Thép Đen - Đặng Chí Bình

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 26 Jan 2010

Image

Thép Đen Tập 1
Đặng Chí Bình

Tâm Sự Người Viết

Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ tới lại có một ngày ngồi viết câu chuyện của đời tôi. Từ bối cảnh của đất nước, do những xô đẩy của giòng đời, tôi đã nhận một nhiệm vụ nhỏ bé để xâm nhập vào đất địch, và tôi đã rơi vào tay kẻ thù. Như vậy, trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác. Hơn nữa, một số bạn bè thân quen còn ngăn cản tôi đừng viết.

“Anh hãy lo cho cuộc đời của anh trước đã, đời anh đã khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, tác phẩm của anh rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác, của những người đã đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ, không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ còn phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày và lo cho tương lai, họ đâu còn quan tâm đến những chuyện đã qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi tìm một công việc làm nào đó, là thực tế nhất.”

Nhìn vào thực tế, rồi nghĩ lại hoàn cảnh tỵ nạn của mình, tôi thừa nhận những lời khuyên của bạn bè là xác đáng, và tôi đã xông vào cuộc đời mưu sinh. Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm sự trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thấp thỏm không yên về quê hương đất nước và đời sống, bao nỗi giằng co vò xé, gậm nhấm cõi lòng. Những tiếng kẻng của nhà tù Cộng Sản, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh, quấn chặt hồn tôi:

Thoảng nghe “phôn” réo bên tai,
Giật mình tưởng kẻng sớm mai nhà tù!

Hình ảnh những bộ xương vẫn còn di động trên chốn lao trường, những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu; dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn những tiếng rên xiết quằn quại trong đêm dài tăm tối … và những cặp mắt khát khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như đang khẩn nài, gào thét, đòi hỏi tôi phải thực hiện “bản di chúc sống” của họ.

Tôi biết, dù mình sức hèn tài mọn, nhưng vẫn còn may mắn hơn biết bao các bạn bất hạnh còn lại trong tù. Cho nên, tôi tự cảm thấy mình đang khoác lấy một trách nhiệm, mang một bổn phận – nếu có thể được phép nói như vậy – để vuốt mắt cho những người đang uất hận, ứa máu bầm gan trong gông cùm xiềng xích của bè lũ cộng nô Hà Nội.

Tôi ước mong tập hồi ký nhỏ mọn này, sẽ là một ngọn nến nhỏ trong trăm ngàn ngọn nến to lớn khác, được thắp lên trong mờ mịt u tối của chế độ phi nhân Việt cộng. Nếu đốt được ngọn nến đó, dù leo lét, tôi cũng cảm thấy vui sướng đã thể hiện được phần nào trách nhiệm của mình đối với “bản di chúc sống” kể trên.

Lời chót, tôi chỉ biết lần lượt tường thuật lại sự việc, như tháo dần một cuộn chỉ ra từ đầu đến cuối. Và, vì vấn đề an ninh của năm, bẩy người đặc biệt, nên tôi bắt buộc phải đổi tên và địa điểm sống ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Cũng từ ý thức tôn trọng sự thật, kính mong quý vị thông cảm và tha thứ.

Đặng Chí Bình




- Tựa -

Trong xà lim Hỏa Lò của Việt Cộng, người tù bị cùm hai chân trên bệ xi măng, bề ngang chừng 65 phân. Cùm sắt dầy và lạnh, được đóng đai kiên cố để nghiến chặt cổ chân của nạn nhân. Hai tay bị xiềng ngược ra sau, nên tù nhân phải nằm nghiêng. Và dịch, lết ra mép sàn xi măng để giải quyết nhu cầu vệ sinh, phân rơi vãi tung toé ra khỏi mặt bô đặt dưới đất. Ngày này qua ngày khác, nạn nhận bị liệt cả hai chân, và sống trong hôi thối ẩm mốc của xà lim như một con thú.

Nhưng nạn nhân còn cái mồm, nghĩa là còn được một chút tự do có giới hạn của những tiếng thều thào, những lời rên xiết, hay những tiếng la hét chưởi rủa.

Và khi đó, một vật dụng kỳ quái tượng trưng cho nền dân chủ ưu việt của chế độ Cộng Sản mới được đem ra áp dụng. Đó là cái cùm mồm. Bằng sắt, có bắt đinh ốc và lò xo, để khóa cứng hàm nạn nhân. Để người tù không thể chửi chế độ, chưởi lảnh tụ hay la hét gì được nữa. Người tù đã nêu đích danh Hồ Chí Minh ra chửi, ngay giữa Hỏa Lò Hà Nội, để mong được giết, hoặc được bắn, để sớm chấm dứt cảnh dở sống dở chết của mình. Nhưng Việt Cộng, chúng không nóng ruột hấp tấp như vậy, chúng đã phát minh ra cái cùm … mồm.

Không có gì quý hơn độc lập tự do. Câu nói mới thấm thía và khốn nạn làm sao!

***

Trong dãy xà lim, tù nhân được một con chuột nhắt, gầy bé như ngón tay, chui vào thăm.

Trong tù, ngoài đá, mồ hôi và máu kết đen trên nền xi măng, còn có gì để quyến rũ một con chuột? vậy mà con chuột đã chui vào, bị bắt, chạy thoát, rồi ít bữa sau lại bò vào. Vì ở bên ngoài, trong vùng tự do của súc vật, nó đói. Trong nhà tù, nó con hy vọng mong manh là tranh hạt cơm với người tù bị xiềng, bị liệt.

Mỗi ngày, người tù để dành vài hạt cơm cho người bạn bốn chân này. Đấy là cõi giải thoát của người tù, một chút tình cảm san xẻ với một con vật xấu số, để thấy là mình vẫn còn sống.

Con chuột nhắt này cũng có tội, nó đã bị tên công an quản giáo lấy chân di chết. Trong Hỏa Lò tù nhân không có một sự giải thoát nào, dù chỉ bằng cách kết bạn với một con chuột nhắt đã bị bẻ răng.

Không có gì quí hơn độc lập tự do. Câu nói mới hiểm độc và ghê khiếp chừng nào.

***

Cũng trong Hỏa Lò, tù nhân được biết đến một người đã có hình ảnh nổi tiếng thế giới. Người anh hùng Điện Biên, trong Đại đội năm xưa đã hồ hởi cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy của de Castrie. Anh đã kết thúc cuộc đời vẻ vang của anh trong Hỏa Lò, như một tù chính trị. Tội của anh là đã lầm tưởng những điều Việt cộng nói là sự thật. Không, điều đó chưa phải là một cái tội. Tội của anh là đã nêu lên câu hỏi về sự thật đó. Người bộ đội gốc tiểu tư sản yêu nước này, là một điển hình của biết bao người khác đã vỡ mộng và chết kẹt, giữa những điều đảng nói và những điều đảng làm. Bị nghiền nát không âm vang.

Trong Hỏa Lò, điều ghê rợn nhất chính là sự im lặng. Đời sống im lặng và cái chết im lặng. Tất cả đều âm u một mùi tử khí của nghĩa địa. Và, khác biệt giữa sự sống và cái chết có khi chỉ là một tiếng thở nhẹ trong xà lim số 7, không ai hay biết. Làm sao con người có thể nghe thấy cái chết khi bị bao vây giữa đám quỷ sống.

Cũng vì vậy, dù chẳng được ai nói, chỉ qua những dấu vết còn ghi trên mặt đá, người tù cũng được biết nơi đây đã có thời cùm hãm Thụy An. Nhà văn nữ một thời nổi tiếng vì cái chết tức tưởi của nhà cách mạng Đỗ Đình Đạo. Cũng tưởng là mình có công với chế độ.

Trong Hỏa Lò Hà Nội, có rất nhiều người đã tưởng lầm như vậy. Họ là cán bộ, là đảng viên, là thường dân, là trí thức… Họ là chiếu rọi của xã hội bên ngoài, với những điển hình kinh hãi như dưới một ống kính hiển vi. Chỉ vì tưởng lầm.

***

Tác giả thì không nhầm lẫn về bản chất chế độ. Ông là người đã di cư vào Nam thời Genève. Ông được huấn luyện bởi Cục Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tung ra Bắc hoạt động. Ông là một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối, đã tìm ra tới Hà Nội, để thi hành những điệp vụ, cho đến nay vẫn còn được giữ bí mật. Công tác vừa hoàn tất, thì ông bị bắt. Năm đó là năm 1962, thời mà miền Nam chúng ta vẫn còn mù mờ về thực trạng miền Bắc. Mười tám năm tù đã cho ông một kinh nghiệm hiếm có.

Ông đã sống, và đã thấy tận mắt với cái nhìn tỉ mỉ, những cảnh tượng, tưởng chỉ có thể xảy ra trong trí não một người bất bình thường. Một cuốn phim kinh dị được dựng lên bởi nhiều tên đạo diễn bịnh hoạn. Toàn thể chế độ Việt cộng, và trong đáy sâu của Hỏa Lò, đời sống lao tù Việt cộng, và kết quả những phát minh ghê khiếp nhất.

Nếu sự thực có vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta, chỉ vì chúng ta đánh giá sai chế độ Cộng Sản, đánh giá sai cái bệnh quỷ quái của chúng.

Điều đáng nói ở đây, tác giả Đặng Chí Bình, bút hiệu hay bí danh điều đó thực không quan trọng, đã không đi vào một cuộc thi đua kinh tởm. Nghĩa là không phải nhớ lại, hay nặn ra những chi tiết ghê người nhất. Sự thật bình thường vốn đã đủ làm ta khiếp hãi …

Tác giả Đặng Chí Bình không phải là một nhà văn. Ông chưa khi nào cầm bút viết văn. Và, chính như ông tâm sự “Trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác”.

Ông chỉ bị thúc giục phải thực hiện một bản di chúc sống cho những người hiện vẫn kéo lê kiếp sống trong lao tù Việt cộng. Ông phải viết để nhắc nhở mọi người là dưới ánh mặt trời, vẫn còn một cõi mờ mịt u tối của chế độ Việt cộng phi nhân. Ông muốn thắp một ngọn nến nhỏ để soi vùng quỷ dữ, để vuốt mắt những người đã gục ngã vì đại nghĩa dân tộc, để vuốt ngực cho những người đang ứa máu bầm gan trong gông cùm Việt cộng.

Chính vì ông không muốn làm văn chương, mà chỉ viết theo ký ức được lần giở như tháo dần một cuộn chỉ từ đầu tới cuối, hồi ký của ông mới làm ta khiếp sợ. Tất cả ngôn ngữ ông dùng, lối nhìn lối nói, và cả cách đem chính mình ra hồn nhiên châm biếm. Tất cả bút pháp của ông đều phản ảnh một điều: Ông nghĩ sao, và nhớ thế nào thì viết ra như vậy. Có cái gì đó làm ta muốn run bắn lên trong cách ông thản nhiên kể lại câu chuyện.

Hơn hai mươi năm đã qua rồi. Ông bình thản lần giở cuộn chỉ của đời mình trong tù … Những tiếng rên xiết, tiếng người tra tấn người, tiếng xích lê trên sàn đá, và cả sự yên lặng cuồng nộ vẫn vang lên từng nhịp, theo giòng chỉ kéo dài từ những ngày tháng âm u của cõi chết.

Ông không làm văn chương, nhưng khí văn của ông mới làm ta rùng mình.

***

Tuy nhiên, điều đáng nói nhất trong hồi ký vẫn chưa phải là những mô tả về vùng đất của quỷ. Điều làm ta sững sờ nhất cũng không phải là sự sống trong cõi chết âm u, mặc dù sức phấn đấu của con người vẫn làm ta bàng hoàng theo từng trang sách.

Điều đáng nói, và đây là sự kỳ diệu nhất của tập hồi ký, chính là sự trỗi dậy của tình người trong thế giới của loài thú.

Ngay trong Hỏa Lò, đêm đêm tù nhân vẫn biết là có ai đó kín đáo qua lại giúp đỡ họ. Nhiều khi chỉ là một câu hỏi thăm ngắn gọn, lạc giọng, hoặc một tiếng thở dài thông cảm. Hay một mẩu thuốc lào được luồn qua kẽ cửa, để giúp người tù cầm máu … Vào giờ đó, chỉ có quản giáo canh giữ Hỏa Lò mới được đi lại bên ngoài. Người đó là ai? Tù nhân không biết, chỉ biết là trong đám quản giáo, vẫn còn có người có được một chút nhân tính, và lặng lẽ làm cử chỉ của con người. Lặng lẽ thôi, nếu không, chính họ sẽ bị đổi vị trí, từ ngoài vào trong xà lim.

Việt cộng muốn biến con người thành loài thú. Nơi chúng có thể thành công nhất, chắc phải Hỏa Lò Hà Nội. Nhưng, cũng tại nơi đây, tác giả đã sống và đã thấy sự chiến thắng của loài người. “Cộng sản không thể nhuộm đỏ được hết tâm hồn loài người”. Ông kết luận như vậy.

Và ông đã nhìn ra rất đúng. Vì công tác của ông chỉ có thể hoàn tất, khi ở miền Bắc có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, từ những năm 1960. Một vị linh mục, một người bác sĩ, một thiếu nữ áo nâu quần ka ki … Và biết bao nhiêu người anh hùng vô danh khác. Ngay cả những người nông dân hồn hậu, những nạn nhân hàng đầu của chế độ Việt cộng, họ sống chật vật trong cảnh tăm tối mà vẫn có những hành động chói sáng tình người …

Sự kiện Đặng Chí Bình đã trải qua tuổi thanh xuân trong một thế giới thú vật, và đã trở lại nguyên vẹn cùng chúng ta, với những mô tả tinh nghịch, những lời nói thành thật về những lầm lẫn của chính mình, với những phê phán rất bình thản và độ lượng về thói xấu của con người, sự kiện đó cũng chẳng là một điều kỳ diệu sao?….

Ông là người đã đội mồ sống dậy, và cái sống nhất trong tác phẩm của ông, chính là cái chất “người” mà nhiều khi ông đã sợ mất, nhiều khi ông đã thấy mất ở nơi khác …

Cũng vì vậy, Thép Đen là một tác phẩm lớn. Không chỉ ở nội dung, tình tiết, mà còn ở ý nghĩa rất nhân bản của tác giả. Xin cảm ơn Đặng Chí Bình, đã tranh đấu để tồn tại, để vượt thoát, và để ghi lại cho chúng ta sự thắng thế của loài người trên loài quỷ.

(Lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến, năm 1987)



- Tâm Tư Khi In Lại THÉP ĐEN -

Năm 1985, tôi viết xong hai tập hồi ký Thép Đen I & II. Hai năm sau mới tìm được nhà in và phát hành. Năm năm sau Thép Đen tập III mới ra đời. Từ khi Thép Đen I & II được in đến nay đã 15 năm. Trong thời gian đó phần vì sức khoẻ, phần vì gánh nặng gia đình, tôi hầu như không viết lách gì, cũng không sinh hoạt báo chí gì cả. Nhưng thật ngạc nhiên, cứ thỉnh thoảng tôi nhận được một lá thư độc giả nói về Thép Đen. Cả thảy có hơn 300 lá thư. Đài phát thanh Việt Ngữ Quê Hương ở Bắc Cali, Đài Sống Trên Đất Mỹ ở Nam Cali … cho đọc Thép Đen. Có cả những đài cho đọc mà tôi không được biết, chỉ biết do thính giả quen. Bây giờ thì ngoài sách Thép Đen, còn có cả băng audio và đĩa CD Thép Đen nữa.

Trong hân hạnh ấy, tôi tự hỏi làm sao mà Thép Đen được đón nhận như vậy? Trước và sau Thép Đen có biết bao hồi ký về lao tù và thời cuộc. Có nhiều bí mật chính trị được phanh phui. Bao nhiêu vị tướng lãnh thuật lại những giai đoạn gay go của đất nước. Bao nhiêu nhà văn tên tuổi ghi lại những cảnh sống tù đầy mà nếu không có văn chương tài năng, khó có thể nói lên những trạng huống cũng như cảm xúc day dứt và cùng cực. Trong khi đó tôi chỉ là một điệp viên không tên tuổi, thi hành một công tác giới hạn, hầu như bị bịt mặt trước thời cuộc, cũng chưa bao giờ viết văn, và ngoài Thép Đen cũng chưa viết gì đáng kể. Hỏi bạn bè, mỗi người cho một ý kiến. Cuối cùng tôi đoán rằng, ngoài một số yếu tố về văn mà Thép Đen cùng góp phần với các tác phẩm khác, có lẽ tính xác thực một cách mộc mạc của Thép Đen đã lôi cuốn độc giả suốt mười mấy năm nay chăng? Có độc giả gửi thư sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Có người nhận là vợ của một trung tá cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy v.v… Nhiều độc giả hỏi cô Vân bây giờ ra sao?

Nếu các độc giả muốn biết về cô Vân ra sao một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước. Tôi mơ ước có một ngày được về rờ những bức tường xà lim, cái cùm chân và cùm mồm. Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đầy đọa trong kiểu tù đầy chắc chỉ còn sót lại cuối cùng trong bước tiến hóa của con người nhân tính từ thế kỷ này.

Đã gần 20 năm, tôi chưa về được. Nhưng may cho tôi, có một vị linh mục trẻ và một bạn trẻ độc giả đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quí nhất một anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ”, của đất Hưng Yên nhiều mầu mỡ, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết được tôi sung sướng đến mức độ nào! Có đến vài tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có cái xà lim và không có cùm.

Cho nên, một phần để đáp lại sự đón nhận của độc giả, một phần Thép Đen những lần in trước đã không còn, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung nhiều hình ảnh mới có được. Một điều ngạc nhiên cho chính tôi là, cũng như viết văn, tôi chưa hề vẽ bao giờ, vậy mà chỉ bằng trí nhớ, tôi vẽ được cái cùm mồm, cùm chân, xà lim … trong khi viết Thép Đen gần giống như cái hình chụp bây giờ, cả về hình dáng cũng như kích thước. Vậy, chính vì tính xác thực tạo nên sự hấp dẫn và thuyết phục cho Thép Đen thì lần tái bản này, tôi hy vọng có thể góp thêm vào sự xác thực ấy.

Sau hết, tôi xin cảm tạ vị linh mục trẻ, anh chị bạn thân và một độc giả thanh niên nhiều nghĩa tình. Đã giúp tôi giải tỏa được phần nào nỗi niềm trong lòng tôi.

Boston ngày 29 tháng 10 năm 2002.
Đặng Chí Bình
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 27 Jan 2010

Tập I - Chương 1

Cuộc Họp Đầu Tiên …

Vào một buổi tối cuối Xuân 1959, trời thật nhiều gió. Những hàng me trên đường “16” vật vờ, nghiêng ngã theo từng đợt gió mạnh. Từng đám lá me khô nhỏ dảy dụa cuốn đuổi nhau như đám ong vàng, gây nên những tiếng xào xạc, trên mặt đường.

Buổi tối đó là ngày thường nên khu nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng Cha Cả Tân Sơn Nhất Sài Gòn rất vắng vẻ. Xa xa một vài ánh điện từ ngoài đường Trương Minh Ký hắt vào, càng làm cho khu vực nhà thờ mập mờ, chỗ sáng chỗ tối.

Nhìn sang phía bên kia nhà thờ, tôi thấy thấp thoáng trong một góc tối mấy người cũng có vẻ như chúng tôi, nghĩa là cùng chờ giờ hẹn với một người.

Mãi 8 giờ 15, từ đầu đường “16”, một chiếc xe “díp” thường dân đi tới và từ từ đỗ lại, trong bóng tối của một cây me bên đường, cách xa nhà thờ một khoảng.

Một bóng người bước xuống và đi về phía nhà thờ. Chúng tôi chả ai nói ra, nhưng cùng hiểu đó là người chúng tôi đang đợi. Lẩn trong bóng tối, chúng tôi chỉ thấy người đó mặc áo blouson xám, đội mũ “phớt”. Ông ta đi vào khu buồng cha Khuê phía đầu nhà thờ.

Chừng 10 phút sau, một chú bé giúp lễ ra sân mời chúng tôi vào. Cha Khuê không giới thiệu, nên chúng tôi chỉ biết gật đầu chào. Sau khi ông ta nói với Cha Khuê, xin mượn một phòng học ở trên lầu, ông quay lại phía chúng tôi với giọng Huế nặng chình chịch:

- Mời tất cả các anh em lên trên gác!

Chúng tôi nhìn nhau, chẳng ai nói một lời lục tục bước theo ông lên trên lầu.

Trong phòng, chúng tôi gồm 8 người, kể cả ông chú họ tôi. Chính tôi lúc này cũng không hiểu vì sao chú tôi cũng vào đấy ngồi. Hầu hết chúng tôi đều ở lứa tuổi thanh niên; chú tôi trông riêng biệt hẳn không những về tuổi tác, mà còn vì dáng dấp phong độ như một “chính khách” nữa. Chính sự hiện diện của chú tôi, cũng đang làm cho ông người Huế không ít băn khoăn. Ông nhìn chú tôi, nửa như muốn hỏi, nửa như e ngại đắn đo. Có lẽ chú tôi cũng thấy vậy, nên ông đã đứng dậy, rồi cùng ông người Huế đưa nhau ra chỗ ban công nói gì với nhau một lúc. Sau đó, chú tôi xuống lầu.

Tôi nhớ lại hơn một tuần trước, thằng em trai đi phố về, gọi tôi rối rít:

- Chú Thường gọi anh ra gặp cô chú có việc cần.

Ông Thường là một người từ trước tới giờ tôi vẫn kính nể, không những ông là bậc cha chú, mà vì kiến thức uyên bác trong nhiều lãnh vực, và sự giao thiệp rộng rãi của ông trong xã hội. Vì vậy, tôi đã vội vàng ra nhà chú tôi ngay.

Sau những phút ân cần thăm hỏi thằng cháu về học hành, thi cử, mắt ông sáng thêm ra nhìn tôi, nói:

- Hiện nay, Phủ Tổng Thống tổ chức một lớp học đặc biệt chỉ dành cho mười người. Những người phải được bảo đảm với Phủ Tổng Thống bởi những người có thế lực. Vậy nếu cháu thích, chú sẽ giới thiệu cho.

Những năm tháng mài đũng quần trên ghế nhà trường, kết hợp với thực tiễn cuộc sống đã dần hình thành trong tôi một nhân sinh và thế giới quan. Một người con trai được sinh ra trong đời này, lớn lên, lấy vợ, đẻ con, già, bệnh rồi … chết. Như vậy đi không rồi cũng trở về … không; có khác gì con người chỉ là cái mắc áo, và là cái nơi để hàng ngày đổ cơm vào? Tư tưởng hào hùng đầy lửa sống của cụ Nguyễn Công Trứ đã cuốn hút, thấm đậm vào tâm hồn non trẻ của tôi; đã luồn lách vào từng tế bào của trái tim nóng hổi; để rung lên những điệu nhạc tang bồng vẫy vùng ngang dọc của người con trai. Cho nên, mới nghe chú nói, tôi đã vồ vập nhận lời ngay, và nhờ chú tôi giới thiệu.

Ngày hôm sau, chú đã dẫn tôi sang gặp linh mục Mai Ngọc Khuê để giới thiệu tôi với người.

Cha Khuê đã hỏi nhiều về thân thế, gia đình, quá trình cuộc sống, và một số quan điểm của tôi đối với xã hội, đối với quê hương dân tộc.

Người rất chú ý, khi chú tôi giới thiệu từ bé tôi đã có nhiều năm luyện tập võ thuật. Cuối cùng người tỏ ra hài lòng nhìn tôi vừa gật gù:

- Như vậy là một thanh niên văn võ toàn tài.

Câu khen quá đáng của người đã làm tôi đỏ mặt. Khi từ giã cha Khuê, trên đường về nhà, tôi hỏi chú tôi có biết gì về lớp học đặc biệt này hay không?

Thực ra, chú chỉ là một người quen thân với Cha Khuê qua nhiều lần trao đổi về chính trị, thời cuộc… chứ về lớp học này, chú chẳng biết gì hơn những điều tôi nghe Cha Khuê nói.

Khi chú tôi đã xuống dưới lầu, ông người Huế trở lại lớp học. Ông quay nhìn tôi, nở một nụ cười thiện cảm trong lúc tay ông mở chiếc cặp đen để trên bàn. Sau đó, ngửng lên nhìn tất cả chúng tôi, nét mặt nghiêm trang, ông nói rành rọt:

- Các anh là những người được giới thiệu bảo đảm để theo lớp học này. Tôi rất hân hoan, tin tưởng, vậy trước hết các anh hãy điền, ghi vào tập lý lịch sau đây.

Ông vừa giơ một tập giấy, vừa nói nội dung và cách thức ghi chép vào những chỗ trống theo câu hỏi. Tập lý lịch in sẵn này cũng như nhiều tập lý lịch khác, ngoài phần đề cập về bản thân và cuộc sống, còn thêm hai mục:

- Quan điểm tư tưởng, hoài bão.
- Kể 3 người bạn thân nhất, ghi rõ tên tuổi và địa chỉ.

Gần 1 giờ sau, khi chúng tôi làm xong thủ tục lý lịch, ông căn dặn mấy việc:

- Trở về nhà, chỉ được nói với gia đình, bạn bè là chuẩn bị để đi dự một lớp huấn luyện, về thanh niên Cộng Hòa.

- Mỗi người hãy chờ ở nhà! Ông sẽ đến tiếp xúc riêng từng người theo địa chỉ trong bản lý lịch. Nếu có việc gì cần kíp phải đi đâu, viết giấy ghi rõ nơi đến và khi nào trở về, để lại dặn người nhà.

- Lúc đầu phải nhờ người giới thiệu là trung gian; nhưng bây giờ tuyệt đối không nói là nhận được hay không. Nếu người giới thiệu có hỏi, chỉ nói vẫn chờ, chưa thấy gọi.

Khi chúng tôi ra về, đã 10 giờ 30 tối. Chú tôi đã về nhà. Cha Khuê đã vào phòng đọc kinh. Đến lượt tôi chào ông người Huế, ông tiến lại bên tôi, nói:

- Bình, tí nữa theo tôi ra xe nói chuyện nhé!

Hơi ngạc nhiên, nhưng tôi chợt hiểu. Hẳn là Cha Khuê, hoặc chú tôi đã có lời nhắn nhủ.

Lúc ra tới đướng 16, ông đi thong thả bên tôi, đặt tay lên vai tôi ra chiều thân mật, ông hỏi tôi về cuộc sống, về học hành, v.v… Cuối cùng, ông nói:

- Tôi rất mến và tin tưởng ở Bình. Do đó, tôi muốn Bình giới thiệu cho tôi một người bạn thân, đồng chí hướng như Bình.

Là một thanh niên hãy còn nhiều bồng bột; nghe ông nói tôi thấy lòng tự hào và nghĩ ngay tới Nguyễn Vĩnh Lý, một người bạn rất thân học ở Chasselop Laubat. Anh vừa đậu phần I Tú Tài Pháp, anh cũng có một số hoài bão, ước mơ như tôi.

Sau khi ông ghi xong số nhà, đường phố của Lý do tôi nói, ông lại đặt tay lên vai tôi, giọng tình cảm dịu dàng:

- Tôi sẽ tiếp xúc với Lý, bây giờ Bình về, chúng ta sẽ gặp lại.

Trên đường về nhà và cả đêm hôm đó trước khi đi ngủ, tôi miên man suy nghĩ về diễn tiến của buổi tối ở nhà thờ Tân Sa Châu. Mặc dù chưa biết chút gì về lớp học, nhưng những hiện tượng mà tôi đã nhìn và nghe cả buổi tối hôm trước, đã làm tôi triền miên tưởng tượng viễn ảnh của một ngày mai, trong giấc ngủ muộn.

Sáng hôm sau, tôi phóng xe sang nhà Lý ở khu Đa Kao Cầu Bông rất sớm. Tôi kể cho Lý nghe về sự việc tối trước và nói đã giới thiệu với ông đó rồi. Lý rất mửng rỡ và hỏi liên tiếp những câu mà tôi cũng mù tịt:

- Lớp này là lớp gì? Học ở đâu và học gì? Thời gian bao lâu? Học xong, làm gì?

Tuy vậy Lý rất vui và tin tưởng tôi nên Lý sẽ chờ ông người Huế đó đến gặp. Tôi dặn Lý:

- Mày tiếp xúc với ông ấy, thử moi thêm, may ra biết rõ hơn.

Chừng 10 ngày sau, Lý xuống nhà cho biết: Đã gặp và hoàn tất lý lịch. Lý có hỏi tên, được ông bảo cứ gọi ông là Hương (tôi cho là tên giả). Ngoài ra Lý không biết gì hơn những điều tôi đã biết.

Chúng tôi phải chờ hơn một tháng trời. Có lẻ đây là thời gian sắp xếp chuẩn bị lớp học. Cũng có thể có những người đã bí mật đến xóm giềng, thẩm tra về từng người của chúng tôi. Một hôm, Lý xuống nhà tối với một vẻ phấn khởi:

- Ông Hương bảo tối nay mày đến nhà tao ngủ, 8 giờ sáng mai (tức là ngày 28 tháng 4), ông sẽ đến đón đi tham dự lớp học. Phải chuẩn bị quần áo, sinh hoạt trong một tuần.

Chúng tôi, hai đứa xốn xang bàn tán rất nhiều nhưng vẫn chẳng hiểu được gì hơn. Đêm hôm ngủ ở nhà Lý, hai anh em nằm bên nhau trong căn gác hẹp, nhỏ to rì rầm rồi đi dần vào giấc ngủ nhiều mộng mơ, về ngày mai của cuộc đời.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: dominickngo, TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 28 Jan 2010

Tập I - Chương 2

Cuốn Sổ Tay Tai Hại …

Sáng hôm sau, trời Sài Gòn thật đẹp. Một vài vầng mây trắng lững lờ trên nền trời xanh nhạt.

Đúng 8 giờ, ông Hương đậu xe ở một góc phố, đi bộ lại (đó là cách thận trọng thường xuyên của ông ta). Chúng tôi đã nhìn thấy, mỗi người một túi xách ra xe. Một cái bắt tay, vài nụ cười, không một lời nói, chúng tôi cùng lên xe.

Xe ra khu Bạch Đằng, đón một người cuối đường Hai Bà Trưng, quẹo về Trương Minh Giảng, lên khu Vườn Lài đón thêm hai người nữa. Không kể ông Hương, xe đã năm người, như vậy là hết chỗ.

Trong khi xe lao về phía Chợ Lớn, cả năm chúng tôi không biết xe sẽ đi về đâu.

Khi xe ra tới đầu Quốc Lộ số 4 đường xuống Mỹ Tho, một trong ba người kia tỏ vẻ hiểu biết nói nhỏ:

- Chắc đến trường Cây Mai.

Tôi chẳng biết trường Cây Mai dạy cái gì nên đưa mắt hỏi, anh đó khẻ giải thích:

- Đào tạo tình báo cảnh sát.

Thực tế không phải vậy, khi đi tới ngã tư Phú Lâm, xe đi chậm lại, rẽ vào chiếc cổng có hai cánh cửa sắt đóng im ỉm mang số: 365.

Như đừng chờ sẵn ở phía trong, một người quần áo bà ba nâu vội vàng ra mở cổng. Xe đi thẳng vào, đến cửa một ngôi nhà to thì ngừng lại. Chúng tôi xuống xe theo ông Hương lên gác.

Trên lầu đã có chín người nữa, trong đó, một người đã lớn tuổi vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi, làm tôi chú ý nhiều hơn vì hầu hết chúng tôi từ hai mươi đến hai mươi lăm.

Trong căn nhà rộng có nhiều buồng nhỏ, nhưng một phòng thật to, có lẽ là phòng khách đã kê sẵn 14 chiếc giường vải, có mùng, chăn, gối của quân đội thứ tự theo từng giường. Điều này nói lên số người đã được đón đủ.

Một người mặc pyjama xanh nhạt, đeo kính trắng, chừng ba mươi tuổi, từ dưới nhà lên. Ông Hương quay lại phía chúng tôi giới thiệu:

- Đây là ông Lâm giám thị, một người sẽ thường xuyên ở với các anh em, khi có điều gì cần thiết, các anh đến gặp ông sẽ được giải quyết.

Ông Lâm mỉm cười và bắt tay mọi người, ông cũng là người miền Trung. Sau đó, lại có hai người mặc đồ nâu nữa từ dưới nhà lên. Ông Hương cho biết họ sẽ phục vụ chúng tôi về cơm nước. Tất cả ba người này nói tiếng miền Trung.

Theo ông Hương và ông Lâm, đây là một lớp học tập thể. Bất cứ tập thể nào cũng có nội quy để ổn định trật tự. Vậy, trước hết chúng tôi phải tự đặt bí danh, và từ nay, trong mọi sinh hoạt học tập cũng như ăn ở, chúng tôi sẽ bắt buộc gọi nhau theo bí danh đó. Tôi là J. hay John. Lý là K. hay Karl. Giới hạn tối đa việc ra ngoài phố. Ra ngoài, nếu gặp ai hỏi, chỉ trả lời, chúng tôi là một số sinh viên Kinh Tế Và Chính Trị, vì muốn tìm hiểu Chủ Nghĩa Nhân Vị, nên mượn căn nhà này để nghiên cứu học hành trong mấy tháng Hè.

Đây là một ngôi nhà hai tầng, rất kiên cố, có nhiều phòng. Chung quanh có tường xây, dây thép gai bao bọc.

Theo dân chúng ở chung quanh, ngôi nhà này trước đây thuộc Phòng Nhì của Pháp, nay thuộc về Phủ Tổng Thống. Cuối cùng, ông Hương nhìn chúng tôi, gợi ý:

- Để thuận tiện trong sinh hoạt, có lẽ các anh nên chọn, bầu ra một người trưởng toán.

Chúng tôi toàn những người chẳng hề biết nhau (điều này ông Hương biết nên đã có dụng ý). Làm sao biết được đạo đức và khả năng của nhau, cho nên tất yếu đều nhìn về người lớn tuổi nhất. Ông Hương đồng ý ngay. Anh đó tên Đạo.

Qua những bữa cơm, và trong tủ lạnh luôn luôn có đầy đủ nước ngọt, bia, chanh, đường để giải khát thoải mái, tất cả chúng tôi đều phấn chấn tin tưởng vào viễn ảnh ngày mai của lớp học.

Tối hôm đó tôi xuống buồng của giám thị, theo lời hẹn của ông ta. Ngay buối nói chuyện đầu này, ông đã có vẻ có cảm tình với tôi như một người em, tên ông là Cao Đình Tiệu, tu xuất, vào quân đội. Qua ông, tôi đã biết được nhiều chuyện chung quanh lớp học.

Sáng hôm sau, cả mười bốn người chúng tôi lên một chiếc xe “Dodge 4” mui phủ kín mít. Xe đi lên phía Sài Gòn, nhưng chẳng ai biết sẽ đi về đâu. Cuối cùng, xe đi thẳng vào một tòa nhà to lớn chẳng khác gì một tòa lâu đài, có hai cổng to hai bên để xe ra vào, không có lính gác. Trong sân, vài con ngỗng kêu í ới, sân có trồng cỏ và hoa, êm đềm như một tư gia. Đó là căn nhà số 2 đường Jacques Rousseau. Sau này, tôi biết là nhà của Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia thời 1954 về trước.

Chúng tôi được hướng dẫn vào một phòng phía bên phải. Trong phòng, đã có mặt ông Hương và mấy người lạ đóng bộ đàng hoàng. Họ chạy lăng xăng chuẩn bị bàn ghế, cờ quạt. Vách tường, cửa của văn phòng đều được bọc da, để ngăn cản âm thanh với bên ngoài. Trên cao, giữa tường, treo một lá cờ Tổ Quốc lớn, và ảnh cụ Ngô, phía trên đỉnh hương trầm nghi ngút. Bên cạnh, phía dưới, có máy ghi âm. Chúng tôi 14 người ngồi mấy hàng ghế phía cuối.

Đúng 9 giờ, một người đi vào. Có tiếng hô nghiêm, chúng tôi đứng dậy. Người đó bước lên bục. Sau khi làm thủ tục chào cờ hát quốc ca, mặc niệm, ông ta với cặp mắt như tỏa ánh sáng sau đôi kính trắng thật dầy, và bằng giọng Huế ấm và nặng, ông vừa tha thiết nhắn nhủ, vừa nghiêm nghị ra lệnh. Nội dung:

- Các anh là những thanh niên, sẽ trở thành rường cột của Tổ Quốc trong tương lai. Bởi thế, hãy ra sức cố gắng học tập, công tác, để không phụ lòng tin tưởng và thương yêu của tổng thống. Lúc này, đang đi công cán đặc biệt, nên tổng thống không kịp ra dự buổi khai giảng lớp học hôm nay. v.v..

Ba mươi phút sau, người đó về ngay.

Chiều hôm đó, ông Minh (phó giám đốc lớp học) giảng về Chủ Nghĩa Nhân Vị.

Giờ sau, ông Hương giảng về Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Lần đầu tiên chúng tôi được nhìn hai tấm hình to tướng khổ 40×60 phân của Engels và Karl Max. Ông lướt qua những nét chính về Chủ Nghĩa Cộng Sản với những diễn tiến theo thời gian từ Đệ Nhất Quốc Tế đến Đệ Ngũ là Tito Nam Tư, (dĩ nhiên là đứng từ góc độ của thế giới tự do để nhìn về Chủ Nghĩa Cộng Sản). Ông Tạo, chủ sự Phòng Thương Mại, giảng về Kinh Tế và Xã Hội. Ông Đức giảng về tự do và con người, v.v…

Tất cả chỉ là mở ra một bức tranh khái niệm về từng lãnh vực. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải làm bài với những đề tài như:

- Con người và Xã Hội.
- Chủ nghĩa Cộng Sản và con người.
- Nền Kinh Tế chỉ huy và tự phát. v.v…

Chúng tôi được tha hồ tham khảo sách báo ngoài xã hội. Phải nói, lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, tại sao lại cho chúng tôi học những món như vậy. Phải hơn một tháng sau, tôi mới hiểu rõ.

Hằng ngày đi học bằng xe bít bùng, bọc kín như bưng … Tôi để ý, thường thấy những chiếc xe du lịch ra vào đậu trong sân số 2 Jean Jacques Rousseau, lại phải lấy vải bịt số xe. Những người trên xe hầu hết là ngoại quốc, nam cũng như nữ. Thái độ của họ tỏ ra nhanh nhẹn và cũng kín đáo khác thường.

Trong những giờ giải lao, chúng tôi lang thang ngoài sân, khi gần ra phía cổng thì bị giảng viên gọi vào. Họ nói:

- Các anh không nên ra ngoài đó, có thể bị chụp ảnh.

Những điều như vậy, càng gợi trí tò mò của tôi. Tôi suy đoán, có thể không chừng đây là một chỗ tới lui của nhiều tay điệp viên quốc tế chứ không chơi đâu, do đó, tôi tìm mọi cách để mong biết được tên thật của các giảng viên. Tôi hiểu họ dùng toàn tên giả. Thí dụ: Ông Minh giảng về Chủ Nghĩa Nhân Vị lại có cái thắt lưng mang chữ K. Hoặc ông Đức, có lần thoáng trong lần giải lao, ông Minh lại gọi là ông Thái. Tôi muốn biết rõ tên thật và chức vụ thực của họ. Phần khác, tôi còn ghi tất cả những số xe, bất kể loại gì ra vào ngôi nhà số 2 này. Tôi cho rằng rồi đây ở Sài Gòn, hay ở đâu, nếu tôi gặp những chiếc xe đó, địa điểm và chủ nhân ấy đều có dính dáng đến tình báo. Điều đáng trách của tôi, là ghi tất cả tên cũng như số xe vào một cuốn sổ tay, mà tôi thường bỏ trong người.

Trong những buổi lên lớp cũng như những bài làm ở nhà, nhiều lần tôi được khen là có những ý kiến sâu sắc; nhất là ông Hương, giám đốc, càng tỏ ra thân mật quý mến tôi hơn.

Hàng tuần, trưa thứ Bảy, chúng tôi được nghỉ học, về nhà. Tối Chủ Nhật trở lại.

Qua chuyện trò sinh hoạt, sau nửa tháng, tôi đã biết trong số 14 người này có nhiều anh đã có phần I, phần II Tú Tài. Đa số là con ông cháu cha, con cháu tỉnh trưởng, chủ sự,v.v… Vì vậy, tôi và Lý càng hoan hỉ tin tưởng vào tương lai của mỗi người.

Học được hơn nửa tháng, một hôm, tôi không thấy cuốn sổ tay nhỏ của tôi đâu, tôi thắc mắc tìm hoài mọi chỗ, hỏi cả Lý, cũng không thấy. Tôi cho là, có thể nhiều lần đi trên xe, xe vừa đông lại vừa xóc, cuốn sổ rơi xuống đường rồi chăng, chứ tôi đã tìm hết mọi chỗ rồi. Tôi cũng đã hỏi toàn thể anh em, nhưng không một ai biết. Mãi rồi cuốn sổ tay đó cũng đi vào lãng quên.

Một buổi tối, sau khi học và làm bài vở xong, tôi chợt nhớ tới cuốn sổ tay, tôi quyết định mở va li tìm hết lại một lần nữa may ra thấy chăng. Lục lọi, tìm mãi cũng không thấy. Tôi chợt nhìn thấy gần nửa bánh pháo “Đại Quang” ở trong góc va li, thứ pháo nổ xác tan nhỏ như vảy ốc. Bánh pháo này hồi Tết còn thừa, tôi định để dành cho Tết sang năm.

Sẵn tính nghịch ngợm ngang tàng, tôi rút ra một chiếc pháo trước mặt Lý và mấy anh em còn thức. Miệng đang ngậm điếu thuốc, tôi bình thản từ từ đưa ngòi pháo vào đầu điếu thuốc đang cháy; khi ngòi đã xì lửa, tôi vẫn lạnh lùng nhìn chiếc ngòi xì dần rồi nổ ngay ở tay, ngang ngay trước mặt tôi chừng hai mươi phân, chỉ vì tính ngông cuồng tỏ với mọi người là mình gan lì.

Mọi người ngồi đó không ai nghĩ là tôi dám đốt pháo như vậy, mà chỉ cho tôi đùa bỡn, nên không kip có ý kiến can ngăn.

Tiếng nổ dữ dội, âm vang trong ngôi nhà như tiếng lựu đạn khiến mọi người xanh mặt, kể cả tôi! Anh em đứng cả dậy. Ba người bếp ở dưới nhà cũng hộc tốc chạy lên, mặt mày nhớn nhác. Sau khi biết nội vụ mấy người làm bếp và tất cả anh em giúp tôi nhặt từng mảnh pháo vụn. Giám Thị Lâm hôm đó tình cờ lại đi chơi vắng. Lúc đó đã 10 giờ tối.

Tôi liếc nhìn xuống đường chỗ ngã tư Phú Lâm, thấy một người quân cảnh và hai cảnh sát, đều ngước nhìn lên lầu tòa nhà 365, rồi một người lấy xe gắn máy chạy về phía Sài Gòn.

Tôi xuống nước năn nỉ ba người bếp và các anh em đừng để sự việc này cho Ban Giám Đốc biết.

Dọn xong, tất cả đều đi ngủ lại. Riêng tôi nằm bồn chồn lo lắng. Tôi cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Tôi không yên lòng, với tay sang lay Lý dậy, thì thầm:

- Tao thấy sự việc này sẽ không phải lộ từ phía dưới lên, mà có khi từ phía trên xuống.

Lý trấn an tôi:

- Không sao đâu, hãy đi ngủ đi!

Tôi nằm, tuy có lo lắng, nhưng tuổi trẻ, nên dễ đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Tôi đang say mê ngủ, ai đó đến lay người tôi, tôi mở mắt: Cao Đình Tiệu. Ông nhớn nhác, mắt không kính, tóc rối bù, chắc cũng bị đánh thức dậy, ông nói hổn hển:

- Dậy, mặc quần áo xuống ngay dưới nhà gặp ông Hương!

Thật là chết! Tôi ngồi bật dậy. Xuống đến lưng cầu thang, đã nhìn thấy ông Hương, ông Minh, quần áo lôi thôi, dáng vẻ còn ngái ngủ. Lúc đó đã 2 giờ đêm.

Tôi hồi hộp nhìn các ông ấy. Điều làm tôi buồn khổ, hổ thẹn nhiều là ông Hương, ông Minh, ông Tiệu, nghĩa là cả Ban Giám Đốc, cũng như giám thị, trước đây đề cao và quý tôi nhất, cho nên tôi chỉ biết cúi đầu.

Chắc hẳn ông Hương đã hỏi ba người bếp chi tiết sự việc rồi. Ông Tiệu không biết gì vì đi chơi. Câu đầu tiên ông Hương hỏi tôi:

- Bình có biết hôm nay là ngày gì không?

Tôi tưởng ý của ông muốn hỏi như vậy để tôi phải trả lời. Hôm nay là ngày tôi đã gây ra một việc đáng tiếc, nên cứ cúi đầu, ngồi im.

Có lẽ ông Hương (45 tuổi) đã hiểu cái bồng bột quá trớn của một người thanh niên, ông nói luôn:

- Hôm nay là ngày 15 tháng 5, sinh nhật của Karl Marx (thảo nào ngã tư Phú Lâm được tăng cường thêm hai cảnh sát và một quân cảnh). Ông Hương nói tiếp:

- Bình có biết việc Bình làm đã chấn động nhiều cơ quan, kể cả Phủ Tổng Thống không?

Vì là ngày sinh nhật của Karl Marx, nên các cơ quan an ninh tăng cường hoạt động để ngăn chận, những manh nha của Cộng Sản. Khi nghe tiếng nổ, nếu ở một chỗ bình thường, cảnh binh chỉ việc vào điều tra tìm hiểu; và thấy do đốt pháo thì chỉ phạt 20 đồng theo quy định hồi ấy.

Ở đây, tiếng nổ lại phát ra từ ngôi nhà 365. Cảnh sát cũng như quân cảnh đều hiểu ngôi nhà đó thuộc trung ương, nên không dám vào khám xét. Nhưng vì sự việc xảy ra trong khu vực trực tiếp trách nhiệm của họ, nên bắt buộc họ trình báo cáo cấp trên. Đồn trưởng báo Quận, Quận hỏi ý kiến Nha Giám Đốc. Nha Giám Đốc cho căn nhà đó là của An Ninh Quân Đội, thuộc Phủ Tổng Thống. Lời tường trình được báo về cấp cao nhất, và cuối cùng truyền ngược xuống Ban Giám Đốc lớp học.

Mặt của ông Hương, Minh, Tiệu như bàn tay bà già. Mặt tôi có lẽ dài ra gấp rưỡi ngày thường.

Ông Hương chậm rãi nói:

- Không thể dùng quyền để ém nhẹm vụ này, vì như vậy càng làm cho các cơ quan khác nghi ngờ. Cho nên, ngày mai cảnh sát sẽ vào đây lập biên bản. Vậy, hãy nói với họ đây là một số sinh viên, học tập Chủ Nghĩa Nhân Vị trong dịp hè. Một người trong lúc vui chơi đã nghịch, gấp một chiếc pháo giấy đập mạnh bằng tay, vì ở trong tòa nhà, nên nó đã vang to như vậy.

Ông Hương bắt ông Tiệu lấy giấy gấp thành một cái pháo, mà học sinh vẫn chơi. Tôi phải thực tập, cũng nổ. Nhưng làm sao bằng pháo thật!

Đến đây, tôi cũng suy nghĩ. Tại sao ông Hương không nói thẳng với cảnh sát là tôi nổ pháo, mà phải làm trò như thế, cảnh sát tin sao được. Tôi cho rằng, có lẽ một phần ông Hương muốn cho đỡ khuyết điểm cho tôi với trên, phần khác cho chính ông ta (tại sao lại tuyển mộ một học viên có những hành động nhố nhăng như thế).

Sáng hôm sau, một xe “díp” cảnh sát chở ba người, kể cả đồn trưởng, vào gặp ông Tiệu và tôi. Thái độ cảnh sát rất nhã nhặn, dè dặt, và tỏ ý, đây chỉ là nguyên tắc, vì vậy, họ cũng không bắt tôi phải đập pháo giấy. Nghĩa là họ không tin, nhưng việc phải làm, cho nên họ ghi đầy đủ sự việc theo lời khai vào sổ trực.

Ông Tiệu còn nhăn nhó nói:

- Địa điểm học này đã bị lộ, có thể sẽ phải chuyển đi nơi khác.

Sóng gió lại bình lặng! Chúng tôi lại tiếp tục học hành. Tuy vậy, từ đấy tôi rất ngượng nên thường tránh mặt, không muốn gặp ông Hương và ông Minh nữa.

Hơn một tuần sau, vào lúc 7 giờ tối, một anh bếp gọi tôi xuống gặp ông Giám thị. Khi xuống tới buồng ông Cao Đình Tiệu, tôi thấy trên bàn một chai rượu mạnh. Mặt ông đỏ gay và thật buồn. Thấy tôi, ông hất hàm ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Rồi quay mặt nhìn ra cửa sổ, chậm rãi:

- Bình có một quyển sổ tay nhỏ phải không?

Thoáng nghe tim thót lại, tôi gật đầu lo lắng nhìn ông.

- Bình có biết quyển sổ đó hiện nay đang ở đâu không?

Tôi nói trong đắn đo, dè dặt:

- Đã mất hơn nữa tháng nay và tìm mãi không thấy.

Ông quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, dõng dạc:

- Hiện giờ, nó đang nằm trên Phủ Tổng Thống!

Ôi chao, sao tôi có nhiều việc thế này! Lòng tôi hoang mang, hoảng sợ nhìn ông. Ông hỏi tiếp:

- Ai là người giới thiệu và bảo lãnh Bình vào lớp học này?

- Cha Mai Ngọc Khuê.

Mặt ông buồn thiu, thổ lộ:

- Tôi không có em trai, từ ngày tôi gần Bình, tôi rất mến và coi Bình như em trai của tôi. Chiều nay tôi đã tham dự một cuộc họp hai tiếng đồng hồ. Tôi đã vận dụng nhiều lý luận để binh vực cho Bình, nhưng địa vị và quyền của tôi chỉ có giới hạn. Cuộc họp đã quyết định xong vể Bình rồi. Họ sẽ giao Bình sang An Ninh Quân Đội, Bình sẽ bị sát hạch, khai thác, có khi bị tra khảo nữa. Vậy ngay bây giờ, Bình vể khẩn khoản nói với Cha Khuê, may ra uy tín của người sẽ cứu được Bình.

Ông còn hỏi:

- Có tiền đi tắc xi không?

Ông mở ví móc đưa tôi 50 đồng.

Tôi như ngồi trên lửa, khua tay rối rít cám ơn nói là đã có tiền rồi. Tôi đứng lên chuẩn bị đi ngay sang khu Lăng Cha Cả, ông còn kéo tay tôi lại:

- Tại sao Bình ghi hơn chục cái số xe để làm gì? Cả tên thật và chức vụ của các giảng viên nữa?

Mặt tôi buồn rười rượi. Tôi thú thật với anh là vì tò mò. Anh giục tôi đi ngay, về thú thực hết với cha Khuê. Trên đường về, tôi nghĩ ngay tới Đạo, ngưởi trưởng toán. Mục đích ở trên đưa nó vào để theo dõi chúng tôi về tư tưởng. Nghĩ cho cùng, tôi chỉ giận mình ngu xuẩn, nhố nhăng, không thể trách Đạo được vì đó là nhiệm vụ của anh ta.

Những năm tháng sau này, nhiều khi suy nghĩ lại sự việc trên, tôi thấy, trong cuộc đời, chuyện may rủi không một ai dám phủ nhận, nhưng cũng phải thừa nhận là “bản tính tạo nên cuộc đời”. Thực tế, tính một người ưa động, coi thường nguy hiểm, thích đấm đá, dao búa, buôn lậu, hoặc hoạt động chính trị, làm cách mạng, v.v… Đời người ấy, nói chung, sẽ nổi chìm bất thường. Ngược lại, một người sợ chuyện nguy hiểm, rụt rè trước những việc mới lạ, cá biệt không kể, nói chung, đời người đó trôi đều phẳng lặng. Cho nên, bản tính của tôi đã như thế, tôi phải gánh lấy hậu quả tất yếu, kêu trời làm chi!

Về gặp Cha Khuê. Trước đây người vồn vã vui tươi với tôi, bây giờ, sau khi tôi trình bày sự việc, mặt người thật lạnh lùng xa lạ. Người chỉ nói một câu: “Làm như vậy đấy!” Tôi thật buồn và thẹn. Nếu không vì chuyện cấp bách, tôi chẳng đến người làm chi nữa.

Trở về, hôm sau tôi vẫn tiếp tục đi học ở số 2 Jean Jacques Rousseau, nhưng là những ngày đầy lo âu, nghe ngóng.

Buổi học cuối tháng đó, chúng tôi đến lớp nhưng không học. Chúng tôi được lệnh ngồi chờ. Từng người được gọi vào một căn buồng phía trái để làm việc, khá lâu. Mỗi khi một người mở cửa buồng bước ra, tôi hỏi, họ đều lắc đầu. Mãi tới lúc Lý ra, tôi hỏi, hắn chỉ vắn tắt:

- Lấy tiền, và viết giấy cam đoan, ông ấy dặn tao tuyệt đối không nói gì với người khác.

Gần về cuối, tôi mới được gọi. Gặp ông Hương, tôi ngượng ngùng, nhưng ông lờ đi. Nội dung sinh hoạt riêng từng người là:

- Ký vào mấy tờ giấy và lĩnh 2,500đ.00 một tháng (học, được nuôi ăn ở lịch sự, lại còn có lương!)
- Một tờ cam đoan đã đánh máy sẳn. Tuyệt đối không kể một sự việc gì về lớp học cho một ai khác, kể cả gia đình. Nếu vi phạm, sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
- Về nhà chờ, khi nào có người tới đón, sẽ đi học tiếp tục.

Sau đó, chúng tôi ra về. Tôi những tưởng tai qua nạn khỏi, nhưng không phải vậy. Thỉnh thoảng, tôi vẫn đến nhà Lý chơi để xem tình huống gọi, đón như thế nào. Một hôm, tôi đến nhà Lý như mọi lần, được người nhà Lý cho biết, sáng sớm đã có người đến đón Lý đi rồi. Thôi, thế là tôi đã bị thải. Để cho sáng tỏ hơn, tôi phải liều. Tôi vội vàng phóng xe xuống 365. Lúc đó đã là giờ trưa, rất im vắng. Tôi lên tuốt trên gác thấy Lý và 9 người nữa đang ngủ. Tôi lay vai Lý dậy, rồi chúng tôi cùng xuống dưới nhà. Lý nói, mặt buồn buồn:

- Ông Hương đến đón tao đi ngay, nên không kịp viết giấy để lại cho mày. Tao có hỏi ông Hương về mày. Ông trả lời “Hãy biết phận mình thôi”.

Tôi thấy Lý cũng không biết gì hơn, tôi hẹn Lý cuối tuần về sẽ nói chuyện. Tôi vào buồng anh Tiệu, anh cho biết: “Không gọi, có nghĩa là loại rồi” và “Lớp học bây giờ chỉ còn mười người!”

Như vậy là tôi đã hiểu. Mục đích của một tháng học đó chỉ là để tìm hiểu và để lọc người. Trừ anh Đạo trưởng toán có nhiệm vụ riêng không kể, 3 người đã bị loại.

Ruột tôi thật là héo úa! Anh Tiệu thấy tôi buồn, anh đặt tay lên vai tôi, vừa như tâm tình vừa như an ủi:

- Dù học lớp này hay không, Bình hãy đến với tôi. Nhưng không nên đến đây nữa. Bây giờ là giao thiệp giữa cá nhân tôi và Bình.

Anh cho tôi số nhà riêng và hẹn gặp vào những ngày cuối tuần.

Trên đường về nhà, tâm tư tôi nặng chĩu trái sầu. Tôi nghĩ đến lời anh Tiệu khi nãy: “Trong lớp học đó, Bình được Ban Giám Đốc khen ngợi là trội nhiều mặt, tháo vát, nhanh nhẹn, nhưng …”

Vâng, trong cuộc sống con người, chữ “nhưng” và chữ “nếu”, hai chữ quái quỷ này có lúc làm cho con người sung sướng ngất ngây bao nhiêu, thì nhiều khi chúng cũng làm cho người ta đau khổ chất chồng, đầy máu và nước mắt bấy nhiêu. Đôi khi tàn lụi cả cuộc đời cũng vì chúng.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: dominickngo, TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 30 Jan 2010

Tập I - Chương 3

Vào Ngành Tình Báo …

Tôi về nhà nằm buồn mấy ngày. Lại đúng vào mấy ngày mưa. Mưa thật nhiều, mịt mờ cả đường phố. Tôi nằm nghe mưa rơi trên mái nhà, những hạt mưa rơi xối xả âm vang như tiếng cười đùa trêu chọc. Nhưng, có lúc lại như tiếng reo hò, hối hả thúc giục người con trai không thể nằm buồn tiêu cực trong cuộc sống, phải dậy và nổ lực với những khó khăn trước mặt! Thế là tôi ngồi bật dậy và nỗi buồn của tôi đã như áng mây, trôi về phương trời xa mất hút …

Ít ngày sau, tôi được biết Bộ Tổng Tham Mưu thông báo thi tuyển vào lớp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 11. Tôi nộp đơn, ngoài những thủ tục cần thiết, tôi còn nộp kèm theo giấy chứng chỉ của trường Cao Đẳng Quân Sự (giai đoạn đó, học sinh đệ nhị cấp, đều phải qua lớp huấn luyện quân sự này) chứng nhận tôi là chuẩn úy trừ bị.

Do một số tin tức tôi thâu lượm được, không kể Cần Thơ và Huế, riêng Sài Gòn đã có hơn 1.000 người xin dự thi, trong khi tôi được nghe đồn, khóa Thủ Đức 11 này đặc biệt sẽ lấy 800, vì nhu cầu tình hình chính trị đòi hỏi. Dù thế nào, tôi vẫn phải đem sách vở ra miệt mài học lại. Tuy tôi cũng tự tin vào khả năng của mình.

Một ngày cuối tuần, tôi đến Tiệu chơi, anh hỏi tôi:

- Bình có thích hoạt động tình báo không? Với khả năng như Bình, nếu Bình thích, tôi sẽ giới thiệu qua ngành quốc ngoại, vì tôi có quen biết.

Vừa qua, tôi đã nếm mùi vị tí chút về tình báo, nên tôi gật đầu. Tôi cho anh địa chỉ nhà tôi, và sẽ chờ người đến gặp.

Qua những buổi trao đổi với Cao Đình Tiệu, tôi đã hiểu tình báo quốc ngoại ở đây là tình báo ngoài miền Bắc. Lúc đó, quan điểm tư tưởng của tôi thật là đơn thuần. Con người của tôi tự bản tính không sợ những chuyện nguy hiểm, nên luôn luôn ôm ấp một hoài bão, phải làm được một cái gì đó hữu ích cho cuộc đời này, mặc dù tôi chưa hề định hướng việc đó là việc gì. Lý tưởng chống Cộng Sản của tôi, lúc đó vẫn còn lẩn quất chưa rõ mầm. Tôi chưa ý thức được vì sao, tôi một người con trai Việt lại phải ra miền Bắc, vào đất kẻ thù để chống Cộng Sản. Lỗi này là do những người lãnh đạo chế độ miền Nam đã hời hợt sao nhãng, việc giáo dục trong học đường đối với thanh thiếu niên về vấn đề Cộng Sản.

Hơn một tháng sau, đến ngày thi tuyển vào trường Thủ Đức. Sau mấy ngày thi, bài vở so với mọi người chung quanh, tôi làm được, nhờ hai bài toán Hình, Đại thì một bài trúng tủ. Thầy Phú đã ra trước đây ở trường Hưng Đạo. Còn bài Việt, tôi hơi vững dạ, vì trong các môn học, môn Việt Văn của tôi vẫn thường có chỗ đứng tạm được. Dù vậy, khi chưa công bố, ai dám cho là mình đã qua. Chính vì thế, trong khi chờ đợi kết quả tôi vẫn cần phải lo chuyện khác nữa.

Tôi thi được hơn mười ngày, một hôm có một người chừng ba mươi lăm tuổi tìm tới nhà. Lại là người Trung nữa! Sao trên trung ương nhiều người miền Trung thế? Ông ta tự giới thiệu tên là Cẩn, Ngọc Cẩn, mặc thường phục. Ông ta nói:

- Được ông Lâm (tên giả của Cao Đình Tiệu ở lớp học) giới thiệu và nói nhiều về anh. Hôm nay, tôi đến gặp anh. Chúng ta sẽ trao đổi vài câu chuyện.

Câu chuyện xoay quanh mấy vấn đề quan điểm, hoải bão, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân tộc, Tổ Quốc v.v…

Buổi nói chuyện kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ, Sau đó, ông Cẩn hẹn buổi khác sẽ đến.

Ông đến gặp tôi hai ba lần nữa. Một hôm, ông mang theo một tập lý lịch, bảo tôi ghi điền vào chỗ trống theo yêu cầu. So với tập lý lịch làm ở nhà thờ cha Khuê, lần này thêm một vài chi tiết nữa. Riêng chỗ bạn thân phải 5 người.

Lúc ra về, ông nhìn tôi, có tình cảm:

- Trong khi chờ đợi sự sắp xếp ở trên, tôi hàng ngày cũng rỗi, vậy thỉnh thoảng anh em mình đi chơi phố hỉ?

Tôi đồng ý. Chúng tôi có lúc ra bờ sông ngồi chơi, có khi vào quán uống. Một hôm, ông đến bằng xe Lambretta, chở tới vài khu trung tâm Sài Gòn chơi. Trong khi đi đường, ông hỏi chuyện về nhiều lảnh vực khác nhau. Một lần đang đèo đi chơi, bất chợt ông nói:

- Quên, có chút việc chúng mình phải sang khu Cầu Cống Khánh Hội.

Khi sang tới đó, ông lái xe vào sâu mãi trong một ngỏ hẻm, qua nhiều ngóc ngách ngang dọc, rồi ông để tôi đứng ở ngoài chờ. Ông vào một căn nhà, chừng 5 phút ông trở ra.

Khi trở về Sài Gòn, chúng tôi vào nhà hàng Thanh Thế uống nước. Lúc tôi và ông đang cầm ly uống, chiếc mũ của ông để trên bàn, bất ngờ rơi xuống nền gạch chỗ giữa ông và tôi.

Ông nhìn tôi, và tôi cũng nhìn ông, cùng đang cầm ly nước. Tôi vẫn thong thả uống và từ từ đặt ly nước xuống bàn. Tôi tiếp tục nói hết câu chuyện và ung dung dụi tàn thuốc lá, rối mới cuối xuống nhặt mũ lên bàn cho ông. Tôi nghĩ, mũ của ông rơi đã rơi rồi, chẳng cần phải vội vàng nhặt ngay, kẻo nó bị hư hỏng hơn. Cho nên, tôi vẫn đường hoàng làm xong việc tôi đang làm giở.

Phải nói, lúc đó tôi chưa biết là ông thử sự bình tĩnh của tôi. Lần thứ hai, tôi đã thấy dụng ý của ông.

Một lần đang ăn uống, ông rót bia rồi, còn già nửa chai ông đặt ghé lên chiếc khăn lau tay để trên bàn. Lát sau, như vô tình, ông rút chiếc khăn để lau miệng, chai bia tất yếu nghiêng đổ. Phản xạ cấp thời, tôi chộp lấy được.

Một lần khác, chúng tôi đang ngồi ở Hòa Hưng, như chợt nhớ ra điều gì, ông quay lại tôi:

- Nhờ Bình một chút, tôi ngồi ở đây chờ, Bình lấy xe tôi xuống chỗ cổng “piscine” Cộng Hòa mua hộ tôi 5 bao thuốc Pall Mall với một bao Capstan, họ bán phía trong cổng ấy.

Trên đường đi, tôi thấy vô lý, từ Hòa Hưng xuống Ông Tạ có biết bao nhiêu hàng thuốc lá, tại sao lại xuống mãi hồ bơi Cộng Hòa? Dù suy nghĩ như vậy, nhưng tôi vẫn đến chỗ đó mua cho ông. Khi ông và tôi trở về, ông làm như băn khoăn hỏi:

- Mai Bình có rỗi không?

Nhìn ông tôi dè dặt:

- Tôi chưa biết rõ, nhưng ông cần cái gì ông cứ nói.

Ông rút trong túi áo ra một lá thư dán kín, bì thư để trống trơn, đưa cho tôi ông căn dặn:

- Ngày mai, Bình có solex, hãy đưa hộ tôi lá thư này cho cái nhà mà hôm nọ Bình với tôi đến, ở trong chợ Cầu Cống đó.

Đã gần nửa tháng rồi, vô tình ai để ý làm gì, nhưng do cá tính hay để ý của tôi, tôi đã nhớ. Hôm ấy, tôi thấy ông Cẩn vào một ngôi nhà, tôi nghĩ ông là một người làm tình báo của chính quyền. Như vậy, ngôi nhà đó có dính dáng ít nhiều đến tình báo; nếu không, ít ra chủ nhân cũng quen biết thân thuộc đến đời riêng của ông Cẩn, nên tôi chú ý hơn. Vì vậy, hôm sau tôi đáp ứng được việc ông nhờ, không khó khăn gì cả.

Tóm lại, thời gian đó, có thể ông đã thử thách tôi nhiều, nhưng tôi chỉ thấy được 4 lần:

- Về đức tính bình tĩnh.
- Về tính chấp hành kỷ luật nghiêm chỉnh.
- Về trí nhớ cần thiết để hoạt động.
- Về phản xạ bén nhậy, chính xác khi sự việc xẩy ra bất ngờ.

Về việc mua thuốc lá, nếu ông muốn kiểm tra, chỉ cần trở lại chỗ bán thuốc lá ở hồ bơi Cộng Hòa, hỏi người bán hàng.

Một vài phương pháp thử thách như trên, chưa đủ xác định khả năng của một con người. Vì vậy, sau này trong quá trình đào tạo, huấn luyện, còn nhiều thử thách khác nữa.

Sau đó, cứ dăm ba ngày, lại một lần ông Cẩn đến đón tôi đi chơi cho tới một hôm, sau buổi đi chơi về, ông thân mật dặn dò:

- Kỳ này, tôi có một số công việc bận, vậy Bình về nhà hãy đợi chờ nhé!
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 31 Jan 2010

Tập I - Chương 4

Nghiệp Dĩ …

Tôi về nhà nằm chờ đợi. Hàng ngày, tôi vẫn lấy sách vở ra miệt mài xem lại để sang năm, bằng mọi giá tôi phải lấy xong phần I Tú Tài. Tôi đã ăn vỏ chuối 2 năm rồi! Chỉ vì sự suy nghĩ của tôi chưa đủ chín chắn, còn ham chơi. Chỉ có những quyết tâm nửa vời, thiếu hẳn ý chí kiên nhẫn, cho nên, tôi đã phải trả một giá đích đáng cho sự học vấn của tôi. Tôi nhớ lại những năm tháng trước đây, vì hoàn cảnh cuộc sống, vì đất nước chia đôi, tôi di cư vào miền Nam và gián đoạn việc học hành.

Trước kia, tôi đã biết nghề kim hoàn từ hàng Bạc, Hà Nội. Vào Nam, do gia đình và họ hàng giúp đỡ, cuối 1956 tôi đã mở hiệu bán vàng bạc “Bảo Tín” ở chợ Cây Điệp. Khách hàng là quân nhân trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và mấy làng người miền Nam quanh vùng. Sau gần một năm, càng ngày cửa tiệm càng phát đạt, dù người chủ tuổi đời chỉ mới mười tám, mười chín (bố mẹ và các em tôi ở cùng nhà). Khi ấy, đồng tiền đối với tôi thật dễ dàng. Thỉnh thoảng, một vài người bạn từ Sài Gòn xuống chơi, nói chuyện về các giáo sư, về học hành, về xã hội … Với đầu óc còn quá non dại, tôi nhìn cuộc đời cũng quá đơn giản. Vì thế, tôi cũng đi vào cái chung của mọi người là coi thường những gì mình đang có, và hướng tìm về những cái mình chưa có. Nghĩa là, trong tôi đang dần hình thành những suy nghĩ về cuộc sống của con người trong xã hội.

Khi ấy, tôi nghĩ thật đơn giản. Xã hội và con người mỗi ngày mỗi tiến bộ. Vậy, một thanh niên sống trong thời đại đó, ít nhất phải có một kiến thức nhất định nào đó để hiểu biết được, ít ra là khái niệm, về tất cả lãnh vực trong thời đại mà mình đang sống.

Hãy tạm thời lấy sự học vấn làm ý niệm đo lường. Những năm 50 trước đây, chỉ cần mức độ là Trung Học Đệ Nhất Cấp là tạm đủ, cho kiến thức của một con người. Nhưng, thập niên 60 phải cần có Tú Tài; chứ Trung Học Đệ Nhất Cấp đã là lạc hậu rồi, không theo kịp đà tiến triển chung của xã hội. Và tới thập niên 70, nếu không đáp ứng được yêu cầu tương đối ấy, người thanh niên sẽ không đủ kiến thức để hiểu biết, dù không cần quán triệt, những sự việc xã hội xảy ra chung quanh mình.

Vậy, bây giờ tôi có tiền để làm gì, khi đầu óc tôi còn mơ hồ về chuyện đất nước và thế giới. Hơn nữa, con người được sinh ra trên thế giới này, phải ít nhất biết một số nơi danh tiếng của nó. Nếu không, thì cũng sẽ chỉ sống một cuộc đời tầm thường, thiếu thốn, chưa đủ ý nghĩa của cuộc sống.

Từ những suy nghĩ lẩm cẩm ngây thơ trên, tôi quyết định thôi hiệu vàng. Bố mẹ cũng như họ hàng, trước đây ca ngợi tôi bao nhiêu, bây giờ trách móc tôi bấy nhiêu. Tôi còn nghĩ rất đơn giản là, bây giờ mình còn trẻ hãy gắng học đã, rồi phải đi đây đó để biết nhiều về thế giới này. Đến khi nào ba, bốn mươi tuổi, lúc đó lại trở về mở hiệu vàng (vì ít ra mình đã có kinh nghiệm về mở hiệu vàng rồi). Thật là những suy nghĩ ấu trĩ! Chuyện đời không đơn giản như suy nghĩ của một cậu thanh niên mới lớn.

Sau đó, tôi đến ở Trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ, Chợ Lớn (Pavie La Mothe) và tiếp tục đi học. (Bao nhiêu kỷ niệm, bạn bè ở trại học sinh này! Sau 30 mươi năm, không biết bây giờ số phận của mỗi người như thế nào?).

Tôi ngồi nhà học và chờ ông Cẩn mãi, đã hai, ba tháng rồi mà chẳng thấy ông đến. Vì thế, tôi không còn tin tưởng mấy về chuyện tình báo ngoại quốc. Tôi nghĩ rằng, trong khi chờ đợi, nếu Thủ Đức có trước thì đi Thủ Đức. Nghĩa là, cái nào có trước tôi sẽ đi cái đó. Cuối 1960, tôi nhận được giấy báo trúng tuyển Thủ Đức và hẹn ngày đi khám sức khoẻ.

Thôi, giã từ tình báo miền Bắc! Tôi sẽ đi theo đường binh nghiệp! Về lãnh vực này, tôi cũng có một số khả năng. Sau mấy ngày đi khám sức khoẻ ở bịnh viện Cộng Hòa, rồi đến ngày nhập trường. Hơn một tuần lễ với bao nhiêu sự việc, người mới, sinh hoạt mới của đời quân ngũ! Bỗng một hôm, tôi được gọi lên văn phòng chỉ huy.

Tôi vừa đi vừa băn khoăn không hiểu có chuyện gì. Khi tôi vừa bước chân vào cửa phòng, tôi giật mình ngạc nhiên: Ông Cẩn đang ngồi ở một chiếc ghế, đăm đăm nhìn tôi. Hôm nay, ông mặc quân phục, mang lon Đại úy. Chẳng biết ông Cẩn đã chuẩn bị trước với nơi đây như thế nào, ông dẫn tôi sang một phòng trống. Khi tôi vừa ngồi vào ghế, ông cau có, hỏi giật giọng:

- Sao Bình lại đi Thủ Đức? Không thể được!

Ông lặp đi, lặp lại hai, ba lần câu “Không thể được”.

Tôi hơi ngượng ngùng trả lời:

- Vì chờ ông lâu quá! Hơn nữa, tôi nghĩ rằng, tôi vào Thủ Đức thì cũng là phục vụ dân tộc, Tổ Quốc vậy.

Tay ông khoáng lên lia lịa, ông nói một thôi một hồi:

- Không thể được! Không trẻ con như thế được! Thủ Đức thì hàng trăm người có thể vào, còn việc này, không phải ai cũng được. Bình có biết là từ 4 tháng nay, đã bao nhiêu người phải bận rộn về việc này không? Kế hoạch đã đặt xong, nhà cửa đã mướn, mọi việc chuẩn bị đã sẵn sàng. Trên Phủ Tổng Thống đã quyết định có lệnh lấy Bình về bằng bất cứ giá nào.

Tôi vô cùng bối rối, lúng túng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi, vì ngay trong thâm tâm tôi cũng ưa đời binh nghiệp. Cuối cùng, tôi mạnh bạo nói:

- Thôi, hay ông để theo quân đội cũng thế!

Ông ta mở mắt to nhìn tôi, vừa như ngạc nhiên về thái độ từ khước của tôi, vừa như bất mãn khó chịu. Cuối cùng, mắt ông dịu xuống, ông nói một cách cởi mở:

- Bình muốn có lon à! Được, nếu Bình muốn, về Sài Gòn sẽ có. Bình cũng sẽ là quân đội vậy.

Có lẽ lúc ấy ông sợ hỏng kế hoạch, sẽ bẽ mặt với cấp trên, nên ông xuống nước hết mình với tôi. Và, chẳng biết ông Cẩn có lệnh can thiệp như thế nào, ngay hôm đó, tôi đã phải theo ông về Sài Gòn. Tôi vội vàng từ giã mấy người bạn mới lý do “Bố sắp chết nên được phép về ngay”.

Sau này với những năm tháng đau thương chất chồng, nhiều lúc tôi ngồi nghĩ lại, nếu lúc ấy tôi cương quyết ở lại Thủ Đức – “Lại chữ nếu quái ác” – có lẽ cuộc đời tôi sẽ thay đổi hoàn toàn trong tương lai. Sai một ly đi một dặm! Những giai đoạn đầu của cuộc đời, ở những chỗ rẽ, nếu chỉ cần xê dịch khác một chút, kết quả sau này sẽ khác nhau một trời một vực. Âu cũng là do nghiệp chướng của đời tôi.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 31 Jan 2010

Tập I - Chương 5

Huấn Luyện Tình Báo …

Ngay tối hôm đó, tôi về tới thành đô. Nhìn cảnh phố phường đầy mầu sắc, lòng tôi vẫn vời vợi, bâng khuâng với nhiều nẻo đi của cuộc đời. Hồn tôi đang chìm ngập trong nỗi ngơ ngác đầy vơi thì xe ngừng lại ở một góc đường Võ Tánh. Ông Cẩn móc túi lấy chùm chìa khóa trao tôi, thân mật dặn dò:

- Đây là chìa khóa đã ghi sẵn số phòng ở tầng ba, số 8 đường Nguyễn Văn Tráng.

Trước khi chia tay ông còn căn dặn thêm:

- Nhớ đừng về nhà, sáng mai tôi đến sẽ nói chuyện.

Sau một lúc lò dò tìm kiếm, tôi đã đến được căn phòng đó. Trong phòng đã có sẵn một chiếc radio transitor với một số sách báo ngoại ngữ, cũng như Việt ngữ.

Sáng hôm sau ông Cẩn đến. Nội dung những điều ông căn dặn hướng dẫn:

- Tôi sẽ đóng vai trò là một sinh viên Văn Khoa, gia đình tôi thuộc loại khá giả, từ Bắc di cư vào miền Trung. Tôi vào Sài Gòn trọ học. Đó là đối với tất cả người chung quanh, kể cả với người quản lý building.

- Còn riêng với gia đình, một tháng chỉ nên về một hoặc hai lần. Nói là: Khi lên tới trường Thủ Đức, họ khám sức khoẻ lại, thấy có bệnh yếu tim, nên không thể theo học quân sự được. Hiện nay, đã chuyển sang ngành công tác xã hội, phải đi học tập một thời gian.

- Ít đi ra phố, chỉ ra khi đi ăn cơm. Hàng ngày, sẽ có người đến huấn luyện. Chiều Thứ Bảy và Chủ Nhật nghỉ.

- Trong thời gian huấn luyện, mỗi tháng tôi sẽ được lãnh 2500 đồng (lại cũng giống như số lương ở số 2 Jean Jacques Rousseau!).

Thời gian đầu, chính ông Cẩn, sáng cũng như chiều, mang tài liệu sách vở đến giảng dậy cho tôi.

Lúc đầu, ông đưa tài liệu ra giảng cho tôi về:

* Thế nào là một tổ chức bí mật. Lãnh đạo những tổ chức này, có khi do một cá nhân, một tập thể, hoặc một quốc gia.
* Xác định bạn và thù. Những người cùng chung một công tác là bạn. Ngoài ra, tất cả là thù; kể cả bố mẹ, vợ con, anh em, bè bạn và các cơ quan khác như cảnh sát, công an, an ninh quân đội. v.v… (theo ý nghĩa ngăn cách, bí mật).

Tôi rất ngạc nhiên về điểm này. Ông Cẩn giải thích, đại ý:

- Về lãnh vực tình báo trên thế giới, từ xa xưa cho tới bây giờ, biết bao sự việc lắt léo ly kỳ đã xảy ra. Trong hòa bình cũng như lúc chiến tranh, có khi hai quốc gia chống nhau, hoặc có khi hai khối quốc gia chống nhau. Bên nước này, cũng như bên kia đều đầy dẫy những nhân viên tình báo của đối phương. Những nhân viên này, tùy theo điều kiện và nhiệm vụ, có thể ở mọi nơi, mọi lãnh vực, thậm chí đôi khi còn nằm ngay trong chính quyền trung ương của nước sở tại. Nhiệm vụ của họ có nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng có một cái chung là tìm tòi, nghe ngóng để biết trước được những âm mưu, ý đồ về tình báo của nước nọ đối với nước kia, ngõ hầu có những biện pháp thích ứng để ngăn chận, hoặc lợi dụng, có khi tiêu diệt. Vậy, điều quan trọng là người điệp viên cần phải biết những ai là nhân viên tình báo của đối phương, nhất là những nhân viên bí mật.

Thời đại ngày nay là thế giới tự do và Cộng Sản. Một thí dụ:

- Một người đang được bí mật đào tạo huấn luyện để nhận một nhiệm vụ bí mật vào đất địch, phá một công xưởng sản xuất vũ khí chẳng hạn.

Anh này có vợ, vì anh là tình báo nên đi về thất thường, nguyên tắc không được nói với vợ, nên anh này thường nói dối quanh. Người vợ càng nghi ngờ có lẽ chồng đã đi với cô này, cô nọ, cho nên đã làm cho anh ta nhiều lần khốn đốn. Anh này vì chưa đủ ý thức về bí mật, an ninh công tác nên có ý nghĩ:

- Tuy nguyên tắc là như thế, nhưng vợ của mình, đấu gối tay ấp trọn cuộc đời với nhau, chẳng lẽ lại hại nhau, chẳng lẽ vợ mình lại là Cộng Sản ư?

Và một đêm, anh đã thú thực với vợ, không quên căn dặn vợ là tuyệt đối không được nói với bất cứ ai. Người vợ lại có một người mẹ, thỉnh thoảng nàng hay sang nhà mẹ chơi. Bà mẹ thường bảo:

- Này, cái thằng chồng của mày độ này nó làm ăn cái gì mà tao thấy nó đi suốt ngày, có khi cả đêm nữa? Mày ngốc, mày không để ý theo dõi xem thế nào, biết đâu nó chẳng mèo chuột, v.v…

Người vợ tuy đã nghe chồng dặn kỹ, nhưng lại nghĩ:

- Mẹ đẻ ra mình chứ ai, chẳng lẽ mẹ lại hại vợ chồng mình? Mà mẹ mình là Cộng Sản hay sao?

Và, rồi một hôm nào đó nàng đã nói thực với mẹ, cũng không quên căn dặn mẹ: Đừng, chớ có nói chuyện này với một ai mẹ nhé!

Bà mẹ lại có một người bạn chí thân. Trong một lần nào đó, bà bạn hỏi thăm về thằng con rể của bà bạn mình. Bà mẹ không được học về nguyên tắc bí mật, nên muốn khoe với bà bạn thân:

- Ấy, chẳng hiểu nó làm cái gì bí mật lắm, ở mãi trên Phủ Tổng Thống cơ! v.v…

Bà bạn chí thân này lại có chồng, có con thân mật ruột thịt khác. Cứ như thế, đến lúc nào đó, tình báo của đối phương sẽ đánh hơi thấy (cái này nó thính lắm) truy nguyên ra được tông tích và hành tung của anh chàng không kín miệng. Nếu anh đó, dùng bất cứ hình thức nào để xâm nhập đất địch, nếu không hai năm mươi thì cũng vào trong ấp mà nằm.

Như vậy, nguyên nhân vì đâu mà anh ta bị như thế? Rõ ràng, xuất phát từ vấn đề người vợ, khiến anh ta đã thất bại.

Hơn nữa, người ta đánh giá một công tác, thường chỉ căn cứ vào thành công hay thất bại mà thôi. Còn nguyên nhân tại sao, lý do thế nào, xét sau. Bất kể nguyên nhân ra sao, do đối phương ngăn chận không thể thực hiện được công tác, hoặc tư tưởng của nhân viên muốn lẩn trốn không dám thi hành công tác, v.v… dù nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì cũng dẫn đến chung một kết quả là công tác đó bị thất bại, không thực hiện được.

Qua thí dụ trên, về một khía cạnh nào đó, người vợ cũng như là một kẻ thù, một đối phương vậy.

Từ những vấn đề trình bày ở trên, tôi nhớ lại trước đây khi xem những phim tình báo gián điệp của Thế Chiến I và II, những tiểu thuyết tình báo trong đó có Z 28 chẳng hạn. v.v… Tôi cho rằng những điệp viên quái kiệt đã được đào tạo ở những trường điệp báo khét tiếng như: Hắc Long, Intelligent Service, Gestapo, CIA hay KGB, v,v… đều bắn các loại súng như máy, cưỡi ngựa như gió, sử dụng máy bay, xe hơi một cách điêu luyện tinh vi. Tôi thật ấu trĩ! Từ những nguyên tắc bí mật và ngăn cách, chẳng có một trường nào công khai đào tạo điệp viên cả. Nếu có một trường như vậy, chẳng khác gì những điệp viên ấy đã tự trình bày với đối phương, thưa các ông: “Chúng tôi đang ở trong bụi rậm này!”. Cho nên thực tế, có nhiều vấn đề chẳng giống như tiểu thuyết và phim ảnh.

Trở lại Ngọc Cẩn. Sau đó, tôi tiếp tục được giảng dạy nghiên cứu và mổ xẻ các loại nhân viên: Nhân viên giữ nhà an toàn, nhân viên trung gian, nhân viên đi hoạt động bí mật, nhân viên liên lạc, nhân viên công khai và bán công khai, nhân viên nhị trùng hay hai mang, v.v…

Trong khoảng bốn tháng, ông Cẩn đến với tôi hàng ngày như vậy. Tôi nhớ một hôm, vào cuối tháng 4 – 1960, ông Cẩn vào phòng tôi với một người nữa. Ông này cao, lớn con, đầy phong độ. Ông Cẩn quay lại tôi, rồi nhìn về phía người cao lớn vừa như dặn dò bàn giao, vừa như giới thiệu:

- Tôi bận một số công tác đặc biệt khác, nên đây là ông Phan, Ông cũng như tôi, người của Cục, ông sẽ thay tôi phụ trách Bình. Tôi bắt tay và nhìn ông Phan. Ngay từ buổi đầu, chỉ vài câu chuyện trao đổi, tôi đã thấy ông dễ mến vì thái độ cởi mở. Qua tiếng nói, tôi hiểu ông là người miền Nam.

Sau đó, ông Cẩn thân mật bắt tay từ giã chúng tôi.

Còn lại một mình ông Phan và tôi. Qua ánh mắt và nét mặt, ông nhìn tôi như muốn trao cho tôi nhiều thiện cảm. Đúng như tôi nhận xét về ông từ lúc đầu, ông Phan thật xuề xòa và tỏ ra là một người rất phóng khoáng. Nghe ông nói chuyện, tôi có cảm tưởng như đã quen ông thân mật từ lâu rồi.

Ông Phan đến tủ sách của tôi, lật xem vài quyển, rồi quay lại nói:

- Từ nay, tôi sẽ tiếp tục đào tạo và huấn luyện Bình.

Rồi ông quay hẳn lại, đến bàn ngồi trước mặt tôi, giọng đầy gần gũi, thân mật:

- Bình có biết không? Trong Cục tôi nghe nói, Bình là một nhân viên mới có nhiều khả năng, tôi đã tìm mọi cách để xem hồ sơ của Bình, mặc dù theo nguyên tắc ngăn cách thì thật khó. Tôi thấy rằng, nếu trao cho Bình một công tác khác thì hơn. Bình làm công tác này hơi … phí.

(Phải nói, lúc đó tôi không hiểu câu nói này của Phan, mãi về sau, khi ra miền Bắc rồi tôi mới hiểu) Phan nói tiếp:

- Vì thế, trong những ngày tới, tôi sẽ bàn với Bình sau. Bây giờ, Bình hãy tiếp tục học hành, nghiên cứu. Nhưng, ở đây lâu không tiện. Vậy ngày mai, tôi sẽ đem xe đến chuyển Bình về Kỳ Đồng.

Về building Kỳ Đồng, tôi tiếp tục học các môn:

- Các loại chữ bí mật.
- Cách viết thư bí mật.
- Mật mã.
- An ninh cá nhân và công tác.
- Hộp thư sống, chết.
- Hội kiến.
- Vỏ học.
- Tuyên truyền, phản tuyên truyền.
- Cách lấy tin tức, moi tin.
- Ngăn cách.
- Đánh giá nguồn tin.

Mỗi môn đều phải nghiên cứu, mổ xẻ từng chi tiết lắt léo nhất, đồng thời thực tập nhiều lần. Phan cũng thử thách tôi liên tục, lợi dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện để biết rõ về khả năng cũng như khuyết điểm của tôi.

Càng ngày, Phan càng có thiện cảm với tôi hơn, thường gọi “toa” xưng “moa”. Có những buổi sau giờ học, Phan và tôi bên nhau chuyện trò tâm tình. Từ đấy, tôi biết được ít nhiều về Phan. Phan đã có 15 năm nghiệp vụ tình báo. Trước đây, Phan đã ở Phòng Nhì của Pháp nhiều năm. Theo Phan nói, 1952, Phan đã bị Cộng Sản ám sát ở Cần Thơ. Tên Cộng Sản đặc công bắn Phan từ khoảng cách 25 mét nhưng rất chính xác. Y đã ghim viên đạn vào ngực phía trái, chỗ trái tim của Phan. Phan có vạch ngực cho tôi xem vết sẹo. Phan may mắn thoát chết là do hộp thuốc lá bằng kim loại đắt tiền ở túi áo ngực. Dù vậy, viên đạn cũng găm vào ngực Phan, tuy không vào sâu. Tất nhiên, tên Cộng Sản đó bị bắt. Rồi, tính quân tử và lòng hào hiệp của Phan đã lôi cuốn được trái tim của tên Cộng Sản ấy. Chính Phan đã bảo đảm và lãnh tên đó từ trong tù ra. Cho tới khi Phan đến huấn luyện cho tôi, tên đó vẫn là tay chân đắc lực của Phan.

Theo nguyên tắc, Phan không được kể những chuyện như vậy với tôi, nhất là về đời tư của mình. Nhưng, vì Phan là người cởi mở, và là người Nam, nên nói chung đã không quá kín đáo như người Trung hay Bắc.

Một buổi vào đầu tháng 10 – 1960, Phan đến nói với tôi:

- Hiện nay trong vùng bưng biền, tụi Cộng Sản đang chuẩn bị thành lập một “mặt trận”, rồi có thể sẽ tiến tới thành lập một chính phủ lâm thời. Do đấy, tôi muốn chuẩn bị cho Bình đóng vai là một sinh viên bất mãn với chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Một mặt Bình sẽ tiếp tục đi học ở trong trường, lớp, Bình sẽ tổ chức ra một số vụ chống đối, để dẫn bắt mối với một số phần tử thực của Cộng Sản ở trong sinh viên và học sinh. Mặt khác, chính quyền sẽ tạo nên một cú bao vây, rượt bắt. Bình sẽ nhân thế đó, chạy vào bưng, v.v…

Sau khi nói xong, Phan hỏi ý kiến tôi.

Tôi hiểu, nói chung, vào “vùng giải phóng” thì ít nguy hiểm hơn ra ngoài Bắc. Nhưng đối với tôi, vấn đề nguy hiểm nhiều hay ít không phải là điều đầu tiên tôi quan tâm. Điều tôi nghĩ đến trước hết là công tác ấy có hào hứng và kỳ thú hay không. Vì thế, tôi chậm rãi trả lời:

- Tùy sự quyết định ở trên.

Có thể Phan thấy sự trả lời của tôi không dứt khoát, hoặc có những tính toán thay đổi trong Cục, hay tình hình diễn biến có khác; những ngày sau đó, không thấy Phan nhắc nhở gì về vấn đề vào bưng nữa.

Hàng ngày, Phan vẫn đến tiếp tục giảng dậy cho tôi. Một thời gian sau, tôi lại được chuyển về building ông Thọ.

Một mặt, tôi vẫn theo học, mặt khác, tôi xem lại bài vở nộp đơn thi Tú Tài I. Chính Phan cũng khuyến khích tôi.

Một hôm, Phan dẫn đến hai người Mỹ, giới thiệu tên là Brown và Dale, để huấn luyện thêm một số môn khác. Cả hai đều mặc thường phục, ông Brown đeo kính trắng. Tuy mỗi người dạy những môn khác nhau, nhưng hai người hay thường xuyên đi cùng.

Thế là từ đấy ba người, Phan, Brown và Dale liên tục giảng dạy cho tôi về các môn:

- Phương pháp tổ chức.
- Điện đài.
- Theo dõi và chống theo dõi.
- Phương pháp tuyển mộ.
- Huấn luyện, đào tạo nhân viên.
- Vũ khí, mìn.
- Tự mưu sinh (núi, rừng, biển).
- Phân tách tâm lý, khả năng từng dạng người trong xã hội.
- Phương pháp hình thành một mạng lưới hoạt động bí mật.

Thời gian này thực vất vả. Lý thuyết rồi thực hành. Tiếng Anh của tôi viết hay đọc thì còn được chút ít, nghe và nói thì thật là cập quạng, nên Phan thường xuyên phải thông dịch vì có rất nhiều từ chuyên môn.

Một điều thật phấn chấn cho tôi, kỳ thi Tú Tài phần I năm đó tôi lại đậu. Vì thế, Phan và hai người Mỹ dự tính một công tác dài hạn rất chi tiết để tôi vào miền Bắc hoạt động. Nội dung, kế hoạch tổng quát:

Cộng Sản miền Bắc thường ve vãn, mồi chài, lôi kéo những sinh viên du học tốt nghiệp ở ngoại quốc về miền Bắc xã hội chủ nghĩa để xây dựng (!) đất nước, tổ quốc, v.v…

Do đấy, tôi sẽ nhận một học bổng đi du học Hồng Kông, hay Tân Gia Ba về Điện hay Hóa theo năng khiếu của tôi. Khi tốt nghiệp rồi, Cộng Sản sẽ tìm đến. Lúc ấy, tùy theo hoàn cảnh thích ứng mà theo họ về miền Bắc; rồi từ đấy, sẽ bí mật hoạt động cho Sài Gòn.

Tôi thấy công tác này quá lâu dài, có khi hàng chục năm, cho nên tôi không tỏ ý thích lắm, tôi cũng nói thẳng ý nghĩ đó với Phan. Thực ra, lúc đó tôi không biết, hoặc cũng chẳng chú ý đến việc lợi dụng cơ hội để đi du học trước đã, để dù có thế nào thì cũng có một mảnh bằng. Phan thấy thái độ ơ hờ của tôi như vậy nên lại thôi.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 03 Feb 2010

Tập I - Chương 6

Công Tác “Columbus” …

Thời gian trôi qua, thấm thoát đã lại tới tháng Tám, cái tháng của Sài Gòn nắng thật nhiều. Tôi lại được chuyển về số 62 đường Trần Hưng Đạo.

Đây là một phòng rất rộng, có hai buồng, với đầy đủ tiện nghi của một khu có nhiều người ngoại quốc ở. Như vậy mới tạo vẻ bình thường, khi có những người Mỹ thường xuyên ra vào phòng của tôi.

Thời gian này, vừa tiếp tục đào tạo huấn luyện tôi, vừa chuẩn bị kế hoạch công tác tung ra Hà Nội.

Công tác trực tiếp ra Hà Nội:

Bí danh công tác: COLUMBUS
Bí danh từ khi tôi vào ngành: X20.
Thời hạn: 25 ngày (công tác ngắn hạn).
Nội dung:

Chính:

1. Tài liệu X cho Z5 (Hoàng Đình Thọ).
2. Tài liệu M cho … (theo quy ước).
3. Mang 3 tâm thư bằng máu của Linh Mục Hoàng Quỳnh cho các linh mục A, B, C.
4. Tuyển mộ huấn luyện.

Phụ:

Theo dõi với khả năng và điều kiện tối đa những hiện tượng:

6 Cầu Gỗ, 1 Đường Thành, 27 Hàng Đường.
MIG 15, 19 – Về chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự.
Tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội v.v…

Vỏ bọc:

Học sinh lớp 10 Phổ Thông Vĩnh Linh, đau tim ra Hà Nội chữa bệnh.
Buôn lậu.
Mang thư của Sư Bà Đàm Hướng chùa Phước Hải về sư Tuệ Chiếu với Thẩm Hoàng Tín.
Theo dõi Sư Đoàn 308, phòng thủ Thủ Đô Hà Nội do Thiếu Tướng Vương Thừa Vũ làm sư trưởng.

Giai đoạn chuẩn bị:

- Một kế hoạch nghiên cứu tỉ mỉ thấu đáo, phòng hờ mọi tình huống, suốt hơn một năm trường cho tới tháng 4/1962.
- Hết thực tập lại nghiên cứu. Brown, Dale, Phan và tôi thường xuyên làm việc, theo phương châm: Càng học tập, nghiên cứu kỹ lưỡng trong “giai đoạn chuẩn bị” thì đường vào đất địch càng rộng, càng bằng phẳng.

Chi tiết toàn bộ công tác:

Bí danh X20 (ngay khi là nhân viên chính thức của Cục họ đã đặt bì danh cho tôi là X20, và bây giờ, trong công tác COLUMBUS, vẫn duy trì bí danh đó).

Nhiệm vụ chính:

1- Tài liệu X cho Z5 Hoàng Đình Thọ.

Vì là đích danh, nên tôi đã được cầm tấm hình bán thân (4×6) của ông Thọ một tuần lễ, thỉnh thoảng lấy ra xem cho quen mặt và ghi dần vào tiềm thức của tôi.

Theo tin tức của Cục cho: Lúc đó, Hoàng Đình Thọ là bác sĩ Nội Khoa bệnh viện Phủ Doãn cũ (bây giờ đổi lại là Việt Đức).

Khi về tới Hà Nội, có giấy giới thiệu để khám bệnh tim. Tìm thời cơ thuận tiện để trao “tài liệu X” cho Thọ.

Mật khẩu: “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi”. Đúng 12 chữ.

Trả lời: “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi”. Đúng 10 chữ.

Tài liệu X: Bọc ny lông đen, dầy 2 ly, dài 4 phân rưỡi, rộng 2 phân. Kín, không thấm nước. Tôi không được phép biết gì về tài liệu này.

Nếu Hoàng Đình Thọ không còn làm ở bệnh viện Việt Đức. Hủy tài liệu ngay.

2- Tài liệu M theo quy ước.

Giờ và ngày quy định:

Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng (2 tiếng).
Ngày 16 và 18 (phòng hờ nếu trục trặc ngày16 thì ngày18).

Địa điểm: Trên cầu Thê Húc (cầu bằng gỗ) của đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm.

Tôi quần xanh, áo trắng xắn tay, đi dép Thái Lan, đội mũ xanh công nhân. Tay cầm tờ báo Quân Đội Nhân Dân.

Đối tượng: (Bất cứ ai) mặc quần ka-ki xám, áo nâu, dép Bình Trị Thiên (dép râu). Tay cầm 3 quyển vở học trò.

- Khi tôi nhìn thấy bất cứ ai vào giờ ấy, ngày ấy, trên cầu Thê Húc. Chờ người ấy nhìn thấy, tôi đang cầm tờ báo gấp đôi, bây giờ tôi gấp thành tám.

- Người ấy trả lời bằng cách: Chuyển 3 quyển vở từ tay này sang tay kia. (Luôn luôn ở cách xa ít nhất 10 mét). Sau đó, tôi cứ đi, chính tôi phải chủ động tìm một địa điểm thuận tiện như công viên chẳng hạn. Tìm ghế đá, hoặc chỗ ngồi nào đó để đối tượng, từ xa 50 mét trở lên, có thể dễ dàng quan sát được tôi.

Tôi sẽ ngồi bình thường ở một cái ghế xi măng nào đó. Mở báo xem, che trên hai đùi, rồi (tùy cơ ứng biến) chờ đối tượng nhìn thấy. Gãi khuỷu tay, tuy gãi nhưng một ngón tay chỉ thẳng vào chỗ bỏ tài liệu. “Gãi” là dấu hiệu đã bỏ tài liệu, bây giờ là chỉ chỗ.

Khi thấy đối tượng “gãi đầu”, tức là đối tượng đã nhìn thấy. Chừng 5, 10 phút sau, với một thái độ bình thường, tự nhiên đứng dậy đi (nếu có đuôi, dẫn đuôi đi). Nhưng phải kín đáo, dùng phương pháp nghiệp vụ quan sát, kiểm tra khi đối tượng lại lấy tài liệu. Chỗ để tài liệu tùy theo cái kẹt hay cái góc nào mà người ta vô tình không thể nhìn thấy nhưng phải tạo thuận tiện cho người ấy.

Tài liệu M:

Bọc ny lông nâu, dầy 3 ly, dài 4 phân, rộng 3 phân; kín, không thấm nước. Cũng như tài liệu X, tôi không được phép biết gì về tài liệu này.

Về mục tài liệu M này, tôi phải nhắc đi nhắc lại. Học thuộc lòng những mật khẩu, và những quy ước phải thực tập nhiều lần. Bây giờ đã 23 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ.

Tôi nhớ thời gian này, những lúc tâm sự hoặc đi chơi với Phan (theo đúng nguyên tắc, tôi không bao giờ được đi với Phan ngoài phố, vì Phan đã bị lộ, là một cán bộ của cơ quan tình báo miền Nam, tôi mà đi với Phan thì cũng gần như bị lộ). Lúc đó, tôi là một thanh niên mới vào nghề, làm sao tôi có ý thức quán thấu mọi mặt, vậy lỗi này do Phan). Phan nói, trong cơ quan hiện nay, đang hình thành hai phe:

a) Gồm Cục Trưởng và đa số: Quan niệm tình báo theo lối cổ, bào thủ, rập theo nguyên tắc cứng ngắc. Thí dụ: Sai một người đi chợ mua một ký táo chẳng hạn. Phải dặn: Lấy xe đạp đi, lúc đi phải đi sát lề phía phải đường đi, phải đi từ từ, chú ý xe cộ ở ngã ba, ngã tư, khi quẹo, nhớ phải giơ tay làm hiệu. Khi đến chợ, khóa xe thế nào, gửi ở đâu, vào chợ thì mua loại táo nào, mặc cả ra sao, cách thức chọn táo; cũng như trên đường về v.v…

b) Gồm Cục Phó và một số ít người, trong đó có Phan là người điển hình. Quan niệm, tình báo phải sống động linh hoạt, khích lệ cho nhân viên có óc sáng tạo, bén nhậy trong mọi tình huống. Cũng là sai một người ra chợ mua một ký táo, chỉ cần dặn: Nhớ mua, mặc cả táo ngon, đi đường phải cẩn thận. Nhưng, với khả năng khôn khéo sẵn có của anh, tôi tin rằng anh sẽ mua được táo ngon và rẻ.

Theo tôi nghe và nhận định: Tuy tôi chẳng phải là loại người ba phải, tôi thấy cả hai quan niệm trên đều có cái ưu và khuyết. Vậy cần trộn lẫn, rồi nhặt những cái ưu ra dùng, không cần biết của phe nào cả. Đó cũng chỉ là ý nghĩ của tôi, chứ không dám phát biểu với Phan. Tôi chỉ hỏi: Vậy hiện nay, kết quả phe nào có ưu thế? Phan nói: Thực tế bây giờ đánh giá bằng những kết quả của công tác; theo lối cổ điển thì thành công nhiều hay ngược lại, từ đấy phe này sẽ phải theo phe kia.

Do quan niệm trên, Phan nhiều lần giảng dạy cho tôi rất phiến diện, hời hợt. Vì thế, nhiều vấn đề tôi cần sáng tỏ, rõ ràng thì lại phải yêu cầu.

Chẳng bù với Ngọc Cẩn, hoặc sau này là Hoàng Công An, lại quá ư chi tiết, nhàm chán, đôi khi thành lẩn thẩn. Riêng Brown và Dale, thì tôi hiểu là của CIA, tuy tôi chưa hiểu lắm, vì trình độ Anh văn của tôi. Nhưng qua một số hiện tượng, phong cách, thái độ của họ, tôi thừa nhận họ có nhiều cái đúng. Nghĩa là, cái nào họ cần chi tiết, thì rất tỉ mỉ từng ngóc ngách một, đoạn nào không cần thiết thì họ cũng phiến diện, khái quát.

Trong thời gian học tập và chuẩn bị công tác này, tôi được cung cấp một radio transitor với cả ống nghe. Tôi được toàn quyền nghe đài miền Bắc, và có rất nhiều sách báo của miền Bắc gồm đủ loại: Tuần báo, nguyệt san, nhật báo, sách vở v.v… Mục đích là để tôi quen sự sinh hoạt, cũng như ngôn từ của Cộng Sản miền Bắc.

Vào khoảng tháng 9/1961, một hôm Phan dẫn một người đeo kính trắng đến giới thiệu là ông Hoàng Công An. Vì Phan có một số công tác đặc biệt không ở Sài Gòn, nên ông An sẽ thay Phan phụ trách tôi. Ông An là người miền Trung.

Qua sự huấn luyện và học tập, và kinh nghiệm từ số 2 Jean Jacques Rousseau, tôi đã hiểu đầy đủ về sự tò mò tìm hiểu những điều mình không cần biết, một nguyên tắc ngay trong cuộc sống, thường thường đã là không tốt rồi và bất lợi rồi. Vì vậy, ngay những người đến giảng dạy huấn luyện cho tôi gần 2 năm trời, tôi chẳng, hoặc không cần biết tên thật của họ, chức vụ của họ. Họ ở đâu đến, xong họ đi đâu, tôi không biết.

3) Mang 3 tâm thư của Linh Mục Hoàng Quỳnh.

Đây là một vấn đề phức tạp và nghiêm trọng. Nó có liên quan ảnh hưởng đến toàn bộ Thiên Chúa Giáo miền Bắc. Có lẽ vì vậy mà Cục đưa Hoàng Công An, một tu sĩ gần thành linh mục, đến phụ trách tôi.

Nội dung: Tôi sẽ mang tâm thư của cha Hoàng Quỳnh cho:

- Linh Mục A ở nhà thờ X (Hà Nội).

- Linh Mục B ở nhà thờ Y (Hà Nội).

- Linh Mục C cũng ở nhà thờ Y (Hà Nội).

Tôi đã được xem 3 bản giấy đánh máy, nói rõ về thân thế đặc tính của từng linh mục trên, kèm theo 3 tấm hình bán thân (4×6).

a) Linh Mục A.

Đã có bằng tiến sĩ ở Pháp. Tháo vát, cương quyết, tinh thần chống Cộng Sản rất cao. Có nhiều thành tích và uy tín với giáo dân. Lời hẹn ước xưa với cha Quỳnh. Do tình trạng thiếu linh mục nên Linh Mục A còn phải phụ trách thêm Phúc Xá Thượng và Phúc Xá Hạ nữa.

Yêu cầu của cấp trên nói rõ:

Sau khi Cha A xem xong thư của Cha Quỳnh, đồng ý tự nguyện hoạt động cho thế giới tự do, điều đó là thành công nhất. Khi đó, tôi sẽ nằm luôn tại nhà xứ trong một nơi an toàn, theo sự sắp xếp của Cha A. Hàng ngày, chính tôi sẽ huấn luyện cho người những nét chính yếu, cơ bản về hoạt động tình báo. Trong vòng 10 ngày, phải xác minh được tinh thần, năng khiếu, hoàn cảnh, điều kiện của người. Giao mật khẩu và mật vật là nửa đồng bạc 1 đồng miền Bắc xé đôi: một nửa giao cho người, một nửa tôi sẽ mang về miền Nam. Sau này, bất cứ thời gian nào đó, hoặc nơi chốn nào, có một người nào đó, đến gặp Cha, nói đúng mật khẩu và đưa mật vật, người đó chính là đại diện của Sài Gòn, và sẽ cung cấp những nhu cầu cần thiết cũng như nhiệm vụ cho Cha.

Nếu vì một lý do nào đó, Cha vẫn có tinh thần chống Cộng Sản, nhưng lại không đồng ý hoạt động trực tiếp cho Sài Gòn, yêu cầu Cha giới thiệu người tin cẩn, thân tín nhất, có khả năng và tinh thần. Lúc đó, tôi sẽ trực tiếp gặp riêng, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của người đó, sẽ quyết định nơi huấn luyện. Nếu không có điều kiện thuận lợi, yêu cầu Cha giúp đỡ rồi cũng bí mật nằm im 10 ngày để huấn luyện.

Tuyển mộ nhân viên: Không phân biệt tuổi tác, thành phần, nữ hay nam, nếu là người của chính quyền địch thì càng tốt. Tìm hiểu kỹ thân thế, quan hệ họ hàng, hoàn cảnh, điều kiện sống của người nhân viên mới đó. Cân nhắc xác đáng, phù hợp để cho họ hai địa chỉ ở Pháp và Campuchia để liên lạc.

Địa chỉ ở Pháp: Paul Lạng, 14 rue du Four, Paris 6è, France. Cung cấp cho nhân viên đó rõ thực tế: Paul Lạng, 42 tuổi. Pháp lai có vợ là Marie Nguyễn cũng là Pháp lai. Trước năm 1954 ở Sài gòn. Đầu năm 1954 cùng vợ và 5 con gái về Pháp trên chuyến tàu Espérance. Hiện y đang làm chủ một hiệu giặt ủi máy lớn ở cùng địa chỉ.

Địa chỉ ở Kamphuchea (tên và địa chỉ đánh máy thiếu)… Phnom Penh, 28 tuổi là nhân viên làm trong maternité. Vợ là người miền Nam, quốc tịch Kampuchea, có đứa con trai 4 tuổi.

Lý do phải tương đối hợp lý về quan hệ họ hàng cũng như quan hệ xã hội để nhân viên mới đó giao thiệp thư từ với 2 địa chỉ nói trên: có thể là anh em chú bác bạn bè v.v…. thỉnh thoảng vẫn thư từ thăm hỏi sức khoẻ của nhau từ trước. Có thư từ giao thiêp một thời gian sau đó lẫn vào những lá thư sẽ có những câu hỏi an ninh thí dụ như:

1) Anh dạo này có khoẻ không? – Trả lời vẫn khoẻ, là bị theo dõi. Trả lời ốm bịnh là vẫn bình thường, không ai theo dõi cả.

2) Anh có ước mong có tiền để mua một chiếc xe đạp mới không? – Trả lời không thích tự do.

3) Anh có thích nhạc Phạm Duy không? – Không thích là bị theo dõi. Thích nghe là tự do.

4) Anh thích ăn thịt gà không? – Trả lời thích là bị theo dõi. Không thích là tự do.

5) Người dân dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, sống có thoải mái không? Thoải mái là bị theo dõi. Không thoải mái là tự do.

Ngoài ra, còn hai quy định nữa trong những thư viết cho hai địa chỉ trên để báo cho Sài Gòn biết là mình đang bị công an cưỡng bức ngồi viết thư:

1) Đầu lá thư viết ngày tháng, nếu không để chữ “Ngày” là bị theo dõi. Thí dụ: 20-10-1963: Bị theo dõi. Ngày 20-10-1963: Không bị theo dõi.

2) Tuy có viết ngày hay không, mà dưới niên hiệu năm không có “dấu chấm” là bị theo dõi. Có “dấu chấm” là tự do. Thí dụ: 20-10-1963: Bị theo dõi; 20-10-1963.: Tự do.

Bắt nhân viên đó học thuộc lòng. Cần nhớ nguyên tắc 5 câu hỏi trên là: Hợp lý: Bị theo dõi. Không hợp lý: Tự do.

Bởi vì, nếu không có ai để ý theo dõi, hoặc ngồi trong phòng: Công an dí súng bắt viết báo cho Sài Gòn, thì viết ngược cũng không thành vấn đề.

Quy ước có hàng nghìn kiểu, chỉ có trời biết, nhưng với điều kiện phải nhớ, không được lẫn lộn.

b) Linh Mục B.

Là một người rất trầm tĩnh, ít nói. Làm việc hết khả năng, dù gặp trở ngại cũng tìm mọi cách để hoàn thành công việc. Có óc tổ chức. Còn nặng về tôn giáo hơn xã hội. Theo Cục cho biết cha B vẫn ở trong nhà thờ Y.

c) Linh Mục C.

Cũng ở nhà thờ Y, Hà Nội. Cha năm nay đã già. Tuy vậy, tinh thần của ông rất cao. Ông rất có uy tín với giáo dân Hà Nội, cũng như hàng giáo phẩm Việt Nam.

Theo ý của Cục:

- Cần nhất là Linh Mục A. Nếu vì lý do nào đó mà người không còn ở nhà thờ X; hoặclý do nào khác mà người từ chối thì hãy tới Linh Mục B.

Nếu vì lý do nào đó mà không thể được Linh Mục B, thì mới tới Linh Mục C.

Theo Hoàng Công An cho biết. Ba linh mục trên, không những cùng hàng giáo phẩm thờ Chúa, chăn chiên như Linh Mục Hoàng Quỳnh, mà còn là những người thân, những đồng chí đã có nhiều hẹn ước khi cha Hoàng Quỳnh từ giã theo đàn chiên di cư vào Nam. Tuy vậy, đã 8 năm rồi, dưới chế độ Cộng Sản tàn bạo, chẳng hiểu tinh thần của các người bây giờ thế nào. Hơn nữa, sức khoẻ cũng là một vấn để đối với ba linh mục kể trên.

Riêng tôi, tôi đã suy nghĩ nhiều: Tôi thấy và hiểu rằng công tác này quá nặng nề và nghiêm trọng, đòi hỏi phải một người có khả năng 10 mà tôi chỉ có 2, nghĩa là không có trâu thì phải bắt nghé đi cày. Vì thế, tôi đã mạnh dạn nói ý này với An.

An nói:

- Trên Cục đã nghiên cứu về vấn đề này rất kỹ, nhất là về tôn giáo. Không phải ai cũng giao được công tác này, bởi vì, nếu thất bại, Cộng Sản sẽ lấy đó để hạ uy tín của Công Giáo và tăng cường kìm kẹp giáo dân cũng như các hàng giáo phẩm hơn nữa. Không những thế, công tác còn đòi hỏi rất nhiều mặt, nhất là địa bàn hoạt động lại là thủ đô của Cộng Sản. Bình yên tâm, Cục đã cân nhắc, tìm tòi nhiều, cuối cùng mới quyết định Bình đấy chứ.

Dù An nói sao, tôi vẫn tự nghĩ thầm. Những người đầy đủ khả năng thì không ai dám đi, vì đầy nguy hiểm, chết chóc trước mắt. Vì thế, trong số những người liều bất tử, dù không đủ yêu cầu thì cũng đành chọn vậy.

Tuy trong lòng tôi đầy vơi nghĩ suy như vậy. Nhưng nhìn lại, thế của tôi đã ngồi lên lưng cọp rồi. Quan điểm của tôi là đã trót ngồi lên lưng ông Ba Mươi, phải thúc gót thêm cho ông phóng mạnh, rồi muốn ra sao thì ra.

Một hôm, Hoàng Công An đến nói với tôi: Theo ý cha Hoàng Quỳnh, trước khi người viết thư, người yêu cầu được gặp chính người lãnh sứ mạng đặc biệt đó ra Hà Nội. Cục đã chấp nhận. Vậy, sáng mai, 9 giờ tôi đến, chúng ta cùng đi.

Tôi hỏi đi đâu, có xa không?

An nói:

- Ở xứ Bình An, bên Bình Xuyên.

Tôi nhớ lại ngày xưa, ngày tôi còn là cậu bé, cha Hoàng Quỳnh là trưởng đoàn võ: Đinh Bộ Lĩnh mà tôi là một võ sinh tí hon theo đoàn đi các nơi biểu diễn những bài song kiếm hoặc Mai Hoa Quyền trên một võ đài. Chắc giờ đây tôi có nói ra thì cha mới nhớ được, vì tôi lúc này đã lớn rồi. Bởi thế, tôi đã định, nếu khi gặp, cha không nhận ra thì tôi cũng không nhắc lại.

Hôm sau An đến, chúng tôi cùng đi xe tới xứ Bình An. Tôi và An ngồi chờ cha ờ phòng khách. Một lát sau, cha ra. Ôi, mới hơn 10 năm trời mà khi tôi nhìn thấy người, tôi rất ngỡ ngàng. Da mặt người đã nhăn nheo, tóc người đã điểm sương. Chỉ còn dáng dấp quen thuộc, nhanh nhẹn của người thì vẫn như ngày nào.

Hơn một giờ chuyện trò, Cha thường nhìn tôi, nói: “Dũng cảm nhỉ!”. Lúc tiễn An và tôi ra cổng, cha nói:

- Cha rất cảm phục con. Trước ngày con đi, cha muốn ăn cơm với con một bữa, để thỏa lòng cha, gọi là trách nhiệm của một người tiễn đưa một tráng sĩ mang tinh thần oanh liệt của Phạm Hồng Thái, con có đồng ý không?

Tôi không dám trả lời và nhìn sang An. An nói:

- Con xin lĩnh ý cha. Con về xin ý kiến, rồi sẽ gọi điện thoại đến cha ngay.

Trên đường về, An nói:

- Chưa chắc cấp trên đã đồng ý, vì Bình còn nhiều việc lắm.

Tôi biết uy tín của cha Quỳnh không phải là nhỏ. Người đã làm cho Hồ Chí Minh bẽ mặt một lần, khi người còn là phó chủ tịch Mặt Trận “Liên Tôn Diệt Cộng” hiển hách năm nào ở ngoài Bắc, mà sư Tuệ Chiếu là chủ tịch; cái thời cáo Hồ còn bịp bợm ve vãn, mua chuộc, quỳ gối trước Đức Cha Lê Hữu Từ xin chịu rửa tội nhập đạo.

4. Tuyển mộ huấn luyện:

Nếu do lòng nhiệt tình và ý thức dân tộc nên các cha đồng ý, tôi sẽ huấn luyện. Nếu không, xin các cha giới thiệu những người tin cẩn và thân tín, lúc đó, chính tôi sẽ tuyển mộ và huấn luyện họ. Đối với tôi, điều này không khó khăn gì lắm. Ban đầu, chỉ cần nói những nét cơ bản về nghiệp vụ. Điều khó khăn là tìm biết được khả năng và bản tính của mỗi người, phát hiện ngay được cái ưu, cái khuyết của họ.

Tuy tôi cũng đã được học tập gần 2 năm, Dale, Brown và An vẫn nhấn mạnh:

- Bản tính con người ta vô cùng phức tạp, có rất nhiều vấn đề khác biệt. Nhưng nói chung, con người gồm ba loại:

a) Loại bộp chộp, ruột để ngoài da. Vui, buồn hay có vấn đề gì, chung quanh ai cũng biết. Loại ngưòi này ta ít phải quan tâm.

b) Loại thâm trầm, ít nói. Họ ghét hay họ yêu mình, họ đồng ý hay không đồng ý việc mình làm, thái độ của họ không thay đổi. Loại người này, khi sống gần, ta phải luôn luôn cảnh giác, giữ ý và coi chừng. Nếu họ bắt đầu có hành động hay thái độ gì không bình thường, ta đã chuẩn bị đối phó. Nhưng họ không nguy hiểm bằng loại thứ ba.

c) Loại người này, họ vẫn cười nói với mình, đôi khi lại tỏ ra thắm thiết thân mật hơn, ta có khó khăn gì họ sẵn sàng giúp đỡ, chia xẻ. Khi họ chiếm được lòng tin của ta, bất ngờ cho một mũi dao vào tim ta. Loại này thường làm mất cảm giác của ta. Gây cho ta sự chủ quan rồi hại ta v.v…

Tóm lại: Để có thể phân loại được bản tính của đối tượng, ta phải có sự nhận xét tinh tế và bén nhạy. Dù đối tượng nói gì, nấp dưới bất cứ hình thức nào, ta vẫn phải nhìn rõ bản chất, nghĩa là con người thực của họ. v.v… Người đi tuyển mộ phải biết.

Bản tính con người khó thay đổi. Vì vậy, trong giai đoạn thử thách, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cho phép có thể ngắn dài, nếu thấy người mình định tuyển mộ có những khuyết điểm về cơ bản thuộc bản chất, ta phải loại bỏ ngay. Khác với các lãnh vực khác còn có thể sửa chữa được, bản chất thì không.

Một người có tính huênh hoang, có thể đã bị đời đập cho méo mặt vì cái tính huyên hoang, khoác lác này, cũng chỉ chừa được ít ngày, rồi sau đó, đâu lại hoàn đấy.

Một người có tính tự ái cao, thì suốt đời cũng không thể bỏ được tính đó. Chính vì tính tự ái này, họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thăng tiến, lỡ lầm nhiều chuyện tình cảm, để phải ân hận lâu dài.

Ông bà ta đã chẳng từng nói: “Cái nết đánh chết không chừa”. Phương tây cũng có những câu chuyện về “Ông vua và chiếc tai Lừa”, hoặc “Con mèo và ông quan đại thần” … Ông cha đã dạy con cháu là chúng ta: Giang sơn dễ đổi, bản tính khó chừa!
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 12 Feb 2010

Tập I - Chương 7

Những Chuyện Tình Báo …

Nhiệm vụ phụ :

Ngoài những nhiệm vụ chính mà tôi phải đem hết nghị lực, khả năng để phải thực hiện bằng được, trong quá trình sống và di chuyển ở Hà Nội, tôi phải để ý tới những hiện tượng dưới con mắt nghiệp vụ những số nhà sau đây:

- Số 6 phố Cầu Gỗ.

- Số 1 phố Đường Thành.

- Số 27 phố hàng Đường

Theo nguồn tin tình báo, ba nơi này thường xuyên đào tạo, huấn luyện gián điệp rồi tung vào miền Nam hoạt động. Tình báo miền Nam đã bắt được hai vụ nổi tiếng, và Cục đã cho tôi biết chi tiết để rút ra nhiều kinh nghiệm như một bài học. Dưới đây là hai vụ điển hình. Tất nhiên còn nhiều vụ khác nữa:

1. Khoảng 1957, do nhân dân bí mật tố cáo, tình báo miền Nam đã bố trí bắt được một nhân vật có hạng về tình báo của miền Bắc. Khi đem về khai thác, điều tra. Sau hơn một năm trời, dùng mọi khả năng của những nhà chuyên môn, ta cũng đành chịu khuất phục trước sự kiên trì, lì lợm của y.

Nếu ở trong tay công an dưới chính quyền miền Bắc, nhận tội hay không, tội nhân cũng cứ bị tù cho tới khi nào cơ thể không chịu được nổi, hoặc cho tới già, rồi về với ông vải, thì thôi.

Nhưng chính quyền miền Nam, nếu thiếu chứng cớ cụ thể, chỉ giam tội nhân tới một mức quy định, rồi cũng phải thả ra. (Cụ thể như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình v.v…)

Anh ta, trước sau chỉ một mực chối là vô tội. Ta đã dùng nhiều biện pháp tinh vi hơn như: Khổ nhục, tra tấn, dụ dỗ, khích lệ v.v… cũng đều vô hiệu. Việc này đã làm điên đầu những người có trách nhiệm của Cục tình báo miền Nam.

Sau nhiều phiên họp gay cấn, chính ông Cục Trưởng đã đưa ra một kế hoạch, và ông xin chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch đó.

Vào một buổi cuối Đông, bầu trời Huế xám xịt, những cơn gió mùa Đông Bắc về muộn mang theo những trận mưa rả rích, nhạt nhòa … Từ cổng nhà lao Thừa Thiên, hai chiếc xe Dodge 4 phủ mui kín mít, lao về quốc lộ 1 hướng về Nam, chuyển tù vào Sài Gòn.

Xe trước, băng sau chở 4 phạm nhân bị khóa tay, trong đó có tên Cộng Sản lì lợm nói trên, và hai người mặc quân phục có vũ trang áp tải. Băng trên, ngoài tài xế, còn có một trung úy và một hạ sĩ. Ông hạ sĩ này chính là ông Cục Trưởng mà tên Cộng Sản đó chẳng lạ gì.

Xe sau, chở một thiếu úy và nửa tiểu đội, tất cả đều mặc quân phục và có vũ trang. Hai chiếc xe theo nhau chạy mãi vào đêm tối. Hơn 4 tiếng đồng hồ sau, lúc đó khoảng 11 giờ khuya, giữa quãng đường dài vắng vẻ, hai bên là triền rừng; bất chợt hai loạt trung liên nổ ròn rã phía trước xe. Đạn réo lên ngay phía trên mui. Ngay lúc đó, tài xế và mọi người đều đã nhìn rõ một chướng ngại vật là một thân cây to nằm chặn ngang đường. Biết là đã lọt vào ổ phục kích, các quân nhân trên hai xe vội vàng nhảy xuống đường, tìm địa thế cấp thời để chống trả.

Nhưng, tất cả đã nằm gọn trong vòng vây, với đầy mũi súng tua tủa của đoàn quân phục kích. Chỉ sau 10 phút, tất cả quân nhân trên hai xe đều bị tước hết vũ khí, bị trói gô và bắt ngồi tập trung vào một chỗ. Một người, có lẽ là chỉ huy đoàn quân phục kích, ra lệnh lục soát trên hai xe, tịch thu một số đồ cần thiết, trong đó có cả giấy tờ, hồ sơ, v.v…

Riêng 4 phạm nhân, tay vẫn bị khóa, bị dẫn xuống bắt ngồi cùng với đám quân nhân, sau khi biết họ đều là tù hình sự can tội an cướp hoặc giết người.

Người chỉ huy đoàn quân phục kích nhìn những quân nhân đang bị trói, dõng dạc tuyên bố:

- Các anh là ngụy quân, lầm đường lạc lối, làm tay sai cho đế quốc Mỹ bắn lại nhân dân, làm hại đồng bào, lẽ ra chúng tôi bắn bỏ hết. Nhưng, theo chính sách khoan hồng của đảng (lúc đó chưa có Mặt Trận Giải Phong Miền Nam), chúng tôi sẽ tha hết, kể cả 4 phạm nhân hình sự. Các anh hãy trở về cải tà quy chính. Riêng hai tên sĩ quan, vì đã có nhiều nợ máu với nhân dân, chúng tôi phải mang vào bưng xử lý.

Rồi người đó ra lệnh cởi trói cho hết các quân nhân, còn bắt đưa chìa khóa mở còng cho 4 người tù. Giữa lúc đó, tên tù Cộng Sản lì lợm, đứng bật dậy, rút ở trong ve áo ra một miếng vải đỏ hình vuông mỗi bề 4 phân, ở giữa có hai ngôi sao vàng nằm trên sọc trắng. Y đưa cho tên chỉ huy đoàn quân phục kích xem và nói:

- Các đồng chí, tôi là Trưởng K 10 nội thành Sài Gòn, thuộc cục R. Hôm nay, vô tình các đồng chí đã lập được một kỳ công vô cùng to lớn. Các đồng chí hãy trói ngay tên hạ sĩ kia, nó chính là tên Cục Trưởng Trung Ương tình báo của Sài Gòn.

Cả đoàn quân phục kích sáng mắt hân hoan. Bốn, năm mũi súng đều chĩa vào ông hạ sĩ và trói nghiến lại.

Thay vì đưa vào bưng, người chỉ huy mặc áo bà ba đen ra lệnh tất cả lên xe trở về miền … sông Hương, núi Ngự.

2. Sự việc xảy ra vào năm 1959 ở ngôi nhà, hình như mang số 126 hay 128 (tôi không nhớ rõ), đường Phan Đình Phùng Sài Gòn.

Ngôi nhà này có cửa sắt, tuy ở mặt phố nhưng không bao giờ thấy mở, trừ đôi lúc có người ra vào. Chủ ngôi nhà là một quả phụ, gần 60 tuổi. Trước đây, bà có một người em trai ở cùng. Ông này học hành đã thành đạt, nên hiện đang làm việc trong Phủ Tổng Thống. Người ta chẳng biết ông làm gì, chỉ nghe đồn ông rất có uy thế, thường gần gũi với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Có thể do đòi hỏi của công việc, hoặc vì lý do nào khác, ông đã được cấp một căn biệt thự ở đường Công Lý, gần dinh Độc Lập, để đi về được thuận tiện. Và vì vậy, ngôi nhà ở Phan Đình Phùng càng vắng vẻ đìu hiu. Ngoài bà Hân là chủ nhà, trong nhà chỉ còn một bà giúp việc cũng họ gần xa với gia đình bà Hân.

Những người mới đến ở dãy phố này không biết chồng con bà ra sao, chứ những người đã ở lâu gần đó đều hiểu hoàn cảnh gia đình bà. Bà Hân rất hiền lành phúc hậu, bà thường hay đi chùa đền để niệm phật ăn chay và làm việc phúc đức. Theo câu chuyện bà kể lại với những người quen biết, vợ chồng bà đều là con những gia đình giàu có thế phiệt trước đây ở Huế. Bà hiếm hoi, chỉ sinh được một cậu con trai duy nhất, đúng vào lúc xảy ra những biến cố lớn lao của đất nước 1945. Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Hân là một thành phần đảng phái, ông đã hiểu rõ sự hiểm độc của Việt Minh nên cương quyết không hợp tác trong Chính Phủ Liên Hợp của cáo Hồ bịp bợm. Ông đã bị chúng bí mật thủ tiêu ngay thời gian ấy. Giữa cảnh hỗn loạn Nhật, Pháp, Anh, Tàu, và Việt Minh thời đó, dân chúng đã phải trôi dạt, đẩy đưa khắp nơi, và bà đã thất lạc đứa con trai yêu quý, niềm an ủi độc nhất của đời bà. Sau đó, theo giòng đời, bà đã trôi dạt về Sài Gòn với người em trai nói trên.

Do của cải trước đây để lại, hiện bà là người giầu có, thừa thãi tiền tài, nhưng lại rất thiếu nghèo tình đầm ấm của gia đình. Bà đã mất biết bao tiền bạc, tâm lực để thăm dò, tìm kiếm người con thất lạc, nhưng đều bặt vô âm tín. Nỗi nhớ thương buồn phiền của bà suốt 14 năm càng ngày càng cô đọng lại, dồn nén dần vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn bà. Nhũng người quen biết bà đều hiểu rõ như thế. Nhưng, Cộng Sản lại đào sâu, nghiên cứu kỹ, nên đã hiểu biết hơn thế nữa. Chúng đã triệt để lợi dụng, khai thác bối cảnh này. Chúng thấy đây là cơ hội để chúng đưa người lọt vào ở sát nách cơ quan đầu não của chính quyền miền Nam.

Chúng đã tìm và tuyển mộ được một thanh niên theo ý chúng muốn. Chúng ra sức đào tạo, huấn luyện, từng động tác, thái độ, lời ăn tiếng nói, kể cả về tình cảm để đóng vai trò người con thất lạc của bà Hân.

Nói về ngôi nhà của bà Hân. Ngôi nhà này thường đóng cửa, cho nên ở phía trước sát vỉa hè, một người đàn bà nghèo trong xóm đã kê một chiếc ghế dài nhỏ và một cái phản gỗ con, trên bày ít kẹo, chuối, nước sôi … bán cho các bác xích lô … ít tiền.

Tên điệp viên là một cậu trai 19 - 20 tuổi, khôi ngô, quần áo lam lũ; tuy khoẻ mạnh đầy sức trai, nhưng bộ mặt lúc nào cũng đăm chiêu mang nặng một nỗi niềm. Hàng ngày, sau những cú xe đường dài mệt nhọc, anh thường ghé chiếc xích lô đạp sát lề, uể oải ngồi vào ghế, gọi mua nước trà, nhấm nháp, lúc thì cái kẹo, lúc thì quả chuối … anh tỏ ra rất ít nói. Dần dần, bà hàng quen mặt. Bà cũng để ý và đôi khi nhìn bằng ánh mắt thương hại người còn trẻ, mặt mũi sáng sủa mà đã phải lam lũ cuộc đời! Trước, còn là những câu hỏi bâng quơ:”Hôm nay chạy khách có khá không?”, “Trời này, lại sắp mưa!”, “Sao hôm nay cậu đến muộn?” v.v… Cậu trai càng tỏ ra rất ít nói. Mặt lúc nào cũng buồn như che dấu một tâm sự riêng tư. Khi đã có thiện cảm với một cậu bé nghèo, cái tính tất nhiên của người đàn bà là sẽ dần dà thăm hỏi đến gia đình, thân thế, bố mẹ ra sao? v.v…

Lúc đầu, cậu tỏ ra không muốn nói về cuộc đời bất hạnh hẩm hiu của mình, sau thấy bà già nghèo tử tế nên dần dần kể sự tình…

Cậu chẳng biết bố mẹ là ai cả. Ngay từ lúc 4 - 5 tuổi đã đi làm con nuôi cho người ta. 9 - 10 tuổi phải đi ở, hầu hạ nhiều người. Rồi phiêu bạt đi làm đồn điền cao su đầy gian truân, cực khổ. Cuối cùng, trôi dạt về Sài Gòn thân cô, thế cô, phải đi đạp xích lô mưu sinh.

Bà bán nước, đã biết về câu chuyện của bà chủ nhà, nên cũng hơi nghi, vì vậy hỏi tới:

- Thế cậu có nhớ ngày xưa bố mẹ cậu như thế nào không?

Cậu trả lời, mường tượng, lúc nhỏ sung sướng, được mặc quần áo đẹp, được ngồi xe với bố có người kéo … Bà bán nước càng hỏi tiếp, hình như chạnh nỗi niềm đau buồn, cậu không muốn trả lời nữa, và trả tiền, đứng dậy đi.

Bà bán nước tưởng tượng, càng suy nghĩ, biết đâu đây chả là chuyện cơ trời, nên chiều đó, sau khi gửi phản, ghế, bà nói với người giúp việc muốn gặp bà Hân.

Khi gặp bà chủ nhà, bà bán nước thuật lại câu chuyện về người đạp xích lô trẻ tuổi. Đến đây ai cũng hiểu. Có bệnh thì vái tứ phương. Khi nỗi lòng của bà Hân như vậy, hỏi sao lòng bà chả xốn xang, bồi hồi, mong sớm gặp người xích lô đó để hỏi rõ đầu đuôi. Vì thế bà Hân vồn vã dặn:

- Khi nào cậu ấy đến, bà dẫn vào đây ngay cho tôi hỏi chuyện.

Ngày hôm sau, và cả mấy ngày sau nữa; bẵng đi bốn năm ngày không thấy cậu xích lô đó lại, khiến bà hàng nước lẫn bà Hân càng nôn nóng, bồn chồn mong đợi.

Mãi tới hơn một tuần sau; vào một buổi chiều mưa giăng ẩm ướt, cậu xích lô ướt át ghé lại bà hàng nước. Bà hàng tíu tít hỏi:

- Sao mấy bữa nay cậu không ghé đến?

Sau khi rót ly nước trà để đó, bà hàng vội vàng bấm chuông vào nhà bà Hân. Chừng 5 phút sau, bà hàng nước hơ hải ra bảo:

- Này cậu, mời cậu vào đây chơi một tí đã!

Y tỏ vẻ không muốn vào, nên lắc đầu. Bà hàng nước lại vồn vã như níu kéo:

- Cậu vào đây một chút thôi mà, đàng nào trời cũng đang mưa, cho bà chủ ở đây hỏi thăm cậu một câu chuyện.

Rồi đến lúc bà hàng nước phải cầm tay lối kéo, y mới miễn cưỡng đi theo. Ngay khi bà Hân thấy người xích lô bước vào nhà, ánh mắt của bà hình như đã tràn đầy tình thương yêu, mặc dù bà chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ người con trai ấy là con bà. Lòng bà bồi hồi xốn xang, đến nỗi bà quên cả mời người xích lô đó ngồi. Khi bà mời, cậu xích lô ấy dè dặt ngồi xuống chiếc ghế gụ cạnh bàn, đầu cuối gầm. Bà hàng xóm cũng thấy lòng không yên, bỏ cả quán nước để mong được chứng kiến cái giây phút hồi hộp rấp ranh này. Mãi sau, như dằn được lòng xốn xang, bà Hân mới hỏi với một giọng còn xúc động:

- Cậu bây giờ có họ hàng thân thích gì không?

Y lắc đầu mà không nói.

- Cậu có nhớ ngày xưa, gia đình cậu như thế nào không?

Y vẫn đăm chiêu im lặng. Bà lại hỏi, trong niềm nghẹn ngào dâng trào:

- Có phải cậu nhớ, lúc nhỏ cậu đi xe với bố có người kéo phải không?

Y gật đầu. Bà Hân nôn nóng, tiếp tục hỏi:

- Cậu cố nhớ lại xem, lúc nhỏ cậu hay chơi gì, làm gì?

Y nhìn ra phía cửa sổ, mắt như dõi về một phía trời xa, về những quãng đời ấu thơ. Tới khi bà Hân nhắc lại câu hỏi, y mới chậm rãi:

- Cháu chẳng nhớ gì rõ lắm … Cháu chỉ nhớ láng máng lúc nhỏ, cháu được bố mua cho con cù, con cù có cái đinh rất dài …

Bà Hân mắt sáng lên long lanh, hỏi như hết hơi:

- Gì nữa?

- Cháu có một quyển sách, có hình con rùa, bố cháu dạy cháu tô theo bằng bút chì màu đỏ.

- Còn gì nữa không cháu?

Y càng cúi gằm, trong khi không khí căn buồng như rên lên, căng đầy xúc động đợi chờ, cuối cùng y giơ ra ngón tay cái trái, chỉ vào một cái sẹo nhỏ, ngập ngưng nói:

- Một lần ở bếp với mẹ, cháu nghịch dao, đứt tay chảy máu. Mẹ đã khóc.

Không kìm được nữa, bà Hân xô đến, ôm chầm lấy cậu xích lô, nước mắt chan hòa, nức nở:

- Ôi, con ơi!

Y cũng khóc, cả bà bán nước người ngoài cũng nước mắt vòng quanh. Hình như bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ của tình mẫu tử thiêng liêng bây giờ cuồn cuộn chảy ra theo giòng nước mắt, bà hổn hển tưởng như xỉu đi, dù vậy bà vẫn cố gắng lôi tay đứa con yêu:

Con ơi! Con cù và quyển sách của con má vẫn giữ, vì đó là di vật duy nhất của con, má vẫn để ở ngăn tủ đầu giường má.

Bà vừa nói vừa kéo người con trai lên gác. Bà rối rít hết sờ mặt, xoa tay, lại vuốt lưng cậu xích lô thân yêu, trong khi bà bán nước cũng lây nỗi vui mừng, cứ chạy lăng xăng hết đầu này, đầu kia chẳng biết làm gì cả.

Ngay chiều hôm ấy, bà Hân báo tin gọi người em trai về. Thôi thì cậu cháu, mẹ con hàn huyên nỗi niềm máu mủ ruột thịt, của buổi trùng phùng nước mắt đầy vơi.

Thương bà chị cả cuộc đời cô đơn heo hút, ông cậu nhìn thằng cháu khoẻ mạnh, khôi ngô, ông hứa sẽ đem hết khả năng dạy dỗ, nâng đỡ đứa cháu yêu đến khi thành đạt. Ông bàn, nào là đón giáo sư về kèm cặp, nào là tập lái xe để chở mẹ đi chùa, v.v … Ngôi nhà giờ đây tràn ứ đầy sự sống, sự ấm cúng và niềm vui tươi.

Riêng tên điệp viên, ngay khi vào Sài Gòn đã được cấp trên y chỉ định phải thường xuyên liên lạc, cặp bồ với cô Ngân làm chiêu đãi viên cho một quán cà phê ở ngã Bảy, để dự phòng, nếu sau này bà Hân và ông cậu bắt lấy vợ thì phải cương quyết đòi lấy cho bằng được cô Ngân. Dĩ nhiên, cô Ngân cũng trong mạng lưới hoạt động của Cộng Sản ở Sài Gòn.

Đến đây, mọi việc tưởng êm xuôi trôi lọt như ý Việt cộng mong muốn, nhưng không, trái lại đã bắt đầu trục trặc. Nguyên nhân cũng chỉ vì diễn viên đã không khéo đóng trọn vai trò.

Bà Hân tin tên xích lô là con nên tình bà vẫn thắm thiết thương yêu. Ngược lại, y biết y không phải con bà. Mẹ y hiện đang ở ngoài Bắc. Lúc đầu, vì cố gắng nổ lực để công tác thành công, nên y đã xuất thần thủ đúng vai trò. Sau một thời gian, những biểu lộ thương yêu với người mẹ giả trở nên cứng ngắc, không có hồn. Nỗi buồn của bà càng ngày càng khoét sâu, càng lớn. Bà thổ lộ với người thân quen và tất yếu, cả với em trai.

- Tôi không hiểu sao, tôi thương yêu nó như trời biển, nhưng hình như có cái gì ngăn cách, tôi chỉ cảm thấy sự tẻ nhạt, gắng gượng ở bên trong của nó.

Sự phàn nàn, ca thán của bà dần dần đến tai những nhân vật phản gián. Một sự việc không bình thường! Tình mẹ con ruột thịt là sự thiêng liêng, phải có những chiếc dây vô hình gắn bó. Thấy một sự không bình thường thì phải đặt vấn đề. Mà nguyên tắc tình báo cũng như công an, nếu đã đặt vấn đề thì phải tìm mọi cách để biết rõ hư thực của vấn đề đó, cho nên, họ đã dùng chính ông cậu trong nhà làm tấm bình phong để bí mật theo dõi và phanh phui sự việc.

Gần một năm sau, trọn ổ gián điệp vùng đó đều bị sa lưới.

Trở lại nhiệm vụ phụ:

Dale và Brown mang đến hai chiếc máy bay MIG–15 và MIG-19 dài chừng 20 phân, nhưng thật tinh vi, sắc sảo như máy bay thật, thu nhỏ; với đầy đủ cả động cơ, phù hiệu, cờ quạt ... Hai ông đã giảng cho tôi rõ ràng tính năng từng loại; để suốt quá trình thời gian tôi ở miền Bắc, nếu thấy loại máy bay đó trên bầu trời, về báo lại.

Ngoài hai máy bay MIG, hai ông còn đưa tôi xem hai cuốn sách có hình mầu: lon, phù hiệu các binh chủng, từ lính cho tới nguyên soái; cả y phục mùa Đông cũng như mùa Hè của quân đội Trung Cộng và Bắc Triều Tiên.

Ngoài ra, trong thời gian ở Hà Nội, tôi phải quan sát các hiện tượng ngoài đường phố. Theo dõi các báo chí, phát thanh những đơn vị nhỏ tập tành. Tiếp xúc quan hệ với mọi từng lớp người dân, v.v…Để từ đấy đánh giá (nếu ghi được số lượng cụ thể càng tốt) những điều tai nghe mắt thấy, nói chung về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, xã hội … và tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 17 Feb 2010

Tập I - Chương 8

Những “Vỏ Bọc” …..

Vỏ bọc I

Tôi sẽ đóng vai là một học sinh trường trung học phổ thông cấp III ở Vĩnh Linh với tên là Lê Viết Hùng, lý lịch giả như sau: Gia đình bố mẹ tôi, do đói kém, loạn ly năm 1945, đã phiêu bạt từ Nam Định vào lập nghiệp ở xã Vĩnh Quan, Vĩnh Linh. Bố tên là Lê Văn Thông, mẹ là Vũ Thị Sàng. Tôi có 3 anh chị em: Chị Lê Thị Thu, em trai Lê Tuấn. Tôi phải nhớ tên: Giám hiệu trường Phổ Thông cấp III Vĩnh Linh, chủ tịch và phó chủ tịch huyện V.L., chủ tịch và phó chủ tịch xã Vĩnh Quang. Và, vì tôi cũng là đoàn viên thanh niên, nên tôi cũng phải biết tên của bí thư và phó bí thư chi đoàn. Ngoài ra, tôi phải biết một số sự kiện lớn xảy ra ở Vĩnh Linh, nhất là ở xã tôi, vùng giáp ranh khu phi quân sự.

Qua những tin tức cố định trên, tôi sẽ tùy theo trường hợp để ứng biến sao cho hợp lý.

Tôi (Lê Viết Hùng) có nhiều triệu chứng mắc bệnh tim đã lâu, bây giờ càng ngày càng trầm trọng hơn, nên đã xin được giấy giới thiệu của thị trấn Vĩnh Linh về Hà Nội nhân dịp Hè để đến nhà thương Việt Đức điều trị.

Tôi mang theo đủ giấy tờ hợp lệ: Giấy giới thiệu chữa bệnh, thẻ học sinh, giấy nghĩa vụ quân sự, thẻ đoàn viên, giấy thông hành thời hạn một tháng, có chữ ký của công an trưởng huyện Vĩnh Linh.

Vỏ bọc này, tôi phải nghiên cứu và học thuộc lòng, sao cho từ nếp suy nghĩ đến hành động, coi như mình là Lê Viết Hùng có thực bằng xương bằng thịt.

Để thực tập, tôi phải đến gặp ba, bốn lần một người lạ rất hách dịch, đóng vai công an Cộng Sản, lúc thì ở khách sạn Catinat, lúc thì ở Majestic. Ông ta hạch sách, nạt nộ tôi đủ điều, hỏi những câu bất chợt lắt léo, xem tôi có trả lời hợp lý hay không. Tôi còn nhớ lần cuối cùng, khi nói chuyện vãn, ông tự giới thiệu tên là Đang đã từng sống và làm việc cho Cộng Sản nhiều năm, (ông không nói, nhưng tôi đoán hẳn ông đang làm việc cho Cục), ông nói:

- Tôi nói thực với Bình, cái chính là đừng để cho công an của Cộng Sản nghi ngờ. Khi nó đã đặt thành vấn đề nghi mà sát hạch thì ‘mả bố ở đâu, mà nó bảo đào đưa cho nó, thì cũng phải đào.”

Kể ra, ông không nên nói câu đó, nhất là với một nhân viên sắp vào đất địch, chỉ làm hoang mang tinh thần của người đi. Sau này càng nghĩ, tôi lại càng thấy những người huấn luyện mình thiếu ý thức, thiếu tinh thần trách nhiệm, vì thiếu lý tưởng thực sự!

Vỏ bọc II

Trong trường hợp bị Cộng Sản bắt giữ. Nếu vì lý do nào đó, Cộng Sản không tin hoặc đã xác minh giấy tờ đều là giả mạo và tôi không phải là Lê Viết Hùng ở Vĩnh Linh. Lúc đó, tôi sẽ khai: Gia đình bố mẹ, gốc tích thực, nhà nghèo. Học hành thi hoài không đậu, chán chường, nhưng tính thích làm những việc táo bạo, không sợ nguy hiểm miễn việc đó có tiền để giải quyết cuộc sống và giúp đỡ bố mẹ già. Do bạn bè giới thiệu, tôi gặp một ông tên là Lân. Vì là nhân vật tưởng tượng, nhưng lại cần nhớ chi tiết để đề phòng sau này công an hỏi lại, do đấy, tôi phải lấy một người có thật để mô tả, và tôi đã lấy hình dáng một ông cậu to lớn, béo tốt, chủ một hảng xuất nhập cảng ở Sài Gòn, để tả về ông Lân.

Ông Lân thường hẹn gặp tôi ở một quán nước. Sau một, hai lần thăm dò, nói chuyện, biết về con người và tâm nguyện của tôi, ông đi thẳng vào vấn đề: Ông có “truy-ô” nhiều thuốc Tây quý cần tiêu thụ. Ở ngoài Bắc, các loại thuốc này vô cùng hiếm nên giá rất cao. Vậy, nếu tôi muốn làm giầu, phải mạo hiểm. Ông sẽ lo giấy tờ giả cho. Tôi sẽ bí mật, lén lút lội qua sông Bến Hải, đem theo hơn một chục mẫu loại thuốc quý, móc nối, mua bán đặt hàng với những con buôn bí mật có thể lực ở Hà Nội. Sau này, lời lãi sẽ chia đôi, ông đó một nửa và tôi một nửa. Còn bây giờ, tốn phí ông đài thọ và cho tới khi đi sẽ trả trước cho tôi 10.000 đồng.

Một hôm, Dale và Brown dẫn đến một người Mỹ khác khoảng 40-45 tuổi, giới thiệu là Bác Sĩ Harry. Ông Harry đưa gần 20 lọ thuốc Tây, chỉ dạy cách dùng và tính năng của từng loại. Theo ông Phan, cho tới ngày tôi đi, Harry cũng sẽ là bác sĩ riêng của tôi để săn sóc sức khoẻ và những cần thiết về y lý cho chuyến đi.

Vỏ Bọc III

Sau khi khai vỏ bọc II, nếu Cộng Sản vẫn không tin, hoặc tìm ra được những chứng cớ cụ thể là tôi nói láo, không đúng, có thể chúng sẽ cùm kẹp tra tấn, tôi không thể chịu đựng nổi, lúc bấy giờ tôi sẽ dùng vỏ bọc III. Vẫn chưa là chuyện chính trị.

Phần thân thế, gốc tích gia đình cũng như vỏ bọc II, vì đó là thực tế. Cảnh học hành, thi cử cũng chỉ ăn vỏ chuối nên chán chường, và tính tình thích làm những chuyện mạo hiểm cũng vậy. Phần khác biệt. Do quan hệ xã hội, đã được một người quen giới thiệu với Sư Bà Đàm Hướng ở chùa Phước Hải, khu Vườn Chuối, Phan Đình Phùng Sài Gòn, nội dung như sau:

Trong thời Pháp thuộc trước 1945. Sư Bà Đàm Hướng và Sư Ông Tuệ Chiếu là hai sinh viên yêu nước thiết tha, nhục nhã đau lòng trước cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống trị. Hai ông bà nối chí những bậc cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học v.v… Đã bí mật hoạt động trong giới sinh viên ở Hà Nội, gây nên nhiều vụ chống đối sôi động, với bọn cầm quyền thực dân và đã bị chính quyền thực dân, ra lệnh truy lùng ráo riết.

Hai ông bà không những là đồng chí mà còn là đồng sàng, vì cùng nhau đã trải qua nhiều gian nan nguy hiểm nên hai trái tim đã cùng rung đều một nhịp. Trước sự truy nã lùng sục của mật thám, để che mắt chúng, và cũng để tỏ với chúng là mình đã chán chường cuộc đời, hai người đều xuống tóc, núp bóng cửa thiền. Ông thì tu ở chùa Quan Thánh Hà Nội, pháp danh là Tuệ Chiếu; còn bà tu ở đâu, tôi không biết, chỉ biết pháp danh là Đàm Hướng, hiện trụ trì ở chùa Phước Hải, Vườn Chuối Phan Đình Phùng Sài Gòn.

Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, chúng lòi ra ý đồ diệt tôn giáo. Bề ngoài cổ vũ “Lương Giáo đoàn kết” để chống Pháp, xây dựng đất nước. Bên trong thì chúng ngấm ngầm tìm mọi điều kiện, lợi dụng mọi mâu thuẫn tôn giáo để kích động, khơi sâu mối chia rẽ. Nghĩa là, luôn luôn đổ dầu vào những đốm lửa mâu thuẫn, dị biệt của tôn giáo. Nhìn rõ trái tim đen bẩn thỉu của Cộng Sản, Sư Ông Tuệ Chiếu và Sư Bà Đàm Hướng đã dùng khả năng và uy tín vạch trần ý đồ nham hiểm của Cộng Sản trước tín đồ, và còn ngấm ngầm trao đổi bàn luận cùng bên Công giáo, lập ra Mặt Trận Liên Tôn Diệt Cộng mà chủ tịch là sư ông Tuệ Chiếu và phó chủ tịch là linh mục Hoàng Quỳnh cùng nhiều nhân vật lãnh đạo trong Mặt Trận.

Sư Ông Tuệ Chiếu và nhiều người khác đã bị Cộng Sản bí mật thủ tiêu ngay. Chỉ vì khi đó phía Phật giáo chưa có sự đoàn kết thống nhất, nên chưa có áp lực mạnh với Cộng Sản. Còn Linh Mục Hoàng Quỳnh, trước áp lực sức mạnh của quần chúng Công Giáo, chúng đã không dám giết ngay. Công giáo khi ấy đã là một tổ chức thống nhất nên Cộng Sản ít nhiều kiêng nể (tôi nói thời gian đó thôi, vì lúc đó chúng chưa mạnh, chúng còn cần sự giúp đỡ hoặc không chống phá của Công Giáo. Chứ sau 1975, chúng không còn e dè nể nang gì cả).

Chúng chỉ dám quản thúc linh mục Hoàng Quỳnh ở nhà thờ Lạc Đạo, thuộc địa phận Bùi Chu. Con chiên vẫn được phép thăm nuôi bình thường, theo quy định.

Sư Bà Đàm Hướng nghe tin chồng chết, quá đau thương, chỉ còn đành tìm xác người chồng bất khuất, chết anh hùng, oanh liệt hy sinh cho dân tộc, bí mật đem về thành Hà Nội, vùi lấp ở nghĩa trang Hợp Thiện Bắc Việt.

Hội Nghị Genève chia đôi đất nước, bà cùng đứa con trai di cư vào Nam.

Vào Nam, tuy vẫn ở trong cửa Phật, nhưng bà vẫn không quên quê hương dân tộc, nên ngay trong chùa cũng như ngoài xã hội, bà diễn thuyết cổ vũ, khích lệ, tổ chức đoàn thể với mục đích chống kẻ tử thù Cộng Sản. Ngoài ra, từ ngày vào Nam, bà cũng còn ấp ủ trong trái tim một điều thầm kín nhất, là bà ước mong có cách gì đó, hay có ai ra miền Bắc, bà sẽ không tiếc tiền để xây cho ông một nấm mồ yên ấm. Gọi là chút lòng của người đồng chí, của người tình, của người vợ, đối với người ngàn đời kính yêu đã ra về nơi ngút ngàn mây gió, hy sinh vì Tổ Quốc.

Chính với nỗi niềm ấy của bà, nên khi gặp tôi, một thanh niên, cảnh đời đã làm cho bất đắc chí, và sau nhiều lần tìm hiểu, bà rất mừng rỡ. Bà sẽ lo liệu giấy tờ giả cho tôi để vượt tuyến. Bà sẽ trả cho tôi 100.000 đồng sau khi hoàn thành công việc. Trước khi ra đi, bà sẽ đưa trước cho tôi 10.000 đồng để giúp đỡ gia đình bố mẹ già. Tôi sẽ trốn qua sông Bến Hải về Hà Nội, mang theo một lá thư của bà gửi cho ông Thẩm Hoàng Tín, thị trưởng thành phố Hà Nội hồi 1954. Ông là dược sĩ, trước có hiệu thuốc Tây ở Hàng Da Hà Nội.

Ông Tín là bạn chí thân của hai ông bà. Nội dung lá thư nhờ ông Tín vì tình bạn thiêng liêng đứng trông nom xây cho ông Tuệ Chiếu một ngôi mộ gọn ghẽ khang trang.

(Sau Hội Nghị Genève 1954, lý do tại sao một đương kim thị trưởng của thủ đô Hà Nội vẫn ở lại với Cộng Sản, không di cư vào Nam sẽ được đề cập ở chương “Những Bài Học Xương Máu Với Cộng Sản”.)

Chính Hoàng Công An đã dẫn tôi đến chùa Phước Hải gặp Sư Bà Đàm Hướng mấy lần, để tôi nhìn rõ cảnh sinh hoạt của chùa và con người của bà. Tôi cũng đã gặp người con trai của sư bà, lúc đó 19 tuổi, đang theo phần II Tú Tài, năm 1961.

Vỏ Bọc IV

Đến đây, thì đành phải nhận ra Bắc vì chính trị. Theo chỉ thị của Cục, vỏ bọc IV, đồng thời cũng là vỏ bọc cuối cùng, dù tôi có phải nhận mã tấu hay ăn kẹo đồng.

Đến giai đoạn này, Cộng Sản đã cùm kẹp tra khảo, khai thác nhiều. Chúng đã nêu ra đầy đủ bằng cớ những điều tôi khai báo là sai. Vậy, nếu bị đánh đập, hành hạ đến lúc cơ thể không thể chịu đựng được nữa, lúc đó sẽ khai theo vỏ bọc IV: Là trung sĩ trong đại đội thám báo của Sư Đoàn 7, thích làm những chuyện mạo hiểm và coi thường những việc khó khăn mà nhiều người khác e sợ, v.v… Trong quân ngũ, lần lần quen biết Trung úy Xương trên nha an ninh quân đội. Ông này đã giới thiệu với bên tình báo. Cuối cùng, tôi được về Sài Gòn dự lớp đào tạo và huấn luyện trong 3 tháng ở một ngôi nhà thuê trong xóm Cầu Cống, khu Khánh Hội (nếu nói ở khách sạn, building, Cộng Sản sẽ để ý những nơi ấy, sẽ gây khó khăn cho những lớp huấn luyện sau này.) Chỉ nói một số lớp học hợp lý, thời gian huấn luyện ngắn và học tập sơ sài để địch đánh giá sai mức độ, khả năng của nhân viên tình báo miền Nam.

Chỉ một người huấn luyện duy nhất, định tả ai phải nhớ người ấy. Chớ nói tới Mỹ, vì năm 1961 Mỹ chưa vào miền Nam nhiều. Huấn luyện nặng về lãnh vực quân sự, tính năng và các loại vũ khí của bộ đội miền Bắc thường dùng, v.v… Nhiệm vụ:

- Theo dõi Sư Đoàn 308 phòng thủ Thủ Đô Hà Nội. Do tên Thiếu Tướng Vương Thừa Vũ làm tư lệnh.

- Tên tuổi, tính tình các cấp chỉ huy, càng xuống sâu càng tốt, nghĩa là đến cấp đại đội.

- Các loại vũ khí trang bị của sư đoàn.

- Những nơi bố trí đại pháo và xe tăng.

- Các phương tiện vận chuyển.

- Cách bố trí trại, địa hình chung quanh với các đường giao thông.

- Cách sinh hoạt học tập, huấn luyện.

- Các trang bị, quân trang, quân dụng.

- Tinh thần của bộ đội và sĩ quan.

- Khả năng chiến đấu và tinh thần chiến đấu.

Muốn biết được những tin tức này chính xác, tôi phải làm quen, chuyện trò, tâm sự với bộ đội trên đường phố Hà Nội. Tóm lại, khai gì, nói gì thì nói, nhưng không bao giờ được nói tới nhiệm vụ thực của mình cả.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 18 Feb 2010

Tập I - Chương 9

Thăm Giòng Bến Hải …..

Để phục vụ cho công tác COLUMBUS, tôi phải học và thực tập cũng như nghiên cứu về cách tiếp xúc với các linh mục. Trong một xã hội với bao chế ngự trong chính sách kìm kẹp của Cộng Sản đối với người dân, các linh mục đã có nhiều kinh nghiệm xương máu, cho nên dù trong lòng có muốn tiêu diệt Cộng Sản đến đâu chăng nữa, cũng không thể vội vàng lớ ngớ tham gia vào những chuyện không mấy tin cẩn để thiệt thân, chết lây. Do đó, là một cán bộ tình báo miền Nam, trước hết tôi phải tỏ ra điềm đạm, bình tỉnh, đủ khả năng, bản lĩnh xoay chuyển tình thế nếu gặp sự bất thường. Thêm nữa, các linh mục là những người có địa vị, có học, vậy ít ra tôi phải có kiến thức về nhiều mặt của xã hội, cộng với tư cách, tác phong. Có như vậy, tôi mới khả dĩ lôi cuốn được các linh mục. Thế mà tôi lại không đủ sức, cho nên tôi rất băn khoăn.

Sau đấy, tôi thực tập rất nhiều buổi tiếp xúc với một, đôi người lạ, đóng vai các linh mục ở miền Bắc. Ông An cũng như ông Phan, và cả những người tôi phải tiếp xúc thực tập, đều nói:

- Thế là Bình làm được rồi!

Tôi nghĩ, bắt buộc họ phải nói “được rồi,” chả lẽ nói “không hay chưa được,” làm sao tôi đi!

Tôi yêu cầu cho tôi được tiếp xúc với một người nào đó đã ra ngoài Bắc vừa mới trở về để học hỏi kinh nghiệm. Sự yêu cầu này đã không được đáp ứng, và cũng không được trả lời. Lúc đó, tôi ngây thơ nghĩ rằng, có thể vì sự ngăn cách an ninh về cả hai phía, cho nên lời yêu cầu của tôi đã không được giải quyết. Sau này khi ra miền Bắc, có điều kiện nhìn được thực tế, cũng như có thêm được một số kiến thức để phân tích và lý luận, tôi thấy những điều tôi nghĩ trước kia là không đúng.

Để đáp ứng lời yêu cầu của tôi, thay vào đó, Cục cho tôi gặp 4 người vượt tuyến mới nhất. Thậm chí có người chỉ mới vào nửa tháng, ở Trung Tâm Tiếp Đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định. Tôi và An đóng vai nhân viên Phòng Báo Chí phủ Tổng Thống cầm giấy giới thiệu sang gặp Thiếu tá (tôi quên tên) Trưởng trại.

Tôi sang hai lần, mỗi lần gặp hai người, mỗi người gặp vào một giờ khác nhau. Hôm đầu, chúng tôi tiếp xúc với một người là bộ đội và một người là giáo viên cấp III, trường Thăng Long Hà Nội. Hôm sau, một người tài xế xe đò, một người là giáo viên cấp II ở Thanh Hóa. Dĩ nhiên, tất cả những người này kể cả trưởng trại; không thể hiểu ý đồ thực của chúng tôi. Để đánh lạc hướng, thỉnh thoảng chúng tôi mới xen vào giữa những câu phỏng vấn thông thường, vô bổ là một số câu hỏi câu hỏi cần thiết mà chúng tôi muốn tìm hiểu. Bốn cuộc gặp gỡ này đã giúp chúng tôi hiểu biết nhiều vấn đề, rất hữu ích khi tôi ra Bắc.

Trên tấm bản đồ quân sự loại lớn, bằng giấy dầy, bóng. Từng miếng 40×60 phân, ghép lại kín cả nền một căn phòng rộng. Hàng ngày, Brown và Dale hướng dẫn tôi nghiên cứu về quốc lộ 1 (từ Vĩnh Linh ra tới Hà Nội,) khu phi quân sự; thành phố Hà Nội, tỉ mỉ, chi tiết; nhất là khu phi quân sự Bắc và huyện Vĩnh Linh. Để phòng hờ biết bao tình huống có thể trục trặc không đón được tôi; tôi phải về bằng đường bộ. Vì thế, tôi đã hai lần phải ra tận bờ sông Bến Hải; dùng ống nhòm quan sát thực tế các điểm chuẩn, của khu phi quân sự Bắc.

Một điều tôi không quên, một lần tôi và Hoàng công An xuống trường bay Phú Bài. Người trách nhiệm đón chúng tôi không ai xa lạ, lại chính là ông Hương. Ông Hương và tôi nhìn nhau ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Chính An cũng ngạc nhiên không ít, không hiểu sao tôi lại biết ông Hương từ trước.

Từ ngày tôi bị loại ra khỏi lớp học đặc biệt, tôi chỉ nghe Lý nói loáng thoáng là ông Hương sau này mắc khuyết điểm gì đó về tài chính, nên không còn làm Giám Đốc lớp học đó nữa. Có lẽ do ý thức nghề nghiệp cho nên khi bắt tay tôi, ông Hương chỉ nói:

- Bình vẫn như xưa, tuy hơi gầy, nhưng vẫn đẹp trai!

Ông không hề nhắc nhở đến những chuyện cũ ở số 2 J.J. Rousseau. Ông Hương sau đó, lái xe đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế. Những ngày ở đây, đêm ngủ, luôn luôn có người canh gác tôi. Cũng từ đó cho đến gần cuối cuộc đời, lúc thức cũng như lúc ngủ; lúc nào tôi cũng có người canh gác. Cứ nghĩ đến, tôi lại nhếch mép tự mỉm cười.

Ông Hương lái xe đưa chúng tôi vào khu phi quân sự. Trong rừng bên này bờ Nam, tôi thấy đó đây có những người mặc đồ nâu, gài một miếng vải đỏ bằng hai đốt ngón tay ở khuy áo, lầm lũi canh gác. Có lẽ họ đã giấu súng trong người. Qua ánh mắt và thái độ của họ, tôi hiểu ông Hương là người chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ hệ thống canh gác bờ phía Nam.

Tôi ngắm giòng Bến Hải. Con sông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, vẫn lững lờ chảy xuôi về phía cầu Hiền Lương. Đây đó, một vài chiếc thuyền nan chài lưới phía bờ bên này, cũng như phía bờ bên kia. Tôi biết những người dân “chài lưới” này, dứt khoát không phải là dân bình thường. Bởi vì theo thỏa hiệp Genève giữa hai bên: Ranh giới hai miền là giữa giòng sông Bến Hải, và giữa cầu Hiền Lương. Vậy, vì lý do vô tình hay hữu ý, những thuyền này lấn sang khỏi ranh; phía bên kia có quyền bắt giữ. Lúc đó, những người dân chài này không còn thuộc quyền kiểm soát của bên bờ cũ nữa.

Tôi đi sát dọc bờ sông, có chỗ hai bờ cách nhau chỉ chừng ba chục mét. Nhìn thấy cô gái áo nâu, phía bên kia bờ, quần đen lăng xăng, chạy ra, chạy vô tưới mấy luống rau. Lòng tôi bỗng bâng khuâng, mắt dõi về hướng Bắc xa vời, nơi có Hà Nội cam go đợi chờ. Bất chợt, các cô ấy rối rít vẫy tôi, miệng cười duyên. Ý các cô ấy muốn tôi lội xuống nước, bơi sang. Thấy vậy, ông Hương nói với tôi:

- Tất cả những người dân tron khu phi quân sự Bắc, đều bị Cộng Sản bắt rời khỏi, ra ngoài 5 cây số, kể từ bờ Bến Hải. Rồi chúng đưa toàn công an mật vào, làm nhà cửa, cầy cấy, trồng tỉa như thường dân. Bình hãy dùng ống nhòm nhìn kỹ vào trong rừng sẽ thấy có những vật di chuyển; thậm chí còn có người bí mật ngồi trên cây canh gác nữa.

Đúng như vậy! Sau này, tôi thấy biết bao người vượt tuyến, bị bắt với bao nhiêu tình huống cười ra nước mắt ở trong nhà tù Cộng Sản.

Nhìn chéo ra xa phía bên kia, ngôi nhà thờ Hải Cụ bị rêu phong và cây cối che phủ, chỉ còn là một hình thù xám xịt, nhô lẫn trong lùm cây xanh. Cảnh hoang liêu cô tịch của nhà thờ khiến lòng tôi tím thẫm. Tôi hình dung đến cảnh sống của người dân Công giáo miền Bắc; hẳn không khỏi khắc khoải tối tăm.

Ông Hương bổng nói:

- Sông Bến Hải, đi ngược quá vào phía trong; mùa nước cạn, nhiều chỗ chỉ cần xắn quần lội qua cũng được.

Giòng sông nhỏ bé và nông cạn như thế! Vậy mà nó đủ sức ngăn đôi một dân tộc, trong bao nhiêu năm trường! Đối với một dân tộc có truyền thống thương yêu, đùm bọc của người cùng một nước:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương.

Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao)

Vậy, lỗi này do ai?

Sau khi về tới Sài Gòn, cũng đã gần tới ngày lên đường, do đó, một số công việc còn lại cần phải làm khẩn trương và dồn dập hơn. Tôi phải tập xử dụng một số loại thuốc hóa trang, hồng ngoại tuyến…..

Một điều tôi quên. Khi đi vào đất địch, tất yếu tôi sẽ gặp muôn ngàn điều chưa thể biết. Vì vậy, để phòng hờ; từ hơn hai tháng trước, Phan đã đưa cho tôi một chiếc nhẫn bạc mặt vuông có khắc chữ thọ. Chiếc nhẫn này, cũng như trăm ngàn chiếc khác; chỉ khác một điểm là, mặt trong có đóng chìm xuống con số 42. Phan bắt tôi đeo, nhìn cho quen mắt và phải nhớ nhập tâm. Phan cũng còn đưa cho tôi một tấm hình cỡ 6×9, hình chùa Một Cột ở Hà Nội. Phía sau lưng và góc trên của tấm ảnh, có ghi con số 1618 nhỏ xíu bằng bút chì. Tôi nhớ được con số 1618, vì nó liên quan đến ngày tôi trao tài liệu M.

Hơn một tuần sau, Phan lấy lại và hỏi:

- Bình đã nhớ chưa?

Tôi gật đầu, Phan nói tiếp:

- Nếu sau này, bất cứ ở đâu, thời gian nào và bất cứ ai đưa tấm hình này ra; thì người đó chính là người sẽ trao lệnh của Sài Gòn cho Bình.

Một hôm, Dale và Brown đến gặp tôi, bảo:

- Hôm nay, Bình sẽ tập xử dụng bút chì mật.

Họ giải thích:

- Đây là một loại dụng cụ mới nhất trong ngành tình báo. Bút chì mật nhỏ bằng 2/3 của lõi bút chì thường. Dài độ 6 - 7 phân, mầu đen xám, không mùi vị. Một đầu hơi vát, nhờn nhợn, giống như một mẩu sợi ni lông thường. Brown và Dale nói là: Mẩu bút chì này hiện nay nếu muốn bán cho Cộng Sản hàng triệu nó cũng mua. Nó sẽ phân chất và sẽ biết cách phát hiện những chữ ta ghi, từ đó nó sẽ tìm ra được nhiều sự việc.

Bởi vì, khi ghi chép, nét chữ không có dấu vết. Muốn đọc, phải dùng một loại hóa chất đặc biệt bôi lên mặt giấy, chữ mới hiện ra. Điệp viên ghi tài liệu mật vào những khoảng trống trên ngay sách báo của địch. Thấy trước mặt, chúng cũng không biết; kể cả mẩu bút chì cũng vậy.

Tôi phải tập biết bằng mẩu chì mật này nhiều lần, trong nhiều ngày. Sao cho khi viết, không để lại vết gợn nào trên mặt giấy. Nghĩa là tờ giấy vẫn bình thường, và cũng không được mất nét chữ; sau này, khó đọc và khó đoán ra. Khi tôi ra tới miền Bắc, thực tế cho thấy, là thời gian này Cộng Sản chưa hề biết gì về bút chì mật. Tôi đã giấu mẩu chì này tới 1975, khi miền Nam thất thủ, tôi mới tiêu hủy.

Tôi đã biết rất nhiều loại mực để viết thư mật, nhưng tôi thừa nhận, loại chì mật là đơn giản và thuận tiện nhất. Có thể ngày nay, điệp viên của nhiều nước vẫn còn dùng.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 19 Feb 2010

Tập I - Chương 10

Chọn Điểm Đổ Bộ …..

Sau khi đã tập sử dụng thuần thục bút chì mật. Tôi bắt đầu phải nghiên cứu về phương tiện ra ngoài Bắc, và địa điểm tôi sẽ xâm nhập.

Ngay từ giai đoạn đầu, khi tôi mới tiếp xúc với ông Cẩn cũng như sau này gặp Hoàng Công An. Các ông đều nói, tôi sẽ phải đi dự một khóa huấn luyện về dù. Nhưng dần dần ít tháng sau; có thể do những diễn biến của điều kiện phòng thủ Bắc, Nam. Hoặc vì lý do gì khác tôi không rõ. Ông Phan nói rằng tôi sẽ ra Bắc, với bao nhiêu đại hình thiên nhiên phức tạp. Tụi Cộng Sản không thể giăng người ra canh gác suốt ngày đêm được. Hơn nữa, hiện nay hải quân của tụi Việt cộng hầu như rất yếu. Tầu tuần tiễu của chúng chỉ quanh quẩn gần bờ. Ít khi chúng dám lảng vảng ra ngoài khơi.

Theo ý kiến của Cục, chính tôi phải chọn vùng tôi sẽ đổ bộ. Vì như vậy, ít nhiều tôi đã quen thuộc địa hình, địa vật, bớt ngỡ ngàng hơn ở một vùng lạ. Đối với tôi, đây cũng là một vấn đề hơi nan giải. Vì khi ở miền Bắc, tôi còn quá bé; không biết được, hoặc nhớ được một vùng biển nào rõ ràng cả. Dĩ nhiên, điểm đổ bộ phải ở một vùng hoang vắng, xa thủ đô Hà Nội, nơi có địa bàn hoạt động của tôi. Tôi nghĩ ngay đến Đồ Sơn. Kỳ Hè 1953, tôi theo một số bạn bè xuống bãi biển Đồ Sơn Hải Phòng tắm, đến chiều tối mới về Hà Nội.

Khi tôi vừa nêu lên địa điểm Đồ Sơn, cả ba người: An, Dale và Brown đều lắc đầu, hoặc xua tay. Đó là cửa biển Hải Phòng, Cộng Sản canh gác rất cẩn mật, gắt gao; không thể đổ bộ được. Tôi moi óc nghĩ mãi, mới nhớ ngày xưa, khi tôi còn học tiểu học ở quê nhà (lúc ấy tôi mới lên 10), có lần nhà trường tổ chức cắm trại ở một miền rất xa, đó là Cồn Vạn. Chúng tôi phải đi qua một con sông rất to, sau này, tôi biết là sông Đáy. Tôi chỉ nhớ mơ hồ chỗ đó mọc rất nhiều thông, như rừng vậy.

Tôi tìm trên bản đồ chi tiết. Sau một lúc, tôi xác định được vị trí. Brown và Dale hẹn sẽ trả lời tôi sau. Họ còn nghiên cứu thẩm tra. Khoảng 3 ngày sau, họ đến cho tôi biết, vùng đó không thể đổ bộ được. Phía ngoài miền biển đó có đất bồi và những bãi sình lầy, lún thụt lấn ra ngoài biển đến 5- 6 cây số. Hơn nữa, chỗ rừng thông phía bên trong. Hiện là mấy nông trường lớn, đã và đang xây dựng.

Với quãng đời thơ ấu của tôi, tôi chỉ biết có nơi đó, nên cuối cùng tôi nói:

- Tùy ở trên chọn cho tôi một địa điểm nào gần đấy, khoảng vài chục cây số cũng được. Tôi sẽ mò mẫm tìm vào quốc lộ Một để về Hà Nội.

Mấy ngày sau, Brown đến chỉ cho tôi trên bản đồ lớn. Chi tiết một vùng, thụt lùi về phía Nam:

- Chỗ này đã được sưu tra, xác định, cách khoảng 30 cây số so với vùng Bình biết. Nằm giáp ranh giữa hai huyện Kim Sơn của tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn của tỉnh Thanh Hóa.

Tôi còn đang quan sát để nắm được một cách khái niệm về những tuyến đường, và những điểm chuẩn của khu vực, Brown lại nói tiếp:

- Nơi đấy là khu rừng non, dài hàng mấy cây số, lau sậy um tùm. Do đó, khi Bình đổ bộ lên, nếu thấy mệt mỏi có thể nghỉ ngơi tùy ý hàng tuần cũng được.

Nghe Brown nói vậy, tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên, nhìn trên bản đồ, gần vùng đổ bộ. Trên đường về quốc lộ Một, có một con sông không to lắm. Tôi hơi băn khoăn, chỉ chỗ sông tôi sẽ phải vượt qua, hỏi:

- Chỗ này có cầu không?

Theo quan điểm của tôi khi ấy. Kế hoạch của một công tác bao gồm nhiều khâu. Nhiều khi chuẩn bị kỹ những khâu lớn, khâu khó khăn; nhưng đôi khi chính những việc nhỏ, rất vặt vãnh, lại quyết định sự thành bại. Chẳng hạn, điệp viên chỉ cần qua khúc sông ấy không có cầu, đò. Phải mò mẫm thăm hỏi, để rồi bị bắt ngay chỗ đó. Như vậy, những chuẩn bị chính yếu công phu ở Hà Nội để làm gì?

Tôi đã phát biểu ý kiến này với họ. Sau khi Hoàng Công An dịch lại, mắt Brown sáng lên, nhìn tôi vừa gật đầu, vừa nói:

- Đó là một ý kiến cần thiết, rất hay!

Họ hẹn sẽ trả lời sau, câu hỏi này. Thật là nhanh, tôi không ngờ. Chỉ 3 ngày sau, Brown và Dale đưa đến cho tôi 16 tấm không ảnh loại 40×60 phân. Hình chụp rõ ràng khu vực tôi yêu cầu. Con sông có một chiếc cầu và rất nhiều thuyền bè lớn nhỏ trên sông. Đồng thời cả hình quốc lộ Một và đường xe lửa từ Thanh Hóa về đến Hà Nội.

Lúc đó, chính sự việc này đã làm cho tinh thần tôi được nâng cao thêm qua hai yếu tố:

* Tin tưởng kỹ thuật khoa học chụp hình mà Hà Nội chưa biết.
* Ý niệm được mức độ quan tâm đến công tác của Cục cũng như của Mỹ.

Thời gian này càng gần tới ngày đi, một ngày đi đầy rẫy những hiểm nguy đang đợi chờ. Với muôn ngàn tình huống đang đợi chờ. Với muôn ngàn tình huống chưa biết. Nhiều lúc đi trên đường phố Sài Gòn, tôi nhìn cảnh tấp nập náo nhiệt xe cộ của đường phố, Nhìn dòng người quần áo đủ mọi mầu sắc ngược xuôi, với những nét mặt đầy vẻ hân hoan, háo hức nỗ lực đi vào cuộc sống ngày mai; mà tôi biết rằng sẽ đầy hương vị và tình người, tôi bâng khuâng. Tôi nhìn từng mái nhà, từng chòm cây, góc phố quen thuộc. Cảnh vật và con người như luyến lưu, như hẹn ước và cũng như giã từ.

Tâm trạng của người sắp từ giã cảnh sống này để đi vào đất địch. Như là đi sang một thế giới khác với những cảnh đời hoàn toàn xa lạ và những tình huống bất trắc, bạn bè thân thuộc không ai hay.

Càng gần ngày đi, tôi càng nhiều lần về với bố mẹ và các em.

Bố ơi! Mẹ ơi! Các em bé bỏng thương yêu ơi!

Những lúc vui đùa hàn huyên với các em. Nhìn dáng thơ ngây, hồn nhiên thân mật của các em. Tự nhiên, một nỗi niềm đã nén chặt trong lòng tôi, như muốn trỗi dậy đầy vơi. Để rồi thì, chỉ còn là những cái nhìn đắm đuối, nghẹn lòng như thầm căn dặn: Rồi đây nếu anh ra đi không trở lại. Các em hãy thay anh trông nom, săn sóc bố mẹ. Ai có hỏi anh, các em hãy nói: Anh đã đi xa để trả nợ quê hương rồi, nhé! Nhưng, cả hai đứa em gái và một đứa em trai của tôi thật vô tình. Chúng vẫn cứ cười vui, đùa bỡn với tôi như thường. Các em không biết rằng trong lòng tôi sóng gió tơi bời. Thôi đành! Thời gian sẽ nói rõ với các em những gì lòng tôi muốn nói lúc này.

Buổi chiều cuối cùng, trước ngày lên đường, dù công việc chuẩn bị bề bộn. Tôi vẫn quyết dành ra hai tiếng về thăm bố mẹ và các em một lần nữa.

Khi tôi về, chỉ có bố tôi ở nhà, mẹ tôi đã đi nhà thờ chầu. Các em, đứa xin phép đến nhà bạn, đứa xin phép đi xem phim, không còn đứa nào ở nhà. Cảnh nhà vắng vẻ càng làm tăng nỗi niềm đang đè nặng tim tôi. Bố tôi, tuổi đã gần ngũ tuần, dáng dấp còn nhanh nhẹn, cường tráng như người 40, nhờ vẫn thường xuyên ôn luyện quyền thuật. Người tưởng tôi về thăm nhà như mọi khi, nên người chỉ quan tâm nhắc nhở tôi một câu, mà người vẫn nói, ngay khi tôi còn nhỏ: “Văn ôn, võ luyện, mày phải thường xuyên luyện tập, để tay chân cứng chắc; tinh thần minh mẫn.”

Đến đây, tôi phải trình bày vài nét sơ lược về bố tôi. Khi chưa di cư, còn ở ngoài Bắc. Ông là một võ sư nổi tiếng của huyện. Có lẽ trong đời võ nghiệp, ông đã nhiều lần phải gục mặt, uất hận trước đối thủ. Vì vậy, người đã kỳ vọng vào đứa con trai đầu lòng. Mong rằng sau này nó sẽ làm được những điều mà người chưa, hoặc không làm được trong ngành võ thuật. Ngay từ khi tôi mới lọt lòng mẹ (bố mẹ kể chuyện lại.) Người đã ngâm, tắm tôi nhiều lần bằng những bài thuốc gia truyền, mà người đã dày công sưu tầm được. Người đã bắt tôi, một đứa bé 3 - 4 tuổi, tập đứng Trung bình tấn, Xà tấn, Đinh tấn; tập những bài Quý Châu, Mai hoa và Hùng quyền; bắt đứa bé đó phải chịu bao nhiêu khổ luyện suốt mùa Đông rét mướt, cũng như những ngày Hè nóng nực; năm nay qua năm khác. Khi tôi 10 tuổi, người đã gửi gấm tôi cho nhiều võ sư mà người cho là có thực tài. Vị võ sư cuối cùng là Lã Giang Sơn (1948) với hỗn danh “Bạch Tượng.” một danh thủ có hạng của Trung Hoa. Âu đó cũng là một cơ may, cơ thể dẻo dai của tôi, sau này mới chịu đựng nổi những gian khổ trong cái nghiệp chướng của đời tôi.

Tôi nhìn vào đồng hồ đã một tiếng rồi, mãi không thấy mẹ tôi đi chầu về. Tôi đang băn khoăn chưa biết phải nói với bố tôi như thế nào, may quá, bố tôi đã bỏ lên lầu; tôi vội vàng xin phép để ra gặp mẹ tôi ở nhà thờ.

Trên đường đi, tôi miên man nghĩ đến mẹ tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao hình ảnh người mẹ vẫn đậm nét hơn hình ảnh của người bố ở trong tôi. Khi tôi vào đến cuối nhà thờ, nhìn thấy dáng mẹ tôi đang quỳ, tay lần tràng hạt, miệng lẩm bẩm đọc kinh, đôi mắt người vươn cao trên bàn thờ, một mối xúc động đã dồn ứ trong tim tôi. Nhà thờ chỉ còn lại mươi ông già, bà cả ở lại cuối buổi chầu. Tôi tiến lên quỳ cạnh mẹ tôi. Người quay lại mở to mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Ôi! Mắt mẹ tôi nhìn bao la mênh mông như đại dương! Tôi cảm thấy như bé nhỏ lại trong cái nhìn của bà mẹ. Mẹ ơi! Ôi, tình mẫu tử! Tôi nghĩ rằng, tất cả những ngôn từ đẹp nhất, cao quý nhất của loài người cũng không diễn tả hết được sự cao quý thiêng liêng của tình mẫu tử. Mẹ tôi biết là tôi có việc muốn gặp, nên người làm dấu thánh giá rồi hai mẹ con ra khỏi nhà thờ.

Vừa ra đến ngoài, người đã hỏi ngay, giọng băn khoăn:

- Mày lại có chuyện gì, lại về thế?

Chắc người thấy dạo này tôi về nhà luôn. Tôi nhìn xuống bàn tay mẹ tôi vẫn lần cỗ tràng hạt. Lòng tôi nghẹn lại. Làm sao tôi nói được, tôi về giã từ để đi vào nơi đầy bất trắc đang chờ đợi (có thể thuyền bị đắm ở biển khơi, bị công an, bộ đội kẻ thù bắt ngay trên biển và rồi trong đất liền. Có thể, còn lắm chông gai trên đất địch…) Mẹ ơi! Con sắp chia xa cùng mẹ. Có thể chẳng bao giờ con còn được nhìn thấy mẹ nữa.

Có lẽ vì thái độ của tôi, mẹ tôi cảm thấy một chuyện gì bất thường, nên người đặt tay lên vai tôi, giọng lo lắng:

- Con có chuyện gì, hãy nói thực với mẹ đi!

Chỉ một phút yếu lòng khiến mẹ tôi phải lo sợ, tôi vội vàng tươi nét mặt và cười toét:

- Có gì đâu, mẹ! Con về nhà không thấy, nên ra đây gặp mẹ. Vậy thôi!

Nét mặt lo âu của mẹ tôi biến ngay, người đập vào tay tôi mắng yêu:

- Bố mày, thế mà làm tao hết hồn!

Rồi mẹ tôi nói tiếp:

- Chủ nhật này, mày về đưa tao sang khu Bàn Cờ thăm bà bạn nhé!

Tôi chợt hiểu, lại vấn đề cô Nga, Thu Nga. Đã nhiều lần, bố mẹ tôi muốn tôi lập gia đình với con gái của bà bạn này. Lần nào tôi cũng khất lần với lý do sự nghiệp vẫn chưa thành, v.v… Điều chính khiến tôi, thoái thác là, tôi tự nghĩ, trong khi đất nước đang chia hai, xẻ ba, tôi không thể vội vã tìm chuyện ấm êm. Hơn nữa, đã thích nghiệp gió sương, tôi không được quyền làm bận rộn cuộc đời của một người khác. Tôi vẫn thích những câu thơ của Lưu Trọng Lư:

Em là gái trong song cửa
Anh là Mây bốn phương trời.
Anh theo cánh gió chơi vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.

Tôi hiểu, ngày Chủ nhật tôi không có lý do gì để từ chối ý kiến của mẹ. Vả lại, chủ trương của tôi là trước khi ra đi, tôi không muốn làm một điều gì, dù nhỏ nhặt, để phật ý mẹ tôi. Cho nên, sau khi mẹ tôi nói, tôi chỉ vâng nhẹ một tiếng. Tiếng “vâng” như còn nằm trong cuống họng. Nếu tinh ý, mẹ tôi sẽ nhận ra tiếng “Vâng” rụt rè đó của tôi. Nhưng có lẽ người cho rằng tại nói đến nhà cô Nga, nên tôi mới ngập ngọng như vậy. Người đã không biết rằng, rồi đây, mãi mãi tôi vẫn không thực hiện được lời hẹn của người. Đứa con trai của người đã ra đi biền biệt, không về. Để rồi mấy chục năm sau, đứa con trai đó may mắn sống sót, mang được tấm thân về, mọi vấn đề, từ đất nước, đến con người, đều đã đổi thay, tang thương, vũng thành đồi.

Ánh nắng chiều phía Tây đã nhạt dần. Không gian cảnh vật cũng đổi mầu tím sậm. Dùng dằng mãi, cuối cùng tôi cũng phải chào và xin phép mẹ về trường. Bất chợt, tôi cầm lấy tay mẹ tôi, nghẹn ngào muốn nói: “Lạy mẹ con đi,” nhưng không thốt ra thành lời. Đúng là chân bước đi mà đầu còn ngoảnh lại. Tôi đã ngoảnh lại nhiều lần nhìn bóng dáng nghiêng nghiêng đã thẫm mầu của người phía sân cuối nhà thờ cho tới khi bị khuất hẳn.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 19 Feb 2010

Tập I - Chương 11

Sửa Soạn Lên Đường …..

Theo những quy định thời gian ấy, tôi phải làm một số thủ tục về giấy tờ. Trong đó, tôi phải viết một giấy ủy quyền cho thân nhân.

Đã từ 6, 7 tháng trước, mỗi tháng lương của tôi là 5.000đ không kể công tác phí như thuê nhà, xe cộ.v.v… Vì vậy, nếu vì lý do nào đó mất liên lạc, như bị bắt, chết, v.v… đều được coi như là mất tích, nhà nước sẽ trả lại cho thân nhân 12 tháng lương. Đó, nếu ai đi ra vì tiền, thì 60.000đ là một sinh mạng của một con người.

Thực ra, tất cả những người trong Cục Tình Báo miền Nam đều hiểu, đối với những người ra đi, nếu không vì một lý do nào khác cao đẹp hơn, như non sông, đất nước, thì làm sao số tiền đó có thể mua được họ?

Cục cũng hứa hẹn thật nhiều. Nếu công tác thành công trở về, chính phủ sẽ cho đi nghỉ ở Nhật mấy tháng. Nếu công tác trở về, sẽ v.v… và v.v… Vậy, còn nếu không trở về, thì sẽ được … mất tiêu!

Tôi hiểu đây cũng chỉ là những thủ tục giấy tờ về lương lậu. Vậy mà phải nghe, phải làm những vấn đề này, mặt tôi cứ nóng dần lên. Thật lòng, tôi nghĩ thà đừng có cái mục này, tôi lại còn thấy lòng nhẹ nhàng thích thú hơn, cho nên tôi rất uể oải, lần thần không muốn viết. Mấy lần tôi định nói thẳng với ông An: “Hay thôi, không phải viết nữa. Nếu tôi vào đất địch, bị chết, hay bị mất tích, Cục cứ nói như không có tôi.”

Chắc An cũng hiểu những nỗi niềm thầm kín của tôi, nên ông đặt nhẹ tay lên vai tôi, thân mật:

- Tôi hiểu lòng Bình lắm và cả Cục cũng hiểu con người Bình cho nên họ rất quý nể Bình. Bây giờ Bình hãy nghe tôi, viết vài chữ ủy quyền lại cho bất cứ ai như bố mẹ, bạn bè thân thuộc v.v… chỉ là một thủ tục phòng hờ, chứ người ta ra ngoài miền Bắc, đi về như đi chợ ấy, có sao đâu!

Để khỏi phải nói nhiều, tôi ngồi viết nghuệch ngoặc giấy ủy quyền cho bố tôi, tâm tư thầm nghĩ, thôi, nếu có bề gì thì gọi là một chút đền công các đấng sinh thành!

Họ mang đến cho tôi một chiếc ba lô của Nhật, bên trong đựng sẵn một đôi “bốt-đờ-sô” để lội bùn và đi trong rừng, quần áo và một vài trang bị vặt, hầu hết đều sản xuất từ Nhật, riêng cái túi “dết” màu xanh nước biển là của miền Bắc (tôi đoán chắc chiếc túi này của một đồng bào vượt tuyến.) Những thứ trang bị đều dùng để đi từ ngoài biển vào, và sống ở trong rừng, còn quần áo, dép, mũ v.v… để sử dụng trong những vỏ bọc thì chính tôi phải lo liệu lấy.

Tôi nghĩ đến dép “râu” (Bình Trị Thiên.) Nó làm tôi thật vất vả. Tôi phóng xe chạy đôn đáo suốt Tân Định, ông Tạ, Cầu Ông Lãnh tìm mua mà không có. Thậm chí tả kiểu ra đặt thợ làm giầy, họ lại không có nguyên liệu và không biết cách nào. Mãi mới gặp được một ông thợ giày di cư đã từng sống ờ vùng Việt Minh làm cho. Tay ông làm, nhưng mắt ông nhìn tôi đầy thắc mắc. Tôi phải nói đây là một “mốt” mới ra lò của học sinh, của tay chơi. Đi dép râu mà lại ngồi trên solex hay vespa thế mới hách. Ông thợ giầy làm sao có thể hiểu được, nên ông tin quá!

Tôi còn phải đi hớt tóc theo kiểu nông thôn miền Bắc, và ra Cấp mấy ngày phơi nắng cho da ngâm đen. Trong khi tôi phải làm những công việc bình thường này. Đầu óc tôi lửng lơ nghĩ về xã hội và con người trong thời đại ngày nay. Vào đất Cộng Sản, hoạt động tình báo cho thế giới tự do, khổ thật. Phải trở về một dạng anh nông dân, quê mùa cục mịch. Ngược lại, Cộng Sản vào đất tự do hoạt động, thì lại lên “complet” kính trắng, phong độ hào hoa. Càng ra vẻ trí thức càng dễ hoạt động. Chính một điều này đã đủ nói lên mức sống của hai xã hội; tương phản của hai cảnh đời.

Trong ngày ra Cấp với Hoàng Công An; một buổi tôi đang ngồi dõi mắt nhìn ra biển cả bao la về mãi phía chân trời. Tai đang nghe đài phát thanh Hà Nội, thì chợt một giọng the thé của xướng ngôn viên miền Bắc, tuyên bố về phiên tòa xử vụ C- 47. Nghe loáng thoáng, chiếc phi cơ hoạt động tình báo đã xâm nhập bầu trời miền Bắc. Bị bắn rơi tháng 7 năm 1961 ở Cồn Thơi, Ninh Bình, nhiều người đã chết v.v… Còn mấy người sống sót bị thương nặng. Điệp viên Đinh Như Khoa bị 15 năm tù (mới chạm vào đất liền đã bị bắn rơi, chưa hoạt động gì,) phi công phụ Phan Thanh Vân bị 7 năm tù.

Cái tên Phan Thanh Vân nghe thật quen thuộc, nhưng lúc đó tôi không thể nhớ ra vì còn đang bận tâm về việc xử điệp vụ kể trên. Từ vụ án này, giòng suy tư của tôi cứ len lỏi chảy dài, đẩy đưa về công tác của chính mình.

Tôi vào đất địch một mình, tôi phải quyết định nhiều vấn đề với bao cảnh huống khác nhau chưa thể biết trước. Từ ý nghĩ này, tôi cần phải đặt ra giả thuyết về một số tình huống, để hỏi ý kiến giải đáp của Cục. Có như vậy, khi đã ở trong đất địch; tôi nắm vững để dễ dàng, mạnh bão xử lý. Tôi đưa ý kiến này ra với Hoàng Công An, ông ta vồn vã khuyến khích tôi:

- Ý kiến của Bình rất có giá trị thực tiễn. Bình hãy suy nghĩ; đặt ra những trường hợp bất ngờ, tôi sẽ đưa ngay về Cục để đáp ứng yêu cầu của Bình.

Cuối cùng, tôi đã mầy mò viết một bản 30 câu hỏi để đưa về Cục. Thí dụ:

* Nếu trong hai ngày 16 và 18 theo quy ước. Tôi không gặp đối tượng để trao tài liệu M. Vậy tôi sẽ hủy ngay tài liệu M?

* Cũng làm như vậy với Z5 Hoàng Đình Thọ?

* Nếu trên đường trở về, tôi bị ốm nặng, bị kẹt vì tụi công an truy lùng. Hoặc vì lý do nào đó, tôi không thể đến được điểm hẹn theo thời gian quy định, thì sao?

* Nếu bị bắt tù, sau 2 – 3 năm, tôi trốn được về Nam, thì sao? v.v…

Mấy ngày sau, khi 30 câu hỏi của tôi được đưa về Cục. Hoàng Công An trở lại với bác sĩ Harry trả lời: Trên Cục chỉ giải đáp một số, còn hầu hết những câu hỏi khác để tôi tự quyết định, tùy theo tình hình tại chỗ, sao cho thỏa đáng.

Mãi ngày hôm đó, họ mới trao cho tôi những giấy tờ tùy thân mang theo. Tôi nhìn tờ giấy thông hành mới, với chữ ký phòng công an huyện Vĩnh Linh; thời hạn một tháng. (thời gian công tác của tôi là 25 ngày) tôi đoán rằng, tất cả những giấy tờ đưa cho tôi phải giống hệt như thật. Tôi nhìn, từ con dấu cho đến nét chữ, thật sắc sảo. C.I.A. làm giả, hết chê!

Ngoài mấy bao thuốc lá “Dại Tiền Môn” và hộp quẹt của Trung Cộng (điều này đã nói lên nhiều khía cạnh yếu, kém của C.I.A. và tình báo miền Nam) Anh còn đưa cho tôi 400đ tiền miền Bắc, gồm giấy 5đ, 2đ, 1đ, 5 hào. Bằng cái nhìn về tiền bạc ở miền Nam, tôi cầm 400đ với thái độ không thỏa mãn lắm, vì thấy quá ít ỏi. An đã hiểu ý tôi ngay, nên nói:

- Bình yên tâm, ở trên Cục đã nghiên cứu kỹ. Với 400đ này trong một tháng, Bình có thể bao quát, phòng hờ hết cả. Tiền không thiếu, nhưng nếu Bình mang đi nhiều, đôi khi lại làm ảnh hưởng ngược lại cho công tác. Thông thường, tiêu ở miền Bắc chỉ có giấy 5đ là lớn nhất đấy.

Sau đó, bác sĩ Harry đưa cho tôi một số thuốc bệnh, lọc nước, chống muỗi, và một số hộp lương khô, tăng sức v.v… khi sống trong rừng.

Trước khi về, An còn nhắc tôi xác định lại rõ ràng những quy ước, mật khẩu, tín hiệu v.v…

*

Ngày 20 tháng 4 năm 1962, ngày tôi rời Thành Đô dịu hiền và nhiều tình nghĩa.

Tôi lên đường theo thời gian và lộ trình quy định như sau:

2 giờ chiều ngày 20/4, tôi sẽ rời Sài Gòn, đáp máy bay ra Huế. Tôi sẽ ở lại đấy 2 ngày để ra Bến Hải nghiên cứu và xác định lại một số địa điểm chính của địa hình bên kia bờ khu quân sự Bắc. Sau đó, ngày 22/4/62, sẽ trở về Đà Nẵng, điểm xuất phát, để đến điểm đổ bộ thuộc Nga Sơn Thanh Hóa.

Buổi sáng ngày 20/4, ở số 62 đường Trần Hưng Đạo, Dale và Brown báo cho biết: Khoảng 12 giờ trưa, sẽ có một nhân vật cao cấp trong ngành của Mỹ ở Sài Gòn, đến chào vả tiễn đưa tôi.

Đúng buổi trưa hôm đó, một người Mỹ to lớn, bệ vệ cùng đến với bác sĩ Harry. Ngay từ lúc ông ta bước vào phòng, tuy tôi không nhìn trực diện, nhưng tôi biết ông ta không rời một cử chỉ thái độ nào của tôi trong lúc tôi cùng Brown, Dale và An chuẩn bị lại một số trang bị của chuyến đi. Qua đôi kính trắng thật to, mắt ông ta vừa lộ vẻ hân hoan tươi sáng, vừa như tò mò quan sát. Tôi chẳng biết ông ta đang nghĩ gì về tôi, nhưng tôi có một điều chắc chắn, ông ta không thể nghĩ được rằng, người thanh niên trước mặt sắp bước vào đất thù của thế giới tự do – có thể sẽ hy sinh cả mạng sống – đã là chủ một hiệu vàng, nghĩa là từng ngồi trên hoặc cạnh đống tiền. Nếu ông ta biết được như vậy, ông ta mới đánh giá được đầy đủ ý nghĩa chuyến đi của tôi. Cuối cùng, ông ta nắm tay tôi thật chặt, chúc tôi thành công và hẹn gặp lại.

Lần lượt sau đó, Dale, Brown, Harry đều bắt tay tôi, nói rằng không thể ra trường bay đưa tiễn, vì lúc đó ở Sài Gòn rất ít người Mỹ, đi ra đây là điều bất tiện.

Như tôi đã nói, trình độ Anh ngữ của tôi còn thấp, phải nói bằng tay nhiều hơn bằng miệng, đồng thời để hiểu được họ tôi phải dựa vào sự phán đoán là chính. Vì thế, tôi chả nói hết được những điều tôi muốn nói với họ lúc chia tay.

Những thứ dụng cụ trang bị của tôi đều được mang đi trước. 1 giờ 30 tôi và An ra phi trường. Trên đường đi, tôi nhìn lại Đô Thành, có thể là lần cuối, mắt đăm chiêu, lòng ngập ngừng thăm thẳm.

Khi xe tới đường Công Lý, tôi thoáng thấy một anh bạn quen đang song đôi hai chiếc solex cùng với người bạn gái rẽ vào phía đường Yên Đổ. Âm vang của một bài hát quen thuộc từ đâu ùa đến với tôi, như trỗi dậy thành lời:

“Rồi đây, mai này ai hỏi đến tên tôi,
Bạn ơi! Hãy nói đã đi xa rồi…”

Phải chăng đó là điềm báo trước một lần đi không trở lại? Tôi cũng nghe và thuộc nhiều bài hát, nhưng không hiểu tại sao lúc ấy lại chỉ nhớ mấy câu này!

Suốt từ lúc đó ra phi trường, tôi im lặng không nói một lời, lòng vương vấn nặng nề như cái nóng chiều Hè oi ả của Thành Đô. Tôi liếc nhìn sang An, trong cặp kính trắng, mắt An cũng đăm chiêu như đang nghĩ ngợi điều gì.

Xe tới trường bay, tôi thấy ông Lý và ông Cục Trưởng đã có mặt. Đó là lần thứ ba tôi gặp ông Cục Trưởng. Người ta nói “quá tam ba bận,” chẳng lẽ tôi không còn lần nào gặp ông nữa ư? Mà đúng, sau đó không bao giờ tôi gặp lại ông.

Nhìn hàng ria mép rậm xì to tướng của ông Cục Trưởng, nhất là đôi mắt dù đã được che khuất sau chiếc kính râm mầu đen bóng, tôi vẫn thấy hai luồng nhỡn tuyến phát ra, có thể những ai là đối thủ sẽ không yên lòng khi phải đứng trước cặp mắt ấy.

Thấy tôi xuống xe, ông nhanh nhẹn chạy lại, nắm chặt tay tôi, niềm nở chào đón, sau đó ông ân cần hỏi:

- Trước khi anh ra đi, anh có yêu cầu bất cứ điều gì không?

Tôi bâng khuâng nghĩ ngợi, tôi cần cái gì nhỉ? Nếu tôi ra đi, thành công chẳng nói làm gì, còn như bị bắt, hay bị chết, tôi cần cái gì? Nếu như vậy, tôi chẳng cần cái quái gì cả. Điều tôi cần, tôi hiểu, kể cả chính phủ miền Nam cũng không làm gì được, đó là, nếu tôi bị bắt, tôi cần được cứu ra. Cho nên, nhìn ông ta, tôi cám ơn và lắc đầu. Cuối cùng, khi bắt tay lúc tôi bước lên máy bay, ông Cục Trưởng đặt nhẹ tay lên vai tôi, dịu dàng thân mật:

- Bình đi vào thực tiễn, biết đâu khi thành công trở về. Bình lại mang kinh nghiệm huấn luyện bổ sung cho chúng tôi.

Tôi hiểu, đó cũng chỉ là một câu xã giao để động viên, khích lệ người ra đi thôi. Nhưng, phải thừa nhận rằng, đó là một câu nói có giá trị thực tế của một người có nhãn quan tiến bộ. Tuy nghĩ như vậy, nhưng tôi chỉ cười, không nói gì. Thấy tôi im lặng tư lự, ông Cục Trưởng nói tiếp giọng sôi nổi:

- Nếu Bình đi công tác thành công trở về, tôi sẽ ra tận Đà Nẵng đón Bình ngay khi còn ở trên hải thuyền.

Tôi ngước mắt, nhìn thẳng vào mắt ông, miệng tôi hơi mỉm cười để làm giảm độ căng sắc của mắt mình. Thì ra, tôi chỉ có giá trị khi thành công! Còn lúc này, chỉ là tiễn đưa lấy lệ! Tuy nhiên, nghĩ cho cùng “Đời là thế!” Nên tôi cười to hơn và bàn tay tự nhiên cũng nắm chặt tay ông Cục Trưởng hơn khi từ giã.

Khi tôi và Hoàng Công An xuống trường bay Phú Bài, lại vẫn chính ông Hương lái chiếc xe “díp” dân sự ra đón. Ông đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế.

Hôm sau, chúng tôi lại ra Bến Hải, nhưng lần này dịch về gần phía cầu Hiền Lương. Tôi ngước mắt đăm chiêu nhìn hai lá cờ đang phất phới tung bay trong gió lộng. Một lá đầy mầu máu, sặc mùi tử khí, giết chóc phía bên kia. Và một lá mầu vàng với ba sọc đỏ hiền hòa phía bên này, tự nhiên lòng tôi suy ngẫm. Hai lá cờ đứng bên nhau đang cùng tung bay trước gió dưới cùng một bầu trời Tổ Quốc, thế mà muôn đời không bao giờ có thể sống chung. Chỉ vì một lá cờ muốn trên trái đất này, chỉ còn lại một mầu duy nhất là mầu của nó. Nghĩa là tất cả mọi mầu cờ khác phải bị tiêu diệt. Ai cũng hiểu đó là lá cờ nào rồi.

Sáng ngày 22/4, ông Hương đưa tôi và An trở vào Đà Nẵng.

Đà Thành với thời tiết bốn mùa của Hà Nội năm xưa đây rồi. Cái lành lạnh của cuối Xuân đầu Hè càng làm cho thành Đà thêm nhiều mầu sắc. Xe đã đi sâu vào giữa phố phường. Do thói quen từ trước, tôi không hỏi và cũng không cần biết khi đến Đà Nẵng sẽ ở đâu, và ai sẽ đón. Chính vì vậy, khi xe ngừng lại trên đường Độc Lập, chéo xa xa phía bên kia là một “bar” giải khát, mang cái tên mỹ miều gợi nhớ “Hà Nội,” cả ông Hương và Hoàng Công An đều bắt tay tôi từ biệt, hẹn gặp lại ngày tôi từ bên kia vĩ tuyến trở về. Sau đó, ông Hương chỉ sang quán Hà Nội:

- Bình xách va li váo quán đó chờ, lát nữa sẽ có người đến đón. Từ lúc này, Bình thuộc quyền hạn của người khác.

Vai khoác chiếc ba lô to mầu vàng của Nhật, tay khệ nệ xách chiếc va li, tôi tiến về phía “bar” Hà Nội. Bước chân vào quán, nhìn thấp thoáng qua mấy chậu cảnh hoa lá tốt tươi, tôi thấy bàn này vài sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, bàn kia mấy người Bộ Binh ngồi chung với những người bận Không Quân và thường phục. Sâu phía trong, chỗ sát quầy “buvette” trên những hàng ghế cao, là mấy quân nhân Dù cổ áo óng ánh một vài chiếc mai vàng. Tại một đầu quầy, ba người mặc thường phục, kính trắng đạo mạo, đang ngồi trầm ngâm bên những “phin” cà phê sáng bóng. Quang cảnh trong quán, nổi bật vẫn là ba bộ mặt giai nhân duyên dáng, lả lướt trong những tà áo dài bó chẽn những thân hình căng đầy hương sắc.

Tôi hơi ngỡ ngàng băn khoăn, tiến vào một chiếc bàn trống ở trong góc. Chính cái dáng dấp “không giống ai” của tôi đã làm cho hầu hết những người trong quán đều quay lại với những ánh mắt tò mò. Tôi coi như không biết, lựa thế đặt va li và ba lô. Tôi hiểu đây là một trong những tụ điểm gặp gỡ của những giới son trẻ tài hoa nơi Thành Đà, tuy khác nẻo đường nhưng cùng chung sở thích những âm thanh du dương trầm bổng đưa đẩy bên những mầu sắc mơ hồ chìm nổi chung quanh. Một tà áo mầu hoa khế tiến lại nhỏ nhẹ giọng của đất văn vật ngàn năm:

- Dạ thưa anh dùng gì ạ?

Nghe giọng nói của một giai nhân, tuổi trạc đôi mươi, với bối cảnh của chiếc quán, tự nhiên tôi nổi hứng gió sương:

- Một ly Martel “sếch”, một Capstan.

Khi cô chiêu đãi đưa rượu và thuốc lá ra, nhìn đôi bàn tay thon dài, óng chuốt duyên dáng khẽ để ly rượu trước mặt tôi. Gợi trí tò mò, tôi ngước lên. Đôi mắt long lanh thăm thẳm soi mói nhìn tôi ngập ngừng:

- Chắc anh mới đến Đà Nẵng?

Hơi mỉm cười như để thừa nhận, tôi hỏi lại nhẹ nhàng:

- Thế cô đoán tôi là dạng người gì đến đây?

Cô cũng mỉm cười, liếc nhìn vào chiếc ba lô và va li rồi dè dặt:

- Chắc anh là nhà chuyên môn, tới mỏ than Nông Sơn…?

Đầu tôi gật gật, nhìn cô như tỏ vẻ thán phục. (Lời đoán của cô, làm tôi chợt nhớ đến tên bạn thân của tôi là Lê Đức Bình, hiện cũng đang trông coi mỏ than Nông Sơn, tôi nghĩ nếu có dịp sẽ tạt vào thăm hắn.) Tuy vậy, tôi cũng lơ đãng phà hết khói thuốc, rồi quay lại khẽ cảm ơn cô, lửng lơ để tùy cô suy nghĩ.

Về sau, tôi mới biết cô này tên là Hiếu. Cô cũng là nguyên nhân trong vụ một anh trung úy Thủy Quân Lục Chiến đã tát cảnh cáo một ca sĩ khá nổi danh của Sài Gòn ngay tại “bar” này hơn một tháng trước đó.

Ngay từ lúc bước vào quán, tôi đã thắc mắc, suy nghĩ không hiểu sao người nào ở trên Cục lại cho hẹn đón tôi ở cái quán này? Chừng nửa giờ sau, thắc mắc của tôi đã được trả lời. Tôi thoáng thấy bóng ai như dáng dấp của Phan, ngồi trên chiếc xe “díp” dân sự chạy tới và đỗ lại chéo phía xa bên kia đường. Người trên xe bước xuống, đúng là Phan. Tôi hơi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Thì ra từ bốn, năm tháng trước, Phan nói bận công tác xa, chính là ra Đà Nẵng này.

Giữa tôi và Phan đã quen cảnh gặp nhau bất ngờ, tôi thong thả thanh toán tiền, rồi khoác ba lô, xách va li đi ra. Khi tôi vừa khuất xa cửa quán, chiếc “díp” đã chồ tới sát ngay cạnh tôi. Một cái bắt tay thật chặt, bốn mắt mở to, hoan hỷ nhìn nhau.

Trên đường đi, sau những phút hàn huyên của giai đoạn xa cách. Phan quay sang tôi dặn dò:

- Bây giờ “moa” đưa “toa” đến trọ ở một khách sạn. Tên chủ khách sạn là bạn quen của “moa.” “Moa” sẽ giới thiệu “toa” là bạn. Con trai của một chủ tiệm vàng ở Sài Gòn, ra đây tìm địa điểm mở chi nhánh. Như “toa” biết đấy, người ta dự đoán là thành phố này Mỹ sẽ vào nhiều, cho nên con buôn các nơi, nhất là tụi ba Tầu, đang đổ xô về đây làm ăn.

Tiếp xúc với Phan từ lâu, tôi đã hiểu tính làm việc quá phóng khoáng của Phan, nhiều khi trở thành tùy tiện, thiếu sự điều nghiên thấu đáo. Có thể cho tới khi gặp tôi, nhìn lại con người tôi, Phan đã nghĩ ra là tôi cần phải đóng một vai như vậy mới hợp. Tuy biết vậy, tôi vẫn gật đầu đồng ý, vì Phan hiện đang là người chỉ huy trực tiếp của tôi.

Lát sau, xe tới đậu trước khách sạn Hồng Phát, một khách sạn 6 tầng lầu mới xây; tầng một chuẩn bị mở “buvette.” Phan chạy vào một lúc, rồi cùng trở ra với một người đeo kính trắng, đóng bộ đàng hoàng, khoảng 40 tuổi. Phan giới thiệu tôi, rồi chỉ ông đó:

- Đây là anh Yến, chủ khách sạn này, đồng thời anh còn là chủ một khách sạn lớn nữa ở Sài Gòn.

Phan cười, hất hàm về phía tôi, nói với anh Yến:

- Đó, bạn “moa,” “toa” liệu sắp xếp cho một buồng tiện nghi.

Ông Hồng Phát rất niềm nở cởi mở, ông gọi người quản lý ra hỏi một lúc, rồi quay lại nói với tôi:

- Tôi rất vinh hạnh được quen biết anh. Ở đây buồng số 5 là tiện nghi nhất, nhưng một “xừ” đại tá Mỹ đã ở hơn một tháng rồi, hai ngày nữa y đi. Tôi sẽ ưu tiên dành cho anh. Bây giờ, anh hãy ở tạm phòng 8 cùng lầu 3.

Trong khi hai anh bồi mang va li và ba lô của tôi lên lầu, ông Yến tự tay lấy chìa khóa từ ông quản lý, dẫn Phan và tôi lên theo.

Ngay buổi chiều hôm đó và những ngày hôm sau nữa, tôi hơi ngạc nhiên thấy ông Yến hay chuyện trò, tỏ ra thân mật muốn kết thân với tôi. Nào là sẽ hướng dẫn tôi đi thăm thú thành phố, vân vân… và vân vân.

Khi ông đại tá Mỹ rời đi, tôi đã chuyển về phòng số 5. Những buổi gặp Phan và Yến sau này, tôi đã hiểu họ. Phan hiện là người chịu trách nhiệm tung người ra Bắc, gồm Biệt Kích, người Nhái và những người đi lẻ như tôi v.v… Điểm xuất phát là Đà Nẵng. Một mình Phan một chiếc “Cadillac” mới toanh. Đối với thành phố Đà Nẵng nhỏ hẹp này, Phan là người rất có thế lực. Các giới chức từ Tỉnh Trưởng trở xuống đều nể vì. Ông Yến, tức Lương Hồng Yến; người Tầu. Là một thương gia giầu có, chồng của Thái Lệ Chi, một giai nhân của đất thần kinh. Khổ người và dáng dấp bà Chi hao hao giống bà Trần Lệ Xuân. Chính qua người vợ hương sắc này, ông Yến đã lọt qua nhiều cửa chính quyền, để tiến mãi trên bực thang tiền bạc.

Thấy tôi là bạn của Phan, ông ta nghĩ tôi không những là người có tiền bạc, mà còn có thần thế nữa, cho nên ông ta đã hết mình săn đón. Những buổi chuyện trò thân mật, chính ông đã tâm sự:

- Loại chúng mình luôn luôn là đối tượng mà Cộng Sản muốn tiêu diệt!

Qua câu chuyện và cách ăn nói, mặc nhiên ông ta đã nghĩ tôi cũng trong giới giầu sang như ông ta. Tôi cười thầm, tôi chỉ là loại dân nghèo cùng đinh, làm sao được ờ giai cấp giầu sang như ông bạn! Tuy nghĩ thế, vì vỏ bọc, tôi cũng cười tỏ sự đồng tình với ý kiến của ông ta.

Tôi ra Đà Nẵng được 3 ngày, Phan đưa tôi đến một căn nhà ở gần phía cầu Hàn. Ở đây, tôi lại gặp Brown và Dale. Vì có một số diễn tiến mới, hai ông ra đây trực tiếp thông báo cho tôi. Tôi ngồi nghe và sau đó cùng nghiên cứu, thảo luận lại một số vấn đề về tình hình cũng như tin tức. Ngoài ra, hai ông còn cho tôi biết thêm là hải thuyền tôi đi, phía bên ngoài khơi, sẽ có một tầu của hạm đội 7 đi hộ tống. Hoặc, đang có sự nghiên cứu; lần sau. Nghĩa là trong tương lai, sẽ dùng tầu ngầm, khi đến điểm đổ bộ, dùng xuồng cao su, nhẹ nhàng bí mật tiến vào bờ v.v… Phải nói rằng, ngay lúc đó, tôi chẳng hề tin theo lời Phan. Tôi vẫn nghĩ, đó chỉ là những hình thức dùng để động viên, nâng cao tinh thần, tin tưởng cho người đi hoạt động mà thôi.

Tới hai hôm sau, Phan đưa tôi sang phía biệt khu Hải quân, vào một nơi riêng biệt. Dùng “ca nô” chạy ra phía sau ngọn Sơn Trà để thực tập đổ bộ và chôn dấu vật dụng.

Phần vì đêm khuya, sóng gió lớn ở vùng cửa biển. Phần vì lề lối, tác phong làm việc hời hợt, chiếu lệ. Kiểu “cỡi ngựa xem hoa,” nên khi thấy bị ướt át, run lạnh, Phan cũng giục đi về dù tôi chưa làm xong. Tuy cũng có thực tập về hồng ngoại tuyến vài lần, nhưng cũng chỉ là hời hợt thiếu sự mẫn cán thực tế.

Một tuần lễ ở Đà Nẵng, tôi cũng có ý định gặp lại bạn Lê Đức Bình trong mỏ than Nông Sơn. Nhưng rồi công việc bề bộn cho đến phút chót, nên tôi đã không thực hiện được ý định này. Phan thường căn dặn tôi, để tránh nguy hiểm, không nên đi về phía đầu đường Bạch Đằng từ Grande Hotel trở lên. Vì ở đấy, nhiều người Mỹ thường lui tới có thể xẩy ra những vụ lộn xộn gài mìn, gắn lựu đạn v.v… sẽ nguy hiểm cho mình. Trong thâm tâm, tôi hiểu rằng phía ấy là nơi làm việc của cơ quan tình báo. Phan không muốn tôi đến, chứ giai đoạn đó, hầu hết những building mới xây. Thậm chí, ngay khách sạn Hồng Phát, Grand Hotel, v.v… đã đầy rẫy những người Mỹ từ Hạm Đội 7 mặc thường phục vào mướn thuê phòng rồi.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 20 Feb 2010

Tập I - Chương 12

Bão Tố Ngoài Khơi…

Theo quy định, 7 giờ chiều ngày hôm sau. Ngày 28 tháng 4, tôi sẽ xuống hải thuyền đậu ở một nơi riêng biệt bên Biệt khu Hải Quân.

Bên ngoài trời mưa gió. Khung trời Đà Nẵng, chung quanh toàn biển, nên gió thật nhiều. Không gian ẩm thấp, xám xịt. Từng đợt gió mạnh đẩy bạt những hạt mưa nho nhỏ qua khung cửa sổ, hắt vào mãi giường tôi nằm. Cũng chẳng hiểu tại sao, tôi vẫn không muốn đóng khung cửa sổ lại. Cứ nằm đón nhận từng làn hơi ẩm ướt của gió mưa, buông lơi tâm tư bồng bềnh ngược xuôi chìm nổi.

Đã hơn 10 giờ tối, nằm mãi không ngủ được, đầu óc tôi lướt nhanh soát lại tất cả các vật dụng sẽ mang theo. Tôi đã để lại nguyên chiếc va li cồng kềnh với tất cả hành trang của một đời trai độc thân, với bao ân tình kỷ niệm: Từ chiếc đồng hồ đeo tay (đi công tác, tôi đã được cung cấp một đồng hồ khác, loại chống nước của Liên Xô). Chiếc dây chuyền 3 chỉ vàng chưa hề bao giờ đeo. Tiền bạc, toàn bộ giấy tờ; chiếc ví da, cho đến những thư từ, hình ảnh gia đình và bạn bè. Tôi cảm thấy một Đặng Chí Bình như được lột xác, trút bỏ hết tất cả. Ngay cả đến hơi hướng của những cảnh đời đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, sẽ ngược xuôi trong một cảnh đời khác. Một cảnh đời lầm than cực khổ của những con người lôi thôi lếch thếch. Làm việc như những con vật, quần quật suốt ngày đêm.

Tâm tư tôi đang chìm đắm trong những cảnh sống của khung trời miền Bắc đang đợi chờ, chợt văng vẳng một giọng hát nho nhỏ cao vút đâu đây: “…Mai anh đi rồi, làm sao em ngăn được, thà vui cho trót đêm nay…” Tôi giật mình, bâng khuâng. Câu hát trùng với hoàn cảnh của tôi làm sao! Không hiểu ai đó lại ca vào đúng lúc này? Không thể dằn được sự tò mò. Tôi bật dậy, tiến tới cửa sổ, nhô hẳn đầu ra ngoài nghe ngóng. Tôi xác định được tiếng hát ở lầu trên. Chẳng rõ nguyên nhân nào thúc đẩy, tôi mở cửa, nhẹ chân rón rén lên lầu, bước dần lại căn phòng vẫn còn tiếng hát lả lơi nho nhỏ. Tôi dựa tường, yên lặng lắng nghe. Giọng ca có lúc như nghẹn ngào than van, nhưng có lúc lại vút cao, lanh lảnh tràn đầy mộng ước.

Nhìn đồng hồ, đã gấn 11 giờ đêm, tôi cảm thấy đứng như thế này là một hành động bất nhã. Chỉ vì một bản hát nào đó tôi không biết tên, đã hợp đúng tâm trạng của tôi. Lần bước xuống hẳn dưới nhà. Người bồi và ông quản lý, đang ngồi hút thuốc nói chuyện, thoáng thấy tôi xuống, đều đứng dậy, tưởng tôi cần việc gì. Đắn đo một lúc, tôi hỏi:

- Này, trên phòng 12, ai hát hay thế nhỉ?

Người bồi tên là Lụa, đẩy hẳn cái ghế ra, quay lại. Mắt sáng lên nhìn tôi, giọng Quảng Nam săn đón:

- Trời ơi! Hôm nay thầy mới hỏi, cô là em nuôi tên là Dạ Lý Hương, ca sĩ tài tử đó! Nếu thầy muốn làm quen, mai cháu sẽ giới thiệu cổ cho thầy. Cổ nổi tiếng là cao kỳ, nhưng với thầy, cháu thấy hai người hợp lắm. Cháu bảo đảm, ăn chắc!

Tên Lụa nói líu lo một hồi, cướp hết cả lời ông quản lý. Tôi nghĩ, phần vì hoàn cảnh và điều kiện không cho phép, phần vì còn đang phải dấn thân vào những phương trời giông bão. Không được quyền đa mang những chuyện bận tâm, nên tôi nghiêm hẳn nét mặt, cố nói giọng thật lạnh lùng:

- Cảm ơn anh! Cô ấy đã làm tôi mất ngủ, vì hát giữa đêm khuya!

Nói xong, tôi trở lên phòng, trước 4 con mắt mở to của họ. Lúc này, tiếng hát đã im bặt, nhưng lời ca và giọng hát ấy đã theo tôi về phương trời miền Bắc xa xôi, suốt dài theo năm tháng. Nhất là vào những đêm mưa buồn, không ngủ.

5 giờ chiều hôm sau, Phan đến đưa tôi sang biệt khu Hải Quân. Khi đến gần, một chiếc thuyền đậu khuất trong một vụng nhỏ vắng vẻ. Tuy Phan chưa nói, nhưng qua một số hiện tượng, tôi đã hiểu, đó là chiếc thuyền tôi sẽ đi. Nhìn bề ngoài, chiếc thuyền trang bị như một thuyền đánh cá ở các vùng ven biển. Nhưng theo Phan nói, máy móc được thiết kế thật tốt, có thể chạy từ 10 đến 12 hải lý một giờ. Lúc Phan dẫn tôi xuống thuyền, tôi đã thấy lố nhố 5, 6 người, đa số là thanh niên, mặc toàn quần áo nâu. Hai người làm tôi chú ý hơn cả, đó là một ông già chừng 50-55 tuổi. Dáng mặt đen ròn mạnh khoẻ. Và một người khoảng 40 tuổi mặc may ô tay còn cầm cái mỏ lết, vừa chui từ hầm tầu lên. Thân hình anh ta trông lực lưỡng, to, cao với những bắp thịt cuồn cuộn, chắc nịch như một lực sĩ.

Sau khi cả 6 người dưới thuyền có mặt đầy đủ, Phan chỉ ông già rồi quay lại tôi:

- Đây là bác thuyền trưởng.

Rồi Phan chỉ tiếp anh chàng có thân hình to lớn, khi nãy:

- Đây là anh thợ máy.

Sau đó, Phan khoa tay nói rằng, những người còn lại đều là thủy thủ. Theo lệnh Phan, một anh chạy lên chỗ xe “díp” mang vật dụng của tôi xuống thuyền. Tôi thấy các anh, các bác dưới thuyền, người nào cũng đen xạm, rắn chắc, khoẻ mạnh. Họ đều là người Công Giáo, vì tôi thấy ai cũng đeo tượng Chúa. Và nhất là ở mé thuyền, mấy cỗ tràng hạt còn đang rung rinh theo đà lắc lư của con thuyền. Tất cả đều là người miền Trung. Khi cả Phan và tôi đã chui vào trong khoang thuyền, Phan quay lại hỏi toàn thể:

- Tất cả những đồ cần thiết đã chuẩn bị đầy đủ chưa, anh em?

Bác thuyền trưởng dõng dạc trả lời:

- Thưa đủ!

Phan hất hàm về phía anh thợ máy:

- Tình trạng máy móc thế nào?

Anh ta trả lời, giọng Quảng Bình chắc nịch:

- Thưa, bình thường!

Bây giờ, Phan mới hướng về tôi, nói với toàn thể những người dưới thuyền:

- Đây là ông cán bộ, đi công tác đặc biệt. Các anh em có trách nhiệm phải đưa ông đến điểm đổ bộ đã quy định. Suốt trên đường đi đến mục tiêu, ông có toàn quyền bảo thuyền quay lại, các anh em phải theo lệnh.

Nghe Phan nói, tôi hiểu, nếu lúc đó, bắt đầu vào thực tế, tôi mất tinh thần, tôi sợ, (một điệp viên vào đất địch mà sợ hãi, dứt khoát chỉ làm hư việc,) thì quay về là đúng. Nếu không, đôi khi còn tác hại hơn, không thể nào mà lường được. Anh sợ, anh quay về, chỉ có một điều hại là công tác chưa thi hành được, chứ địch chưa biết gì cả, và anh chỉ bị kỷ luật như đã định mà thôi, chứ nếu anh đã sợ mà anh cứ vào đất địch, chắc chắn anh sẽ không hoàn thành được công tác và dễ bị địch phát hiện. Địch sẽ khai thác những tài liệu anh mang theo, sự di hại còn to lớn biết chừng nào.

Sau đó, tôi theo Phan lên bờ, Phan đặt tay lên vai tôi, thân mật:

- Tinh thần của “toa” thế nào?

Tôi mỉm cười, đập mạnh vào tay Phan một cái, đùa cợt:

- Đấy, tinh thần tôi đấy!

Phan siết chặt tay tôi, rồi không biết Phan nghĩ thế nào, tự nhiên dang tay ôm chặt tôi, không một lời từ giã, hẹn gặp lại hay chúc thành công. Đó cũng là cá tính của Phan khi chia tay.

Trời đã chập choạng, thuyền bắt đầu rời bến. Xa xa, thành phố Đà Nẵng đã lên đèn. Hơn một tuần lễ ở đây, tôi chưa biết nhiều về Đà Thành, vậy mà tôi cũng thấy vương vấn bâng khuâng. Tôi có cảm tưởng con thuyền rời xa dần khung trời tươi sáng để đi sâu vào vùng đen tối mịt mù. Thực sự, con thuyền đã khởi hành lúc 7 giờ chiều, trời còn sáng, để đi dần vào màn đêm. Và từ một vùng yên tĩnh trên sông Hàn, để tiến dần vào vùng sóng gió của biển khơi. Con thuyền đã bắt đầu lắc lư, vật vã với những vạt sóng bạc đầu vùng cửa biển.

Tôi đứng dựa mui thuyền. Đã gần nửa đêm, bầu trời rất thấp, hàng trăm ngàn vì sao nhấp nháy. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh. Tôi có cảm tưởng, bầu trời như một chiếc vung khổng lồ úp xuống mặt nước bao la cùng chiếc hải thuyền cô độc, đang âm thầm rẽ sóng. Giữa mầu xám xịt mênh mông của biển khơi, là những tảng trắng đục của những lớp sóng bạc đầu trông như đá hoa cương. Chiếc thuyền nhấp nhô nghiêng ngả, đập vào đầu những ngọn sóng, gây lên những tiếng bộc bạch chắc nịch. Làm cho con thuyền rung lên, phát ra những tiếng cọt kẹt…cọt kẹt…

Dù tôi đã uống trước hai viên thuốc chống say sóng do Phan đưa, thế mà tôi vẫn thấy người nôn nao khó chịu. Tôi đành phải chui vào trong khoang nằm nghỉ. Đang vật vờ nửa thức nửa ngủ, tôi bỗng nghe tiếng rổn rảng, nặng chình chịch của ông thuyền thưởng:

- Buộc lá cờ vàng, đen lên!

Dù người rất mệt vì say sóng và đã nôn ói hai ba lần, tôi vẫn phải cố bò lên xem chuyện gì. Trời đã sáng, mọi người đang hướng nhìn về phía mặt trời mọc. Một chiếc tầu mầu trắng toát, cách xa khoảng chừng 5 cây số, đang chĩa mũi về chiếc hải thuyền. Quá xa, và cũng do ánh nắng, tôi không trông rõ mầu cờ của chiếc tầu đó. Thấy anh thợ máy đang quỳ phía mũi thuyền, dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tôi cố lần ra, khẽ đặt tay vào vai anh. Anh quay lại, hơi ngạc nhiên khi thấy tôi, anh tươi nét mặt:

- Tầu của ta, không sao!

Rồi anh trao ống nhòm cho tôi. Qua ống nhòm, tôi đã nhìn rõ mầu cờ vàng ba sọc đỏ phía cuối tầu. Và, đó cũng là lúc chiếc tầu đang chuyển mũi về phía trái, tức vào bờ. Tôi nhớ chiều hôm trước, lúc ở biệt khu Hải Quân. Phan đã đưa cho ông thuyền trưởng mấy loại giấy tờ, nói là khi nào có tầu của ta kiểm soát, xuất trình giấy lệnh công tác đặc biệt của trung ương. Nhưng, sao lại còn phải kéo lá cờ hiệu, con con mầu đen vàng? Tôi vào hỏi ông già, thì ra đó cũng là mật hiệu của thuyền đi công tác đặc biệt nữa. Mật hiệu này, luôn luôn thay đổi, có khi hàng ngày, có khi hàng tuần.

Mặt trời đã lên cao, nền trời trong xanh, mặt biển thật yên lành. Tuy vậy, phần vì bị nôn mửa, phần vì tôi không hề ăn uống gì, nên người rất mệt. Mặc dù cảnh biển trời rất đẹp, thật hùng vĩ, nhưng tôi vẫn phải chui vào khoang nằm.

Tôi nằm chập chờn, lúc tỉnh lúc mê, nhưng tôi vẫn theo dõi được những diễn tiến của con thuyền. Khoảng gần trưa, thái độ của mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt hơn. Cứ 5, 10 phút, lại một người mang ống nhòm ra phía mũi thuyền quan sát một vòng. Từ ông già thuyền trưởng, cho đến các anh thủy thủ, ai nấy đều trầm tư im lặng, ít nói chuyện hẳn đi. Tôi hiểu, con thuyền đã đi vào vùng biển của miền Bắc.

Ánh nắng đã nhạt dần, một ngày nữa đã trôi qua. Tôi đã biết, từ bác thuyền trưởng đến các anh thủy thủ, trước đây họ đều là dân chài lưới chuyên môn ở Nghệ An. Họ đã chối bỏ bạo quyền vô nhân, khát máu Cộng Sản, di cư vào miền Nam. Họ là những người dân hiền lành chất phác, suốt đời chỉ biết cặm cụi làm ăn. Họ đã ra đi thoát khỏi bàn tay sắt máu của lũ cộng. Họ tìm đến được thế giới tự do. Nhưng, họ còn thấy trách nhiệm của họ với những bà con, thân thuộc còn ở lại, nên họ đã tình nguyện làm công việc này, để góp phần nhỏ bé, giới hạn do cuộc sống đơn giản, ít học thức của họ. Do đấy, tình cảm thương yêu đồng bào, đồng chí thật chân phương thắm đượm gần gũi. Thấy tôi bị say sóng, không ăn uống gì được, người nào cũng săn sóc, giúp đỡ như ruột thịt anh em. Họ nấu từng bát cháo nóng, đưa từng hộp dầu cao với những cử chỉ thật đậm đà, gần gũi, làm tôi vô cùng xúc động. Lại một đêm nữa trôi đi bình lặng.

Sáng hôm sau, mặt trời phía Đông loé sáng được hơn một tiếng đồng hồ, thì mạn phía Tây Bắc, từng cụm mây đen to tướng đùn lên, dần dần che lấp cả bầu trời. Không khí tự nhiên oi nồng khác thường. Mặt biển óng lên mầu vàng nhợt.

Mấy ngày này, tôi chỉ húp được sữa, ngồi một lúc hoa mày chóng mặt, tôi lại phải nằm. Gần về chiều, trời vẫn oi ả, giữa biển khơi mà im gió như trong buồng. Nét mặt mọi người đều lộ vẻ lo âu với những hiện tượng không bình thường của thiên nhiên.

Đột nhiên, một anh thủy thủ tay đang cầm ống nhòm ở mũi thuyền, quay lại mặt nhớn nhác, tay chỉ trỏ phía xa xa, miệng nói léo nhéo, nghe không rõ, vì tiếng máy nổ ồn ào. Mọi người, ngay cả tôi, linh cảm thấy một điều bất thường. Dù mệt, tôi cũng cố cùng mọi người đổ xô ra phía mũi.

Xa xa, từ phía trái, tức phía trong bờ, có hai chấm đen đang tiến dần về phía chiếc thuyền. Tôi giằng lấy ống nhòm từ tay anh thủy thủ. Rõ ràng hai chiếc ca nô đen xì. Vì còn quá xa, nên chưa trông rõ cờ hiệu, nhưng ai cũng hiểu rằng, còn chệch vào đâu được nữa, đó chính là ca nô của bộ đội hải quân biên phòng của Cộng Sản. Không nói ra, nhưng mặt người nào cũng tái đi, lấy cái gì để chống đỡ bây giờ? Chịu trận, như con cá đã nằm trên thớt. Tôi liếc nhanh những vật dụng mang theo, tay tôi sờ trong người, mân mê mấy bọc tài liệu con con. Đầu tôi loé lên quyết định, phút cuối cùng sẽ gửi chúng vào lòng biển cả. Dứt khoát, bằng mọi giá không để tài liệu này lọt vào tay kẻ thù.

Những bước chân chạy khẩn trương rầm rập. Những tiếng nói to dằn mạnh của mấy ngưòi í ới:

- Mở tốc lực tối đa!

- Bẻ lái chạy theo hướng phải!

- Bỏ lưới lên mui, căng ra!

Hai chấm đen càng lúc càng to, càng rõ ra. Qua bản thân mình, tôi hiểu rằng trống ngực của mỗi người đều tăng nhịp đập theo tiếng máy tầu.

Sau khi những xốn xang chuẩn bị của mỗi người tạm ổn, tuy không ai bảo ai, nhưng cứ thỉnh thoảng, mọi người lại quay nhìn về phía hai chấm đen với những đôi mắt trắng nhợt. Anh thợ máy chui vào khoang, lấy bức hình Đức Mẹ treo cao lên phía vách thuyền. Rồi cũng không ai bảo ai, trừ ông già thuyền trưởng đang lái thuyền, mọi người, anh thợ máy và các thủy thủ, đều ngồi xếp chân bằng tròn làm dấu, nguyện kinh. Tôi cũng ngồi dậy đọc kinh cùng mọi người. Tiếng cầu kinh râm ran theo tiếng máy vang rền. Tuy đọc kinh, nhưng thỉnh thoảng một cái đầu, lại ngoảnh về phía hai chấm đen, lúc này đã to bằng hai con trâu mộng.

Mây đen mù mịt, trời càng thẫm dần. Bỗng nhiên pằng, pằng, pằng pằng! Bốn tiếng súng như xé màng tai mọi người, làm cả 7 cái đầu đều quay về phía hai chấm đen một lượt. Tiếng đọc kinh càng to, càng cấp bách hơn. Mọi người đọc kinh “dọn mình chịu nạn.” Khoảng cách của hai chiếc ca nô và chiếc thuyền càng lúc càng ngắn lại. So sức máy của con thuyền với sức máy của hai chiếc ca nô, tôi có cảm tưởng như sức chạy của con gà đối với hai con chó sói.

Đột nhiên, một làn chớp xanh lè nháng lên. Một tiếng nổ làm rung rinh mặt biển, rồi như tiếng gầm của đại bác, rền vang ngang dọc trên bầu trời. Những hạt mưa lạch tạch ngoài mũi, trên mui thuyền. Gió bắt đầu lồng lộn thổi. Sóng cuồn cuộn nổi lên, mưa gió xoáy mịt mù. Chiếc thuyền dựng lên, ngụp xuống, nhấp nhô giữa muôn ngàn núi sóng. Biển trời gầm rú át cả tiếng đọc kinh và tiếng máy của thuyền. Mọi người đều nhìn lại, hai chiếc ca nô đã mờ mịt trong gió mưa.

Thoát cái nạn kẻ thù, lại gặp cái nạn cuồng phong, bão tố của biển khơi. Thuyền đã bẻ lái quay về hướng cũ, vì khi nãy sợ quá nên đã chạy ra hướng đại dương. Mưa bão càng cuồng loạn, tiếng đọc kinh càng lớn. Nhiều lúc, tôi tưởng như chiếc thuyền chìm nghỉm, hoặc vỡ tan ra từng mảnh. Ngồi trong khoang mà mọi người ướt đẫm. Cả chiếc thuyền, chẳng chỗ nào còn khô. Người tôi lúc xô sang góc này, lúc đập vào góc kia. Bác già thuyền trưởng đang xệch miệng gò người đẩy lái thuyền. Một cơn sóng đánh trùm lên, đánh bật văng bác vào trong góc. Ba anh thủy thủ đổ xô ra, một người đỡ bác, hai người kia chộp lẹ vào cần tay lái. Bác già đã vươn ngay dậy được, xông đến tiếp tay cho hai anh thủy thủ đang nghiêng ngả với chiếc bánh lái.

Người tôi lạnh run, mệt lả, vì mấy ngày không ăn. Tôi tưởng chắc phen này sẽ về lòng đại dương, chấm dứt một cuộc đời chìm nổi mưa gió.

Chừng nữa giờ sau mưa tạnh, gió dịu dần, biển khơi đất trời nguôi cơn giận. Màn đêm đã bao phủ cả bầu trời. Tôi đưa mắt nhìn khắp chung quanh, chỉ một mầu xám xịt, chẳng còn thấy bóng dáng hai con trâu điên đâu nữa. Chính chúng cũng đã phải chạy thoát thân, và có lẽ chúng nghĩ rằng, chiếc thuyền bé nhỏ của chúng tôi hẳn đã làm mồi cho cá biển.

Thuyền chạy được 5-6 giờ nữa, lúc này đã gần 12 giờ đêm. Trời lại bắt đầu nổi gió, và mưa cũng trở nên đầy hạt. Gió thật mạnh, quay cuồng, gió quất vào những khe ngách con thuyền. Gầm rít lên như muốn xé tan con thuyền bé nhỏ, cô đơn, giữa sự giận khùng của đại dương bao la.

Trận bão này thật là khủng khiếp. Người nào cũng phải ôm ghì lấy khung thuyền. Ai cũng thấy nếu lỏng tay, không bị gió dữ thì cũng bị những cơn sóng thần sầu như trái núi hất tung người xuống biển. Chung quanh, mọi người chỉ còn nghe thấy tiếng ầm ầm của sóng gió thét gào. Tiếng máy thuyền như im bặt. Có chăng đây đó, thỉnh thoảng là tiếng kêu Chúa, hoặc gọi cha mẹ, ré lên rồi tắt ngủm trong màn đêm.

Giữa lúc cái sống và cái chết ở cạnh nhau này, tôi thấy ông già thuyền trưởng vung cánh tay như vẫy tôi, miệng của ông há to, tôi không nghe thấy tiếng gọi. Tôi vận sức, nắm chặt khoang thuyền, lết lần từng bước về phía ông. Tôi cảm thấy, ông gọi tôi chắc có việc nan giải. Phần vì người ướt như chuột trong cống, lạnh run, phần khác vì sức tôi quá yếu (hai ngày hai đêm không ăn) nên tôi trượt chân, chới với tưỡng đã lao xuống biển nếu tôi không nhanh tay, chộp được một cái cọc ở mé thuyền và cùng lúc đó, hai anh thủy thủ vồ được hai chân tôi kéo lại.

Có lẽ, vì thấy quá nguy hiểm, nên ông già thuyền trưởng vừa gào, vừa ra hiệu cho hai anh thủy thủ khác ra giữ lái thuyền thay ông. Khi ông và tôi đã bò vào được trong khoang, ông nhìn tôi giọng hổn hển ngắt quãng vì rét và vì mệt:

- Đã đến điểm đổ bộ rồi. Chỗ này còn cách bờ khoảng 20 cây số. Với kinh nghiệm chài biển của tôi, trời đang giông bão thế này, nếu thuyền vào bờ, sẽ bị đắm. Vì thông thường, sóng cách bờ 5-10 cây số dữ dội hơn ngoài biển khơi nhiều. Cơn bão hiện nay chưa biết bao giờ sẽ dứt. Vậy hoàn toàn do cán bộ quyết định đi vào hay đi … về?

Thật là một vấn đề nan giải giữa sống và chết. Bao nhiêu công lao khó nhọc, đã đến đây, chả lẽ quay về? Để có thể quyết định được dứt khoát, tôi hỏi lại ông:

- Hay bỏ neo tại đây, chờ hết bão ta vào?

Ông cười, miệng méo xệu, trong khi ba anh thủy thủ mở to mắt nhìn tôi như nhìn một con quái vật. Cuối cùng, ông già nói gằn giọng như ông đang cãi nhau:

- Không thuyền nào bỏ neo ở giữa biển, dù có bỏ neo cũng không tới, mà nếu có tới, trời đang gió bão thuyền sẽ lướt đi theo sóng không đứng yên. Đậu lại, hoặc chết máy lúc này thì chỉ một cơn sóng cũng chìm nghỉm. Chưa nói, nếu sáng mới hết bão, lúc đó ban ngày, đậu đây, chẳng khác nào chiếc mồi mời tầu công an ra mang vô.

Tôi nhìn ông, tuy mệt và rét mà ông vẫn phải nói nhiều, nói dài. Ông đã gợi hết đường ngõ cho tôi rồi. Vì vậy, sau một phút đắn đo, tôi khoát tay, dõng dạc hai tiếng:

- Quay về!

Óc tôi lướt nhanh, nếu chỉ một mình tôi, sống chết cũng vào, vì đã đi thì dứt khoát chẳng quay về. Nhưng ở đây, còn 6 sinh mạng nữa, mỗi người là một chùm liên hệ gia đình, tôi không được quyền liều lĩnh.

Ba anh thủy thủ cùng ngồi trong khoang nghe tôi nói quay về, mắt họ sáng lên, ngực họ như xẹp xuống vì được xì hơi ra. Ông thuyền trưởng quay lại phía lái, chụm hai bàn tay trước mồm làm loa, gào to:

- Bẻ lái quay về miền Nam. Phải coi chừng chiều gió và sóng.

Các anh thủy thủ đúng là đi biển có kinh nghiệm. Chiếc thuyền nhẹ lướt, quay nghiêng, rồi trực chỉ mũi về hướng Nam. Bây giờ, thuyền lại xuôi gió và sóng. Riêng tôi, vì mệt mỏi và những suy tư, nặng chĩu trong lòng, tôi nằm liệt ở trong khoang, chẳng muốn biết gì nữa ở bên ngoài. Tôi nằm thiếp dần, mê man. Sáng hôm sau, trời yên biển lặng, tôi vẫn chỉ mơ mơ màng màng, rồi tôi lại thiếp đi. Mãi cho tới khi anh thợ máy lay tôi dậy. Tôi nhìn miệng anh nói, nhưng giọng Nghệ An thật khó nghe, có lẽ vì mệt quá nên tai tôi ù lên chăng? Thấy tay anh cầm bát cháo con con đang bốc khói, và qua ánh mắt, tôi hiểu anh muốn bảo tôi cố ngồi dậy húp bát cháo này! Thái độ của anh, đã xoa dịu phần nào những nỗi niềm nặng chĩu u buồn trong lòng tôi. Tôi chống tay ngồi dậy, đón nhận tình anh. Tôi chỉ biết nhìn anh bằng ánh mắt biết ơn.

Bên ngoài, ánh nắng chiều đã xiên khoai vào khoang thuyền. Sau khi húp hết được bát cháo nóng, người tôi như thêm phần sinh khí. Tôi bò dậy, chui ra ngoài mũi thuyền, ngồi dựa vào mui. Tôi đưa mắt nhìn ra phía chân trời xa xa, nơi có miền Nam thân yêu đang đợi chờ. Đột nhiên, một ý nghĩ len vào hồn, làm tôi tư lự đăm chiêu. Tôi đã bỏ dở công tác phải quay về. Đường đi không đến, dù rằng chẳng phải do mình muốn, tôi vẫn cảm thấy như có áng mây buồn vương vấn trước mắt.

Cảnh chiều tàn trên đại dương làm cõi lòng tôi sầu nặng. Thêm nữa, đây vẫn còn là đất địch, nên tôi lại chui vào khoang.

Một đêm, một ngày nữa trôi qua. Đến đêm thứ năm, kể từ ngày đi, thuyền mới về vĩ tuyến 17, đến phần đất của miền Nam tự do. Như đã nói trên, vì mang một tâm sự không vui, phần khác vì say sóng không ăn uống gì được, làm người càng mệt, nên trên suốt đường về tôi cứ nằm li bì. Mãi tới gần nửa đêm, tôi nghe loáng thoáng nhiều tiếng ồn ào quát tháo. Một vài vệt đèn “pin” chiếu lấp loáng vào trong khoang thuyền. Một chiếc tầu tuần nào đó thuộc Hải Quân của ta, đến kèm sát để hỏi giấy tờ, dù thuyền đã đánh tín hiệu bằng đèn “pin” trước rồi. Một chiếc ca nô nhỏ, trên lố nhố một số người, cặp vào phía mũi thuyền. Tôi không muốn họ nhìn thấy, tôi kéo chiếc chăn đơn che mặt và vẫn nằm yên. Một lúc sau, thuyền lại tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau, thuyền về tới bến cũ trong Biệt Khu Hải Quân.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 20 Feb 2010

Tập I - Chương 13

Chuẩn Bị Chuyến Sau …

Gần hai giờ sau, khoảng 8 giờ sáng, mặt trời đỏ như một miếng tiết bò to tướng, ở dưới nước từ từ chui lên, làm cảnh vật sáng lung linh một mầu đỏ ửng.

Phan đã đỗ xe trên đường ngay phía trước thuyền, đang đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng và mấy anh thủy thủ. Tôi mở cửa khoang chui ra. Phan quay lại nhìn thấy tôi, mắt Phan mở to rồi nhấp nháy. Dù đã được nghe báo trước, nhưng chắc Phan cũng không ngờ người tôi xuống nhanh như vậy, khi mới chỉ có cách 5 đêm 4 ngày. Lý do chính là trong 4 ngày 5 đêm đó, tôi chỉ húp được ba, bốn bát nước cháo, và lại trải qua nhiều giờ phút căng thẳng. Phan tiến lại nắm nhẹ tay tôi, chỉ hỏi một câu:

- “Toa” có mệt không?

Cho tới lúc lên xe, Phan thấy tôi ít nói hẳn đi. Nếu là người khác, có thể sẽ tưởng rằng, sau một chuyến đi căng thẳng, tinh thần tôi bị xuống. Nhưng, có lẽ Phan đã hiểu nét trầm tư của tôi, nên đã đập vào vai tôi, vừa cười vừa nói:

- Ồ, “L’homme propose, Dieu dispose” (*) mà! “Toa” nghĩ ngợi làm gì!

Đã 5 ngày không rửa mặt, lại đang mặc bộ quần áo miền Bắc, dép râu, mũ cối, nên tôi chui ra băng sau. Mở chiếc va li của tôi, mà Phan đã mang theo từ cơ quan sang cho tôi, để thay đồ.

Trên đường về thành phố, Phan nói:

- Bây giờ “toa” chưa thể về Hồng Phát được. “Moa” đã tạm thuê cho “toa” một phòng trong khu vắng vẻ; “toa” hãy về đấy tắm rửa, cạo râu, ăn uống cho lại sức. Chiều mai, “moa” sẽ trở lại đón “toa” về Hồng Phát.

Buồng số 5 đã lại có một người Mỹ khác đến thuê. Nghe quản lý nói họ chỉ ở vài ngày, nên tôi phải tạm ở buồng 14 trên lầu tư. Tầng này cũng có vài anh Mỹ ở mấy buồng, tuy thỉnh thoảng gặp nhau ở lối đi khi ra vào. Họ và tôi cũng chỉ mỉm cười để chào nhau, chứ không nó năng gì.

Hai ngày sau Phan cho biết: “Công tác sẽ lại tiến hành vào ngày 28 tháng 5.”

Như vậy, tôi có gần một tháng để nghỉ ngơi, để lấy lại sức và tinh thần. Theo quy ước, ngày đi thường phải là những ngày cuối tháng. Tôi băn khoăn hỏi Phan vì sao đài khí tượng của ta, lại không biết gì về những cơn bão đột xuất?

Phan trả lời:

- Với trình độ và phương tiện của đài khí tượng của mình hiện nay, mình chỉ dự đoán tương đối chính xác về thời tiết trong một thời gian 30 giờ và trong một phạm vi bán kính 300 cây số. Mà điểm đổ bộ lại ở ngoài tầm quá xa và thời gian cũng cách hàng 50-60 giờ, nên thật khó!

Sau khi tôi làm báo cáo gửi đi được 3 ngày, tường trình những nét diễn tiến cơ bản của chuyến đi, có lẽ ở Sài Gòn, những người trên Cục cho rằng cần phải khích lệ, động viên tinh thần tôi, nên một hôm Phan đến bảo sẽ đưa tôi đi gặp một nhân vật của Cục muốn tiếp xúc. Phan đưa tôi tới quán nước “Diệp Hải Dung” khi gần tới nơi, Phan dặn:

- “Toa” vào một mình, tìm một bàn trống, cứ gọi theo ý mình. “Toa” ngồi chờ, sẽ có người đến gặp.

Tôi vào quán, một lúc sau, thoáng nhìn chéo góc đường, tôi thấy một người mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, thắt cà vạt. Ông ta khoảng ngoài 40, lái một chiếc xe “díp” dân dự còn mới, bên cạnh là ông Lý, một người miền Bắc tôi có gặp vài lần.

Đậu xe ở một góc xa, người đó và ông Lý xách chiếc cặp đen theo sau, tiến vào quán. Trong quán, cũng đã đông người, hầu hết là thành phần trẻ.

Do sự hướng dẫn của ông Lý, hai người đến bàn tôi. Vì không muốn người chung quanh để ý, nên họ chỉ cười nhẹ và bắt tay tôi, chứ không nói gì cả. Khi đã ngồi, gọi thức uống xong, ông Lý hơi cúi ra giữa bàn nói nho nhỏ nhưng ra vẻ quan trọng:

- Đây là ông Cục phó, có nhã ý muốn ra gặp anh. Vậy, anh cần giải quyết hay đề bạt ý kiến gì, anh cứ nói?

Sau khi nghe ông Lý giới thiệu, tôi nhớ lại qua vài câu chuyện với Phan ở Sài Gòn lúc trước. Tôi đã biết đây là ông Nguyễn Khắc Bình, vì vậy, một lần nữa, tôi hơi nghiêng đầu tỏ vẻ được vinh hạnh gặp ông. Với hàng ria mép xén tỉa cầu kỳ, đôi mắt sâu long lanh thật sắc và làn môi hơi mím lại của ông làm tôi thấy toát ra từ ông ta một nét cương nghị. Có lẽ vì thấy tôi mãi chưa nói gì, ông mỉm cười thân mật:

- Trong người anh có được khỏe không?

- Cảm ơn ông, tôi bình thường.

Tôi chậm rãi trả lời. Mặt ông nghiêm lại, nhưng mắt ông sáng lên, ông nói rành rọt:

- Đọc bản báo cáo tường thuật chuyến đi của anh; chúng tôi thấy anh quyết định quay về như vậy là đúng. Điều đó, chứng tỏ anh là người thận trọng, cân nhắc. Vậy, sau chuyến đi vừa rồi, anh có những cảm nghĩ gì?

Tôi nhìn ông ta:

- Thưa ông, cảm nghĩ thì nhiều, nhưng có một ý nghĩ đã lấn át tất cả. Chuyến đi không thành, phải quay trở lại, dù rằng ngoài ý muốn, lòng tôi vẫn nằng nặng không vui.

Ông ta gật gật đầu, mấy ngón tay để trên bàn cũng đập nhè nhẹ theo nhịp gật. Ông mỉm cười, quay lại ông Lý như chia xẻ nhận xét:

- Chính điều đó đã thể hiện chí khí của anh. Lâu nay, chúng tôi nhìn về anh đã không sai! Bây giờ anh cần gì không? Cục sẽ sẵn sàng giải quyết cho anh!

Tôi còn đắn đo nhìn ông ta, chưa muốn trả lời vội, ông Lý đã nhỏ nhẹ thúc đẩy tôi:

- Tiện có ông Cục phó ở đây, anh có gì khó khăn, dù là còn trong ý nguyện, anh đừng ngại gì cả.

Tôi ngần ngừ là vì chưa muốn trả lời ngay, chứ không phải tôi muốn nói mà còn rụt rè. Tôi nghiêm trang nhìn hai ông:

- Tôi xin ghi nhớ sự quan tâm của hai ông đối với tôi. Hiện nay, về mặt cá nhân tôi, tôi không cần gì cả. Nhưng, về công tác, tôi muốn đề nghị với ông một vấn đề.

Mắt ông Bình hơi sáng lên, những bắp thịt phía hai quai hàm của ông động đậy liên hồi, rồi như ông khích lệ:

- Anh nói đi.

Tôi im lặng, thận trọng một lúc nữa, rồi nhìn thẳng ông:

- Qua thực tế của chuyến đi phải quay về vừa rồi, tôi thấy rằng: Sự quan sát theo dõi khí tượng của ta chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định, mà điểm đổ bộ của tôi lại vượt quá xa về cả không gian lẫn thời gian. Do đó, chúng ta không chủ động thực thi được công tác, không những bởi ngăn chặn của đối phương đã đành, mà còn bởi cả thiên nhiên nữa. Vì vậy, tôi xin đề nghị ta kéo lùi điểm đổ bộ vào Nghệ An hay Hà Tĩnh. Tuy đất lạ và sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, nhưng tôi tự thấy, tôi có thể vượt qua. Tôi chỉ cần tìm về được trục chính Quốc Lộ 1 là tôi có thể về tới Hà Nội.

Sau này, tôi đã thấy hậu quả về lời đề nghị đó, chưa nói gì về nội dung, ngay qua thái độ đề nghị của tôi, tôi bắt đầu rơi vào cái bệnh chủ quan, coi thường địch rồi.

Trong khi nghe tôi nói, ngón tay của ông Cục phó vẫn nhẹ đập trên mặt bàn càng lúc càng mau hơn; ông gật nhẹ đầu, rồi như nhiệt huyết của ông được tăng độ, ngón tay ông miết dài trên mặt bàn như dứt khoát:

- Đó là những ý kiến đi sát vào vấn đề, rất thực tế. Anh hãy về viết ngắn gọn, trình bày mạch lạc những ý kiến anh đề nghị, rồi đưa cho ông Phan hay ông Lý đây chuyển về Cục. Chúng tôi sẽ nghiên cứu ngay để giải đáp sáng tỏ đề nghị hữu lý của anh.

Ông nhìn tôi một lúc, rồi gặn hỏi lần nữa:

- Ngoài ra, anh cỏn cần đề nghị gì cho cá nhân anh?

Tôi vẫn lắc đầu nhè nhẹ:

- Xin để khi công tác trở về.

Dù tôi đã nói như vậy, nhưng ông Bình muốn thể hiện thiện cảm của ông cũng như Cục đối với tôi, ông vừa đứng dậy:

- Tôi đã chỉ thị cho ông Lý đây, bất cứ lúc nào anh gặp khó khăn gì muốn được giải quyết, anh cứ nói với ông.

Trong khi ông Lý vào quầy trả tiền nước, ông Bình bắt tay tôi thật chặt và nói nho nhỏ nhưng rất thật tình:

- Khi được báo cáo anh đi công tác trở về, tôi sẽ ra đây đón anh!

Tôi mỉm cười vì thoáng nhớ lại lời nói của ông Cục trưởng ở trường bay Tân Sơn Nhất hơn 20 ngày trước đây. Sao lại giống nhau thế! Một ông thì tận hải thuyền, một ông thì ở Đà Nẵng. Một vương vấn buồn len lỏi vào lòng tôi.

Trên đường trở về khách sạn Hồng Phát, và cả đêm hôm ấy, lòng tôi vẫn đầy vơi nhiều chuyện về đất nước và con người. Để gạt đi những nỗi niềm nặng trĩu trong lòng, nhớ đến anh bạn Lê Đức Bình. Sáng hôm sau, tôi đến số 80 đường Độc Lập, văn phòng đại diện của mỏ than Nông Sơn, gửi một lá thư nhờ chuyển ngay. Cuối tuần đó, Bình ra Đà Thành liền. Anh đến Hồng Phát gặp tôi, anh mang theo hai người bạn, giới thiệu là Xuân và Sỹ. (Bình với tôi cùng tên, khi còn ở trại Pavie la Mothe, để phân biệt, anh em gọi tôi là Bình “Follis”, vì lúc đó tôi thường đi chiếc xe máy dầu của Đức hiệu này. Còn Lê Đức Bình vì có mái tóc quăn, nên anh em gọi là Bình “Xuân”.)

Phải nói, tình bạn bè đã sưởi ấm lòng tôi. Sau mấy ngày đây đó bên nhau tâm sự anh nằng nặc đòi tôi phải vào mỏ, đê thăm nhà và vợ con anh. Anh phải về làm việc ngay, vì chỉ xin nghỉ được có 1 ngày. Tôi làm sao có thể nói cho anh biết được chuyện gió mưa của tôi, nên đã hẹn với anh vào dịp khác, cái dịp “Tết Công Gô” sau này.

Ở lại Đà Thành còn Xuân, Sỹ với tôi. Một mình Xuân một chiếc Vespa đời 62 của Ý và một chiếc Peugeot 203. Các anh cũng là những người trong giới tài hoa son trẻ của Thành Đà. Điều thích thú là, các anh và tôi đồng một sở thích:Thiên nhiên. Cho nên từ đấy, hết đi Cửa Đại, Lăng Cô, Mỹ Khê, Thăng Bình để ngắm biển cả bao la, những hoàng hôn lộng gió, những bình minh diệu kỳ mang nhiều sức sống; lại đến Ngũ Hành Sơn, Tam Kỳ, để chiêm ngưỡng cảnh núi đồi hùng vĩ. Bao những thắng cảnh của Hòn Ngọc miền Trung! Ôi, quê hương ta, tuy nghèo nàn, lam lũ đạm bạc nhưng muôn đời vẫn đẹp mãi trong lòng tôi!

Năm ngày sau khi tôi nộp bản báo cáo đề nghị, một buổi sáng, Phan đến cho tôi biết là đề nghị của tôi đã được Cục chấp nhận. Rồi, Phan hân hoan nói tiếp:

- Như vậy thì trở ngại giảm đi rất nhiều, lần này “toa” chỉ phải đi một ngày rưỡi và một đêm rưỡi, nghĩa là trong khoảng 36 tiếng thôi.

Thấy tôi ra dáng băn khoăn muốn hỏi ở đâu, Phan liền vỗ vai tôi, nói rành rọt:

- Yên tâm, vùng này là cuối tỉnh Nghệ An, giáp giới Hà Tĩnh. Đó là quê hương của đám thủy thủ, họ là thổ công ở đấy. Họ sẽ đưa “toa” vào một chỗ hoàn toàn an ninh, tha hồ “toa” nghỉ ngơi thỏa đáng cho khoẻ, rồi mới tìm vể Quốc Lộ 1.

Một phần do bản tính làm việc theo lối đại cương của Phan, phần khác, chính tôi cũng đã bắt đầu chủ quan, lơ là với những công việc mà đáng lẽ tôi phải nghiên cứu thấu đáo, cho nên tôi đã không hỏi kỹ là thuộc huyện nào, xã nào, địa hình, địa vật ra sao … Những điều cần được sáng tỏ, tôi lại không hỏi Phan, mà lại chú ý sang một điểm khác:

- Này, những người đưa thuyền họ thật chất phác. Họ phụng sự lý tưởng một cách đơn giản như lời của họ vậy, không cần phải hò hét ồn ào.

Phan cười ré lên, rồi bệ vệ đứng dậy, vừa tiến lại chiếc tủ của tôi vừa nói:

- “Toa” nhận xét đúng đấy!

Rồi như lơ đãng, cầm lọ thuốc bổ, Phan quay lại hỏi tôi:

- “Toa” uống cái loại thuốc này, thấy người khoẻ không?

Thấy tôi gật đầu, Phan rút bút ghi tên thuốc, nói:

- “Moa” sẽ bắt chước “toa” uống một trăm viên xem sao.

Sau đó chỉ là những chuyện phiếm, không còn liên quan gì đến công tác nữa. Hình ảnh của những người đưa thuyền vẫn vương vấn trong tôi, một lần nữa tôi lôi Phan về với họ:

- Ông Phan này, cái người thợ máy, trông tay chân như lực sĩ ấy nhỉ?

Phan lại cười, giơ ngón tay cái ra trước mặt:

- Y là số “dách” đấy, “moa” vẫn gọi y là “Tạc giăng”. Bất kể ngày đêm, nguy hiểm thế nào, hễ yêu cầu, y xông vào ngay.

Rồi như để ngắt câu chuyện ở đấy, Phan đứng dậy và bắt tay tôi ra về.

(*) “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Re: Thép Đen - Đặng Chí Bình

Postby SongNam » 22 Feb 2010

Tập I - Chương 14

Chuyến Đi Định Mệnh …

Sớm, muộn, rồi ngày tháng cũng đến mức ấn định. Sau một trận mưa đêm hôm trước, sáng hôm 28/5, khung trời Đà Nẵng không một vần mây. Phố phường cảnh vật như được lau chùi, rửa sạch từ đêm. Khí hậu đầu Hè dịu mát như mùa Thu.

Đã hẹn trước, 11 giờ Phan đến đón tôi, tôi đã lại lột xác của Đặng Chí Bình, một thanh niên của miền Nam tự do đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, học sinh lớp 10 bằng xương bằng thịt của vùng Vĩnh Linh khô cằn, lạc hậu, mảnh đất tuyến đầu của cái gọi là xã hội chủ nghĩa.

Hôm đó, cũng là buổi ra đi, buổi giã từ Đà Thành và cả miền Nam hiền hòa nhiều ân tình, để đi về một phương trời đầy chông gai nguy hiểm, lòng tôi thật nhẹ nhàng lâng lâng, Có lẽ một phần vì là chuyến đi thứ hai, đã giảm đi sự xốn xang hồi hộp của buổi ban đầu, nhưng vì còn một phần nữa, nằm sâu kín trong tâm tư tôi. Đêm hôm trước, nằm nghe tiếng mưa rơi, tôi đã liên tưởng đến những quãng đời khi tôi còn sống ở Sài Gòn. Từ hình ảnh những người ruột thịt thân thương, những bạn bè đầy nghĩa tình, đến những người trong Cục, tất cả đều rõ ràng như một cuốn phim lướt nhanh trước mặt. Tôi hiểu, ít nhiều đã có một số người trông chờ nơi tôi. Rồi, như một niềm thúc đẩy, ngay từ hồi đêm, tôi đã nâng quyết tâm và tự nhủ thầm, phải làm được một điều gì để không ngượng với tấm thân trai, khi đất nước còn trong cảnh chia hai xẻ ba như thế này. Đã ra đi, bằng mọi giá, mọi cách, phải đến bờ: Dù chẳng hay ho, thì cũng phải húng hắng được một vài.

Khi chúng tôi ra đến bến cũ, trong biệt khu Hải Quân, đã 11 giờ 30, mặt trời gần đứng bóng. Chiếc hải thuyền vẫn đậu bến xưa một mình trong chỗ hẻo lánh của Biệt khu.

Ngay từ còn xa, thoáng thấy xe Phan và tôi đến, dưới thuyền đã lố nhố mấy anh thủy thủ quen mặt, quần áo nâu sồng, nét mặt người nào cũng tươi tỉnh như khung trời Đà Nẵng. Khi xe ngừng hẳn, một anh đã quen như lần trước, vội chạy lên bờ, xách chiếc ba lô và vật dụng của tôi xuống. Chỉ mới một lần cùng chia xẻ hiểm nguy mà tình thân thương đồng đội đã nhanh chóng nẩy mầm giữa tôi và các anh, các bác. Những chiếc bắt tay nồng hậu, những ánh mắt long lanh gần gũi như ruột thịt anh em! Bến cũ người xưa, công việc làm lại.

Nhớ lại ban sáng, khi tôi đưa bản quy ước đón tôi (Cục và Phan muốn chính tôi viết, tôi sẽ nhớ lâu. Cục sẽ giữ bản viết này), tôi đã khẳng quyết vào ba đêm: 22, 23, và 24 của tháng Sáu. Mỗi đêm hai tiếng, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng. Đổ bộ ở điểm nào, sẽ đón ở điểm ấy. Phải phòng hờ ba đêm để dự trù trước những trục trặc trở ngại về phía tôi là chính. Có thể nhỡ xe, nhỡ tầu, trốn chạy, v.v… nghĩa là trăm nghìn thứ chưa thể biết trước. Theo quy định, cứ từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, trong ba đêm ước định, tôi sẽ dùng chiếc máy con hồng ngoại tuyến, hình dạng giống như cái ống nhòm hai ống kính, chạy bằng pin, dùng máy này nhìn ra biển. Chiếc máy cứ 30 giây, nháy sáng lên một lần, ánh sáng màu hồng xanh. Tia sáng máy này thật nhỏ, thậm chí trong đêm tối, nếu có người chỉ đứng cách xa 10 mét cũng không thấy gì. Thuyền ở ngoài khơi, cách xa hàng chục cây số, trong đêm tối, cũng dùng loại máy này nhìn vào bờ, sẽ nhìn thấy điểm sáng loé lên xanh như làn chớp, từ đó, thuyền theo điểm nháy sáng mà vào. Tôi có cảm tưởng, chúng tôi như những cô nàng và những anh chàng đom đóm bật tín hiệu để tìm nhau trong đêm khuya. Chỉ có khác là khoảng cách quá gần và quá xa.

Tôi đang bần thần nghĩ ngợi, đưa mắt nhìn những người thủy thủ đang mỗi người một việc chuẩn bị cho con thuyền sắp rời bến. Ông Phan đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng quay lại khẽ đập lên vai tôi, cười:

- Làm gì mà mặt thần ra thế?

Tôi quay lại, cũng cười, nói với Phan mà cũng như nói với ông già:

- Tôi linh cảm thấy chuyến này đi dứt khoát, phải đến bờ.

Cả hai, ông già và Phan, cùng cười. Rồi không ai bảo ai, đều ngửng lên nhìn trời, đầu hơi gật như thừa nhận lời tôi nói là có giá trị. Chẳng hiểu vì quên hay cố ý, lần này Phan lên bờ không bắt tay tôi, chỉ đứng giơ tay vẫy vẫy, khi con thuyền từ từ quay mũi rời bến.

Tâm lý của con người thật cũng lạ! Mới khi ra đây, tôi thấy lòng thanh thoát lâng lâng, thế mà lúc con thuyền rời bến, thấy Phan đứng trên bờ với chiếc xe díp. Bóng dáng Phan mặc quần áo trắng nốp, nổi bật giữa mầu xanh của cỏ cây, tôi cảm thấy ngút ngàn xa vời vợi, như hình ảnh của cả miền Nam cũng mất dần, mất dần; nhất là lúc đó một giọng hát trữ tình của một người con gái phát ra từ chiếc radio nào đó của mấy dẫy doanh trại phía mé sông, đang nỉ non réo rắt, trải dài trên sông nước buổi trưa Hè. Tôi không biết bản nhạc này, nhưng không hiểu tại sao, tôi đã nghe bản nhạc đó không bằng tai mà bằng nội tâm, lúc như tha thiết nhắn nhủ, lúc như oán trách giận hờn giống một bài ca tôi thuộc:

“Bến ấy…ngày xưa…người đi…vấn vương…biệt ly…

“Ra đi … bến xưa…ngày ấy…

“Anh như… bóng mây…hồng trôi…

“Về chốn xa vời…lòng nặng…nhớ thương…”

Thuyền đã ra xa. Tiếng hát của chiếc máy phát thanh chỉ còn văng vẳng lẫn vào tiếng máy thuyền. Tự nhiên, mắt tôi nhắm lại, tay tôi bấu chặt vào mui thuyền, rồi như có tiếng hát khác âm vang từ đáy lòng, tôi tưởng tai tôi nghe rõ:

“… Quên đi … sầu biệt ly, anh còn … đi theo gió,

“Hát buồn … nữa chi … để nhớ … người đi …”

Mặt trời đã xế về hướng Tây, vài con hải âu trắng toát đang chao đảo ngang dọc trên nền trời xanh lơ. Thỉnh thoảng, một con lại bay sà xuống, lướt qua mạn thuyền, chiếc mỏ ngúc ngắc nghiêng ngó, nửa như muốn ngừng đáp xuống, nửa như muốn chào tiễn biệt con thuyền … viễn xứ.

Nhìn về phương Nam mờ mờ chân mây, vài vạt mây màu vàng óng nằm phơi dài trên mặt nước. Không khí chiều Hè trên đại dương vẫn ẩm sệt, hăng hăng, mằn mặn. Bóng chiều của chiếc thuyền ngã dài và nhọn hoắt như một con dao, đang phạt băng băng những ngọn sóng bạc đầu. Gió càng về chiều càng lộng, khiến con thuyền càng nhấp nhô lên xuống. Trong sách vở trước đây, các văn nhân thi sĩ tả cảnh hoàng hôn trên biển cả thật là tuyệt vời. Tôi có ý định sẽ cứ đứng thế này mãi mãi, để chờ cho mặt trời chìm dần và lặn sâu xuống nước, xem thế nào. Nhưng, người tôi đã nôn nao ngất ngư bởi con thuyền rồi, vì vậy, tôi đành bỏ cái dịp ngàn năm một thuở đối với tôi này, để chui vào khoang thuyền nằm bẹp. Lúc tôi đang chuẩn bị cái thế để nằm sao cho đỡ say sóng, thì anh thợ máy, hai tay đen nhẻm dầu mỡ, từ dưới hầm thuyền chui lên. Nhìn chiếc lưng và đôi bàn tay đồ sộ của anh, tôi đanh định nở một nụ cười để chào anh “Tạc giăng” dễ mến lần trước. Tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, khi anh quay lại nhìn tôi. Anh có một khuôn mặt trẻ măng với một thân hình lực lưỡng đầy sinh lực. Anh ngập ngừng hơi mất tự nhiên. Một anh thủy thủ đang ngồi dựa một góc khoang đọc sách, có lẽ vừa nãy đã thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, nên dù tôi chưa hỏi, anh đã hất hàm về phía anh thợ máy, giọng Nghệ An nghe như hát:

- Anh lần trước, vì có chuyện gia đình, nên không đi, đây là em trai anh ấy.

Thảo nào! Như cùng đúc trong một chiếc khuôn, không những giống nhau về cơ thể mà lại còn cả về nét chất phác hiền lành. Tôi mỉm cười và gật đầu chào, như muốn trao anh niềm cảm mến. Tôi muốn nói chuyện với anh nhiều, nhưng một con sóng giật chiếc thuyền làm tôi đổ nằm xuống. Tôi đành nằm bẹp luôn! Một đêm rồi lại một ngày nữa trôi qua, tôi vẫn rã rượi nằm yên trong khoang, vừa say sóng vừa không ăn gì, tôi chỉ uống được hai ly sữa. Tôi chỉ nhớ mơ hồ vào lúc buổi trưa hôm nay, tuy thuyền đi trên mặt biển chỉ có trời với nước mênh mông, thế mà không khí oi nồng, mồ hôi của tôi ra ướt cả quần áo làm người tôi càng bứt rứt khó chịu.

Những tiếng hò hét quát tháo làm tôi tỉnh hẳn người ra, tôi bò giật dậy, định cố bò ra xem có chuyện gì, nhưng người tôi lảo đảo, hoa mày chóng mặt. Một anh thủy thủ thấy tôi như vậy nên nhanh chân lại đỡ. Tôi vịn tay anh, hỏi giật giọng:

- Chuyện gì thế?

- Có một chiếc thuyền lạ cùng đi hướng mình, nhưng cách xa từ phía trong bờ, nó bám mình hơn hai tiếng đồng hồ rồi!

Để sáng tỏ thêm tôi hỏi tiếp:

- Mắt thường có nhìn thấy không?

- Nhìn kỹ thì chỉ thấy một điểm trắng xám lẫn vào trong sóng, nhưng nhìn bằng ống nhòm, thì rõ là một chiếc thuyền có vẻ to hơn thuyền mình.

- Vừa rồi ông thuyền trưởng hò hét cái gì thế?

Anh thủy thủ nhìn tôi một lúc, rồi dè dặt:

- Anh thợ máy muốn quay mũi thuyền chạy tránh ra khơi nhưng ông già quyết định vẫn thẳng tiến!

Nghe qua sự việc, nếu tôi không mệt mỏi, chóng mặt, tôi phải quan sát cụ thể, rồi có ý kiến. Nhưng, phần vì quá mệt nhọc (ngay từ hôm trước, những khi lịm thiếp đi không kể, lúc nào tỉnh dậy, nôn oẹ mật xanh, mật vàng. Tôi chỉ mong làm sao cho chóng tới điểm đổ bộ, để tôi lên bờ, dù là nguy hiểm. Chứ cứ dập dềnh với sóng gió suốt ngày đêm như thế này, tôi còn thấy sợ hơn.) Phần khác, thấy hiện tình chưa quan trọng lắm, nên tôi nằm vật ra sàn. Tuy vậy, vì sự sống còn, tôi nằm mà bao tâm trí vẫn tập trung nghe ngóng, theo dõi thái độ của ông già thuyền trưởng và các anh thủy thủ.

Mãi đến gần 1 giờ, vẫn chẳng thấy động tĩnh gì khác. Tiếng máy thuyền vẫn bành bạch nổ rền lẫn vào tiếng ì ào của sóng biển. Để cho yên tâm khỏi khắc khoải nghe ngóng, tôi cố chống tay bò dậy, ra hiệu cho một anh thủy thủ đang ngồi gần đấy, anh tưởng tôi muốn ăn, nên đến hỏi:

- Ông muốn uống sữa?

Tôi lắc đầu, hỏi ngay điều tôi muốn:

- Chiếc thuyền lạ bây giờ ra sao?

Anh sáng mắt lên, nói gọn lỏn:

- Nó biến vào bờ rồi.

Chỉ vì lòng thấp thỏm về chiếc thuyền lạ, nên tôi mới nhỏm dậy hỏi, nghe anh nói xong như vậy, tôi lại vật ra nằm. Trời tối đã lâu, lúc này đã chín giờ, tôi vẫn vẩn vơ nghĩ lại chuyện buổi trưa. Tuy nằm mà người cứ lắc lư, nhấp nhổm như đưa võng. Kể cũng lạ, tôi rất khoái cưỡi ngữa phi nước kiệu, mà lại không nằm võng được. Tôi nghĩ có lẽ khi xưa bố mẹ đẻ ra và lúc nhỏ đã không cho tôi nằm võng chăng?

Tiếng máy vẫn đều như một bản nhạc đơn điệu đưa dần tôi vào giấc ngủ mê man vì mệt mỏi. Mãi cho đến khi có ai lay chân, tôi choàng dậy. Ông thuyền trưởng già, vẻ mặt khẩn trương, thì thào:

- Dậy đi, ông cán bộ, đã đến nơi rồi, chuẩn bị để vào bờ!

Tôi tỉnh hẳn ra, trời vẫn còn xám xịt, mịt mờ. Con thuyền vẫn nhấp nhô, tiếng sóng đập vào mạn thuyền bành bạch chắc nịch. Phía ngoài mũi thuyền, 4, 5 anh thủy thủ đang lúi húi người bơm chiếc xuồng cao su, người nắp máy nổ. Tôi hiểu giờ phút nghiêm trọng đã đến. Tôi muốn đứng dậy chui ra ngoài, mà người lảo đảo xiêu vẹo. Bác già đã đỡ cho tôi, trong khi cả hai anh thợ máy và 4 anh thủy thủ đang hạ chiếc thuyền cao su xuống nước. Giữa mặt biển bao la, ánh sáng chỉ lờ mờ, không trông rõ mặt người. Thái độ của mọi người đều vội vã, lộ hẳn nét lo âu, căng thẳng.

Ba anh thủy thủ và anh thợ máy đã xuống xuồng cao su. Do sóng lớn, thuyền cao su và hải thuyền cứ nhồi lên thụt xuống ngả nghiêng, nên mọi người phải đỡ tôi và chuyển những vật dụng tôi mang theo đưa xuống xuồng cao su. Người tôi vẫn mệt lả, đến nỗi trong lúc đỡ tôi xuống xuồng cao su, bác thuyền trưởng già và anh thủy thủ còn lại trên hải thuyền đã nắm chặt tay tôi thầm thì: “Chúa phù hộ cho anh,” mà tôi không trả lời đáp lại ân tình của họ.

Xuồng cao su đang tiến dần vào bờ. Tiếng máy ro ro rất nhỏ, lẫn vào tiếng sóng, dù ở cách mươi mét cũng không nghe thấy, nhưng có sức đẩy thật mạnh. Chiếc thuyền vẫn lướt sóng tiến dần vào đất liền. Do giờ phút quyết định đã đến, và cũng do nước biển bắn vào mặt tôi, tôi tỉnh hẳn lại, không còn thấy mệt như trên hải thuyền. Tôi muốn biết khoảng cách đến bờ còn bao xa, nên quay lại hỏi một anh ngồi cạnh. Các anh đều khoắng tay rối rít ra hiệu đừng lên tiếng, rồi một anh nghé vào tai tôi thì thầm:

- Hải thuyền xa bờ khoảng 5 cây số.

Tôi nhìn cả 4 anh, chẳng rõ mặt người nào. Tôi chỉ biết anh thợ máy, qua dáng dấp to lớn của anh đang cầm lái. Mặt nước lấp lánh như có trăm ngàn con đom đóm đang đùa bỡn trong những ngọn sóng bạc đầu, lung linh như hàng ngàn những đóa kim cương khổng lồ.

Nhìn về phía bờ xa xa chỉ một mầu đen kịt, tôi tự hỏi trong chỗ đen tối mịt mùng ấy, cái gì đang chờ tôi? Trăm ngàn cái chưa thể biết, ai trả lời được? Tôi cúi nhìn đồng hồ, 01 giờ 15 phút. Quả các anh là những người đi biển đêm có kinh nghiệm. Trước mắt, tôi vẫn thấy chỉ là một mầu đen bao la, thế mà các anh đã tắt máy, rồi hai anh một bên, dùng bốn mái chèo con, nhẹ nhàng đều nhịp đẩy chiếc xuồng đi. Chừng 10 phút, tôi đã thấy mờ mờ phía trước một vệt trắng to, thuyền đã vào bãi cát.

Hai anh đã lội xuống nước. Tôi một tay xách vội chiếc ba lô nặng trĩu vật dụng, một tay xách đôi dép râu. Nhanh nhẹn, một anh phía sau đã đỡ chiếc ba lô cho tôi, còn hai anh phía dưới đã giúp tôi (phải nói, hai anh đã bế tôi đặt hẳn lên chỗ cát khô) để tôi khỏi lội vài mét nước sát bờ. Khi họ giao chiếc ba lô cho tôi xong, bỗng một anh nắm chặt cánh tay tôi, thì thào:

- Anh đi, chúng tôi về!

Rồi các anh vội vàng lên xuồng, quay mũi chèo ra. Mãi lúc tôi định được thần trí, chiếc thuyền cao su chỉ còn mờ mờ phía ngoài đại dương.
SongNam
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $69,368
Posts: 362
Joined: 04 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng SongNam từ: TT Yen

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 86 guests