by Mười Đậu » 02 Nov 2005
Ghi chú của thuật giả.
Quốc phụ đây để chỉ Khai quốc vương Lý Long Bồ, con thứ nhì của vua Lý Thái tổ. Ngài là cột trụ của triều vua Thái tổ, Thái tông, Thánh tông. Xin đọc Anh hùng Tiêu sơn, Thuận Thiên di sử , Anh hùng Bắc cương, Anh linh thần võ tộc Việt và Nam quốc sơn hà của Yên tử cư sĩ.
Sau buổi hội yến đó, thì hơn tháng sau có chiếu chỉ ban ra phong chức tước cho thái tử, gồm cả chức văn lẫn võ:
Thái sư, Thượng trụ quốc, khai phủ nghị đồng tam tư, Phụ quốc thượng tướng quân, Lĩnh Nam tiết độ sứ, Hiển Trung vương.
Nhưng vì thái tử còn nhỏ, nên nhà vua không thể vượt luật cho mở phủ đệ riêng. Ngược lại nhà vua dùng Chiêu Linh hoàng hậu, với thái tử như những đại học sĩ làm việc bên cạnh.
Sau hơn hai năm trôi qua, thái tử đã lớn, nên được cho mở phủ đệ riêng, cho ra ở Đông cung ngoài thành, cùng lập Đông cung triều.
Phủ đệ của Đông cung được xây dựng vào đời đức Thái tổ (Nhâm Tý, DL.1012), niên hiệu Thuận Thiên thứ ba. Nguyên bấy giờ vua Lý Thái tổ mới lên ngôi, lòng dân chưa an; luật pháp, kỷ cương chưa vững. Ngài ban chiếu cầu hiền, rồi sai xây cung Long đức ngoài thành cho con trưởng là Khai Thiên vương ở, để tiếp xúc với sĩ dân trong nước, và hiểu dân tình. Tuy nhiên cung Long đức không phải là Đông cung, vì Khai Thiên vương chưa được lập làm trừ quân.
Sau khi Khai Thiên vương lên ngôi, tức vua Lý Thái tông, ngài phong cho con trưởng là Khai Hoàng vương Nhật Tông làm Đông cung thái tử, cung Long đức đổi thành Đông cung. Lúc thái tử Nhật tông đủ mười tuổi, được cho ra ở đây, làm phủ đệ riêng, tiếp xúc với sĩ dân.
Rồi thái tử Nhật tông lên nối ngôi, tức vua Thánh tông. Bởi nhà vua chưa có hoàng nam, nên Đông cung bị bỏ không một thời gian dài. Tới khi vua Thánh tông băng, thì thái tử Càn Đức mới bẩy tuổi, chưa được mở phủ đệ riêng. Đông cung vẫn không có chủ. Thái tử Càn Đức lên ngôi, sau là vua Nhân tông. Vua Nhân tông không có con trai, ngài nuôi con của em là Sùng hiền hầu tên Lý Dương Hoán, lập làm Thái tử.
Niên hiệu Thiên phù Duệ vũ thứ 6 (Ất Tỵ DL. 1125), vua cho thái tử Dương Hoán ra ở Đông cung. Niên hiệu Thiên phù Khánh thọ nguyên niên (Đinh Mùi, DL. 1127), vua Nhân tông băng, thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, sau là vua Thần tông. Bấy giờ vua Thần tông cũng chưa có hoàng nam, một lần nữa Đông cung lại vô chủ.
Niên hiệu Thiên Thuận thứ 4 (Tân Hợi, DL. 1131), vua Thần Tông âm thầm ra ngoài kinh thành thăm dân cho biết sự tình. Trong dịp này, nhà vua gặp một thiếu nữ bán hoa, sắc nước hương trời tên Hồng Hạnh. Nhà vua say mê Hồng Hạnh, rồi đón về, phong làm tu dung. Năm sau, ngày1 tháng 5 năm Nhâm Tý, tu dung Hồng Hạnh sinh hoàng tử Thiên Lộc. Nhà vua lập làm thái tử, tước phong Minh Đạo vương. Vì sinh hoàng nam, tu dung Hồng Hạnh được thăng lên thần phi. Điều này làm Thái thượng hoàng (Sùng hiền hầu) và Chiêu Hiếu hoàng thái hậu ( Đỗ phu nhân, vợ Sùng Hiền hầu) không vui, vì Hồng Hạnh là con nhà dân dã.
Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ 6 đời vua Thần Tông (Mậu Ngọ, DL. 1138), tuy thái tử Thiên Lộc mới 7 tuổi, nhưng cũng được cho ra ở Đông cung. Tháng bẩy năm đó, vua không khỏe. Biết rằng mình sắp băng, mới gọi tham tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn Thông vào để viết di chiếu cho thái tử Thiên Lộc nối ngôi. Cảm Thánh hoàng hậu muốn tranh ngôi vua cho con mình là hoàng tử Thiên Tộ, mới cùng hai bà phi Nhật Phụng và Phụng Thánh đem vàng ngọc đút cho Từ Văn Thông và dặn rằng khi nhà vua bảo viết chiếu thì báo cho ba bà biết. Quả nhiên khi vua sai viết chiếu, Thông cầm bút chần chờ, rồi mật báo cho ba bà. Ba bà vào khóc rằng : ị Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của một tu dung, xuất thân dân dã. Nếu cho Thiên Lộc nối ngôi, thì e người mẹ sẽ tiếm lấn sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con thiếp tránh sao khỏi hại Ể. Vì thế nhà vua xuống chiếu lập Thiên Tộ lên làm vua, dù bấy giờ mới 3 tuổi (tức vua Anh Tông). Nhà vua lên ngôi được hai ngày thì Chiêu Hiếu hoàng thái hậu, Cảm Thánh thái hậu đuổi Thiên Lộc ra khỏi Đông cung. Từ đấy Đông cung tiếp tục bỏ trống cho đến nay (1160) đã hai mươi ba năm.
Bây giờ Thái tử Long Xưởng đã mười tuổi, chư đại thần chiếu luật lệ xin cho ở Đông cung, lập Đông cung triều. Nhà vua chưa kịp ban chỉ, thì đã gặp sự phản đối của Thái hậu.
Nguyên sau khi Anh Vũ bị giết, phe đảng họ Lê thuộc giòng họ của thái hậu, giòng họ Đỗ của Anh Vũ...sợ bóng sợ gió Côi sơn song ưng, chúng không dám dự vào việc triều chính nữa. Kể từ khi lên ngôi đến nay là 25 năm, lần đầu tiên nhà vua nắm lại được một số quyền hành. Trong suốt hai năm qua, được các lão thần như thái sư Lưu Khánh Đàm, Tthái phó Hoàng Nghĩa Hiền, các thân vương như Trí Minh vương Lý Long Dũng, Bảo Minh hầu Lý Long Can, Bảo Thắng hầu Lý Long Hiền hết sức phò tá, nên Đại Việt đã có kỷ cương.
Công việc chỉnh đốn lại thực bận rộn. Nào tái tổ chức mười hai hiệu Thiên tử binh, tái tổ chức đoàn thị vệ. Nào giảm cung nga, thái giám, giảm chi tiêu nội cung. Nào chỉnh đốn lại hệ thống làng xã, tái phối trí hệ thống kiểm soát trâu bò. Cấm hẳn việc giết trâu, bò, dù là quốc lễ. Hóa cho nên chưa đầy hai năm, mà dân chúng no đủ, phong hóa được phục hưng. Bề ngoài, ai cũng tưởng nhà vua làm, nhưng thực ra, nhà vua chỉ làm theo lời khuyên của đại thần, thân vương, hoàng hậu, thái tử.
Thấy những thay đổi của triều đình, bọn tay chân của thái hậu gì mà không biết rằng: Nhà vua chỉ là cục bột, mọi sự ngoài triều do các quan, mọi sự bề trong do thái tử. Vì hoàng hậu bị thái hậu kiềm chế bằng độc chưởng Huyền âm, mỗi tháng bà phải đến cung Cảm Thánh xin thái hậu ban thuốc giải, nên bà đóng vai mũ ni che tai, ngớ ngớ ngẩn ngẩn. Bà muốn làm gì, khuyên nhà vua làm gì, lại rỉ tai Long Xưởng. Bọn gian cứ tưởng những gì Long Xưởng tâu xin nhà vua làm là của thái tử. Vì vậy chúngỳ càng sợ Long Xưởng. Chúng nghĩ : Bây giờ, với tài trí ấy mà thái tử mở Đông cung triều, thì thực là nguy cho chúng. Chúng tâu xin thái hậu bác bỏ việc này. Nhưng trước những luật lệ, điển chế của triều đình, thái hậu đành nhượng bộ.
Tuy nhượng bộ, mà bà vẫn không chịu thua. Bà không để hoàng hậu cũng như thái tử tuyển cung nga, thái giám, thị vệ, bộc phụ, mã phu cho Đông cung . Bà dành quyền tuyển người cho cháu. Đấy là cái khăn để che dấu việc chuyên quyền, chứ thực sự bà đem người của bà từ cung Cảm Thánh sang. Quan trọng nhất là chức thái tử mật thư tỉnh sự, bà bổ nhiệm cháu gọi bằng cô tên Lê Du vào chức này. Du tuổi đã trên năm mươi. Chức thái tử mật thư tỉnh sự rất quan trọng, tương đương với ngày nay là đổng lý văn phòng. Với chức mật thư tỉnh sự, Du coi hết văn thư, Du còn cai quản hết những người phục thị riêng cho Đông cung như thị vệ, cung nga, thái giám, thân binh, bộc phụ, mã phu và cả nhũ mẫu của thái tử nữa. Chức thứ nhì là trưởng sử, để ghi chép tất cả những gì xẩy ra trong Đông cung. Thái hậu bổ nhiệm Đỗ Anh Hạc, cháu gọi Đỗ Anh Vũ bằng chú, y thoát chết trong vụ Côi sơn song ưng xử mấy năm trước. Còn trưởng toán thị vệ, bà bổ nhiệm thằng Ba, tức Đỗ Anh Hào, con của Anh Vũ. Y chính là tên thích khách mà bà sai đến kiềm chế nhà vua hai năm trước.
Thế là nhất cử, nhất động của thái tử, bọn này đều mật tấu cho thái hậu hết. Đông cung trở thành một nhà tù giam lỏng Long Xưởng.
Nhưng có một người, bà không có quyền thay thế, ví dù bà có quyền thay thế, bà cũng không thể thay thế, đó là * Loan, người nuôi sữa của thái tử.
Luật định ra từ thời vua Thái tổ về việc tuyển * cho các hoàng tử, công chúa như sau: Khi một hoàng tử, công chúa sinh ra, thì hoàng hậu tuyển chọn lấy một phụ nữ trẻ, vợ của chức quan nhỏ, có sức khỏe, không bệnh tật, tâm tính lương thuần; đang nuôi sữa cho con, phong làm nhũ mẫu.
Nhũ mẫu của công chúa được hưởng bổng bằng trưởng toán cung nga, hàm tới tứ phẩm. Nhũ mẫu của hoàng tử, hưởng bổng bằng Lễ nghi học sĩ, hàm tới tam phẩm. Sau ba năm, nhũ mẫu được ban thưởng rất nhiều vàng bạc, lại cấp ruộng cho, rồi trả về với gia đình. Còn như vì lòng hiếu kính với người con sữa, nhũ mẫu muốn ở lại trong cung, thì vẫn được cấp ruộng, lại cũng vẫn được hưởng bổng như khi còn nuôi sữa. Người con của nhũ mẫu được phong chức nghĩa đệ hay nghĩa muội của công chúa, hoàng tử.
Nhũ mẫu của Long Xưởng họ Chu tên Thúy Loan, con của một võ quan nhỏ là Chu Minh, giữ chức sư trưởng trong hiệu binh địa phương Thiên trường. Năm mười sáu tuổi, * được gả cho một võ quan cấp tá lĩnh làm việc tại Khu mật viện tên Tăng Quốc. Năm mười bảy tuổi * sinh đứa con đầu lòng, là Tăng Khoa. Tăng Khoa vừa đầy tháng thì * được tuyển làm nhũ mẫu cho Long Xưởng. * phải mượn người nuôi sữa cho con, để nhập cung. Tuy phải xa chồng, xa con, nhưng * được hoàng hậu cực kỳ sủng ái. * ở trong một phòng trang trí sang trọng tại cung Chiêu Linh, nuôi ăn như những công chúa, hoàng tử. * cũng cấp thái giám, cung nữ hầu hạ. Chiêu Linh hoàng hậu luôn ban thưởng vàng bạc cho * vào dịp đầy tháng, đầy năm của Long Xưởng. Cứ hai ngày, * được về thăm chồng một lần.
Khi hết hạn ba năm, * Loan xin ở lại phục thị thái tử. Năm nay * mới hai mươi bảy tuổi, nhưng địa vị, uy tín của * rất lớn, vì tâm tính hiền hậu, hay giúp đỡ người. Bây giờ thái tử được phong tước vương, ra ở Đông cung, các quan chiếu luật, xin thăng * lên chức thái tử thượng thiện, tước Nhu mẫn, Đoan duệ phu nhân. Cái chức thái tử thượng thiện tuy không lớn, nhưng rất quan trọng. Với chức vụ này, * cai quản kho lẫm, tài vật, điều khiển việc nấu nướng, y phục của Đông cung. Đứa con sữa của * là Tăng Khoa được phong tước thái tử nghĩa đệ, được tự do ra vào Đông cung, được vào học ở trường Quốc tử giám. Chồng của * được thăng lên hàng tướng quân. Cả nhà * được vào ở hẳn trong Đông cung.
Gia đình * chỉ vỏn vẹn có bốn người, gồm hai vợ chồng, với Tăng Khoa, thêm một con ở bằng tuổi Khoa tên Nhài, mà * mua về mấy tháng trước. Nguyên con Nhài là con một thầy lang ở Gia lâm. Năm trước mẹ nó chết, dì ghẻ đánh đập nó quá tàn nhẫn. Hàng xóm thương tình xin cho nó làm con ở nhà *. * không muốn chiếm đoạt con của người, * gặp bố nó xin mua. Bố nó bán cho * với giá năm lạng bạc. Từ khi về với *, con Nhài rất chăm chỉ, vừa ngoan, vừa hiền, nó lại chịu khó học, nên cũng đọc thông văn tự. Nó được mọi nết, chỉ phải một tội là mặt nó rỗ chằng chịt, rất khó coi. Năm nay nó đã mười bẩy tuổi, cái tuổi mà hoa chớm nở. Con nhài trổ mã, chân tay dài, thân hình nảy nở. Ngực nở, lưng tròn dáng đi nhẹ nhàng, tiếng nói trong mà ngọt như cam thảo.
Theo hội điển sự lệ triều Lý, thì khi một người được tuyển vào hậu cung, Đông cung, thì Khu mật viện phải điều tra lý lịch. Khu mật viện cho người sang Gia lâm tìm thầy lang điều tra thì biết rằng thầy là người chất phác, ngoan dân. Kết quả con Nhài được tuyển làm người phụ nấu bếp cho * Loan. Long Xưởng dùng nó làm người hầu cận thên tín.
Vì vậy, tuy bị người của Cảm Thánh thái hậu bao vây, nhưng Long Xưởng vẫn còn bốn người thân tín là vợ chồng * Loan với đứa em sữa Tăng Khoa, con Nhài. Bề ngoài thì Tăng Khoa học văn, chơi đùa với thái tử, chứ thực ra nó là con thoi đem tin tức của thái tử cho thái sư Lưu Khánh Đàm, Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền. Nhất là nó thông báo cho Thái tử biết những gì xẩy ra ở ngoài kinh thành. Ngoài ra, trong những giờ học, Long Xưởng được trò truyện với các em trai, em gái.
Ngay hôm Hoàng hậu bị trúng Huyền âm độc chưởng của thằng Hai. Trong khi bà đau đớn đến chết đi sống lại, thì Long Xưởng nhắc :
- Thần nhi nghe nói : Khi Linh Nhân hoàng thái hậu còn tại thế, tự tay người chế ra một cái áo. Lúc nào người cũng mặc cái áo đó bên mình. Sau khi đức Nhân tông lập hoàng hậu, người trao áo đó cho, và dặn rằng : Trọn đời ta, khi thì giúp đức Thánh tông trị nước, để người bình Chiêm. Khi thì thính chính, phù tá hoàng nhi. Ta đã đem tất cả tâm huyết ra chế thành cái áo này. Nay con là Hoàng hậu, ta truyền cho con. Cái áo này, khi mặc vào có thể giúp cho mẫu nghi thiên hạ giữ được chính đạo, phò tá thiên tử. AÔo lại có khả năng chống được tất cả độc tố trong thiên hạ. Con hãy giữ lấy, sau này, đời đời chỉ truyền cho các hoàng hậu mà thôi. Vậy cái áo ấy đâu ?
- Khi được phong làm hoàng hậu, mẹ được Thái hậu trao cho cái áo ấy. Mẹ đã mặc thử, thì không thấy gì lạ cả. Mẹ lại đem ra nghiên cứu, thì chỉ thấy lớp ngoài bằng lông hồ cừu, lớp giữa bằng lụa, lớp trong cùng bằng gấm. Không có chữ hay đồ hình gì cả.
Bà lấy cái áo ấy trao cho Long Xưởng :
- Đây, di vật đó đây. Con vốn thông minh. Vậy con hãy đem về nghiên cứu xem, biết đâu trong đó không có di thư, mật kế gì để lại cũng nên.
Long Xưởng nhận áo, đem về, nhờ nhũ mẫu dùng dao nhỏ tách lơ lụa, gấm, da ra, rồi vạch từng cái lông, tìm từng nút chỉ cũng không thấy gì lạ. Một lần chán nản, vương gục đầu xuống án thư ngủ thiếp đi. Ngủ một giấc, vương giật mình thức dậy, vô ý tay đụng phải bát nước trà tươi, làm nước đổ lên lên lớp da. Vương vội lấy khăn lau nước, thì thấy lớp da lờ mờ hiện lên những giòng chữ li ti chép tất cả võ công mà Linh Nhân hoàng thái hậu đã học được : Võ công Đông a, Chu sa Nhật hồ độc chưởng, nội công Âm nhu, Không minh tâm pháp, Long biên kiếm pháp cùng võ công căn bản của phái Mê linh. Vương tỉnh ngộ, nghĩ thầm :
- Thì ra xưa kia, Linh Nhân hoàng thái hậu đã dùng một thứ mực đặc biệt chép mật thư trong lớp da này. Muốn đọc được, thì phải dùng nước trà tươi đổ lên, chữ mới hiện ra.
Vương đóng cửa, đem nước trà bôi lên khắp lớp da, rồi chép ra giấy.
Vương nghĩ thầm :
- Mẫu hậu ta là đệ tử của phái Mê linh, tuy nhiên bản lĩnh của người không được làm bao. Ta học lại mấy chiêu của người, thành ra vô dụng. Ta nghe, gần đây chưởng môn phái Mê linh là Nghi Hòa sư thái bị ám toán, viên tịch thình lình. Võ phổ của phái Mê linh bị mất, nên các tuyệt học thất truyền. Nên từ đấy, võ công phái này không còn nổi danh như xưa. Nay ta vô tình có được di thư này. Ta âm thầm luyện thành, rồi thình lình ra tay thanh toán bọn Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên, giải vây cho phụ hoàng, cho mẫu hậu.
Sợ rằng trong lúc vô tình, bị người của Thái hậu khám phá ra, Long Xưởng học thuộc tất cả di thư, rồi nhờ nhũ mẫu may các lớp da, lụa, gấm lại như cũ. Từ đấy vương đóng cửa âm thầm luyện di thư. Trong khi bề ngoài không chú ý gì đến luyện võ cả.
Trước hôm thiết Đông cung triều lần đầu, Hoàng hậu đã dặn dò Thái tử phải tối cẩn thận trong hai vấn đề: Một là tỏ ra thực nhân từ, yêu dân như yêu con. Hai là phải làm như nhu nhược, ba phải; các quan bàn gì, thì chỉ ậm ừ, không quyết đoán, để dò ý xem người nào của Thái hậu, rồi sau đó tìm lấy những người tâm huyết, trung thành mà dùng.
Ngày lễ Thượng nguyên, 15 tháng giêng, niên hiệu Đại Định thứ 21 (Canh Thìn, DL.1160), phủ Thái tử thiết Đông cung triều lần đầu tiên. Tuy Long Xưởng được thiết Đông cung triều, tức là bắt tay vào những việc chăm lo cho toàn dân, là điều mà Thái tử ước mơ, chờ đợi từ mấy năm nay... Nhưng trong lòng người thiếu niên ấy lại nặng trĩu lo âu. Bởi nếu cứ nhìn bề ngoài của chính sự, ai cũng tưởng mọi sự tốt đẹp. Nhưng trong thực tế, thì quốc sản khánh kiệt, triều đình xung đột với cung Cảm Thánh. Các quan thì chia làm hai, một nửa xu phụ Thái hậu, một nửa theo triều đình. Cái trở ngại lớn lao nhất của nhà vua cho tới Thái tử là: Bên cung Cảm Thánh, thái hậu muốn làm gì thì làm. Bà không cần đến đạo lý, điển chương, luật lệ.
Nguyên trước đây, bà cùng với Đỗ Anh Vũ áp chế nhà vua, không coi luật lệ, kỷ cương ra gì. Hai người tự tuyển cung nga, thái giám, thị vệ, mà không cần đến triều đình. Riết rồi các quan không còn tuân chỉ nhà vua, chạy theo xu phụ y với Thái hậu. May sao, Côi sơn song ưng giết Anh Vũ cùng với chân tay thân tín của y, Hoàng hậu cho bắt bọn quan lại phe đảng còn lại... Nhưng bọn quan lại này, được đội võ sĩ riêng của Thái hậu giải thoát, rồi đặt chúng trựỳc thuộc cung Cảm Thánh.
Tuy được thoát nạn, nhưng chúng cũng biết rằng, mình sống bám theo Thái hậu là ở ngoài vòng pháp luật. Nếu một mai, nhà vua dành được quyền, hay Thái hậu băng thì ba họ nhà chúng sẽ bị tru diệt. Chúng cũng nhìn thấy: Nhà vua tuy nhu nhược, nhưng Thái tử lại cực kỳ thông minh; mai này nhà vua băng hà, thì không biết những thảm khốc nào sẽ đến với chúng? Trước cái thế nguy đó, một liều ba bẩy cũng liều, chúng xui Thái hậu: Hiện Thái hậu lâm cảnh cỡi cọp rồi, dù người không muốn giết cọp, nhưng bước khỏi lưng cọp, e bị cọp cắn. Đám quan lại theo Anh Vũ, không thuộc họ Đỗ cũng thuộc họ Lê là họ của hậu. Nay Đỗ Anh Vũ chết, thì nhà vua sẽ nhân đó giết ba họ Anh Vũ, rồi không chừng giết ba họ nhà hậu nữa. Vậy nhân người của Anh Vũ còn lại, đang gặp đường cùng, Thái hậu phải chiêu mộ chúng, với anh em nhà hậu, rồi thiết lập trong cung Cảm Thánh như một triều đình riêng biệt.
Thái hậu nghe theo. Bà đưa vào cung rất nhiều đàn ông, mà trong luật cung đình, thì tại Hoàng thành không cho bất cứ người đàn ông nào vào, nếu không phải thái giám. Bà công khai chiêu mộ bọn đầu trộm, đuôi cướp; lập thành năm đội thị vệ riêng, ba đội nam, hai đội nữ. Đám thị vệ dần dần đông tới mấy trăm người, do ba cao thủ võ lâm Vương Nhất, Cao Nhị, Đỗ Anh Hào chỉ huy. Bà ban cho ba tên này mỹ danh là Nùng sơn tam anh. Cả triều đình không ai biết căn cước chúng ra sao. Cái đêm Anh Vũ bị giết, thì cả ba đang ở trong cung Cảm Thánh, nên thoát nạn. Bà còn lập hai đội nữ thị vệ do hai cung nữ tên Cảm Linh, Cảm Chi, cháu gọi bà bằng cô, chỉ huy; đó chính là hai cung nữ đã hộ vệ bà đến cung Chiêu Linh áp đảo nhà vua. Thái hậu lại luôn luôn ban chỉ trực tiếp cho các quan. Đa số các chỉ dụ đó đều trái ngược với những điều triều đình đã nghị sự.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!