rồi cố rảo bước đi dưới cái nắng đốt da đốt thịt. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao gió cũng nóng. Học địa dư và thời tiết ngày xưa, vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Từ tháng 5 đến tháng 8 có những ngọn gió Lào thổi qua dẫy Trường Sơn nóng vô cùng, gió nóng đến độ có thể làm héo lá cây.

Tôi đi được chừng 2 cây số, xa xa có một cây to duy nhất ở bên đường. Chiếc bóng râm đen đen choáng hẳn một gioi đất, đang đong đưa ngúc ngắc trên mặt đường nóng bỏng, như muốn mời gọi kẻ lữ hành dừng chân trên đường dài đầy nắng lửa.

Trong bóng râm, đã có một chị phụ nữ mang đôi quang gánh với hai chiếc thúng không, đang ngồi nghỉ. Trông thoáng chị khoảng hai mươi lăm, ba mươi tuổi. Chiếc khăn vuông đen buộc chặt mớ tóc dài trên đầu, làm cho bộ mặt rám nắng của chị như sạm lại. Tôi kéo chiếc khăn lau mồ hôi mặt, rồi cũng ghé vào bóng mát. Tụt một chiếc dép ra lót đít rồi cũng ngồi nghỉ, cách xa chị chừng 2 mét. Tôi ngồi yên lặng, tay cầm chiếc khăn phe phẩy, mắt đăm đăm dõi nhìn giậu mồng tơi trước ngôi nhà con con phía bên kia đường. Giậu mồng tơi không còn lá, chỉ có vài cái ngọn rụt, cằn lưa thưa, còn toàn là dây đỏ quạch, héo tong teo như sắp chết khát. Tuy không quay lại, nhưng tôi biết chị phụ nữ đang nhìn tôi, rồi chị nói bâng quơ:

- Trời nóng quá!

Lúc này tôi mới quay lại nhìn chị. Bàn tay sạm nắng đưa lên nhẹ vuốt mấy sợi tóc mai, môi chị ngập ngừng hơi mỉm cười như chào làm quen một người lạ. Thấy vậy, tôi cũng cười, rồi cũng nói không có chủ từ:

- Nóng đến khô người đi!

Chỉ có hai người, trời nóng, đường vắng, có lẽ thấy tôi có vẻ cởi mở, nên chị nhìn tôi rụt rè nói tiếp:

- Cuộc đời cực nhọc vất vả quá!

Tôi hơi ngạc nhiên, đăm đăm nhìn chị. Chị cúi xuống một lúc, nghiêng người với chiếc khăn con mầu đất, vắt ở đầu quang gánh lau mồ hôi, rồi lại ngửng lên nhìn tôi, dè dặt thăm dò:

- Chẳng biết đến bao giờ dân mình mới đỡ khổ? Bao nhiêu thóc lúa trồng lên cứ phải nhập kho nhà nước hết; còn dân ăn khổ quá!

Câu chuyện và điều kiện đã dồn tôi vào phải đóng vai một cán bộ để giải thích:

- Bây giờ dân mình cực, vì đang giai đoạn thắt lưng buộc bụng để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mọi người hãy tạm chịu khổ.

Tuy chị nghe tôi nói như thế, mặt chị vẫn còn đầy vẻ băn khoăn. Im lặng một lúc, rồi chị hỏi tiếp:

- Thế lúa gạo đem đi đâu?

Đã trót thì trét luôn, tôi ra vẻ hơi ngạc nhiên, trả lời:

- Ô hay, mình làm gì đã chế được máy móc, vì thế, mình phải đem gạo đi đổi lấy máy móc chứ. Hơn nữa, vì nghĩa vụ quốc tế, ta còn phải có trách nhiệm giúp đỡ nhân dân những nước bạn nữa!

Giữa lúc đó, từ phía Quảng Bình, một anh đang cọc cạch đạp chiếc xe đạp đi tới. Sau xe, đèo một số lủng củng những đồ phụ tùng xe đạp đã cũ rỉ. Dáng bộ anh. Từ nét mặt tới cử chỉ, không thể là một tên Cộng Sản. Tuy thế tôi vẫn ngồi yên, mắt lơ đãng nhìn xa xa phía chân trời. Anh đỗ xe, lục đục mãi mới dựng được, vì chiếc chân xe đã quá già. Anh lật chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, đen nhẻm đầy dầu mỡ, chắc cũng cùng tuổi đời với chiếc xe. Anh vừa đi vào bóng râm, giữa chị phụ nữ và tôi, vừa quạt lia lịa tìm một chỗ ngồi, mồm kêu “nóng quá!”. Giọng anh trọ trẹ, tôi khó xác định. Chị phụ nữ lên tiếng:

- Anh ở Quãng Bình ra hỉ?

Anh gật đầu và nói:

- Tôi về Vinh.

Thấy thế, tôi hỏi ngay:

- Anh sẽ đạp xe về Vinh?

Anh cũng chẳng nhìn tôi, mắt anh vẫn để vào chiếc xe đạp màu sơn đã loang lở, chỉ còn một chiếc thắng, đầy bụi đất. Anh vừa lắc đầu vừa nói:

- Tôi đến Kỳ Anh nghỉ, sáng mai mới đi xe đò về Vinh.

Tôi hơi mừng, vì đã có bạn đồng hành, tôi vội vàng đon đả:

- Tôi về Hà Nội chữa bệnh đây, tôi cũng sẽ đi qua Vinh.

Một lúc sau, chị phụ nữ đứng dậy, quay lại mỉm cười gật đầu chào anh đi xe đạp và tôi, rồi rảo bước trên đường. Tôi trông theo mãi chiếc quanh gánh, nhấp nhô một quãng thật xa, rồi rẽ vào một con đường nhỏ phía bên kia quốc lộ, Sau đó, anh đi xe đạp cũng đứng lên, quay lại nói với tôi:

- Tôi đi trước nhé! Có khi về Kỳ Anh sẽ gặp.

Quen như xe đạp ở miền Nam, tôi định nhờ anh đèo, hoặc tôi sẽ đèo anh cùng đi. Nhưng khi nhìn lại chiếc xe đạp anh dẫn ra đường, tôi có cảm tưởng chính nó cũng đã phải lặc lè mang một mình anh, nên tôi kìm lại, chỉ tươi cười:

- Ừ! Có thể chúng mình gặp lại nhau ở Kỳ Anh thì vui!

Anh gò lưng đạp chiếc xe lọc cọc trên con đường nóng bỏng, gặp ghềnh như nỗi niềm của người dân sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt của loài người!

Còn lại một mình, đường không một bóng người, tôi chưa muốn đi ngay vì chiếc dép râu cọ vào làm chân đã lột da, đau và xót. Đi giầy đã quen, bây giờ xỏ dép râu, lại phải đi bộ xa nên tôi cứ dùng dằng mãi rồi mới đứng dậy đi. Vừa đi, tôi vừa nhìn cảnh vật nhà cửa hai bên đường. Đất Hà Tĩnh thật nghèo nàn khổ cực. Cây lúa ở ruộng chỉ cao chừng 30 phân, mỗi cây chừng 5, 6 bông nho nhỏ, vì ruộng không những thiếu nước mà còn toàn là cát. Tôi nghĩ rằng, người dân ở đây làm được một bát gạo thì phải đổ một bát mồ hôi. Thế mà, chỉ được hưởng một phần mười của bát gạo đó thôi, do cách quản chế bóc lột tinh quái của Cộng Sản. Tôi cứ đi khoảng 2, 3 cây số, thấy một chiếc bụi bên đường lại chui vào trốn nắng. Suốt hai bên đường, hàng chục cây số không có một cây to nào, toàn những bụi cây khô cằn thấp lè tè. Cái đất kinh khủng, cây và cỏ cũng khó mọc.

Một lần, tôi đang ngả người nằm nghỉ cạnh một bụi cây ở mé đường, mặt đường nắng chói chang, hơi nóng hừng hực từ mặt đường nhựa bốc lên làm tôi lóa cả mắt. Óc tôi đang miên man tính những chặng đường phải đi tới, bỗng nhiên một tiếng “soạt” như ai ném một hòn đá vào một bụi cây ở gần đấy. Tôi ngồi bật dậy, lắng nghe, lướt nhanh mắt toàn bộ chung quanh, vẫn im vắng. Không thể có người nào ở giữa đường trống nóng như thiêu này. Dù vậy, tôi phải biết nguyên nhân của tiếng động vừa rồi. Tôi khẽ trườn sang phía bụi cây có tiếng động. Sau khi quan sát, tôi thò tay bới đám lá rậm. Bỗng vụt! Một con chim màu nâu, to bằng con chim ngói bay ra. Tôi chả biết chim gì, nhưng thấy nó bay không bình thường, tôi lướt nhanh đuổi theo, và vồ được. Nó thở hổn hển, mỏ vãi máu. Tôi sờ khắp người nó, không có một chỗ nào bị thương. Sau, tôi suy đoán, có thể vì trời nóng quá sức, nó không thể bay tới những nơi có nước. Vì vậy, tôi nhường chiếc khăn che đầu, bọc che nắng cho nó và mang theo.

Đi gần hai cây số nữa, tới một chiếc cầu, nhìn xuống dưới cầu, mãi dưới đáy có một dòng nước nhỏ như con suối con. Cả chim và tôi đều cần nước. Tôi mon men tìm cách xuống tới giòng suối. Tôi vừa len lỏi vừa nhìn lên chiếc cầu cao tít trên mặt đường. Có thể mùa mưa, mùa nước, đây là một dòng sông. Tôi xuống rửa mặt, rồi cho cả người và chim uống nước. Đúng là nó bị khát nước quá, nó uống tới đâu, tỉnh dần tới đó. Thế mà chẳng hiểu vì sao nó lại không bay đi. Tôi phải mang nó theo mãi gần tới Kỳ Anh. Mặt trời đã ngã kuất sau dẫy Trường Sơn. Những chòm xóm hai bên đường đã lác đác bóng người ra ngoài. Đến một con đường đầu làng, thấy một em bé chừng 9-10 tuổi, hai chân toàn bùn đất. Tay đang cầm một chiếc thừng dẫn một con trâu gầy bên vệ đường, tôi gọi và giơ con chim ra hiệu, cho em. Em nhìn con chim một lúc rồi lắc đầu không muốn lấy. Tôi hơi lấy làm lạ về thái độ em bé nhà quê, nghèo này. Ngay khi tôi còn bé, có được một con chim như vậy thật là thích thú. Vậy tại sao em lại không lấy? Tôi đành mang con chim đi một đoạn đường nữa, gặp một bác nông dân gánh hai chiếc thúng, tuy có hai cái nia con đậy, nhưng dáng đi của bác nhẹ tênh. Bác đang đi ngược chiều với tôi phía bên kia đường. Khi ngang qua, từ bên này đường, tôi giơ con chim ra gọi bác, hỏi bác có lấy con chim này không. Bác nhìn tôi một lúc, như xem tôi nói đùa hay nói thực rồi mới gật đầu.

Về con chim, lúc đó chả có một ý nghĩ gì. Chỉ vì tính yêu thiên nhiên và thích chơi đùa nghịch ngợm, nên dù đang trên đường vào sâu trong lòng địch, tôi đã đuổi bắt. Nhưng sau này, tôi kể chuyện cho các anh, các bác trong tù, họ đều nói:

- Đó là cái điềm của cậu đấy, may mà cậu cho con chim ấy đi, nên còn sống. Nếu cậu ăn thịt con chim ấy thì cậu không còn dịp nào kể chuyện lại cho chúng tôi nghe nữa đâu, vì cậu đã hai năm mươi rồi. Người ta kỵ nhất: Chim sa, cá nhẩy.

Nghe để mà nghe, chứ tôi không thể tin được những chuyện vô cớ như thế. Từ óc thực tế, tôi luôn luôn nhìn sự việc trên cơ sở lý luận khoa học. Nhưng con người cũng thật mâu thuẫn. Vì cứ tù mãi, chịu đựng những ngày tháng lê thê cùng cực gần hết cả cuộc đời. Thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến con chim ấy.

Đi một đoạn đường nữa, xa xa đã thấy một khu chừng vài chục mái nhà tranh, trông thật nghèo nàn lụp xụp. Một chiếc biển gỗ to, đóng ngang trên hai cái cột, dựng ở cạnh đường. Trên tấm biển ghi HUYỆN KỲ ANH bằng chữ mầu trắng trên nền đỏ, nước sơn đã long lở bạc mầu. Lác đác đây đó một số người đi lại. Người ta gọi đây là phố huyện.

Lúc này đã hơn 6 giờ chiều, ánh nắng không còn, người ta ra ngoài đường nhiều hơn. Tôi tiến dần vào phố huyện, vừa đang quan sát thăm dò nghe ngóng, để tùy theo tình hình tìm chỗ trọ. Thì may quá, tôi thoáng thấy anh đi xe đạp đã gặp ở gốc cây, gần xã Kỳ Phương đang từ trong đó đi ra phía tôi. Thật nhẹ cả lòng! Tôi tiến đến chận đầu anh, cười niềm nở:

- Đi đâu mà ra đây?

Đôi mắt anh nhìn tôi ngỡ ngàng, xa lạ. Rồi như chợt nhớ ra, anh vồ cả hai tay vào vai tôi, vồn vã hỏi:

- Bây giờ mới tới đây à?

Tôi trả lời:

- Ừ! Trời nắng quá, tôi đợi mát, đi dần.

Qua thái độ trên của anh, tôi thấy anh toát ra một con người hiền lành thật thà mà còn vô tâm nữa. Tôi nhắc lại câu hỏi khi nãy:

- Anh đi đâu ra đây, xe đạp đâu rồi và trọ ở đâu?

Mắt anh long lanh, miệng anh rối rít, tay chỉ về phía một dãy chòi con con chéo đấy:

- Xe tôi gửi ở nhà trọ. Tôi vào trong kia đi tiêu một chút, chờ tôi một tý thôi, rồi tôi ra mua thuốc lá cho mà hút. Chúng mình về cùng trọ một chỗ nói chuyện cho vui.

Tôi còn chân ướt chân ráo, ngơ ngác chưa biết trọ ở đâu, cách thức trọ ra sao, giờ gặp anh thì nhất rồi còn gì! Chừng năm phút sau, anh ra. Anh kéo tay tôi dẫn vào một cửa hàng tạp hóa nhỏ treo một tấm biển: Bách Hóa Tổng Hợp. Anh mua một hào được 6 điếu thuốc Trường Sơn. Nếu mua cả gói thì 3 hào. Anh vỗ vai, đưa tôi một điếu. Thái độ của anh tỏ vẻ như đây là một ân tình đặc biệt anh dành cho tôi. Đã mấy ngày không ăn cơm, lại vừa cuốc bộ một đoạn đường dài, lúc này mới thấy đói và mệt, nên tôi hỏi anh:

- Anh đã ăn cơm chiều chưa?

Anh lắc đầu, tay chỉ vào phía trong:

- Chưa, tý nữa vào kia, chúng mình cùng đi ăn.

Tôi kéo anh trở lại hiệu bách hóa:

- Tiện, tôi cũng mua một hào thuốc để hút.

Nhà trọ là hai căn nhà tranh nhỏ, mỗi nhà có hai dẫy giường dài bằng những cây nứa bổ đôi ghép lại. Những chiếc chiếu cói đã cũ mèm, rách nhiều chỗ. Vì thế, nằm giường nhưng như nằm trên đống củi, vừa đau người lại vừa ọp ẹp. Đưa giấy thông hành nộp cho bà chủ trọ. Hai hào thì không có mùng, bốn hào thì có mùng. Trí nói:

- Chúng mình hai người một mùng thôi, đỡ tốn.

Tôi đồng ý. Lúc này, tôi đã biết tên anh là Trí. Anh cũng gọi tôi là Hùng theo giấy tờ. Khi sang tới quán cơm quốc doanh, cũng là chỗ bán hàng cơm duy nhất ở phố huyện, tôi có ý định mời Trí ăn cơm. Tôi còn đang do dự, Trí đã quay lại hỏi:

- Hùng định ăn 2 hào hay 4 hào? Hãy xếp hàng sau tôi.

Tôi chưa biết rõ thế nào, nên trả lời:

- Để cho vui, tôi sẽ ăn theo anh, anh ăn gì tôi ăn nấy!

Thấy Trí lấy 4 hào ra cầm tay, tôi cũng lấy 4 hào. Đã mấy ngày nay chưa có hạt cơm nào trong bụng, tôi đinh ninh rằng sẽ phải chén hai đĩa mới thỏa. Đây cũng là lần đầu tiên nếm cơm xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao trí tuệ loài người. Tay tôi vừa cầm đĩa cơm theo Trí ra một chiếc bàn trống, vừa nhìn đĩa cơm. Hai phần là cơm, một phần là sắn khô thái mỏng. Những miếng sắn, có lẽ lâu ngày, hoặc khi phơi không được nắng nên mầu đen đen. Cả cơm và sắn nấu lẫn lộn thành một thứ cơm xam xám. Một miếng cá khô bằng hai ngón tay và nửa lá rau riếp. Trên mỗi đĩa cơm đã cắm sẵn một cái thìa nhôm. Tôi theo Trí đến một mé vách có treo một cái ống bương to đựng đũa để lấy một đôi đũa tre.

Bàn nào cũng trống trơn, chẳng có nước mắm hay ớt. Tôi lựa xúc chỗ cơm không cho vào miệng. Nó vừa chát vừa đắng ngắt. Nhìn Trí, nhìn người khác, họ vẫn ăn ngon lành, ấy là nhiều người họ ăn loại hai hào, đĩa cơm chỉ rưới tí nước mắm thôi đấy. Mình đã lịch sự, cao cấp hơn, có cá, thế mà, tuy bụng đói, tôi phải cố gắng tọng vào, nhai như mọi người, cho có vẻ hòa đồng. Miệng nhai nhóp nhép, tâm tư tôi chạnh tưởng về một cảnh đời ở một phương trời bên ấy. Chỉ mới hai ngày trước đây thôi, những người họ đang ăn uống phè phỡn, thừa thãi thức ngon vật lạ, họ có thấy được đầy đủ giá trị của cuộc sống? Hai không gian, hai cảnh đời, tuy cùng chung một mảnh dư đồ nước non!

Tôi đã cố gắng ăn, nhưng cũng chỉ được nửa đĩa. Tôi sợ họ thấy lạ, nên tôi ghé sang Trí ôm bụng, mặt nhăn nhó:

- Không hiểu sao, tôi đang ăn, đau bụng quá!

Tôi vẫn xoa bụng, trong khi Trí băn khoăn bảo tôi hãy ăn cố đi. Tôi vừa đẩy đĩa cơm sang Trí, vừa lắc đầu:

- Tôi đau lắm! Quen rồi, đã đau mà còn ăn nữa, lại càng đau thêm. Trí ăn hộ đi!

Ngần ngừ một lúc, rồi Trí ăn ngon lành. Tôi cứ giả vờ ngồi ôm bụng nhăn nhó. Khi về tới nhà trọ, trời đã tối. Nóng vô cùng. Trí dẫn tôi ra mua hai cái quạt giấy, mỗi cái một hào. Mỗi người đều trả riêng. Thực ra tôi không thiếu tiền, nhưng tôi phải giữ ý với Trí.

Bắt đầu thân, khi vào trong mùng. Trí than cuộc sống ở đây khổ cực quá. Trí rút ví lấy cho tôi xem một cái ảnh vợ anh đang bế hai đứa con nhỏ. Nằm bên nhau, Trí và tôi tâm sự. Tôi được biết, Trí cùng vợ con và bố mẹ ở Thái Lan về nước năm 1956. Bây giờ, nhà nước đưa về Bến Thủy (Vinh). Bố mẹ Trí làm nghề đánh cá, còn Trí sửa chữa xe đạp. Trí khoe, ngày còn ở Thái Lan, cuộc đời thật thảnh thơi, chẳng bao giờ phải lo nghĩ đến chuyện ăn uống. Thường có nhiều bạn bè chơi bời, chuyện trò thân mật. Chủ Nhật ngày nghỉ thường rủ nhau đi chụp ảnh, rất vui. Bây giờ nghèo nàn vất vả quá. Có cái gì cũng cứ phải bán dần để ăn, cuối cùng còn ít nào phải mua vội một chiếc nhà tranh để ở. Trí nói rất quý tôi, cứ căn dặn khi đi Hà Nội chữa bệnh trở về, thế nào cũng vào chơi. Trí sẽ giới thiệu bố mẹ và vợ, rồi nhất định phải giết một con gà cho ăn (7 năm đã tiêm nhiễm phong cách xã hội chủ nghĩa, giết gà là một chuyện ghê gớm và đặc biệt).

Sáng hôm sau, chúng tôi ra lấy giấy tờ. Trí cũng định đi xe đò với tôi, nhưng chờ mãi 8 giờ chưa có xe. Mấy người có xe đạp họ rủ nhau đi trước. Đoạn đường 52 cây số từ Kỳ Anh tới thị xã Hà Tĩnh. Trí đi theo họ nên từ giã tôi, căn dặn, tả nhà cửa v.v… là thế nào đi về cũng ghé vào. Tôi đồng ý. Tôi ở lại cùng bao nhiêu người khác chờ xe để đi thị xã Hà Tĩnh. Mãi tới 10 giờ mới có một chiếc xe kiểu “Dodge 4” xọc xạch, cổ lỗ sĩ có thể từ thời 1954, thùng xe đã phải chấp vá lung tung, không mui. Một đồng rưỡi một vé ra thị xã Hà Tĩnh. Hành khách chen chúc, không có ghế, toàn đứng nêm vào nhau. Đường xóc vô kể. Trên xe, người cứ ngã nghiêng xiêu vẹo. Phụ nữ ngồi, đàn ông đứng, thật hỗn độn. Tôi đứng cạnh một anh Hải Quân chừng 23, 24 tuổi. Nhiều lúc xô mạnh như những người say rượu vì đường quá xấu, nên đôi khi phải ôm chầm vào nhau.

Khi tới Hà Tĩnh, tôi thấy thị xã gì mà như phố huyện ngày xưa, toàn nhà tranh, thỉnh thoảng mới có một cái nhà xây cũng cóc gặm và đen nhẻm do những năm tháng nghèo nàn, nên không hề sửa sang. Tôi và anh Hải Quân đi với nhau. Anh rất có cảm tình với tôi. Phần tôi, bất cứ lúc nào, ở đâu, cũng đóng vai một học sinh ở Vĩnh Linh. Tôi theo anh thì tuyệt quá! Đi với một Hải Quân (tên anh là Hảo, anh mặc đồng phục Hải Quân,) vừa không phải bỡ ngỡ từ cảnh vật xa lạ tới mọi cách sinh hoạt đi đường. Lại còn được một “vỏ bọc” vững vàng, ít bị để ý. Anh cho tôi địa chỉ viết thư, đơn vị anh đóng ở Vinh, anh bảo:

- Chỗ đơn vị đóng thường bí mật, chỉ giao thiệp thư từ với người nhà, tuyệt đối không được cho một ai biết. Đây là địa chỉ người quen ở Vinh, thỉnh thoảng tôi ra nhận thư. Tôi muốn làm bạn với Hùng. Khi Hùng chữa bệnh về, thế nào cũng viết thư cho tôi nhé. Suốt quãng đường từ thị xã Hà Tĩnh ra thị xã Vinh, tôi với anh là một cặp. Đi với Hảo tôi rất thoải mái. Có lúc Hảo thân mật:

- Đơn vị đóng ở Bến Thủy từ hai năm nay được lệnh tăng cường “phòng gián bảo mật” vì miền Nam nó đang tung gián điệp ra ngoài Bắc.

Tôi hỏi:

- Thế ta đã bắt được vụ nào chưa?

- Thế Hùng không nghe ta bắn rơi chiếc C-47 ở Cồn Thoi hay sao?

Tôi gật đầu:

- Tôi muốn hỏi là bắt được ở trong nội địa cơ?

Y lắc đầu:

- Cái đó, mình làm sao mà biết được.

Đến Bến Thủy, khi còn ở phía bên này sông, tôi thoáng thấy Trí trong căn nhà tranh nhỏ Trí đã tả. Trí đứng ở cửa cố nhìn lên xe tìm tôi, nhưng tôi nép vào chỗ khuất. Đến phà Bến Thủy, Hảo bắt tay từ giã tôi. Tôi theo xe về thị xã Vinh. Về tới Vinh, trời đã cập quạng, khoảng 7 giờ rưỡi gì đó. Tôi theo những người đi trọ ở một nhà trọ tập thể để mai lấy vé đi Hà Nội.

Nhìn thoáng thành phố Vinh, ngoài một số xí nghiệp, nhà máy ở vùng ven, trong thành phố thật quê mùa, một nửa là nhà tranh. Khách bộ hành trên đường phố, nếu không đi dép râu là đi… đất. Trong khi xếp hàng nộp giấy thông hành lấy vé trọ, trời thì tối, tôi đứng sau một anh bộ đội mang ba lô và mang lon Trung sĩ. Tại một chiếc bàn nhỏ, trên đặt một ngọn đèn chai, một cậu chừng mười lăm, mười sáu đang xem giấy tờ của từng người rồi bán vé. Người nào nó xem giấy, nó cũng hạch hỏi nào là:

- Đến Vinh để làm gì?

- Năm nay đã đến Vinh mấy lần?

- Gốc quê ở đâu?

- Còn giấy tờ gì nữa? v.v…

Mọi người xếp hàng sốt ruột. Khi gần tới viên Trung sĩ, thấy nó cứ hạch hỏi người trước anh mãi, anh ta bực quát:

- Cái thằng này, mày làm cái gì mà mày hạch hỏi người ta nhiều vậy? Mày làm như ở đây có gián điệp không bằng!

Tôi cười thầm, “gián điệp đang đứng ngay sau mày đây!”

Cũng nhờ anh đó quát tháo, những người sau đỡ bị vặn hỏi. Nhà trọ bến xe Vinh cũng là nhà tranh, nhưng hai dẫy dài hơn. Cũng một giá tiền, hai hào không mùng và bốn hào có mùng. Cũng sàn nứa ọp ẹp lùng bùng như ở Kỳ Anh. Cái mùng cá nhân đen xì, rách lung tung và sực mùi hôi khăn khẳn của nhiều người và nhiều ngày không giặt. Đêm đó rệp cắn ngứa ngáy suốt đêm, tôi thật khó ngủ. Khoảng một giờ đêm, thấy ngưòi ta hét lên kêu mất trộm inh ỏi ở dẫy bên, tôi cũng phải sờ lên cái túi gối ở đầu, rồi buồn cười nghĩ thầm: “Là một điệp viên thừa sống, thiếu chết, vào được đất địch rồi, ngủ, có cái túi dết vật dụng lại để bị mất trộm.”

Sáng hôm sau, mới 5 giờ sáng đã có tiếng loa gọi khách dậy ra lấy giấy tờ. Đã quen thuộc, nên tôi ít phải ngỡ ngàng khi lấy vé xe lên Hà Nội. Xe đò đi Hà Nội có ghế ngồi, mặc dù cũng cóc gặm rách như tổ đỉa. Đoạn đường từ Vinh lên Hà Nội, có lúc hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu, vì cầu cũ kỹ không chịu nổi sức quá nặng khi chở cả người, như cầu Lèn Thanh Hóa, cầu Quất Ninh Bình, v.v… Đường đi thật ghê, thậm chí có lúc xe xóc đầu hành khách va cả lên mui xe. Tôi nghĩ những người thợ vặn những con tán (vít) của xe thật tài.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 24 Feb 2010

Tập I - Chương 17

Gặp Z-5 …

Sáu giờ chiều ngày 31 tháng 5 năm 1962, xe tới Kim Liên, Hà Nội. Mặt trời mùa Hè đã lặn khi xe còn cách Hà Nội hơn 10 cây số, thế mà những dáng hình quen thuộc của đất thanh lịch ngàn năm hãy còn sáng rõ, khi chiếc xe đò chở tôi vào bến Kim Liên. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu kỷ niệm của thời niên thiếu năm xưa như ùa về bủa kín hồn tôi. Đó là phút giây giao cảm buổi đầu còn trên xe khi nhìn thấy Hà Thành. Chân tôi rời khỏi xe, theo dòng người chảy ra phố phường, những ngoại cảnh chung quanh đập vào mắt tôi. Con người, xe cộ, biểu ngữ, tôi cảm thấy thật xa lạ đẩy đưa dần tới sự tò mò và cuối cùng là sự cảnh giác của nghiệp vụ. Phải rồi, đây là đất Cộng Sản, đất kẻ thù. Mươi phút, tâm tư chìm lắng vào hố sâu của hoài cảm đến nỗi tách rời thực tế, tôi phải nghĩ đến an ninh của tôi.

Tôi đang hướng về ga Hàng Cỏ. Làm một vài động tác nghề nghiệp để quan sát chung quanh, rồi tôi rẽ ngang về phía hồ “Ha Le” trong lúc trời tối dần. Tôi cố ý lắt léo về nơi vắng vẻ để xác định an ninh. Đến đây, tôi xin nói về một điểm thiên bẩm mà trời đã cho cơ thể tôi. Thông thường, thị trường của con ngươi là 160 độ. Như vậy, 10 độ ở phía trái và 10 độ ở phía phải “chết,” nghĩa là khi con ngươi đang nhìn thẳng chính giữa, bất cứ vật gì di chuyển trong phạm vi 80 độ phía bên trái và 80 độ phía bên phải, người đó đều thấy. Trừ người nào có bộ mắt lồi, thì có thể thị trường của mắt rộng hơn.

Vậy mà, đôi mắt của tôi, chẳng hiểu thế nào, không phải lồi, đôi khi người ta còn nói là sâu nữa. Qua thử mắt thực tập, thị trường của tôi là 170 độ, có nghĩa là mỗi bên tôi chỉ có 5 độ “chết.” Chính vì thế, trên đường phố, tôi thường trông thấy người quen trước. Ngay khi thực tập theo dõi và chống theo dõi ở Sài Gòn, Brown, Dale và Phan đã khen ngợi nhiều lần. Dù phố thường đông đúc, hay địa hình phức tạp, (trừ khi tôi chủ quan, mất cảnh giác,) tôi cảnh giác thì bao nhiêu người hầu như tôi phát hiện hết.

Sau khi xác định không có hiện tượng gì khả nghi cả, tôi đã bắt đầu chủ quan và nghĩ rằng, từ chỗ đổ bộ ở Kỳ Phương, Hà Tĩnh, biết bao hiểm nguy gay cấn, chỉ một chút xíu nữa mình bị bắt, thế mà cuối cùng đều đối ứng linh hoạt thoát được hết.

Trời đã tối, theo lời Phan dặn thì tôi không nên mò gần về khu phố tôi đã ở trước kia, vì trong khi đi đường, bất chợt có thể gặp một người quen xưa, một người họ hàng, v.v… Họ sẽ ngạc nhiên rằng tại sao thằng Bình đã di cư từ 1954 mà bây giờ lại gặp ở đây. Từ đấy, có thể tôi sẽ bị phát hiện. Nhưng lúc này, do chủ quan, coi thường đối phương, tôi nghĩ là các ông ấy theo nguyên tắc cứng ngắc, nên quá lo xa, chứ khi ở Hà Nội tôi mới 16 tuổi, bây giờ đã 23-24. Lớn lên mặt mũi thay đổi nhiều, dù người quen có gặp chăng nữa, ai mà nhận được. Vả lại, Hà Nội bây giờ toàn là dân quê ở đâu mới về. Còn một yếu tố nữa, đó là vì lòng tôi cũng xúc động khi nhìn lại cảnh cũ. Nó như có hồn, cuốn hút ve vuốt lòng tôi. Từ hồ Ha Le chân cứ thả bước, mắt nhìn từng nhà, từng hẻm phố, từng gốc cây. Cảnh cũ còn đây, người xưa không thấy. Hồn lâng lâng, tôi bước mãi vào nơi cảnh quen, người lạ cho tới khi đến phố Tràng Thi rồi Tràng Tiền.

Ôi! Hồ Gươm! Hình ảnh hồ Gươm nằm trong ký ức suốt những tháng năm nổi trôi ở miền Nam, bây giờ đã hiện ra trước mắt. Vẫn chiếc Tháp Rùa âm thầm nghiêng bóng đen sẫm với vài vệt vàng sáng lung linh dưới mặt hồ của những ánh đèn đường chung quanh. Tôi rẽ sang Gô Đa, về Chế Linh, hướng về đền Ngọc Sơn, đến Bà Kiệu. Phố phường đông đúc hơn. Khi tôi qua rạp Phillamoniqufe, nhìn xa xa đầu hàng Dầu, thấy tấm biển đề:“Nhà Trọ Số 5 Hàng Dầu”

Chân đã mỏi, người đã mệt và cũng đã 7 giờ 30 tối rồi. Tôi quyết định vào xin trọ nghỉ đêm để lấy sức. Ngày hôm sau làm gì hãy hay. Nhìn bên ngoài, căn nhà một tầng, ngói và tường đen sạm, nứt nẻ vì gánh nặng thời gian.

Tôi đi vào, ngọn đèn điện nhỏ, bụi và mồ hóng phủ gần kín, hắt ánh sáng yếu ớt làm cho căn phòng sáng mờ mờ. Tại chiếc bàn kê trong góc, một lão già đang hý hoáy ghi chép. Tôi đoán là chủ nhà. Khi tôi đến gần, ông ta ngẩng lên, cặp kính lão trễ xuống. Tôi dùng từ không lịch sự như Cộng Sản:

- Cháu muốn trọ một đêm.

Ông ta cũng nhát gừng:

- Một đồng, đưa giấy thông hành đây!

Tôi rút giấy đưa liền. Ông ghi, rồi đưa cho tôi một miếng bìa con, vuông 5 x 5 phân, mầu vàng, mang số 4. Ông giữ giấy thông hành của tôi để nộp cho công an khu phố (theo nguyên tắc của các nhà trọ.)

Tôi cầm tấm bìa đó vào trong nhà. Dưới ánh điện vàng khè không đủ sáng vì mồ hóng, tôi thấy hai dãy giường cá nhân, gồm 8 cái. Mới có 3 người, hai anh bộ đội và một bác có vẻ nông dân. Tôi vào nữa là 4. Tìm được số giường, tôi vất chiếc túi dết, ngả người một tí cho đỡ mỏi. Mấy ngày nay không tắm rửa, tôi phải đánh răng và tắm một cái cho tỉnh người. Sau khi vào đi giải, tôi đã thấy chỗ tắm. Tôi lại xách túi dết ra phố. Tôi tính mua cái bàn chải và hộp thuốc đánh răng, và cái gì để nhét vào dạ dầy trước đã chứ. Tôi đi ra phía bờ hồ và rẽ về phía hàng Đào, hàng họ bầy bán ở vỉa hè. Tôi mua một cái bánh mì ỉu 5 hào trong cái thúng con của một cô bé ngồi bán, một cái áo may ô, một mũ cát. Lúc về, tôi cũng mua một góc thuốc lá Trường Sơn. Thế là toàn thứ thực của xã hội chủ nghĩa.

Về tới nhà trọ, có người đã ngủ. Tôi tranh thủ vào tắm, đánh răng và nhai chiếc bánh mì có lẽ đã từ hai, ba ngày trước. Ăn xong, tôi vào súc miệng, mở vòi nước làm mấy hơi. Tôi ra giường ngả lưng, đốt điếu thuốc Trường Sơn. Thế là cuộc đời cũng vi vu!

Nằm trong màn, lúc đó đã 10 giờ, chung quanh mọi ngưòi đã ngủ cả. Tôi suy nghĩ, tính toán. Thời gian ở Hà Nội rất ngắn, so với bao việc phải làm. Vậy, ngay từ sáng mai, tôi cứ tìm đường đến nhà thương Việt Đức xem sao, nhất là đóng đúng vai trò đi chữa bệnh. Còn một điều nữa, trước đây ở Hà Nội, còn quá nhỏ, tôi lại ở Hàng Bạc, nên chỉ đi nhà thờ lớn Hà Nội. Nhà thờ “X,” Phúc Xá thượng, hạ ở đâu, thực sự tôi chưa biết. Tôi chỉ nhớ mang máng bãi Phúc Xá, dưới gầm cầu Long Biên (hồi xưa có một lần theo mấy người bạn ra đó đá banh.) Tôi cũng phải ra đó thăm dò xem thế nào.

Sáng hôm sau, ngày mồng 1 tháng 6, tôi ra bờ hồ chỗ bến xe điện mua tờ báo Thủ Đô ngồi đọc và nhìn đủ hạng người qua lại. Hầu hết mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ các em học sinh cho đến các bác xích lô đạp, trên mũ hoặc ở cánh tay đều có đeo hay quấn một băng giấy mẫu, trên có hàng chữ: Đả đảo Ngô Đình Diệm bán nước. Chỉ một số ít, cá biệt mới không đeo mà thôi. Người đi bộ, người đi xe, v.v… ai tôi cũng thấy đeo. Điều này, nói lên sự kiện miền Bắc đang tăng cường chiến dịch tuyên truyền chửi bới miền Nam, mà mũi dùi chính là ông Ngô Đình Diệm.

Trời mùa Hè trong xanh, mặt trời chiếu sáng không gian cũng không làm mờ nhạt được ấn tượng đầu tiên tôi nhìn Hà Nội. Tất cả là một mầu xám xịt, từ những dòng người đông đúc xuôi ngược trên những phố phường với áo mũ, không mầu xanh thì đen, hoặc nâu, và dép nếu không Bình Trị Thiên (râu) màu đen thì ba ta màu xám hay xanh. Đến nhà cửa xỉn lại vì rêu hoặc dơ bẩn, mà tôi nghĩ rằng từ ngày tôi rời Hà Nội đến nay đã hơn 8 năm, nay tôi trở về, chưa một lần quét vôi lại hay sang sửa.

Về âm thanh, thực là một thành phố chết, im lìm vắng lặng. Trên đường phố đầy người, nhưng toàn là xe đạp. Giữa trung tâm thủ đô, nơi sầm uất nhất, mà thỉnh thoảng mới thấy một chiếc ô tô. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh hồ Hoàn Kiếm chu vi 2.300 mét. Cả một vòng như vậy, cứ trung bình 10 phút mới nhìn thấy một chiếc ô tô chạy, mà nếu không là molotova, thì cũng lại là commanca của bộ đội hay công an. Xe tư nhân hầu như không có. Thành phố yên vắng vì không có tiếng động cơ của xe cộ, cũng như của nhà máy. Khác biệt hẳn với Sài Gòn.

Sau đó, tôi quẹo lên phố Hàng Đào. Đang mải nhìn một tên công an túm tay một đứa nhỏ chừng 12 tuổi, kéo đi trên đường phố Hàng Bông. Một số ngưòi cũng nhìn theo và họ nói là ăn cắp. Tôi thấy một đoàn xe từ phía chợ Đồng Xuân đi xuống gồm 5, 6 chiếc Simca, Citroen, Peugeot. Chiếc đi đầu cầm cờ Việt cộng và Lào.

Đoàn xe đi chầm chậm, vì phố xá hẹp, nên tôi nhìn rõ Kongle và Võ Nguyên Giáp ngồi trong xe. Chà! Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt cộng hôm nay đón Bộ Trưởng Quốc Phòng Lào! Các xe sau chở một lũ lóc nhóc Tướng và Tá, mặt tên nào cũng vênh vênh. Lúc đó tôi nghĩ, anh chàng Kongle bốc đồng đang bị lũ quái, cáo già ve vuốt, thổi! Mặt y dương dương, hớn hở. Sớm muộn, chúng sẽ cho anh chàng ăn mắm ngoé mà thôi!

Ngay từ đêm trước khi còn nằm ở Hàng Dầu, tôi đã đặt thành nguyên tắc. Ít ra, cứ mỗi ngày một lần, tôi phải kiểm tra xác định về an ninh của mình. Vì vậy, lúc này nhớ đến, tôi vờ hỏi mua mấy ống khóa, để có điều kiện quay ngang, quay dọc. Cầm ống khóa lên soi, mục đích nhìn hết mọi bộ mặt chung quanh tôi, trong phạm vi 30 đến 50 mét. Rồi sau đó, tôi quặt vào một ngõ hẽm sang phố Hàng Quạt. Đường Hàng Quạt thật vắng người, nhìn thấy một hàng bán nước chè ở vỉa hè. Chính vì tôi muốn nhìn lại phía sau toàn phố, nên tôi cố ý đi qua hàng nước vài bước, rồi như là muốn uống nước. Tôi quay trở lại, ngồi xuống chiếc ghế dài con trước hàng, lật một chiếc chén trên chõng để bà hàng rót nước. Nhờ những động tác này, tôi đã nhìn được hết mọi bộ mặt ở phố Hàng Quạt. Không có bộ mặt nào tôi đã nhìn thấy trước ở bên phố Hàng Đào. Yên tâm, trả tiền 5 xu nước xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức.

Khi gần tới nhà thương, từ xa tôi quan sát, thấy mỗi người vào đều rút giấy đưa cho người gác cổng. Tới nơi, tôi làm theo, đưa tấm giấy thông hành và tờ giấy giới thiệu. Tôi nói:

- Em là học sinh, mới ở Vĩnh Linh ra, xin vào chữa bệnh.

Tất nhiên, mặt tôi sịu xuống và chảy dài ra vì bệnh tật buồn phiền. Y xem giấy, nhìn tôi thông cảm nên chỉ nói nhẹ:

- Đi vào chừng 50 mét, rẽ trái sẽ thấy khu nội khoa.

Tôi cảm ơn, cầm giấy đi vào. Tôi vẫn cảnh giác, khi bắt đầu rẽ trái, mắt tôi lướt nhanh ra cổng, xem có gì khác thường không? Yên tâm, tôi tiến bước, khi nhìn thấy tấm biển ghi: “Khoa Nội’ trước mấy dẫy nhà to, tôi tiến vào chỗ phòng đợi, đã có khoảng 40, 50 người chờ. Hỏi thăm mấy người đợi, tôi đưa giấy giới thiệu cho cô y tá trực. Cô đọc giấy xong nhìn tôi hỏi:

- Thẻ học sinh anh đâu?

Tôi lấy ví rút thẻ trao cho cô. Cô nhìn thẻ rồi chăm chú nhìn tôi. Tôi thấy cái nhìn khác thường, dù vậy tôi vẫn tỏ ra bình thản nhìn cô. Một lúc sau cô mới chậm rãi trả lời:

- Bệnh tim thì sang khu B bên kia.

Cô chỉ tay. Thế mà làm người ta hết hồn! Không phải thì nói ngay lúc nãy, còn bày đặt hỏi thẻ học sinh!

Tôi cầm giấy ra phía dẫy ghế sau ngồi, tính toán cân nhắc. Thứ nhất, chủ trương của tôi hôm nay chưa phải để đưa tài liệu, mục đích chỉ đến xem những đường lối và cách thức sinh hoạt khám bệnh ra sao thôi. Tôi có bệnh thực đâu mà khám! Hơn nữa, tôi chỉ biết Z-5 là bác sĩ nội khoa ở Phủ Doãn, tức Việt Đức ngày nay, chứ chưa rõ chuyên trách về môn gì: ruột, gan, tim, phổi …? Tôi đang ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, tính toán, chợt tai tôi nghe thoáng:

- Bác sĩ Thọ có ở trong phòng không?

Thót người, tôi liếc nhanh về phòng trực. Thì ra một nam y sĩ hỏi cô y tá. Tôi chỉ thấy cô gái gật đầu và ngưòi y sĩ mở cửa bên ra hàng hiên. Phản xạ cấp thời, cân nhắc tình thế, tôi lợi dụng một đám đông, chỗ góc gần hàng hiên, tôi lẫn vào và đi theo ông y sĩ ngay.

Cả một dẫy dài, bao nhiêu cửa phòng. Đến một cửa phòng, ông y sĩ mở cửa, tôi đi thoáng qua liếc vào, phòng số 8. Tôi như bị điện giật. Dù nhìn rất nhanh qua cánh cửa vừa đóng lại, tôi đã thoáng thấy bộ mặt của một người mặc áo “blouse” trắng, đeo kính trắng, ngồi ở một bàn giấy to, trong một phòng rộng. Tuy đầu đã bạc, nhưng đúng hình dáng với tấm ảnh 4 x 6 mà Cục đã đưa cho tôi xem, giữ một tuần ở Sài Gòn.

Thời cơ đến, tôi phải quyết định lẹ. Tôi vẫn cứ đeo túi dết đi về phía cuối hành lang. Thỉnh thoảng, một người mặc “blouse” trắng đi lại, họ chả để ý đến tôi. Tôi tìm một buồng vệ sinh, nhưng nhìn khắp, chả thấy đâu. Tôi đành cứ đi, tôi lựa cho tay vào trong quần rờ và nắn sờ tìm tài liệu “X”, phải hai, ba lần mới thấy, tôi rút ra. Lúc tôi quay lại, từ buồng số 8 ông y sĩ lúc nãy đẩy cửa bước ra.

Thời cơ ngàn năm một thủa, tôi phải liều. Tôi đẩy cửa bước vào. Người đeo kính trắng đó ngửng lên nhìn tôi, mắt ngạc nhiên. Tôi thấy trong phòng còn ba bàn giấy nữa, hai bàn có người, một bàn không. Hai người kia cũng ngửng lên nhìn tôi. Tôi nói cố ý cho họ cùng nghe:

- Thưa bác sĩ! Mẹ cháu vẫn cứ sốt, vì vậy …

Đúng lúc ấy, hai người kia lại cúi xuống sổ sách. Tôi hạ giọng:

- “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.”

Trong lúc hồi hộp, tôi chả nhớ là bao nhiêu chữ. Ông nhìn tôi, đôi mắt mở to, bàn tay ông đang cầm bút rung lên. Mặt ông lộ vẻ hết sức xúc động. Tôi lo quá. Ông này làm sao thế! Ông không đọc lại mật khẩu. Nhanh trí, tôi hiểu ngay là ông bị đột ngột quá. Có thể từ bao năm nay ông mong chờ, ông đã sống với cuộc sống bình thản, giờ đây bất chợt quá chăng? Nếu tình trạng đó, để lâu không lợi. Tôi vội cảm ơn bác sĩ rồi đi ra. Khi ra đến cửa, tôi cố ý quay lại đóng cửa, thế nào ông cũng nhìn theo. Đúng như vậy. Lúc đó hai người kia không nhìn thấy tôi, tôi giơ tay vẫy nhẹ, và mắt cũng làm hiệu là ra theo tôi.

Tôi đóng cửa và ra ngoài. Tôi đi theo hành lang vào phía trong, vì nếu đi ra ngoài phía phòng đợi, có thể tôi không vào được nữa.

Tôi ra ngoài như vậy, vì có hai vấn đề. Thứ nhất, nếu không phải đấy là Z-5, hoặc là Z-5 nhưng bây giờ vì lý do nào đó, ông sợ, ông không muốn lôi thôi nữa, ông sẽ không ra. Thứ hai, nếu ông theo ra, tùy cơ, tôi sẽ đọc lại mật khẩu. Trường hợp ông không trả lời đúng theo quy ước, tôi sẽ lựa theo tình thế biến chế đi, rồi tôi phải chuồn lẹ.

Khi tôi đi tới cuối hành lang, cửa phòng số 8 mở ra và ông đi ra. Tôi quay lại, ông đi về phía tôi. Thái độ và nét mặt ông lúc này đã bình tĩnh, tuy mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi. Tôi coi như không nhìn thấy và đi trở lại phía ông. Ngang qua ông, tôi mới tươi nét mặt nhìn và để một tay lên cánh tay ông, nhẹ giọng:

- “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.”

Ông mỉm cười:

- “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi.”

Tôi nhẹ người, liếc nhanh hai đầu hành lang, tôi cho tay vào túi quần lấy tài liệu, nhét vội vào tay ông. Ông định cất tiếng hỏi điều gì nữa, nhưng tôi bỏ đi ngay ra phía phòng đợi, không cần nghe gì thêm. Khi gần tới phòng đợi, tôi nhăn nhó mặt, để tay vào phía trái tim trước ngực, và đi qua phòng trực rồi ra cổng. Tên gác cổng mỉm cười với tôi. Tôi cũng cười đáp lại và đi tuốt ra phía bờ hồ.

Lòng tôi lúc đó thật hân hoan phơi phới. Nghĩ lại, tôi thấy thực là may mắn. Thành công bất ngờ!

Nếu sau khi cô y tá xem giấy tờ, tôi không ngồi đợi, làm sao tôi nghe được ông y sĩ hỏi về ông Thọ? Phải chăng như thế một xác xuất may mắn nào đó đã nâng đỡ những nỗ lực của ta trong cuộc đời? Một cơn gió mát thổi lướt qua hai bên má tôi mềm mại dịu dàng như bàn tay của một bà tiên: “Ta chúc mừng chú mày!”

Bờ hồ! Những gợn sóng lăn tăn rất đều khoảng cách của làn nước trong xanh, đang đuổi nhau vào bờ gây lên những tiếng động nho nhỏ triền miên nhịp nhàng, giữa một màu đỏ rực chan hòa của hoa phượng vĩ. Chung quanh hồ hầu như toàn hoa phượng. Những chùm hoa đỏ ối, nằm đè lên những tàng lá xanh xanh, soi bóng rạp sát mặt hồ. Hoa lá nhún nhẩy lắc lư đùa giỡn với gió Hè thổi qua từ phía sông Hồng.

Đã 11 giờ, tôi trở về phía Cầu Gỗ, tính tìm một hàng cơm nào đó để ăn một bữa cơm đầu tiên ở Hà Nội.

Khi tới gần nhà thủy tạ, tôi thấy một “kiosque” bán bia, nước ngọt, với ba, bốn bàn kề ngoài trời sát bờ nước, trống trơn vắng vẻ không có khách. Nhìn những chai bia “Hà Nội”, tôi thấy lòng mình nổi hứng bất tử. Tôi sà vào một bàn. Một cô gái trong “kiosque” mỉm cười, ra phía bàn tôi:

- Anh dùng gì?

Tôi đáp cộc lốc:

- Một bia “Hà Nội!”

Cô ta trở vào, vài phút sau mang một chai bia đã mở nút và một cái cốc có hai cục đá con. Tôi cầm chai bia, vừa rót vào ly vừa nói thầm với chính mình:

- Hôm nay, gọi là đặc biệt một chút để thưởng công!

Chà, bia “Hà Nội” gì mà lạt thế! Tôi nhấp một ngụm nữa. Vị bia chỉ thấy hơi một chút “gas”, nhạt thếch. Tôi có cảm tưởng như một chai “33” ở Sài Gòn đổ nước lã vào thành hai chai mà uống, chắc cũng còn thơm ngon hơn thế này. Vậy mà đến 6 hào cả đá (không đá 5 hào). Thôi, gọi là cũng có một chút hơi men trong người để tâm hồn bốc khói.

Uống xong, tôi thả bước về Cầu Gỗ. Khi đến đầu phố Cầu Gỗ và Tạ Hiền, tôi thấy một đám đàn bà con gái ở góc đường. Mấy người đó tươi nét mặt nhìn tôi, hỏi tíu tít:

- Anh có gì bán?

- Này, này đưa tôi xem nào!

Một chị cứ giằng lấy cái túi dết của tôi, định kéo riêng ra một chỗ để coi. Lúc đó tôi cũng hơi lạ. Sài Gòn đâu có cảnh ấy. Hẳn rằng, cảnh nghèo túng đói ăn, thường nhiều người phải moi móc đồ nhà đi bán, nên mới có kiểu con buôn vặt, đứng đón đầu phố. Tôi nói “Chẳng có gì” rồi đi luôn ra phía chợ Hàng Bè.

Chợ Hàng Bè bây giờ, trông chẳng khác một cái chợ quê ngày xưa: Dăm ba cái sạp gỗ với toàn rau muống, rau lang, rau cần, … Chợ mà chẳng có một hàng thịt, hàng cá tươi nào, chỉ có cá khô. Tôi đi qua chợ, vào phố Hàng Bè, nhìn cheo chéo thấy một quán cơm và 3, 4 chiếc xích lô đỗ trước cửa. Theo ý nghĩ ngây thơ khi còn ở Sài Gòn, của tôi về Cộng Sản: Hà Nội ngày xưa với bao nhiêu kẻ giầu người nghèo. Người giầu thì giầu quá, sung sướng quá. Ngược lại, người nghèo thì nghèo quá, suốt đời cực nhọc lầm than mà không đủ ăn. Chắc khi Cộng Sản về, giới giầu có bị đánh đổ, bị ghét bỏ, tẩy chay, còn những người nghèo khổ như con ăn, con ở, xích lô, thợ thuyền cả đời đem bát mồ hôi đổi lấy miếng cơm mà Cộng Sản gọi là giai cấp cần lao, dân nghèo thành thị hay bần cố nông gì đấy, có lẽ sẽ có rất nhiều quyền lợi, cuộc sống phải thay đổi. Cuộc đời của những người này, như cảnh chị Dậu trong Tắt Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố; dưới chế độ Cộng Sản, sẽ xa rồi … Những ngày tăm tối, để đón nhận bình minh của đảng mang về cho giai cấp mình.

Mang trong đầu ý nghĩ như vậy, nên thấy một hàng cơm có nhiều bác xích lô, tôi vào ăn, để xem đời sống của các bác ra sao. Nhìn bên ngoài cửa kính của một quầy nhỏ, tôi thấy dăm, sáu đĩa con con bầy 3, 4 miếng đậu rán một đĩa, đĩa có mấy miếng dứa xào, v.v… Tôi bước vào. Hai dẫy bàn kê dọc theo nhà, trên bàn trống trơn. Bốn dẫy ghế dài kê theo bàn; góc này một anh xích lô tay đang cầm đôi đũa ngồi không; chỗ kia một bác vận quần đùi ngồi chồm hổm trên ghế, để lòi cái cục… cũng có đôi đũa trước mặt. Phía dẫy bàn bên kia, ba người cũng là xích lô ngồi ngả nghiêng túm hụm lại, trước mặt cũng có ba đôi đũa để trên bàn, đang bàn tán hỏi nhau:

- Thế nào, từ sáng đến giờ bao nhiêu rồi?

- Tao mới được 7 hào, chưa đủ tiền thuế, đói thì ăn đã, chiều tính, còn mày?

- Tao được mỗi cú xuống Phà Đen 1 đồng 2. Nắng quá, uống mẹ nó hai hào nước! Ăn hai củ khoai hồi 5 giờ sáng, bay hết mẹ rồi. Phải kiếm cái đút bụng đã, tính sau.

Anh thứ ba tiếp:

- Hôm nay vớ bở, tao được 2 cú đồng 8. Tao phải bỏ riêng 1 đồng nộp thuế. Còn 3 hào, chén đã. Từ giờ đến tối, tao phải cố làm sao được 2 đồng rưỡi.

- Vợ mới mà, hết ý!

Tôi cũng đến ống đũa lấy một đôi, về một góc ngồi. Giữa lúc ấy, một bà đội khăn vấn, từ nhà dưới đi lên ôm một cái thúng, trong có một nồi cơm to, khói bay nghi ngút, chung quanh nồi có chèn bao tải, có lẽ để giữ cho cơm nóng lâu. Cả 5 người đứng dậy, đến chồng đĩa, mỗi người lấy một cái, cùng đưa đến chỗ bàn, bà hàng đang dùng đũa cả đánh cơm ra. Một đứa bé từ trong nhà đưa theo ra một chai nước mắm và một ống đừng thìa nhôm để chỗ cạnh bà hàng. Mỗi đĩa cơm, lưa thưa vài miếng sắn khô (trông ngon hơn ở Hà Tĩnh nhiều) chừng độ 2 bát cơm. Bà hàng cầm chai nước mắm xóc xóc, vẩy đều vào đĩa cơm, lấy một cái thìa cắm vào giữa, đưa cho một người, người đó trả hai hào. Hết 3 người rồi, còn 2 ngưòi nữa. Tuy tay họ vẫn còn cầm đĩa, nhưng chưa lấy cơm, như chờ cái gì. Đang vẩn vơ suy nghĩ, nhìn ra phía cửa có thêm hai bác xích lô nữa đi vào, thì có tiếng cãi nhau, và có tiếng bà hàng cơm quát to:

- Những cái anh này! Của đâu mà lắm thế! Đưa tiền đây, còn để cho người ta bàn hàng chứ!

Tôi nhìn lại, thấy hai anh xích lô cầm hai đĩa cháy đầy, mắt nhớn nhác, liếc ngang, liếc dọc, thỉnh thoảng bỏ một miếng cháy vào mồm nhai rau ráu. Thì ra, các anh giành nhau mua cháy, nên chờ từ nãy, mua cháy được nhiều hơn.

Hai anh đi về phía gần bàn tôi, vừa đi vừa bốc ăn như đói lắm, mắt hau háu nhìn mọi chỗ. Từ nãy, tôi vẫn liếc nhìn chiếc tủ kính có mấy đĩa món ăn. Tôi muốn ăn, nhưng chưa thấy ai kêu, vì họ ăn toàn cơm với nước mắm, nên tôi hơi e dè. Tôi lấy đĩa, đưa cho bà hàng. Sau khi bà hàng đơm cơm xong, tôi hỏi:

- Thức ăn kia bán thế nào?

Bà hàng nhìn tôi một lúc, như xét nghiệm xem loại người nào mà dám hỏi thức ăn:

- Năm hào một đĩa.

- Cho tôi một đĩa.

Thế là đĩa cơm của tôi bớt được một phần nước mắm. Bà cúi ra mở tủ, tôi chỉ đĩa lòng gà xào dứa.

Tôi cầm về bàn. Hai anh ăn cơm cháy mở to mắt nhìn mãi vào đĩa thức ăn của tôi. Chẳng biết vì khi nãy tôi đã uống bia hay vì cơm sắn khô đắng, tôi ăn vẫn thấy khó nuốt. Phần vì đói, phần để cho mọi người chung quanh không thấy khác thường, tôi cố tỏ vẻ ăn liên hồi. Miệng nhai nhưng đầu tôi vẫn băn khoăn, mắt nhìn mọi người ăn một cách ngon lành. Phải rồi! Mình vừa ở một nơi ăn những thứ ngon xong, chứ lâu rồi thì cũng như họ. Ăn được hai phần ba đĩa cơm, tôi buồn nôn vì đĩa lòng gà đã nguội, hơi tanh tanh, lại thấy có mấy cái lông gà con con trong một miếng ruột gà. Tôi lại phải giả vờ ôm bụng. Hai anh ăn cháy, từ nãy vẫn cứ nhìn tôi, rồi nhìn đĩa cơm và đĩa thức ăn. Tôi vừa bỏ thìa và đũa xuống, mắt hai anh đã sáng lên, nhìn tôi cười. Tôi cũng mỉm cười rồi xoa bụng, kêu trống không:

- Không biết tại sao đang ăn lại đau bụng?

Hai anh xô lại chỗ tôi rất lẹ, một anh một đĩa cơm thừa, anh kia đĩa ruột gà ăn dở.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 24 Feb 2010

Tập I - Chương 18

Linh Mục “A”, Nhà Thờ “X”

Tôi bước ra khỏi hàng cơm, tâm tư nặng chĩu những suy tư về những kiếp người trong xã hội “ưu việt”. Tôi liên tưởng tới một hình ảnh của một bác xích lô gần xóm tôi ở Sài Gòn. Một buổi chiều, tôi đang ngồi học, nhìn qua cửa sổ, vẳng nghe tiếng cót két của chiếc xích lô không khách. Bác đang thủng thẳng đạp về, bên cạnh xe đeo lủng lẳng miếng thịt heo và con cá lóc. Người vợ và đứa con trong nhà chạy ra hớn hở, chưa kịp hỏi han, đã bị bác xích lô giục: “Làm mấy món nhậu ngay! Con Tư, sang bà Bẩy lấy cho ba chai đế!”

Cùng một cảnh đời, nhưng hai không gian, hai hình ảnh. Tôi quẹo về Hàng Dầu, rồi theo phố Mã Mây lên Hàng Chiếu. Tôi phải tránh khu phố Hàng Bạc, mặc dù trong lòng tôi cứ da diết muốn tìm về phố cũ, nhưng tôi vẫn còn e dè. Đến Hàng Chiếu, tôi đi ngược lên Hàng Đậu, rồi lên cầu Long Biên. Chủ trương của tôi là nghe ngóng, thăm dò về Phúc Xá Thượng và Hạ xem linh mục A thế nào. Trước khi lên cầu Long Biên để sang Gia Lâm. Tôi lại làm một số động tác nghiệp vụ để xác định an toàn. Sau khi xác định không có chiếc “đuôi” nào, tôi lên cầu.

Chiếc cầu lịch sử nổi danh của Việt Nam ngày nay đã ọp ẹp vì gánh quá nặng thời gian, đã nhìn ngắm quá nhiều biến thiên của đất nước. Trước đây, xe cộ chạy hai chiều. Nhưng bây giờ, cứ hết chiều này qua rồi mới tới lượt chiều kia. Vì thế, xe ứ đọng hai bên đầu cầu hàng dẫy dài. Nhìn những chiếc xe đủ kiểu nhưng cũng nặng nề, ì ạch như tuổi đời chiếc cầu xế chiều. Bên dưới, giòng sông Hồng vẫn cuồn cuộn đỏ máu phù sa như kiêu hãnh nói lên với thế nhân, trong lòng mình còn mang nhiều máu giặc Thanh hồi nào. Sang tới Gia Lâm, tôi thấy Gia Lâm ngày xưa náo nhiệt là thế. Sao giờ vắng vẻ đìu hiu thế này, tôi có cảm tưởng như một phố huyện chiều Đông của một tỉnh miền sơn cước.

Đến nhà thờ Gia Lâm ở trung tâm thị trấn, nhìn vào trong sân, tôi thấy đầy sân, một bên là ngô, một bên là lúa, có hai người đội nón đang cầm cào đảo lúa. Còn nhà thờ mốc meo, đóng cả 3 cửa im ỉm. Mỗi cửa lại có một miếng ván đóng chéo từ dưới lên trên, có nghĩa là cửa không mở nữa.

Tôi bâng khuâng, bàng hoàng cho tình trạng giáo dân miền Bắc. Tôi vào hẳn trong sân, bốc một nắm ngô xem hạt. Một người ngẩng lên nhìn tôi là một bác già, chừng 57 tuổi. Tôi gật đầu chào bác:

- Ngô này năm nay, hay năm ngoái hở bác?

- Hai năm rồi đấy cậu ạ! Phơi cái này, rồi đổi cái mới vào.

Ông già hiền lành cởi mở, tôi thấy dễ mến. Ông nói:

- Tôi đảo hết chỗ này, mời cậu vào uống nước.

Chừng 5 phút sau, ông ghếch chiếc cào vào hè, mở nón, lấy khăn vừa lau mồ hôi, vừa đi về phía một căn nhà cửa đang mở:

- Mời cậu vào chơi!

Tôi theo vào. Trong nhà treo nhiều hình ảnh thờ to: Đức Mẹ và các thánh. Thấy nhà cửa như vậy, tôi nhìn bác và hỏi:

- Thưa bác, vậy bác theo công giáo?

Ông già niềm nở:

- Tôi là trùm họ ở đây!

Tôi săn đón:

- Cháu cũng là công giáo đây!

Ông tỏ vẻ càng hân hoan, tôi gạ:

- Nhà thờ đây có cha không ạ?

Ông lắc đầu:

- Từ lâu không có cha, bây giờ nhà thờ làm kho của hợp tác xã, và tôi trở thành người coi kho.

Tôi cười:

- Vậy sướng quá rồi còn gì! Giàu nhà kho, no nhà bếp!

Ông cũng cười. Thấy ông là trùm họ, hiền lành vẻ chất phác, nên tôi vồn vã nhiều chuyện, trong đó tôi lựa hỏi về Cha A. Ông cho biết, hiện cha còn ở nhà thờ “X”, chỉ một tuần vào thứ Bảy buổi sáng, cha về Phúc Xá Thượng và Hạ để làm lễ sớm mà thôi. Thấy đã thỏa được những điều mình cần biết, tôi xin phép ông già đi ngay, ở lâu không có lợi. Lúc đó đã 3 giờ chiều.

Trên đường đi về, khi xuống hết dốc Bến Nứa, tôi thấy một em gái chừng 12 tuổi, mặc áo sơ mi trắng, có vẻ sạch sẽ, tôi hỏi:

- Em ơi, có biết nhà thờ “X” ở đâu không em?

Em chỉ tay và nói:

- Anh đi rẽ ra Quan Thánh là nhìn thấy.

Hôm đó là thứ Tư, tôi nghĩ nhà thờ hôm nay vắng vẻ, không tiện vào, nhưng cứ đi qua nhìn xem sao. Tôi rảo bước hướng về phố Quan Thánh. Khi đi ngang qua nhà thờ, bên ngoài có trồng hoa, tôi nhìn vào thấy cả 3 cửa phía cuối nhà thờ đều đóng. Bên ngoài có 7, 8 cậu có vẻ là học sinh, mang theo sách vở, mỗi cậu một chỗ đang xem sách. Thấy thế, tôi rẽ vào. Trên lối đi qua chỗ vườn hoa, thấy một ông già, mặc quần áo nâu đang hý hoáy làm cỏ dưới những cây bích đào, cây hồng.v.v…Tôi vào chỗ các cậu, ngồi sà xuống, cầm một quyển sách toán xem và hỏi một cậu:

- Các cậu học chăm quá nhỉ?

Một cậu cười:

- Sắp thi mới học!

Thì ra đây là các cậu học sinh lớp 10 (vỏ bọc của tôi) đang tíu tít học thi (lúc này còn chương trình, hệ 10 năm.) Tôi mở cuốn sách Hình và Đại, thấy chương trình toán, năm cuối lớp đệ Tam và đầu đệ Nhị. Như thế, riêng về toán chương trình thấp hơn gần một năm so với trong Nam. Mục đích là xem nhà thờ, nên tôi chào các cậu đi ra. Đến chỗ bác làm vườn, tôi lên tiếng:

- Bác làm cỏ đấy ư?

Bác ngẩng lên cười, gật đầu. Tôi ngồi xuống nâng một bông hồng lên xem:

- Bông này đẹp quá bác ơi!

Ông nói:

- Mùa Xuân, có mưa Xuân mới đẹp.

Tôi hỏi luôn:

- Cha A có nhà không bác?

Ông lắc đầu:

- Cha đi từ sáng, có lẽ sắp về.

Tôi liếc nhìn vào ngõ nhà chung sâu hun hút, nói lảng sang chuyện khác. Chỉ 5 phút sau, tôi nghe tiếng mô tô rồ máy đi vào cổng nhà thờ. Một linh mục mặc áo chùng thâm, tóc cắt “tăng gô”, da mặt hồng hào khỏe mạnh, chạy xe chầm chậm vào khu nhà chung. Tôi hỏi bác làm vườn:

- Cha A đấy ư?

Ông già lại gật đầu. Cha A đi chiếc xe mô tô “bê can” 2 máy. Dáng dấp người rất khỏe mạnh. Trên đường phố Hà Nội rất ít thấy mô tô, ngoại trừ mô tô của công an hay bộ đội. Như vậy, người cũng phải có một cái thế nào đó, mới xoay được xăng để chạy. Tôi hỏi bác làm vườn một hai câu nữa, về hoa cỏ rồi ra về, tính một ngày khác sẽ đến. Trên đường về, tôi rẽ ra phía chợ Đồng Xuân, lúc đó đã 6 giờ chiều. Ở Hàng Giấy, Hàng Đường người đi lại tấp nập, đông đúc. Nhìn thấy nhà sách Nhân Dân bên kia đối diện với chợ Đồng Xuân, tôi ghé sang.

Ngay từ khi còn đi học, tôi đã rất ngưỡng mộ các nhà văn, nhà thơ. Tôi quan niệm rằng: Các ông là những người tiền phong, đi trước tư tưởng quần chúng, suy nghĩ, tìm tòi, phát triển nhiều tư tưởng mới để giáo dục, chỉ đường, hướng dẫn tư tưởng quần chúng đến chỗ thiện, mỹ của con người. Tiêu biểu của thế hệ sát tôi là các nhà văn Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Lê Văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, v.v…; các nhà thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Tú Mỡ, Thế Lữ, Tchya, v.v… Văn thơ của các ông tôi đã đọc và rất thích, rất ngưỡng mộ. Một số người ở lại miền Bắc theo Cộng Sản. Vậy, văn thơ của các ông ấy bây giờ ra sao. Từ tâm trạng ấy, tôi vào các hiệu sách, một trong những hiệu sách lớn của Hà Nội, tôi chỉ nhìn thấy một vài tác phẩm mới như “Đời Cô Lựu”, “Bão Biển” của những nhà văn nhà thơ mà tôi đã được đọc thơ văn của họ thời tiền chiến, còn hầu hết trong núi sách: nếu không viết về hợp tác xã, đoàn viên thanh niên, công nông trường, nhà máy… Thì cũng lại là triết của Karl Marx, Lenine, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ… Mở một cuốn sách nào ra, cũng chỉ đọc được một vài trang, rồi tôi không muốn xem nữa. Tôi thấy thật nghèo nàn về tư tưởng, không có hồn, nhạt phếch.

Vì là văn nghệ chỉ đạo cho nên bất cứ một câu chuyện gì, nội dung gì cũng gò bó theo một khuôn thước nhất định. Kể cả phim ảnh, nhạc, kịch cũng vậy. Cứ xem hay đọc vài mươi tờ, đã đoán được đoạn cuối, sự việc sẽ giải quyết ra sao rồi, chán ngấy!

Tôi mua cuốn “Bão Biển” và “Đời Cô Lựu”. Một cuốn “Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi” của Võ Nguyên Giáp. Tôi mua những loại sách báo này có nhiều mục đích: Trang bị cho vỏ bọc của tôi, cũng xem qua trong nói những gì. Với chì mật, tôi sẽ ghi những dữ kiện cần thiết. Mua sách xong, tôi rẽ về Hàng Quạt ăn cơm. Đêm đó tôi ngủ ở nhà trọ Hàng Quạt.

Sáng hôm sau, mồng 3 tháng 6, như vậy là tôi đã đến Hà Nội đã được 2 ngày rưỡi. Tôi đã hoàn thành một phần tư nhiệm vụ. Như thường lệ, tôi ra bến xe điện bờ hồ, mua một khúc bánh mì, tờ báo “Thủ Đô”, đến một ghế xi măng ngồi ăn và nhìn ra hồ.

Theo tin hỏi được từ ông già làm vườn nhà thờ X, 5 giờ chiều nay, Cha A có giải tội hàng tuần. Vậy từ giờ cho đến 4 giờ 30 chiều làm gì? Tôi chợt nghĩ đến Nhà Hát Lớn Hà Nội và phố Tràng Tiền, xưa gọi là phố Tây, nơi sang trọng có nhiều người ngoại quốc, nên các cửa hàng ở đó cũng theo lề lối Âu Tây. Nghĩ như vậy, tôi đứng lên, kín đáo quan sát tất cả các bộ mặt chung quanh trong phạm vi 100 mét.

Tôi đi về phía phòng thông tin cũ, rẽ vào một ngõ hẹp rồi quẹo xuống vườn hoa “Con Cóc”. Đến đây, tôi tìm một ghế đá ngồi để xác định an ninh bằng một phương pháp chuyên môn. Không có một hiện tượng nào tôi phải chú ý cả. Yên tâm, tôi ngoặt ra bờ hồ, qua nhà bưu điện, đến nhà hàng “Gô Đa”, vào Tràng Tiền. Tôi đang đi, miên mang suy nghĩ, bỗng tôi chú ý đến hai cô gái môi son. Mặt đánh phấn, chí chóe cười đùa, đang đèo nhau trên một chiếc xe đạp. Hai cô lại mặc “duýp” mới chứ! Đó là một hiện tượng không bình thường ở Hà Nội thời ấy. Tôi đưa mắt nhìn toàn cảnh phố phường lúc đó. Đường phố có vẻ nhộn nhịp hơn. Sáu, bảy chiếc xe du lịch cũ kỹ chạy trên đường. Một chốc, tôi lại thấy những chiếc xe đó quành lại, cứ vòng đi vòng về. Đây đó, tôi thấy nhiều cô gái mặc áo dài đi trên phố, cũng như xe đạp dưới đường. Những chiếc áo dài xanh, đỏ vẫn còn hằn nếp gấp, chứng tỏ đã lâu ngày, có khi hằng năm, hôm nay Chủ Nhật mới sử dụng. Những cô gái này cứ quành đi quành về trên đường phố Tràng Tiền.

Tôi tự hỏi, họ làm gì thế? Mắt tôi chợt nhìn, xa xa mãi tít tận thềm nhà Hát Lớn, một đám người lố nhố đang điều hành một máy quay phim.

À, một cái bịp của Cộng Sản đây! Những đoạn phim này nếu đưa vào Sài Gòn, vùng “giải phóng”, sang Thái Lan, Tân Đảo, hay nơi nào khác… thì đây: Hà Nội, thủ đô của xã hội chủ nghĩa, dân chúng, xe cộ vui tươi, sầm uất nhé! Họ đâu biết rằng cảnh phố phường vui tươi ấy chỉ có một lúc này. Nhưng, nếu ai có nói với họ không phải như vậy, Cộng Sản đóng phim bịp đấy, thì họ cũng không tin. Thấy chỗ nhà hát lớn như thế, tôi không tiện đến đó nữa. Tôi lang thang xuống phố Huế rồi rẽ sang Tràng Thi quẹo về bờ hồ, ngược lên phố Huyện ra Hàng Trống, Hàng Gai. Hà Nội không có một hiệu ảnh tư nào cả. Những hiệu ảnh lớn ngày xưa, trước 1954, bây giờ còn sót hiệu nào, cũng chỉ thấy đề tấm biển nhỏ: “Ở đây nhận rửa phim và tô màu” (Vậy, nếu ai không biết, vào hiệu bảo “chụp cho tôi cái ảnh”, đúng người đó mới ở trên trời rơi xuống.)

Những hiệu ảnh khác bây giờ, hoặc đóng cửa, hoặc chuyển thành một nơi sản xuất hàng thủ công. Toàn bộ mấy khu trung tâm của Hà Nội, tôi chỉ thấy hai chỗ chụp ảnh quốc doanh của nhà nước. Một hiệu ở Tràng Tiền và một ở góc chéo Bờ hồ gần quán mụ Béo ngày xưa. Giữa thủ đô của một nước, nhìn những hiệu may lớn ngày xưa, một vài cửa hiệu vẫn còn tấm biển quảng cáo tuy đã long lở sơn. Nào đâu những tấm biển của ngày xưa “Cai cúp tốt nghiệp ở Paris,” nào “Chuyên viên may mặc, có nhiều năm kinh nghiệm ở Marseilles,” v.v… Bây giờ, thường thường ở cửa kính trước hiệu, đeo hay dán một cái biển nhỏ dài chừng 50 phân, rộng 15 phân. Bằng gỗ hay bằng một tấm bìa: “Ở ĐÂY, NHẬN VÁ VÀ LỘN CỔ ÁO.” Nghĩa là, không còn cái cảnh có vải sẵn để may cắt quần áo. Tôi đi nhiều, khắp đây đó trên đường phố Hà Nội, hiệu lớn cũng như hiệu nhỏ, thường thấy cái biển đề như vậy đập vào mắt tôi. Nếu có máy ảnh, tôi sẽ chụp khung cảnh hiệu và tấm bảng này. Chỉ điều này thôi, đã nói lên nhiều sự việc về kinh tế cũng như cuộc sống của người dân thành phố Hà Nội, dưới chế độ Cộng Sản.

Thỉnh thoảng nhìn thấy những người mồ hôi nhễ nhại, kéo những chiếc xe ba bánh trên đường phố, tôi cứ bần thần suy nghĩ. Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, tôi thường ngây thơ lý luận: Xã hội loài người luôn luôn tiến lên, 10 năm sau sẽ khác hẳn 10 năm trước. Điều này là tất yếu ở mọi nơi, mọi nước. Vậy, thời con người thay con vật kéo xe, kéo cầy đã phải qua rồi, trừ những hoàn cảnh, những lúc đặc biệt nào đó. Còn nói chung, sinh hoạt bình thường ngoài đường phố, thì trên thế giới này hiện nay. Dù ở một nước bán khai lạc hậu nào đó, cũng không còn cái cảnh người làm thay con vật. Cảnh người kéo xe ba gác ở Hà Nội bây giờ, là một trong những thực tế đã mở mắt cho tôi, để tư duy, kiến thức của tôi được mở rộng dần. 4 giờ 30 chiều. Tôi phải xúc tiến việc đến với linh mục A. Theo kế hoạch thời gian, tôi phải nằm lỳ ở đấy ít ra 10 ngày để tuyển mộ và huấn luyện cho kịp với ngày 16 hay 18 trao tài liệu “M” theo như quy ước.

Tôi tản bộ lên phía nhà thờ X. Khi gần tới nơi, tôi nhìn thấy một cửa phụ phía dưới nhà thờ mở một cánh, và loáng thoáng một vài ông bà già đi vào. Tôi cũng đi vào nhà thờ. Khoảng 15, 16 người, quỳ rải rác ở các hàng ghế trong nhà thờ rộng thênh thang. Hầu hết là các ông bà đã có tuổi. Tôi tiến đến quỳ cạnh một ông già đầu tóc bạc phơ, gần dẫy ghế phía cuối. Một lúc, tôi ghé gần ông già, hỏi:

- Thưa cụ, hôm nay cha có giải tội không?

Ông già phều phào nói nhỏ:

- Có, tí nữa cha ra.

Chừng 10 phút sau, cha từ phía sau ra trước bàn thờ, quỳ xuống cúi đầu đọc kinh. Một lúc, người đi xuống. Trong khi đó, ở dưới này một số bà và một ông đứng dậy, ra phía tòa giải tội đứng xếp hàng. Tôi cũng theo đến tòa giải tội đứng vào hàng. Khi đến lượt, tôi tiến lại tòa giải tội, quỳ xuống. Sau khi làm vài thủ tục bắt đầu của buổi xưng tội, để tranh thủ thời gian, tôi nói luôn:

- Thưa cha, con vừa ở Sài Gòn ra, con có mang theo một lá tâm thư của cha Hoàng Quỳnh gửi cho cha. Vậy, con có thể đưa cha bằng cách nào cho thuận tiện?

Im lặng một lúc, cha nói:

- Tí nữa khi giải tội xong, tôi quỳ ở phía dưới nhà thờ. Anh cứ đưa tự nhiên.

Tôi băn khoăn:

- Thưa cha, như vậy có điều không tiện chăng?

Cha nói:

- Không sao cả! Ở đây, giáo hữu vẫn thỉnh thoảng đưa thư xin lễ cho tôi.

Qua cách đối ứng, và cách nói chuyện của cha, tôi thấy cha là một người rất bình tĩnh, điềm đạm. Vì cha ở trong phòng giải tội, tôi không thể nhìn được nét mặt của người như thế nào, khi bất chợt cha gặp một người ở Sài Gòn ra. Tôi nói tiếp:

- Thưa cha, con sẽ gặp cha để thưa chuyện với cha nhiều. Nhưng, con muốn trước đó, cha hãy đọc lá thư của cha Hoàng Quỳnh đã. Vậy, thường ngày cha có làm lễ sớm không?

- Sáng mai, tôi làm lễ sớm từ 5 giờ, xong lễ, anh lên gặp.

- Con sợ, tí nữa ra ngoài đưa thư không nói được gì. Vậy thưa cha, gặp cha ở đây thuận tiện, hay ở Phúc Xá Thượng hay Hạ, tiện?

- Cứ ở đây, tiện hơn.

Tôi vờ cuối đầu đọc kinh ăn năn tội như mọi người, rồi ra. Tôi quỳ ở hàng ghế cuối, chờ.

Sau hai người nữa, hết người xưng tội. Cha ra, quỳ ở trên tôi khoảng 6, 7 hàng ghế. Chờ cha làm dấu xong vừa đứng dậy tôi cầm thư tiến đến. Gần chung quanh không có ai, tôi nói khẽ:

- Sáng mai, con sẽ đến cha!

Rồi, tôi xuống cuối nhà thờ và ra ngoài. Tôi ra lối cổng nhà thờ, sát ngay hè phố. Gọi là cổng, nhưng không có cánh cửa, đó là một lối xe ra vào rộng, giữa hai bờ tường xây dọc theo hè phố. Mắt tôi thoáng thấy phía bên phải, một vật gì loáng thụt vào một bờ tường, cách tôi khoảng 10 mét. Phản xạ tự nhiên của nghề nghiệp, lẽ ra tôi quặt theo phía trái theo hè phố để về Hàng Than, nhưng để xác định cái bóng lúc nãy, tôi bước thẳng xuống đường, để sang hè phía bên kia.

Lợi dụng một chiếc xe từ phía trái đi lại, quay lại, tôi vờ chú ý nhìn chiếc xe, khi xe đi ngang qua mặt, tôi nhìn theo. Rất nhanh, tôi đã thấy một tên đội mũ cá két xám, đeo kính râm, chừng 30 tuổi. Y đang vờ nhìn về phía phải y, để tôi không thấy mặt.

Căng thẳng bắt đầu! Tôi hoàn toàn vờ như không hề biết, cứ thong thả tiến về phía Hàng Than. Tuy vẫn thủng thẳng bước, nhưng lòng tôi đầy phán đoán, cân nhắc. Để xác định rõ, tôi đi về phía chợ Đồng Xuân. Hôm nay, khu mặt tiền chợ có vẻ đông hơn hôm trước, có lẽ vì trời còn sớm. Tôi lại vào hiệu sách, vờ lựa chọn, tìm một cuốn. Khi tôi cố ý với một quyển sách trên kệ cao, tôi đã thoáng thấy tên đó đứng bên kia cửa chợ. Lợi dụng việc chọn sách và mua một cuốn về nông nghiệp, cũng như khi ra quầy trả tiền, tôi đã quan sát hết mọi bộ mặt, quần áo, dáng dấp những người chung quanh mà tôi có thể nhìn thấy. Xong, tôi theo Hàng Giấy xuống Hàng Đường rẽ vào Hàng Bồ, qua Mã Mây, vào quán cơm Hàng Bè lần trước. Cơm nước lúc này, làm sao ăn ngon cho được nữa! Bao nhiêu thính giác, thị giác và trí óc của tôi đang quay cuồng với tên mang kính râm. Nhìn chéo sang góc chợ, tôi thấy tên kính râm đang lảng vảng tiến vào hàng cơm, tôi lại thấy một tên đi xe đạp, mặc áo công nhân xanh, chừng 25 tuổi, tôi đã thấy y ở Đồng Xuân. Hai tên.

Tôi cố gắng nhồi cơm vào, chứ tôi còn biết mùi vị gì. Ăn xong, tôi về nhà trọ Hàng Quạt để đi ngủ. Giường tôi nằm giữa hai chiếc giường, mà hai người nằm đó tôi đã biết mặt từ hôm trước. Nói chung, khu tầng dưới tôi nằm, có 9 giường. Hôm trước, chỉ có 3 giường trống là số 1, 2, và 5. Tôi nằm giường 4.

Khi tôi vào đi tắm, lúc đó là 8 giờ tối, tôi chuẩn bị lại hết những gì cần thiết. Trong mình tôi chỉ còn 3 tài liệu: 2 của linh mục B và C, 1 tài liệu “M”. Tắm xong ra, tôi thấy giường số 5 có một anh cũng đeo ba lô bộ đội mới vào thuê. Tôi về giường, mỉm cười gật đầu chào, anh cũng gật đầu mỉm cười với tôi. Anh ta chừng 26, 27 tuổi, người trắng trẻo. Trong khi tôi loay hoay sắp xếp giường và túi dết. Anh cũng lục đục tìm thế nằm. Một lúc tôi lên tiếng:

- Không hiểu sao, nhà thương ở đây xin nằm điều trị khó thế anh nhỉ?

Anh nói:

- Tùy theo bệnh. Tôi cũng ở Bắc Ninh về chữa bệnh đây.

Tôi hỏi ngay:

- Anh bị bệnh gì?

Anh thủng thẳng:

- Đau dạ dầy.

Trong óc tôi đặt ngay một nghi vấn. Được, tao sẽ có nhiều cách để biết về mày. Chữa bệnh hay theo dõi tao, rồi tao sẽ biết! Đêm hôm đó, phải thú thực, tôi không tài nào ngủ nổi, mệt lắm thì chỉ nhắm mắt. Đầu óc căng thẳng. Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu suy nghĩ, tính toán. Địch, nghĩa là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi? Hay đây chỉ là công an ngầm hình sự theo dõi lưu manh, buôn lậu? Và khâu nào bị lộ? Chúng bắt đầu phát hiện ra mình từ lúc nào? Vì sao?

Tôi nhớ lại, lúc sáng khoảng 8 giờ rưỡi, 9 giờ, ở bờ hồ bến xe điện, tôi đã xác định là không có “đuôi”. Vậy, có thể địch phát hiện ra tôi từ nhà thờ X. Nếu từ nhà thờ X, có hai lý do khả nghi: Thứ nhất, có thể từ ông già làm vườn. Ông là người đã bị công an tình báo Hà Nội mua hoặc đặt vào để theo dõi, giám sát mọi hình vi của Cha A. Thứ hai, Cha A ở giữa lòng Hà Nội, lại là một linh mục có khả năng, cương cường, nhiều lần chúng mua chuộc không được. Như vậy, chính chúng thường xuyên đặt người nhòm ngó cha rồi.

Vì chính quyền miền Nam đang tăng cường tung gián điệp, biệt kích ra miền Bắc, cụ thể như anh Hảo Hải Quân đã tâm sự với tôi. Hơn nữa, từ Hà Tĩnh tới Hà Nội, đâu đâu tôi cũng thấy khẩu hiệu: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Dân chúng đã được giáo dục học tập, thấy một hiện tượng lạ, một người lạ phải đến báo cáo cho công an. Như vậy, tất nhiên, Cục phản gián Cộng Sản đã bí mật rải người canh gác cả 5, 6 nhà thờ ở Hà Nội có linh mục ở. Chúng thừa đoán được là, nếu gián điệp mò về hoạt động, nhà thờ chính là những nơi gián điệp cần bắt mối, liên lạc. Có thể, tại tất cả địa phương, nhà thờ, xứ đạo có linh mục, chúng đều có lệnh cho từng địa phương tùy nghi để bố trí theo dõi, giám sát những hành vi của các linh mục, và những người lạ đến giao thiệp, gặp gỡ. Riêng Hà Nội là trung tâm đầu não của đảng, cũng như của chính quyền, vấn đề này càng được đặt ra đúng tầm quan trọng của nó.

Tôi mới đến nhà thờ X lần thứ II. Lần đầu, có thể tôi đã đến trong một lúc sao nhãng nào đó của nhân viên phản gián. Hoặc, nhờ có một số học sinh đang học thi, tôi đồng dạng, nên qua mắt được chúng, chúng vô tình không để ý. Lần này, đến nhà thờ, chỉ có một số ông bà già, còn thanh niên trẻ tuổi không ở công trường, xí nghiệp, nhà máy, thì cũng đội nọ, đoàn kia, họp hành làm gì có thì giờ mà đi nhà thờ. Ngay ngày Chủ Nhật cũng chỉ họa hoằn.

Bao nhiêu vấn đề làm tôi căng óc suốt đêm. Nhiều vấn đề chưa giải đáp được sáng tỏ, phải đợi những ngày tới. Tôi thấy trước mắt, muốn chống đối, đấu tranh với kẻ thù lúc này, phải cần có đầu óc minh mẫn, sáng suốt. Như vậy, cần phải khỏe, không ngủ được, không thể khỏe. Do đấy, tôi gạt hết, quyết tâm ngủ ít ra một tiếng, để ngày hôm sau ứng phó với kẻ thù.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 05 Mar 2010

Tập I - Chương 19

“Đuôi!!!”…

Bảy giờ sáng hôm sau, tôi mới dậy. Tên đau dạ dầy cũng dậy lúc đó. Tôi nhăn nhó:

- Đêm qua, tôi tưởng gần chết! Tim tôi nhiều lúc nghẹt lại tưởng mê man, xỉu đi. Khi ở nhà, đôi khi tôi cũng bị như vậy. Hôm nay, tôi phải vào nhà thương xem sao. Tuổi trẻ mà nhiều khi không muốn sống nữa!

Y nói:

- Hãy cố gắng đi, có khi vào Việt Đức sẽ chữa khỏi. Khoa học ngày nay, chữa được nhiều bệnh lắm.

Tôi hỏi:

- Anh đi nhà thương nào?

Y trả lời:

- Hôm nay tôi chưa đi, còn bận đến nhà người anh họ.

Lúc vào rửa mặt, tôi xem trong túi dết: Không còn đồ gì đáng ngại. Trước khi buộc túi, tôi cố ý để đuôi bàn chải ló hơn đuôi hộp thuốc đánh răng đúng nửa phân và quấn vào cái quần lót; giữa cuốn “Đời Cô Lựu” và cuốn của Võ Nguyên Giáp, tôi kẹp một miếng giấy bé bằng đốt ngón tay út giữa hai cái bìa, rồi xếp lại. Khi buộc túi dết, tôi thắt nút quai chèo, dây dài thò dài hơn đúng 3 lần giây ngắn. Xong, tôi đem ra bàn trực gửi, rồi đi.

Như thường lệ, tôi cũng ra bến xe điện mua một cái bánh mì nhỏ như mọi khi, sau khi quan sát hết một chu vi có thể được do mắt tôi. Tôi hơi nghi bộ mặt và thái độ của mấy người, hai anh chàng hôm trước không thấy. Ăn xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức. Tôi quyết định không trở lại linh mục A nữa, trừ trường hợp tôi cắt được đuôi, hoặc có thời cơ thuận tiện.

Tôi quẹo xuống Trường Thi, đi qua một đường hẻm và một phố nhỏ, đến một cái ghế đá ở Trường Thi, tôi ngồi nghỉ. Thỉnh thoảng tôi lại để tay lên ngực nhăn nhó. Rất lẹ, tôi đã thấy hai chú, mà tôi đã nghi ngay trên bờ hồ. Á chà! Lại có một cô gái chừng 18 tuổi. Mặt non choẹt, có hai mớ tóc đuôi sam, đang ngồi ở một hàng nước vỉa hè cách xa chỗ tôi đến 250 mét. Dáng dấp ấy, tôi đã thấy đứng ở bến xe điện. Được, xem chúng mày bao nhiêu đứa! Cô gái cứ cúi xuống, hai tay lúc lắc đan len. Như thế, hiện nay là 3 đứa.

Tôi vào một cửa hàng quốc doanh, mua một chiếc khăn mặt 5 hào, rồi đi trở về nhà thương Việt Đức. Khi gần tới nhà thương, tôi coi như lần đầu tiên đến đây. Tôi phải hỏi thăm một người đi đường, họ chỉ cho. Tôi lớ ngớ như bộ điệu của một anh chàng ở tỉnh, chưa hề tới lần nào, từ cách đưa giấy tờ, cho tới khi vào trong. Dù không cần quan sát, tôi cũng hiểu mọi cử chỉ hành động của tôi; ít nhất có 6 con mắt không bỏ sót. Tôi cố ý tránh, không bén mảng tới mấy dẫy nhà của Z-5.

Tôi hỏi thăm những người y tá để đến thẳng khu phòng khám, chữa về tim. Điều phiền toái là tôi lại không có bệnh. Vì thế, tôi chỉ đến phòng đợi, hỏi han vớ vẩn về tim, có nằm điều trị được không v.v… Khi họ hỏi tôi có giấy giới thiệu không? Tôi lại lắc đầu. Loanh quanh một lúc, thế mà cô ả đan len cũng mò vô, và một anh chàng nữa.

Khi ra cổng bệnh viện, ngay khi vừa tới mép cổng, tôi đã thấy anh chàng mặc áo nâu cùng xuống Tràng Tiền với tôi, đứng mãi bên trong giậu găng của một ngôi nhà xa tôi đến 300 mét, thò mỗi cái mặt ra. Ngay chéo bên kia phố, một anh xích lô đầu đội mũ công nhân, mà tôi đã để ý từ dưới Trường Thi, đang lúi húi nắn cái lốp (vỏ) xe. Tôi biết rồi, đừng vờ nữa!

Như thế là những 4 người. Điều này đã nói lên tình hình rất căng. Không thể còn lỏng lẻo mơ hồ nữa.

Tôi về bờ hồ, sang phía đền Ngọc Sơn. Chỗ có nhiều cây to, có các quán nước ngoài trời, vào một bàn, mua một chai nước ngọt, ngồi nhìn ra hồ. Tôi ngồi nơi vắng lặng như vậy, cho tinh thần được thoải mái để cân nhắc, tính toán. Lúc này, tôi không cần để ý tới người theo dõi cho mệt. Cái cần thiết, tôi đã biết rồi. Mức độ căng thẳng tôi cũng đã nhìn thấy. Vậy, chỉ còn đào sâu tính toán cho kỹ. Rồi theo đó giải quyết.

Vẫn làn gió hồ hiu hiu thổi nhẹ, vẫn những bông phượng vĩ đỏ ối quanh hồ, nhưng hôm nay tôi không cần biết, trước mắt mà coi như không thấy. Tôi chưa kết luận, nhưng những hiện tượng vừa qua trong hai ngày cho thấy, phải tới 90% là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi. Nếu chúng là phản gián, chúng đã xác minh được tôi rồi. Tôi không phải là người sống ở miền Bắc, tuy có giấy thông hành đầy đủ tên tuổi, quê quán do công an huyện ký. Chúng chỉ cần nhắc điện thoại là biết rõ rồi. Tôi làm gì có tên trong sổ cái.

Nếu chúng là phản gián, tôi phải tin chắc nguyên tắc này, chúng sẽ chưa bắt tôi. Chúng cần bí mật theo dõi, để xem tôi đi những đâu, làm gì, giao thiệp với những ai…? Trừ phi tôi định chuồn. Vậy tôi yên tâm, chưa sợ chúng bắt. Tôi cần tỉnh táo, bình tĩnh để đối ứng. Từ nguyên tắc trên, đôi khi chúng lại tạo điều kiện cho tôi đi lại, hoặc ra vào một cách dễ dàng hơn, ở một cơ quan nào đó mà tôi muốn. Có như vậy, chúng mới biết được tôi định làm gì và giao thiệp với ai? Mặt khác, chúng sẽ bố trí nhân viên phản gián sao cho:

- Không bỏ sót một việc gì mà không biết, dù nhỏ nhặt của con mồi. Nếu có quay phim thì càng tốt.

- Tuyệt đối khéo léo, không để cho con mồi biết là đã bị phát hiện.

- Cố tránh đừng để con mồi thấy mặt nhiều lần, nó sẽ nghi ngờ.

- Bám riết, không được để mất con mồi. Phải tinh ý, đoán trước được ý đồ của con mồi định làm.

Những điều trên, có lúc tưởng như mâu thuẫn với nhau, vì thế, để giải quyết, chỉ còn một cách duy nhất là tăng cường đầy người theo dõi, vòng trong, vòng ngoài, v.v… Mục đích của chúng là phải biết rõ về tôi, và tìm hết mọi mắc lưới của tôi. Biết khả năng của địch ưu, cũng như nhược, để tùy cơ ứng biến theo điều kiện của tôi. Về phía tôi, tôi nhận thấy, điều đầu tiên và quan trọng nhất là: Bằng mọi giá, mọi cách dứt khoát không để cho chúng biết là tôi đã biết chúng. Dù sau này, sự việc diễn tiến như thế nào, điều đó chỉ có lợi cho tôi mà thôi. Tôi sẽ phải tạo điều kiện cho đối phương mất cảnh giác rồi bất ngờ cắt “đuôi”. Nếu có thời cơ tôi sẽ trở lại linh mục A. Nắm vững là chúng chưa bắt mình, vậy tôi phải triệt để lợi dụng yếu tố này. Kéo dài thời gian, tung hỏa mù, để trao tài liệu “M”. Tương kế tựu kế, tôi sẽ dẫn đối phương về một chiều hướng khác. Tôi phân tích, cân nhắc, đặt ra những phương hướng trên. Trước mắt, tôi cứ như thế, rồi tùy theo diễn tiến của thực tế, sẽ bổ sung hoặc thay đổi.

Một điều tôi buốt ruột đau lòng lúc này, là hộp thuốc hóa trang đã để lại miền Nam. Tôi đã học và thực tập hóa trang nửa tháng trời. Lỗi này không do tôi, mà do các ông dậy tôi. Các ông đã chuyển hết đồ của tôi đi trước. Tôi tin nơi các ông, nên tôi đã không kiểm soát lại. Âu đây cũng nói lên một khía cạnh, về tinh thần tắc trách của cán bộ miền Nam. Tôi sẽ trình bày thêm sau này.

Tôi ý thức được sự nghiêm trọng trong lúc này. Đi hoạt động trong vùng đầu não của địch; đã bị lộ, chẳng khác gì con cá nằm trên thớt. Dù vậy, với bản tính coi thường nguy hiểm của mình, nên tương đối tôi vẫn bình tĩnh. Đây là lúc thử nghiệp vụ giữa miền Nam và miền Bắc. Ở miền Nam tôi chỉ là loại tép riu thôi, nhưng ra đây, tôi cũng dám đùa dỡn với các ngài! Khi đã có chủ định tôi cảm thấy an tâm, bình thản hơn. Ngay sau đó, tôi trở về bến xe điện. Đi Hà Đông chơi, vừa để nhìn rõ được mức độ theo dõi, tôi vừa xem cảnh xây dựng đổi mới của xã hội chủ nghĩa, sau hơn 8 năm thống trị.

Chủ trương đã như vậy trong lòng, nên cách đi đứng cũng như cách lên xe điện. Tôi tỏ ra là một người rất chậm chạp, đôi khi còn nhút nhát nữa, như: Ở bến xe điện, tôi ngồi ở ghế xi măng, vờ cứ cắm cúi xem báo, chờ cho xe điện bắt đầu chuyển bánh. Tôi mới giật mình đứng dậy chạy theo, chới với, lúng túng, rồi đành nhìn theo xe điện chạy, tiếc ngẩn ngơ, nhỡ tầu v.v… Mục đích là để cho những người theo dõi tôi, mang một ấn tượng, thằng này dáng bộ chậm chạp, nhát nữa. Họ đâu biết rằng, với tốc độ xe điện ở Hà Nội, hoặc xe buýt ở Sài Gòn, bất cứ lúc nào tôi cũng có thể nhảy lên hay nhảy xuống được.

Lúc đó đã một giờ chiều, ngày 4 tháng 6. Chẳng hiểu cô gái ấy ăn cơm ở đâu, bây giờ cũng thấy đứng ở cuối toa xe điện theo tôi vào Hà Đông. Hai người lên xe điện, còn các người kia tôi không thấy. Khi tầu điện ra khỏi thành phố, tôi muốn quan sát lại phía sau, xem có xe nào đuổi theo không. Biết rằng có bốn con mắt đang để ý tôi ở trên tầu. Mắt tôi cứ vờ như đang chú ý đến một người đang gánh rạ dưới đường. Xe điện chạy qua, và tôi phải ngoái lại nhìn theo người gánh rạ. Tôi đã nhìn thấy hai anh chàng ngồi trên một cái Mô bi, đang cúi gò người chạy theo tầu, thật vất vả. Một chiếc Commanca nữa ở phía sau. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy kiểu xe và hình dáng người trên xe. Chốc nữa vào Hà Đông là tôi sẽ biết ngay.

Chà, khu Cao Xà Lá (Cao Su, Xà Phòng, Thuốc Lá)! Đọc ở trên báo, nghe ở trên đài, tôi tưởng khu này do Trung Quốc giúp xây dựng lớn lắm kia. Thế mà cũng gọi là khu Liên Hợp Trung Quy Mô! Biết họ nói bốc, tôi đã trừ hao đi rồi, thế mà vẫn còn thấy ngạc nhiên. Nhìn toàn khu, chỉ như một cái hãng tư trung bình của miền Nam.

Tôi đã nhìn thấy số của chiếc xe Commanca: HN5037. Trên xe có 3 bộ mặt. Tuy tôi chưa chắc, nhưng hiện tượng thì nghi. Nó đã chạy vượt trước xe điện. Vào tới Hà Đông, hành khách xuống, tôi cũng xuống theo. Tôi đi lang thang mấy phố. Nói mãi cái nghèo của Cộng Sản thành nhàm. Tôi chỉ thấy Hà Đông như nhà quê, cái thành phố mà ngày xưa, đầu 1954, tôi và người em họ Phan Gia Ân thường đèo nhau vespa đi vào chùa Trầm, vào trại vải chơi đùa trong thời hoa mộng. Tôi có cảm tưởng lúc đó Hà Đông là một cô gái 18, đôi mươi của hương sắc. Còn bây giờ là một bà lão 60-70 tuổi móm mém. Cuộc đời thăng trầm đã làm cho cô thất cơ lỡ vận, bần hàn, cực nhọc. Quanh quẩn, đến một đầu phố, tôi đã thấy từ xa trong một góc đường, chú HN5037 đang đậu im phăng phắc. Chốc nữa tao về Hà Nội, mày mà mò theo là tao nhớ mày!

Tôi trở ra bến xe, về Hà Nội. Xe điện đi được nửa đường, lúc ngừng ở một bến phu, chú HN5037 chạy vượt qua. Tôi nhận được mặt thêm 3 người nữa, đồng thời lúc này tôi cũng khẳng định chúng 100% là phản gián Hà Nội. Tuy vậy, mức độ chúng đánh giá về tôi, tôi chưa xác định được. Với sự hiểu biết của tôi, điệp viên có nhiều loại, nhiều trình độ: Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Lý Thừa Văn, v.v… Chẳng đã có thời gian hoạt động tình báo đấy ư? Ở bờ bên kia Bến Hải, khoán 300 đồng sang khu phi quân sự Bắc, mua hay lấy một tờ báo Nhân Dân. Như vậy, cũng là hành động của một điệp viên (điều này, chính ông Hương đã kể). Từ ý nghĩ trên, tôi chẳng cần giữ vỏ bọc là học sinh ở Vĩnh Linh nữa. Học sinh gì mà chúng phải vận dụng đến 7 người một ngày, cả xe Commanca đi theo như thế?

Biết người, biết mình một tí. Chúng đã biết tỏng tôi rồi; chúng chỉ không biết tôi ra đây để làm gì thôi. Vì thế, chúng sẽ còn phải mất nhiều tâm sức với tôi. Xe điện về tới bờ hồ thì đã chiều, tôi đi ăn cơm rồi về nhà trọ. Đưa thẻ lấy túi dết. Chưa cần mở ra, tôi đã biết có người mở túi dết của tôi ra rồi. Không sao cả, ngay khi tôi ở hàng cơm ra, tôi đã thấy trên một cửa sổ nhà đối diện, một người chụp ảnh tôi. Cũng không sao cả! Dù tôi muốn hay không, bây giờ cái thế đã như vậy rồi, sợ cũng chả được nữa. Không sợ mấy, tôi còn được cái khoái ngắm cảnh khi cưỡi trên lưng cọp.

Đêm ấy, tôi vẫn ngủ quán trọ Hàng Quạt. Tên đau dạ dầy cũng vẫn ở đó. Tôi đã biết nó khi đi ăn cơm. Lúc ở bờ hồ rẽ về, từ xa tôi đã thấy nó đứng nói chuyện với một trong số người theo dõi tôi từ hôm qua đến bây giờ. Nó chủ quan, nghĩ rằng tôi không thể biết tên kia. Ngoài đường phố người đông như hội, gặp người quen là chuyện thường. Nhưng vì tôi đã biết tên kia, nên biết về nó. Do vậy, tôi đi tắm, xong về giường nằm. Nó không hỏi, tôi cũng chả cần nói, dù có mỉm cười gật đầu chào nhau. Đêm qua tôi mất ngủ. Đêm nay, tâm hồn đã xác định rõ, vì thế, tôi cần ngủ cho lại sức đã. Thời gian chờ còn hơn 10 ngày nữa mới tới 16-18: Ngày quy định trao tài liệu “M”. Trong thời gian này, tôi phải tung hỏa mù bằng cách:

- Sẽ dẫn chúng đi lung tung để lợi dụng nhìn được nhiều cảnh vật của Hà Nội, biết thêm nhiều điều hữu ích khi trở về Sài Gòn. Trong khi đó, nếu có thời cơ, tôi cắt “đuôi” ngay.

- Ngoài ra, tôi còn phải tỏ ra là một người có tính tiểu tư sản lãng mạn, lưu luyến cảnh cũ (mặc dù có nhận nhiệm vụ về miền Bắc theo dõi sư đoàn 308, nhưng trong lòng không thích hoạt động. Cụ thể, là không hề chú ý tới những nơi đóng quân, cũng như những bộ đội, xe cộ quân sự gặp trên đường đi qua). Lâu ngày, nhớ Hà Nội, về thăm, chứ không thích hoạt động, thế thôi.

- Trong quá trình đi linh tinh như vậy, tôi phải để ý tìm một địa thế thuận lợi để cắt “đuôi”.

Tuy trong lòng tính như thế, nhưng nằm xuống, tôi cũng không làm sao ngủ nổi. Cứ vẫn vơ nghĩ suy, hết sự việc này, lại sự việc khác tiếp nối kéo đến. Ngay khi còn ở Sài Gòn, trước những ngày đi, tôi vẫn tâm niệm là: Ra đi, đẹp nhất là hoàn thành nhiệm vụ trở về. Thứ nhì là …chết! Khi không may mà chết, chả có gì để nói nữa, vì chết rồi còn biết gì nữa đâu. Hòa cả làng! Trường hợp thứ ba là trường hợp xấu nhất, tức là bị bắt. Phải chịu đắng cay, khổ đau rồi cũng chết. Tuy thế, qua bao nhiêu sách báo, truyện tôi đã từng đọc. Trong nhà tù, có biết bao nhiêu những nhân vật quái kiệt, tài ba, những con người xông xáo, muốn làm những việc khác thường, nhưng không gặp thế, gặp thời. Vậy là dịp tôi được gần gũi những bộ óc uyên bác, sẽ học hỏi được nhiều; từ đấy, tư duy và kiến thức của tôi được mở rộng. Giòng suy nghĩ cứ chảy dài vào đêm thâu đổ dần vào giấc ngủ muộn.

Sáng hôm sau, Hà Nội mưa dầm dề. Những trận mưa mùa Hè như đổ nước xuống. Tôi ngồi dậy, nghe tiếng mưa rơi và gió thổi bên ngoài, tôi liên tưởng đến một ý thơ của một thi nhân người Pháp, Verlain thì phải, đúng với tâm trạng của tôi lúc này: Mưa gió ngoài phố phường, như mưa gió trong lòng tôi. (Il pleut sur la ville, comme il pleut dans mon ceour). Mắt tôi chợt thoáng bắt gặp một bộ mặt quen thuộc, ngồi nghiêng nghiêng trên giường số 9. Gớm thật, những hai tên cùng ngủ với tôi. Tôi đi đánh răng, vừa rửa mặt vừa nghĩ ngợi: Mưa gió thế này đi đâu? Tôi chợt nghĩ, chúng nó bám mình riết quá!

Trên nguyên tắc, chúng nó sẽ chưa bắt tôi. Nhưng điều gì có thể chắc chắn là chúng chưa bắt? Nhỡ ra vì một lý do bất thường nào đó, chúng lại vồ thì sao? Vậy, tôi phải phòng hờ cả những trường hợp ngoại lệ. Hai lá thư của các linh mục B và C, tôi xét thấy không thể thực hiện được. Hơn nữa, hai linh mục này cũng chỉ là thứ yếu trong công tác của tôi. Tôi quyết định hủy. Sợ vào chỗ rửa mặt lâu, chúng nó đặt vấn đề, rồi theo vào. Tôi vờ ra cất bàn chải và khăn mặt cho chúng thấy, rồi tìm giấy để chúng biết là tôi đi cầu. Vào nhà xí, sau khi quan sát mọi ngóc ngách, không chỗ nào để bên ngoài có thể nhìn được tôi, trừ lỗ khóa ở cửa. Tôi tụt quần dài treo vào quả nắm là xong, yên tâm. Tôi xé hai lá thư bọc ny lông ra, đọc lại một lần nữa, rồi đánh diêm đốt, cho xuống thùng phân.

Như vậy, trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”. Tôi phải để trong một tư thế, nếu thấy có hiện tượng bị bắt giữ, tôi sẽ vo viên búng đi nơi khác bằng một động tác mau lẹ bất ngờ. Còn chì mật, chắc chắn muôn đời chúng cũng không tìm ra, dù để ngay trước mặt, chúng cũng không thể biết là cái gì.

Ngoài trời, mưa đã ngớt hạt, trời sáng dần, tôi đeo túi dết ra phòng trực lấy giấy tờ. Vừa ra tới cửa, tôi liếc nhanh lên một khung cửa sổ của căn nhà lầu phía bên kia phố, thấy hai bộ mặt lạ của một người đàn ông và của một người đàn bà chừng 30 tuổi.

Tôi đi ngược lên phố Lãn Ông, rồi rẽ về Hàng Buồm, vào ngõ Hàng Giầy. Mấy hôm nay tinh thần tôi căng thẳng, nên ăn uống chả ra làm sao cả. Hôm nay, tôi muốn ăn bát cháo. Nơi đây nổi tiếng cháo ngon của Hà Thành thanh lịch của mấy hiệu: Sinh Ký, Tư Ký. Tôi vẫn cố tránh, chưa dám về phố Hàng Bạc. Vì thế nhiều lần tôi cứ phải đi vòng qua. Bây giờ, tôi cũng không phải quá giữ gìn về cách tiêu tiền, dù rằng tôi cũng không tiêu gì quá lố. Khi chúng chưa phát hiện ra tôi, tôi vẫn đóng vai một học sinh ở thôn quê, nên phải tỏ ra dè xẻn chắt chiu. Cũng vẫn là hiệu cháo Sinh Ký nổi tiếng ngày xưa của Hà Nội, mà bây giờ bát cháo thịt bò nhạt nhẽo như nấu cơm nguội. Cháo bò nhưng có lẽ thịt trâu, với 5, 6 mẩu thịt con đen xì. Nhất là cái “dầu cháo quẩy” thật buồn cười, bé tí, khô, cứng ngắc, ăn có vị ngô, trông như hai ngón tay út dính vào nhau.

Tôi quan sát hết một lượt, không thấy bộ mặt nào quen. Mãi chéo phía xa, gần ngã tư Tạ Hiền – Lương Ngọc Quyến là hai bộ mặt, một đàn ông và một đàn bà, tôi đã thấy trên cửa sổ trước nhà trọ Hàng Quạt. Họ tỏ vẻ như đang bàn nhau chuyện gì. Cách xa tôi đến 200 mét, nhưng đôi mắt hai người vẫn thỉnh thoảng hướng về tôi. Bên kia đường, ngay trước hiệu cháo, một ông chừng bốn chục tuổi, mặc áo sơ mi cụt tay mầu xám bộ đội, đang vờ hý hoáy chữa cái tay thắng xe đạp, vẫn đưa mắt về tôi.

Trong hiệu cháo có mươi người khách. Những người khi tôi bước vào đã có ở đấy rồi, tôi loại. Vào sau tôi, 3 người. Người ngồi mãi góc là một thanh niên, có vẻ học sinh, chừng 20 tuổi, cũng đội cái mũ cối. Tôi không bao giờ nhìn thẳng anh ta, mà chỉ nhìn bằng thị trường mắt của mình, tôi thấy anh ta chú ý tôi không bình thường. Ngay ngoài hè, một phụ nữ khoảng 20, tay xách cái làn cói đang mặc cả mua mấy bắp ngô luộc. Đôi mắt sâu hoắm, nhiều lần cũng liếc tôi như có chủ ý.

Với cái khứu giác của nghiệp vụ, tôi đã thấy 3 người, hai người thì chắc chắn, còn người thứ ba, nghi ngờ. Ra khỏi hiệu cháo, tôi trở lên Hàng Bồ, theo Mã Mây xuống Hàng Dầu, rồi đến trước đền Bà Kiệu. Hôm nay, tôi lên cầu Thê Húc vào thăm đền Ngọc Sơn.

Cảnh chùa vắng vẻ, lác đác dăm bẩy người, với một lũ trẻ con 6, 7 đứa nô đùa đuổi nhau. Nhìn Chấn Ba Đình mốc meo, sứt mẻ đứng chơ vơ như nỗi niềm tăm tối của những kiếp người, đang lê thê sống ở miền Bắc, tôi cũng chạnh lòng đăm chiêu. Thoáng nghe 6, 7 em nhỏ, vì sao đó chửi nhau thật là thô tục, tôi không ngờ. Tại sao, một em nhỏ 10, 12 tuổi lại có những câu tục tĩu như vậy? Đứa nào cũng thế! Một chị phụ nữ chừng 26, 27 tuổi, dáng dấp như một giáo viên hoặc một thư ký của một hợp tác xã ở nông thôn, nghe các em chửi nhau như vậy, nên đứng dậy nói như giáo dục:

- Này các em, sao các em là con trai, mà chửi nhau bẩn thỉu thế? Thiếu nhi Thủ Đô là cháu ngoan Bác Hồ mà! Chị mới ở nông thôn ra, chị đọc báo vẫn thấy thiếu nhi Thủ Đô, luôn xứng đáng là ngọn cờ, của cả nước cơ mà!

Tôi thấy chị rất nhiệt tình và có ý thức. Nhưng các em, trái lại, lúc đầu chúng đứng nhìn và nghe chị nói; nửa chừng, một đứa rồi hai, ba đứa văng “Con c…, im mẹ nó mồm đi!”. Một đứa khác: “Con đ.. mắt toét, biết củ l… gì”. Thậm chí, hai em khác móc đất ở mép nước ném chị ta, và nói: “ngoan con c… đây này!”

Chính tôi cũng ngạc nhiên và xông đến mắng:

- Các em không được hỗn!

Với thái độ và ánh mắt của tôi, chúng phải chạy nhưng còn chưởi lại. Chị nhìn tôi, tôi nhìn chị, thông cảm. Tôi đi ra khỏi đền, lại quẹo xuống Tràng Tiền. Lúc đó đã 11 giờ, tôi vào vườn hoa Chí Linh mở tờ báo Quân Đội Nhân Dân ra đọc. Một lúc, tôi mới ngửng lên, vươn vai, vặn vẹo lưng cho đỡ mỏi người. Đó cũng là lúc tôi đã nhìn thấy hết: Chị xách làn cói, ngồi cách tôi 3 ghế, quay lưng lại phía tôi. Lão hơn 40 tuổi đang đứng xấp vào một chòm cây, thập thò cái mặt xa tôi hơn 200 mét. Đôi vợ chồng (cứ gọi như thế) ngồi ở một ghế đá đường Đinh Tiên Hoàng, quay lưng lại phía tôi, đang nhìn ra phía hồ, xa tôi phải đến hơn 300 mét. Anh chàng có vẻ học sinh đội mũ cát, đang chăm chú đọc sách, ngồi dưới chân bức tượng phun nước, cách tôi hơn 100 mét.

Đến đây, tôi khẳng định có 5 người. Như thế, cứ mỗi ngày chúng lại đổi người. “Sao chúng nó lắm người thế!”, tôi tự nhủ. Bốn ngày nay, trong gần 20 người tôi đã thấy mặt. Chỉ có tên đội mũ cát két đeo kính râm của buổi đầu tiên là dễ nghi ngờ nhất, còn hầu hết, trông không có dáng gì là công an ngầm hay tình báo. Chính tụi sau, có thể nghiệp vụ thấp, nhưng đầy nguy hiểm, chúng nó chẳng khác gì quần chúng bình thường đi ngoài phố.

Để thử khả năng nghiệp vụ của phản gián miền Bắc, tôi đứng dậy đi loanh quanh trong vườn hoa, mắt lơ đãng nhìn cây lá. Cứ thả bước nhàn du, khi gần tới tên có vẻ học sinh, đang ngồi trên một ghế xi măng, bất chợt tôi ngồi ngay xuống bên cạnh. Y không thể nghĩ, tôi lại đến bên y ngồi, vì vậy, y lúng túng vội xoay người và nghiêng lưng về phía tôi. Tôi ngồi xuống đấy, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn vòi nước phun từ nơi bức tượng. Tôi hiểu nguyên tắc của người đi theo dõi. Là cố tránh, đừng để cho con mồi thấy mặt mình. Bởi vì, khi đến chỗ khác, lúc khác, mà con mồi lại gặp bộ mặt ấy, thì từ chỗ không biết cũng phải cảnh giác mà nghi ngờ. Nhưng trong trường hợp vừa qua, nếu là người già nghiệp vụ, hãy cứ ngồi yên, một lúc sau làm như mỏi người mới từ từ xoay thế. Thậm chí, đã trót còn phải gợi chuyện, nghĩa là đôi khi còn phải làm trái với nguyên tắc của nghiệp vụ, con mồi mới khỏi nghi ngờ. Giả sử, con mồi suy nghĩ rằng, nếu nó theo dõi mình, đời nào nó lại nói chuyện với mình.

Ngồi mươi phút, tôi đứng lên, đi xuống rạp Eden cũ, bây giờ đổi tên là rạp “Công Nhân”. Hôm nay có phim “Rắn Crơ Ba”, phim Liên Xô. Lần đầu tiên tôi vào xem phim của Cộng Sản Liên Xô. Xem trình độ nghệ thuật Thứ Bảy của Cộng Sản Nga ra sao.

Vì hôm đó là chiều Thứ Bảy nên cũng đông. Giá vé 4 hào. Lẫn ngay trong đám đông, cô ả xách làn cói vất vả xếp hàng, chen lấn. Tôi thoáng thấy “hai vợ chồng”, chúng chẳng lấy vé. Chúng chỉ đưa ra một cái gì đó, có thể là một cái thẻ, mà vì đông khuất tôi kkông nhìn thấy, rồi người xé vé để chúng vào. Vào rạp, tối như bưng, tôi biết chúng nó phải vất vả để nhìn tôi. Còn tôi, biết rồi nên mặc chúng, tôi chú ý nội dung phim. Tôi hiểu, ít nhất còn 3 đứa nữa gác bên ngoài. Có lẽ, ở Hà Nội thời gian đó, duy nhất ở rạp xi nê, mà phải là hôm phim hay. Đông người, may ra mới có thể cắt đuôi, với điều kiện phải có thuốc hóa trang, và một bộ quần áo chưa bao giờ mặc trước đấy.

Nếu lúc này tôi có lọ thuốc đó! Trong bóng tối lờ mờ của rạp xi nê, tôi sẽ vờ đi tiểu tiện vài lần, như bị đái “rắt” rồi lần bôi xoa thuốc ngay từ ngoài, 10 phút sau da mặt đã kéo nhăn. Cởi sẵn khuy quần, khuy áo. Nghĩa là phải chuẩn bị sẵn sàng trước. Lúc rạp sắp mãn, vào nhà “xí” thay áo mũ thật nhanh. Nếu cần vất luôn túi dết, gắn bộ râu giả lên, để trở thành một người khác, chen trong đám đông đi ra. Đã biết hết mặt 5 tên theo dõi mình rồi, lúc đó chỉ lủi nhanh về hướng không có chúng mà chuồn. Chỉ cần như vậy là gây nên một chuyện thần kỳ, nghĩa là, đột nhiên con mồi biết mất.

Lúc này, phần vì tôi không có loại thuốc đó, phần khác, tôi chưa tích cực cắt đuôi, vì muốn dềnh dàng chờ ngày 16, 18. Đấy cũng là một tính toán sai lầm của tôi, mà sau này, thời gian và sự việc mới giải đáp cho tôi. Ở Sài Gòn, tôi đã từng xem màn ảnh ở rạp Rex hoặc Đại Nam. Bây giờ, thấy màn ảnh bé tí, nhỏ con một bề khoảng 2 mét, bề kia 1 mét hai, không có phụ đề chữ Việt, mà còn có giọng nói của một cô gái ở loa phóng thanh, mà ở miền Bắc khi ấy người ta gọi là “thuyết minh”.

Nội dung phim. Một ổ gián điệp Đức đang hoạt động trong lòng địch là đất Ba Lan. Lúc này, Nga đang chiếm đóng Ba Lan. Tình báo Nga và Ba Lan, do nhân dân giúp đỡ nữa, đã dùng mưu mô, lừa lọc, cuối cùng bắt trọn ổ gián điệp Đức.

Tôi thấy nhạt nhẽo, chán phè, nhất là cảnh gián điệp Đức lơ là, ngây thơ mắc vào những cái bẫy cũng ngây thơ của Nga. Toàn bộ cuốn phim, không có một tình tiết lắt léo, tinh vi nào đáng kể, so với những phim tình báo trước đây tôi xem ở Sài Gòn. Thế mà quần chúng cũng trầm trồ ca tụng. Quần chúng Hà Nội bây giờ, đa số ở các tỉnh mới về từ 1954.

Tan rạp, tôi kéo “đuôi” lang thang về mãi Ngã Tư Sở. Thấy một nhà trọ có vẻ sang hơn, tôi vào thuê một buồng. Tôi vẫn đưa giấy thông hành. Tôi nghĩ, dù chủ nhà trọ có phát hiện giấy giả, tôi vẫn không sao, tôi vẫn được thuê như thường. Bởi vì, sẽ có lệnh bí mật bắt chủ nhà trọ đồng ý, không được hỏi han làm khó dễ gì tôi cả. Tiền buồng 1 đồng rưỡi. Tôi ngủ đỡ khổ, và bắt chúng nó, những chiếc đuôi, tốn nhiều công, của hơn. Lúc nãy khi đi đường, tôi đã mua một đôi dép Thái Lan và chiếc mũ xanh công nhân. Phần vì chân tôi đi dép râu vẫn chưa quen, rất đau, cái quai cao su thôi ra đen xì cả chân. Hơn nữa, dép Thái Lan và mũ công nhân là hai mật hiệu khi tôi trao tài liệu “M”. Bây giờ, tôi phải mang trước cho bình thường.

Sau khi tắm rửa, đêm đó tôi nằm một mình một buồng, cảm thấy thật dễ chịu. Đem sách ra đọc một lúc, rồi tôi nằm suy nghĩ, tính toán: Mai, Chủ Nhật cứ đến Nhà Thờ Lớn đi lễ xem thế nào? Cứ ghé về Hàng Bạc, xem phố cũ thay đổi ra sao? Ghé luôn Lương Ngọc Quyến, xem bà dì họ thế nào (nhưng sẽ không vào nhà). Tôi hiểu, tất cả những người có nhiệm vụ theo dõi tôi, sau giờ quy định bàn giao con mồi cho người khác, mỗi người phải làm một bản báo cáo, tường thuật tỉ mỉ mọi chi tiết đường đi nước bước của con mồi theo thứ tự thời gian và không gian. Nghiệp vụ càng già dặn, càng phát hiện được những điều sâu sắc, thậm chí cả những động tác vờ vịt, động tác giả của con mồi, nếu cử chỉ ấy có lồng trong một ẩn ý gì. Ngoài ra, mỗi cuối bản báo cáo tường thuật, phải có một câu nhận định: Theo ý anh, con mồi đã có hiện tượng gì nghi ngờ có người theo dõi không?

Những tên nghiên cứu và ra lệnh ở nhà, đối chiếu nhiều bản báo cáo, tường thuật để nắm được cái chung, từ đấy chúng sẽ có những biện pháp thích nghi theo những diễn tiến của sự việc.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 05 Mar 2010

Tập I - Chương 20

Kiếp Người, Kiếp Vật!…

Sáng hôm sau, tôi vẫn đội mũ cát nhưng đi dép Thái Lan. Còn đôi dép râu tôi đút gầm giường. Đôi dép này mang từ Sài Gòn ra. Khi không thấy tôi đi, tôi biết chắc tụi phản gián tỉm được đôi dép đó. Không có cóc khô gì trong ấy cả.

Bắt đầu ra khỏi cửa khách sạn, tôi ghi nhớ bất cứ một bộ mặt, hoặc không thấy mặt thì dáng dấp, dù trong một ngách ở xa xôi, hoặc đứng trong cửa sổ, trừ khi cửa đó khép để khe hở để theo dõi. Nhưng, khi tôi đã nghi một khe hở của một chiếc cửa nào, đi chừng 100 mét, tôi sẽ mượn cớ nào đó quay lại, nhìn thấy khe hở ấy khác đi là tôi đặt vấn đề rồi. Cho nên, hầu như tôi không bỏ sót một cái đuôi nào mà tôi không biết. Nếu tôi chưa biết chắc rõ bao nhiêu cái đuôi, tôi chỉ dẫn vào những ngõ vắng, hoặc ngõ hẹp, là phải lộ hết.

Khi tới Ngõ Huyện, tôi vào làm bát phở. Ăn xong, tôi “cố ý” vô tình để quên chiếc mũ cát. Tôi biết, chiếc mũ này, người khác nào đó sẽ tưởng tôi quên, cầm lấy. Nhưng, không những không được, mà có khi còn liên lụy. Chiếc mũ ấy phải về tay một, trong những cái đuôi của tôi, để rồi về tới cơ quan phản gián của Hà Nội.

Tôi đến cuối nhà thờ, mới vờ bất chợt vỗ tay lên đầu, và ngơ ngác vội vàng quay lại hiệu phở. Cái mũ đã mất, tôi tỏ vẻ ngẩn ngơ tiếc của, rồi tiếp tục đi trở lại phía nhà thờ. Điều đó sẽ góp một phần nhỏ, trong kế hoạch của tôi đối với chúng sau này. Tôi là người đãng trí.

Hôm nay Chủ Nhật mà Nhà Thờ Hà Nội thật vắng vẻ, lưa thưa một vài người đi lễ. Cuối nhà thờ chỉ mở một cánh cửa bên. Trong nhà thờ có tất cả khoảng bảy, tám mươi người, đa số là các ông bà già, còn thanh niên phụ nữ, trẻ con khoảng mười sáu, mười bảy em. Giữa cảnh vắng vẻ và trong ánh sáng lờ mờ vì nhiều cửa đóng, óc tôi trầm ngâm liên tưởng đến những hình ảnh buổi thiếu thời, những ngày Chủ Nhật, tôi cũng đi lễ nơi đây. Ồn ào náo nhiệt, chuông trống tưng bừng, rộn ràng, một thời phồn thịnh huy hoàng của giáo dân miền Bắc.Tôi đăm chiêu nhìn mấy chục người, đang gục đầu lâm râm than thở. Tôi chợt nhớ đến mấy câu trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh Quan:

“Lối xưa xe ngựa, hồn Thu Thảo.
Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương.
………..
Đá vẫn trơ gan, cùng tuế nguyệt.
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ, soi kim cổ.
Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường.”

Nhìn cảnh này, ruột tôi cũng đứt từng khúc như bà Huyện năm xưa. Cùng một cảnh, hai thời đại, một tâm hồn. Tan lễ, tôi đứng tựa lưng vào hàng rào sắt, nơi tượng Đức Mẹ đứng giữa sân phía cuối nhà thờ.

Nhìn những ông bà già lầm lũi ra về, mắt tôi thoáng thấy bà dì họ. Bà có tên là bà Đốc Cắn. Chồng bà chết từ khi tôi chưa biết cuộc đời. Bà không có con, chỉ có con nuôi. Vì tiếc mấy ngôi nhà của anh chị em bà ở Hàng Bạc và phố Lương Ngọc Quyến, bà đã ở lại Bắc. Không ngờ, tất cả mấy ngôi nhà này đều thuộc về Cục Quản Lý Nhà Cửa của nhà nước.

Bà dì tôi vẫn mập như xưa, nhưng tóc đã ngả mầu và da đã nhăn. Nét đăm chiêu mang nhiều tư lự. Khi bà đi ngang qua, bà có nhìn thấy tôi, nhưng con mắt của bà nhìn tôi như trăm ngàn người khác qua đường. Phải, làm sao bà có thể nhận ra thằng cháu của bà được. Bởi vì, có đập bể đầu ra, bà cũng không thể ngờ tôi lại ra Hà Nội. Phần tôi, ý thức được vấn đề là tôi đến gặp bà, thì sau này bà phải vào gặp công an. Tôi chỉ nhìn bà bằng con mắt lê thê và đè nỗi niềm xúc động đầy vơi của mình xuống. Tôi theo đường Lý Quốc Sư ra Hàng Bông, về Hàng Gai. Tới đấy, tôi thấy một chị du kích áo nâu, quần đen thắt ống. Vai đeo khẩu CKC, đang nắm tay một em nhỏ chừng 12, 13 tuổi, kéo về phía đồn cảnh sát bờ hồ. Những người đi đường hỏi, chị nói: “Thằng này và mấy thằng nữa đứng nấp trong ngõ, chờ những em gái chạc tuổi đi qua, xông ra bóp … v. .” Tôi nghe mà không hiểu được, tại sao một xã hội suy đồi đến độ kỳ lạ như vậy?

Đến đầu Hàng Đào, bỗng dưng tôi thấy mấy bà ôm thúng bán mấy nải chuối, bà thì mấy trái dứa… ôm quang thúng chạy tóe khói ra. Một anh cảnh sát chừng 22, 23 tuổi đang đuổi theo bà. Anh cảnh sát đã nắm được quang gánh. Bà đó chừng 40, 45 tuổi vừa thở hổn hển, hai tay cứ vặn vẹo vào nhau:

- Thưa anh, anh tha cho em, nhà em chỉ có vài nải chuối và mấy quả dứa chín này đem bán, về mua gạo cho các cháu nhỏ. Lần sau em không dám đem đi bán nữa.

Tai tôi nghe mà lòng quặn thắt lại. Óc tôi càng mở rộng để hiểu cuộc đời và những kiếp người. Tôi bỏ đi dọc theo Hàng Đào, đến Hàng Ngang. Hàng Bạc đây rồi! Nhớ đến hai câu thơ: “Cho hay, cảnh cũ ưa người nhỉ? Ai thấy, mà ai chẳng ngẩn ngơ”. Tôi thấy lòng thổn thức bâng khuâng, vơi đầy khi nhìn phố cũ. Lạ thật! Cũng đường phố ấy, cũng những căn nhà ấy ngày xưa, mà bây giờ tôi lại nhìn thấy bé nhỏ, lũn tũn như những chuồng chim bồ câu. Phố xá thì bé con, ngắn một tị.

Chân tôi cứ thả bước, lòng tôi cứ chìm nổi đầy vơi. Tôi đi sát nhà Tân Hưng, chiếc biển hiệu đã gỡ. Còn hai chữ “Tân Hưng” kẻ vào tường trước đây, hãy còn mờ mờ. Tôi liếc nhìn vào trong nhà, thấy được ngăn ra từng gian, bằng những tấm cót, có những bà nhà quê xa lạ. Ô kia rồi! Mãi trong sân, tôi thoáng thấy chị Thuận. Trông chị mà tôi rất ngạc nhiên: Chị là hoa khôi Hàng Bạc 1952 cơ mà (đầu 1954 chính chị và em trai chị là Hòa đã kể lại), khi ấy tôi chỉ là một cậu bé 15, 16 tuổi. Tôi cũng đã biết, chị được bao nhiêu những tay công tử hào hoa của Hà Thành đắm say, ngưỡng mộ.

Con gái Hàng Bạc xưa nay nổi tiếng đài các trâm anh, vừa giầu, lại vừa đẹp, cành vàng là ngọc. 1953, cô Mi nhà Ngọc Chương lại là hoa khôi Hàng Bạc. Dù còn nhỏ, tôi vẫn thấy các cô đẹp như tiên. Thế mà bây giờ tôi nhìn chị Thuận như một bà gái xề, nửa tỉnh, nửa quê đang đút cơm cho con ăn. Giữa lúc ấy, tôi thấy anh Kỳ, chồng chị Thuận. Trông anh già và gầy nhỏng, đi đôi guốc lộc cộc, tay dẫn hai đứa con gái nhỏ ở ngoài phố về. Anh Kỳ đấy ư? Một người mà trước kia không bao giờ mặc pyjama hay đi dép ra đứng ở cửa hiệu. Nhà anh thường có 4, 5 người ở, đài các thanh lịch lắm. Giờ đây, sau 8 năm, những người giầu có ngày xưa là đây.

Những hình ảnh này cho tôi thấy: Dưới chính quyền “xã hội chủ nghĩa”, người giầu trở thành người nghèo. Người nghèo trở thành người cùng cực hơn. Kia, nhà Trường Nguyên; đây Chấn Hưng, Bảo Hưng Long; Lại đây nữa: Bảo Thịnh, Đức Hưng, Bảo Thành, v.v…Toàn thấy những người nhà quê. Nhà nào cũng quây cót. Sau này tôi hiểu, tùy theo nhà anh bao nhiêu người, chỉ cho anh ở một phần theo số người. Phần còn lại, thuộc chính phủ, sẽ cho người khác ở.

Nhìn rạp hát Kim Chung, mà ngày xưa tôi hay chui vào xem nhạc. Cũng là rạp hát ngày xưa đó, sao bây giờ trông nhỏ bé thế! Phải rồi, mình đã sống ở Sài Gòn, đã đi xa nhìn những thành phố lớn. Sau lâu ngày, trở lại nhìn Hà Nội, thành phố cổ xưa, nên mới có cái cảm giác như vậy.

Ngắm nhìn những chữ đồng, chữ xây “granite” của các cửa hiệu, bây giờ vỡ chữ nọ thiếu chữ kia, với mầu rêu loang lổ của các ngôi nhà như dư âm của một thời vang bóng. Đi theo đường Tạ Hiền, qua rạp Quảng Lạc, vào ngõ Sầm Công, đến đền Bạch Mã, quẹo lên chợ Bắc Qua, rồi Hàng Chiếu. Tôi kéo lê thê 5 cái “đuôi” đi khắp tứ tung, cho chúng nó phán đoán. Có trời biết được ý định của tôi!

Ra tới chợ Bắc Qua, thấy một đám đông túm hụm, có cảnh sát, tôi ghé đến. Một chị chừng 25, 26, mắt đỏ hoe đang nức nở, giọt ngắn, giọt dài đứng bên cạnh cái thúng gạo, phải nói là thúng cát lẫn gạo. Thì ra, một anh chàng nông dân chân đất, cắp một thúng gạo nặng, đậy cái bao tải rách vẻ sợ sệt, lén lút, đến gạ bán cho một chị đi đong gạo. Anh lấm lét nói là công an đang theo dõi bắt anh bán gạo, anh phải vội bán rẻ để chuồn về quê ngay. Chị này tưởng món hời, phải cần nhanh tay chụp lẹ. Thúng gạo nặng đến 15 ký mà anh chỉ lấy 10 ký với 2 đồng cho cái thúng. Anh nói, anh không dám mang thúng về, sợ hợp tác xã nghi ngờ. Công an đầy đường, đâu có dám xem gạo kỹ, dịp may gặp món hời phải vồ sớm, còn đắn đo gì. Sau khi anh kia và chị “khẩn trương” chia tay, chị hớn hở đội gạo về. Đến Hàng Chiếu, mấy ngón tay giữ thúng trên đầu, thọc sâu xuống những hạt gạo no lành của một ngày may mắn, nhưng cảm giác thấy khác thường. Chị bỏ thúng xuống và bới lên. Chỉ có một lớp gạo ở trên, cón toàn cát bên dưới!

Sự việc này cho tôi thấy, ở một xã hội quá nghèo nàn, người ta chỉ có thể lừa lọc nhau đến như vậy là cùng. Nhìn trị giá của một sự lường gạt, đã đánh giá được mức độ cuộc sống người dân của xã hội ấy. Tôi vào một quán cơm ở Hàng Chiếu, quán này có vẻ đông người, gần 20 người ăn uống. Tôi tìm một chỗ ngồi. Tôi ngạc nhiên, thấy hai thanh niên mặt mũi sáng sủa nhìn tôi cười. Tôi cúi gầm ăn, đầu suy nghĩ, tôi chưa hề quen biết mấy người này, vậy vì sao? Câu hỏi của tôi đã được giải đáp ngay sau đó. Khi tôi vừa đứng dậy, còn một chút cơm thừa, một chút thức ăn thừa, hai người xô đến, mỗi người giành một thứ.

Tiện đó, tôi kéo “đuôi” vào thăm chợ Đồng Xuân nổi tiếng của Hà Nội thủ đô, như Bến Thành Sài Gòn. Ngoài cửa, có một chỗ bán hoa của hợp tác xã, còn hầu hết mỗi người mỗi cái thúng hay cái mẹt bán hoa quả hoặc những thứ lặt vặt. Chốc chốc lại ôm chạy quanh vì công an đuổi. Chợ bấy giờ là phụ, là không hợp pháp. Nhà nước đã có những cửa hàng lương thực của từng khu phố. Mọi thứ từ muối, mắm, đậu, hành, v.v… nghĩa là tất cả về thực phẩm đều có phiếu, tùy theo gia đình cán bộ hay nhân dân. Trong nhân dân lại tùy theo có đặc ân hay không, và tùy theo số người… Có những phiếu nhất định mỗi tháng, mỗi gia đình được mua bao nhiêu. Ngay từ thời gian này, đã có tình trạng, có phiếu mà không có hàng, càng về sau, càng trầm trọng hơn. Tôi nhìn đồng hồ, 2 giờ. Tôi chợt nghĩ đến nhà trọ Ngã Tư Sở, ở đó có ban công và sân thượng phơi quần áo, rất tốt. Quần áo tôi, hai bộ đã quá bẩn, hôm nay về tắm rửa giặt quần áo. Ngày mai, đi sở thú. Tôi vào chợ mua hai cục xà bông và trở về nhà trọ. Khi về tới nơi, tên quản lý nói, buồng cũ đã có người thuê, chỉ còn phòng số 10. Tôi nói, phòng nào cũng được, nhưng óc tôi nghĩ ngay, như vậy đã có sự sắp xếp. Được, ta sẽ lên phòng xem sao.

Sau khi vào phòng đóng cửa, bất chợt 5 phút sau, tôi mở ngay cửa. Dọc suốt hành lang, hai bóng người rụt nhanh vào phòng số 4, chéo phía đối diện. Hai thanh niên, một tôi đã quen mặt. Trót mở cửa phòng, tôi phải vờ đi ra phía sân thượng, sờ sờ mấy cái dây phơi, ra vẻ định sẽ phơi quần áo ở đấy.

Vào phòng lần này, tôi lật chiếu, xem gầm giường, một vài góc khả nghi, chiếc bàn, chiếc ghế… Tôi quan sát toàn bộ. Nếu ở những nước tiên tiến, có thể có những máy ghi âm, máy ảnh tự động. Nhưng ở miền Bắc thời ấy, trình độ lạc hậu, làm quái gì đó, cùng lắm chỉ ở chỗ kín đáo chụp trộm ảnh và tìm điều kiện có khe nứt nẻ nào đó, ngồi nhòm vào buồng là cao. Dù nghĩ vậy, nhưng tôi cũng cứ xem kỹ, kỹ để biết về địch thôi, chứ tôi cũng chả có gì. Trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”, đừng hòng bao giờ tôi lấy ra xem, lâu lâu, tôi chỉ lấy cớ gãi, để sờ, sợ rơi mất. Tôi vẫn băn khoăn, đã có sự chỉ định xếp đặt phòng cho tôi, vậy phải có vấn đề gì. Nhìn toàn bộ phòng, không thể có điều kiện gì từ ngoài nhìn vào phòng. Tôi chú ý từng lỗ đinh, từ lỗ khóa. Tôi xem lại lần nữa. À, đây rồi! Có thế chứ! Chúng nó cũng quỷ quái đấy: Bốn góc bàn tôi sờ rồi, không có gì. Thì ra giữa gầm bàn (bàn không có ngăn kéo), chúng dùng keo gắn một chiếc máy ghi âm nhỏ kích thước 12 x 8 x 1,5 phân. Có thế, tôi mới an tâm. Kệ nó đấy, tính sau. Tắm giặt đã.

Khi vào đi tắm, tôi vừa giặt vừa thẫn thờ suy nghĩ. Như thế này, chúng nó đã đánh giá mình cao quá. Mình có máy móc chó gì đâu, có ai đến giao thiệp với mình đâu. Kể ra, nếu tôi thích chuyện trai gái, mang một cô em về làm trò cho cái máy ghi âm, chúng cũng được một băng mùi mẫn miễn phí. Trong quá trình đi đường, nhiều cô loại gái kiếm tiền cứ cười cười với tôi, như ở vườn hoa Chí Linh, Tràng Tiền, góc Cầu Gỗ, Cột Đồng Hồ…

Tắm rửa, giặt quần áo xong thì đã 5, 6 giờ. Giặt cả hai bộ, tôi còn mỗi cái quần đùi để mặc, ra đứng ở ban công nhìn chéo ra phố. Tôi thoáng thấy một bộ mặt đứng sâu trong cửa sổ một căn gác chéo nhà bên cạnh. Tôi vờ làm vài động tác thể thao để nhìn kỹ. Bộ mặt quen? À, tên kính râm, đội mũ cát két lần đầu tiên tôi phát hiện ở nhà thờ X. Hôm nay không đội mũ, không đeo kính nên hắn làm tôi ngờ ngợ. Tôi rất ngạc nhiên và lạ lùng. Tôi có cảm tưởng khó hiểu là tại sao, bất cứ nhà nào chúng cũng vào được? Ở xã hội tự do đâu có thể như vậy. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy một không khí rình rập, bao quát lúc nào cũng ở chung quanh tôi. Từ cảm giác này, mắt tôi lơ đãng nhìn mấy con sẻ đang ríu rít ở một mái nhà trước mặt, tôi cũng thấy hình như chúng cũng có chất Cộng Sản. Thậm chí, mấy cái cây vô tri đứng im lìm cạnh ngôi nhà, tôi cũng thấy chúng có chất gì của Cộng Sản. Cái chất của soi mói, lọc lừa, lường gạt, không lương thiện. Cùng một bầu không khí của Tổ Quốc quê hương, nhưng quang cảnh, người và vật ở xã hội này không hợp với tôi. Tôi không có cảm giác gần gũi thân thương, quen thuộc như ở miền Nam.

Thấp thoáng người ở cửa sổ lại chụp ảnh tôi. Tôi đã thấy 5 lần, còn sau lưng hoặc tôi không biết, không kể. Hôm vào nhà thương Việt Đức kỳ sau, tôi cũng bị chụp 2 lần. Chụp làm gì nhiều thế! Có thể, chúng để làm chứng cớ, tài liệu sau này chăng? Thôi vào đi ngủ! Vào buồng tôi nghĩ ngay tới cái máy ghi âm. Nếu không vì những chủ trương sau của tôi, tôi đã đến chửi cho nó một mẻ, hoặc cũng cho nó mấy phát… rắm. Nhưng tôi đành nằm im coi như không biết. Chính vì tôi tỏ ra luôn luôn chủ quan lơ là, nên nhiều khi, thấy những cái “đuôi” của tôi rất lộ liễu đến độ ngờ nghệch. Hay có thể vì tôi đã biết mặt rồi, nên tôi có cảm giác thế chăng? Đường phố đầy người đi lại, nếu tôi không biết chúng rồi, cũng khó mà biết ai với ai. Chẳng lẽ thấy “gà hóa cuốc”, gặp ai cũng tưởng như họ theo dõi mình hay sao? Tôi cứ vẫn vơ suy nghĩ rồi ngủ lúc nào không hay.

Hôm sau, tôi đón xe điện ra bờ hồ. Khi đi qua Hàng Da, nhìn chữ “Pharmacie Thẩm Hoàng Tín” to tướng nhưng đã mờ nhẻm vì thời gian, tôi chợt nhớ tới sư bà Đàm Hương. Hiệu thuốc tây bây giờ đóng cửa im lìm. Mấy cái cửa sổ trên gác, đóng những thanh gỗ cọc cạch che kín mít. Chỉ nhìn thế, tôi cũng đã thấy sự tàn lụi của cái pharmacie rồi, nghĩa là cửa hiệu không còn được mở nữa.

Tới bờ hồ, tôi lại mua tờ báo Thủ Đô. Đây là tờ báo có tính cách địa phương, nội thành nên có vài tin lặt vặt hàng ngày, trong khi những tờ Nhân Dân, hay Quân Đội Nhân Dân không bao giờ nói tới. Thực vậy, tôi đi trên đường phố thấy bao nhiêu chuyện cắp trộm, lừa đảo vẫn xảy ra thường thường, nhưng không bao giờ thấy có trên báo. Ngay trên đài truyền thanh (nói qua đường dây) cũng họa hoằn mới nghe thấy một vài sự việc để ngăn chận tội ác và những chuyện xấu của xã hội.

Đây cũng là một cái đặc biệt của miền Bắc. Khắp Hà Nội, từ nội đến ngoại thành, ở những đầu phố, hoặc chỗ thường xuyên tụ tập đông người như bến xe, trước nhà bách hóa, v.v… thường có treo loại ống loa hai tầng để phổ biến tin tức cũng như thông báo (gọi là truyền thanh). Rồi tới giờ quy định mới mở điện bắt vào đài phát thanh. Còn radio thì thật là hiếm, nếu không nói là không có. Radio và máy ảnh phải đăng ký hàng tháng. Mua phim chụp ảnh phải làm đơn xin phép, nói rõ lý do, hoặc phải có giấy của cơ quan giới thiệu. Cho nên, hầu như không một người dân nào có máy ảnh (đồ quốc cấm) nếu đi ra những vùng chung quanh Hà Nội, các bạn sẽ thấy đây đó, nhìn bất cứ hướng nào, cũng thấy hầu như mỗi nhà đều có những cần câu bằng tre chọc thẳng cao lên trời, trông như những lông của con nhím khổng lồ, xù ra khi gặp kẻ thù. Đó là dây ăng ten của ga len ghép đơn giản mấy cực để nghe đài gần. Chỉ nghe được đài Hà Nội và nghe nhỏ tí. Thứ này trẻ con trong Sài Gòn vẫn chơi (loại này thì không phải đăng ký).

Ở bờ hồ, dù chẳng cần thiết lắm nữa, nhưng do thói quen nghề nghiệp, tôi vẫn quan sát toàn bộ những khuôn mặt chung quanh tôi. Tôi lại thấy chéo mãi phía hiệu kem trước nhà Thủy Tạ, cô gái chừng 18 tuổi có hai cái đuôi sam. Trông đôi má mủm mỉm đỏ hây, thế mà đòi là phản gián theo dõi tôi. Được! Hôm nay, tôi dẫn cô lên sở thú. Qua cô ta, tôi đã thấy cách bố trí người theo dõi của Cục phản gián Hà Nội. Người nào cũng theo tôi một ngày, ít nhất một tuần sau tôi mới gặp lại. Cộng sản làm như vậy để con mồi khỏi nghi ngờ, mất cảnh giác. Cho tới hôm nay, hơn 40 bộ mặt quen thuộc rồi. Tôi nghĩ thầm: Hà Nội sao lắm nhân viên phản gián thế! Rồi đây, những ngày tới còn bao nhiêu nữa?

Tôi lên xe điện đi sở thú. Tôi lững thững đi bộ như một kẻ nhàn du đi vãn cảnh. Hôm nay, tôi định sẽ ghé thăm núi Nùng, nơi tương truyền là mồ chôn giặc Thanh cướp nước, cũng như gò Đống Đa, Thái Hà Ấp vậy. Lưa thưa, rải rác một số người, vài hàng quà bánh. Cả sở thú chỉ vỏn vẹn 5, 6 chuồng thú, quá ít so với ngày xưa. Không biết thú đưa đi đâu hết? Tôi đến chỗ một chú cọp đang nằm ngủ, chỗ này đông nhất, hơn 10 người kể cả trẻ con đang đứng ngắm ông ba mươi nằm nhắm mắt. Nhìn con hổ nằm ngủ trong chuồng, với cảnh đám người đứng xem. Tôi đang bâng khuâng nhớ đến bài thơ bất hủ “Cọp Nhớ Rừng” của Thế Lữ, bất chợt một tiếng rầm rung cây lá, con cọp bật dậy, chồm lên hồng hộc. Mọi người chung quanh giật mình. Nhiều đứa trẻ sợ quá hét lên, bám lấy người lớn. Cả cô đuôi sam cũng xanh mặt, cuống cà kê dúm người lại.

Chẳng hiểu vì sao? Tôi nhìn lại phía xa cách đấy hơn 300 mét, cũng trên con đường để đi ngang qua trước chuồng cọp này, một anh mặc quần áo bộ đội đang lôi cương một con ngựa. Con ngựa chồm hai vó trước, không những dứt khoát không nghe theo anh bộ đội để đi nữa, mà còn kéo anh ta đi ngược trở lại. Tôi chợt hiểu con cọp đang nằm nhắm mắt, mũi đánh hơi thấy mùi ngựa, đồng thời con ngựa cũng đánh hơi thấy chúa sơn lâm, nên sợ quá không dám đi nữa, dù còn cách đến hơn 300 mét.

Tôi nhìn cô bé đuôi sam, mặt cô ta đỏ lên rồi quay đi. Tôi nghĩ bụng thế mà đòi đi ngành tình báo. Lúc tôi nhìn về phía con ngựa, tôi thấy ở một gốc cây gần đó, một đôi “nhân tình” ngồi bên nhau có vẻ ngây ngất tâm sự, nhưng con mắt của họ tôi nghi quá. Trong căn nhà nhỏ của một quán nước có cửa sổ hướng về tôi, nơi chiếc bàn mãi trong góc quán, tên đeo kính râm, đội cát két đang ngồi hút thuốc lá, mắt lơ đãng nhìn đi đâu, trước mặt là ly nước; và một anh mặc quần áo xám bộ đội, đang gác chân lên chiếc xe đạp, nhìn ra hồ sen, cách chỗ tôi gần 100 mét. Tôi đã thấy anh ta ở bờ hồ.

Tôi trèo lên núi Nùng hướng mắt về trường Bưởi, bâng khuâng nghĩ đến Sài Gòn, đến những bạn bè thân quen, những họ hàng ruột thịt và những người trong Cục. Họ có biết tôi đang nằm trên thớt của kẻ thù, đang ngày đêm căng thẳng với kẻ thù, từng phút từng giờ hay không? Hay họ đã quên rồi? Hai nẻo đường đi, một mình tôi đi trên đường hướng về nơi đen tối mịt mù. Tâm tư nặng chĩu nỗi niềm, tôi tìm một ghệ cỏ ngồi dựa lưng, đôi mắt lim dim, lắng nghe tiếng gió rì rào.

Loanh quoanh mãi 3 giờ chiều, tôi mới quay bước trở về. Tôi cũng chẳng đón xe điện, cứ lững thững đi dọc theo đường Quan Thánh. Tai vẫn nghe tiếng guốc lộc cộc đều đều của cô gái đuôi sam, sau tôi khoảng ba, bốn mươi thước. Tự nhiên, tôi muốn đùa giỡn, đồng thời cũng muốn thử nghiệp vụ của cô gái này. Phố lưa thưa một số người đi. Tôi thả bước chầm chậm, tiếng guốc vẫn lách cách theo sau. Đến một quãng phố có một bờ tường xây dọc theo hè phố, và còn chừng 30 thước nữa là một phố cắt ngang. Bất chợt, tôi đi sát bờ tường rồi rảo bước, tôi thoáng nghe tiếng guốc cũng nhanh hơn. Đến đúng chỗ góc phố, tôi quẹo và nép khuất vào một trụ tường, một tay đưa lên ngực, một tay ôm mặt như chóng mặt xây xẩm, lưng tựa vào tường.

Cô ả hơi bất ngờ nên vội vàng đi nhanh hơn. Khi tới góc phố, đinh ninh là tôi rẽ theo phố ấy, nhưng bây giờ thấy tôi biến đâu mất. Cô ta hốt hoảng bước thẳng xuống đường. Như thế đã đủ, trong một phút đã hiểu tài nhau rồi. Tôi hơi nhích ra một tí cho có vẻ tự nhiên, để cô trông thấy. Mặt tôi vẫn nhăn nhó, tay vẫn xoa xoa ngực bên trái. Khi trông thấy tôi, mắt cô ả sáng lên long lanh như mừng rỡ. Tôi uể oải chầm chậm lê chân theo phố đó. Đến một hàng nước chè bên hè, tôi ngồi đại xuống, lật ly nước chè cho bà hàng rót, rồi đầu cứ cúi gầm như sắp ốm bệnh. Tôi uể oải chầm chậm lê chân theo phố đó. Đến một hàng nước chè bên hè, tôi ngồi đại xuống, lật ly nước chè cho bà hàng rót, rồi đầu cứ cúi gầm như sắp ốm bệnh. Chừng một lúc, tôi nhấc chân cho sẳn ra ngoài ghế, rồi bất chợt quay ngoắt ra đường, dựa lưng vào bàn nước.

Ở trong cửa, ngay nhà đối điện, cô gái đuôi sam đang ngồi ghế nhìn thẳng sang phía tôi. Cô vội vàng cầm tờ báo trước mặt giơ lên, làm ra vẻ đang đọc để che mặt. Thật đáng buồn cho cô, tờ báo lại ngược, không biết cô đọc làm sao? Cô bị lúng túng chỉ vì tôi cố tạo cho cô tưởng rằng tôi đang ốm bịnh. Dáng điệu chậm chạp đang gục đầu, nhưng bất ngờ quay lại. Đây là việc làm của một người thiếu chín chắn, sau này tôi ân hận mãi ở trong tù. Tôi vẫn còn lạ lùng là tại sao, nhà nào họ cũng vào được? Chẳng lẽ nhà dân ai cũng biết họ là công an mật? Hay họ có dấu hiệu gì đặc biệt, để nhà dân nào cũng phải cho họ vào?

Tôi rẽ về lối chợ Đồng Xuân, đã 4 giờ 30 chiều, thấy một đám đông ồn ào, tôi ghé lại. Tôi không thấy cảnh sát, chỉ thấy người ta đang chỉ trỏ 6 hộp sửa bò “Nestlé” (hiệu con chim, của Pháp) còn mới. Hộp nào cũng mở hé ra, toàn nước bùn đất. Một ông đỏ mặt tía tai, hai tay chống mạng sườn, chõ mồm chửi vào đám đông: “Ông mà bắt được mày, thì ông vặn cổ ra!”. Tôi chẳng hiểu đầu đuôi xuôi ngược. Hỏi người đứng đấy, họ cũng lắc đầu. Sau tôi nghe loáng thoáng đâu: Nó ngâm nước, bóc nhãn hộp sữa ra, đục hai lỗ nhỏ rồi rút hết sữa, cho bùn nước vào, lấy sáp bịt lỗ rồi dán giấy lại như mới.

Tôi đã thấy những chuyện như vậy, ở Hà Nội bây giờ không có gì là lạ lắm nữa, nên bỏ đi. Khi tôi xuống tới bờ hồ, mặt trời đã nằm dài trên những chòm cây phía Tây. Ánh nắng xiên khoai chọc tút mãi vào những hốc sâu hoắm, của cây đa già đền Bà Kiệu. Chiều hôm nay gió lộng, cả ngày trời Hà Nội nóng như nung, nên buổi chiều, bờ hồ thật đông đúc, đầy cả người. Trước lúc về nhà trên đường từ xí nghiệp, nhà máy tan ra. Công nhân thường ghé đây 5, 10 phút để đón ngọn gió hồ chiều. Cho vơi đi phần nào những giờ lao động mệt nhọc.

Tôi ghé vào hiệu “Bách Hóa Tổng Hợp” ở bờ hồ. Đây là căn nhà to, ba tầng của một người đã di cư vào Nam, được sửa lại làm nhà bách hóa lớn nhất Hà Nội. Ai đã từng ở tỉnh xa ra Hà Nội mua hàng, cũng đều ghé vào đấy.

Tôi rất lạ! Rất nhiều loại hàng tốt, cần thiết bày trong tủ kính có đề giá bán hẳn hoi, nhưng lại để mảnh giấy con ghi: “không bán”. Vừa đi vừa suy nghĩ mãi. Lúc tôi leo cầu thang lên tầng hai, tầng ba, thỉnh thoảng tôi cũng thấy người ngoại quốc đi vào. Chả biết là người Liên Xô hay là người các nước “xã hội chủ nghĩa” Đông Âu? Phải chăng, Cộng Sản chỉ cốt bày hàng để tuyên truyền, hay vì hàng cần thiết, nên họ đã chia nhau mua hết? Các hàng vớ vẩn thông thường thì nhiều.

Mặc dù tiếng loa luôn nhắc nhở khách hàng coi chừng kẻ gian móc túi, vậy mà chỉ trong vòng nửa giờ, tôi đã thấy một người kêu ầm lên mất ví, và lại một lần ở tầng hai, thấy ồn ào, bảo đuổi bắt tên ăn cắp. Tôi cũng phải sờ tay để ý vào cái ví của tôi, kẻo lỡ có ít tiền nó mượn mất, thì thật khó khăn. Một ý nghĩ làm tôi mỉm cười: Gián điệp lại bị cắp móc ví! 6 giờ 30, tôi thấy hơi mệt vì đã đi cả ngày, tôi ghé về Cầu Gỗ ăn cơm, rồi ra xe điện về Ngã Tư Sở.

Vào buồng, lúc sắp ngủ, vì tối, tôi rờ tay dưới gầm bàn vẫn thấy còn chiếc máy, không hiểu có thay băng chưa? Đợi sáng mai, tôi xem mới biết.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 07 Mar 2010

Tập I - Chương 20

Tài Liệu “M”, Đối Tượng Là Ai?

Buổi sáng hôm sau, là ngày 14 tháng 6, chỉ còn một ngày nữa là đến hẹn. Hôm nay, tôi lại phải ra bờ hồ. Trước khi đi tôi cúi xuống xem chiếc máy. Họ chủ quan, cho là tôi không biết, nên lúc dán băng keo, lại dán dịch đến 3 phân so với chỗ hôm qua.
Tôi ra đường, sáng hôm nay trời Hà Nội thật đẹp, không mưa không nắng. Không khí dìu dịu làm tỉnh lòng người. Giữa mùa Hè oi ả, có một ngày thế này ai cũng thấy dễ chịu.

Tôi lại thả bộ về bờ hồ. Khi tới ven hồ, tâm hồn tôi cũng ngây ngất với thiên nhiên. Gió hiu hiu của buổi ban mai mùa Hè như mơn trớn da thịt mọi người. Tôi hiểu là hiện giờ cơ quan phản gián của Hà Nội, đang đặt ra nhiều câu hỏi về tôi. Họ chỉ thấy tôi lang thang đây đó suốt ngày, chẳng giao thiệp với ai, chẳng vào cơ quan nào, cứ như là đi tham quan Hà Nội vậy. Để cho chủ trương của tôi sau này thêm hữu hiệu, mắt tôi mơ màng nhìn cảnh vật, trong khi chân bước đều đều từ nhà Thủy Tạ dọc Lê Thái Tổ xuống Trường Thi.

Khi tới một cây phượng vỹ bên hồ, tôi thấy hai hòn đá to ngày xưa, lúc còn nhỏ, tôi vẫn thường ngồi đấy câu tôm, bây giờ vẫn còn đấy. Tôi đứng trước hai hòn đá nhìn chăm chăm một lúc, như thiết tha, như quyến luyến cảnh cũ, rồi cúi xuống lấy tay nhè nhẹ vuốt sờ. Sau đó, tôi lùi ra xa mấy bước, lại đứng nhìn, như gửi gấm, hàn huyên gặp lại cố nhân. Tôi đưa mắt từ gốc cây lên đến những bông hoa đỏ ối. Ôi! Những cánh phượng của tuổi học trò. Tôi nhớ mãi câu thơ chẳng biết của ai:

Đây mùa phượng vĩ xa xôi.
Đây tình niên thiếu, tình tôi nhớ … người.

Tôi cúi xuống nhặt một cánh phượng rơi theo gió, đưa lên mũi ngửi, rồi mở cuốn sách trìu mến, nhẹ ép vào. Tôi biết lúc đó, ít nhất có 10 con mắt ở xa hoặc gần đang chăm chú quan sát từng cử chỉ hành động của tôi, để về tường thuật báo cáo. Những tên ở bàn giấy và thường ra lệnh sẽ phải điên đầu. Chả lẽ, một tên gián điệp, một sống hai chết xâm nhập Hà Nội để nhặt cánh phượng vỹ rơi ép vào sách? Nhưng đó là thực tế đấy!

Tôi cứ lững thững đi dọc ven hồ, xuống Trường Thi rồi quẹo lên phía bưu điện. Hai cô gái ở chiếc ghế đá cười với tôi, rồi một cô vời vời. Chà, tôi hiểu ngay hai cô là gái kiếm tiền, nhưng các cô không biết tôi đang là con “vi trùng bệnh dịch hạch” hay sao? Các cô mà mó tới tôi bây giờ, là đời các cô sẽ vào …ấp. Để tránh cho các cô, tôi nghiêm mặt coi như không biết, đi thẳng. Các cô còn nguýt theo, tưởng tôi mô phạm, làm cao. Đến cầu Thê Húc, tôi lên cầu, vào chùa. Lang thang ra mãi phía các gốc si già, tôi trèo ra những gố si là là mặt nước.

Tôi nhớ lại ngày 14-7-1953 lúc trước, Pháp và quân đội quốc gia (lúc đó thuộc Liên Hiệp Pháp) tổ chức ngày Quốc Khánh Pháp ở Hà Nội. Trên bờ, có trưng bầy một số vũ khí và 10 chiếc xe “Molotova” còn mới tinh, ở chỗ quán Mụ Béo và nhà Thủy Tạ. Họ nói đó là chiến lợi phẩm thu được của Việt Minh. Dưới nước, ngày hôm đó Pháp chở đến 10 chiếc ca nô loại đổ bộ, chạy xé nước rầm rầm. Trong khi trên trời máy bay biểu diễn cho lính nhảy dù xuống hồ. Chúng tôi còn nhóc, ngây ngất say sưa, lang thang đi xem. Điều đặc biệt: Hàng trăm con rùa lớn nhỏ ở trong hồ, xưa nay sống cuộc đời yên tĩnh. Hôm ấy, tiếng máy ca nô chạy gầm rú ầm ầm, chắc làm các “cụ” nhức đầu, nên cứ chúi vào chỗ mấy gốc si già mọc chằng chịt dưới nước, phía sau đền. Thỉnh thoảng ngộp quá, rùa phải thò đầu lên để thở. Con to, con nhỏ, có con đầu to tướng, hai mép vàng khè. Chúng tôi cứ ngồi sẵn trên những cành si sát mặt nước, chờ “cụ” nào thò đầu lên lại sờ một cái. Có lần một “cụ” đầu mốc meo thò lên đụng ngay vào tay tôi, làm tôi giật mình, suýt ngã xuống hồ. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi gọi nhau tíu tít từ phố Hàng Bạc ra, để sờ đầu … rùa.

Tôi trở ra, vòng lại cầu Thê Húc. Đứng trên cầu, nhìn làn nước xanh rì, từng ngọn sóng nhấp nhô, như cau mày giận hờn, phản đối lũ cầm quyền tàn bạo, khát máu người dân.

Ngày xưa, đã hơn một lần tôi thắc mắc, tại sao nước hồ Hoàn Kiếm lại xanh như vậy? Và tôi được trả lời: Một số các nhà địa chất, sau khi thăm dò nghiên cứu những mẩu đất đá nhiều nơi tại Hà Nội, đã kết luận rằng: Chếch ngang phía dưới lòng hồ là một mỏ đồng. Nếu bây giờ khai mỏ, cả khu trung tâm, nghĩa là một nửa thành phố Hà Nội, sẽ không còn. Vì thế, nước hồ Gươm muôn đời vẫn xanh, xanh hơn cả nước biển khơi.

Ra tới đầu cầu, tôi nhìn khoảnh đất nằm dài hình chữ “T” giữa cầu và đền Bà Kiệu, xưa kia những ông đồ già, ngồi lom khom viết câu đối và mấy người bày những bàn cờ thế, để thách thức khách thập phương. Cảnh cũ còn đây, nhưng người xưa đâu thấy! Chỉ có “đôi vợ chồng” quen mặt, tôi đã gặp ở ngỏ Hàng Giầy khi đi ăn cháo, đang ngồi như tâm sự yêu đương trên một chiếc ghế xi măng, cạnh gốc phượng già.

Mặc chúng mày! Tôi rẽ xuống vườn hoa Con Cóc, để chuẩn bị một địa thế thuận tiện cho ngày hẹn ước, trao tài liệu “M”. Sau một hồi loanh quanh, tôi đã tìm được một chỗ ưng ý. Tôi trở ra đường Đinh Tiên Hoàng, đón tầu điện đi thẳng xuống Bạch Mai. Khi tầu điện đi qua rạp Majestic cũ, bây giờ đổi tên là rạp Tháng Tám, đang trình chiếu cuốn phim “Cô Gái Lọ Lem” của Rumaine. Ở Sài Gòn tôi đã xem rồi, nhưng do Pháp thực hiện; giờ thử coi của Rumaine xem sao? Tôi nghĩ như vậy, nhưng vẫn ngồi trên xe điện đi thẳng xuống chợ Hôm. Đường phố nơi đây thực bụi bặm rác rưởi. Ngó sang rạp xi nê Hà Nội, trông lại càng tiêu điều hơn. Một vài tấm bích chương quảng cáo treo trên tường cũ mèm, rách tả tơi, lưa thưa dăm đứa trẻ chơi đùa ở trước cửa rạp.

Tôi rẽ vào khu chợ trời. Ôi, thật là hỗn độn, hổ lốn, lộn tùng phèo đủ mọi loại người chen chúc. Đây đó, thấp thoáng trong cái xô bồ của một bãi rộng, là những anh chàng cảnh sát đồng phục mầu vàng, và những anh những chị mặc thường phục đeo băng đỏ, xông xáo chạy lăng xăng. Thế mà chuyện cắp trộm, lừa lọc vẫn thường xuyên xảy ra. Chỗ này, một anh cảnh sát đang lập biên bản giữ một chiếc xe đạp, của anh phó chủ nhiệm một hợp tác xã, mua phải xe ăn cắp. Chỗ kia, mấy anh du kích đang giong đi trong đám đông, một tên ăn cắp chừng 20 tuổi bị trói tay. Trong lúc chen lấn, lợi dụng sự đẩy xô của đám đông, tôi ôm chầm vào vai của một cái “đuôi”, làm cho anh chàng lúng túng, lủi lẹ. Khi y phải tường thuật báo cáo, chỉ huy của chúng sẽ càng phải đau đầu với tôi.

Rời khu chợ trời, tôi trở ra phố Huế, về rạp Tháng Tám, tôi lấy vé vào xem. Trình độ nghệ thuật Thứ Bảy của Rumaine còn khá hơn của Liên Xô, nhưng phần cuối của nội dung cuốn phim có phần đổi khác. Làm sao cô bé Lọ Lem này, ở trong chuyện cổ tích xa xưa, lại có một số lời nói và hành động cứ như là, thích chủ nghĩa Cộng Sản ấy. Xin chịu thầy!

Tôi về Hàng Buồm ăn cơm tối. Thấy một nhà trọ ngay cùng phố, tôi thuê một phòng giá 1 đồng 20, không về Ngã Tư Sở nữa. Ngày hôm sau, 15 tháng 6, tôi hơi mệt, định nằm luôn nghỉ một ngày, nhưng nghĩ đến ngày mai là ngày ước hẹn, hôm nay nằm nhà, mai đi sẽ gây cho các “đuôi” đặt vấn đề hơn. Ngày nào cũng đi lang thang mới là chuyện bình thường, Nghĩ thế, tôi ra đón xe điện đi Cầu Giấy, tôi lang thang đi bộ vào chùa Láng. Cảnh chùa thật vắng lặng đìu hiu. Nơi đây những hội hè tấp nập năm xưa, chỗ hẹn hò lôi cuốn bao nhiêu trai gái Hà Thành, bây giờ hương khói vắng tanh thế này? Thế mà từ góc một bức tường rêu, thập thò ở gốc cây muỗm già sát bờ ao, lấp ló trong bụi dâm bụt phía sau chùa, vẫn những bộ mặt chó chết của lũ cộng thù. Chẳng qua vì cái thế, ta phải tạm chịu các ngươi, chứ trong lòng ta vẫn coi thường các ngươi!

Đến đây, tôi nhớ đến mấy câu thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cháu xin phép cụ đổi vài từ trong bài “Khôn Dại” để phù hợp với tâm tạng của cháu lúc này:

Ở đời, biết ai là dại, biết ai là khôn?
Khôn ấy hết thời, khôn ấy dại.
Dại mà gặp thế, dại mà…khôn.
Đố ai biết được, ai khôn dại.
Mới lọ là người biết dại … khôn!

Gần trưa, tôi thả bước về đền Voi Phục, tìm lại dư âm của buổi ấu thời. Ngay từ cổng dẫn vào chùa, hai chú voi đá, một chú đã sứt vòi vẫn nằm đấy, vẫn rêu phong cùng tuế nguyệt. Nhìn vào phía trong, mái chùa long lở đen xì, cạnh những tàng cổ thụ khòng khèo vì dãi dầu với năm tháng. Xa xa về phía trái của đền, những mầu đất đỏ au đây đó, lẫn vào mầu xanh bạt ngàn của cây lá. Đó là công viên Thủ Lệ, bởi nhà cầm quyền Cộng Sản đang vận động, thúc đẩy hàng chục ngàn thanh niên nam nữ nội, ngoại thành đến công trường lao động hằng ngày, để tạo lập công viên. Trong chùa, cũng loáng thoáng dăm ba người, có thể là những người thích thiên nhiên, hoặc danh lam thắng cảnh của đất nước, hay có khi chỉ là người vào trú những cơn nóng Hè.

Bình thường khi đến thăm một ngôi đền cổ, sau khi chiêm ngưỡng những đặc cảnh của đền, tôi thường vào thăm hỏi các vị tu hành, hoặc người trông coi ngôi đền đó. Nhưng ở đây, tôi không được phép, vì ý thức trách nhiệm, biết sẽ gây khốn đốn, khó khăn cho các vị sau này. Cho nên, tôi đành ra một cháng dây đa già, đang nghiêng mình nằm sóng xoài nơi bóng mát hữu tình, như mời gọi người lữ hành mệt mỏi cơ thể, cũng như tinh thần vì những truân chuyên, chìm nổi của cuộc đời.

Tôi ngồi đăm chiêu suy nghĩ đến ngày mai. Nhiệm vụ tôi xâm nhập Thủ Đô hoạt động, nơi đầu não của chế độ Cộng Sản Việt Nam, đã thực hiện ngót ngét nửa phần. Còn tài liệu “M” nữa. Ngày mai, tôi cầu xin anh linh của dân tộc, khí thiêng của sông núi cho tôi hoàn thành nhiệm vụ, rồi thân xác của tôi có theo về với gió bụi, tôi cũng cam lòng. Gọi là để đóng góp phần nhỏ bé của một thanh niên vô tên tuổi, khi quê hương, đồng bào rên xiết lầm than, trong bàn tay đầy máu của lũ giặc cộng. Để khỏi thẹn mặt, cúi đầu trước mặt Cha Anh và các chiến hữu, đã nằm xuống cho tự do của mọi người. Đất nước, dân tộc đau thương, mỗi người dân Việt mỗi trách nhiệm!

Chiều tàn, tôi lại trở về nhà trọ Hàng Buồm, tắm rửa, ngủ nghê cho khỏe để chờ ngày mai. Sáng hôm sau, ngày 16 tháng 6. Tôi vẫn ăn mặc quần áo như ngày hôm trước tôi đi chơi chùa Láng: nghĩa là quần xanh, áo sơ mi trắng, đầu đội mũ xanh công nhân, chân đi đôi dép Thái Lan quai đỏ, vai đeo túi dết. (đó là những vật hiệu quy định khi trao tài liệu “M”).

Hôm nay, tôi phải dùng hết khả năng nghề nghiệp, quan sát, xác định rõ bao nhiêu cái “đuôi” của tôi. Vì thế, ngay khi tôi ra khỏi cửa nhà trọ, giữa phố Hàng Buồm đông đúc khách bộ hành ngược xuôi, tôi đã điểm tất cả những bộ mặt, cũng như dáng người chung quanh tôi. Từ gần tới xa, tối đa mắt của tôi, có thể nhìn thấy. Chỉ có hai người tôi đã biết mặt, còn vài người nữa, tôi khả nghi. Tôi
dẫn chúng về ngõ Hàng Giầy, ra Tạ Hiền, xuống Hàng Bạc, sang Hàng Bồ, rẽ Hàng Quạt đến Hàng Gai ra nhà Thủy Tạ bờ hồ. Tôi đi loanh quanh một đoạn đường ngoắt ngoéo như vậy.

Tôi mua một ổ bánh mì, một tờ báo Quân Đội Nhân Dân, rồi tôi lững thững đến một chiếc ghế đá sát bờ hồ, khu trước rạp xi nê Phillamonique trông ra. Ngồi tại chiếc ghế xi măng này, tôi có thể nhìn thấy toàn bộ cầu Thê Húc, cách đó hơn 300 mét.

Lúc đó là 8 giờ kém 15 phút. Ngồi nhai ổ bánh mì, lợi dụng những động tác vươn vai, hoặc ngúc ngắc đầu cho khỏi mỏi, tôi đã thấy đủ hai người cũ và hai người nữa tôi đã thấy mặt ở Hàng Buồm lúc vừa ra khỏi nhà trọ. Một người rất khôn khéo đứng nấp sau tấm biển quảng cáo phim, ở trong khung cổng rạp xi nê. Làm sao sót được mắt tôi lúc ấy. Tôi hơi băn khoăn, mọi hôm ít nhất 5 người, sao hôm nay chỉ có 4? Hay còn một tên nữa rất quái quỷ, nấp ở chỗ nào đó trong cái phố xá đông đúc này mà tôi không biết? 10 phút sau, tôi lại tốn công tìm động tác giả, để quan sát một lần nữa. Vô ích, vẫn chỉ 4 mống. Phải chăng cơ quan phản gián Hà Nội thấy hàng tuần lễ nay, ngày nào tôi cũng đi lang thang đây đó, chẳng thấy tỏ ý định làm một cái gì, hay giao thiệp với ai, nên chúng đã giảm người theo? Sở dĩ chúng phải cho nhiều người theo dõi, vì nếu tôi gặp, nói chuyên với ai, số người ấy phải chia ra để theo dõi người đó. Nếu tôi gặp hai, hay ba người trong một ngày, chúng phải tăng cường. Dù sao, đây cũng chỉ là sự phán đoán của tôi, chưa phải là kết luận, cho nên tôi vẫn phải cảnh giác tối đa.

8 giờ đúng, bắt đầu tôi căng mắt rõi về phía cầu Thê Húc. Lòng tôi cũng thấy hồi hộp, xốn xang đợi chờ. Đối tượng là ai? Già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà? Chắc chắn không phải là một ông cha, hay ông sư đầu trọc lốc. Nếu thế, cũng phải mặc quần áo bình thường và đội mũ che giấu đầu trọc.

8 giờ 15 rồi, vẫn chẳng thấy gì? quái thật, phút đợi chờ làm cho tim tôi đập nhanh hơn lúc bình thường. 8 giờ 30 phút. Tôi đã bắt đầu sốt ruột. Theo quy định thời gian trao tài liệu “M” là từ 8 tới 10 giờ. Tôi muốn ngồi từ xa, khi nào thấy đối tượng tôi mới đến. Như vậy có nhiều điều lợi. Tôi chủ động được vấn đề, và quan sát sự an ninh của đối tượng, để từ đấy tùy nghi ứng biến. Tôi lại nghĩ: Hay biết đâu, chính đối tượng cũng có ý nghĩ như tôi thì sao? Nghĩ thế, tôi đứng dậy đi dọc theo bờ hồ, tới ngang cầu, rồi cứ theo bờ hồ đi xuống mãi, hơn 300 mét. Không hề có một ai mặc quần áo như quy định. Người đúng cái này, lại sai cái kia hay ngược lại.

Đã trót xuống phía đó, tôi lại kiếm một cái ghế xi măng ngồi. Chiếc ghế này hơi bất tiện, vì bị một cây che mất cầu. Dù vậy, thỉnh thoảng tôi hơi nghiêng người về phía trước, vẫn thấy toàn bộ cầu. Trong lòng tôi cũng thấy thấp thỏm như chờ người yêu. Tôi có đọc đâu đó một đoạn thơ, không nhớ rõ là của Lưu Trọng Lư hay Hồ Dzếnh:

Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé,
Anh sẽ trách, cố nhiên nhưng rất nhẹ!
……

Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần,
Anh sẽ nói: Gớm làm sao nhớ thế!

Với tôi bây giờ là: Gớm làm sao lâu thế! và, tôi cũng đang nhìn điếu thuốc nghi ngút khói, mặt hướng về cầu Thê Húc.

9 giờ đúng. Một nỗi buồn ở đâu len lén vào lòng tôi. Hay đối tượng có trở ngại gì? trục trặc gì? Nếu vì lý do nào đó, tôi không trao được tài liệu này, lòng tôi sẽ khắc khoải suốt cuộc đời. Bao nhiêu gian nan, nguy hiểm, sống và chết, bao nhiêu đợi chờ mong ngóng của tôi! Bây giờ, người ơi, sao cứ biền biệt. Tuyệt vọng rồi lại hy vọng, hay có thể đối tượng lại đang ngồi phía tôi ngồi lúc sáng! Dù thế nào, tôi cũng không đi lại phía ấy nữa. Vì làm như vậy, những cái “đuôi” có thể nghi tôi đang sốt ruột chờ đợi cái gì. Nếu thế, đành để ngày 18 vậy.

Tôi đang đầy vơi với nỗi niềm nặng trĩu, thì kia rồi! Tim tôi khẽ bóp nhẹ. Đối tượng lại là một cô gái mới chết chứ! Đúng rồi: Áo nâu, quần ka ki xám, tay cầm vở hoặc sách, và dép…? Tôi chưa nhìn rõ vì xa gần 300 mét. Tôi vẫn ngồi yên. Đối tượng đi qua cầu đến gần sát cổng đền Ngọc Sơn, ngừng lại, đứng tựa vào lan can cầu và đang cúi nhìn cái gì đó ở dưới nước.

Tôi chợt nghĩ, nếu đối tượng cũng có “đuôi” thì sao? Trường hợp này, Cục tình báo miền Nam, và cả Mỹ, chưa nêu ra cho tôi. Tôi đặt giả thuyết: Đối tượng hiện giờ có “đuôi” nghĩa là cũng đang bị phản gián Hà Nội theo dõi. Nếu chúng tôi gặp nhau, địch sẽ cởi được một mắt xích. Nếu không gặp nhau, gần nhau mà không khéo để địch phát hiện có liên quan, thì kết quả cũng như trường hợp trên.

Cách giải quyết duy nhất: phải hết sức tinh tế, không để một cử chỉ nào, dù là một ánh mắt, cho những cái đuôi phán đoán được hai người có liên hệ với nhau. Tôi coi như không chú ý đến cầu, chân bước, quay gáy lại phía cầu. Mắt lơ đãng, nhìn giòng xe đạp xuôi ngược trên đường phố. Khi ngang qua cầu, làm như không chủ định trước, chợt thích ghé vào chơi như mọi khi. Thấy mấy em nhỏ dưới bờ hồ, chỗ chân cầu đang câu tôm, tôi rẽ xuống đứng xem, cầm một con tôm, hỏi chuyện các em.

Tôi liếc nhanh đối tượng. Đối tượng chưa nhìn thấy tôi, vì còn cách một cái cầu dài 50 mét. Đối tượng đứng phía cổng đền, tôi đứng phía bờ.

Bây giờ, tôi nhìn rõ. Dép râu và 3 quyển vở rõ ràng. Rõ ràng hơn nữa, cô chừng 22 tuổi, có bộ mặt trái soan, da trắng bóc nổi rõ màu đen huyền của đôi mắt. Vô lý! Một cô gái tuổi như thế này, lại “giao thiệp” với Sài Gòn. Nhưng, có thể cô chỉ là một mắt lưới, mà đường dây bí mật đã phái cô đến chỗ hẹn, theo quy ước để nhận tài liệu của Sài Gòn. Tôi đang suy nghĩ, chợt một anh chàng có dáng dấp thành thị, tiến đến đối tượng. Tôi mở to mắt ngạc nhiên theo dõi. Qua thái độ của cô gái và thái độ anh chàng đó, tôi hiểu là anh chàng đi chơi, thấy một cô gái đẹp, sà đến tán. Đúng vậy, cách bỏ đi vào chùa và bộ mặt rất nghiêm, bực tức của cô gái, đã trả lời sự phán đoán của tôi.

Tôi quan sát 4 cái đuôi của tôi, trông rõ vị trí đứng ngồi của chúng. Yên tâm, tôi tiến lên cầu. Trên cầu còn hai, ba đứa trẻ và một vài cậu nhơ nhỡ có vẻ học sinh vì cặp sách, một gái, hai trai. Tới giữa cầu, tôi đứng lại nhìn xuống hồ. Chợt nhớ ra: Tôi xắn tay áo lên vài lượt như thể nóng quá. Tay tôi vẫn cầm tờ báo “Quân Đội Nhân Dân” gấp đôi. Tôi hơi băn khoăn, vì đối tượng đeo một túi dết mầu xám, điều này không hề có trong quy định trước.

Rồi tôi nghĩ, cũng như tôi, có túi dết mà không quy định. Vì còn có mật hiệu phải trả lời nữa chứ. Nguyên tắc quy ước là gặp trên cầu. Nhưng vừa rồi vì lý do anh chàng tán gái, nên cô đó đã phải đi vào chùa, phải linh động. Tôi cũng đi vào chùa, vừa đúng lúc đối tượng từ phía Trấn Ba Đình, định đi vòng lại ra phía cầu.

Đối tượng thoáng thấy tôi. Mắt đối tượng mở to, tươi hẳn lên, vừa như ngạc nhiên. Tôi làm sao biết đối tượng đang nghĩ gì, chỉ thấy đối tượng hơi đỏ mặt và hơi lúng túng. Tôi coi như không biết, vờ đứng chăm chú xem cái biển gỗ sơn xanh viết chữ trắng: “Đây là di tích lịch sử đã được liệt hạng…”

Biết đối tượng đang nhìn, hai tay tôi gấp tư tờ báo, rồi gấp 8, theo quy ước. Một phút, hai phút, bằng ánh mắt nhìn ngang, tôi thấy đối tượng đứng xa tôi gần 15 mét, làm như vô tình, chuyển ba quyển vở từ tay này sang tay kia. Tôi rất phấn khởi, thái độ ấy, chứng tỏ đối tượng rất điềm tĩnh. Vậy khi nãy đối tượng hơi không được tự nhiên là vì lý do khác. Bây giờ đã trấn tĩnh nên tỏ ra có nghiệp vụ cao. Sự hoan nghênh và phấn chấn dậy lên trong lòng tôi. Một chiến hữu, một đồng chí có khả năng, như vậy mới có thể là đối thủ của kẻ thù.

Tôi lững thững đi ra. Mắt tôi liếc nhanh. Nếu “đuôi” đứng ngoài 10 mét, dù chú ý cũng khó phát hiện cái liếc ấy. Hai “đuôi” vẫn chỗ cũ, hai “đuôi” khác đã tiến dịch vào phía cầu. Và, bây giờ thêm một “đuôi” nữa, mà từ sớm tôi không thấy. Anh chàng có bộ mặt vẻ học sinh trong hiệu cháo Sinh Ký, đang đứng một phần ba cầu phía ngoài. Tôi tự hỏi “Thế từ sáng, tên này nấp đâu? Hay vừa mới tới?” Họ tưởng tôi sẽ vào chùa chơi lâu, như mọi khi nên đang định tiến vào, thấy tôi trở ra, họ vờ vịn lan can cúi xuống hồ nhìn nước. Thực ra, ngay lúc ấy, trong khoảng hai phút thôi, sau khi thấy đối tượng “chuyển vở qua tay”, tôi giơ ngay tài liệu cho đối tượng trông thấy, rồi vất ngay xuống đất, làm như đánh rơi, để đối tượng đi sau lấy rồi cũng xong. Nhưng, tôi hơi ngập ngừng áy náy, chẳng biết đối tượng có phản xạ kịp không, nếu không, sợ rằng lại có thể đẻ ra những tình huống khó khăn khác, nên lại thôi.

Tôi cứ chậm chạp tiến về vườn hoa Con Cóc, cách đấy khoảng 700 mét, sà vào một bệ đá, chỗ vòi phun của một con cóc, nơi tôi đã có chủ ý từ hôm qua. Chỗ này có một số đá lổn nhổn, lẫn cỏ với lá khô. Tài liệu của tôi mầu nâu, đồng mầu với lá khô. Hơn nữa, ở đấy có một bụi cây rậm, có rễ mọc nổi, thuận tiện chỗ để. Thò tay vào sờ thì thấy, còn nhìn bên ngoài sẽ không thấy, mà bụi cây lại che được một góc chết.

Tôi ngồi thong thả mở báo ra đọc, liếc nhanh các đuôi, rồi lựa thế che dưới tờ báo rộng, tôi để tài liệu. Xong, tôi tiếp tục đọc báo. 10 phút sau tôi ngửng lên, vặn người. Tôi đã thấy đối tượng ngồi cách xa tôi 150 mét trên một ghế đá, cùng với một bà đang cầm cái chổi dài, có lẽ là người dọn vườn hoa. Đối tượng thỉnh thoảng lại nhìn tôi. Tôi vẫn vờ xem báo, hết lật trang này lại giở trang kia. Vừa lúc đối tượng nhìn, tôi gãi khuỷu tay phía để tài liệu, một ngón tay cong cong chỉ thẳng vào chỗ tôi đã bỏ tài liệu “M”. Tôi đưa ánh mắt như chăm chú nhìn một cành cây gần tôi, hơi chéo nơi đối tượng ngồi. Quả thực đối tượng là người điềm tĩnh, không báo cho tôi biết ngay mà mãi ba, bốn phút sau, mặt nhìn nơi khác và giơ tay lên gãi đầu. Lúc này, các “đuôi” có mắt cũng như mù, làm sao đoán được hai hành động rời rạc ấy lại ăn khớp với nhau, trừ phi đã biết trước.

Lúc này, lòng tôi thật khó diễn tả. Vừa nhẹ nhàng lâng lâng, trang trải món nợ quê hương, vừa bâng khuâng lưu luyến một cái gì, như gần gũi mà lại thật xa xôi; vừa tái tê với cuộc đời đã nằm trên thớt của kẻ thù, mịt mù sống chết lúc nào không hay.

Tôi đứng lên, chân không muốn bước mà vẫn phải đi, ngập ngừng giã biệt. Chẳng biết đối tượng có hiểu những nỗi niềm đầy vơi, trong lòng tôi lúc này không? Tôi đang ngày đêm nằm trong nước sôi lửa bỏng. Chợt một ý nghĩ, nếu tôi không có “đuôi” lúc này thì sao? Đời tôi đã chả từng cay ghét chữ “nếu” rồi sao? Tôi đi mãi, ghé ra bờ hồ, để tôi có thể nhìn chéo 40 độ về phía đối tượng cách rất xa tôi chừng hơn nửa cây số. Tôi chỉ còn thấy bóng dáng (không thể nhìn rõ mặt) đối tượng vẫn ngồi yên chỗ cũ. Tôi vừa thẫn thờ đi từ đó tới đây, cũng phải mất hơn 10 phút, vậy đối tượng đến lấy tài liệu chưa? Theo phán đoán của tôi thì chưa. Chỉ qua hai lần tiếp xúc bằng ánh mắt và cử chỉ, tôi đã thấy đối tượng tỏ ra là người trầm tỉnh. Hơn nữa, không bao giờ đối tượng đến lấy rồi lại ngây thơ trở về chỗ cũ ngồi. Vậy thì chưa đâu! Tôi yên tâm, đưa mắt lơ đãng đuổi theo những tảng mây trắng nõn, như những búi bông khổng lồ đang chầm chậm bò trên nền trời xanh thẫm, về miền Nam xa xôi.

Mãi 15 phút sau, bóng dáng của đối tượng mới từ từ tiến đến chỗ tôi ngồi khi nãy, làm như bâng khuâng nhìn vòi nước phun tung tóe từ miệng con cóc bằng xi măng, rồi ra vẻ như mệt, đối tượng ngồi xuống.

Tôi vẫn quay mặt ở một góc 40 độ với đối tượng, mục đích khi đối tượng đứng lên đi, tôi quan sát theo dõi xem đối tượng có “đuôi” hay không? Sao mà ngồi lâu thế! Tôi vừa trách, lại vừa không muốn đối tượng đi, thật là mâu thuẫn. Đối tượng đi là vĩnh biệt rồi.

Chẳng hiểu trong lòng đối tượng nghĩ gì mà ngồi mãi không đi, lâu lâu lại nhìn phía tôi. Phải chăng tâm trạng của đối tượng cũng như tôi?

Do những điều kiện khắt khe tôi đang nằm trong lưới của kẻ thù, nên khi nhìn đối tượng, một ý nghĩ lởn vởn trong óc tôi, ước gì tôi có thể lên tiếng cùng đối tượng một vài lời nhỉ? Gần 20 ngày qua, tôi đã buộc kín lòng mình, đến trở thành cô độc, lẻ loi trên mảnh đất thân yêu này. Chỉ còn có người, một chiến hữu, một đồng chí, tuy ngồi ngay trước mặt, cùng thở hít chung nhau một bầu không khí, cùng bâng khuâng đầy vơi ngắm chung một cảnh hồ, mà người ơi, xa vời vợi! Rồi đây, tuy chúng ta cùng chung một lý tưởng nhưng hai đường đời. Xin cầu chúc cho người gặp nhiều thuận tiện, may mắn, đạt những thành quả vẻ vang trên đường đi của dân tộc. Thôi, tôi xin cúi đầu biết ơn đối tượng. Thế lả đủ cho kẻ bất hạnh này ghi nhớ mãi mãi, trong những ngày gian khổ tới đây.

Mãi gần 12 giờ trưa, mặt trời chói chang đã đốt khô cảnh vật, tôi mới thấy đối tượng đứng lên, không quên nhìn về phía hồ một lần nữa và chẳng hiểu sao, đối tượng quay lưng lại vừa đi vừa gãi đầu, nghĩa là khoảng cách giữa đối tượng và tôi dần dần xa vời vợi.

Đối tượng không có “đuôi”, tôi cũng mừng. Chỉ có số phận hẩm hiu của tôi là có “đuôi”, mà những 5, 6 cái.

Trời Hạ lúc này trong xanh, chỉ còn một vài vẩn mây, không gian, cảnh vật bừng sáng lung linh. Tôi nhìn thẳng ra Tháp Rùa đứng chơ vơ như hòn non bộ, chiếc bóng nghiêng nghiêng lung linh dưới nước như nhún nhẩy reo vui mừng rỡ. Hai con rùa chẳng biết bò lên chân tháp tự bao giờ đang nằm ấp lên nhau phơi nắng, như hai cái nồi ba mươi đen xì. Những chùm phượng vỹ đỏ ối tràn lan chung quanh hồ, đang soi bóng trên mặt nước, nổi bật lên giữa cái xanh ngắt của bầu trời và màu xanh của lá cây tạo thành một bức tranh sơn mầu rực rỡ. Một trận gió Nồm Nam thổi dọc từ phía “Gô Đa” về. Những chiếc lá me đong đưa như trăm ngàn bàn tay nhỏ tí đang vỗ, gây lên những tiếng xào xạc lẫn vào tiếng ve kêu vang vang như hồi kèn thắng trận. Thoang thoảng đâu đây mùi nồng nồng ngan ngát của nước hồ tù, mùi dìu dịu ngây ngây của những chùm phượng, mùi ngòn ngọt man mát của mấy bông hồng trong vườn hoa phía bên kia đường, tất cả quyện vào nhau thành một thứ hương ngây ngất hồn người.

Tôi đứng dậy, lòng nhẹ lâng lâng, tinh thần sảng khoái. Hôm nay hơi đặc biệt, tôi tự thưởng công 3 đồng, đi thẳng lên ngõ Hàng Giầy chén một bữa nem cua rán.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 08 Mar 2010

Tập I - Chương 22

Lẩn Tránh…

Lúc ngồi chờ bà hàng đang cắt những chiếc nem cua vàng ngậy thơm phức, tôi dật dờ nghĩ đến linh mục A. Chắc từ bữa ấy, người đang chờ, mà tôi mãi biệt tăm. Nếu người hiểu rằng, tôi mà không bén nhậy thì đã đưa người vào chỗ chết rồi. Tôi suy nghĩ, cân nhắc các tình huống xem có thể có điều kiện nào trở lại với người. Với tình trạng bao vây bám sát của địch dày như thế này, không thể được! Không nhìn rõ vấn đề, mơ hồ lao vào, thật là sai lầm, đôi khi lại trở thành người gây tội ác nữa.

Đêm ấy, tôi trở lại nhà trọ Hàng Buồm. Đêm nằm suy nghĩ miên man đến cảnh giao tài liệu lúc sáng. Riêng về điểm này, Sài Gòn đã dự trù được trước các tình huống, thật đáng ca ngợi. Nếu không như vậy, không có cách nào tôi trao được tài liệu “M”, khi tôi bị 5, 6 cái “đuôi” bám sát.

Thật cũng may, ngay khi tới Hà Nội, tôi đã trao được tài liệu X cho Z-5, lúc địch chưa phát hiện. Chứ bây giờ, làm sao có thể thực hiện được. Giòng suy nghĩ của tôi cứ chảy hoài: Làm sao bây giờ cắt được “đuôi” đây?

Tôi nhớ lại những lần thực tập ở Sài Gòn, Biên Hòa, Mỹ Tho, bao nhiêu cái “đuôi” tôi đều phát hiện hết, và cuối cùng tôi cũng đều cho họ vào xiếc, rồi đột nhiên tôi biến mất. Nhiều lần Brown, Dale, và Phan đã bắt tay ca ngợi tôi. Lúc đó, sở dĩ tôi thi thố được khả năng là do: phương tiện lưu thông của đường phố; nhiều nơi tụ họp ăn chơi đông đúc; còn người dân thì chuyện ai nấy lo, họ không cần quan tâm đến việc của người khác. Nhưng ở Hà Nội lúc này, tình huống hoàn toàn ngược lại với 3 yếu tố trên.

Muốn cắt “đuôi” bất ngờ thì phải: Lợi dụng xe cộ ngược xuôi đông đúc, nhảy xe này, xuống xe kia, sang xe khác, trong khi đó, đường phố Hà Nội lại toàn là xe đạp, nhảy đâu? Chạy đâu? Những nơi đông đúc tụ hội ăn chơi, có nhiều ngõ trước đường sau, cửa ngang, cửa dọc, xe cộ qua lại nhiều, có chỗ che nấp. Vừa đấy đã biến lên xe chạy chỗ khác rồi; trong khi ở Hà Nội thời ấy làm gì có cảnh đó.

Về người dân, đa số dân người Bắc nói chung, và Hà Nội nói riêng, hãy còn mơ hồ về “chiếc bánh vẽ thơm ngon” mà Cộng Sản hứa hẹn, nên còn cuồng tín, quá khích, nghĩa là còn đang bị Cộng Sản bịp, chưa sáng. Ngoài ra, mọi lứa tuổi, mọi loại người đều phải ở trong đoàn thể. Không hội này thì cũng đoàn thể khác. Nếu ai đó, không ở trong đoàn thể nào, là người ngoài vòng pháp luật như ăn trộm, ăn cắp lưu manh… hay như tôi. Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, v.v… đều phải đi họp đoàn thể. Thêm nữa, do chiến dịch “Phòng gian, phòng gián, bảo mật” đang được chính quyền thúc đẩy mạnh tối đa. Bất cứ một đoàn thể nào, ngoài công việc riêng của đoàn thể đó ra, đều được giáo dục, chỉ thị như là một ý thức tự giác. Mỗi khi thấy một người lạ ở khu vực mình, phải có trách nhiệm trình báo kịp thời. Thấy một người hỏi thăm đường, hỏi thăm nhà, một hiện tượng không bình thường… Phải đến báo ngay cho nhân viên chính quyền, ở gần nhất trong khu phố. Cho nên, phần vì để khỏi trách nhiệm sau này, phần khác, vì hãy còn mơ hồ tưởng Cộng Sản là chính nghĩa, sẽ đem lại hạnh phúc cho mọi người. Tưởng rồi đây cuộc đời của họ sẽ được hưởng cái “thiên đường hạ giới” do Cộng Sản hứa hẹn (lúc ấy, họ đã đâu nhìn thấy “nó” chỉ là… cái bánh vẽ). Đa số người dân, nếu công an hỏi, là họ chỉ ngay, đôi khi chính họ còn tự động theo dỏi mình nữa. Cụ thể như lão già ở xã Kỳ Phương, Kỳ Anh. (Tình trạng trên là từ 1965 trở về trước, chứ từ 1965 trở về sau, diễn tiến khác đi nhiều. Xin trình bày ở một đoạn khác). Vì thế, hoàn cảnh của tôi lúc đó, dù phát hiện được hết địch, cũng không chạy được đâu thoát.

Phải nghiêm khắc, thành khẩn mà nói, yếu tố cơ bản vẫn chính là tôi chưa hiểu đủ sự tàn bạo, độc hiểm của Cộng Sản. Cộng với tính cơ hữu của người lính chiến của thế giới tự do là ngại khó, ngại khổ (chịu khó khăn, gian khổ một thời gian nào đó thì được, chứ trường kỳ ai cũng ngại).

Điểm trên là điểm sai lầm trầm trọng đầu tiên tôi mắc phải. Lúc đó, tôi suy nghĩ, có thể vì ở Hà Nội công an ngầm như rươi, chúng có bổn phận theo dõi mọi người lạ vào thành phố. Vậy, ta thử làm một chuyến đi xa xem sao, vừa đo lường sự phản ứng của phản gián Hà Nội. Đồng thời, nếu có thời cơ, cắt “đuôi” trốn lánh. Tính như vậy rồi, tôi đi vào giấc ngủ và ngày mai sẽ đi Vinh.

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm lúc 5 giờ, ra đón xe điện, xuống bến Kim Liên. Cho tới khi đến bến xe đò, tôi chỉ phát hiện được 4 cái “đuôi”, hai cái trên xe điện, một đi “mô bi lét” và một đạp xích lô. Nhưng, chừng 15 phút sau, ở bến xe lại có thêm hai cái đuôi nữa, hai người này tôi đã biết mặt.

Tôi nhìn phía quầy bán vé đi Vinh, khách đang xếp hàng dài trên 30 người. Tôi đếm thầm, đến lượt mình lấy vé khéo phải 10, 11 giờ. Mỗi người lấy vé rất lâu, phải ghi tên tuổi, nộp giấy thông hành, rồi còn bị cật vấn nữa, tùy theo trường hợp.

Tôi cũng đành đứng vào xếp hàng. Lưng chừng tôi mới hiểu, đây là xếp hàng đăng ký lấy vé cho ngày mai. Muốn đi Vinh, phải đến xếp hàng đăng ký trước một ngày. Tôi thấy thật nản! Giữa lúc đanh lửng lơ suy tính, một anh mặc áo bộ đội, cụt một chân chống hai cái nạng, rao bán lại một vé. Thời gian này, đa số dân chúng miền Bắc mặc quần áo bộ đội, Bởi vì, nếu họ không là cán bộ, thì họ cũng là công nhân ở công ty, xí nghiệp, nhà máy v.v… hoặc là bộ đội phục viên. Chỉ khác bộ đội là không đeo quân hiệu, quân hàm.

Anh ta đến gần chỗ tôi nói to:

- Tôi còn thừa một vé đi Vinh, của người em bị sốt nặng không đi được hôm nay. Ai đi tôi để lại?

Tôi vẫn đứng yên. Có thể số người đang xếp hàng, đã dự trù công việc cho ngày mai mới đi, nên không thấy ai đến hỏi. Riêng tôi, tôi đặt vấn đề ngay, chắc chắn phản gián Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi đi kịp những ngày giờ tôi muốn, để chúng dễ dàng theo dõi tìm manh mối. Thí dụ: chúng nghĩ hôm nay tôi cần gặp ai ở một điểm “X” nào đó, nhưng vì nhỡ xe, tàu, tôi sai hẹn không đến được, hư công việc của tôi, mà chúng cũng không biết tôi làm gì. Tôi hiểu thế, nhưng không sao, tao đã biết mày rồi mà! Tôi tiến đến chỗ anh cụt chân. Cùng lúc ấy, một người cũng tách khỏi hàng đi đến mua chiếc vé ấy. Anh cụt chân chỉ tôi, nói:

- Anh này đã đến trước, vậy tôi để cho anh này.

Tôi biết, dù có đến sau, tôi cũng vẫn mua được chiếc vé đó. Lúc ấy, một chiếc xe đò chạy đến, anh “lơ” và tài xế mở cửa nói:

- Đồng bào đi Vinh lên xe!

Hơn 30 hành khách gồng gánh, mo, bị… lục tục kéo nhau chen chúc lên xe. Anh cụt cũng đi và vẫy tôi cùng lên xe. Thì tôi cứ đi lên! Ngay trong số hành khách này, không kể anh cụt chân, tôi còn nhận ra hai người nữa đã quen mặt từ trước, một ngồi sau tôi, và một phía trước. Hành khách lên hết, xe bắt đầu chạy ra đường phố, cũng là Quốc Lộ 1.

Ra đường, xe bị cảnh sát ngoắc tay bắt ngừng. Cảnh sát xem giấy tờ ở chỗ tài xế, rồi điểm người xem có đúng với số vé đã bán, v.v… Tên cảnh sát cũng hạch hỏi tài xế lôi thôi. Tôi hiểu rằng, chẳng qua tôi đi hơi đột xuất, phản gián Hà Nội chưa chuẩn bị kịp phương tiện, nên cố ý bắt xe ngừng chờ mà thôi. Hành khách, biết gì đâu. Một bà ngồi cạnh tôi, sốt ruột nói:

- Hỏi cái gì mà hỏi lâu thế, không để xe đi cho rồi…

Nhưng bà chỉ dám nói nhỏ, cảnh sát không nghe thấy. Chừng 20 phút sau, cảnh sát mới cho xe chạy. Xe chạy tới vườn hoa “Thống Nhất” thì ngừng lại. Một anh “lơ” xách một chiếc thùng chạy qua đường vào vườn hoa, chắc là lấy nước để đổ vào xe.

Đúng thế, chừng 5 phút sau, anh xách thùng nước đến đầu xe, anh tài xế đã mở “cốp” để đổ nước. Anh “lơ” lại chạy trở lại vườn hoa. Tôi thoáng nhìn trong vườn hoa, chỗ bụi găng, qua một khe hở lá cành, là bộ mặt anh đi “Mô bi lét”. Anh rút ra một cuốn sổ nhỏ và hý hoáy ghi, thỉnh thoảng nhìn ra đít xe, chỗ bảng số. Anh cụt ngồi cạnh tôi giả vờ lơ đãng nhìn đâu, nhưng tôi hiểu là anh cũng chẳng bỏ sót một cử chỉ nào của tôi. Lại còn anh chàng ngồi băng sau nữa. Tôi muốn nhìn lại phía sau. Để cho có vẻ tự nhiên, tôi vờ chú ý đến một chiếc xe hàng từ trước mặt đang chạy lại, và tôi nhìn theo.

Phía sau, xa chừng 200 mét, một chiếc Commanca cùng với số xe đã theo tôi vào Hà Đông, HN5037, đang đậu sát mé hè, sau hai chiếc xích lô.

Chẳng hiểu sao, xe đã đổ nước rồi, mà vẫn chưa chạy. Chẳng lẽ tài xế cũng là phản gián? Chúng có máy điện đàm hay sao mà lạ thế? Hình như tụi phản gián chưa chuẩn bị kịp. Tôi thắc mắc nên để ý. À, tôi liếc mãi phía trong vườn hoa, tên đi “Mô bi lét” và tên “lơ” xe đang nói gì với nhau. Như vậy, rất có thể tên “lơ” là một loại công an mật (cả hình sự, kinh tế và chính trị) đi xe đò đường trường.

Đổ nước quái gì đến 20 phút. Nhiều hành khách la ó nhưng anh tài vẫn không trả lời. Tụi phản gián còn chờ gì nữa chứ? Sau cùng, tên “lơ” cũng ra và xe chuyển bánh.

Khi xe gần đến Phủ Lý, chiếc xe mang số HN5037 vượt lên trước. Khi xe đó đi ngang qua, tôi thoáng thấy bên trong có 4 tên. Toàn những khuôn mặt lầm lỳ và lạ, có tên đến 40 tuổi. Tôi giả vờ nhìn cánh đồng lúa đang gặt bên đường. Khi xe đò chạy qua, tôi còn cố ngoái lại xem, nhưng thực ra là để nhìn lại phía sau xe. Xa xa chừng hơn 300 mét là một chiếc xe đen kiểu Citroen mà tôi đã nghi. Xe hàng ngừng lại ở thị xã Phủ Lý để đón thêm mấy bà khách nữa, tôi để ý nhìn thấy “chú” HN5037 đậu mãi tít trong phố quay đầu ra. Chiếc xe đen vượt qua. Trong xe cũng 4 người kể cả tài xế, có cả tên đeo kính râm, đội mũ cát két. Hôm nay, y đội mũ và mang kính giống như buổi ban đầu tôi gặp y ở nhà thờ X.

Chà, lực lượng hùng hậu quá nhỉ! Tổng cộng 11 tên: 3 trên xe đò, 8 ở hai xe con. Còn nữa không? Chắc hôm nay chúng nghĩ tôi tới điểm hẹn để được đón về Nam, nên chúng phải huy động nhiều thế để mong vồ cả mẻ.

Khi xe tới Quất (Ninh Bình), hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu. Một dẫy gần 20 chiếc xe chực chờ để qua cầu. Tôi nghi ngờ một chiếc xe Commanca nữa, vì thoáng thấy một tên trong xe Citroen nói chuyện với người của chiếc xe đó.

Qua núi Cánh Diều, Ninh Bình rồi vào Thanh Hóa, xe đò ngừng. Trên xe, tôi cứ vờ lim dim ngủ gà, ngủ gật. Có lúc tôi nghe một hai câu trao đổi của những người ngồi bên cạnh, thì ra tên cụt cũng đi Vinh.

Đến thị xã Thanh Hóa, xe đò ngừng. Khách lên, khách xuống gần nửa tiếng đồng hồ mới xong. Khi xe ra khỏi thị xã Thanh Hóa, chiếc xe đen vượt qua. Tôi tính thầm, xe đó chạy khoảng 10 cây số nữa thì tới lượt chiếc xe HN5037. Sau đó, tôi lại thấy chiếc Commanca thứ 3 ở Quất với số HN (tôi quên số rồi) chạy sau xe tôi một lúc rồi cũng vượt lên trước. Trên xe này có 3 người kể cả tài xế, có một người, tôi thật khó quên được. Khoảng 50 tuổi, tóc đã điểm sương, đeo kính trắng, phong thái chỉ huy.

Có thể vì xe hàng chạy chậm, hoặc thấy tôi từ trước không hề tỏ một ý gì, là nghi ngờ bị theo dõi. Hơn nữa, chúng tin vào còn 3 người của chúng trên xe đò, cho nên cả 3 xe nhỏ đã vượt lên trước.

Một kế hoạch chợt lóe lên trong óc tôi. Xe đang chạy trên con đường dài, hai bên toàn ruộng lúa, thỉnh thoảng có một con đường dẫn vào làng xóm xa xa hai bên đường. Bây giờ, nếu bất chợt tôi kêu tài xế ngừng xe cho tôi xuống đây. Không thể vì lý do gì cả 3 tên trên xe cùng xuống (như thế lộ liễu quá). Chúng phải theo xe đi cả chục cây số nữa mới gặp mấy chiếc xe con kia để báo cáo. Hoặc chúng cũng xuống, nhưng phải đi một đoạn nữa mới bảo tài xế ngừng, để tôi khỏi nghi. Còn tụi xe nhỏ phải chờ xe đò chạy tới báo cáo mới biết là tôi đã xuống rồi, lúc đó chúng mới quay xe lại.

Như vậy, tôi có ít nhất 20 phút hoặc hơn để thoát thân. Tôi chỉ việc, nếu tôi định ra phía trái là bờ biển, thì khi xuống xe vờ đi rẽ về phía phải; vì chắc chắn 3 tên trên xe sẽ nhìn theo. Đợi khi xe đò chạy đủ xa, để không thể nhìn lại thấy. Lúc đó, với khả năng nhanh nhẹn tối đa, tôi phải bò qua đường, sang phía trái, rồi vắt giò lên cổ mà lủi. Ngược lại, nếu tôi định vào phía núi để chuồn sang Lào, tôi cũng phải làm như vậy để đánh lạc hướng tụi phản gián. Làm cho chúng hiểu lầm, là tôi ra điểm hẹn đón ở phía biển bằng thuyền.

Tính trong đầu óc như vậy, nhưng tôi đã không thực hiện. Như tôi đã trình bầy ở trên, vì chưa hiểu đủ sự tàn ác, thâm hiểm của Cộng Sản. Tôi cứ nghĩ rằng, dù chúng có bắt được tôi, nhưng tôi đã làm gì đâu, toàn lang thang đi chơi. Hơn nữa, nếu tôi nói là chán chường cuộc sống, vì bị cái thế phải đi, lại nhớ Hà Nội, nên khi ra tới nơi, chỉ đi chơi chứ không hoạt động gì cả… chắc chúng cũng phải tin thôi. Vả lại, người của chúng đã hàng ngày thường xuyên theo dõi, thấy thực tế là như vậy, thì cùng lắm chúng giam giữ 2, 3 năm rồi cũng tha!…

Thêm nữa, tính hãy còn ngại khó, ngại khổ. Trốn như kế hoạch trên, có thể thoát, có thể bị bắt ở biên giới Lào-Việt, hoặc ở Lào… Điều chắc chắn là rất gian khổ, chui rúc bờ bụi, đói khát… Chính vì những ý nghĩ sai lầm đó, nên đã tính trong đầu rồi, tôi lại không thực hiện. Đó là điều đã làm cho tôi ân hận giầy vò, cấu xé lòng tôi cho tới bây giờ. Nếu lúc đó, hiểu đủ về Cộng Sản, dù vào tới rừng rú đói khát mà chết, tôi vẫn cương quyết xuống xe lúc ấy, để thực hiện kế hoạch.

Đây là một lời nói rất trung thực. Tôi sẽ minh chứng bằng thực tế sau này.

Xe vào tới thị xã Vinh, trời đã 5 giờ chiều. Tôi xuống xe, vào hiệu cơm quốc doanh đánh một bữa. Thị xã Vinh rất ít xe, vì thế, 3 chiếc xe theo tôi càng phải lộ mặt ra nhiều lần cho tôi thấy. Như vậy, lực lượng của phản gián Hà Nội vào đây tất cả 14 mạng, với 3 chiếc xe: 2 Commanca và một chiếc Citroen 15 mã lực đã cũ.

Đang rẽ vào con đường đến nhà trọ, tôi thoáng thấy anh Trí và một chị bế đứa nhỏ, tôi đoán là vợ con anh. Tôi vờ làm mặt xa lạ và định rẽ sang một phố khác. Nhưng, không kịp nữa rồi, anh đã trông thấy tôi. Anh chạy theo đập vào vai tôi:

- Hùng đấy à! Đi Hà Nội đã về đấy ư. Đi đâu bây giờ đấy?

Anh cứ rối rít vồn vã, trong khi lòng tôi bấn lên, không biết xử trí làm sao. Tôi rất lúng túng, tôi hiểu là vì chuyện này, anh Trí sẽ gặp nguy hiểm về sau. Nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi đành để rồi tùy cơ thích nghi cho anh sau này. Nghĩ vậy, tôi cười và nói to (để cho tụi phản gián cũng nghe thấy), trong khi chị bế con cũng đã đến gần. Trí giới thiệu: “Đây là vợ tôi”, rồi Trí tiếp:

- Hôm đó, khi về đến nhà, tôi cũng đã nói chuyện với bố mẹ và vợ tôi về Hùng. Bây giờ về nhà tôi ngủ nhé! Tôi sẽ giới thiệu Hùng với bố mẹ tôi. Ông bà cũng muốn gặp Hùng!

Tôi cưới lớn:

- Thế hai anh chị định đi đâu đây?

Trí giơ cái túi có hai quả bí ngô và cái lốp xe đạp đang đeo ở vai, nói:

- Đi mua mấy thứ này đây! Tiện thể vợ tôi cũng đi chơi.

Trí hỏi tôi ăn uống gì chưa, tôi chỉ vào quán cơm trả lời:

- Mình vừa đánh căng bụng ra đây!

Trên đường về nhà Trí, tôi ghé mua mấy giỏ lạc và túi kẹo cho con Trí.

Sau khi sang qua phà Bến Thủy, đến một ngôi nhà nhỏ ở bên đường Quốc lộ. Lần trước trong chuyến xe từ Hà Tĩnh ra, tôi đã thấy Trí ngồi trong ấy. Trí mở chiếc khóa nhỏ, kéo tấm liếp vuông che cửa, mời tôi vào. Trong nhà đã mờ tối, Trí tìm đèn đốt lên. Ngọn đèn đầy bụi đất, thật tù mù. Tôi thấy cảnh nhà Trí thật nghèo nàn, túng quẫn: Một chiếc phản gỗ thứt thẹo, hai, ba sợi xích xe đạp cũ rích. Một cái khung xe gẫy, vài cái bàn đạp vất lỏng chỏng. Một cái tủ nhỏ tí, đen đũi, cóc gặm; chắc là đựng dụng cụ sửa xe đạp của anh.

Anh lấy chổi quét cái phản rác rưởi, rồi vào buồng lấy ra một manh chiếu đã rách ở giữa, trải lên:

- Đêm nay, anh em mình sẽ nằm đây, hút thuốc lá, nói chuyện.

Thấy nhà thấp lè tè và tối mù, tôi kéo tay Trí:

- Còn sáng, mình ra ngoài nói chuyện đi, tí nữa hãy vào.

Chị Trí khi nãy đã chào tôi để vào nhà bố mẹ, Trí dặn với theo:

- Mình về, chốc nữa anh không vào nữa đâu!

Trí quay lại hỏi tôi:

- Trong đó là nhà bố mẹ và vợ mình ở. Đêm nào, tôi cũng phải ngủ ngoài này. Cách đây hơn một tháng, mình bị nó cậy cửa, vào lấy hết các đồ chữa xe đạp.

Tôi băn khoăn hỏi:

- Mất nhiều không?

- Gần một trăm đồng.

Tôi nhìn Trí ái ngại, nhà đã nghèo, lại còn bị mất trộm. Tôi đưa giấy thông hành cho Trí trình công an để tôi ngủ lại đêm. Trí gạt tay tôi ra, bảo:

- Chả cần, ông phó chủ tịch xã ở cạnh nhà mình trong ấy, mình rất quen, không sao đâu!

Tôi không muốn gây phiền cho Trí sau này, nên gằn giọng:

- Trí cứ nghe tôi, đi trình giấy cho tôi.

Trí đồng ý và cầm giấy đi vào xóm. Tôi trở vào trong nhà. Trời đã tối, đường không có đèn điện, nên cảnh vật bên ngoài tối mò. Tôi hiểu là sẽ có nhiều người nhòm ngó, canh gác tôi đêm nay. Nhưng tôi cũng chẳng cần để ý làm gì, tôi có định làm gì đâu. Điều làm tôi suy nghĩ băn khoăn nhiều là Trí. Bây giờ đã trót thế này, chỉ còn một cách là sau này nếu tôi bị bắt, tôi phải khai báo tỉ mỉ thực tế gặp Trí thế nào, từ Kỳ Anh ra. Mặt khác, ngày mai, tôi cứ phải vào thăm bố mẹ Trí thì phản gián Hà Nội mới không nghi Trí. Một lúc sau, Trí trở về:

- Ngày mai, Hùng sẽ vào nhà bố mẹ, mình sẽ giới thiệu, bây giờ tối rồi.

Nhà rất nhiều muỗi. Trí đem cái màn mầu đen sì, rách mướp ra mắc. Hai người chui vào màn nằm hút thuốc nói chuyện. Chừng một lúc, buồn ngủ quá, tôi ngủ luôn.

Đêm đó, có lúc giật mình tỉnh giấc, tôi nghe tiếng xe cộ quần đi, quần lại nhiều lần, đèn pha loang loáng. Trí cũng lấy làm lạ:

- Không hiểu sao đêm nay, xe cộ đi lại nhiều thế!

Tôi lên tiếng:

- Mọi khi có như vậy không?

Trí trả lời, giọng ngái ngủ:

- Ban đêm, ở đây thường không có xe chạy nhiều thế.

Tôi suy đoán: Có thể phản gián Hà Nội cho rằng đêm nay, thuyền hoặc tầu sẽ đến đón tôi (ở đây cũng gần cửa biển), cho nên, để phòng hờ những bất ngờ, họ phải báo cáo cho cả Hải Quân và du kích địa phương ở khu Bến Thủy. Mặc họ, tôi không có ý định gì ở đây cả. Ngày mai, tôi sẽ trở về Hà Nội.

Sáng hôm sau, Trí dẫn tôi vào nhà bố mẹ. Chúng tôi len lỏi qua những đường mòn trong xóm vào tới nhà. Một căn nhà 3 gian trống tuếch toác, chỉ có một gian được che bằng những tấm liếp để làm căn buồng, mái tranh lòa xòa, chỗ dài, chỗ ngắn xác xơ.

Tôi thấy bố mẹ Trí đã già khoảng 50 tuổi rồi. Ông cụ đang ngồi vá lưới ở sân. Bà cụ trông rất hiền hậu, vẻ quê mùa, đang quét sân. Qua một số câu chuyện, tôi được biết, hai ông bà khi còn ở Thái Lan sống rất dư giả, tuy cũng làm nghề đánh cá, nhưng có chiếc thuyền to chạy máy. Nghe Cộng Sản tuyên truyền nước nhà độc lập, nhân dân hạnh phúc ấm no… ông bà bùi tai, hồi hương. Ông bà đã được xem những cuốn phim chiếu cảnh sinh hoạt của người dân ở quê nhà, chỗ nào cũng thấy nụ cười và tiếng hát. Hơn nữa trước đây, khi các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước, lúc bấy giờ còn hoạt động bí mật ở Thái Lan, chính ông bà cũng đã đóng góp nhiều tiền giúp đỡ. Người dân Việt xa quê hương lâu ngày, ai chả nặng lòng với nơi chôn nhau, cắt rốn. Vả lại, rất nhiều người đã bán nhà, đồ đạc về nước rồi viết thư sang đều nói tốt đẹp, cho nên cứ người này theo người kia về với Tổ Quốc thân yêu!

Ông bà bán nhà và các thứ, cộng với số tiền đã dành dụm được hơn chục lạng vàng. Khi về tới Hải Phòng, cờ quạt trống chiêng, tưng bừng đón rước. Hơn 400 kiều bào trên chuyến tầu đó được mời đến một khu nhà đón tiếp căng đầy biểu ngữ “Hoan hô những người con yêu, đã trở về với đất mẹ”. Sau đó, gọi là để học tập đường lối chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngõ hầu hội nhập ngay với cuộc sống mới, khỏi bỡ ngỡ buổi ban đầu.

Trong việc học tập, có cả việc phải khai báo đăng ký số vàng và tiền mang theo. Đang hồ hởi yêu nước, yêu quê hương về với cách mạng, ai ai cũng nhiệt tình đăng ký với sự hân hoan chân thành. Đăng ký, đều có giấy tờ biên nhận từng loại rõ ràng. Của cải đó nhà nước sẽ giữ cho. Khi về tới địa phương muốn làm ăn khuếch trương công việc gì, đồng bào sẽ lấy dần ra. Đó cũng chỉ là một hình thức bảo đảm an toàn, khi đồng bào mới về chưa ổn định. Cộng sản nói như vậy!

Về tới Vinh, Nghệ An, lúc đầu ông bà thăm họ hàng làng nước, đó đây, cho chác người nọ người kia: Hả hê, hồ hởi, phấn khởi, nên cứ phải lấy dần tiền. Giá vàng tính theo giá chính thức của nhà nước thì chả được bao nhiêu. Khi còn chừng một nửa, nhà nước đòi phải có lý do chính đáng mới cho lấy ra. Ông bà chỉ lấy được một lạng nữa, mua cái nhà tranh, sắm chiếc thuyền con đánh cá… Là vừa cạn.

Hiện nay, ông bà và hai vợ chồng Trí rất vất vả, chật vật kiếm sống hàng ngày. Bữa cơm, bữa cháo, cơm thường phải ăn độn. Ông bà cứ lắc đầu thiểu não than van cho cái ngu dại của mình. Cả hai ông bà cứ vật nài mời tôi ăn bữa cơm sáng hôm ấy. Tôi tỏ ý phải về Vĩnh Linh, vì đi chữa bệnh đã lâu ngày, ở nhà bố mẹ mong. Thực lòng vì thấy ông bà và Trí quá nghèo khổ, tôi không muốn ăn uống làm gì sợ tốn phí cho ông bà. Nhưng sau, tôi không thể từ chối được. Trí đã phải chạy xóm này, xóm kia mà bữa cơm cũng chỉ có một quả trứng vịt tráng, 3, 4 con cá diếc bé síu và bát rau muống luộc chấm mắm cáy.

Tôi rất xúc động biết ơn ông bà, nghèo mà đầy tình nghĩa. Trí muốn đưa tôi ra bến xe, tôi giúi vào tay Trí 20 đồng, nói:

- Tôi về Hà Nội, bà cô cho 50 đồng, tôi chẳng tiêu gì, vậy biếu Trí chút ít mua quà cho cháu.

Trí nhất định không nhận, tôi phải nằn nì hết sức:

- Vậy tôi gửi Trí giữ cho tôi, kẻo về tôi tiêu hết. Tháng sau tôi sẽ lại ra…

Mãi Trí mới nhận giữ hộ tôi. Trên đường về Hà Nội, đầu óc tôi thật căng thẳng rối mù. Tôi cứ lo Trí bị liên quan. Tôi có định đến nhà Trí đâu! Làm sao đây! Do sự áy náy bứt rứt về Trí, cộng với cảnh nằm trên nước sôi lửa bỏng. Không chạy đâu được nữa, đầu óc tôi càng thêm rã rời u uẩn. Về tới Hà Nội, trời đã gần tối. Tôi lại về nhà trọ Hàng Buồm. Rất buồn, lo và mệt, vì thế, sau khi ăn uống qua loa, tôi về đi nằm luôn. Đi nằm mà đâu có ngủ được. Bao nhiêu suy nghĩ vơi đầy. Biết thân mình sắp lao xuống vực thẳm của cuộc đời, mà không còn biết cách nào kìm hãm lại được, đành đứng nhìn. Phó mặc, để nó lăn dần vào chỗ chết, bằng con mắt tuyệt vọng não nề.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 09 Mar 2010

Tập I - Chương 23

Phó Mặc…

Ưu sầu tràn ắp, tôi đi dần vào giấc ngủ chập chờn năm canh.

Sáng hôm sau, khi tôi bừng mắt dậy, mặt trời đã mọc. Những tia nắng bình minh rực rỡ xuyên qua cửa sổ nhà trọ như truyền sinh lực vào cho tôi.

Phải rồi, người trai, tấm thân nam nhi đâu được nằm đây mà sầu héo lo âu, phiền muộn. Sự âu sầu này, có giải quyết được những khó khăn sinh tử trước mắt không? Chắc chắn là không! Tôi bật dậy, tắm rửa, đi ăn sáng, rồi đi ra bờ hồ, bên đường Lý Thái Tổ, phía bên kia nhà Thủy Tạ.

Tôi đi xuôi mãi xuống đến những ki-ốt giải khát. Tôi mua một chai bia Trúc Bạch, loại này khá hơn bia Hà Nội, tuy vẫn nhạt phèo so với bia 33 của Sài Gòn.

Tìm một bàn sát mé hồ, một ly bia, một bao thuốc lá, tôi ngồi đăm chiêu nhìn ra hồ, chẳng cần để ý đến những cái “đuôi”. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ từ giữa hồ thổi tới, đưa theo cái dìu dịu của ban mai mùa Hè, làm tinh thần tôi sảng khoái. Tôi ngồi cân nhắc, suy lý, tính toán.

Sớm hay muộn Hà Nội sẽ bắt, vậy khai báo như thế nào? Tôi nhìn lại toàn bộ sự việc, cái gì có thể che giấu, cái gì không thể che giấu. Điều gì phản gián Hà Nội đã biết và sẽ phải biết về tôi. Dù sau này, chúng có người nằm trong Cục tình báo Sài Gòn. Cứ loại điều này, bổ sung điều kia, dần dần tôi hình thành một nội dung như sau:

Tôi dẹp ngay “vỏ bọc 2 và 3”. Hai vỏ bọc này thật ấu trĩ, Cộng Sản không thể tin được. Nếu khai ra bằng đường biển và ngày thuyền sẽ ra đón tại điểm đổ bộ, Cộng Sản sẽ bắt tôi đến điểm hẹn, đánh tín hiệu để hải thuyền vào đón. Sẽ làm cho bao nhiêu chiến hữu khác bị rơi vào bàn tay đầy máu của kẻ thù, sẽ bao nhiêu gia đình nữa khổ đau mất cha, mất chồng, mất anh em. Thà chết, dứt khoát không thể làm thế được! Vậy, nếu bị bắt, tôi sẽ khai là đi đường bộ, do đó chỉ cần moi óc tìm ra những hình ảnh liên quan. Cũng may, tôi đã ra bờ sông Bến Hải, lại có nghiên cứu kỹ Quốc Lộ 1 từ Vĩnh Linh tới Hà Nội. Vậy, dựa vào đó khai. Để phòng hờ những di chứng sau này, tôi về nhà trọ, tôi phải tháo cả chiếc túi con dấu tài liệu tôi đã khâu bên trong quần đùi.

Dùng “vỏ bọc 4” là duy nhất. Theo dõi sư đoàn 308 phòng thủ thủ đô Hà Nội, do tướng Vương Thừa Vũ là Sư Trưởng. Do thi cử nhiều lần không đậu, lại chán chường xã hội miền Nam, vì thế, khi có người giới thiệu, tôi cứ đi. Dù trong lòng rất sợ, vì muốn có chút tiền để giúp đỡ cha mẹ già yếu, nên liều. Nghĩa là ở cái thế bắt buộc phải đi. Do đấy, khi tới Hà Nội, tôi chẳng làm gì cho chính quyền miền Nam. Nhớ cảnh cũ thời thơ ấu, nên chỉ đi loanh quanh khắp Hà Nội chơi. Tôi sẽ kể hết sự thực: ra tới Kỳ Anh gặp Phùng Văn Trí, v.v…về tới Hà Nội làm những gì, đi những đâu…đều khai hết, chỉ bỏ những chi tiết liên quan đến tài liệu “M”, “X”, và thư cha Hoàng Quỳnh. Dứt khoát là không hề biết có người theo dõi mình.

Lúc đó, tôi ngây thơ tính toán là mình cứ khai rằng chả làm cái gì và giữ đúng lời khai như vậy, tù bất quá 3, 4 năm. Khi được thả ra, nếu có điều kiện sẽ trốn về Nam.

Với đầu óc hãy còn ấu trĩ về Cộng Sản của một thanh niên 24 tuổi như vậy, nên tôi yên tâm hơn, và lại bắt đầu đi chơi, muốn bao giờ bắt thì bắt.

Ngay chiều hôm ấy, tôi đi xe điện lên Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, thăm con đường Cổ Ngư.

Tôi xuống xe điện chỗ đầu Quan Thánh, vào chùa Quan Thánh xem. Những viên gạch cổ lát ở sân chùa, nhiều viên đã bể vỡ, cỏ rêu ở kẽ mọc tùm lum. Toàn bộ cái sân to, chỉ còn là mầu xanh rì của rêu cỏ với từng đống lá khô mục nát. Nơi đây, hẳn khi xưa đã in bao nhiêu vết chân của nhà sư Tuệ Chiếu, bây giờ đã về nơi cát bụi.

Tôi rời chùa, rẽ ra con đường Cổ Ngư (giờ gọi là đường Thanh Niên). Ngày xưa, nơi đây là chỗ hẹn hò của trai gái Hà Thành thanh lịch, cũng như khách nhàn du. Đông nhất là vào những buổi cuối tuần, với những hàng bánh tôm, thịt bò khô nổi tiếng Hồ Tây. Giờ đây, Cổ Ngư vắng tanh, trên đường, hai bên hồ gió lộng, thỉnh thoảng đôi ba chiếc xe đạp, hoặc một chiếc xe bò chậm chạp, lê theo bước chân của một bác dân nghèo đang gò lưng phía trước.

Tôi lững thững thả bước đi mãi, tai nghe tiếng bì bõm của sóng nước hồ Trúc Bạch bên phải và Hồ Tây bên trái vỗ vào bờ. Cũng vẫn hàng phượng vĩ đỏ ối lắc lư với tiếng ve sầu rả rích. Kia là chùa Trấn Võ. Tôi lại nhớ đến bà Huyện Thanh Quan, rồi Cao Bá Quát:

Trấn Quốc hành cung cỏ dãi dầu.
Chạnh lòng cố quốc nghĩ mà đau…

Lên quá tí nữa là “Petite Đồ Sơn” với bao nhiêu kỷ niệm thơ ngây của buổi thiếu thời. Xa nữa là Nghi Tàm, Quảng Bá, với những cây ổi quen thuộc ngày nào. Bây giờ ra sao, nơi quê hương của Thị Lộ mỹ miều? Cảnh Hồ Tây thật quyến rũ hồn du khách. Chẳng hiểu những cái “đuôi” của tôi có cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, trên mảnh giang sơn cẩm tú của Tổ Quốc Việt Nam này không? Mặt Hồ Tây bao la trắng xóa một vùng, lúc này chỉ gợi lên trong tôi một nỗi lạc lõng chơ vơ:

“Mênh mông, không một chuyến đò ngang,
Lang thang, núi bạc mây chiều …”

Chiều đã xuống dần, mặt trời cũng đi ngủ. Một vài con cò trắng cất cánh bay về phương trời xa.

Tôi quay lại, trở về, lòng mang mang nặng trĩu.

Cứ như vậy, những ngày sau, tôi đi hết về phía này, lại về phía kia của Hà Nội. Cũng nhiều cảnh, nhiều tình huống tệ nạn xã hội xảy ra trên đường làng, đường phố. Tôi nghĩ rằng không cần kể dài dòng nữa. Tuy vậy, có một sự việc nhỏ đến lúc này vẫn còn hằn trong óc tôi.

Chiều ấy, tôi đi xe điện xuống vùng Văn Điển. Tôi đang thả mắt nhìn đồng quê hai bên đường, tầu điện đỗ lại một bến phụ, vài người khách lên xuống. Một bác nhà quê, quần áo nâu hai, ba miếng vá, đi chân đất, gánh một gánh củi cành. Bác vội vàng hấp tấp ôm hai bó củi lên tàu, vừa đẩy gọn vào góc, vừa hổn hển thở. Tàu chạy, anh bán vé từ phía đầu toa đi xuống, ngoắc tay ra hiệu cho bác đưa tiền lấy vé. Vì gần cuối đoạn đường rồi, nên chỉ phải trả 5 xu. Bác nhà quê ngước đôi mắt toét nhèm sợ sệt nhìn anh bán vé, chừng hơn 20 tuổi, hai tay bác vuốt hai túi áo:

- Xin anh cho em qua một đoạn đường, trời tối rồi, nặng quá, em cả người không còn một đồng xu nào!

Tên bán vé, quắc mắt sừng sộ:

- Xuống ngay!

Khi tàu đỗ ở một bến kế, tên bán vé dùng chân hất đẩy bó củi xuống đường. Bác nhà quê, riềm mắt đỏ choét, cố gò người kéo bó củi lại, miệng cứ nài nỉ: “Lạy anh, anh thông cảm cho em!”. Mọi người trên tàu cũng nhìn với con mắt ái ngại, nhưng họ vẫn đứng yên. Tôi thấy 5 xu quá bé nhỏ, chả lẽ tôi bảo, để tôi mua cho. Tôi vẫn im lặng, vì tôi đã có chủ định. Đến một bến tiếp, tàu đỗ, hai bên đường vắng vẻ, vẫn toàn ruộng lúa, thấy bác xuống, tôi cũng định xuống theo. Nhưng, rất nhanh, tôi đã kịp giữ lại, vì còn hai cái “đuôi” ở trên tàu, bởi vậy, tôi vất nhẹ một tờ giấy 5 đồng, tôi đã gấp nhỏ lại từ trước vào túi áo bác. Bác thoáng nhìn thấy, thì tàu đã chạy rồi. Tay cho vào túi, bác nhìn theo tàu với đôi mắt mở to, ngạc nhiên và xúc động, trong bóng mờ của buổi chiều tàn.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 11 Mar 2010

Tập I - Chương 24

Lọt Vào Tay Địch …

Ngày hôm sau, rồi hai ngày hôm sau nữa, bữa đó là ngày Chủ Nhật…..Như thường lệ, tôi ra bến xe điện ở bờ hồ mua một ổ bánh mì và một tờ báo. Ăn xong, tôi thả bước về Hàng Trống, định sẽ ghé vào Nhà Thờ Lớn để xem lễ ngày Chủ Nhật. Khi gần đến hiệu phở ở góc đường Lý Quốc Sư, tôi đang đứng nhìn hai người xích lô cãi nhau vì tranh khách, mắt tôi thoáng thấy từ xa, hai tên cảnh sát đồng phục chỉnh tề đang đi lại, dáng mặt quen quen. Tim tôi chợt thót nhẹ. Phải rồi! Hai cái “đuôi” đã từng theo tôi, hôm tôi lên chùa Láng. Hôm nay, chúng ăn mặc đồng phục cảnh sát là có vấn đề rồi. Tôi vẫn vờ nhìn chăm chú hai bác xích lô.

Đúng như tôi dự đoán, khi hai tên đến gần, một tên tiến đến trước mặt tôi:

- Anh vui lòng cho tôi xem giấy tờ!

Tôi vờ ngạc nhiên:

- Thưa các anh, hỏi giấy gì ạ?

Vẫn với giọng nhã nhặn:

- Anh có giấy gì thì đưa giấy đó!

Không nói một lời, tôi rút ví túi quần sau, lấy giấy thông hành đưa ra. Y cầm xem qua rồi nói:

- Thế này không phải, xin mời anh về đồn.

Quả là lịch sự! Tôi đã thấy nhiều lần cảnh sát hỏi giấy người khác ở trên đường phố, nạt nộ:”Anh cho xem giấy tờ!”, hoặc “còn giấy gì nữa?”. Còn ở đây, có thể y không phải một cảnh sát chuyên nghiệp, phần khác, tôi là người của chế độ khác mà, nhất lại là tiếp xúc buổi đầu. Hai tên chỉ đường tôi đi trước, chúng kèm sát phía sau. Một số đồng bào đang đi trên đường phố, đứng lại ngơ ngác nhìn theo.

Riêng mấy cái đuôi gần đó cũng nhìn theo, nét mặt chúng lộ vẻ nửa như vui mừng hết trách nhiệm, từ nay khỏi phải theo anh chàng lẩm cẩm này nữa, nửa như tò mò nhìn một con mồi đã vào cạm.

Hai tên cảnh sát giải tôi về phía Ngõ Huyện, thoáng chỗ góc là chiếc xe Citroen đen, tôi đã thấy trên đường đi Vinh, đang đậu. Khi tới bên cạnh xe, nhìn vào trong, tôi thấy ngay băng trên, ngồi cạnh tài xế là một lão mặc chiếc áo “vét” xám đeo kính râm, chừng 40 tuổi. Một tên cảnh sát mở cửa sau chui vào, tên ngoài ra hiệu tay bảo tôi lên. Như vậy là tôi ngồi giữa hai cảnh sát. Xe chạy.

Tôi hiểu rằng, phản gián Hà Nội đã phải mất quá nhiều công lao, mà chả thấy tôi làm cái quái gì cả. Cứ lêu bêu hết ngày này qua ngày khác, cho nên quyết định vồ. Tôi cũng chẳng có gì ngạc nhiên lắm. Từ lâu, tôi vẫn biết sẽ có một ngày như thế này. Dù vậy, theo đúng như những dự trù khi bị bắt, tôi vẫn phải vờ ngạc nhiên. Trên đường xe chạy, tôi ngơ ngác hỏi:

- Các ông đưa tôi đi đâu đây? Tôi có giấy tờ đầy đủ mà?

Tên mặc áo “vét” ngồi trên, quay xuống giọng cộc lốc:

- Cứ đi, sẽ biết!

Bây giờ thì không lịch sự nữa!

Xe đi vòng vèo qua nhiều phố, rẽ vào một phố nhỏ vắng, với cái biển tên đường phố: “Phố Hỏa Lò”. Chéo sang bên là bức tường đá cao sừng sững 7, 8 mét, bên trên cắm mảnh chai và giăng giây điện trần chằng chịt.

Từ ngày còn bé hồi xưa ở Hà Nội, và ngay cả lần này, từ khi ra đây, tôi chưa từng đi đến phố Hỏa Lò. Vì vậy, tôi chưa thấy Hỏa Lò Hà Nội bao giờ.

Xe đỗ lại trước một chiếc cổng to đồ sộ đóng kín mít, với hai cánh cửa to tuớng như cánh cửa thành ngày xưa. Từ một trong hai cái cổng nhỏ ở hai bên, một tên bộ đội bồng súng chạy ra. Sau khi xem miếng giấy do tên áo “vét” đưa, y đứng nghiêm chào theo lối quân sự, rồi chạy vội vào phía trong. Cửa lớn từ từ mở ra và chiếc Citroen chạy tuột vào. Hai tên cảnh sát giong tôi qua một cái sân rộng có trồng hoa, bên trên là một giàn nho lá xanh rờn.

Chúng dẫn tôi vào một cái buồng trống trơn, chỉ có một cái bàn với một cái ghế, trong đó đã có 4 tên trông rất hung thần. Hai phút sau, tên mặc áo “vét” đi vào, đặt cặp xuống bàn rồi lấy ra một tờ giấy, y ra hiệu tôi ngồi xuống ghế. Y đọc: “Lệnh giam giữ, Bộ Công An ra lệnh giam và xét hỏi tên Lê Viết Hùng, tuổi…quê quán…theo giấy thông hành giả…”. Một trong 4 tên hung thần giọng cộc lốc:

- Bỏ hết đồ và cởi quần áo ra!

Tôi vờ phản đối:

- Các ông bắt tôi về tội gì?

Tên mặc áo “vét” cau mặt quát:

- Đừng vờ vịt, hãy chấp hành lệnh!

Bốn tên hung thần như được lệnh, chúng xông đến, thằng thì lục túi dết, thằng thì cởi quần áo tôi, Tên mặc áo “vét” chỉ mặt tôi:

- Biết điều thì sống, không biết điều thì càng chết sớm!

Vì đã có chủ định, nên tôi chả nói gì nữa. Thằng áo “vét” ngồi bàn ghi biên bản. Trong một căn phòng nhỏ mà chúng bật đến 4 ngọn đèn sáng chói. Chúng đánh giá tôi quá cao, như là một điệp viên có hạng không bằng. Chúng dùng kính “lúp” soi hết vải quần áo của tôi từng chiếc khuy áo, khuy quần, đường chỉ…Một tên quát:

- Có máy ảnh không?

Tôi lơ ngơ:

- Máy ảnh gì?

Chúng nó tưởng tôi có máy ảnh nhỏ xíu dấu trong khuy áo, khuy quần, chúng khám hết, tên áo “vét” ghi từng thứ một. Còn cái quần đùi, chúng cũng bắt tôi lột. Tôi thấy ngượng, không muốn cho chúng cởi. Một thằng chỉ vào mặt tôi, quát:

- Cởi ra ngay, muốn ăn đòn hả?

Chúng nó xúm lại tôi, soi lỗ tai, bới tóc, lỗ mũi, lộn mi mắt, bắt há miệng, xem từng cái răng. Thật may, tôi đã phòng hờ “chì mật”. Từ khi ở Vinh ra lần thứ nhì, tôi đã mua một bó tăm tre. Tôi bỏ “chì mật” vào giữa, chỉ buộc bằng một sợi chỉ con, rất hớ hênh, nhưng vô tình rất khó thấy, mà có thấy thì chỉ thấy đó là một sợi ny lông. Chúng chỉ có thể nghĩ là người buộc tăm để vương vào, và chúng sẽ bỏ qua. Bó tăm chỉ chừng 20 cái, bé bằng hai ngón tay, nên chúng chẳng tháo ra làm gì.

Mặt tên nào cũng có vẻ tức tối. Chúng khám xét kỹ lưỡng, cả đôi dép Thái Lan, đồng hồ, bút máy, v.v…Nghĩa là người tôi không còn một cái gì là chúng bỏ qua, mà cũng không thấy gì cả. Cuối cùng, chúng bắt tôi đứng thẳng chân, cúi chống hai tay xuống nền nhà, một thằng vạch lỗ đít tôi, một thằng khác đưa một que sắt thọc vào. Đến đây, tôi phải trình bày một chi tiết hơi…thô tục một chút. Từ khi tôi bị chúng phát hiện, tôi ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần ngày đêm căng thẳng, như một con cá nằm trên thớt chờ ngày làm thịt. Vỉ thế, phân của tôi thường táo bón từng cục như phân dê, ba bốn bữa tôi mới đi ngoài một lần.

Do đó, khi thọc que vào thấy lục cục, mặt thằng thọc que tươi hẳn lên, làm cho mắt những tên kia cũng sáng lên long lanh. Chắc chúng nghĩ, đã khám hết mọi chỗ không có gì, mày giấu đây, làm sao qua mắt được chúng ông. Khi chúng kéo que sắt ra, những cục phân rơi lủng củng xuống nền nhà. Tôi rất tiếc, vì đang phải chống tay cúi đầu, nên không nhìn thấy nét mặt của chúng lúc này ra sao? Tôi chỉ thấy tên cầm que sắt vất mạnh vào góc nhà đầy vẻ bực tức, rồi hình như giận lây sang cả tôi, y phát mạnh một cái vào mông tôi rát ràn rạt, quát:

- Đứng dậy!

Hơn hai tiếng đồng hồ khám xét lục lọi, chả có cóc khô gì. Chúng vất lại cho tôi một cái lược sừng nhỏ, chiếc quần lót và chiếc khăn mặt. Tôi chỉ cái đồng hồ của tôi để trên bàn:

- Trả lại tôi cái đồng hồ!

Tên áo “vét” đập tay xuống bàn, đứng vọt dậy:

- Đồng hồ nào của anh! Đó là tang vật hoạt động của một tên gián điệp!

Tôi vờ giật mình:

- Sao? Tôi là gián điệp?

Y quát:

- Câm miệng lại!

Chúng vất cho tôi một bộ quần áo sọc xanh trắng:

- Mặc vào!

“Phải làm sao để lấy lại được gói tăm?” Tôi thầm nghĩ: Để đánh lạc hướng của chúng, tôi vờ xuống nước năn nỉ:

- Tôi có răng sâu, đau lắm, các ông cho bàn chải và hộp thuốc đánh răng!

Chúng ném cho tôi cái bàn chải, còn hộp thuốc đánh răng, chúng bóp hết rồi xé ra khám, dù bàn chải và thuốc tôi mua ở bờ hồ. Nhưng, đó chỉ là phụ, tôi vờ cho ngón tay vào hàm răng phía trong:

- Tôi có răng sâu, ăn uống xong, phải đánh răng hoặc xỉa răng. Các ông không cho tôi thuốc đánh răng, đành phải xỉa bằng tăm vậy. Các ông cho tôi xin gói tăm?

Một thằng cầm gói tăm lên, rồi ném cho tôi. Thế là ổn rồi!

Khoảng 11 giờ trưa, một tên mặc quần áo cảnh sát có đeo hàm trung sĩ, nhưng không đội mũ, khoảng 35 tuổi, y vào buồng ra hiệu cho tôi đi theo y. Tôi đi trước, y đi sau ngoắc ngón tay chỉ đường cho tôi.

Qua bốn, năm lần cửa sắt. Khi đi qua một cái sân nhỏ, dưới gốc cây bàng, tôi thấy một anh cởi trần trùng trục, đang cúi gầm mặt xuống như mang nặng một nỗi niềm suy tư. Khi tên cảnh sát giong tôi đi qua, anh ngửng lên nhìn, anh bị chột mắt bên trái. Tôi chợt nhớ ra những ngày lang thang trên đường phố Hà Nội, trong một hiệu sách, tôi có mở xem cuốn C-47, trong đó có hình anh, chột một mắt trái, Trung Úy Phi Công Phan Thanh Vân.

Anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Tôi biết anh, nhưng anh không biết tôi. Anh sẽ tưởng tôi cũng như trăm ngàn người tù khác ở miền Bắc mới bị bắt vào.

Tên cảnh sát dẫn tôi mãi vào một hành lang nhỏ tối, sâu hun hút. Qua một cửa sắt nữa, tôi nhìn thấy một dẫy buồng, mỗi cửa buồng mang một số. Tên cảnh sát giao tôi cho cũng một tên mặc đồ vàng, cũng đeo lon trung sĩ. Tên này nét mặt rất ác ôn, cái mũi đỏ như quả cà chua con ở giữa mặt. Chúng nói nhỏ gì với nhau tôi không nghe rõ. Tên mũi cà chua mặt lầm lì, vẫy tay bảo tôi theo. Y rút chùm chìa khóa to tướng kêu xeng xẻng ở dây lưng, lấy một chìa “mở buồng số 6”.

Từ nhỏ đến giờ, tôi chưa hề trông thấy nhà tù lần nào cả, vì thế, từ khi bước vào cổng Hỏa Lò, tôi nhìn cái gì cũng lạ, từ những cánh cửa sắt to, những chiếc khóa lớn, vắng lặng, tịch mịch, âm u…

Khi tên mũi cà chua mở cửa buồng, tôi nhìn vào thấy tối lờ mờ. Căn buồng rất hẹp, mỗi bề chỉ chừng 2 mét. Hai bên sát tường, mỗi bên có một sàn xi măng, không có chiếu, mỗi sân rộng từ 65 đến 70 phân, cao hơn mặt nền chừng 60 phân, dưới gầm trống trơn, đen xì. Giữa là một lối đi khoảng 60, 70 phân. Trên mỗi sàn có một cái cùm sắt to tổ bố, gắn liền xuống sàn.

Tôi đang mở to mắt lạ lùng nhìn, chưa bước vào, đột nhiên, tên mũi cà chua đập mạnh vào gáy tôi, rồi y đẩy tôi vào:

- Đi vào! Lững lờ cái gì?

Là một thanh niên sống dưới chế độ Cộng Hòa, Dân Chủ, tôi đã được hấp thụ nhiều khuynh hướng tư tưởng tự do, mà giai đoạn ấy ở miền Nam, chủ nghĩa Nhân Vị của tổng thống Ngô Đình Diệm đang được đề cao, phát triển. Mang một ý niệm, có tội thì xử tù hay bắn, chứ nhân phẩm, tự do cá nhân không được xâm phạm. Vì vậy, mặt tôi nóng lên. Tôi lùi lại như để lấy thế, mắt nẩy lửa nhìn y như muốn ăn tươi nuốt sống, tôi chỉ vào mặt tên mũi cà chua:

- Tôi biết hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là không đánh người. Do đó, nếu ông đánh tôi, là tôi đánh lại!

Nhìn thái độ quyết tử của tôi lúc đó, y cũng chờn, vì thế, y xuống nước:

- Thì tôi bảo anh vào chứ làm sao!

Rồi y ra phía ngoài, rút cái chốt cùm. Trở vào, y nhấc nửa phần trên cái cùm cho há ra:

- Anh bỏ chân vào!

Tôi ngồi ghé mông vào chiếc sàn xi măng, từ từ tôi nhấc một chân đặt vào một lỗ cùm… Y lừ lừ nói tiếp:

- Bỏ cả chân kia nữa!

Tôi phải xoay người lại, rồi cũng từ từ chậm chạp bỏ một chân nữa. Y lấy tay xập mạnh cái cùm xuống đánh “sầm” một cái. Sắt trên và sắt dưới dập mạng vào nhau, bật ra tiếng chát chúa. Y quay ra ngoài, đút chốt cùm, đóng sầm cửa lại.

Chừng 10 phút sau bỗng cửa lại mở. Lần này y vào cầm trong tay một chiếc gậy gỗ, dài độ 50 phân, to bằng cán xẻng. Y trợn to cặp mắt trắng dã, quả cà chua trước mặt y càng đỏ loét. Phía sau y, bên ngoài cửa, thấp thoáng còn thấy một tên nữa. Y vào là quật tôi ngay, miệng luôn luôn chửi:

- Đ. M. mày! Ngang bướng này!

- Mày biệt kích, gián điệp này!

- Đ. M. chúng mày, ra phá hoại miền Bắc này!…

Nó quật tôi túi bụi, tôi phải giơ tay đỡ. Người tôi sôi lên sùng sục, tôi gầm lên:

- Đ. M. chúng mày hèn hạ! Cùm tao vào rồi mới đánh!

- Chúng mày là lũ dã man!…

Máu ở tay và chân tôi đã chảy. Tôi không còn biết đau nữa. Nó quật tôi hàng chục cái lia lịa, rồi ra. Trước khi ra, nó chỉ cái gậy vào mặt tôi:

- Cho con chết, con ạ!

Rồi đóng cửa, cài then. Tay tôi sưng tím, nhiều chỗ nổi lên một cục, vai và lưng đau ê ẩm. Máu tay nhiều chỗ chảy đỏ cả bộ quần áo sọc trắng. Chân tôi, lúc vặn vẹo đỡ gậy nó vụt, bị cạnh của chiếc cùm sắc cứa làm máu chảy nhiều chỗ.

Lúc này, tôi uất hận quá, không thiết sống nữa. Như thế này rồi cũng chết thôi. Phải chịu bao nhiêu đau đớn nữa rồi cũng chết. Vậy thì chết trước, khỏi khổ.

Qua sách báo của Cộng Sản, qua các cuộc phỏng vấn những người vượt tuyến ở Gia Định trước đây, tôi biết là: Lãnh tụ của Cộng Sản thì chúng coi như thần thánh, ai xúc phạm, chúng sẽ giết ngay. Nghĩ như vậy, nhất là nhìn máu chảy tứ tung, chỗ nào cũng máu, uất hận ngập trời, tôi gầm lên:

- Đ. M. thằng Hồ Chí Minh!

- Đả đảo thằng Hồ Chí Minh! Chúng mày làm cả dân tộc lầm than, đau thuơng, cùng khổ!

Tôi cứ thế gào lên, mục đích mong chúng mang súng vào cho mấy phát. Tôi chẳng thiết sống nữa! Một đứa mở chiếc cửa sổ nhỏ tí ở giữa cửa lớn:

- Im ngay cái mồm, không thì chết đấy con!

Tôi chẳng trông rõ ai cả, tôi hét lên:

- Đả đảo thằng Hồ Chí Minh!

Một lúc sau, cửa lớn mở, ba thằng bước vào, có cả thằng mũi cà chua đã đánh tôi khi nãy. Chúng mang vào một cái khung sắt, loại sắt tròn, đường kính độ 1 phân rưỡi. Chẳng nói năng gì, một thằng bẻ quặt hai tay tôi ra sau, khóa lại bằng chiếc khóa số 8. Hai thằng lắp cái khung sắt vào đầu và cằm tôi, rồi chúng vặn ốc “vít” ở dưới cằm.

Hai hàm răng của tôi bị cái “cùm mồm” xiết chặt lại, một miếng sắt mỏng 3×6 phân, 2 bên có lò xo ép chặt mồm tôi lại. Nói và chửi bây giờ không thành tiếng nữa, chỉ là những âm thanh ú ớ, xìn xịt. Trước khi ra, chúng còn đe:

- Con sẽ chết, con ơi!

Sau khi cửa đóng, chỗ máu ở chân tôi vẩn chảy. Bây giờ tôi không nằm được, cũng không xoay trở gì được nữa. Hai tay bị khóa đàng sau, hai chân trong cùm sát xuống sàn, mấy chỗ sưng ở tay bắt đầu thấy ngứa. Bây giờ, tôi cảm thấy ngứa khắp cả người. Thái dương giật giật liên hồi, người tôi nóng ran, mắt hoa lên quay cuồng.

Chừng 4 tiếng đồng hồ sau, tự nhiên người tôi cứ đảo lộn, quay cuồng như chong chóng. Chỉ còn một thế duy nhất là gục dựa đầu vào tường, mắt nhắm nghiền. Một luồng hơi nóng như lửa chạy từ bụng lên ngực, rồi lên đầu, rồi tôi không biết gì nữa.

Khi tôi tỉnh lại, trời đã sáng. Như vậy, tôi đã ngất xỉu qua đêm. Tôi thấy tay chân tê dại và nặng như chì, cả người tôi đau đớn, nhức mỏi rã rời. Tôi chỉ còn hai cái vai ngút ngắc, rung lên vì ngứa. Mãi lâu lắm, thấy chiếc cửa sổ nhỏ mở ra, rồi một giọng hỏi:

- Mày còn già mồm nữa không?

Tôi mở mắt nhìn, nhưng vẫn ngồi dựa tường bất động. Bây giờ còn chưởi làm sao được nữa! Thấy tôi vẫn ngồi yên, cửa sổ đóng lại. Người tôi lúc đó thật là kinh khủng. Cả chân tay tôi cứ giật giật như bị kinh phong. Chết không chết được. Nếu ai giết tôi lúc này là họ gia ân cho tôi. Bây giờ ngồi viết lại, nghĩ đến tình cảnh lúc ấy, cón thấy kinh hoàng và nỗi hận thù vẫn còn dâng cao như núi.

Rồi, tôi xỉu đi lần nữa. Lúc xỉu đi là lúc hạnh phúc. Nhưng tỉnh lại, thì lại kinh khủng quá! Tôi không ngờ chúng nó lại có cái trò ác độc thế này. Tôi chửi chúng để cầu mong chúng cho vài phát đạn. Nếu chúng bắn tôi chết, hòa cả làng. Tôi chết rồi, biết quái gì nữa.

Không biết lúc này là mấy giờ rồi? Ôi, loài người thật dã man! Bây giờ, có muốn cắn lưỡi cũng không làm sao cắn được.

Mãi một lúc lâu lắm, cửa nhỏ lại xịch mở. Vẫn cái giọng lúc sáng:

- Mày còn chửi nữa không?

Tôi thấy rằng thôi, hãy chịu chúng nó lúc này, sau sẽ tính, chúng nó không giết mà cứ cùm kiểu này, chịu sao nổi. Vì vậy, tôi nhìn ra cửa sổ ngúc ngắc cái đầu. Chúng nó lại đóng cửa sổ lại. Tôi tưởng mình chịu thua, chịu xuống xề, chúng nó sẽ tha cùm tay, cùm mồm ngay. Nhưng bặt đi, mãi tới gần chiều mới thấy cửa lớn mở và hai tên đi vào. Tôi không thấy tên mũi cà chua. Chúng nó đến bên cạnh tôi, một thằng đập tay vào vai tôi giọng giễu cợt:

- Thế nào, mày còn cương nữa hay biết hãi rồi?

Tôi vẫn ngúc ngắc cái đầu. Chúng vừa tháo cùm mồm, cùm tay tôi, vừa nói:

- Mày đã vào đây mà không biết điều thì chỉ có một con đường là chết khổ. Bao nhiêu thằng ba đầu, sáu tay, mọc bao nhiêu cái sừng chúng tao cũng vặn hết. Từ nay phải biết điều, nghe không?

Tôi chẳng nói năng gì cả, hai tay như xuội ra, không nhấc lên được nữa. Tôi mệt rã rượi như người không xương. Người tôi lại thấy ngây ngất sốt, tôi nằm phịch xuống sàn. Chúng nó ra ngoài, tôi thoáng thấy chúng đưa vào một cái gì, có lẽ là cơm, để lên phía đầu tôi:

- Cơm đấy, ăn đi! Chốc nữa tao lại lấy bát.

Đêm hôm đó, một cơn sốt lên dữ dội. Tôi mê man rên rỉ suốt đêm. Cả người tôi đau như giần. Cứ thiếp đi một lúc, rồi lại tỉnh. Miệng lảm nhảm chỉ kêu “mẹ ơi!”.

Tôi cầu xin Chúa, xin Trời cho tôi chết đi. Tôi vừa sốt, vừa đau. Hai chân tôi trong cùm tê dại, đau buốt. Bát cơm gạo hẩm và đôi đũa vào từ lúc chúng tháo cùm mồm tôi ra vẫn để lỏng chỏng trên sàn, phía trên đầu tôi. Tôi không muốn ăn uống gì cả, dù đã hai ngày, trừ lúc sáng sớm hôm qua, tôi ăn một ổ bánh mì nhỏ ở bờ hồ khi chưa bị bắt. Miệng tôi đắng và khô, không nhổ ra nước bọt.

Sáng hôm sau là thứ Ba. Tôi nằm nghe loáng thoáng có nhiều tiếng phụ nữ cười nói và tiếng nước chảy, như đang có người tắm giặt ở đàng sau tường phía đầu tôi. Nghe những lời qua tiếng lại, tôi biết họ cũng là tù, và ngay sau buồng tôi là bể nước họ giặt giũ, tắm rửa.

Cửa sổ nhỏ bỗng mở, tôi nhìn ra chẳng rõ ai. Rồi nghe lẻng xẻng tiếng chìa khóa mở cửa buồng. Một ông chừng 60 tuổi, đầu đã bạc, mặc thường phục, đeo kính trắng bước vào buồng, theo sau có mấy người nữa. Ông hỏi, giọng miền Nam:

- Anh không ăn cơm à?

Tôi lắc đầu:

- Tôi sốt.

Y quay lại nói gì với mấy tên phía sau. Tôi thấy chốt cùm kéo ra, một tên nhìn tôi:

- Anh bỏ chân ra!

Tôi ngồi dậy, mỏi mệt nhấc cái nửa cùm phía trên, rồi chậm chạp nhấc hai chân ra. Máu chảy ra mặt dưới cùm và ống quần tôi đã đen lại. Ông già đeo kính trắng có vẻ khuyên răn:

- Anh đã vào đây, đừng bướng bĩnh. Phải ngoan ngoãn biết điều, lợi cho anh. Nếu không, chỉ thiệt thân.

Một lúc sau, một người ném vào chỗ tôi một bộ quần áo nữa, cũng sọc, nhưng đã cũ:

- Cho anh thêm bộ này. Thay bộ quần áo đó ra, giặt đi.

Chúng nhìn thấy quần và áo tôi đầy máu đen. Ông già và mấy người đi ra. Tôi chẳng biết ông già làm gì, có vẻ tử tế. Một lúc sau, cửa lại mở, một tên áo vàng chừng độ 40 tuổi, đeo lon hạ sĩ, vào hỏi tôi:

- Tên anh là gì?

Tôi nhìn lão:

- Lê Viết Hùng.

- Tôi hỏi tên thật của anh ở Sài Gòn cơ?

Tôi đáp:

- Đặng Chí Bình.

Lão nghiêm giọng:

- Tôi là cán bộ coi xà lim này. Vậy từ nay anh phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nội quy ở đây. Không được la ó, ca hát. Không được quan hệ, nói chuyện với buồng bên cạnh. Không được mang bất cứ loại kim khí nào vào trong buồng. Mỗi buổi sáng mang bô phân, nước giải của mình vào nhà tắm, đổ vào lổ xí, tráng nước trong 5 phút. Nếu bị cùm kỷ luật, một tuần chỉ mở cùm cho đổ bô một lần vào sáng thứ sáu. Một tuần, tắm giặt hai lần vào thứ Hai và thứ Sáu, mỗi lần không quá 15 phút. Nếu anh vi phạm, tùy theo mức độ, sẽ bị kỷ luật cùm một chân, hoặc cùm hai chân, hoặc đưa đi “cát xô”.

Tôi ngồi mệt quá như xỉu đi. Tôi dựa lưng vào tường; mặc cho y nói. Một lúc, y vừa nói vừa đi ra:

- Tôi sẽ gọi y tá vào cho thuốc.

Rồi y đóng cửa lại. Tôi nghe tiếng y mở cửa buồng bên cạnh, một người ra, chắc để đổ phân, 5 phút sau vào, tiếng đóng cửa. Lại mở buồng khác, thấy tiếng chạy lịch kịch, rồi nghe máy nước chảy rào rào, rồi tiếng chân chạy trở về buồng. Sáu, bảy lần như vậy. Lại thấy mở cửa buồng tôi. Tiếng tên cán bộ xà lim:

- Ra đổ phân!

Tôi tụt xuống sàn, cúi nhìn vào gầm sàn, thấy cái bô tôn có nắp gỗ đậy. Từ tối qua đến giờ, tôi có ỉa đái gì đâu, nên cứ đứng ngơ ngác. Y thò cổ vào:

- Sao không ra đổ thùng?

Tôi trả lời:

- Tôi chưa…!

Y đóng cửa xầm một cái, cài then sắt bên ngoài. Một lúc sau, cửa lại mở. Một bà y tá, mặc áo “bờ lu” trắng ôm cái khay thuốc đi vào. Bà ta chừng 28, 30 tuổi, sau này, tôi được biết tên là Dậu.

Bà ta xem các vết thuơng ở chân, tay, vai lưng tôi cho tôi nửa hộp dầu cao “Sao Vàng”, bảo xoa chỗ sưng. Chấm thuốc đỏ vào mấy chỗ chảy máu. Tôi đang sốt, nên tôi nói:

- Đêm qua tôi bị sốt và bây giờ cũng bị.

Bà cho tôi hai viên thuốc trắng, bảo uống. Khi bà y tá ra, tên cán bộ xà lim lại vào:

- Anh mang bát cơm kia ra. Cầm cả cái gáo ra lấy cơm, lấy nước.

Khi tôi cầm bát cơm ra, chân tôi đau quá đi khập khiễng. Y bảo tôi để bát cơm cũ xuống đất, lấy gáo lại thùng múc một gáo nước, rồi cầm bát cơm mới đi vào. Tôi nhìn trên bệ tường có 8, 9 bát cơm, tôi cầm một bát và đi vào. Y đóng cửa lại và nói:

- Ăn nhanh, 15 phút sẽ trả bát.

Tôi đói, từ hôm qua tôi không hề ăn uống gì, nhưng và miếng cơm vào mồm nhai, tôi không nuốt nổi. Mồm đắng hay cơm đắng? Nhưng nếu không ăn, chỉ có chết, nghĩ lại cố gắng nhai và nuốt. Tôi vừa nhai vừa nhìn bát cơm. Cơm thuộc loại gạo hẩm, nhưng không có độn, còn tốt hơn ở hàng cơm ngoài phố.

Cơm được đựng trong một chiếc bát to, đường kính miệng bát chừng 17 phân, cao chừng 7 phân, bằng chất gì như nhôm, màu xam xám, rất cứng (có thể là nhôm pha antimoan), hình đít bằng. Lượng cơm bằng chừng hai bát cơm nhỏ gia đình thường dùng. Một bát nhỏ như vậy nữa, cùng loại hợp kim và hình thể như chiếc bát to, đường kính khoảng 10 phân, cao 5 phân, thường thường đựng rau muống già nấu muối, đen xì. Bát canh nhỏ để chồng lên bát cơm.

Vì thế khi mở cửa ra, tù tay cầm một gáo dừa, đến thùng nước, múc một gáo nước mầu đen đen (sau này tôi hiểu là gạo rang cho cháy đen; một nắm nấu cho cả mấy trăm người uống), rồi đến cầm một một bát cơm đi vào. Cán bộ ở đây gọi là quản giáo, sau khi đóng cửa cài then phía ngoài, lại tiếp tục mở buồng khác. Chừng 10 hay 15 phút sau, quản giáo lại đi mở từng buồng, để tù đưa bát ra chỗ cũ. Múc thêm gáo nước nữa. Cơm nước nấu ở khu nhà bếp, cũng do tù được tuyển chọn đảm trách, hầu hết là tù hình sự, hoặc là cán bộ can tội tham ô hủ hóa. Tôi cố ăn cũng chỉ được khoảng nửa bát cơm, và húp tí nước rau nấu.

Khi quản giáo mở cửa, tôi đưa bát ra, y chỉ:

- Để chỗ cũ!

Tôi không biết nên để cả đũa ở đấy. Y bảo tôi phải đưa lại chỗ “suốt cùm” để. Tôi liếc nhìn buồng bên cạnh, trước mỗi cửa buồng tôi thấy một đôi đũa treo lủng lẳng ở chỗ tay suốt cùm. Tôi không có dây, nên gác đại đũa lên trên cái suốt.

Khi vào buồng, dù người còn đau êm ẩm, chân vẫn còn đi tập tễnh, nhưng tôi vẫn thấy thoải mái hơn nhiều. Bây giờ tôi mới để ý kỹ cái cùm:

Cùm là hai miếng sắt, mỗi miếng dầy 2 phân rưỡi, bản rộng 8 phân. Nửa dưới, nằm gắn liền với một bờ xi măng sát xuống sàn. Nửa trên, nối với dưới bằng một khâu bản lề, làm bằng chính hai miếng sắt ấy. Phía ngoài cùng, trông như cái hình mỏ vịt, được đục một lỗ dài để xập vào một cái khuy, làm bằng loại sắt vuông khoảng 1 phân rưỡi. Một thanh suốt chốt cùm bằng miếng sắt rộng 5 phân, dầy 1 phân. Từ phía ngoài tường thọc vào cái khuy sắt hình vuông kia là cứng ngắc, bất khả nhúc nhích, trừ phi bên ngoài có người rút chốt cùm. Đuôi chốt cùm lại có có chốt, rồi lại một cái khóa nữa.

Buồng xà lim thường có hai sàn xi măng, cửa ở giữa. Trần xà lim cao 4 mét. Mãi tít gần sát trần, có một cái cửa sổ nhỏ, kích thước khoảng 60×25 phân. Có 5 chấn song sắt, đường kính 2 phân rưỡi, có lưới sắt che. Vì thế, ngay ban ngày, trong buồng chỉ lờ mờ, nếu không mở cửa lớn.

Cửa xà lim bằng gỗ lim, dầy 4 phân có nẹp đai sắt dầy. Giữa cánh cửa, chỗ ngang tầm mắt người đứng, có một cửa sổ nhỏ rộng 20 phân, cao 15 phân, có 6 song sắt con loại 1 phân rưỡi. Như thế, chỉ đút lọt một ngón tay. Bên ngoài có một miếng sắt mỏng mở ra, đóng vào che kín, có chốt. Tường dầy 50 phân.

Đây là công trình của thực dân Pháp xây. Bây giờ Cộng Sản dùng để cùm kẹp, giam giữ những người chống lại chúng.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 12 Mar 2010

Tập I - Chương 25

Chấp Pháp Tại Hoả Lò…

Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, tiếng chìa khóa lẻng xẻng đi vào, cửa sổ con bật mở, lộ mặt tên cán bộ xà lim, y nói vọng vào:

- Mặc quần áo đi cung!

Đêm qua tôi không sốt, nhưng người còn đau ê ẩm, phần khác trời nóng và buồng rất nhiều muỗi, nên suốt đêm người tôi lúc nào cũng đầy mồ hôi và không ngủ yên. Tôi đang mặc quần áo thì cửa mở.

Lúc tôi ra, một tên cán bộ áo vàng đang chờ ở cổng xà lim. Thấy tôi y lấy ngón tay ra hiệu cho tôi đi trước. Y đi phía sau, cất tiếng hỏi:

- Anh tên Đặng Chí Bình tức Lê Viết Hùng?

Tôi gật đầu:

- Dạ

Lão cán bộ này có đôi mắt lồi và cái môi vẫu hẳn ra. Y đeo lon trung sĩ.

Hôm tôi bị bắt là ngày Chủ Nhật, vì thế trên đường vào xà lim, tôi không nhìn thấy tù, họ ở trong buồng cả. Hôm nay, trên đường đi qua một cái sân nhỏ, tôi thấy ở góc sân 6, 7 người tù nữ đang lúi húi rửa soong, nồi trong một bể nước. Phía nhà bên cạnh 8, 9 người tù nữa với mấy cái máy may, may quần áo sòng sọc. Thấy cán bộ giong tôi đi qua, họ đều ngửng lên nhìn theo.

Đi qua mấy ngách nữa thì ra tới chỗ sân có giàn nho hôm trước. Dẫn đến trước một cửa phòng, y mở cửa bảo tôi vào.

Trong buồng, tôi thấy hai người đã ngồi chờ sẵn ở một cái bàn, trên đặt một cặp hồ sơ dầy. Một người tuổi chừng 30 mặc áo 4 túi bộ đội, người kia chừng 35 tuổi, mặc sơ mi trắng ngắn tay.

Thấy tay và chân tôi băng bó, chân đi tập tễnh, tên mặc áo sơ mi trắng có vẻ ngạc nhiên:

- Chân và tay anh làm sao thế?

Tôi thấy y có vẻ vờ, tôi nghĩ y phải biết, dù vậy tôi vẫn nói:

- Hôm kia, mấy ông bà cán bộ đánh tôi ở xà lim.

Cả hai đều như ngạc nhiên:

- Anh làm sao mà bị đánh? Có đau không?

Tôi thấy rõ thủ đoạn vờ vịt, nên trả lời thủng thẳng:

- Hôm nay đỡ rồi!

Tên mặc áo bộ đội chỉ một chiếc ghế đẩu trước bàn, bảo tôi ngồi, xong hắn tự giới thiệu:

- Tôi là Thành và ông cán bộ đây là Đức. Chúng tôi là Chấp Pháp Bộ Công An. Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ và thẩm vấn anh, về những việc anh đã làm. Chúng tôi biết anh còn quá trẻ nên nhất thời ngây thơ, bị lũ tay sai Mỹ Diệm dụ dỗ, thúc đẩy đi ra Bắc làm hại cách mạng. Nhưng, với màng lưới nhân dân của cách mạng. Không một kẻ nào, không một mưu mô nào của Mỹ Diệm mà không bị đập tan.

Anh hiểu rằng, về tình báo, trong hàng ngũ của ngụy quyền tay sai của Mỹ Diệm, đầy rẫy những người của cách mạng. Cho nên, việc của anh chúng tôi biết rất rõ. Chúng tôi có đầy đủ hồ sơ tài liệu về anh.

Y hất hàm về chiếc cặp hồ sơ, rồi nói tiếp:

- Nhưng, với đường lối khoan hồng và giáo dục của đảng và nhân dân, chúng tôi muốn chính anh có trách nhiệm tố cáo, vạch ra hết những tội ác mà bọn tay sai Mỹ Diệm đã đẩy đưa anh ra ngoài này, để đắm mình vào tội phản nhân dân, phản Tổ Quốc.

Đảng và nhà nước sẽ đánh giá sự ăn năn thành khẩn của anh. Chỉ có anh mới cứu được anh, không một thế lực nào, một kẻ nào có thể cứu được anh. Tuy vậy gặp anh buổi đầu hôm nay, thấy anh là một thanh niên có học, hiểu biết, cởi mở. Chúng tôi tin rằng sự quan tâm giúp đỡ của chúng tôi, sẽ rất tốt cho anh sau này.

Riêng về việc anh bị hành hung trong xà lim, chúng tôi chưa biết rõ sự thể như thế nào. Nhưng, dù sao đó cũng là một việc làm sai trái đối với chính sách giáo dục của đảng và nhà nước. Chúng tôi sẽ phản ảnh lên cấp trên, để có biện pháp xử lý. Bây giờ trước hết, anh hãy trả lời về những câu hỏi lý lịch…

Từ nãy, tôi vẫn cúi đầu nghe chúng nói. Tôi có chủ định từ trước, nên khi chúng hỏi về lý lịch, thân thế, tôi cứ khai thực. Sau khi chúng ghi xong phần lý lịch, tên Đức nghiêm trang:

- Bây giờ, chúng tôi cho phép anh được tự nói lần lượt: Ai tuyển mộ anh? Ai huấn luyện? Huấn luyện những gì, ở đâu, nhiệm vụ gì? Ra Bắc làm sao? v.v…Anh cứ nói!

Tôi cứ cúi gầm ngheo chúng thuyết. Tôi tỏ vẻ thành khẩn ngoan ngoãn lắng nghe. Sau khi chúng giục hai, ba lần, tôi mới ngửng đầu lên nói:

- Thưa các ông, tôi tin rằng cách mạng đã hiểu hết những việc làm của tôi ở trong Nam, cũng như khi tôi ra Bắc. Tôi vì hoàn cảnh và cuộc sống, nhà nghèo, học hành thi cử mãi không đậu, cho nên phải vào lính tráng. Rồi có người giới thiệu, tôi cứ đi đại để kiếm ít tiền giúp đỡ bố mẹ già.

Tôi đã là nhi đồng ở quê tôi, tôi đã đỗ bằng Tiểu Học với hạng ưu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ nhỏ, tôi vẫn ngưỡng mộ hình ảnh các anh bộ đội, cho nên sau này, khi lớn lên, dù vì hoàn cảnh tôi phải nhận trách nhiệm của họ. Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng rằng, nếu tôi không làm gì được có lợi cho xã hội chủ nghĩa, thì dứt khoát cũng không bao giờ làm hại cả.

Cũng vì vậy, khi tôi ra miền Bắc, tôi chẳng hề làm cái gì. Tôi nhớ Hà Nội, tôi chỉ đi thăm các thắng cảnh, các di tích lịch sử mà buổi thiếu thời tôi đã thường đi chơi. Nhiều lúc, tôi thật chán nản, định gặp anh cảnh sát nào đó, sẽ nói cho anh rõ là tôi ở trong Nam ra. Nhưng, những năm tháng tôi sống ở miền Nam, họ nói Cộng Sản rất ác độc, hay giết người, tôi lại cứ đắn đo, e dè, sợ sệt. Đầu óc tôi cứ rối bung lên, chả biết phải làm sao.

Bây giờ, gặp các ông xin thành thật nói hết những gì tôi biết mà nhà nước yêu cầu.

Mặt chúng nó rất tươi khi nghe tôi nói, chúng gật gù:

- Được, Như thế là tốt cho anh, bây giờ bắt đầu làm việc.

Tôi có vẻ ngơ ngác:

- Khai từ đâu? Từ lúc đi học, hay từ lúc ra miền Bắc?

Chúng lừ mắt nhìn tôi:

- Từ lúc cơ quan tình báo Sài Gòn tuyển mộ anh, huấn luyện gì, ở đâu và ai huấn luyện? Khai sơ lược và nhanh.

Tôi chậm chạp, vừa suy nghĩ vừa nói:

- Tôi ở đại đội thám báo của Sư Đoàn 7 bộ binh. Quen Trung úy Xương bên Nha An Ninh Quân Đội. Ông này đã giới thiệu cho một người tên Hòa, mặc thường phục, đến tuyển mộ tôi, đầu năm 1962. Huấn luyện suốt 3 tháng liền về hoạt động bí mật, về một số tính năng của các loại vũ khí, mìn của miền Bắc thường dùng, về địa đồ, chấm tọa độ v.v… Rồi sau đó chuẩn bị công tác ra Bắc, với nhiệm vụ theo dõi Sư Đoàn 308 phòng thủ, Thủ Đô Hà Nội do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy. Ngày 20 tháng 5, tên Hòa đưa tôi ra trường bay Tân Sơn Nhất để ra Huế. Rồi từ Huế đưa ra khu phi quân sự. Lợi dụng một đêm mưa to, tôi lội qua sông Bến Hải, sáng hôm sau thuê xe đò đi từ thị trấn Vĩnh Linh.

Tôi cứ khai, chúng cứ ghi, chúng thường giục tôi nói lướt, nói nhanh, trong khi tôi định khai chi tiết. Vì thề, tôi cũng nói lướt đi. Thấy tôi ngừng, tên Thành nhắc:

- Tiếp tục!

Tôi nói tiếp:

- Tôi ra tới Rỏn, rồi không có xe, tôi phải đi bộ từ Rỏn ra tới Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Trên đường đi tôi gặp một anh tên là Trí (tôi phải nói rõ chỗ này, vì chúng nó đã biết tôi trở vào Vinh đến ngủ nhà Trí), từ Hà Tĩnh đi Vinh, rồi đi Hà Nội. Ngày 31 ra tới Hà Nội, ngủ nhà trọ số 5 Hàng Dầu, rồi Hàng Quạt v.v…

Tôi nhất nhất thuật lại. Tôi chỉ nói rõ có vào nhà thương Việt Đức có một lần (mà chúng đã biết), còn lại, đi chỗ nào, nơi nào, tôi kể hết cho tới khi bị bắt.

Dù chúng giục tôi nói nhanh những điểm chính thôi, thế mà lúc chúng bảo tôi về nghỉ cũng đã 12 giờ rưỡi trưa rồi. Tên Đức ra ngoài, lát sau, một mụ cảnh sát đeo quân hàm Trung sĩ đến, ra hiệu tay bảo theo mụ. Đi qua khu nữ, tôi thấy mấy người tù nữ chạy ra đon đả với mụ:

- Báo cáo bà Hoa, cái túi của bà chúng cháu đã khâu xong rồi ạ.

Mụ gật đầu:

- Được rồi!

Mụ Hoa nói tiếng miền Nam, chắc là loại cán bộ tập kết. Mụ dẫn tôi vào cổng xà lim, tay mụ xách chùm chìa khóa, đến buồng tôi mụ mở cửa. Lúc đó đã gần 1 giờ, nên cán bộ trực xà lim đã về. Khi mụ đóng cửa, tôi nhìn thấy bát cơm ai đã để sẵn trên sàn.

Hôm nay, tôi ăn được 2/3 bát cơm và hết bát canh rau lá cải già. Trong gáo còn tí nước hôm qua, đành uống đỡ. Xong, mệt quá, tôi nằm ngả lưng một tí. Từ lúc về, ăn cơm cho tới bây giờ, tôi cứ băn khoăn. Tại sao chúng bắt tôi khai nhanh như thế để làm gì? Chúng không cần chi tiết ư? Tôi suy đoán lung tung, rối cả óc. Nhưng, có một điều là tôi phải nhớ hết những gì đã khai.

Vừa nằm được vài phút, đã lại thấy mở cửa. Tên mắt ốc nhồi bảo tôi đi cung. Khi tới phòng hỏi cung lúc sáng, tôi đã thấy tên Thành và tên Đức ngồi đấy, cũng với cái cặp hồ sơ dầy cộm trên bàn.

Tên Thành chỉ chiếc ghế đẩu trước bàn bảo tôi ngồi. Tên Đức giở hồ sơ:

- Bây giờ, anh khai lại chi tiết từ nhỏ theo chúng tôi hỏi.

Hết tên này hỏi lại đến tên kia, nhất là chỗ nào chúng chưa rõ, chỗ nào chúng cho là không hợp lý. Lần này thì chúng hỏi quá chi tiết, cả những việc tôi nghĩ không cần thiết như chơi đùa, bạn với ai, tính bố, tính mẹ, tính thầy giáo v.v…; từ lúc tôi còn 6,7 tuổi trở đi… Ngược lại, lần này, nhiều chỗ tôi lướt đi thì chúng lại hỏi kỹ.

Tới 5 giờ chiều, tên Đức đọc lại cho tôi nghe và bắt tôi ký. Chúng cho tôi về, 6 giờ lại gọi lên, tiếp tục cho tới 9 giờ tối. Ngày nào cũng 3 buổi, tôi mệt rã rời. Chỗ chân tôi vết thuơng lại làm mủ rất đau nhức, chả có thuốc gì ngoài thuốc đỏ.

Cứ liên tục đi cung ngày ba buổi, cả thứ Bảy, Chủ Nhật, 16 ngày liền, tôi mới chỉ khai được tới chỗ tôi bị bắt. Lúc đó đã sang giữa tháng 7/1962, tôi bị bắt vào ngày 24 tháng 6, như thế tôi đã ở trong xà lim hơn 20 ngày rồi. Người tôi đã gầy hẳn đi, dù rằng bây giờ, tôi đã ăn hết cơm, và còn vẫn đói. Điều chính là vì xà lim thật nóng và nhiều muỗi. Suốt đêm, tôi phải cởi trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại. Cái sàn nhớp nháp trắng cả ra vì mồ hôi của tôi. Mồ hôi tôi đêm nào cũng chảy ướt hết cạp quần, thế mà vẫn phải lấy áo đắp vì muỗi. Suốt đêm, giấc ngủ không yên, chỉ có cái áo vừa khua muỗi vừa đắp; lại còn đầu óc căng thẳng vì cung kẹo hàng ngày.

Một hôm, tôi đi cung về, tên Nhiễm Hạ sĩ coi xà lim mở cửa buồng rồi nói:

- Anh có gì trong này mang hết đi!

Tôi có quái gỉ ngoài một bộ quần áo sọc cũ, chiếc khăn mặt và cái lược sừng con. Tôi ôm đồ ra. Dẫn tôi đến buồng số 5, y mở cửa, vào phòng tôi thấy trong đó đã có một ngưòi, chừng 45 tuổi, trần trùng trục, mặc mỗi cái quần đùi đen. Khi lão Nhiễm đóng cửa, tôi quay lại nhìn người đàn ông, ông ta cũng chột một mắt như Phan Thanh Vân. Ông hỏi tôi thân mật:

- Anh bị bắt vào lâu chưa?

Tôi cũng tình cảm:

- Hơn 20 ngày rồi, còn Bác?

Ông chậm rãi:

- Gần 2 tháng.

Tôi tiếp tục:

- Bác bị bắt vì tội gì?

- Vượt tuyến vào Nam. Còn anh?

- Vượt tuyến ra Bắc…

Cả hai cùng cười, tôi hỏi nhạt:

- Thế mà gặp nhau ở một điểm!

Nhìn cái túi vải to ở đầu sàn ông ta, tôi nhẹ nhàng hỏi:

- Bác ở đâu?

Ông ta có vẻ thận trọng:

- Chợ Mơ!…

Giữa lúc đó cửa buồng mở. Giờ lấy cơm. Cái gáo dừa của tôi lần này bé quá, chỉ bằng 2/3 cái trước. Tôi không có đũa, phải xin lão Nhiễm cho tôi lấy đôi đũa ở đầu cùm buống số 6 cũ của tôi.

Tôi được biết tên ông chột mắt là Hoàn, Lê Văn Hoàn. Sau khi cửa buồng đóng, mỗi người một sàn, đều để bát cơm lên cái cùm ngồi ăn.

Tôi thấy ông ta giở túi lấy ra một gói bánh mì khô đã cắt thành từng miếng nhỏ. Ông ta lấy hai miếng để ăn thêm với cơm. Chỉ có 2 người một xà lim, cho nên đương nhiên phải nói chuyện. Phần tôi, do phản xạ nghiệp vụ nên luôn luôn cảnh giác. Nếu là khổ nhục kế hay các thủ đoạn moi tin thì đừng hòng!

Tôi tự đặt cho mình một nguyên tắc là dù tù giả hay tù thật, tôi cũng không bao giờ nói những gì tôi không khai với chấp pháp. Tôi cũng phải xác minh xem ông Hoàn này là tù thực hay tù giả.

Qua những câu chuyện trao đổi, tôi được biết. Ông Hoàn là cán bộ lưu dụng, y sĩ thú y, quen biết nhiều người trong chế độ cũ đã đi di cư vào Nam. Ông có bằng trung học trước đây, nên Pháp văn cũng khá. Ông có vợ con và nhà ở vùng chợ Mơ, ngoại thành Hà Nội. Vì cách đối xử phân biệt kỳ thị cán bộ trong ngành nên ông buồn, công tác tiêu cực, nên cuối cùng bị cho về vườn. Ông cố gắng chịu đựng cảnh túng nghèo, nhưng cuộc sống càng ngày càng bế tắc. Ông nghĩ tới những bạn bè đã đi vào Nam, rồi từ đó đưa đến ý tưởng vượt tuyến. Tư tưởng ra đi cứ nhen nhúm âm ỉ cho tới một ngày, ông gặp lại một người bạn học cũ, cũng đang sống lất lây ở Hải Phòng lên chơi. Hai người đã tâm sự luận bàn suốt cả đêm, rồi sau đó đã hoạch định một cuộc vượt tuyến vào Nam. Đến ngày đi, vì tình cảm bịn rịn vợ con, ông đã ăn một bữa cơm từ biệt và dặn dò vợ con. Đứa con trai út 10 tuổi của ông đã vô tình nói với bạn nó. Từ đấy, công an biết và theo dõi. Hai ông đi đến Thanh Hóa thì bị bắt.

Nghe ông kể lại chuyện của ông, tôi chả đặt vấn đề là tin hay không tin gì cả. Cứ như là nghe cho biết vậy thôi. Phần tôi, tôi cứ thực hiện nguyên tắc đã tự đặt cho mình. Nghĩa là, tôi cũng kể sơ cho ông nghe (những điều tôi đã khai với chấp pháp) là tôi ra Bắc có nhiệm vụ về quân sự. Vì có thiện cảm với xã hội chủ nghĩa, nên tôi chẳng muốn làm gì, chỉ thích đi chơi, đi lang thang khắp Hà Nội…

Rồi tương kế, tựu kế, giả như ông ta là người của Cộng Sản làm khổ nhục kế để moi tin, thì qua ông, tôi đã “vờ” thổ lộ được những tâm sự “rất thành khẩn”. Nào là: Xã hội chủ nghĩa thật công bằng, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo như trong Nam. Bác Hồ sống thật giản dị, uy tín của bác thật lớn. Trong tự điển Anh và Pháp cũng thấy nói đến tên bác. Các nhà văn, nhà thơ ít vào miền Nam, hầu hết đều ở miền Bắc, theo kháng chiến. Như vậy, chế độ miền Bắc là chính nghĩa, v.v…

Để biết rõ ông Hoàn này là thực hay giả, nên trong những ngày chung đụng chuyện trò, một lần tôi giả vờ “vô tình” tiết lộ một điều mà tôi chưa hề khai với chấp pháp: Đó là chuyện hồi 1954, tôi được đón vào Bình Xuyên theo Trung úy Nghĩa.

Còn đối với chấp pháp, qua cách hỏi cung của họ, tôi nắm được một cách chắc chắn là họ không biết gì về tôi cả. Vì thế, họ lần mò từ những sự kiện nhỏ nhặt, những mâu thuẫn, câu nói, những sơ hở… của tôi, để từ đấy hòng phanh phui để biết cái thực về tôi.

Điều quan trọng đối với tôi là phải nhớ những điều gì mình đã khai ra, và những điều gì mình chưa hề khai, sao cho hợp lý. Nhiều khi phải vờ quên một sự việc này để che lấp một sự việc kia; hoặc làm ra vẻ ngây thơ non dại để dùng một sự kiện kia làm sáng tỏ sự việc này v.v… Nói chung, đây chính là một cuộc đấu tranh bằng mưu mô, thủ đoạn, giữa một bên là một mình tôi và bên kia là cả một tập thể phòng 44, phòng chấp pháp chính trị của Hà Nội. Cho nên, đầu óc tôi luôn luôn căng thẳng. Những lần đi cung, tôi cũng mắc phải nhiều sai lầm. Có những sai lầm trầm trọng.

Trong cuộc đấu trí này, tôi bị yếu thế về nhiều mặt như: Tôi hoàn toàn bị động, họ chủ động mọi mặt. Tôi chỉ như một con chim ở trong lồng, họ có đủ mọi ưu thế của một người cho ăn, hay để cho chết đói hoặc khát. Họ có đủ kiểu cách để biết chỗ yếu của con chim ở trong lồng kia để từ đó, chỉ huy con chim theo ý người. Vả lại, tuổi đời tôi vẫn còn trẻ, vẫn còn bồng bột ngây thơ, chưa hiểu biết mọi mặt của cuộc đời; Tuổi “nghiệp vụ” cũng chưa được bao nhiêu, vẫn còn ấu trĩ và chưa hiểu đủ về Cộng Sản.

Tôi cố suy nghĩ, tìm ra những cái ưu của mình và tăng cường phát huy tối đa để phần nào xóa bớt những cái nhược trên. Tôi phải tỉnh táo sáng suốt, nhìn rõ mọi sự việc để đối ứng; kiên trì chịu đựng đau thương gian khổ; nâng cao ý chí căm thù giặc cộng. Lấy ý thức Thiên Chúa Giáo và lý tưởng tự do làm cứu cánh.

Sau những ngày tôi phải khai báo chi tiết toàn bộ, một hôm, gần cuối tháng 7 (1962), chúng gọi tôi lên. Lần này, chỉ có tên Đức và một tên cảnh sát lạ mặt đội mũ cối cùng ngồi trong phòng với hắn. Tên Đức chỉ tôi ngồi, rồi nói:

- Bây giờ, chúng tôi yêu cầu anh, mỗi ngày hai buổi lên đây. Anh sẽ ngồi viết bản tự khai chi tiết về toàn bộ cuộc đời anh: Ở nhà quê đi học thế nào? Ra Hà Nội, làm gì, với ai và ở đâu? Vì sao vào Nam, làm gì? v.v…Tất cả mọi vấn đề cho tới lúc đi lính, vào tình báo, rồi ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm những cái gì? Đi những đâu? Tiếp xúc với những ai? Cho tới khi bị bắt…

Hắn cao giọng:

- Anh sống hay chết, buồn hay vui của đời anh bây giờ là bản viết này đây. Vậy, phải cố gắng để hưởng lượng khoan hồng, của đảng và nhà nước. Đảng và nhà nước đang mở cửa chờ anh. Anh có toàn quyền viết khác hẳn những lời, những việc đã khai báo trước đây, hoặc những chỗ khi khai báo đã lú lẫn quên đi. Hàng ngày sẽ có một đồng chí cảnh sát ngồi đây với anh. Có yêu cầu gì về giấy bút, hoặc xin đi vệ sinh, phải báo cáo với đồng chí cảnh sát, đồng chí đó sẽ giải quyết. Thái độ viết phải khẩn trương, nhưng không hạn chế thời gian.

Tôi luôn miệng vâng dạ, tỏ ra rất ngoan ngoãn dễ bảo. Từ đó, cứ ngày hai buổi: Sáng từ 8 giờ, mụ Hoa hoặc tên mắt ốc nhồi (sau tôi biết tên hắn là Bằng), đôi khi một mụ khác tên là Thơ, Trung sĩ coi khu nữ vào dẫn tôi đi, cũng như dẫn về. 12 giờ trưa về, 1 giờ lại đi và chiều 5 giờ về. Ngày 8 tiếng, Chủ Nhật nghỉ.

Thời gian viết này, tuy tôi có vẻ thoải mái hơn trước, nhưng đầu óc cũng không kém suy nghĩ, tính toán. Tôi phải vừa cân nhắc viết gì cho hợp với những điều đã nói, để choáng những sự việc và những thời gian tôi cần giấu, vừa phải ghi nhớ những điều mình đã viết ra và những điều mình đã nói trước đó. Hàng đêm, tôi cứ phải nhẩm lại những điều mình đã viết lúc ban ngày.

Chân tôi gần một tháng mới khỏi. Cũng chính tôi đã lợi dụng tên Hoàn ở cùng phòng, giúp về việc chữa chạy cái chân đau này. Qua một số những thử thách, tôi chắc đến 80% y là loại khổ nhục kế vào nằm với tôi để móc tin, vì thế, khi chân tôi mưng mủ làm đau nhức, đêm đêm, tôi cứ than van tâm sự với lão:

- Bác ạ, nhiều lúc cháu đang suy nghĩ để viết ra hết những điều họ huấn luyện cháu, hoặc những thủ đoạn mưu mô họ giảng dậy cho cháu, nhưng cái chân lại đau nhức không thể chịu được, làm ảnh hưởng đến cái đầu, khiến cháu quên tiệt.

Mấy ngày sau đó, y bảo tôi đứng ở cửa sổ nhỏ cứ báo cáo ầm lên là cần y tá. Tôi làm theo và được lão cán bộ Nhiễm, đưa bà Dậu y tá vào tiêm cho một phát và cho thuốc rắc vào vết thuơng. Dăm ngày sau, chân tôi khỏi.

Lão Hoàn, cứ mươi ngày hoặc một tuần lễ lại có chuối ăn. Y ra vẻ tâm sự:

- Con bé cháu là giáo viên, quen một anh công an ở đây, nên được đặc biệt tiếp tế một tháng hai lần.

Tuy chưa kết luận hoàn toàn, nhưng tôi đoán là sớm muộn lão Hoàn cũng đi chỗ khác. Bởi vì, những điều hắn biết chẳng thể hơn được, những điều chấp pháp biết về tôi; nhiều chỗ còn không biết bằng. Một hôm, đầu tháng 8, một việc làm không hợp lý của lão càng lộ rõ hơn. Lúc đó, khoảng 6 giờ chiều, tôi đi cung về chừng hơn một tiếng, lão ra đứng chỗ cửa sổ nhỏ, chõ mồm ra ngoài gọi:

- Số 6! Số 6! Có khỏe không? (tức buồng số 6 bên cạnh).

Lão mới gọi được 2 tiếng, cửa nhỏ xoạch mở. Lão Hoàn lùi lại, lão Nhiễm chỉ tay vào buồng:

- Ai vừa gọi? Hai anh, anh nào?

Tất nhiên, phải có người nhận. Lão Hoàn có vẻ rụt rè:

- Thưa ông… tôi…

Cửa lớn mở, cùm rút ra và Nhiễm quát:

- Bỏ chân vào! Anh dám liên lạc với buồng bên cạnh à!?

Hoàn cố nằn nì:

- Xin cán bộ tha cho!

Lão Nhiễm nghiêm mặt:

- Bỏ ngay chân vào!

Hoàn từ từ bỏ một chân vào cùm. Khi xập cái cùm xuống, lão Hoàn cố ý đẩy cái chân lên quá sâu, để cái cùm lên tới ngang bắp chân, nên lỗ cùm không vừa. Mồm lão kêu tía lia:

- Thưa cán bộ, không vừa, đè xuống gẫy chân tôi mất!

Thời Pháp làm cùm này là cùm đúc, họ đã tính hết các cỡ chân, thế mà lão Nhiễm loay hoay mãi không cùm được (?), lão quát:

- Ôm quần áo theo tôi!

Lão Hoàn luýnh quýnh vơ cái túi, khăn mặt, v.v… Lại vờ ôm theo cả cái gáo, khi Nhiễm hất tay lão, bảo bỏ lại, y mới nghe theo.

Cửa đóng, tôi chỉ còn một mình. Tốt quá, được cái gáo to một chút, đỡ khổ!

Thật là buồn cười và nhạt nhẽo. Gần một tháng ở chung buồng với tôi, lão Hoàn tỏ ra là một người trầm tĩnh, với tuổi đời đã 46. Tại sao, bữa nay lại có cái hành động trẻ con nhố nhăng như vậy? Đến tôi còn chưa làm thế huống chi lão. Gọi buồng bên cạnh bâng quơ để giải quyết cái gì, trong khi nội quy nghiêm ngặt rõ ràng. Từ đấy, tôi chẳng bao giờ thấy Hoàn nữa.

Có thể trước đó, bọn Cộng Sản tính rằng, tên Hoàn và tôi gặp nhau là hợp. Một người trí thức, hiểu biết, không thích Cộng Sản trốn vào Nam; một người hoạt động cho miền Nam, lại ở miền Nam ra, gặp nhau, hợp quá rồi còn gì nữa!

Lão tìm hiểu về miền Nam là hợp lý. Tôi trả lời rất nhiều chuyện, nhưng chuyện nào cũng tỏ ra chê bai, nghĩa là tìm những mặt xấu để phê phán về chế độ miền Nam. Chúng định, qua lão Hoàn này, sẽ khai thác được cả về mặt tư tưởng lẫn sự việc của tôi. Đừng hòng! Nếu lão cứ theo những lời tâm sự của tôi để báo cáo, thì tôi là người yêu xã hội chủ nghĩa quá xá rồi còn gì!
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 12 Mar 2010

Tập I - Chương 26

Vẫn Trò Cân Não
Trong Sự Sống Chết Tù Đày …


Dạo này, trời chuyển sang Thu, không khí trở lên dễ chịu. Tôi đỡ khổ với cái nóng, cái hôi hám của cơ thể, nhưng muỗi thì vẫn hành tôi. Dù đêm nào tôi cũng phải chập chờn đập, đuổi muỗi, nhưng tay, chân và những chỗ hở quần áo không che được trên người tôi, luôn luôn có vết muỗi đốt mới. Vết cũ mờ dần, còn mặt vì không có gương, tôi chả làm sao nhìn ra được.

Tôi viết khoảng 26, 27 ngày thì xong. Được gần 90 trang giấy. Hai ngày sau khi viết xong, tôi lại bị gọi lên cung.

Hôm nay có Đức và một người lạ, sau này tôi được biết tên y là Nhuận, da đen đen chừng hơn 30 tuổi. Ngay sau khi vừa bước chân vào phòng, thái độ của họ nhìn tôi như kẻ thù. Tôi chỉ biết ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước bàn chúng như mọi khi, cúi đầu, chờ đợi. Tên Đức đập mạnh tập giấy tôi viết xuống bàn.

- Anh viết thế này à!? Anh coi công an là trò đùa với anh đấy à?

Tên Nhuận đập bàn đánh rầm một tiếng, quát:

- Anh muốn sống hay muốn chết? Với cái trò trẻ con này, anh muốn qua mặt công an ư? Chúng tôi tỏ lượng khoan hồng cho phép anh ngồi viết, anh viết láo thế này à?

Chúng nó đập bàn xô ghế, quát tháo, nạt nộ, xỉ vả ầm ầm. Tôi cứ lặng lẽ ngồi yên cúi đầu, mặc cho chúng nổi trận lôi đình. Mãi tới khi chúng quát:

- Anh câm à? Trả lời đi!

Tôi ngửng đầu lên nhìn chúng với ánh mắt sợ sệt buồn khổ:

- Thưa các ông, tôi chỉ biết thành thật viết hết những điều chính về cuộc đời tôi, và tất cả những cái gì Mỹ Diệm đã huấn luyện tôi, cũng như những việc tôi đã làm khi ra ngoài Bắc…

Tên Đức đập tập giấy tôi viết xuống bàn, trước mặt tôi:

- Anh tuởng anh ở trong Nam, chúng tôi không biết được anh à? Anh ra ngoài Bắc làm gì, đi những đâu, chúng tôi biết từ lúc anh chuẩn bị ra đây cơ. Nhiệm vụ anh ra ngoài Bắc, anh khai hoàn toàn láo toét hết.

Tôi tỏ thái độ thành khẩn:

- Thưa các ông, tôi hiểu cách mạng lắm. Ngay ở trong Nam, các ông không thiếu gì người nằm trong chính quyền. Tôi tin rằng, ngay trong cơ quan tình báo của miền Nam cũng có người của các ông, vì thế tôi đã rất thành thực khai báo sự thật. Hơn nữa, tôi cũng chẳng thích chế độ Mỹ Diệm, nên khi ra tới Hà Nội, tôi đã chẳng làm gì cho chúng cả, tôi chỉ đi chơi thôi…

Tên Nhuận chỉ vào mặt tôi:

- Anh câm cái miệng anh lại, đừng bịp chúng tôi. Ngay từ khi anh di cư vào miền Nam, cách mạng đã biết anh rồi! Anh làm cái gì, ở đâu, giao thiệp với những ai. Anh tưởng, anh che giấu được à? Tôi hỏi anh có biết tên Nghĩa không?

Tôi vờ mở to mắt ngạc nhiên:

- Có phải Nghĩa ở trại sinh di cư Phú Thọ, học đệ tứ Chu Văn An phải không ạ?

Nó đập bàn gắt:

- Đừng vờ vịt. Thằng Nghĩa Trung Úy Bình Xuyên, anh có biết không?

Tôi vờ tái mặt, giật mình sợ sệt:

- Dạ có!…

Trong lòng tôi thầm nghĩ, thì ra là thằng già Lê Văn Hoàn chó chết đây mà. Tao đã biết trước, và bây giờ thì kết luận về mày được rồi đây! Tên Đức hí hửng ra mặt:

- Đấy, anh giấu chúng tôi sao được! Còn bao nhiêu việc khác nữa. Tôi cho phép anh khai báo lại. Không thì anh sẽ biết, anh sẽ chết một cách khốn nạn, đau đớn!

Tôi tỏ ra rất hoang mang, sợ sệt, nét mặt ủ rũ như cố nhớ lại một điều gì, rồi như chợt nhớ ra, tươi lên:

- Thưa các ông, tôi không ngờ các ông lại biết rõ thế. Thực sự trước đây, tôi thấy không cần nói đến tên Nghĩa ở Bình Xuyên. Bởi vì trước đây tôi vào Bình Xuyên chỉ có mươi ngày, mà lại là do tính trẻ con tò mò của mình, không liên quan gì đến chính quyền Ngô Đình Diệm, nên tôi đã không nói. Vừa qua, tôi đã rất thành khẩn khai báo, tôi cứ lo âu không biết cách mạng có hiểu rõ cho sự thành khẩn của tôi không. Nhưng, thế này, tôi rất mừng, cách mạng đã hiểu hết tôi không lo gì nữa.

Chúng nó nhìn đăm đăm, nét mặt cau cau lại, miệng nhếch mép cười:

- Anh đừng già họng nữa, nghe tôi hỏi đây…

Chúng giở tập tôi viết và tập hồ sơ của chúng. Thằng thì hỏi:

- Thời gian ở trại định cư Hà Nội Hố Nai, anh quan hệ với linh mục Loan, trưởng trại thế nào???

Thằng thì hỏi:

- Tên Hòa là người Bắc hay Nam? Anh hãy tả lại người nó tôi xem? Nó hay mặc quần áo gì?…

Trả lời câu này, tôi cứ hình dung ra bóng dáng của ông cậu tôi hiện đang sống ở Pháp để tả.

Lúc thì tên này hỏi:

- Anh ở đoàn võ Đinh Bộ Lĩnh thường đi với ai?

Lúc thì tên kia cật vấn:

- Năm anh học Đệ Nhị, trường Hưng Đạo, Cống Quỳnh, những giáo viên nào dậy anh?

Chúng nó hỏi lung tung. Đầu óc tôi quá mệt mỏi. 12 giờ trở về xà lim, người tôi đờ đẫn. 1 giờ chiều lại tiếp tục, 5 giờ về, 6 giờ lại đi đến 9 giờ tối. Cứ như vậy kéo dài hơn một tháng trời. Có hôm 3 thằng hỏi, quát nạt, đe dọa; thậm chí có một vài ngày đến 4 thằng thay phiên hỏi, truy. Ban ngày, tụi công an hành hạ. Ban đêm, muỗi đua nhau hút máu.

Chỉ có một thời gian ngắn, chân tay tôi đã khẳng khiu, xanh tái. Hơn nữa, tôi càng ngày càng thấy đói nhiều, dần dần mỗi ngày mỗi thiếu. Cơ thể tôi còn chút nào dự trữ, chắc đã bóc ra hết. Tôi nhớ lại, từ lúc mới vào, tuần đầu ăn không hết suất cơm. Hai tuần sau, chén ngon lành. Bây giờ, tôi ước gì được 2 suất ăn cho no một bữa, nhưng không có.

Ngày nào cũng vậy, dù đầu óc căng thẳng vì cung kẹo, nhưng khi về buồng, thấy bát cơm là vồ vập ăn ngay, vừa mới ăn đã hết rồi. Bát cơm không còn một mẩu hạt cơm dính, canh húp đến khô cả bát, thế mà mồm vẫn còn thòm thèm, mắt còn nhớn nhác tiếc rẻ nhìn hai cái bát đã sạch trơn.

Mỗi lần ngồi xuống đứng lên, tôi đã mắt hoa đầu váng. Thế mà những con muỗi ác ôn, đêm đêm vẫn cứ rủ nhau hút máu của tôi mãi. Hình như chúng toa rập với lũ cộng dã man, để hành hạ tấm thân chỉ còn xương với da của tôi tới chết. Móng tay, móng chân của tôi dài ra, tôi cũng chưa biết làm sao cắt được. Trong những lần đi cung, trên đường đi, một hôm tôi bất chợt thoáng thấy một cái đinh dài chừng 4 phân. Hai ba lần tôi định nhặt, nhưng chưa có thời cơ nào thuận tiện. Rồi một bữa, mụ Hoa dẫn tôi về ngang qua đấy, may quá có một cô tù chạy ra báo cáo gì với mụ. Tôi ngồi xuống, lẹ tay vớt một cái. Thế là được rồi. Những buổi sau đó, tôi ngồi mài mãi đinh xuống sàn xi măng. Mài vài buổi, giờ tôi đã có một con dao nhỏ xíu, nhưng đủ để giải quyết những cái móng tay móng chân, đôi khi còn… ngoáy tai nữa.

Bất ngờ một hôm, cửa sổ nhỏ xịch mở, tôi đang ngồi cắt móng tay, không giấu kịp. Thế là tên Nhiễm quát, bắt đưa cho y. Sau đó, y mới mở cửa lớn. Tên này thật tinh quái, y sợ rằng trong lúc loay hoay mở cửa lớn, tôi có thể ném cái đinh vào một góc buồng rồi chối biến đi, nên y đã bắt tôi đưa cái đinh rồi mới mở cửa. Y vào lục lọi khám xét hết cả người tôi. Mọi xó xỉnh, kể cả kẽ cùm, không có gì nữa, y ra và đóng cửa lại. Chừng 30 phút sau, tôi nghe tiếng dép trở lại, rồi động ở đầu cùm, và chốt cùm rút ra kêu cái xoạch. Tôi hết hồn. Cửa lớn mở, y vào cầm theo tờ giấy, đọc:

- Lệnh của ban giám thị kỷ luật: Tên Đặng Chí Bình phạt 7 ngày cùm hai chân. Kể từ ngày… đến ngày… vì đã đưa kim khí vào buồng xà lim.

Tên Nhiễm nhìn tôi, ra lệnh:

- Anh hãy chấp hành lệnh kỷ luật.

Tôi thật buồn khổ, biết có xin cũng chả được, đành phải nhấc hai cẳng cho vào cùm. Trong lòng rất hận tên Nhiễm chó chết này. Thế là lại hai chân trong cùm. Đêm hôm đó thật là cay đắng cuộc đời. Hai đầu gối mỏi dừ, muốn co người lại, phải lựa thế từ từ tụt người xuống chỗ cùm một lúc, rồi lại từ từ lựa để lết người lên. Bởi vì cạnh cái cùm rất sắc. Cũng may, kỳ này tôi gầy đét nên hai chân trong lỗ cùm cũng lỏng. Thế nhưng ban đêm, lúc mệt quá thiếp đi, trong khi mê ngủ, quen như mọi bữa mỏi chân thì co mạnh lên, lại bị trầy da chảy máu. Ngồi nhìn máu chân chảy ra trong đêm khuya vắng lặng dưới ánh đèn điện một mình, lại chẳng có gì để rịt, tôi chỉ biết lấy ngón tay quệt; lại chảy, lại quệt…Ôi, thân phận lao tù! Sao giữa loài người với nhau mà tàn ác với nhau như thế này!

Có tiếng rên văng vẳng đâu đây, ở một buồng nào đó? Thỉnh thoảng một tiếng rúc dài chặc… chặc… chặc… của một con mối, ngoáy vào trong đêm trường nghe như lời than vãn xót thương, cho những kiếp người cùng khổ! Tôi cứ ngồi như thế mãi trong đêm thâu, một tay đuổi muỗi, và một tay thỉnh thoảng lại quệt giòng máu vẫn rỉ ra. Máu tôi bây giờ, quá loãng không đông lại được. Bụng róc rách cồn cào, chẳng hiểu trong bụng tôi có con giun nào không? Nếu có, chú mày phen này cũng phải nằm liệt! Một sự an ủi tương đồng chợt nhú lên trong óc tôi. Tôi đói, một sinh vật nữa (biết đâu lại vài con thì sao) cũng đang không nằm yên được, cũng dẫy dụa… thèm ăn như tôi. Chẳng đâu xa, ở ngay trong tôi. Tôi đang miên man trong rừng sầu, chợt cửa nhỏ mở, tối mò không trông rõ là bộ mặt ai:

- Sao không ngủ, ngồi làm gì?

Cũng tiếng hỏi như mọi khi, nhưng hôm nay như ẩn tàng một niềm xót xa giữa người với người. Tôi dịu giọng chỉ vào chân:

- Chân tôi bị cạnh cùm làm chảy máu, nó không cầm!

Một lúc, tôi nghe tiếng:

- Rịt chỗ thuốc này vào.

Một ngón tay thò vào, trên đầu ngón có ít thuốc lào. Tôi xố xoay người tìm thế với tay ra. Một bàn tay run rẩy chơi vơi, vì cạnh cùm nghiến vào chân, đang cố dướn tới. Một ngón tay ráng sức thò vào, chỉ cách nhau có 2 phân. Hai bên cùng cố, tôi gắng liều, dù chân có bị cứa ở chỗ khác nữa. Rồi cuối cùng cũng được. Tôi xoay thế để ngồi lại, rịt chỗ thuốc lào đó vào chỗ đang rỉ máu. Cửa nhỏ đóng lại. Tiếng dép trong đêm dài xa dần.

Một người nào đó có trách nhiệm đi tuần đêm? Như vậy, dưới đáy con tim của người này vẫn còn một chút chất người! Một niềm tin tưởng dậy lên trong tôi: Cộng sản không thể nhuộm đỏ hết được tâm hồn mọi người.

Sáng hôm sau vẫn đi cung. Phải nói là lúc này tôi sợ đi cung quá rồi. Tôi chỉ muốn được nằm yên, nhưng bây giờ, đi cung thì tuy bị chưởi bới, nhiếc móc, nhưng cái chân lại được nghỉ. Cho nên, giữa hai cái cùng khổ cả, tôi phải thích cái khổ ít hơn vậy.

Vào buồng hỏi cung, cũng tên Nhuận da chì và tên Đức. Tôi không thể ngờ chúng lại truy kỹ như vậy. Nhiều lúc tôi cũng không biết trả lời sao, dù việc đó là sự thật. Thí dụ, một lần nó hỏi:

- Anh nói anh vào nhà thờ “X”, vậy anh gặp những ai?

- Tôi chỉ thấy mấy ông bà già…

- Vào để làm gì?

- Tôi là người Công giáo. Vì hoàn cảnh bắt buộc phải ra Bắc. Tôi sống chơ vơ, heo hút lang thang một mình, chả biết ngày mai ra sao nên tôi tìm vào bất cứ một nhà thờ nào có linh mục để xưng tội. Lỡ có sao, thì mình chết vô tội…

Tên Đức đập tay vào bàn nghe cái “thình”, rồi y đứng sổ dậy sừng sộ:

- Anh nói láo thế à! Anh định bịp chúng tôi à! Anh đã lợi dụng xưng tội để nói gì với linh mục đó, chúng tôi đã biết hết, biết hết! Anh hãy khai ra đi để chúng tôi thấy được tư tưởng của anh với linh mục đó! Chúng tôi đã ghi âm cả…

Tôi thót tim, lo lắng, chúng nó đã biết hết rồi chăng? Nhưng, tôi chợt nhớ và suy lý, nếu chúng biết sao chúng không hỏi một tí gì về việc tôi trao thư tay cho linh mục? Để thăm dò, tôi vờ ngờ ngác trả lời:

- Tôi chẳng hề biết linh mục đó là ai. Tôi cũng chả để ý nhìn người, thế thì tôi nói chuyện cái gì?

Chúng cứ khẳng quyết là tôi đã nói gì với linh mục đó. Rồi không sao được, chúng bắt tôi tường thuật tỉ mỉ chi tiết đã xưng tội những gì… Phần vì, tôi sợ là chúng sẽ lấy lời khai của tôi rồi vào bịp Cha A, khó cho cha trả lời; phần khác, tôi đã nắm được chuyện ghi âm của chúng là chuyện không thực, cho nên tôi mạnh bạo:

- Chuyện xưng tội chỉ là lấy lệ của người Công giáo. Vì thế, tôi không quan tâm nhiều, nên tôi chả nhớ những tội vặt của tôi.

Đến đây, tôi biết là vừa rồi chúng chỉ trộ tôi. Tôi ý thức sẽ lợi về sau, nên tôi cũng không hề nhắc hay đòi nghe cuốn băng ghi âm. Cuối cùng, mãi không được, tên Đức xẵng giọng:

- Lúc trở ra anh gặp ai?

- Tôi chỉ thấy xe cộ và người đi lại…

- Người đi lại đó, ăn mặc thế nào?

- Tôi chẳng để ý nên không biết.

Nó lại đập bàn:

- Mắt anh nhắm hay mở mà nói không biết!?

- Tôi không biết thực, ông cứ bảo tôi biết thì làm sao tôi nói?…

Hoặc nó hỏi:

- Cơ quan tình báo của anh ở đâu?

- Tôi không biết, hàng ngày tên Hòa đến dạy tôi, chứ tôi không biết.

- Anh nói láo! Anh nói thế mà tai anh nghe được à! Đi làm mà không biết cơ quan ở đâu, không biết cơ quan gì!?

- Thưa các ông, thực sự tôi không hề biết. Tôi nhiều khi muốn biết, nhưng trong bài học, ông đã biết đấy, tôi không được hỏi hoặc tìm hiểu những gì không có liên quan.

- Nhà thằng Hòa ở đâu? Nó thường đi với ai? Thường đi xe gì? Ngoài lúc dậy, thường thấy nó đi đâu?

Suốt cuộc đời tôi, chỗ nào chúng cũng truy. Huấn luyện môn gì, từng môn, thời gian đi học, ở nhà quê, Hà Nội, đi lính ở sư đoàn 7… Cứ miên man, chúng dẫn tôi vào mê hồn trận. Hơn nữa bây giờ, đêm lại bị cùm kẹp, chân tôi tê dại, nhiều lúc chúng đang hỏi cung tôi xỉu, chúng phải cho tôi về.

Tôi đã bị cùm chân nửa tháng, mà không thấy chúng tha. Một hôm, tôi hỏi quản giáo xà lim:

- Báo cáo ông, hôm trước ông đọc biên bản kỷ luật 7 ngày. Bây giờ đã 15 ngày đề nghị ông xét!

Nó cười:

- Anh cứ suy nghĩ đi!

Tôi chẳng hiểu:

- Thưa ông, tôi suy nghĩ gì ạ?

- Suy nghĩ gì thì anh biết, đừng hỏi tôi!

Rồi nó đóng xầm cửa khóa lại. Tôi hiểu rằng đây là tại chấp pháp cho lệnh cùm tôi. Chứ đã có lần tôi thoáng nghe, ở buồng bên cạnh có tù bị cùm, một chân, nghe tiếng đọc biên bản một tuần, thì đúng một tuần là tha, người tù đó cũng vi phạm nội quy. Tôi cũng vậy, mà chỉ là cái đinh con, cắt móng tay, nặng lắm là một tuần cùm một chân. Bây giờ lại bị cùm những hai chân, mà 15 ngày rồi. Tôi giận lắm, nhất định phải làm sao cho rõ vụ này. Tính như vậy, nên hôm sau lên cung tôi hỏi:

- Thưa, có phải các ông cho lệnh cùm tôi, vì tôi khai báo không tốt, phải không ạ?

Chúng nó nói:

- Anh hỏi để làm gì?

- Để tôi xác định rõ vấn đề!

- Chúng tôi không biết anh bị cùm. Đây là do bên trại giam. Anh nói để xác định rõ vấn đề gì?

Tôi nhìn thẳng chúng nó:

- Tôi theo và tôi thích xã hội chủ nghĩa nên tôi mới thành khẩn khai báo. Vậy, tôi khai báo đây là do tự nguyện lòng tôi. Nếu như vì tôi sợ cùm kẹp mới khai báo sự thật, sự khai báo đó cũng chẳng tốt gì. Hơn nữa, đối với tôi, như vậy thà chết còn hơn là sự đau khổ làm một thằng hèn.

Chúng nó quắc mắt:

- Chúng tôi nói là chúng tôi không cùm anh. Để chúng tôi hỏi lại bên trại giam xem thế nào.

Cứ thế ngày tháng trôi qua. Cơ thể tôi cũng dần dần tàn lụi. Tôi nghe trong thân thể mình có nhiều triệu chứng lạ. Hai chân tôi gần như mỗi khi đứng lên không vững nữa. Hai mu bàn chân hình như sưng to lên. Những lúc i* đái thật là vất vả đau đớn. Cũng may, hai ba ngày tôi mới đi ngoài một lần, do ăn ít, do không có sức vận động nên thành kiết, táo. Mỗi lần đi ngoài, tôi phải cúi xuống gầm sàn kéo bô ra, mở nắp, đặt sao cho đúng chỗ, rồi tôi lựa thế nằm nghiêng, đưa mông ra ngoài sàn. Cứ nằm thế mà rặn. Đang đi mà mót giải thì ôi thôi, đành để cho nó chảy qua đùi rồi xuống sàn. Ướt cả quần cũng kệ nó. Chân tê dại, đau nhức, người tôi không còn sức để xê dịch, mỏi dừ, rã rượi. Nằm như vậy, vừa đau, vừa mỏi, vì rất khó khăn, mắt nhiều khi hoa lên, quay cuồng. Lắm lần, đi hai ba tiếng đồng hồ nên tôi thường phải đi vào lúc đêm.

Lúc này, cái sống và cái chết gần kề, tôi chẳng còn biết ngượng ngùng bẩn thỉu là gì nữa. Đang nằm i*, có ai mở cửa nhỏ cũng mặc. Đi ra được một hòn phân, có khi cũng chẳng rơi đúng bô, nó văng ra ngoài nền xi măng, cũng để đến mai khi gọi cung, hoặc khi cho đổ, lấy tay nhặt vào. Có cái gì khác nữa đâu, khi đi ngoài xong, cố lựa tay đổ gáo nước, rửa từ từ. Một tay dưới vai lại bị thân mình đè chặt, nên chỉ có mấy ngón tay với lên ngó ngoáy cử động. Nhiều khi nước đổ một chỗ, mà tay lại móc một chỗ khác. Hết cả nước rồi, tay vẫn còn đầy phân, đành cố với tay xuống gầm sàn mà quệt. Đỡ bẩn chút nào hay chút nấy, để còn lựa xoay người lại cho đỡ mỏi tê.

Một đêm, tôi đang mơ màng, bỗng nghe tiếng khè khè ư ử ở buồng bên cạnh, không rõ số 6 hay số 7. Đêm khuya vắng lặng, tôi lắng nghe. Tiếng ư ử tiếp tục, nhiều khi như tắc nghẹn. Tôi đã xác định được tiếng đó từ phòng số 7. Phòng đó cũng bị cùm, mà cùm một chân. Cùm sau tôi chừng 10 ngày, chả biết vì sao.

Tôi suy đoán qua tiếng khò khè: Đó là một người sắp chết vì thắt cổ tự tử. Nhưng, thắt cổ phải có dây, và phải có chỗ treo. Riêng tôi trong nghề biết một cách, chỉ cần chỗ đuôi cùm trên sàn, nghĩa là chỉ cần cao hơn mặt đất 60 phân, là có thể tự tử được rồi, nhưng với điều kiện không bị cùm chân.

Tôi tò mò nghe ngóng. Nỗi niềm của thân mình cũng đang không muốn sống nữa và một người có thể đang đi dần đến chỗ tắt thở làm tôi cứ thức mãi.

Đêm thâu vắng lặng, thậm chí nghe rõ tiếng muỗi vo ve, tiếng khò khè càng ngày càng yếu dần. Các chú mối lâu lâu lại rống lên một hồi dài (hình như không thích ngủ ban đêm). Mải miên man theo giòng lệ tưởng, tiếng khè khè im bặt tự bao giờ không biết. Mãi sau, tôi nghe tiếng xẹp xẹp rất nhẹ đi vào xà lim, rồi tiếng mở một vài cửa nhỏ. Khi mở tới cửa sổ của tôi, tôi vờ nhắm mắt ngủ. Rồi tới buồng số 7. Nghe tiếng chân chạy ra mạnh hơn. Khoảng 15 phút sau, ba bốn người đi vào.

Tiếng chìa khóa, rồi cửa lớn số 7 mở, tiếng mở cùm. Tôi cố lắng nghe:

- Còn sống không?

- Lâu rồi, máu khô rồi!

Rồi nghe thấy như khiêng một người đi qua buồng tôi. Bất chợt, cửa sổ tôi lại mở, tôi nhắm mắt lẹ nằm im, nghe tiếng cửa nhỏ đóng. Một lúc sau, nghe thấy tiếng nước máy chảy mạnh vào bô. Tiếng nước dội và tiếng chổi quét dưới nền bên buồng số 7.

Sáng hôm sau, lúc đi cung, tôi liếc mắt vẫn còn một ít nước màu đỏ sậm, sót ở vỉa hè trước buồng số 7. Như vậy là một người đã may mắn thoát được cảnh khốn cùng này. Xin chúc mừng và ca ngợi sự dũng cảm của bạn. Có thể rồi đây tôi sẽ xin theo vết chân người.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 13 Mar 2010

Tập I - Chương 27

Cố Gắng Để Sống …

Hôm nay ở phòng cung, chúng nó truy hỏi:

- Năm 1953, khi ở Hà Nội về quê, anh phao lên để người ta đồn anh bị điên, tại sao? Có phải tụi đế quốc đã phao tin cho anh như vậy không? Năm 1954, vào Sài Gòn, lại phao tin anh bị chẹt xe chết, như vậy phải chăng do Mỹ Diệm?

Tôi thật là bỡ ngỡ. Nghĩ lại, kỳ hè 1953, tôi về quê chơi, khi đó tôi mới 15 tuổi. Tôi rất yêu cảnh thiên nhiên đồng quê, thích nghe tiếng sáo diều ngân vang, tiếng chày giã gạo, tiếng gà gáy, tiếng chó cắn, tiếng cọt kẹt của tre làng, trong những chiều Hè gió lộng. Tôi thích thở hít mùi hoa bưởi, hoa cau, hoa soan, mùi nồng nồng của phân trâu với rạ ẩm, xen lẫn với mùi thơm ngây ngất của lúa chín vàng, từ ngoài đồng về. Vì thế, cứ mỗi chiều tàn, tôi thường hay lang thang ra cánh đồng rộng một mình. Tụi trẻ con ở nông thôn và cả người lớn làm sao hiểu được tâm tư ấy của tôi. Cụ thể, mỗi khi tôi ở ngoài đồng trở về, chúng vây đến hò hét, có đưa nói là tôi điên. Tôi bực mình đuổi chúng, chúng chạy và nhiều đứa la hò: “Điên chúng mày ơi!” Rồi, họ đồn ầm cả huyện là con ông bà ấy, ra tỉnh vì học nhiều, hoặc thất tình nên điên rồ.

Còn vụ chẹt xe: Khi tôi vào Nam, bà Bảo Thịnh là bà cô của tôi có tiệm bán vàng ở mặt phố, trước cửa chợ Bến Thành. Như đã trình bày ở trên, tôi không ưa những người giầu có nên tôi không đến bà. Rồi một lần tình cờ, bà đọc một tờ báo nào đó, có một người trùng tên, họ với tôi bị chẹt xe, đưa vào đến bệnh viện thì chết. Bà viết thư về Bắc, báo cho bố mẹ tôi, khi đó chưa hết hạn 300 ngày của Hải Phòng. Làm bố mẹ tôi đã điên rồ khóc thương bao ngày. Tôi cũng trả lời y như vậy với chấp pháp.

Chúng không tin và vẫn cứ khẳng quyết là do đế quốc đã chuẩn bị dư luận cho tôi từ khi ấy. Tôi cũng chịu cho cái óc đa nghi của chúng thật là phong phú! Tuy vậy, nhờ đó mà tôi hiểu được một điều là chúng đã về tận quê tôi, để nghiên cứu điều tra kỹ càng về tôi và gia đình bố mẹ tôi. Còn những việc trong Nam, chúng chưa cho tôi thấy là chúng có thể tìm hiểu điều tra được. Dù thế, tôi vẫn thấy chờn sợ, cho sự truy hỏi đào sâu đến tận cùng chi tiết, của từng sự việc của chúng.

Truy đi hỏi lại một sự việc có khi đến 7, 8 lần. Hỏi bây giờ rồi bất chợt 8, 9 tháng hay một năm sau lại hỏi lại.

Tôi đã bị cùm hai chân hơn một tháng. Điều lạ lùng là không ai nhận cùm tôi cả, mà chân tôi vẫn cứ ở trong cùm. Hỏi chấp pháp thì họ bảo do bên trại giam. Hỏi trại giam, thì trại giam lại bảo bên chấp pháp. Một hôm trên đường đi cung về, thấy lão Trì, Trung úy Phó Giám Thị, tôi xông bừa đến:

- Báo cáo ban (tôi gọi theo những người tù), tôi bị cùm hai chân đã lâu mà không biết tội gì, xin ban xét!

Y nhìn tôi một lúc rồi hỏi tên, sau khi tôi nói lên, y bảo: Trại không cùm anh. Do ở trên cùm! Nói rồi lão đi luôn. Tôi chẳng hiểu trên là trên nào.

Trời đã vào cuối Thu, mấy hôm nay thỉnh thoảng đã có những đợt gió mùa Đông Bắc mò về sớm. Trời lạnh thì muỗi ít, nhưng cái cùm và cái sàn xi măng đã bắt đầu hành chân và lưng tôi. Cả đêm, hình như tôi chỉ thiếp đi từng lúc. Một buổi sáng hôm đó khi tên Nhiễm vào mở cửa sổ con, bảo tôi mặc quần áo đi cung. Khi y mở cùm, tôi không nhấc nổi chân ra. Tôi phải đưa tay xuống nhấc từng chân ra khỏi cái cùm. Khi đứng lên, chân tôi rã rượi như mất cảm giác, nên tôi phải ngồi ngay xuống. Mụ Hoa gọi cung đứng đấy, giục tôi đi nhưng tôi không đứng dậy nổi. Tôi đau đớn nhăn nhó, cố gắng chống tay xuống đất để đứng lên, nhưng vẫn không thể đứng được. Tên Nhiễm cau mày, tiến lại lôi tôi ra, tôi ngã nằm xoài, đầu đập vào cánh cửa, choáng váng. Y đỡ tôi ngồi lên sàn rồi đóng cửa lại.

Mụ Hoa đi ra, chừng nửa giờ sau, tên Nhiễm lại mở cửa đi vào, nói:

- Lệnh của Ban giám thị cho anh nghỉ một ngày hôm nay. Ngày mai sẽ cùm một chân!

Tôi cảm ơn rối rít. Tôi nhìn lão, hôm nay trông lão “không có vẻ” ác lắm! Mấy tuần đầu tôi ghét lão cay đắng. Bây giờ, tôi đã hiểu là không phải lão cố ý cùm tôi. Chính do lệnh từ trên xuống, cố tìm cách để có lý do cùm, rồi cùm mãi. Khi mình đã là tù, họ muốn tìm cớ để trị, họ có muôn ngàn cớ.

Cửa đóng lại, tôi nhìn cái chân mình mà lòng thấy sầu khổ. Sống mà cái chân bị hỏng, đời sống thật là khổ nhục. Tôi vẫn nhớ ngày xưa, ở Đại Hội “khỏe” của trường Nguyễn Bá Tòng, tôi đã từng nổi tiếng về điền kinh: Bơi lội, leo dây, nhẩy… Vậy mà giờ đây chân tôi thế này ư? “Hãy nổ lực! Tự mình, chính mình phải cứu lấy mình!”, tôi tự nhủ thầm như vậy. Rồi thực hiện ngay ý định. Đầu tiên, tôi ngồi ngay trên sàn buông thõng hai chân xuống. Mới đầu, tôi phải dùng tay nắm hai chân lắc lắc, sau dần dần chính chân tôi tự lắc. Rồi từ từ hàng giờ sau, tôi đứng được xuống sàn nhà. Tôi chậm chậm đi lại trong cái khung 2 thước vuông ấy. Cứ đi, mệt nghỉ, một lúc lại đi. Bỗng cửa nhỏ mở, lão Nhiễm nhìn tôi tập đi, y mở luôn cửa to, nói:

- Ra lấy cơm!

Tôi với cái gáo, đi ra, không thể đi nhanh, nhưng đi được. Tôi múc gáo nước, cầm bát cơm đi vào. Nhìn mặt y, thấy như thoáng ánh lên một sự cảm thông vì tôi đã nỗ lực để sống. Chắc y đã nghĩ rằng, với cảnh lúc sáng, tôi chưa thể ra lấy cơm được; chứng cớ là y đã phải mở cửa coi trước để nhìn tôi xem thế nào.

Những thực tế tôi đã trải qua trong cuộc sống, đã hình thành trong tôi một quan điểm: “Hãy tin vào chính mình! Hãy nổ lực hết mình với những cái bản thân mình có! Không ỷ lại! Không trông chờ! Dù cho không đạt được kết quả theo ý muốn, ít ra về mặt tinh thần, cũng không phải đến nỗi thẹn thùng nhìn xuống”.

Qua thực tiễn nhiều thời đại của con người. Ở đâu cũng thế! Phương Tây có câu: “Aide toi, et le ciel t’aidera”; Mỹ, Anh cũng có câu: “Heaven helps those who help themselves!”; và Việt Nam chúng ta cũng có câu chuyện về một người nằm há miệng chờ sung rụng. Hãy trèo lên cây. Nếu vì lý do nào đó, không trèo được, phải tìm cách chọc cho quả sung mình muốn, rơi xuống. Nghĩa là, phải ăn những trái sung trên cây theo ý mình; nếu yếu đuối quá, ít ra cũng phải bò dậy mò mẫm nhặt, những quả sung rơi, như thế vẫn còn một chút chủ động, chọn được quả ngon hơn.

Ăn cơm xong, lúc đi ra trả bát, tôi vẫn còn thấy chân mình bì bì, căn cắn, đi lại còn ngượng ngập. Tôi lại vào ngồi sàn kiên trì tập nữa. Tôi phải tranh thủ ngày hôm nay, kẻo ngày mai lại bị cùm rồi. Lúc này, tôi mới thấy buồng khai và thối. Thảo nào, tên Nhiễm lúc buổi sáng, vừa vào buồng đã nhăn mặt lùi ra ngay.

Buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, trả bát, tên Nhiễm rút chốt cùm ra, tôi hiểu đã hết giờ tự do. Tuy trong lòng thắc mắc là y đã nói cho tôi nghỉ một ngày, tôi vẫn tưởng đêm nay còn được tự do nữa chứ. Tuy thế, tôi không muốn hỏi. Nhưng tôi muốn xin đề nghị một chuyện khác. Khi y nhìn tôi, ý bảo tôi cho chân vào, tôi tỏ thái độ lễ phép:

- Thưa ông, buồng của tôi thối quá, xin ông cho tôi tranh thủ 2 phút. Xin ông cho tôi một bô nước, dội cái buồng một cái thôi cho đỡ hôi hám!

Y nhìn tôi với con mắt lừ lừ một lúc, rồi quát: “Mau lên!”

Tôi cố chạy lẹ, dù chân còn tập tễnh, tới chỗ bể nước, mở vội vòi, tráng qua nước giải, rồi lấy đầy bô nước vào đổ trên sàn. Hai tay vội vàng xoa xoa, vét nước xuống nền, lấy chổi thanh hao khua mấy cái, để cho nước chảy ra cái lỗ con ở chỗ chân tường phía đầu nằm. Xong xuôi, tôi ngoan ngoãn vội vàng tự mình nhắc cùm và cho một chân vào trước con mắt gườm gườm của y, trong khi y đang đứng lắc lắc chùm chìa khóa ở tay. Y đóng chốt cùm, rồi đóng cửa, khóa lại. Thế là hết một ngày.

Cùm một chân thật dễ chịu so với hai chân. Không phải chỉ bớt một nửa khó khăn, đau khổ, mà bớt được hai phần ba. Thực thế, với kiểu cùm này, nếu bị cùm hai chân, tôi nghĩ rằng không ai chịu nổi hai tháng. Con người tôi luôn luôn nỗ lực, từ bé nếu không tập võ, tôi cũng tập thể thao, thể dục; vì vậy, trong thời gian bị cùm hai chân, hàng ngày tôi vẫn cố nhúc nhích, cử động với những động tác có thể được, để hai chân và cơ thể lưu thông mạch máu. Thế mà, mới gần 40 ngày, hai chân tôi đã không đứng được nữa. Bây giờ, cùm một chân, tôi có thể xoay người, từ từ ngồi lên cái cùm để gập chân lại, hoặc có thể bước một chân xuống nền buồng để tập thể dục, vận động cơ thể.

Sau khi quản giáo đóng cửa, tôi lấy chiếc quần cũ hơn hì hục lau sàn, vừa khô được cái sàn, vừa đỡ hôi hám. Tôi có thể cúi xuống gầm sàn kéo cái bô ra, đàng hoàng mở nắp thùng đứng tồ, thoải mái. Mọi khi cùm hai chân, dù tôi cố gắng đến mấy cũng đành phải tè ra nhà, vì không dịch được ra mép sàn, đành từ giữa sàn nghiêng nghiêng nằm tè ra. May mắn thì vào bô được một ít, còn thường ra ngoài. Mà ra ngoài thì chính mũi mình ngửi, và khi được mở cùm thì cũng chính mình phải quét dọn. Bây giờ đêm ngủ, khi quá mỏi, tôi vẫn từ từ lựa thế giở mình được, nên thật dễ chịu.

Sáng hôm sau, chưa tới giờ Nhiễm đến, thế mà cửa sổ đã chợt mở. Mặt mụ Hoa, mụ chỉ một ngón tay:

- Mặc quần áo đi cung!

Rồi có tiếng chìa khóa, tiếng rút chốt cùm và cửa lớn mở. Ra tới phòng cung hôm nay, ngoài Nhuận và Đức, tôi thấy lại có thêm một người lạ nữa. Tên này người Huế, chừng 40 tuổi. Tôi lặng lẽ đi vào. Vẫn chiếc ghế đẩu để chơ vơ trước bàn của chúng.

Ngay khi mới tới cửa phòng, mắt tôi đã thoáng thấy một hộp điện lớn đen xì, với nhiều dây điện lổn nhổn, để trên cái bàn nhỏ ở góc phòng. Tôi hiểu ngay là hôm nay tôi sẽ phải đi tầu ngầm, hoặc máy bay mà lúc còn nhỏ, tôi thường nghe người ta nói đó là cách thực dân Pháp thường dùng để tra tấn, những người chống lại chúng. Tôi vờ như chưa nhìn thấy, vẫn ngồi cúi đầu như mọi khi.

Hôm nay, chúng tiếp tục nạt nộ, truy hỏi. Chúng đập bàn, đập ghế ầm ầm, nào là “Anh là một tên phản động từ trong máu, đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ Diệm”, nào là: “…lấy vải thưa che mắt thánh, dám lòe bịp cả bộ công an” v.v… Tôi chỉ biết lẳng lặng cúi đầu trước những lời sỉ vả, quát tháo của chúng. Trong thâm tâm, tôi vẫn lắng nghe, xét và nhận định từng lời, từng thái độ của chúng. Tôi thấy chúng chưa nắm được gì về tôi cả. Chúng đang tìm mọi cách để thọc cho ra những đầu mối, mà tôi không chịu khai. Lòng kiên trì che giấu của tôi như một cái đập ngăn giòng nước. Chúng đang loay hoay nghiên cứu, tìm tòi những lỗ rò. Nếu chúng thọc trúng, nhiều khi đập sẽ bục từng mảng, đôi khi cả đập.

Có những lúc tôi khai thật như: Luơng tháng của tôi 5000 ngàn mỗi tháng và đã viết giấy ủy quyền cho bố nếu tôi bị mất tích; hoặc thời hạn công tác của tôi ở ngoài Bắc là 25 ngày… Chúng vẫn không tin, truy đi hỏi lại nhiều lần, nào là vô lý, nói láo, đừng hòng lấy vải thưa che mắt thánh… Chính những điều này, cái thực mà chúng cũng không tin, đã cho tôi nắm chắc chúng chẳng biết điều gì rõ về tôi, ở trong Nam.

Trước đây, do những điều kiện tự do rởm, và tinh thần cán bộ thiếu ý thức ở Sài Gòn, nên tụi Cộng Sản nằm vùng có thể cài người vào, hầu hết mọi lãnh vực trong những cơ quan từ trung ương tới cơ sở địa phương. Vì thế, tôi cũng phòng hờ nghe ngóng và rất lo. Nhưng qua những sự việc trên, tôi cảm thấy yên tâm. Chúng nó chẳng nắm được gì quan trọng cả. Tuy vậy, cũng có thể vì vấn đề trở ngại thông tin Bắc Nam, chúng chưa đủ thời gian để thẩm tra về tôi chăng? Cho nên, tôi vẫn luôn đề cao cảnh giác, không dám quá chủ quan coi thường đối thủ.

Đến giờ, tôi hiểu thêm được một điều nữa là chúng làm việc có nghiên cứu tập thể. Mỗi một nghi vấn dù nhỏ, trong những sự việc của tôi, chúng đều về đào sâu, nghiên cứu mọi tình huống có thể. Điểm nào chưa sáng tỏ thỏa đáng, chúng đều ghi nhận, rồi gọi tôi lên truy hỏi lại những điều ấy cho tới cùng. Tôi thừa nhận bộ óc tập thể có ưu thế hơn hẳn một cá nhân. Dù vậy, trong trường hợp này, tôi cũng có cái ưu thế của tôi. Tôi chỉ cần có một bộ óc tỉnh táo, và một sự hiểu biết tuơng đối, kết hợp với lòng kiên trì, chấp nhận gian khổ, tôi mong là có thể đối ứng được.

Quát tháo, giận khùng chán chê, thấy tôi vẫn ngồi cúi đầu im lặng, bấy giờ tên người Huế chỉ vào mặt tôi, gọi đích danh:

- Bình! Anh muốn sống hay muốn chết?

Tôi ngửng đầu lên, tỏ vẻ lo sợ lẫn thành khẩn:

- Thưa các ông, giờ đây tôi không biết phải làm như thế nào để các ông tin. Tôi đã khai báo mọi điều tôi biết. Tha thiết mong cách mạng xét cho, tôi được nhờ.

Hơn một tiếng đồng hồ từ khi tôi bước chân vào phòng, chúng cố ý chờ xem thái độ của tôi như thế nào, khi nhìn thấy dụng cụ tra tấn. Nhưng tôi cũng cố ý coi như chưa nhìn thấy. Có lẽ quá lâu, nên chúng sốt ruột, tên Nhuận chỉ về phía cái bàn nhỏ trong góc phòng:

- Anh có biết cái gì kia không?

Tôi vờ như lần đầu tiên nhìn thấy, tôi hiểu rằng dù có sợ hãi xin chúng, chúng cũng không tha. Vả lại, vì chưa có kinh nghiệm và hiểu biết về chúng, tôi vẫn nghĩ một cách đơn giản là mình đã đi làm nghề nghiệp này, chỉ còn gồng mình chấp nhận. Trời đâu có thương nữa mà kêu, mà trách oán! Từ ý nghĩ đó, tôi đã trả lời rất thản nhiên:

- Thưa các ông, tôi hiểu về loại dụng cụ đó. Trước đây tôi đã ngu dốt đi làm nghề nghiệp này. Nay bị bắt, sớm muộn tôi vẫn bị nhiều hành hạ tra tấn. Vậy đây là toàn quyền của các ông. Các ông không tin tôi, tôi không biết làm gì hơn được nữa. Nhưng, có một điều là tôi đã nghĩ không đúng về các ông!

Tên người Huế quắc mắt:

- Anh nghĩ điều gì không đúng về chúng tôi?

Tôi có vẻ đăm chiêu:

- Tôi là một thanh niên sống dưới chế độ miền Nam mà các ông gọi là ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ. Ở miền Nam, tôi thường biết có một số hình thức tra tấn để khai thác phạm nhân. Và tôi đã nghĩ rằng các ông thì khác…

Tên Đức ra vẻ sừng sộ, đứng bật dậy:

- Anh bảo khác, khác thế nào?

- Trước đây, tôi cứ nghĩ các ông là cách mạng. Một chế độ nhân dân, một nền dân chủ thực sự, thường lấy chính nghĩa chứ không dùng bạo lực để lôi kéo lòng người. Tôi vẫn đinh ninh trong lòng như vậy, nên ngay từ khi ra Bắc, tôi đã chẳng muốn hoạt động gì như lời chúng chỉ dậy tôi. Rồi sau khi bị bắt, tôi đã vội vàng thành khẩn khai báo hết với cách mạng. Thêm nữa, quan điểm sống của tôi là: Một là tôi sẽ được mọi người yêu tôi. Hai là tôi sẽ bị cay ghét, căm thù; chứ nhất định tôi sẽ không để ai khinh rẻ. Đặt giả thuyết, bây giờ vì tôi sợ tra tấn, nên mới phải khai báo với các ông, tôi sẽ đau khổ suốt đời vì tôi là một thằng hèn. Thà để thân mình bị tàn tật vì tra tấn, nhưng tinh thần được thảnh thơi hiên ngang nhìn mọi người, không bị tủi thẹn cấu xé. Hơn nữa, khai vì tra tấn, tôi cũng chả tốt gì với các ông…

Tên Nhuận và tên người Huế đều quát:

- Anh đừng già họng nữa!

- Câm ngay cái mồm lại, chúng tôi không phải trẻ con!

Tôi lại im lặng cúi đầu. Một lúc, tên người Huế đứng dậy:

- Bây giờ, chúng tôi cho anh về. Chiều nay lên, chúng tôi sẽ giải quyết.

Tôi chẳng hiểu chiều nay chúng sẽ giải quyết gì. Tôi đứng dậy, lúc đó cũng đã 12 giờ rồi.

Khi lão Bằng giong tôi về tới xà lim, tôi không thấy tên Nhiễm trực ở đấy. Tên Bằng mở cửa, tôi vào rồi y khóa lại. Vì y không trực xà lim nên y quên (hoặc giả y không biết) không bảo tôi bỏ chân vào cùm. Cảm thấy hơi mừng trong dạ, tôi ngồi ăn cơm. Mới chén được nửa bát, cửa sổ đã xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt, đứng ngoài cửa sổ bảo tôi bỏ chân vào cùm. Buồn thật! Thằng chó chết không cho nghỉ một tí để ăn cơm. Mười phút sau, tôi lại thấy rút chốt cùm. Đã quen lệ, tôi vội vàng nhấc cùm lên và rút chân ra. Cửa mở, tôi cầm bát và gáo ra lấy nước. Tôi để dành gáo nước cho việc đi ngoài và súc miệng, rửa mặt. Thường, tôi đã phải cố gắng uống no nước ngay tại chỗ. Điều này làm mãi, nên thành thói quen. Suốt hàng mấy chục năm trời, cho tới bây giờ, tôi cũng chỉ uống nước sau khi hai bữa cơm, còn hầu hết như không thấy khi nào khát nước. Tôi không cần phải uống nước những lúc không ăn.

Lại đóng cùm, lại khóa cửa. Tôi nằm vẩn vơ nhẩm tính sự việc đi cung ban sáng. Chiều nay, chẳng biết có sự gì xẩy đến với tôi. Chưa được mươi phút, cửa nhỏ lại mở. Tên Nhiễm gọi đi cung. Lúc này đã bị bắt gần 4 tháng, râu tóc tôi mọc lung tung beng. Nhiều lúc ngồi không buồn tay cứ rờ rẫm từng sợi râu rồi giật. Cũng thấy đau. Thực ra, ngồi không chả làm gì, hay chả có cái gì để làm, cái tay cứ tự nhiên đưa lên cằm rồi giật, trong khi óc tôi thì cứ trôi theo đường riêng của nó. Bây giờ, gần kề cái chết, đâu cần biết mặt mũi mình ra sao?

Tới phòng cung, tôi vẫn thấy 3 tên lúc sáng. Chiếc hộp điện đen xì vẫn nằm im trên cái bàn nhỏ ở góc phòng. Sau khi tôi ngồi ghế, chúng truy tôi rất nhiều về đoạn đường khi qua sông Bến Hải. Chúng bắt tôi thường thuật tỉ mỉ: Lội sang làm sao, nấp thế nào, đi đường nào, cảnh vật ra sao v.v… Vì tôi đã có hai lần ra tận bờ sông Bến Hải và nghiên cứu kỹ khu phi quân sự Bắc (Vĩnh Linh) và toàn khu vực huyện Vĩnh Linh, từ những con đường mòn, đến những bờ suối… Nhất là lại dùng loại ống nhòm nhìn xa 10 cây số, nên chỗ này, tôi nói không khó khăn lắm. (nghĩa là chưa nhìn thấy trước cảnh đó, khó có thể che giấu chúng được).

Đến đây, tôi đã cảm thấy thâm ý của chúng khi chúng bắt tôi tả chi tiết tỉ mỉ, từ Vĩnh Linh ra tới Hà Tĩnh. Như vậy, phải ngửi thấy ngay là có vấn đề rồi! Đây là một cái dốt, cái sai của tôi! Vì thực tế, tôi chỉ đi từ Kỳ Anh ra Hà Nội. Còn từ Vĩnh Linh ra Kỳ Anh thì tôi có đi đâu, cho nên khi khai báo nhiều lần trước đây, tôi thường khai lướt đi. Hơn nữa, tôi tập trung nhiều vào những khóa học tập ở Sài Gòn, nhiệm vụ ra Bắc và khi ở Hà Nội. Còn con đường từ Vĩnh Linh tới Hà Tĩnh, tôi đã coi nhẹ, vì thế, chúng đã phát hiện ra chỗ đê rò của tôi.

Tên người Huế, sau khi nghe tôi kể lại đi từ Vĩnh Linh ra Hà Nội thế nào, liền hỏi tôi:

- Từ Vĩnh Linh ra Hà Tĩnh anh ngồi trên xe hàng, vậy có khi nào anh xuống xe không?

Tôi phỏng đoán, chắc xe phải ghé thị xã Quảng Bình, nên tôi trả lời: “Có, khi đến Quảng Bình, tôi mót giải nên xuống tìm chỗ đi giải”.

Y hỏi tiếp:

- Từ Vĩnh Linh ra Quảng Bình, có khi nào anh xuống xe không?

Tôi vờ như cố nhớ lại một chuyện không đáng nhớ, nhưng thực tế thì lúc đó trong lòng tôi đang bấn lên. Nó hỏi vậy, tất nhiên phải có vấn đề. Trước đây, tôi đã nghiên cứu bản đồ lớn, đường từ Vĩnh Linh ra Hà Tĩnh với Brown và Dale. Vì là bản đồ quân sự thời trước 1954, nên sau này có một số chi tiết thay đổi, mà tôi không biết. Hơn nữa, với tinh thần tắc trách, tuy Dale và Brown có chỉ từng điểm, từng con sông, cái cầu, v.v… nhưng thực tế, tôi đã chỉ ừ ào cho qua, chứ tôi không hề thực sự chú tâm, vì tôi cho là không quan trọng! Do đó, bây giờ tôi lúng túng. Sau một lúc ngẫm nghĩ, tôi mới quyết định nói:

- Thưa ông lúc đó, vì mới sang bờ Bắc, tôi rất lo sợ hoang mang, nên bây giờ tôi cũng không còn nhớ là có xuống hay không!

Y đập bàn:

- Anh nói láo. Ngồi trên xe, xuống hay không mà không nhớ! Anh muốn ngoan cố gan lì với chúng tôi hả?

Tôi nghĩ mình đành phải liều, vì vậy tôi trả lời:

- Tôi nhớ…hình như không…

Tên người Huế đứng giật dậy, quát ầm lên:

- Như vậy là anh nói láo hoàn toàn! Chúng tôi muốn thấy sự thành thật của anh, nhưng bây giờ, chúng tôi mới thấy là anh gan lì ngoan cố. Tôi nói cho anh biết, dù anh có ngủ gật, người ta cũng gọi anh dậy, để bắt anh xuống xe!

Thôi chết rồi! Như vậy là sông Gianh không có cầu, mà là qua phà, tất cả hành khách phải xuống xe. Tôi nghĩ thật nhanh. Nếu vì ngoan cố mà không biết phục thiện ở khâu nhỏ này, tôi sẽ chết ở những chỗ quan trọng khác. Vậy hãy thành khẩn:

- Thưa các ông, tôi đã suy nghĩ luẩn quẩn. Đã nhiều lần tôi muốn nói hết với các ông về việc này, nhưng tôi cứ loanh quanh lo sợ là các ông sẽ bắt tôi về điểm hẹn, để gọi người đến đón. Rồi các ông sẽ tìm mọi cách, để bắt hết những người đó. Như vậy, Sài Gòn họ sẽ biết ngay là tôi phản. Điều tất yếu là gia đình bố mẹ, các em tôi sẽ bị chúng trả thù. Bản thân tôi đã không làm gì được cho bố mẹ và các em nhờ cả, bây giờ nếu để liên lụy khổ đau cho gia đình, thì thà thân tôi bị đau khổ tan nát còn hơn. Chính vì điểm lo sợ ấy, nên tôi đã lúng túng không dám khai thật đường đi ra Bắc.

- Như vậy, anh ra Bắc bằng cách nào?

Ngay từ mấy hôm trước đó, căn cứ vào chiều hướng chúng truy hỏi, tôi đã linh cảm khâu từ Vinh Linh ra Kỳ Anh khó ổn, nên đã nhẩm tính: Nếu cùng quá, tôi đành phải nhận ra Bắc bằng đường biển. Tôi không hiểu, bật ra điều này, là kéo thêm một mảng. Xuất phát từ đâu? Thuyền nào đưa đi? Những thủy thủ thế nào, bao nhiêu người? Ngày giờ hẹn đón nhau? v.v… Bao nhiêu là chi tiết phải lắp vào, sao cho hợp lý về cả không gian, thời gian, sự việc và con người.

Tôi cũng đã tính, với tình huống những người thủy thủ đưa tôi đi như vậy, có thể họ còn đưa những người khác sau này. Biết đâu, một ngày nào đó, nếu họ không may bị bắt, họ sẽ nói đến thời gian đó đưa một người như vậy, như vậy dù một hai năm sau, tôi đang ở một trại giam nào, Cộng Sản cũng có đủ chứng cớ để thấy là tôi nói láo. Lúc đó, chỉ có chết với chúng. Trước mắt, từ nay trở đi, tôi luôn luôn mang trong mình một mối lo âu bất ngờ bị chúng phát hiện. Sau này, nếu chúng tìm ra được một điểm sai nào, tất cả các khâu khác sẽ vô phương cứu chữa. Thân tôi chắc chắn sẽ bị chúng hành đến tan nát.

Tôi sẽ phải khai báo sự việc đi hải thuyền ở Đà Nẵng, theo phương châm: “Càng đơn giản, sẽ càng đỡ rắc rối cho sau này”. Tôi sẽ chỉ nói đến những việc phải nói, loại bỏ tất cả những điều gì có thể loại bỏ được. Trước sau, chỉ có một nhân vật Hòa, mọi vấn đề đều do ông ta lo liệu. Chỉ đi một lần. Không nói chuyến đi trước gặp bão phải quay về. Không nói thuyền rời bến ở Biệt Khu Hải Quân, mà từ một nơi vắng vẻ gần mé sông Bến Hải một lần, mới hợp lý việc gì sao lại biết rõ được chi tiết, cảnh vật hai bên bờ sông Bến Hải trong khu phi quân sự Bắc Nam. Như vậy, vẫn giữ kín được nơi xuất phát có lợi cho Sài Gòn sau này.

Để bảo vệ cho tên chủ tịch Phong, ở Kỳ Anh, tôi sẽ không nói gì đến y, chỉ tường thuật lúc đêm đổ bộ lên bờ, chôn giấu các vật dụng, sáng hôm sau tìm đường mò ra quốc lộ 1 rồi gặp Phùng Văn Trí, từ đấy về Hà Nội. Điều này, chúng phải tin, bằng chứng là các vật dụng tôi chôn tại chỗ. Những vật dụng này, cũng có lợi cho tôi ở một khía cạnh: Tôi có hai “vỏ bọc”: “buôn lậu thuốc Tây” và “Sư bà Đàm Hướng”. Nếu sau này phải khai ra, thì một trong hai “vỏ bọc” này, có bằng chứng là các loại thuốc Tây tôi đã chôn giấu đó, chúng phải tin lời tôi.

Tóm lại, dù có tính toán khai báo thế nào, đây cũng là sự ngu dốt sai lầm của tôi. Từ điểm này, tôi có thể bị dẫn đến nhiều khó khăn về sau vì “Một sự bất tín, vạn sự không tin”. Nhưng tôi đành phải chấp nhận và chỉ có biết cố gắng với khả năng hiểu biết và tính toán giới hạn của mình. Đã có chủ đích rồi, tôi ngẩng đầu lên, trả lời:

- Tôi ra miền Bắc bằng hải thuyền.

Mặt chúng tuơi hẳn lên, mắt mở to, đồng thời chúng khích lệ mềm mỏng hỏi các chi tiết, khi chúng bắt tôi khai nhanh để chúng ghi. Đến bây giờ, tôi đã hiểu đó là một phương pháp của chúng. Bắt đối phương khai nhanh (nếu có mâu thuẫn thật rõ), sau đó lại bắt khai chi tiết, rồi bắt viết; cuối cùng mới truy hỏi, không những ở những điểm chúng nghi ngờ, mà ngay cả điểm thật cũng bị cật vấn ráo riết mọi mặt.

Như tôi đã trình bày ở trên, sự việc này bục ra một mảng. Tôi phải cố lắp ghép, ngăn chận sao cho hợp lý, những gì dính dáng về hải thuyền cho tới điểm đổ bộ. Còn từ khi ra Quốc Lộ 1 ở xã Kỳ Phương, cho tới khi bị bắt, dứt khoát phải không có gì thay đổi, trước sau dù bão tố cũng chỉ như một.

Thời gian này, tôi lại bị gọi cung liên tục ngày 3 buổi, hơn một tuần lễ. Sau đó, đến giai đoạn căng thẳng tột cùng. Chúng truy lại hết mọi vấn đề trong Nam ngoài Bắc, thậm chí, nhiều lần chúng sừng sộ định bạt tai tôi nữa.

Bây giờ, phần vì cùm kẹp, đói khát; phần khác tinh thần căng thẳng ngày đêm, người tôi rã rượi, run rẩy; ngay đi từ xà lim ra phòng cung, nhiều lần tôi muốn ngã, phải ngồi xuống. Có lẽ cũng thấy thân xác tôi có thể lúc nào đó sẽ chết vì kiệt sức, nên dạo này thỉnh thoảng chúng cho tôi một cái bánh bao, hoặc một cái bánh mì. Bánh bao cũng chỉ có nhân hành, còn bánh mì cũng lẫn bột ngô, nhưng ăn, thật tuyệt vời. Tôi nghĩ rằng bánh bao nhân lạp xưởng trứng, bánh mì “Pa gô đa” của Sài Gòn còn thua xa. Những lần ăn được như vậy, đêm ấy, tôi cảm thấy như cơ thể được truyền vào một sức mạnh; thậm chí, ngày hôm sau đi đại tiện cũng thấy trơn tru sảng khoái. Cứ ba, bốn ngày chúng mới cho một lần, và cũng chỉ được 5 lần là chấm dứt.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 13 Mar 2010

Tập I - Chương 28

Những Vấn Đề Mới…

Cung kẹo bây giờ hàng ngày liên miên. Nhiều lúc chúng truy tôi rát quá, người tôi như không còn hồn. Tôi ì ra. Có lúc tôi chả biết đường nào tôi trả lời. Lâu lâu, tôi chỉ biết nói:

- Tôi thành khẩn khai báo mọi sự việc từ lúc bé tới bây giờ mà các ông vẫn không tin tôi. Nhiều đêm về nằm, ước gì có cách nào đó, để các ông nhìn rõ được trong lòng tôi, cuộc đời tôi không đến nỗi khổ đau như thế này.

Chúng đập bàn quát ầm lên:

- Anh đừng già mồm, không cần phải có cách gì, chúng tôi cũng đã thấy rõ anh là một tên phản động vô cùng ngoan cố, bao che đến cùng những âm mưu phản dân, phản nước của bè lũ Mỹ Diệm. Ngày đêm, anh tính toán mưu mô, hòng che mắt Bộ Công An của nhân dân. Tôi nói cho anh biết, anh sẽ chết dần, chết mòn trong đau thương khổ cực. Chỉ có một con đường duy nhất là anh tự cứu lấy anh. Đừng mơ hồ trông chờ bất cứ một thế lực, hay một kẻ thần thế nào có thể cứu được anh.

Tôi tỏ ra rất thành khẩn:

- Thưa các ông, được sự chỉ dạy của các ông, lòng tôi càng thêm phấn khởi. Tôi thấy rằng, khi nhận nhiệm vụ ra ngoài Bắc, tôi đã có những hành động và những ý nghĩ đúng, là tôi đã chẳng làm gì cho địch, và khi bị bắt, tôi đã khai báo ngay hết mọi sự thật. Tôi tha thiết đề nghị với các ông, tôi nghe nói rằng trên thế giới hiện nay, người ta đã chế ra máy để biết rõ sự thật, hoặc có loại thuốc người ta uống vào sẽ nói ra hết sự thật, vậy nếu chính phủ ta có các thứ đó, xin hãy cho tôi được thực nghiệm. Tôi xin đội ơn cách mạng suốt đời.

Tên Nhuận cười rộ lên:

- Chúng tôi không cần những thứ đó cũng vẫn hiểu rõ được anh. Anh còn vì một điểm nào đó, nên đã không nói thật hết với chúng tôi. Nhưng, tôi tin rằng sớm muộn, rồi đây anh sẽ tự giác nói thực hết, mọi âm mưu thủ đoạn của địch với chúng tôi.

Tôi biết tỏng là làm gì chúng có loại máy nghe sự thật, hoặc loại thuốc uống vào rối loạn thần kinh, không chủ động được nữa để chúng hỏi gì nói thực cái ấy, v.v… Và dù có các loại máy đó, tôi vẫn tin là không giải quyết được vấn đề. Nhân tiện, tôi đánh một đòn sâu hơn nữa:

- Thưa các ông, tôi dám cam đoan trước các ông là, nếu sau đây, bất cứ thời gian nào. Các ông chỉ cho tôi bằng cụ thể, một sự việc gì chính yếu, tôi đã khai không đúng, tôi xin chịu mọi hình phạt của nhà nước cách mạng.Tôi vẫn phòng hờ gài vào hai chữ “chính yếu”. Sự việc chính yếu cao nhất thì tôi cho là chúng nó có người nằm trong Cục tình báo của Sài Gòn, hoặc Z-5 hay linh mục A bị bắt. Hay, chúng bắt được tài liệu “M”. Tôi tin là Z-5 hay linh mục A nếu họ bị bắt, cũng không khai. Và dù họ có khai, thiếu chứng cớ, tôi vẫn không nhận. Còn người của chúng dù có nằm trong Cục, trên nguyên tắc, nếu không cùng một công tác, không biết ai với ai. Nói chung, với sự hiểu biết của mình, tôi nói, tôi không sợ di họa sau này. Hơn nữa, đây là lúc liều rồi, chỉ có chết và sống thôi mà.

Tên Nhuận cau mặt lại, nhìn tôi:

- Anh đừng nói nhiều nữa. Hãy nghe tôi hỏi đây. Anh tả kỹ lại chỗ anh chôn những vật dụng mang theo từ miền Nam ra!

Tôi lần lượt trình bày lại chỗ chôn giấu tài liệu. Tên Đặng chêm vào:

- Anh hãy nhớ kỹ, ngoài những thứ anh kể, anh có quên thứ nào mà anh đã cùng chôn không?

Tên Đức đưa một tờ giấy, bắt tôi phải vẽ sơ đồ địa điểm chôn giấu, ghi lại các thứ đã vùi lấp.

Từ lúc đó tới giờ, đã gần 5 tháng rồi, tôi phải cố moi óc vẽ sơ đồ các điểm, khoảng cách với Quốc Lộ 1, bụi cây, cây lớn và đường mòn… Chúng hỏi rất chi tiết. Tôi tưởng chúng sẽ cho người vào đào chỗ tôi chôn. Tên Đặng hỏi tiếp:

- Nếu anh chỉ cho một người, người đó có thể đào đúng chỗ chôn giấu được không?

Tôi nhanh nhẩu:

- Được! Tôi nghĩ rằng, tôi vẽ rõ ràng thế này, có đầy đủ các điểm chuẩn, thì ai vào đào cũng lấy được.

Bỗng dưng tôi thấy hoa mày, chóng mặt, tôi phải vịn vào bàn. Một nguồn lạnh run từ trong xương sống truyền ra, làm tay chân tôi nổi gai ốc. Chúng hỏi:

- Làm sao?

Tôi nói không ra hơi:

- Có lẽ tôi bị sốt…

Chúng cho tôi về. Lúc đó cũng đã gần hết giờ.

Khi về tới xà lim, tên Nhiễm qua bảo tôi cho chân vào cùm. Tôi cố cho chân vào, rồi người tôi run quá, từng đợt lạnh chuyển từ xương sống ra khắp người. Mọi khi, muốn gì thì muốn, đi cung về là tôi sà vào ngay bát cơm đã, nhưng hôm nay, tay chân run lẩy bẩy, gai ốc nổi đầy mình. Bát cơm vẫn để đấy. Lạnh quá, lại không có cái gì đắp ngoài bộ quần áo sọc đã cũ vẫn để gối đầu, tôi giở ra, chỉ đủ để quấn cổ và quấn bụng. Bây giờ cả người tôi run lên. Từ bé tới lớn, tôi chưa thấy cơ thể mình lạ lùng thế này. Tôi chẳng biết làm sao, chỉ biết gọi “Mẹ ơi!” Tiếng gọi thầm thì như tiếng rên nài nỉ thiêng liêng, tình Mẹ cứu con!

Tôi đang ngồi run lẩy bẩy thì cửa nhỏ xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt cùm và mở cửa lớn. Như thường lệ mọi khi, y phải thấy tôi nhấc chân ra khỏi cùm, đem bát ra trả và múc nước. Y đứng một tí, không thấy tôi ra, y nhòm vào, quắc mắt:

- Sao không đưa bát ra!?

Tôi nói với giọng giật giật vì run:

- Thưa ông… tôi sốt…

Y đi vào, đứng nhìn một lúc. Tôi nói:

- Thưa ông… tôi rét quá, ông… cho tôi cái chăn…

Y quát lên:

- Chăn, chiếu nào cho anh!? Ba ngày nữa, đến ngày 16 tháng 11 là đầu Đông mới cho mượn chăn, bây giờ đâu có!

Trời đất hỡi! Tôi lạnh quá! Cái mông, ngồi xuống sàn xi măng đã lạnh buốt. Hai vai dựa vào tường cũng lạnh buốt. Còn cái chân ở trong cùm nữa! Lạnh trong ra, lạnh ngoài vào. Bụng không có cơm, cũng không có thuốc. Chiếc chân chỉ còn da bọc xương, hai đầu gối của tôi chỉ là hai cục xương.

Tên Nhiễm đứng nhìn một lúc, rồi đi ra, đóng cửa lại. Y còn ghé trở lại đút chốt cùm khi nãy đã rút ra. Chân tôi vẫn để nguyên trong cùm.

Chừng 10 phút sau, cửa mở, mụ Dậu y tá vào, mang theo một cái khay. Mụ để cái khay ở sàn trống bên cạnh, rồi quay sang:

- Anh làm sao?

Tôi vẫn run rẩy cả người, hai tay khoanh chặt ép vào ngực, trả lời ngắt quãng:

- Tôi… bị… sốt…

Mụ đưa cho tôi một cái ống thủy, bảo cặp vào nách. Trong khi tôi cặp ống thủy, mụ ngoái nhìn toàn buồng của tôi, rồi lại nhìn tôi. Ngoài bát cơm chơ vơ nguội lạnh ở đầu sàn, trong buồng trống trơn, chẳng có một cái gì. Những người tù ở miền Bắc, thường có chăn màn, quần áo, có khi còn được tiếp tế nữa. Nên trong xà lim, thường vẫn có một số đồ tối thiểu. Phần tôi, chăn mùng không, thậm chí quần áo cũng bị tịch thu, chỉ có một bộ quần áo sọc tù duy nhất. Tên Nhiễm vẫn đứng ở ngoài, một tay vịn cánh cửa nhìn vào. Hình như hắn cũng không tin cả người y tá. Mụ Dậu ra hiệu tôi đưa ống thủy cho mụ. Mụ soi ra ánh sáng. Tôi chả biết bao nhiêu độ.

Mụ lục đục lấy ống tiêm, chích cho tôi một mũi. Tôi chả hiểu thuốc gì. Lúc mụ sắp sửa ra, tôi cố nói:

- Tôi rét lắm, đề nghị… cho tôi mượn cái chăn…

Mụ quay lại nhìn tôi, rồi hất hàm về phía tên Nhiễm:

- Hãy đề nghị với ông cán bộ đây.

Cánh cửa đóng xầm, tiếng xọc xạch của then cửa như đập vào nỗi tuyệt vọng của tôi. Tôi mệt mỏi quá, nằm xuống, lại phải cố gắng bò dậy ngay, vì cái sàn xi măng lạnh buốt. Chẳng hiểu ngày xưa trong chuyện võ hiệp của Tầu, tập luyện nằm giường đá, thế nào tôi không biết, chứ tôi thấy cơ thể của một con người không có cách nào chịu đựng được. Nó buốt lên tới gáy, tới đầu. Tôi cũng đã bắt buộc… phải tập nằm từ mùa Hè qua mùa Thu cho đến bây giờ, vậy mà chả quen được.

Tôi cứ phải ngồi như vậy suốt đêm. Lúc mỏi quá, mệt quá, ngả xuống, lại phải bò dậy ngay, mấy lần. Tôi chỉ dựa vào tường thiếp đi từng chập. Cơn sốt đã giảm, mồm đắng nhổ không ra nước miếng.

Tôi cứ ngồi co ro, đầu ngục xuống. Hồn lãng đãng dật dờ tỉnh mê. Dòng suy nghĩ chập chờn về… lòng nhân ái, tình nhân loại, nghĩa đồng bào… Giữa đêm trường vắng lặng, thỉnh thoảng một tiếng mối kêu lanh lảnh: Chặc, chặc, chặc… kéo dài, vang vào đêm thâu như ngạc nhiên, băn khoăn, tại sao loài người lại hành hạ tàn nhẫn với nhau như vậy!?… Tôi thiếp dần đi, cho mãi tới khi tai nghe loáng thoáng những tiếng cãi cọ nhau, giành nước của những người tù nữ nơi tắm giặt phía sau xà lim, tôi mới giật mình mở mắt.



Vẫn cái dáng ngồi hai tay ôm trước ngực, dựa tường. Cả người đau như giần, mệt nhọc; nhưng, khi tôi nhìn thấy bát cơm, từ hôm qua vẫn còn nguyên như cũ, đang mời gọi. Vì sợ chốc nữa quản giáo đến mở cửa các buồng cho đổ bô, sẽ bắt đem bát cơm ra, nên tôi kéo bát cơm đến, ăn vội.

Đúng như vậy, tôi đã nghe tiếng lẻng xẻng chìa khóa mở buồng số 1, tiếng ào ào mở vòi nước, tiếng chổi cùn khua khoắng bô, vì bô bằng tôn. Không hiểu sao, bô nào cũng vậy, nước giải đóng thành cao vào chung quanh. Nếu chỉ đổ và tráng nước không, vẫn còn mùi khai thối, vì thế, thường ai cũng phải vội vàng dùng những cuống chổi thanh hao cùn, bó chừng một nắm tay, dài độ 20 phân, thường dựa ở góc bể nước con, khua và tráng cho sạch bô. Vì chính mình, khi đi ngoài phải ngồi vào đó. Nhiều miệng bô, do lâu ngày nước giải ăn mòn, lởm chởm sắc như răng cưa. Ngồi để mông vào một lúc đau không chịu được, phải xoay chỗ khác. Cho nên, khi còn lão Hoàn giam chung với tôi, khi hắn đi xong đứng lên, mông có rất nhiều khoanh tròn răng cưa hằn sâu vào thịt.

Đến lượt buồng tôi. Tôi trả bát, đổ bô xong, vừa tra chân vào cùm, lại thấy cửa mở. Mụ Hoa vào gọi tôi đi cung.

Hôm nay, ra phòng cung, tôi chỉ thấy Thành và Đức. Lâu lắm mới thấy tên Thành. Tôi nhớ y nhiều vì trong số 6, 7 tên chấp pháp hỏi cung tôi, chỉ có tên Thành này từ ánh mắt, cho đến lời nói, thái độ hỏi cung, tỏ vẻ rất có thiện cảm với tôi. Y tỏ ra một con người rất tình cảm. Có lúc, tôi thấy y cầm cuốn tiểu thuyết “Đoạn Tuyệt” của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi hiểu, y được quyền xem, nghiên cứu vì y là chấp pháp chính trị. Hơn nữa, y đang theo hàm thụ năm thứ tư về Kinh Tế. Dù sao, tôi vẫn thấy y còn chất tiểu tư sản. Tên Thành chỉ chiếc ghế, tình cảm:

- Anh ngồi đi. Sao, dạo này anh có được khỏe không? Tôi bận chút công việc, lâu lắm mới gặp lại anh.

Tôi cũng mềm mỏng:

- Cảm ơn ông, lúc này tôi không được khỏe lắm.

Y vờ ngạc nhiên săn đón:

- Anh bị yếu đau sao? Anh có ăn được không? Có ăn hết suất cơm không? Sao trông anh gầy thế?

Theo cái hiểu của chúng, nếu cứ ăn hết suất cơm là không sao cả. Chúng không thể biết được, do cái đói cào cấu, thèm ăn triền miên hàng ngày, hàng tháng, nên dù sắp chết, tù vẫn thèm ăn. Vì vậy, tôi trả lời thủng thẳng:

- Hôm qua tôi bị sốt, nhưng vẫn ăn hết suất cơm.

Tên Đức hôm nay cũng có vẻ tươi tỉnh:

- Hôm nay chúng tôi gọi anh lên, không phải để hỏi cung anh. Gọi anh lên để nói chuyện… Này, anh Bình, tôi hỏi thực anh nhé! Khi còn ở Sài Gòn, anh có hay đi nhảy, đi chơi gái không?

Nhìn y, tôi hơi ngạc nhiên. Y vừa cười vừa hỏi, lại còn nhay nháy con mắt nữa chứ. Tôi nghiêm trang trả lời:

- Thưa ông, tôi không biết nhảy. Còn chuyện chơi gái, phần tôi chỉ chú ý đến học hành, phần khác, tôi không thích. Theo quan điểm của tôi, chuyện đó là một thứ cao đẹp của con người. Bỏ đồng tiền ra mua bán làm trò giải trí, thà đi xem xi nê, đọc sách, hoặc ngồi ngắm cảnh thiên nhiên còn thú hơn. Điều đó, vừa vô nghĩa lại vừa tỏ ra sự hèn kém, của người con trai.

Cả hai tên đều nhìn tôi cười rộ. Tên Thành tình cảm:

- Khi anh ra đi, bố mẹ và các em anh có khỏe không? Bố mẹ anh có biết không?

Nhắc đến gia đình, tự nhiên một mối xúc động len lén vào lòng tôi. Vì thế, khi tôi trả lời, niềm xúc động cũng tràn ra theo:

- Bố mẹ tôi khỏe. Bố mẹ tôi không biết gì về chuyến đi của tôi.

Thành tiếp tục gợi chuyện:

- Anh có nhớ bố mẹ và các em anh không? Anh thử nghĩ xem, bố mẹ anh đã phải tần tảo vất vả cả cuộc đời, để nuôi anh đi học, anh đã làm cái gì để đền đáp công lao trời bể ấy?

Niềm xúc động càng tràn vào đầy ắp trong lòng. Tôi miên man nhớ tới một hình ảnh không quên: Buổi chiều ấy, khi tôi còn ở trại học sinh di cư Phú Thọ, Chợ Lớn, thằng em trai đến bảo tôi:

- Tối nay, 7 giờ về chỗ sân nhà Tân Định, tan chầu ra, mẹ sẽ gặp anh để làm gì ấy!

Đã hai tuần liền, tôi không về nhà, vì ông bố mắng chửi là mãi chơi không chịu học hành, nên thi phần 1 trượt. Tối hôm đó, trời mưa giăng ẩm ướt, tôi núp dưới một mái hiên trong sân nhà thờ chờ mẹ. Những hạt mưa nhỏ lấp lánh như những sợi chỉ bạc trong ánh đèn điện, hắt ra từ những cửa sổ nhà thờ, càng làm cho buổi tối thêm lê thê da diết. Người mẹ, hai tay thủ trong vạt áo dài vì lạnh, chiếc khăn trùm kín đầu, lò dò từ cửa hông nhà thờ ra sân, dưới mưa rơi, gặp con chỉ để nói:

- Hãy nghe lời mẹ. Chủ Nhật này về, bố mày hết giận rồi!

Và mẹ giúi vào tay tôi 100 đồng. Giờ đây, tôi trong cảnh tù đầy, hình ảnh ấy của người mẹ kính yêu, đã làm nước mắt tôi trào ra lúc nào không biết. Tôi thổn thức, nức nở như một cậu bé con.

Chính những tên chấp pháp cũng không ngờ được tôi khóc, và chúng phải im lặng tôn trọng cái phút thiêng liêng ấy.

Phải, con người tôi, tha hồ cùm kẹp hành hạ đừng hòng nước mắt tôi chảy ra, trừ mẹ tôi, tình cảm gia đình tôi.

Cũng từ đấy, chúng phát hiện được nhược điểm tình cảm của tôi. Và, với Cộng Sản, kinh nghiệm thực tiễn cho tôi thấy, anh càng yếu, càng sợ cái gì, chúng càng lấy cái đó để hành anh. Sau này, đầy dẫy những minh chứng.

Chúng để cho tôi hết cơn xúc động, rồi mới đẩy đưa:

- Đấy, anh xem, vì sao hiện nay anh lại bị như thế này. Nguyên nhân chính yếu là do bè lũ Mỹ Diệm, đã lợi dụng bầu nhiệt huyết của thanh niên và lòng bồng bột của anh, để đẩy anh vào chỗ chết. Trong khi hiện nay ở nhà, chúng vẫn phè phỡn xe hơi nhà lầu, tiệc tùng cười vui thoải mái hả hê, không cần biết hoặc không còn nhớ bây giờ anh sống hay chết. Anh phải biết căm thù chúng nó. Hãy tố giác mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng anh của chúng với cách mạng. Đây là con đường duy nhất, để tự anh cứu sống anh. Chính anh là người quyết định sẽ được hưởng lượng bao dung khoan hồng, của đảng và nhà nước hay không!

Tôi vẫn cúi đầu ngồi nghe chúng nói. Tôi thấy chúng lợi dụng sự yếu mềm của tôi với gia đình, để đẩy đưa sang vấn đề chính trị. Tôi suy nghĩ, tương kế tựu kế là sách lược hay nhất và hiệu quả cũng thường cao nhất. Vì thế, tôi tỏ nét mặt vui tươi và tin tưởng:

- Thưa các ông, các ông nói rất đúng. Càng suy nghĩ, tôi càng căm thù chúng. Nếu trước đây tôi không di cư vào Nam, thì bây giờ biết đâu tôi chẳng là một anh bộ đội, hiên ngang trong hàng ngũ cách mạng, cầm súng chống lại Mỹ Diệm.

Cả hai cùng cười rộ lên, tôi nghe đầy những mưu mô thủ đoạn ở trong. Hai tên cùng đứng dậy, tên Thành nhìn tôi:

- Bây giờ cho anh về nghỉ. Sáng mai, chúng tôi sẽ đưa anh vào Hà Tĩnh đào chỗ anh chôn những đồ vật dụng.

Về xà lim, đêm hôm ấy, tôi cố moi óc nhớ lại tất cả những gì tôi chôn theo hôm đổ bộ, nghĩ xem có điểm gì quan trọng tôi chưa khai thông. Vì đến nước này, trước hay sau tôi cũng phải vào chỗ chôn giấu. Trước đây, chúng bắt tôi vẽ sơ đồ, hỏi tỉ mỉ từng chi tiết đường đi, nước bước, tôi tưởng chúng đã cho người vào địa điểm tôi chỉ mà không tìm ra, nên bất đắc dĩ chúng bắt tôi đi. Hồi chiều, tên Nhiễm mở cửa bảo tôi ra cắt tóc. Khi ra tới chỗ bể nước nơi vẫn đổ phân, một anh đi chân đất, mặc quần nâu, tuy có vẻ mập nhưng nước da vẫn tai tái, tay cầm cái “tông đơ”, chỉ hè gạch, bảo tôi ngồi. Tên Nhiễm đứng ngay đấy.

Chỉ 3 phút, anh húi hết tóc, rồi râu của tôi, anh ta nói với tên Nhiễm:

- Báo cáo ông, tôi về.

Tên Nhiễm chỉ gật đầu. Hôm nay, đặc biệt, tên Nhiễm gọi thợ cắt tóc cho tôi, và lại đặc biệt cho vào gội đầu. Cũng chỉ vài phút cúi đầu vào vòi nước, vặn xòe xòe, vò một lúc xong!

Tôi hiểu, chẳng qua vì ngày mai tôi phải vào Hà Tĩnh, nên hôm nay mới được cắt tóc, chứ gần 4 tháng có cắt đâu. Chẳng biết tóc tôi y cắt thế nào, sờ thấy ngắn ngủn. Kệ nó, cần gì!
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 14 Mar 2010

Tập I - Chương 29

Trở Lại Địa Điểm Đổ Bộ …

Sáng hôm sau, trời hãy còn tối đất, chưa đến giờ làm việc, đã thấy cửa buồng tôi mở.

Khi ra tới phòng cung, nhìn ra sân, dưới giàn nho, tôi thấy ở lối đi giữa, một chiếc xe Commanca đang đậu quay đầu hướng ra phía cổng Hỏa Lò. Tôi nhớ hôm nay là ngày 15 tháng 10. Như vậy, tôi đã bị bắt gần 4 tháng.

Trong phòng cung có 3 tên Thành, Đức và Nhuận. Tên Đức chỉ tôi ngồi ghế, rồi nghiêm giọng:

- Hôm nay, chúng tôi được lệnh dẫn anh vào chỗ anh đã đổ bộ, để lấy một số vật liệu tang chứng anh đã khai báo. Trên đường đi, hay về, anh phải tuyệt đối chấp hành lệnh của chúng tôi. Nếu anh tỏ ra một vài ý không tuân theo, anh sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Chúng tôi sẽ cương quyết xử lý. Nếu anh tỏ ra thành khẩn chấp hành, điều đó sẽ rất tốt cho anh sau này.

Tên Thành mở một gói giấy báo trên bàn: Một nắm xôi với một quả chuối. Hắn đưa cho tôi:

- Anh hãy ăn chỗ xôi này, rồi chuẩn bị đi.

Chừng 5 phút sau, ăn xong, tôi xin uống nước. Y nhìn quanh không thấy nước, đành sang phòng bên. Y lấy cái tích còn ít nước trà, chắc từ hôm qua, nước hơi thiu, nhưng tôi rót uống hết. Sau đó, tên Nhuận ra ngoài, một lát sau y vào cùng hai tên cảnh sát đồng phục và mang vũ khí. Y quay lại phía tôi tuyên bố:

- Theo nội quy đi đường, để đảm bảo an ninh, anh để các đồng chí đây làm thủ tục.

Hai tên cảnh sát bắt tôi đứng lên, đưa hai tay ra phía sau. Chúng khóa một cái còng số 8 ở cổ tay, rồi hai miếng khóa ngàm nối với nhau bằng một xích sắt lớn, mỗi miếng bóp khóa ở trên cánh tay tôi phía dưới vai. Trong khi đó, cả 3 tên Nhuận, Thành và Đức đều đeo súng ngắn.

Chẳng biết chúng sợ gì tôi, có thể chúng nghĩ tôi biết chút võ vẽ ngày xưa nên chúng đề phòng chăng. Phải khóa hai lần, và 5 tên có vũ trang áp tải.

Khi chúng dẫn tôi ra gần tới xe, tên lái xe mặc quần áo xám bộ đội quay lại, nói với chúng:

- Hãy khóa tay ra đàng trước cho người ta. Nếu không, khi đi đường xe xóc, ngã gẫy tay.

Đúng vậy, khóa phía sau, nếu ngã tôi chẳng làm sao đỡ được, sẽ như quả bí lăn long lóc. Tuy thế, không ai trả lời, và cứ như vậy lên xe. Chúng phải đỡ tôi lên xe, vì tôi không có tay để vịn. Tên Đức ngồi băng trên với tài xế, còn 4 tên ở phía dưới kèm tôi vào giữa.

Xe bắt đầu chạy ra cổng Hỏa Lò, rồi qua thành phố, trở ra Quốc Lộ 1.

Mới hơn 4 tháng nằm trong Hỏa Lò mà tôi đã cảm thấy như lâu lắm, với bao nhiêu đau thuơng nặng nề âm u trong cùm kẹp, cũng như bao nhiêu bão tố vùi dập về cung kẹo. Từ tâm tư, nếp suy nghĩ đến cả con người của tôi cũng đã thay đổi hẳn. Thực vậy, cũng vẫn cảnh sinh hoạt ngược xuôi của phố phường. Cũng vẫn khung trời Hà Nội mây bay, gió thổi; nhưng, tôi nhìn nơi nào, cảnh nào, đâu đâu cũng chỉ một màu héo úa đau thương. Những xe cộ, tôi thấy tất cả như xa lạ, thuộc về một thế giới khác, cái thế giới không có phần của tôi nữa. Tôi không còn một chút gì dính dáng đến cái vui, cái êm đềm của hạnh phúc, “nếu có”, của thế giới ấy. Một mình tôi tách rời ra, lầm lũi mò mẫm trên con đường chập chùng dẫn xuống địa ngục tối, lầm than.

Trên đường đi thật là gian khổ. Đường nhiều ổ gà, xe xóc, tôi như quả bí ngả nghiêng, lăn lộn. Tôi có gì để đỡ đâu, hai tay bị khóa chặt sau lưng, ngay ngồi yên cũng còn khó dựa lưng. Thân thể đau nhừ, tâm tư nặng trĩu ưu sầu. Suốt đường đi, tôi như người câm, âm thầm mím môi, đè nén đau thuơng uất hận vào tim.

Những lần xe phải qua phà. Chúng có lệnh đặc biệt nên chỉ tài xế và tên Đức phải xuống đi bộ. Tất cả mọi xe khác, dù bộ đội hay công an, ai ai cũng phải xuống xe. Riêng tôi và 4 tên áp tải vẫn ngồi trên xe. Vì thế, có nhiều con mắt tò mò rõi vào trong xe chúng tôi. Khi thấy một người bị hai lần khóa ngồi giữa 4 công an, con mắt họ thường mở to nhìn tôi. Tôi để ý, mỗi lần xe qua phà, hoặc cầu, một tên cảnh sát có một cái xích nữa mắc vào cái khóa xích phía trên của tôi. Hình như chúng sợ bất ngờ tôi lao xuống sông, để trốn hay tự tử.

Khi xe vào thị xã Thanh Hóa, những tên công an và cả tên lái xe cùng xuống hết cả. Lúc đó khoảng 12 giờ, chắc chúng đi ăn. Chỉ còn hai tên cảnh sát ngồi lại trên xe. Chừng nửa giờ sau, tụi công an trở về, tên Thành mang về cho tôi hai gói xôi, có lẽ mỗi gói hai hào. Điều phiền cho chúng là tôi không ăn được, vì tay khóa sau. Chúng hội ý với nhau một lúc, rồi tên Thành quay lại nói:

- Bây giờ chúng tôi mở khóa, và sẽ khóa ra phía trước cho anh ăn. Nhưng cần phải tuyệt đối chấp hành nghiêm chỉnh. Anh tỏ ý lộn xộn thì đừng trách chúng tôi.

Hắn mở một cái túi xách, chỉ vào trong và nói:

- Đáng lẽ chúng tôi phải xích cả chân anh nữa, nhưng để cho anh thoải mái. Vậy, anh phải biết điều!

Chúng khóa tay tôi ra phía trước. Tôi ăn xong, tên Thành hỏi:

- Anh có hút thuốc không?

Trời đất hỡi! Từ sáng, nhìn chúng hút, tôi thèm điên người. Đời tôi bây giờ đau thuơng tràn lối, còn quái gì nữa đâu, cho nên ước mong đuợc hút một điếu thuốc cho say sưa, thế là mãn nguyện rồi. Vì vậy, khi tên Thành hỏi, mắt tôi sáng lên và tỏ ý biết ơn. Tôi thèm nhưng nhất định không mở miệng xin chúng.

Chà, thật là ngây ngất đê mê. Mấy tháng trời, hôm nay tôi mới cảm thấy cái thú tuyệt vời. Dù hai tay còn đang bị khóa. Phải ai đó ở trong hoàn cảnh như tôi mới cảm nhận hết được cái thú ngất ngây đê mê đó.

Chờ tôi hút xong, chúng lại khóa tay tôi ra phía sau như cũ, rồi hai tên cảnh sát mới đi ăn.

Xe vào tới Hà Tĩnh thì đã chiều. Chúng đưa tôi vào trại giam của thị xã. Lúc đó đã 6, 7 giờ tối, tù đã vào hết trong buồng, nên sân trại giam không có một bóng tù.

Hai tên cảnh sát giong tôi xuống dưới bếp, mở khóa, rồi chúng nói với mấy tên cán bộ ở đấy. Hai tên nữ cán bộ ăn mặc kiểu nông dân (có thể hết giờ làm việc họ đã thay đồ) dẫn tôi vào bếp. Cơm nước của tù đã hết, hai tên nữ cán bộ bàn nhau một lúc, rồi chúng đi vào một phòng con, lấy nồi cơm nguội của chúng, và nồi thịt heo kho Tàu, chỉ còn nước và hai, ba miếng thịt nhỏ. Chúng đưa ra, đặt xuống đất, bảo tôi ăn đi.

Ôi chao, sao mà cuộc đời hẩm hiu của tôi lại có những phút sung suớng như thế này. Ăn miếng cơm nguội, chan với nước thịt kho Tàu, tôi nghĩ rằng trong đời tôi từ trước chưa có bữa cơm nào ngon như thế. Trong nồi còn đến 4,5 bát cơm thế mà tôi chén sạch trơn. Cảm ơn cuộc đời! Cảm ơn con người!

Sau đó, một tên cán bộ nam, có lẽ là trực trại, dẫn tôi vào một buồng, có thể cũng là xà lim, nhưng là một xà lim vùng quê nên bẩn thỉu và tối om. Ngọn đèn điện vàng khè đầy mạng nhện và bụi đất chỉ làm cho căn xà lim mờ mờ, chỗ sáng, chỗ tối. Ở giữa buồng, một chiếc sàn gỗ đầy như chiếc giường con, sứt sẹo nằm chơ vơ. Bên trên có cái cùm suốt với hai khoen bằng sắt tròn, loại đường kính 2 phân rưỡi.

Tên cán bộ rút suốt cùm, bảo tôi lắp hai khoen vào hai chân, y chốt lại rồi khóa. Không nói thêm một lời, y ra ngoài đóng cửa, khóa lại.

Chà, cùm kiểu này thật dễ chịu, cùm hai chân mà tôi thấy thoải mái hơn, cùm một chân ở Hỏa Lò. Tôi có thể đứng dậy, dịch chân sang chỗ nọ, chỗ kia, tha hồ đứng trên sàn vặn vẹo người tập thể dục, hít thở không khí. Cả ngày ngồi xe gò bó nên mệt, tôi ngả lưng cho cơ thể thoải mái, đồng thời thưởng thức cái dư vị của một bữa ăn ngon, mà giờ đây, nước miếng còn thấy ngọt. Hai chân tôi dạng ra chụm vào dễ dàng. Đêm khuya vắng lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng xọc xạch cọ sát của hai khoen cùm khi tôi cử động đôi chân.

Bụng căng no tròn, chân tay thoải mái, có lẽ đêm nay tôi sẽ được một giấc ngủ ngon lành. Nhưng đột nhiên, lưng tôi ngứa ran, cái gì thế? Càng gãi, càng ngứa. Ngứa quá tôi phải bò dậy. Lưng tôi rộp sần hết lên. Duới ánh sáng mờ mờ, tôi chả nhìn thấy cái gì hết, nhưng trong lúc xoa gãi, tôi thấy mùi rệp hăng hăng. Tôi vội bò giật dậy, đứng lên, cởi áo soi dưới ánh đèn. Trời, một cái áo của tôi mà gần 20 con rệp, nhiều con bụng no tròn căng đỏ những máu. Cả mông, cả đùi cũng ngứa. Tôi tụt cả quần ra, vì vướng cùm, nên phải cho tay vào ống quần mà khua, giũ đuổi con rệp. Chả lẽ cứ đứng thế này suốt đêm? Mỏi chân và mệt, tôi lại đành mặc áo ngồi xuống, rồi ngả lưng nằm xuống. Lại ngứa quá, tôi nhổm dậy, căng mắt nhìn xuống sàn. Trong bóng mờ, lổn nhổn những chấm đen di chuyển. Kinh quá, sao nhiều rệp thế! Hình như chúng đói lâu ngày, hôm nay mới có món ăn, nên chúng rủ rê con cháu lũ lượt dũng cảm, xông vào con thịt. Tôi đành ngồi xổm, mỏi rồi lại đứng lên. Người mệt rã rượi, tôi chẳng còn tâm hồn đâu để thuởng thức lại bữa ăn lúc chiều. Bàn chân cũng ngứa. Chỉ còn hai bàn chân phải đứng trên sàn, thế mà chúng cũng rúc vào từng kẽ ngón chân để hút máu. Nếu không có hai cái khoen cùm, tôi đã lao xuống đất nằm, tôi mệt quá rồi.

Lũ rệp chó chết này, hình như cũng là đồng chí của lũ Cộng Sản khát máu. Cũng hút máu con người, nhưng chỉ hút và hành hạ những người cùng khổ. Đột nhiên, một tiếng nói của một người con gái vang lên, trong cái âm u vắng lặng của nhà tù; giọng thánh thót Hà Tĩnh từ một buồng bên:

- Anh Thời à!

Tiếng một người đàn ông, cũng Hà Tĩnh, từ một buồng phía khác:

- Nguyệt đấy hỉ! Có người mới vào à! Nhiều tuổi không?

Tiếng cô Nguyệt:

- Chừng 23, có lẽ là cán bộ bị bắt!

Chà! Như vậy khi nãy, cô ả đã nhìn tôi qua một khe hở nào đó, mà tôi không biết. Im lặng một lúc, rồi giọng người đàn ông:

- Anh bạn!…Mới bị bắt hỉ? Bắt vì tội chi rứa?

Tiếng hỏi rơi vào vắng lặng của đêm thâu. Tôi đang bơ phờ mệt mỏi vì phải ngồi xổm và đứng mấy giờ rồi. Lòng lại nặng trĩu những suy tư tính toán, về ngày mai khi vào tới địa điểm chôn đồ, nên tôi im lặng, để họ tưởng tôi đã ngủ rồi.

Đứng và ngồi, vẫn còn phải đuổi muỗi nữa chứ. Hà Tĩnh cũng thực nhiều muỗi, có khi còn hơn ở Hỏa Lò. Quá nửa đêm vừa rã rời vừa nhím mắt lại, không còn cưỡng lại được nữa. Thôi, cũng đành xin hiến dâng những giọt máu loãng, của tôi cho các đồng chí của lũ cộng vậy. Tôi nằm vật ra và thiếp dần.

Sáng hôm sau, trại giam chưa tới giờ làm việc, chúng đã mở cửa, mở cùm gọi tôi ra. Tôi để ý, cũng là công an, nhưng những tên công an ở Hà Nội chỉ gặp tôi ở trên văn phòng. Còn giam ra sao, cùm ra sao, đều do những cán bộ của trại giam Hà Tĩnh đảm trách. Hà Nội chỉ giao người và hôm sau lấy lại người.

Khi ra tới một phòng làm việc, tôi đã thấy Thành, Đức, Nhuận và hai tên cảnh sát ở đấy. Họ đang nói chuyện với một tên đeo lon Trung Úy ở trong phòng. Khi tôi vào, tên Thành quay lại tôi:

- Anh để cho các đồng chí đây làm việc, rồi đi.

Làm việc quái gì đâu. Chúng nó lại lủng củng xích với khóa. Vẫn khóa tay tôi ra phía sau như hôm qua. Chúng giong tôi ra chiếc xe hôm trước đã đậu phía trong cổng trại giam. Chúng đỡ tôi lên, cũng cái thế ngồi như ngày hôm qua.

Càng vào đường trong này, càng xóc dữ dội. Người tôi lăn lộn, hai tên cảnh sát, mỗi tên một bên, phải giữ đỡ hai cánh tay của tôi. Trên người tôi, tay tôi, những nốt rệp cắn đêm còn lốm đốm đỏ. Một điều gây cấn cho tôi, những nốt đó bây giờ thật ngứa. Tôi muốn gãi cào thật mạnh cho đã, nhưng tay tôi bị xích thế này, làm sao mà gãi được. Như con trâu, tôi cứ xoay sở, vặn vẹo người cọ lung tung vào thành xe. Càng cọ, lại càng ngứa thêm. Chẳng lẽ lại nhờ những tên công an gãi cho? Chúng nó chẳng thèm làm, và tôi cũng chẳng thèm nhờ. Hơn nữa, chúng biết tôi ngứa chỗ nào mà gãi. Ôi, cuộc đời độc địa: ôi, loài người thương yêu.

Xe đi vào tới Kỳ Anh, rồi Kỳ Phương. Đến đây, chúng đưa tôi vào một căn nhà trong xóm. Cũng nhà tranh vách đất, nhưng có vẻ khang trang hơn những nhà chung quanh. Có thể là nhà của một công an xã. Chúng đỡ tôi xuống xe, dẫn đến một gốc cây soan ở mé sân, bảo tôi ngồi xuống. Hai tên cảnh sát đứng kèm hai bên. Ba tên Nhuận, Đức và Thành, có lẽ đi trao đổi vấn đề.

Chừng một lúc, có một số trẻ con, rồi một số dân trong xóm tò mò chạy đến thập thò nhìn tôi. Đột nhiên, mấy em nhỏ chừng 12, 14 tuổi nhặt những hòn đất, đá ném vào người tôi, rồi tiếp theo là mấy mụ đàn bà nhà quê, trong đó có một bà già, rống lên xỉa xói, chửi, nào là:

- Mày là biệt kích, ăn gan uống máu, làm tay sai cho Mỹ Diệm.

- Mày là tên Việt gian bán nước, phản nhân dân, phản cách mạng.

……….

Một bà khác cầm chiếc đòn gánh cứ xông vào định đánh tôi, mồm réo lên:

- Mày giết chồng tao, ngày nay cuộc đời tao góa bụa, con tao mồ côi. Tao đập vỡ đầu mày ra, cho mày chết!

Tôi đã nhìn thấy nhiều cảnh nhân dân miền Nam, sống ở thành phố cũng như ở nông thôn. Tôi cũng đã nhìn thấy nhiều cảnh nhân dân miền Bắc, sống ở nông thôn cũng như ở thành thị. Tôi so sánh, tôi tự thấy con đường mình đi là chính nghĩa, con đường mang ấm no, tự do, nhân bản cho mọi người. Vì thế, trước cảnh này, dù đôi tay bị khóa, tôi vẫn ngẩng cao đầu nhìn họ. Mắt tôi bình thản nhìn những thái độ thù nghịch, hằn học của họ, mà lòng tôi vẫn tự hào. Cũng khá khen cho tụi lãnh đạo miền Bắc, dùng chính sách ngu dân, bần cùng hóa con người, rồi từ đấy bịp bợm, khích lệ, ca ngợi, phỉnh phờ; khêu gợi lòng căm thù của những kiếp người cùng khổ, hướng về đối tượng kẻ thù của chúng. Nhìn thái độ, ánh mắt và lời nói của họ, tôi tự mỉm cười trong lòng.

Tôi, đã hy sinh cả tuổi trẻ, cả mạng sống, vào nơi hang hùm nọc rắn, để góp phần nhỏ bé của mình, hòng cứu họ thoát cảnh đời trâu ngựa lầm than, lê thê trong kìm kẹp của Cộng Sản, họ lại chửi bới, sỉ vả, hất hủi. Ngược lại, họ lại hoan hô, ca ngợi, kính yêu những người sẽ giết dần đời họ bằng những lời dụ dỗ phỉnh gạt tinh vi. Tôi nghĩ đến thời đại ngày nay, của con người mà rùng mình ngao ngán. Trắng, đen lẫn lộn!

Tôi tha thiết kêu gọi những nhà nước giầu có, các nhân vật tài ba lỗi lạc, hãy đem cái giầu của mình, cái tài của mình, làm cách nào đó, làm cho mọi người dân phân biệt được trắng, đen thực sự. Tôi nói “thực sự”. Vấn đề này, nghe nói đến, ai cũng thấy cũ xưa như trái đất. Tôi nói nó không cũ xưa ở hai chữ “thực sự”. Cộng sản đã, đang và sẽ còn gây cho nhân dân một số nước, một số chính phủ khốn đốn, chỉ vì người dân chưa phân biệt rõ trắng đen, giữa người làm hại và ngưòi làm lợi cho họ.

Có người sẽ nói: Điều này đã nói nhiều lần rồi, nhưng dân không tin.

Điều quan trọng ở đây là vì sao dân không tin? Vì sao dân không tin gồm nhiều mặt, nhiều vấn đề, đòi hỏi mất nhiều tiền của, nhiều tâm trí ngày đêm đào sâu xét kỹ, nhiều tâm, sức để lăn xả vào những việc làm quên mình. Sẽ không có hiệu quả, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên. (Ở đây không phải là một tác phẩm lý luận, tư tưởng, vậy tôi chỉ trình bày một số khái niệm có tính cách phiến diện).

Chừng nửa giờ sau, tên Thành, Nhuận và Đức ra bảo tôi đi.

Ruộng đồng lúc này hãy còn khô, nên chúng cứ đi tắt, qua cánh đồng chiêm, thẳng hướng tiến bước. Khi gần tới nơi, xa xa tôi đã nhìn thấy chiếc cây to, tôi đã ngồi nghỉ lúc mới đổ bộ lên bờ; phía bên phải là làng xóm nơi có nhà của tên chủ tịch Phong. Tôi cố ý dẫn theo hướng khác, không đi vào làng, tôi bảo chúng đó là con đường tôi đã đi ra Quốc Lộ 1. Thử để xem trước đây đã có tên nào vào tìm chỗ tôi chôn đồ chưa, nên tôi cứ vờ lang thang ngơ ngác ở xa gốc cây. Lúc đầu, chúng cũng theo tôi, sau thấy tôi cứ lơ ngơ nhìn đây đó, như chưa tìm lại được những địa hình quen thuộc, tên Nhuận và Thành giơ tay làm hiệu:

- Theo như anh vẽ, thì đến phía này cơ mà!

Qua thái độ chỉ dẫn của chúng, trúng phóc, chỉ không thể xác định vị trí chôn chỗ nào gần gốc cây. Đây đó, đã có một vài lỗ nhỏ, đất cát còn lổn nhổn, chứng tỏ đã có người đào bới hàng nửa tháng, mươi ngày trước. Như thế, chúng đã cho người vào tìm, nhưng bới đào lung tung, vẫn không tìm ra. Điều đó,cũng đã nói lên một phần là trước đây, tôi đã chôn giấu tốt.

Đã hơn 5 tháng rồi, mưa gió đã làm cho mặt đất, chung quanh gốc cây, chỗ nào cũng tưởng như chưa hề có dấu chân người bước đến.

Cả 5 tên cùng đang chờ thái độ của tôi. Thực ra, ngay khi tới gốc cây, tôi đã nhận ra chỗ nào rồi, nhưng tôi chưa vội vàng. Thứ nhất, để chúng đỡ đánh giá cái óc còn tốt của tôi. Thứ hai, tôi đang liếc về chỗ bụi rậm, nơi có tổ kiến vàng và nhiều sâu róm, nơi đã che dấu tôi buổi đầu. Nhưng rồi, tôi đã chả làm nên trò trống gì, để bây giờ lọt vào tay kẻ thù. Tôi cũng thấy lòng thèn thẹn với cả bụi cây, mà giờ đây đã qua mùa Thu, mưa nhiều nên xanh um hơn trước. Liếc sâu vào trong bụi, nhìn ra con đường mòn và thửa ruộng đoàn người xuống gặt ngày ấy, lòng tôi xót xa đầy vơi cho kiếp đời gió mưa của mình. Nhìn ra xa xa, biển khơi một màu xanh ngắt. Nhớ đêm nào các anh đã bế tôi vào bờ. Bây giờ các anh, các bác đang làm gì, có bao giờ các anh, các bác ngồi nhớ lại cái đêm định mệnh đã làm tàn lụi, một đời người thanh niên không? Tự nhiên tôi thở dài nhè nhẹ, như trút dần những nỗi niềm đang buộc chặt trong lòng.

Trong lúc tôi đưa mắt nhìn đây đó như cố moi óc để xác định chỗ chôn dấu, tôi thoáng thấy từ xa, nơi một bụi cây cách tôi hơn 200 mét, mọc ở một chỗ hõm đồi cát, mấy cái đầu lố nhố thập thò. Tôi lại nhìn thấy một họng súng đen xì khuất chéo bụi cây. Lòng thầm ca ngợi sự cảnh giác đúng cỡ của Cộng Sản. Chúng đã chủ động ngày giờ đi, và tôi đang ở trong tay chúng, không có một tấc sắt mà còn bị khóa hai lần. Tất cả chỉ vì cái đa nghi phòng hờ của chúng. Tôi đã tả kỹ, vẽ rõ ràng sơ đồ, chỉ cho chúng vào lấy, chúng không tìm ra. Bây giờ phải dẫn tôi đi, có lẻ chúng đã nghĩ, biết đâu, đây lại chả là một kế hoạch có chủ trương của tôi; hoặc biết đâu, những mạng lưới hoạt động của tôi theo dõi, bám sát, đến nay, thấy tôi được dẫn về địa điểm hẹn, đã báo cho Sài Gòn để bất ngờ vài chiếc “máy bay lên thẳng” vũ trang xuất hiện bắn phá, rồi nhào xuống cướp tôi đi. Vì thế, chúng đã huy động du kích xã bố trí, chung quanh khu vực tôi chôn đồ. Phải công nhận Cộng Sản làm việc gì đều tính toán tỉ mỉ, phòng hờ những tình huống có thể xẩy ra. Nhưng, một điều chắc chắn là chúng không thể biết được, tôi đã thấy du kích bố trí, vì từ ánh mắt đến thái độ của tôi đều không có gì khác thường cả.

Sau một lúc nhìn khắp nơi cảnh vật, mắt cau cau như thể phải vận dụng óc để nhớ lại, tôi chỉ:

- Đào chỗ này!

Chúng có một cái xẻng nhỏ của bộ đội, chúng chỉ đào sâu chừng 20 phân đã thấy cả một cái ba lô mầu vàng, to tướng của Nhật và chiếc xẻng con của tôi đã chôn theo. Vải ba lô bây giờ đã trở thành mầu xám đen và đã mục vài chỗ. Rất nhiều rễ cây con mọc chằng chịt chui vào chiếc ba lô. Máy móc, tiền, thuốc Tây, bi đông, v.v… Và cả khẩu súng ngắn phòng thân, đem đi phòng hờ bị kẹt ở điểm đổ bộ chưa ra được đường. Vì được tôi bọc trong một miếng ny lông nên hãy còn nguyên.

Sau mươi phút, chúng lấy hết lên. Tất cả đều đúng như tôi đã kê khai trước đây. Một vài thứ đã mủn rách, chúng cũng cho tất cả vào một chiếc bao tải. Tên Thành vác lên vai. Khi lấy các thứ này, chúng vui vẻ ra mặt. Thái độ của chúng đối với tôi cũng bớt phần gay gắt. Tôi nhìn 200 đồng bạc, bây giờ mới thấy thèm, vì vậy, khi về tới xe, tôi lựa lời:

- Thưa các ông, số tiền ấy…tôi có được dùng không?

Chúng đều quắc mắt, tên Đức cao giọng, dõng dạc:

- Đó là tiền của Mỹ Diệm trang bị cho anh để đi hoạt động gián điệp, đâu phải tiền của anh. Hơn nữa, tiền đó còn để làm tài liệu, chứng cớ.

Tôi cũng hơi tiếc biết thế hôm đó mang tuốt cả đi, tiêu cho đã. Tôi đã phải dè sẻn tiêu pha. Bị bắt, trong túi còn 20 đồng, vẫn bị tịch thu khi chúng khám xét.

Tôi nhớ, trên đường trở ra Quốc Lộ 1, bây giờ đã đào được rồi, không có chuyện gì xẩy ra, chúng cũng hơi chủ quan. Cả 3 tên Thành, Nhuận và Đức đi đường nào tôi không biết, chỉ còn hai tên cảnh sát giong tôi. Ngay khi đào được đồ, tôi kêu tay tôi mỏi và ngứa quá không gãi được. Chúng thấy đã có kết quả, nên cũng dễ dãi đồng ý khóa tay tôi ra phía trước và chỉ một khóa số 8 thôi.

Khi đi với hai tên cảnh sát ra tới giữa cánh đồng. Tôi nhìn suốt một giải chung quanh, cánh đồng rộng bao la, lại thỉnh thoảng có một ruộng đang có lúa. Vì ở giữa cánh đồng, không có nhà cửa cây cối, hai tên cảnh sát cũng chủ quan. Có lúc cả hai tên cùng đi trước tôi đến 7, 8 thước. Chắc chúng nhìn thấy tấm thân tôi xanh xao gầy gò, bước đi còn không nổi, tay lại còn bị khóa nên chúng cũng chả cần đề phòng gì. Tuy hai tay bị khóa, khi thấy một vũng nước nhỏ có con cua, hay con cá, tôi vẫn đứng lại nhìn, hoặc sà xuống lấy tay hất con cua lên chỗ khô.

Giữa cánh đồng, không khí trong lành, tôi đi lại được thoải mái nên người khỏe hẳn lên. Tôi chợt có ý nghĩ, nếu tay không bị khóa, đây là cơ hội đẹp biết bao. Không có cách gì để mở được chiếc khóa này! Tay tôi hơi nhỏ, bây giờ lại gầy nữa, nếu có xà bông, nhất định ra.

Tôi nói một cách có suy nghĩ tính toán là nếu tay tôi không bị khóa, hai tên cảnh sát ở giữa cánh đồng, dù có hai khẩu súng ngắn dắt trong bao đeo ở cạnh sườn, tôi sẽ vẫn giải quyết được trong 5 đến 10 phút. Với tình huống này, tôi có khả năng gây cho chúng chủ quan rất dễ. Mà đã chủ quan coi khinh tôi, chỉ vài thế đánh chớp nhoáng là chúng gục, nhất là lúc này lại là lúc tôi phải quyết tử, khác hẳn với lúc tôi chưa bị bắt. Âu cũng là nghiệp chướng của đời tôi!

Xe về tới Hà Tĩnh đã 5 giờ chiều. Tôi lại được xuống bếp, lại gặp hai nữ cán bộ hôm qua. Vẫn có nồi cơm nguội của các bà. Hôm nay, lại có hai con cá rô nhỏ kho và một bát con rau muống luộc. Rau muống luộc mà chấm với nước cá kho, thật là hồn bay tận mây xanh. Tôi cắm cúi ăn, lòng thầm biết ơn hai người. Suốt bữa ăn, cả hai đều ngồi đấy, một đọc sách, một khâu. Chả ai nói với ai một lời. Im lặng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng loong coong của đôi đũa chạm vào bát khi tôi và cơm. Ăn xong, tôi đứng dậy nhìn hai bà với ánh mắt dạt dào tình người. Một người ra ngoài một lúc, một tên công an vào, ra hiệu tôi đi theo y. Trên đường dẫn đến xà lim, bấy giờ tôi mới chợt nhớ đến rệp. Tôi thấy rùng mình. Cứ nghĩ đến đàn rệp lổm ngổm ở chiếc sàn gỗ. Vẫn là căn buồng xà lim hôm qua. Khi y chuẩn bị đóng suốt cùm, tôi nói như than vãn:

- Thưa ông, chiếc sàn này nhiều rệp quá!

Y nhìn tôi lừ lừ, chẳng nói một lời, bỏ ra, đóng cửa, khóa lại.

Đã có kinh nghiệm, cùm xong, tôi ngồi xổm ngay dậy. Tôi ngồi sầu, suy nghĩ miên man. Vô kế khả thi. Chẳng có cách gì để chống lại lũ rệp. Không lẽ, tôi cứ phải ngồi như vậy suốt đêm? Một ý niệm tràn vào óc tôi. Trong cuộc đời, nhiều khi vì cái thế, phải thua, phải hàng cả con … rệp. Cũng một con người ấy, nhiều khi hiển hách, hét ra lửa, bao kẻ phải cúi đầu lo sợ; nhưng, cũng có lúc vì cái thế. Óc tôi cứ chảy dài theo dòng suy ngẫm, bỗng giọng một người con gái nghe như thì thầm gần đâu đây:

- Sao anh không nằm nghỉ?

Tôi ngỡ ngàng, vểnh tai về phía tiếng nói, chẳng hiểu nói với tôi hay nói với ai! Im lặng, mấy phút trôi qua. Lúc này, rõ ràng là người con gái ấy nói với tôi, nghe khe khẽ như tiếng thì thào từ một khe nứt ỏ một tấm vách tường:

- Sao anh không trả lời?

Như vậy, hẳn cô nàng khi nãy có nghe loáng thoáng tôi nói chuyện với lão cán bộ rồi. Cũng với giọng khe khẽ tôi thì thầm:

- Xin lỗi, có phải cô Nguyệt?

Giọng hơi ngạc nhiên:

- Sao anh biết tên tui?

Tôi hơi cười:

- Tôi còn biết anh Thời nữa!

Rồi để đánh tan sự ngần ngại, ngạc nhiên, tôi tiếp:

- Có gì đâu, hôm qua tôi nghe anh chị gọi nhau.

Và để chủ động, tôi tiếp tục:

- Chị bị bắt lâu chưa, về tội gì?

- Hơn tháng rồi. Tôi là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Lao Công của xứ đạo. Họ bắt tôi phải từ bỏ việc làm của tôi, để gia nhập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tôi không đồng ý, nên họ ghép tội tôi là phần tử phản cách mạng, họ bắt.

Tôi thấy chị tỏ ra cởi mở, không giữ gìn, dễ tin người. Nhưng, cũng có thể chị đã có cái nhìn tinh tế về tôi, nên mới vậy chăng? Tôi tiếp tục:

- Còn anh Thời?

Chị nói nhỏ:

- Tôi không biết rõ lắm!

Tôi hơi cao giọng:

- Tôi có lời chào và thăm hỏi anh Thời!

Tiếng nói từ một buồng phía xa:

- Chào anh bạn, anh mới bị bắt vào hỉ?

Thấy xa xôi quá, phải nói to không tiện. Nói to trong đêm khuya là một điều bất lợi. Lại tiếng chị Nguyệt nho nhỏ:

- Anh bị bắt vì tội gì? Trông anh ốm lắm!

Tôi cũng hạ giọng:

- Xin cảm ơn sự quan tâm…Chị nhìn tôi có rõ lắm không? Thế mà tôi chả biết chị như thế nào?

Một tiếng cười khẽ:

- Người ta hỏi lại cứ tảng lờ!

Cô này có vẻ đáo để và khôn ngoan. Để khỏi phiền toái những hậu họa vô ích, tôi thủng thẳng:

- Tôi là giáo viên cấp II ở Hà Nội, tội vượt tuyến.

Một lúc im lặng, rồi với một giọng thắc mắc:

- Vượt tuyến gì mà lại cùm hai chân?

Ghê nhỉ! Phụ nữ cũng không vừa. Nghĩ vậy, tôi thản nhiên:

- Có gì đâu, trong lúc bị vây bắt, tôi đã đánh cán bộ.

Lại một tiếng cười khẽ:

- Dữ nhỉ! Anh hay đánh người lắm hỉ?

Để khỏa lấp chuyện đó, tôi hỏi:

- Ở đây có mấy buồng xà lim? Nói chuyện thế này, có khi nào bị cán bộ rình bắt cùm không?

- Ở đây có 8 buồng. Nói chuyện nhỏ thế này từ 10 giờ đêm trở đi, không sợ. Thỉnh thoảng nghe tiếng chân cán bộ đi kiểm tra, mình im luôn.

Tôi nghĩ bụng, nói chuyện thế này, những lúc hứng câu chuyện, làm sao nghe được tiếng chân. Hơn nữa, gặp phải một tên cán bộ quái, nghe tiếng chân sao nổi. Tuy vậy, tôi cũng không nói ra, tôi nói như than thở:

- Sao ở đây nhiều rệp thế, tôi không thể nằm được!

Lại tiếng cười xìn xịt. Sao hay cười thế! Hết cười, cô mới như an ủi:

- Ngày mai, anh báo cáo cán bộ trực xà lim, xin ít dầu lửa đổ vào các khe gỗ.

Tôi nghĩ thầm, ngày mai tôi có còn ở đây nữa đâu. Tuy vậy, tôi im lặng.

Cũng quá nửa đêm rồi, tôi đứng lên ngồi xuống nhiều lần đã mỏi quá. Thôi, cũng đành như đêm qua, đành mời mọc hiến dâng cho những con rệp, con muỗi một bữa no nê nữa.

Máu của tao, khổ cực đói khát quá, nên vừa hôi tanh, vừa loãng lắm. Lũ chúng mày chỉ có thể hút máu những người nghèo khổ cùng cực, chứ những loại máu thơm ngon bổ béo của những người giầu, chúng mày đừng hòng. Người ta có mùng mền sạch sẽ, và có nhiều loại thuốc để trị chúng mày! Giống như đồng chí của chúng mày vậy, chúng chỉ có thể hút máu mủ, những đám dân nghèo nàn lạc hậu, như những nước giầu có văn minh, người ta có hở cơ ra, chúng mày cũng chỉ “khạp” được một miếng mà thôi.

Mới mờ sáng hôm sau, tên công an trực trại đã vào mở cửa, mở cùm bảo tôi ra. Có lẽ lúc này cô Nguyệt còn ngủ, hoặc có thức, tôi cũng không làm sao lên tiếng chào một người “chiến hữu hai đêm”. Lợi dụng lúc tên công an quay lưng đi ra, tôi gõ nhè nhẹ tay vào tường hai cái, gọi là để giã từ người bạn mới có lòng.

Cái buổi từ Hỏa Lò ra đi, đã ruột gan đòi đoạn từng cơn. Bây giờ trở về, dù được chúng thông cảm khóa tay ra phía trước, nhưng trong lòng tôi như không còn một chút nhựa sống. Xe long lóc, người tôi ngả nghiêng; vật vờ, rũ rượi, như những chiếc lá úa trước những trận Thu phong cuối mùa.

Xe càng chạy trở về, tôi thấy lòng càng quặn thắt, xa dần miền Nam thương yêu. Lần lượt, những hình ảnh bạn bè, họ hàng ruột thịt chan chứa, đầm ấm hiền hòa hiện ra trong óc tôi. Qua khe hở của chiếc mui xe, tôi rõi mắt nhìn một mảnh trời hình tam giác lệch, về hướng Nam. Một mảnh trời xanh xanh mơ hồ, vời vợi, rõ ràng nét mặt của mẹ tôi, với đôi mắt sầu ngấn lệ, nhìn tôi đăm đăm. Một âm vang rền rĩ trong óc:

Mẹ ơi! Cách trở ngàn trùng.
Hướng về nơi mẹ, ngập ngừng…lệ rơi!

Tôi nhắm mắt lại để ngăn giòng lệ khỏi trào ra, uất nghẹn dồn về trái tim đen thẫm.

Xe chạy qua Vinh, trên đường đi Thanh Hóa. Hai bên đường ngập lúa chín vàng. Những sóng lúa dập dờn theo chiều gió, những làn hương đồng nội ngất ngây phả ắp không gian, cũng không làm giảm được nỗi buồn héo hắt trong lòng tôi.

Xe từ từ ngừng lại ở mé đường. Tôi liếc nhìn ra khi hai tên Thành và Nhuận xuống xe. Nhìn theo con đường đất chạy dài mãi vào nơi làng xóm xa xôi. Mãi trong phía xa, khoảng 200 mét cách đường nhựa nơi xe đậu, tôi thấy có 3, 4 thanh niên và mấy em nho nhỏ, hầu hết là quần đùi, chân đất đang chạy ra phía chiếc xe. Khi các em chạy đến, qua một vài câu trao hỏi, tôi mới hiểu đây là quê hương của tên Thành. Chắc Thành đã viết thư từ trước. Lâu ngày đi làm việc ở Hà Nội xa, may có dịp công tác qua quê nhà, nên y hẹn các em, các cháu ra hỏi han tin nhà, và cũng là để vẻ vang với xóm làng.

Mấy thanh niên và các em nhỏ tò mò nhìn vào trong xe. Chẳng biết chúng sẽ suy nghĩ gì với những cái đầu óc bị bao vây trong lũy tre làng! Lũ thanh niên và Thành hỏi han nhau tíu tít, nào là:

- Anh Thành ơi! Anh A đã vào chiến trường B rồi (theo miền Bắc lúc ấy: Chiến trường “A” là miền Bắc, “B” là miền Nam và “C” là Lào).

- Chị B lên huyện làm y tá.

- Anh C đã làm tiểu đội trưởng du kích, v.v…

Đột nhiên, một thanh niên giọng háo hức:

- Anh Thành ạ, anh Luơng làng mình đã mua được một chiếc xe đạp rồi đấy. “Bình bầu” mãi! 280 đồng giá cung cấp. Hai cái tay “phanh” sáng loáng. Hôm nọ, nói mãi anh ấy mới cho em đi thử một vòng ở sân hợp tác xã, êm như ru, sướng lắm!

Tôi nghĩ thầm. Một chiếc xe đạp! Bao nhiêu lâu anh em mới gặp nhau có mươi, mười lăm phút, mà khoe “một chiếc xe đạp”, lại là của người khác cho mượn. Tôi cảm thấy, ở miền Nam, chuyện mua một chiếc ô tô cũng không đến nỗi chiếm vào cái thời giờ ngắn ngủi, mà bao nhiêu chuyện gia đình cần nói.

Sự việc này, cho phép tôi hiểu hơn một chút về cảnh sống của người dân miền Bắc. Đám thanh niên, trẻ con còn rờ, còn mó chiếc xe ô tô như một thứ kỳ vĩ lạ lùng. Với đầu óc ngây thơ hạn hẹp của họ, đúng là Liên Xô, Trung Quốc vĩ đại thực, vô địch thực! Nghĩ cho cùng, nếu tôi phải sống như họ, thì tôi cũng chẳng khác gì họ. Vậy, lỗi này đâu có phải tại họ!

Mười lăm phút sau, xe lại chạy, những đứa trẻ con còn cố chạy theo để rờ, mó chiếc xe như thể tiếc rẻ chưa rờ đã!
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 56 guests