Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông - Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông - Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Tác Giả: Trường Sơn Lê Xuân Nhị
---------------------------------------------------------------------------

Hồi Thứ Nhất

Từ rừng núi miền Đông Hoa kỳ xa xôi... nói về tổ tiên anh hùng.

Nhìn người trẻ hôm nay, mà hy vọng ngày mai.

Câu chuyện bắt đầu vào lúc hoàng hôn ngày 31 tháng 8 năm 1996, tại một căn nhà bằng gỗ nằm trong rừng, ngoại ô thành phố Louisville, tiểu bang Tennesse, Đông Nam Hoa kỳ. Căn nhà này là một trong hơn trăm trại được dùng làm trại hè Về nguồn, mang tên thánh Gióng tức Phù Đổng thiên vương. Đây là khu rừng, mà người ta đã khử cỏ độc, làm đường đi, dựng trại bằng gỗ thô sơ lại bắt điện, ống dẫn nước, hơi đốt, điện thoại... để cho những người thích sống với thiên nhiên, có nơi nghỉ ngơi.

Ngồi xung quanh tôi, gồm mười tám người, lớn nhất ba mươi mốt tuổi, nhỏ nhất mười bảy tuổi. Họ là một nhóm nhỏ trong số 450 người trẻ Việt, từ 11 tiểu bang tụ về. Có người gọi tôi là thầy, có người gọi tôi là bác. Trong gần năm trăm người trẻ ấy, hầu như họ đều là tinh hoa của tộc Việt trên đất Hoa kỳ. Trình độ cao nhất Ph.D, bác sĩ y khoa, dược sĩ, trình độ thấp nhất là năm cuối cùng bậc trung học. Dưới con mắt tôi, tương lai, một số trong những người này sẽ là tinh hoa của Hoa kỳ, và biết đâu lại có những tinh hoa nhân loại? Chỉ gặp nhau có mấy ngày, mà tình yêu giữa tôi và họ nảy sinh. Nói truyện với họ, tôi không phải giữ gìn, ý tứ. Họ nói với tôi như nói với cha, với anh. Tôi yêu họ như đức Thích Ca, như chúa Giê su, như Khổng tử yêu đệ tử. Họ kính tôi như người trên trong gia tộc. Giữa chúng tôi: Người lớn tuổi muốn đem tất cả hiểu biết của mình cho người trẻ. Người trẻ muốn tìm ở người đi trước những gì mình chưa có hay không có.

Những người trẻ ấy: Họ tuy sinh ở đất Việt, hưởng thụ văn hóa Việt, nói tiếng Việt; nhưng hoàn cảnh đưa họ vào một cuộc sống mới, nói một ngôn ngữ mới, hưởng một nền giáo dục mới, hành động trong một văn hóa mới. Họ tụ hội nhau bốn ngày, để nối thâm tình trong nguồn gốc con Rồng, cháu Tiên; để tìm hiểu thêm về nguồn gốc mình: để biết thêm về năm ngàn năm văn hóa của tộc Việt.

Tôi là người khách duy nhất đến từ Paris. Khác với họ, tôi đã trải qua tất cả những thăng trầm lịch sử tộc Việt trong năm mươi năm dài mà đất nước rung động. Qua mấy chục năm nghiên cứu lịch sử, tôi ngẫm ra rằng, tinh hoa của các vĩ nhân Việt hầu như đều phát tiết từ thời còn trẻ tình yêu dân tộc, tình yêu đất nước đều biểu hiện ra rất sớm. Tôi nhìn những người trẻ xung quanh tôi với những hy vọng...ước vọng...Tất cả các trại viên đều lễ độ với người lớn, dĩ nhiên với tôi. Họ gọi tôi bằng bác, hoặc bằng thầy.

Một người hỏi tôi:

- Thưa thầy, tại sao thầy lại dùng danh từ Tiêu sơn để chỉ triều Lý, và danh từ Đông-a để chỉ triều Trần?

- Huyền sử nói rằng, nhờ ngôi mộ ông thân sinh ra vua Lý Thái tổ táng vào thế đất linh ở núi Tiêu sơn, mà họ Lý làm vua trong hơn hai trăm năm. Vì vậy các văn gia thường dùng chữ Tiêu sơn để chỉ triều Lý, để chỉ thời gian họ Lý làm vua. Cũng tương tự, người ta dùng chữ Đông-a để chỉ triều Trần, thời gian họ Trần làm vua; vì trong Hán tự, đông với chữ a ghép lại thành chữ Trần.

Một người khác hỏi tôi:

- Cháu đã đọc bộ Nam quốc sơn hà của bác, thuật chiến công hiển hách nhất của tộc Việt; ban nãy bác nói rằng, sau giai đoạn cực thịnh này, thì triều Lý sẽ tàn và triều Trần bắt đầu. Thưa bác, ai đã làm cho triều Lý suy tàn, và suy tàn từ bao giờ?

Tôi nhắm mắt lại để nhớ những gì đã đọc, rồi khoan thai kể
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: mem2500, lochness

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Hồi Thứ Nhất

Thiên mệnh an bài

Kể chuyện xưa, như tấm gương cho tuổi trẻ

******

Trời trấn Thiên trường, vào tiết tháng chạp, đang mưa phùn, gió bấc, lạnh buốt, cái lạnh xé da, cắt thịt; tự nhiên mây quang, mưa tạnh, nắng chói chang, ấm áp. Dân chúng đổ xô ra đường, người người chen nhau; xe, ngựa tấp nập, để sắm tết.

Từ trong một trang trại lớn, ba người đàn ông, một già, hai trung niên khoan thai rảo bước, ngắm nhìn dân chúng. Mỗi người dân gặp ba người đều cung cung, kính kính chắp tay chào:

- Kính chào Trần lão, nhị thiếu tiên sinh.

- Thưa ba tiên sinh.

- Kính cụ ạ! Kính hai ông ạ.

Ba người cứ phải luôn luôn đáp lễ. Có người ba vị chỉ chào lại rồi đi. Cũng có người, ba vị hỏi thăm đôi điều:

- Thế nào cụ lễ Ôn, vụ mùa năm nay mấy mẫu nếp của cụ trúng to. Cụ vui lòng chứ?

- Đa tạ Trần lão tiên sinh. Nhờ lão tiên sinh cho mượn không mười công trâu cùng cho tiền mua mấy chục gánh phân, nên mới trúng mùa, mà trong nhà tôi có đồng ra đồng vào.

- Ông hương Hoạt, nghe nói mấy trăm chậu quất của ông năm nay đều kết trái sai lắm phải không? Tết đến nơi rồi, đã bán hết chưa?

- Đa tạ Trần nhị tiên sinh. Nhờ Trần nhị phu nhân dạy cho cách tỉa cành, bón phân, mà năm nay tôi được mùa quất.

Đó là ba cha con. Người cha tên Tự Kinh, chưởng môn nhân phái Đông-a, một phái võ người đông, thế mạnh bậc nhất Đại Việt. Năm nay, ông đã đi vào tuổi bẩy mươi nhưng nhờ nhiều đời tiền nhân luyện tập võ nghệ nên ông vẫn còn khỏe mạnh như thời trai tráng, tinh thần linh mẫn. Hai người con của ông, một người tên Trần Tự Hấp, một người tên Trần Tự Duy, cả hai tuổi xấp xỉ ba mươi. Tự Hấp, Tự Duy đều thành hôn với sư muội đồng môn.

Tự Hấp cùng vợ tên Anh Hoa, là sư huynh sư đệ đồng môn; thường hành hiệp giúp đời, nay đây, mai đó, ít khi có nhà. Còn Tự Duy với vợ là Lưu Kim Huệ thì ở nhà giúp đỡ cha điều hành môn phái, phụng dưỡng song thân. Nay nhân cuối năm, Tự Hấp cùng vợ được thư cha gọi về quê khẩn cấp để ăn tết, và họp môn phái, quyết định một việc tối quan trọng. Nơi họp, như thường lệ, là chiếc du thuyền của môn phái đậu trên bến Vỵ hoàng.

Cũng như các buổi họp khác, môn phái bao giờ cũng giữ bí mật, chư đệ tử âm thầm từ các nơi tề tựu tại du thuyền trước, rồi cha con Tự Kinh rủ nhau xuống sau, giả đi một vòng phạm vi của môn phái, thăm dân cho biết sự tình.

Nguyên sáng tổ của phái Đông-a xuất thân là một chú bé thợ săn mồ côi ở núi Tiêu sơn, thuộc lộ Kinh Bắc tên Trần Tự Viễn. Chú thợ săn mồ côi ấy, vô tình học được Thiền công chính tông từ ngài Pháp Hiền rồi nhân bắt chước những thế vồ của hổ, mà chế ra hổ quyền; nhân xem chim ưng bắt rắn, rắn chống lại, mà chế ra Ưng xà quyền... cùng các chiêu thức, mà trở thành tổ sư của ngoại công phái Tiêu sơn. Sau đó, ông di về Thiên trường lập ra phái Đông-a. Vì vậy võ lâm Đại Việt mới nói: Nội công phái Đông-a xuất ra từ phái Tiêu sơn, ngoại công phái Tiêu sơn phát ra từ phái Đông-a. Trong suốt bao nhiêu năm, phái Đông-a bao giờ cũng phải nhường bước cho phái Tiêu sơn, là nơi phát xuất của vua Lê Đại Hành, vua Lý Thái tổ. Trải 700 năm, đến đầu thời Lý (1010 - 1077) thì trong phái nảy ra một thiên tài võ học lỗi lạc là Trần Tự An; ông đã đào tạo ra những đại cao thủ làm lên sự nghiệp kinh thiên động địa như: Thiên trường ngũ kiệt; Côi sơn tam anh; Khai Quốc Minh từ, Anh văn, Linh cảm quốc mẫu Thanh Mai; Mộc tồn vọng thê hòa thượng Thông Mai; Kinh Nam vương Tự Mai. Từ đấy phái Đông-a trở thành Thái sơn Bắc đẩu Lĩnh Nam cho đến nay.

Kể từ sau cuộc kháng Tống, mỗi khi bổ nhiệm quan lại trong khu vực Nam Thăng long, cho tới cố đô Trường yên, bao giờ triều đình cũng cử những đệ tử của phái Đông-a. Trong vùng này, phái Đông-a tổ chức cai trị dân chúng như một quốc gia riêng: Thuế nhẹ, không có nạn cường hào, không có tệ tham. Vì vậy, dân chúng các nơi tụ về ngày càng đông, hóa cho nên trải 80 năm, phạm vi ảnh hưởng của phái này cực rộng.



Tới bờ sông, ba cha con xuống du thuyền lớn đang đậu ở đó, trên mũi thuyền có chữ Đông-a thực lớn. Nhìn cột buồm treo lá cờ thêu hình con chim ưng xòe cánh bay giữa đám mây, Tự Hấp nói với em:

- Này chú hai, vùng Thiên trường này nhờ thế lực của phái Đông-a nhà mình, mà có an ninh, quan lại không dám nhũng lạm, cho nên dân chúng sung túc, ấm no. Chứ các vùng khác thì dân khổ cơ hồ muốn sống không nổi, muốn chết cũng không xong. Nào quan lại tham ô, nào cường hào áp chế, nào trộm cướp như rươi. Bởi vậy có nhiều thuyền buôn họ cũng thêu cờ có hình chim ưng của nhà mình, rồi kéo lên để dọa bọn trộm cướp.

Tự Duy hỏi:

- Thế họ có bị chúng khám phá ra không?

- Hồi đầu chúng tưởng thực, mỗi khi chúng thấy kỳ hiệu của mình thì tránh xa. Nhưng vì có những người mạo danh vụng về, để cho một vài bọn cướp biết, chúng chém giết tàn nhẫn vô cùng. Chính vì vậy, có lần anh đi trên thuyền, cho kéo kỳ hiệu lên, chúng tưởng rằng giả, chúng định đánh cướp.

Tự Duy bật cười:

- Vậy anh chị có giết chúng không?

- Khi thấy chúng hối lỗi van xin, anh tha cho chúng. Nhưng chị đánh cho mỗi tên một chiêu Bức mạch, rồi hẹn chúng phải mua hai nghìn đấu gạo phát cho người nghèo, bấy giờ chị mới giải Bức mạch nội lực cho.

Ba cha con xuống thuyền. Đây là một con thuyền lớn, thời bấy giờ gọi là thuyền đinh.

Thuyền đinh thới Lý thường dài khoảng bốn trượng đến mười trượng (8 m tới 20 m) Thuyền có ba tầng, tầng thấp nhất là đáy thuyền, chia làm nhiều khoang, các khoang ngăn cách nhau bằng những vách gỗ kiên cố, mục đích để lỡ thuyền bị thủng, nước chỉ tràn vào ngăn vỡ mà thôi. Mỗi khoang đều có cửa sổ để tát nước. Những khoang này dùng để chứa các chum (lu) đựng nước ngọt khi vượt biển, hoặc lương thực, than, củi đun. Tầng giữa chia làm hai ba phòng khác nhau, đây là nơi sinh hoạt chính của người đi thuyền. Tầng trên cùng, thực ra chỉ là cái chòi cho thuyền trưởng, tài công lái thuyền. Thuyền có nhiều phu chèo. Phu chèo ngồi trên sàn. Nhưng đa số những di chuyển của thuyền đều dùng sức gió đẩy vào buồm.

Con thuyền đinh của chưởng môn nhân phái Đông-a thì không dùng thuyền phu, đầu bếp, tài công, tỳ nữ là người ngoài. Tất cả các công việc trên du thuyền này đều là đệ tử trong môn phái đảm trách.

Viên thuyền trưởng tên Tô Trung Sách tuổi còn trẻ, y mở cửa thuyền cúi rạp người xuống:

- Xin kính thỉnh sư phụ, nhị vị sư huynh.

Tự Hấp vỗ vai y:

- Tô tiểu sư đệ, hồi này dung quang chú khác thường quá. Anh thực là đoảng, năm trước chú cưới vợ đúng lúc anh đang ở Trung nguyên, thành ra không dự được. Hôm nay anh phải uống với chú mười chung để chuộc lỗi.

- Đa tạ sư huynh. Năm trước tuy sư huynh không về, nhưng sư tỷ cũng gửi cho đệ đôi vòng bích ngọc. Vợ đệ thích lắm.

Ba cha con theo sự hướng dẫn của Trung Sách vào trong khoang thuyền chính. Trong khoang đã có năm nam, hai nữ ngồi đó từ bao giờ. Cả bẩy người đều đứng dậy cung tay:

- Tham kiến sư phụ.

Tự Kinh vẫy tay:

- Các con ngồi xuống đi, miễn lễ.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Tự Kinh có hai con trai là Tự Hấp, Tự Duy, và năm nam đệ tử, hai nữ đệ tử. Hai nữ đệ tử chính là vợ của Tự Hấp, Tự Duy.

Tự Kinh với hai con trai, hai con dâu, năm đệ tử cùng ngồi quanh cái án thư lớn.

Trung Sách gọi tỳ nữ đem hoa quả ra, cùng pha trà. Tự Kinh chỉ chiếc ghế cuối bàn cho Trung Sách:

- Con ngồi đó đi. Con tuy là đệ tử út của ta, nhưng năm nay tuổi đã trên ba mươi, thì mọi truyện trong môn phái con cũng phải tham dự để biết.

- Đa tạ sư phụ.

Tự Kinh thấy trong khoang thuyền có năm nữ tỳ, mặt ông hơi cau lại hỏi Tự Duy:

- Con! Hồi đầu tháng mười một, bố đã dặn con rằng : Tất cả lực điền, bộc phụ, tỳ nữ, mã phu trong trang, con cho họ về quê nghỉ ăn tết từ rằm tháng chạp, tới rằm tháng giêng. Bố cũng nhắc nhở rằng trong dịp này con vẫn phát lương cho họ đầy đủ, tặng thêm cho một tháng lương; đặc biệt cấp thêm ít tiền đi đường, cùng cho mỗi người ít đấu gạo nếp tía là sản phẩm đặc biệt của Thiên trường. Nay sao trong thuyền này còn tới năm tỳ nữ?

- Thưa bố, năm con bé này không phải là tỳ nữ bình thường. Nguyên nhà chúng nghèo, bị bán làm tỳ thiếp cho bọn khách thương. Bọn khách thương định đem về Trung nguyên làm kỹ nữ. May mắn thay, dọc đường gặp anh chị Tự Hấp giải thoát rồi cho về với gia đình. Nhưng năm con bé này không dám về, sợ bọn khách thương kiện cáo với quan nha bắt bớ bố mẹ chúng. Anh chị mới gửi chúng về ẩn tại trang nhà mình. Do vậy tuy tết đến, chúng nhớ nhà nhưng cũng không dám về.

- Các con hành xử như thế thì đúng với hiệp nghĩa, nhưng không đủ đức nhân.

Anh em Tự Hấp, Tự Duy cùng đứng dậy cung tay:

- Chúng con xin nghe lời giáo huấn của phụ thuân.

- Này Tự Hấp con! Tự hậu, nếu con gặp trường hợp tương tự, sau khi ra oai cho bọn khách thương rồi, thì con phải hỏi xem chúng mua người mất bao nhiêu tiền? Con bồi hoàn cho chúng, rồi đưa bọn con gái khốn nạn này về với cha mẹ. Như vậy, có phải mình vừa có cái hiệp, vừa có cái nhân không?

- Dạ, con xin ghi lời dạy dỗ của phụ thân.

Ông gọi năm tỳ nữ:

- Các con lại đây!

Năm tỳ nữ cung kính chắp tay đứng trước Tự Kinh. Ông chỉ vào cái ghế dài:

- Các con ngồi đó đi.

Ông ôn tồn hỏi:

- Tết đến nơi rồi, các con có nhớ nhà không?

Lập tức mắt cả năm đứa đều ênh ếch những nước như muốn khóc:

- Thưa lão gia chúng con đều nhớ nhà, nhưng muôn ngàn lần chúng con không dám về thăm cha mẹ. Vì sau khi tiểu lão gia cứu chúng con ra, bọn khách thương vu vạ rằng chúng con bỏ trốn rồi thưa lên quan. Trong khi đó thì bố mẹ chúng con lại thưa rằng chúng đem bọn con về Trung nguyên. Cho nên quan nha đang truy lùng bọn con dữ lắm. Nếu như bây giờ bọn con trở về thăm nhà, thì bố mẹ chúng con bị lôi thôi to.

Dù là chưởng môn nhân một môn phái nức tiếng Hoa-Việt, dù từng hành hiệp trên năm mươi năm, Tự Kinh rơm rớm nước mắt bảo vợ chồng Tự Hấp :

- Tự Hấp, Anh Hoa! Bố thấy năm trẻ này khuôn mặt thanh tú, lại lâm cảnh khốn nạn. Các con nên nhận chúng làm con nuôi, rồi gắng công dạy dỗ chúng, sau đó ta kiếm chỗ gả chồng cho chúng, chẳng là điều nhân ư?

Tự Hấp, Anh Hoa cúi đầu:

- Chúng con xin tuân lời phụ thân.

Năm tỳ nữ nghe cha con Tự Kinh đối thoại thì mừng chi siết kể. Bởi danh tiếng phái Đông-a cực lớn, chỉ cần được làm người dân trong trang thôi, thì một là không có nhà sẽ được cấp nhà, hai là không có ruộng sẽ được cấp ruộng, ba là không bao giờ bị cường hào ác bá ức hiếp, bốn là không bao giờ bị quan lại nhũng lạm. Bây giờ được làm con nuôi của con cả chưởng môn, bỗng chốc trở thành một đại tiểu thư, thì đến nằm mơ chúng cũng không tưởng tượng nổi.

Năm người đến trước Tự Kinh quỳ gối lạy bốn lạy:

- Nội tổ.

Lại lạy vợ chồng Tự Hấp:

- Nghĩa phụ, nghĩa mẫu.

Tự Kinh vuốt tóc năm thiếu nữ:

- Các cháu ơi! Tại sao các cháu lại dùng tiếng Nội tổ, Nghĩa phụ, Nghĩa mẫu mà không dùng tiếng Ông nội, bố mẹ? Lại nữa, con thì là con, chứ không có cái việc phân chia con đẻ, con nuôi. Vậy thì cũng không còn cái gì là nghĩa phụ, nghĩa mẫu nữa.

Năm thiếu nữ hành bốn lễ với vợ chồng Tự Duy:

- Chúng cháu ra mắt chú thím.

Anh Hoa chỉ các sư đệ:

- Các con mau hành lễ với các sư thúc đi.

Năm thiếu nữ lại hành lễ:

- Chúng cháu ra mắt chư vị sư thúc.

Tự Kinh vui vẻ nhìn năm đứa cháu nội mới, ông suy nghĩ một lát rồi nói:

- Bây giờ ông đặt tên cho bốn cháu. Các cháu nhớ, từ ngày hôm nay các cháu đều mang họ Trần đấy nhá. Ông chỉ vào thiếu nữ lớn tuổi nhất:

- Dáng người cháu thanh thoát, giống như chim anh vũ, ông cho cháu mang tên Hoàng Anh.

Ông chỉ vào thiếu nữ da trắng mịn:

- Ông đặt cho cháu tên là Bạch Hạc.

Ông chỉ vào thiếu nữ có mái tóc đen dài óng mượt :

- Ông đặt cho cháu tên là Huyền Mi.

Ông chỉ vào hai thiếu nữ còn lại:

- Ông thấy cháu ríu rít như con sẻ, vậy thì tên cháu là Thanh Tước. Còn cháu, cháu nhỏ nhất, nhẹ nhàng như chim yến, da dẻ hồng hào, ông cho cháu tên là Hồng Yến.

Trong khi cha con, ông cháu nói truyện thì con thuyền dương buồm cỡi sóng đi dọc con sông Phú lương (Hồng hà).

Tự Kinh bảo Tô Trung Sách:

- Trước khi chúng ta bàn truyện đại sự, con nên kiểm soát lại một lượt. Tường có mạch, bức vách có tai.

Trung Sách đứng dậy đi một vòng các khoang, sàn thuyền bánh lái, rồi trở vào:

- Trình sư phụ, hoàn toàn an ninh.

Tự Kinh đưa mắt nhìn các con, các đệ tử một lượt rồi lên tiếng:

- Nhân dịp cuối năm ta cho triệu hồi các con về đây trước là để ăn tết, hai là để kiểm điểm lại tình hình Đại Việt ta.

Ông bảo Tự Hấp:

- Trước hết con hãy trình bầy tình hình triều đình ra sao đã.

- Thưa bố, tình hình triều đình thực nát bét, nếu không có gì thay đổi, e chỉ mấy chục năm nữa thì đất nước này sẽ loạn to. Đại Việt ta sẽ cứ phải cúi đầu trước Trung nguyên và lùi bước trước Chiêm thành.

- Con hãy tóm lược tình hình kể từ khi vua Nhân tông băng hà đến giờ cho bố nghe.

- Sau khi ta thắng Tống, bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết dẫn tàn quân về nước; triều đình mau chóng tổ chức, kiến thiết lại đất nước (1077). Do vậy dân giầu nước mạnh. Phía Nam, Chiêm tiến cống. Phía Tây, Lão qua tuân phục. Phía Bắc Tống phải nể sợ. Đất nước trải qua 50 năm cường thịnh. Niên hiệu Thiên phù Khánh thọ nguyên niên (Đinh Mùi 1127) nhà vua băng, miếu hiệu là Nhân tông. Trước đây nhà vua không có hoàng nam, lập con của người em là Sùng hiền hầu, do phu nhân Đỗ thị sinh ra, tên Dương Hoán lên làm thái tử. Thái tử Dương Hoán nguyên là thánh tăng Từ Đạo Hạnh thác sinh. Tự Kinh muốn cho các cháu nuôi cảm thấy là cháu thực sự, chứ không phải là tỳ nữ, ông hỏi chúng:

- Có cháu nào biết về sự tích này không?

Hồng Yến lễ phép:

- Thưa ông cháu biết ạ.

- Cháu kể ông nghe thử?

- Nguyên thánh tăng Từ Đạo Hạnh rất thân với Sùng hiền hầu. Một hôm hầu than với ngài là hầu không có con trai, ngỏ ý muốn đi cầu tự. Ngài hứa giúp, rồi dặn hầu rằng: Khi nào phu nhân trở dạ thì báo cho ngài biết. Đến ngày phu nhân trở dạ, cứ đau bụng hoài mà không sinh. Hầu nhớ lời dặn, vội cho người phi ngựa báo cho ngài. Ngài bèn tắm rửa rồi vào hang núi hóa thân, xuất hồn nhập vào thai nhi. Bấy giờ phu nhân mới sinh. Xác của ngài hiện vẫn còn ở hang Thạch thất, núi Sài sơn.

Tự Kinh khen:

- Cháu tôi giỏi quá. Được rồi Tự Hấp tiếp đi.

- Đúng lúc vua Nhân tông băng, thì bên Trung nguyên xẩy ra biến cố: Một bộ tộc phía Bắc Trung nguyên cường thịnh, thành lập nước Kim. Kim liên minh với Tống đánh chiếm nước Liêu. Liêu bị diệt, Kim vi ước, thuận thế tràn vào Trung nguyên chiếm vùng đất của Liêu đã lấn của Tống trước kia đã đành, mà còn tiến quân đánh Tống. Người Kim chiếm Biện kinh, bắt vua Huy tông, Khâm tông đem về Bắc. Một hoàng tử, em của Khâm tông tên Triệu Cấu vượt sông Trường giang, xuống Nam kinh, họp quân tái lập triều Tống, võ lâm gọi là triều Nam Tống.

Tự Duy hỏi:

- Bấy giờ các văn thần võ tướng Đại Việt đâu mà không nhân dịp này chỉ cờ lên Bắc, tái chiếm lãnh thổ thời vua Hùng, vua Trưng?

- Một là, trong triều đang có tang vua Nhân tông. Hai là, các tướng giỏi thời Anh vũ Chiêu thắng người thì chết, kẻ thì quá già, nên không ai bàn tới. Ba là, vua mới lên ngôi tuổi chưa quá 12 , nên triều đình chỉ biết an phận. Nhà vua lên ngôi, bị ác tật, được Minh Không đại sư trị khỏi, nhưng chỉ làm vua được có 11 năm thì băng hà, miếu hiệu là Thần tông. Thái tử Thiên Tộ, mới ba tuổi lên ngôi vua (Sau khi băng, miếu hiệu là Anh tông). Chiêu Hiếu thái hoàng thái hậu là Đỗ thị (Vợ Sùng hiền hầu, mẹ Thần tông), Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê (vợ vua Thần tông) làm phụ chính. Tất cả những suy đồi của triều đình bắt đầu từ hai người đàn bà này.

Thuật đến đây, Tự Hấp thấy gương mặt phụ thân hiện ra nét buồn, ông vẫy tay cho con ngừng lại, mắt ông nhìn về cuối giòng sông. Một lát sau, ông cất tiếng trầm trầm :

- Từ trước đến nay, sư phụ với các con cùng không muốn nói đến việc ấy. Thôi, con bỏ qua đi. Người ấy bây giờ ẩn thân ở bên Trung quốc, xa lánh mọi người. Ta chẳng nên nói tới làm gì.

- Dạ.

Các đệ tử cùng ngơ ngác nhìn nhau, tự hỏi : Không biết việc vua Thần tông băng, đã xẩy ra việc gì, mà khiến cho sự phụ nhớ tới là buồn lòng. Còn người ấy là ai ? Có liên hệ gì với sư phụ ?

Đại đệ tử của Trần Tự Kinh là Quách Tử Minh hỏi:

- Sư đệ, gốc tích hai người đàn bà này ra sao?

- Chiêu Hiếu thái hoàng thái hậu họ Đỗ, là chính phi của Sùng Hiền hầu, sinh ra vua Thần tông. Hồi vua Thần tông lên ngôi, thì Sùng Hiền hầu được tôn làm thái thượng hoàng, rồi phụ chính, vì vậy bà không thể can dự vào chính sự. Nay con bà là vua Thần tông băng, cháu nội mới ba tuổi lên ngôi vua; con dâu bà là Cảm Thánh hoàng thái hậu mới hai mươi tuổi, lại xuất thân trong gia đình tiểu lại, nên bà có cớ xen vào việc triều chính.

Tự Hấp ngừng lại cho mọi người theo kịp rồi tiếp:

- Còn truyện Cảm Thánh hoàng thái hậu thì hơi dài giòng. Nguyên khi Thần tông lên ngôi, tuy tuổi mới mười ba, nhưng mẹ là Chiêu Hiếu hoàng thái hậu đã tuyển cho một lúc hơn chục bà vợ ở lứa tuổi mười đến mười ba. Trong những phi tần đó , thì con gái Lê Xương xinh đẹp hơn hết, lại được lòng Chiêu Hiếu hoàng thái hậu, nên bà muốn lập làm hoàng hậu. Nhưng triều thần phản đối, vì cha cô chỉ là một chức quan quá nhỏ. Hơn nữa Lê thị là người thất học, nói năng thô lỗ cọc cằn, không xứng với ngôi mẫu nghi thiên hạ. Vì vậy bà chỉ có thể phong cho Lê thị làm Minh Bảo phu nhân. Bất đắc dĩ bà phải phong con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn làm Lệ Thiên hoàng hậu. Hơn năm năm sau, Lý Sơn được thăng chức Phiêu kỵ thượng tướng quân rồi đổi đi trấn ở Bắc cương. Một đêm, Lệ Thiên hoàng hậu không bệnh mà băng, bấy giờ bà mới mười sáu tuổi. Ngự y nói rằng, bà bị cảm mạo mà qua đời. Nhưng ngõ tác khâm liệm hậu thì biết rằng bà bị đánh một Huyền âm chưởng vào đầu. Sau khi Lệ Thiên hoàng hậu băng, thì Minh Bảo phu nhân được phong làm Cảm Thánh hoàng hậu.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Tự Kinh hỏi:

- Có chắc là Huyền âm chưởng không ? Ta tưởng từ khi Trường bạch song hùng chết rồi, thì chưởng này bị tuyệt tích, mà nay lại thấy xuất hiện ở Hoàng thành ! Kể cũng lạ.

Anh Hoa khẳng định :

- Thưa bố, chính mắt con đã được thấy di thể Hoàng hậu. Thân thể bà chương phình lên, da xám đen, người lạnh như băng.

- Các con nghĩ sao?

Đệ nhị đệ tử của Tự Kinh tên Vũ Tử Mẫn là người uyên thâm Nho học, mưu trí trùm hoàn vũ, ông ứng lời sư phụ:

- Huyền âm chưởng nguyên là võ công của phái Trường bạch bên Trung nguyên. Kể từ khi Trường bạch song hùng bị Phò mã Thân Thiệu Thái đánh bại, tổ phụ xin phò mã tha mạng sống cho họ, rồi giam lỏng trong trang Thiên trường nhà ta. Cho đến khi hai ông qua đời, con thì còn thơ, đệ tử thì không có. Sao chưởng này lại có thể lưu truyền được? Việc này ta phải điều tra cho ra manh mối, bằng không, thì phái Đông-a nhà ta mang tiếng không ít.

Mọi người đều gật đầu đồng ý. Vũ Tử Mẫn tiếp :

- Theo đệ tử nghĩ, Lệ Thiên hoàng hậu bị ám toán, do việc tranh quyền trong nội cung họ Lý. Đây là việc của triều đình, mà từ Thái hậu cho tới nhà vua đều nhắm mắt bỏ qua, thì mình cũng không nên can thiệp vào. Muốn tìm ra thủ phạm, thì ta chỉ việc đặt câu hỏi: Lệ Thiên băng thì ai được hưởng lợi là biết ngay.

Tự Kinh gật đầu tỏ ý công nhận Tử Mẫn có lý. Ông nhắc con:

- Tự Hấp tiếp đi.

- Lý Sơn nghe tin con gái bị ám toán, ông từ Bắc cương về triều xin điều tra nội vụ. Thái hoàng thái hậu triệu ông vào cung ban yến, an ủi. Nhưng ngay đêm đó trở về, ông mửa ra máu mà chết, người nhà cáo với triều đình rằng ông bị đầu độc.

Tự Kinh lắc đầu:

- Quá lắm rồi, con tiếp đi.

- Thái tử Thiên Tộ lên ngôi vua, lấy hiệu là Đại Định (sau là vua Anh tông), phong cho em trai của Chiêu Hiếu thái hoàng thái hậu tên Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lệnh tri nội ngoại sự. Thế là triều đình có ông vua còn bế ngửa ngồi trên, hai bà thái hậu cầm quyền ở trong, và một ngoại thích ở ngoài chuyên quyền.

Tự Kinh hỏi :

- Đỗ Anh Vũ xuất thân từ đâu ?

- Y là ngoại đồ của phái Tiêu sơn. Sư phụ của là Khánh Hỷ đại sư, thủ tọa Vạn Hạnh đường.

Đệ tam đệ tử cua Tự Kinh là Cao Tử Đức hỏi:

- Sư huynh, đệ đã đọc tất cả thư tịch về quan chế Đại Việt cũng như Trung nguyên, chưa từng nghe nói đến chức Cung điện lệnh tri nội ngoại sự bao giờ cả. Chức này là chức văn hay võ? Cao hay thấp hơn thượng thư?

- Đấy, mối loạn từ cái chức này sinh ra. Nguyên Đỗ thái hoàng thái hậu muốn thu trọn quyền, bà cần có một người nắm cả văn lẫn võ thân tín ở bên cạnh. Chức này phải cao hơn tể tướng, trong khi Anh Vũ chức quá nhỏ, không thể phong cho y được. Vì vậy bà mới nặn ra cái chức quái gở là Tri nội ngoại sự, tức được quyền can thiệp cả trong nội cung lẫn triều đình. Từ đấy mọi quyền hành, đều do Anh Vũ ban phát cả, hóa cho nên, dưỡng tử của vua Nhân tông là Thân Lợi mới nổi loạn. Bốn trong mười hai hiệu Thiên tử binh theo Thân Lợi, nội chiến trong hai năm thì Thân Lợi bị diệt. Sau cuộc nội chiến, bốn hiệu binh theo Thân Lợi tan rã, tám hiệu khác theo triều đình bị hao hụt quá nửa. Anh Vũ cho giải tán Thiên tử binh, y tuyển mấy nghìn cấm binh gọi là Phụng quốc vệ để giữ kinh thành mà thôi.



Cử tọa đều lắc đầu, tỏ vẻ lo lắng.

Tự Kinh than:

- Mười hiệu Thiên tử binh là mười đạo binh được Khai Quốc vương cùng các anh hùng thời vua Thái tông, Thánh tông bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết tổ chức, huấn luyện; từng bình Chiêm, phạt Tống, bao năm qua... phút chốc do hai mụ đàn bà thất học mà tan rã. Ôi! Thực đau đớn thay. Con tiếp đi.

- Niên hiệu Đại Định thứ tám (Đinh Mão, 1147), nhà vua đã 12 tuổi, nhân cơ thể suy nhược, quan thái y tâu Thái hoàng thái hậu cho nhà vua tập võ, hầu thân thể khỏe mạnh. Thái hoàng thái hậu cử một hoàng thúc tên Lý Long Vũ dạy nhà vua. Nhà vua luyện võ được sáu tháng thì nổ ra vụ Anh Vũ tư thông với Cảm Thánh Lê thái hậu. Nhà vua ra lệnh bắt Anh Vũ đem chém, nhưng võ sĩ không ai tuân chỉ, vì chúng đều là chân tay y. Nhà vua hô Long Vũ bắt y. Long Vũ phải đánh tới hơn tám mươi chiêu mới hạ được y. Y chạy thoát sang ẩn ở cung Quảng từ của Thái hoàng thái hậu. Thái hoàng thái hậu ban chỉ triệu nhà vua với Long Vũ vào cung Quang từ, an ủi rằng : Cái vụ y tư thông với Lê thái hậu là do người ta bịa đặt, rồi xin nhà vua tha cho Anh Vũ. Nhưng ngay ngày hôm sau, Anh Vũ giả chiếu chỉ vua, sai cấm binh giết cả nhà Long Vũ. Từ đấy Thái hoàng thái hậu ban chỉ cấm không cho các hoàng tử, công chúa, cung nga tập võ. Lại có chỉ rằng, tự hậu khi tuyển thái giám, cung nga, thì những người biết võ không được dự. Tháng mười một năm ấy, Thái hoàng thái hậu bắt quả tang Anh Vũ tư thông với Cảm Thánh Lê thái hậu. Ngay đêm đó, thái hoàng thái hậu băng, Anh Vũ cáo với triều đình rằng bà bị cảm mạo mà qua đời. Nhưng thực ra bà bị đánh một Huyền âm chưởng.

Tô Trung Sách hỏi:

- Như vậy thì chính Đỗ Anh Vũ đã giết chị mình rồi! Cái người xử dụng Huyền âm chưởng hẳn có liên hệ với Anh Vũ. Tội giết Thái hoàng thái hậu thực không nhỏ, thế các quan đâu mà không chặt đầu y đi cho rồi. Không lẽ họ đều cúi đầu chịu câm nín ư?

- Các quan đều sợ uy quyền của Anh Vũ nên đành ngậm miệng. Chỉ có người ấy là dám lên tiếng mà thôi. Người ấy dự định giết Anh Vũ, mà không muốn chạm tới Cảm Thánh thái hậu. Người ấy cho rằng dù sao Cảm Thánh thái hậu cũng là người của tiên đế, và là mẫu nghi thiên hạ. Anh Vũ được tin này, y cầu cứu với Cảm Thánh thái hậu. Cảm Thánh thái hậu sai người phục kích định hại người ấy. Giữa lúc người ấy gặp nguy nan, thì phụ thân dẫn tôi với Tự Duy đi qua. Người hiển lộ bản lãnh, cứu người ấy thoát chết. Người ấy bỏ hết mội sự, đem tông tộc sang Trung nguyên ẩn thân. Sau đó ba năm, Anh Vũ chuyên quyền quá đáng, nên các quan mới họp nhau, mưu trừ y. Niên hiệu Đại Định thứ mười một (Canh Ngọ, 1150) các quan tổ chức cuộc binh biến giết Anh Vũ, nhưng bất thành.

Tự Duy lắc đầu:

- Tổ chức binh biến làm gì? Chỉ cần khi vào triều, một người nào đó thí cho y một mũi kiếm là xong. Em chắc cuộc binh biến không thành.

- Đúng thế! Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái, hỏa đầu đô Quảng vũ là Lương Thượng Cá, hỏa đầu đô Ngọc giai là Đồng Lợi, nội thị đô tri là Đỗ Ất; mưu với Trí Minh vương Lý Long Dũng, Bảo Minh hầu Lý Long Can, Bảo Thắng hầu Lý Long Hiền, phò mã Dương Tự Minh. Ước định xong xuôi, Vũ Đái đem quân đến cửa Việt thành, đánh đuổi bọn cấm quân của Anh Vũ, giải vây cho nhà vua, rồi tâu hết tội trạng Anh Vũ. Nhà vua ban chỉ bắt Anh Vũ. Anh Vũ bị bắt trói ở hành lang tả Hưng thánh, giao cho quan đình úy tra xét. Cảm Thánh thái hậu sai người đem vàng bạc đút lót cho Vũ Đái, Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Dương. Nguyễn Dương thấy các đồng liêu nhận vàng thì kinh hãi nói rằng : ị Các ông với tôi mưu trừ kẻ ác, mà các ông ăn hối lộ, e rằng chúng ta không thoát khỏi tay Anh Vũ với dâm phụ đâu; chi bằng ta cứ tùng quyền giết y đi cho rồi Ể, nói dứt cầm giáo đâm Anh Vũ.

Đệ ngũ đệ tử của Tự Kinh là Trần Tử Giác lắc đầu:

- Không xong rồi. Khi mọi người đều ăn của đút thì họ sẽ cản Nguyễn Dương ngay.

- Đúng vậy!

- Đô tả Hưng thánh là Đàm Dĩ Mông, nhảy vào dùng kiếm gạt giáo của Dương, ngăn rằng: ị Điện tiền bảo tội Anh Vũ đáng chết, nhưng phải đợi chỉ dụ của hoàng thượng đã Ể.

Thế là hai người thi diễn cuộc đấu. Võ công Mông thua Dương xa.Vũ Đái rút kiếm nhảy vào tiếp Mông. Dương biết đấu không lại hai người, như vậy đại cuộc đã hỏng rồi. Y đánh liền hai chiêu như vũ bão, rồi nhảy lui lại chỉ tay vào mặt Vũ Đái:

- Mày với tao mưu đại sự cứu nước, nhưng mày tham vàng trở mặt, rồi mày sẽ chết về tay gian phu dâm phụ. Mày nên đổi tên là Vũ Cứt cho đúng.

Nói dứt, Dương nhảy xuống giếng tự tử chết.

Vũ Tử Mẫn lắc đầu:

- Đệ không tin Nguyễn Dương nhảy xuống giếng tự tử. Vì các giếng trong thành Thăng long đều không sâu lắm, trong khi Nguyễn là một cựu võ quan thủy quân, làm sao y có thể chết đuối? Có lẽ y bị giết thì đúng hơn. Xin sư huynh tiếp cho.

- Nhà vua sai giam Anh Vũ lại, rồi đem ra xét xử. Đêm hôm ấy, thái hậu khóc lóc với nhà vua, hôm sau nhà vua cử ra mấy đại thần thuộc phe đảng Anh Vũ để xét xử y. Y chỉ bị cách hết chức tước, bắt đi làm ruộng công ở xã Nhật tảo, ngoài thành Thăng long. Tiếng là bị đầy, nhưng thái hậu mật đem y ẩn vào Hoàng cung, để gian dâm. Y bầy mưu cho thái hậu, cứ nay lập đàn cầu phúc, mai lập đàn cầu phúc, rồi xin nhà vua ban chỉ ân xá cho người có tội một hai bậc. Vì vậy chỉ mấy tháng sau, Anh Vũ được trở lại giữ chức Thái úy phụ chính như xưa. Trước đây, y đã bị người dưới quyền phản, mà hút mất mạng. Bây giơ,ợ y sai chân tay đi tuyển bọn vong mạng, bọn tử tù thành lập đội Phụng quốc vệ bảo vệ dinh thự, vợ con, rồi đem bọn này thay thế cấm quân canh phòng Hoàng cung. Trước kia, mỗi khi nhà vua cần ban chính lệnh thì đem ra triều nghị, rồi ban chiếu chỉ. Bây giờ y bàn với thái hậu, tự soạn chiếu chỉ rồi bảo nhà vua ký. Nhà vua chỉ biết tuân theo.

Tự Kinh than:

- Thế thì y thành thái thượng hoàng rồi. Bây giờ y tha hồ trả thù. Còn cái ông vua thì chỉ là con chó cho y sai khiến mà thôi.

- Quả như phụ thân luận. Y ban chiếu kể tội bọn Vũ Đái tự tiện đem quân vào cung, rồi sai bắt giam vào ngục. Y lại sai đem những người đó ra xử. Trí Minh vương bị giáng xuống tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước phụng chức. Bọn nội thị Đỗ Ất năm người bị cỡi ngựa gỗ. Hỏa đầu đô Ngọc giai là Đồng Lợi và tám người bộ hạ bị chém ở chợ Tây giai. Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái và hai mươi thủ hạ bị chém đầu bêu ở bên sông. Phò mã Dương Tự Minh và ba mươi thủ hạ bị đầy lên vùng Bắc cương . Ngoài ra còn hơn ba trăm người có dính dáng vào vụ hạ bệ Anh Vũ năm trước, đều bị đi làm ruộng công điền ở Nhật tảo. Vài tháng sau Anh Vũ giả chiếu chỉ giết hết.

Thanh Tước hỏi:

- Thưa bố, hình phạt cỡi ngựa gỗ ra sao? Bắt cỡi ngựa gỗ như con ngựa thờ ở đền Phù đổng Thiên vương thì có gì là đau đớn đâu?

Cử tọa cười ầm lên, làm Thanh Tước xấu hổ. Bà Anh Hoa bẹo má con:

- Để mẹ giảng cho con biết. Cỡi ngựa gỗ là hình phạt do Đỗ Anh Vũ chế ra, cực kỳ tàn bạo. Tội nhân bị lột quần áo, chỉ còn cái khố, rồi dùng giây mây trói vào tấm ván theo thế nằm ngửa; lại dùng đinh đóng bàn chân, bàn tay dính vào ván.

Thấy năm đứa con gái nuôi nhăn mặt, rùng mình Tự Hấp đưa mắt nhìn chúng, rồi mỉm cười, ngụ ý: Còn hơn thế nữa. Ông đưa mắt cho vợ, bảo giảng tiếp:

- Tội nhân bị rước đi rao khắp kinh thành cho dân chúng xem. Cuộc rao này như sau: Cho một đội hình binh đánh chiêng trống đi trước, bốn hình binh khiêng tấm ván đi theo trong thế lộn ngược, đầu xuống dưới, chân lên trên. Mỗi khi tới chỗ đông người, thì người đội trưởng cầm loa đọc bản án cho dân chúng nghe. Ngoài ra, cái đội này còn có một thằng hề, quần áo diêm dúa, mặt bôi xanh, bôi đỏ, tay xách thùng phân đi theo. Mỗi khi tội nhân đau đớn kêu gào, thì nó lại làm trò, diễu cợt cho khán giả cười. Nếu như tội nhân chửi rủa vua hay Anh Vũ, thì thằng hề múc một gáo phân tạt vào mặt.

Anh Hoa tiếp lời chồng:

- Không những y gian dâm với thái hậu, mà y còn cưỡng dâm các cung nga khác. Để phòng trường hợp bị ám toán bất ngờ, y ép vua ban chiếu bắt bọn hoạn quan cung nào ở cung ấy không được vào những cung khác, kẻ nào phạm thì bị giết. Bọn Phụng quốc vệ canh giữ mà để người khác vào cung, cũng bị giết. Chiếu ban ra, các thân vương, đại thần tụ hội nhau chỉ chích dữ lắm. Thái hậu với y kinh hãi, vội ban chiếu: Cấm bách quan trong triều không cho đi lại nhà các thân vương, trong cung không được hội họp quá ba người; ai trái lệnh thì giết.

Cử tọa bật lên tiếng thở dài.

Tự Kinh hỏi :

- An Vũ làm nhiều điều ác như vậy, mà sư phụ y là Khánh Hỷ đại sư đâu, không ngăn cấm y ?

- Khánh Hỷ đại sư viên tịch đã lâu rồi !

- Ấy à !

Tự Kinh than :

- Ngài viên tịch trong trường hợp nào ?

- Ngài từ Tiêu sơn về Thăng long vân du Chiêu thiền tự. Đang đêm bị kẻ lạ đánh trộm một Huyền âm chưởng. Ngài đau đớn đến chết đi sống lại trong 49 ngày rồi viên tịch. Triều đình cũng như phái Tiêu sơn phái rất nhiều người đi điều tra, mà cũng không ra manh mối.

Tự Kinh lắc đầu :

- Thôi Anh Hoa tiếp đi.

Anh Hoa tiếp:

- Anh Vũ lại sợ chính bọn Phụng quốc vệ làm phản, y ép vua ban chiếu: Các Phụng quốc vệ phải cất vũ khí vào kho, nếu có chiếu chỉ mới được lấy ra; ai không có lệnh mà tự tiện lấy ra thì bị xử tử. Ai không có nhiệm vụ mà qua lại hành lang chứa vũ khí thì bị phạt tám mươi trượng.

Tự Kinh thở dài hỏi:

- Năm nay Đại Định hoàng đế tuổi đã trên hai mươi, không lẽ ông không biết nắm lấy quyền?

- Thưa, một là ông không được tập võ. Hai là ông bị bà, rồi mẹ áp đảo riết rồi ông trở thành cục bột, chỉ biết ăn với ngủ. Ba là từ vệ sĩ, cho tới thái giám, cung nga, đều là người của Anh Vũ, nên ông ta đành bó tay.

- Ông ta đã có hoàng nam chưa?

- Thưa có rồi, hoàng trưởng tử năm nay đã bẩy tuổi, tên là Long Xưởng, cực kỳ thông minh, được phong Thái tử. Bốn tuổi Thái tử học văn với quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, là một túc nho, lại thanh liêm, chính trực. Năm tuổi lầu thông Thi, Thư, và hiểu rõ quốc sử. Dường như quan Thái phó muốn huấn luyện cho Thái tử có chí khí như Khai Quốc vương. Tin này đến tai Anh Vũ. Anh Vũ sợ tương lai Thái tử trở thành người có tài; đến tuổi mười hai, mười ba được mở phủ đệ riêng, ắt sẽ quy tụ anh hùng; thì y sẽ khó sống. Vì vậy, y tâu riêng với Thái hậu. Từ đấy, mỗi khi quan Thái phó giảng sách cho Thái tử, thì Thái hậu ngồi sau màn nghe. Vì vậy Thái phó chỉ dám giảng thơ, văn mà thôi. Nhưng Thái tử cũng không vừa, thường tìm cách trốn ra nhà Thái phó để học thêm. Việc này Thái hậu chưa biết.

Cao Tử Đức hỏi:

- Sư huynh! Thế sinh mẫu của Thái tử là ai?

- Là Chiêu Linh hoàng hậu. Hậu họ Vũ, con quan An vũ kinh lược sứ Thanh hóa. Ông là một đại cao thủ phái Mê linh. Hậu là người tính tình ôn nhu, văn nhã, có phong thái mẫu nghi thiên hạ học một biết mười, văn chương quán thế, lại luyện chút ít võ nghệ với phụ thân. Khi hậu nhập cung, ông có gửi một nữ cao thủ giả làm bộc phu, với mười tám đệ tử giả làm cung nữ theo hầu hậu, đêm đêm luyện võ cho hậu. Khi hậu thấy Thái tử bị Thái hoàng thái hậu, rồi Thái hậu cấm luyện võ, hậu âm thầm truyền thụ võ nghệ cho con. Chính hậu giảng sách cho Thái tử. Có thể nói, kiến thức Thái tử hầu hết do hậu truyền cho. Trong Hoàng cung, duy có cung Chiêu Linh là Đỗ Anh Vũ với hai bà thái hậu kiêng nể một chút.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Tự Kinh gõ tay lên án thư, rồi thở dài:

- Từ lâu rồi phái Đông a nhà ta không lý gì đến việc triều đình. Nhưng nay có ba việc ta không thể nhắm mắt. Một là vụ Lý Sơn bị đánh thuốc độc,ỳ hoàng hậu bị ám toán. Hai vụ Lý Long Vũ bị giết cả nhà. Ba là vụ Huyền âm chưởng tái xuất giang hồ. Lý Sơn, Long Vũ là cháu bốn đời Khai Quốc vương, như vậy ông với chúng ta có tình huyết tộc, so vai vế ta phải gọi người bằng anh. Hai người lại là đệ tử duy nhất của phái Đông a hiện làm quan tại triều. Nay hai ông với con gái bị bọn ngoại thích hại, ta không thể nhắm mắt làm ngơ. Ta mà làm ngơ, thì bọn ngoại thích sẽ thừa thế lấn tới, riết rồi chúng ta không còn chỗ đứng trong thiên hạ nữa. Còn việc Huyền âm chưởng tái xuất giang hồ, thì ta phải tích cực. Từ khi Trường bạch song hung chết tại trang chúng ta, thì chưởng quái ác này tuyệt tích. Nay tự nhiên có người xử dụng, thì ta phải tìm cho ra ác nhân, rồi tiêu diệt chúng, để trừ đi mối lo cho võ lâm.

Ông suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Đất nước này sở dĩ còn là do công lao của biết bao tiền nhân đã hy sinh xương máu, đã đổ mồ hôi ra xây dựng. Chúng ta không thể để cho điêu tàn trong sớm tối. Chúng ta là con cháu Ượng sơn song hiệp, Mộc tồn hòa thượng, chúng ta phải ra tay, cứu sự nghiệp của vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng. Còn sự nghiệp cua triều Lý, thì để họ lo lấy. Khi đức của họ đã suy đồi, phước khí hết, dù ta có cứu cũng vô ích. Ta biết rõ Đại Định hoàng đế tuổi đã trên hai mươi, nhưng bị mẹ, cùng phe đảng Anh Vũ khống chế mà vô lực: Phụng quốc vệ, quân đội, thái giám, cung nữ trong tay chúng. Vậy trước mắt chúng ta có ba việc lớn phải làm. Một là, cứu vãn sự an nguy của xã tắc. Hai là, trừ gian diệt bạo. Ba là, xây dựng lại những gì đã mất. Nhưng tuyệt đối không can dự vào việc hoàng tộc triều Lý. Ta phải đi gặp chưởng môn nhân Ngũ đại môn phái Đại Việt để bàn việc về những việc này.

- Nhưng thưa bố...

Anh Hoa tiếp : Các phái, Mê linh, Tản viên đều có sự.

- Con nói ? ! ? ! ? !

- Chưởng môn phái Mê linh là sư thái Nghi Hòa không rõ đi đâu mất tích, các đệ tử thì còn trẻ, thành ra ba tuyệt kỹ trấn môn là Long biên kiếm pháp, Nội công  nhu, Không minh tâm pháp bị thất truyền. Đại đệ tử của người là sư thái Nghi Ninh tạm lên thay thế. Đại hiệp Đặng Phi Sơn cũng mất tích trong trường hợp tương tự, thành ra Ngũ tuyệt kỹ của phái Tản viên là Phục ngưu thần chưởng Dương cương, Âm nhu, Lĩnh Nam chỉ pháp, Vô ngã tướng Thiền công, Tán cốt lạc phách tiêu hồn chưởng bị thất truyền. Ngôi chưởng môn bị bỏ trống. Năm năm trước, phái Tản viên tổ chức đại hội ước định rằng : Tạm cử Tôn Đức Hòa quyền chưởng môn. Sau này bất cứ ai biết xử dụng hoặc tìm được Ngũ đại tuyệt kỹ, thì sẽ được tôn làm chưởng môn thực thụ.

Tự Kinh than :

- Hai phái Tản viên, Mê linh sở dĩ được võ lâm Hoa Việt tôn là môn phái lớn, vì có các tuyệt kỹ trấn môn bị mai một, thì môn phái trở thành một bang hội nhỏ, chưởng môn thành vô quyền. Hỏng.

Ông trầm tư một lát rồi tiếp :

- Dù gì ta cũng vẫn phải tôn kính họ. Ta sẽ gặp họ để bàn quốc sự.

Các đệ tử đều ngạc nhiên về quyết định của Tự Kinh. Bởi từ xưa đến giờ, ông thường chủ trương, rũ áo đứng ngoài mọi sự của xã tắc, dù đệ tử nhiều lần xin ông can thiệp vào các biến cố bất lợi cho đất nước. Thế mà bây giờ ông lại đổi hẳn thái độ.

Ông tiếp:

- Các con ngạc nhiên về quyết định của ta phải không? Đâu có gì lạ! Trước nay ta không cho các con xuất chính, ra làm quan, vì ta nghĩ: Các con là những người hiệp nghĩa, dọc ngang trên đời, mà chỉ vì mấy đấu gạo, đem thân cho những tên ngu xuẩn sai bảo, cho những con đàn bà không đáng giá ba đồng xu chửi bới, ra luồn, vào cúi. Nay ta vẫn giữ cái chí đó. Ta quyết định cứu nước bằng con đường hiệp nghĩa, như Ưng sơn song hiệp như Mộc tồn hòa thượng.

Các đệ tử cùng chắp tay:

- Tuân lệnh sư phụ.

- Vậy sau tết này, chỉ mình Trung Sách ở nhà trông coi trang ấp là đủ. Còn các con, hãy đem đệ tử chia nhau mỗi người một vùng, đi lại trên giang hồ, tru diệt bọn tham quan, bọn cường hào ác bá, bọn bất trung bất hiếu. Tất cả do Tự Hấp điều động.

Thình lình thuyền phu vào cúi rạp người xuống, nói với Tự Kinh:

- Trình thái sư phụ, có một xác chết bị trói trôi trước thuyền, xin thái sư phụ phát lạc.

Tự Kinh ra lệnh:

- Vớt lên, rồi đem về bến mua quan tài mai táng, cho ấm áp thân thể người ta.

Nói rồi ông cùng chư đệ tử lên trên sàn thuyền. Thuyền phu tung xuống chiếc giây, chiếc giây cuốn lấy nửa thân mình tử thi, y giật mạnh sợi giây, tử thi bay bổng lên cao. Tự Hấp vung tay một cái, tử thi bay ngang hơn trượng rồi rơi xuống sàn thuyền nhẹ nhàng như cầm đặt xuống vậy.

Mọi người đều chạy lại xem: Tử thi bị trói thành năm khúc, bằng năm sáu sợi dây thừng, trong tư thế hai tay buông xuôi.

Phạm Tử Tuệ là thầy thuốc, ông rút kiếm đưa một nhát, cả năm sợi dây đều đứt một lượt, ông vạch quần áo nạn nhân ra xem xét: Đó là một người đàn ông tuổi khá lớn, miệng bị nhét đầy dẻ, trên người không có một vết thương, chứng tỏ sát nhân nhét dẻ vào miệng nạn nhân để không thể kêu cứu, rồi đem quẳng xuống sông. Nạn nhân chết vì ngộp thở,

Tò mò Tử Tuệ án tay vào ngực nạn nhân, thấy còn hơi ấm, ông vận nội lực dồn chân khí vào Đốc mạch, thình lình tim nạn nhân đập trở lại. Ông reo lên:

- Y chưa chết.

Ông rút trong bọc ra một hộp kim, lấy kim châm lên huyệt Nhân trung, nạn nhân á lên một tiếng lớn, rồi mở mắt ra. Tử Tuệ gọi rối rít:

- Nạn nhân bị ngâm dưới nước lâu quá, lạnh cóng hết chân tay. Mau mở cửa khoang thuyền, lấy quần áo khô thay cho người ta, rồi đốt lửa lên để sưởi ấm.

Nói rồi ông bồng nạn nhân vào một khoang nhỏ cùng với mấy thuyền phu cấp cứu. Lát sau nạn nhân đã tỉnh táo hẳn. Tử Tuệ dẫn nạn nhân ra hành lễ với sư phụ.

Tự Kinh an ủi nạn nhân:

- Tội nghiệp quá! Ông là ai? Năm nay niên kỷ bao nhiêu? Tại sao ông lại bị trôi sông?

Người đàn ông đó định hành đại lễ, thì Tử Tuệ sẽ để tay lên vai ông, rồi nói:

- Ông vừa mới chết hụt, sức khỏe chưa bình phục hẳn, không nên đa lễ.

Người đàn ông đó nói bằng một giọng thanh thoát nhỏ nhẹ:

- Tôi họ Đoàn tên Thông, năm nay sáu mươi ba tuổi, quê ở lộ Hồng châu, làm thầy địa lý.

Tự Hấp bật lên tiếng á, rồi hỏi:

- Phải chăng thầy tự là An Dương, đã mười đời làm thầy địa lý. Thầy từng được triều đình mời về Thăng long để an vị xây một số cung điện không? Dường như đó là hành cung Ngự thiên; điện Thụy quang; hai gác Ánh vân, Điện phú cửa Thanh hòa; hai thềm Nghi phượng, Ngọc Lan; đình Thưởng hoa; hồ Kim liên; cầu Minh nguyệt?


Ghi Chú Của Thuật Giả:

Việc xây các cung điện trên, chép trong ĐVSKTT, Lý kỷ, Anh tông kỷ, niên hiệu Đại Định thứ 19, Mậu Dần, DL. 1156.

- Vâng, đúng thế.

Trong khi Đoàn Thông nói thì Tử Tuệ vẫn cầm tay ông ta để dồn chân khí vào.

- Thầy tiếp đi.

Tử Tuệ nhắc: Rồi tại sao thầy lạ bị trôi sông?

- Nguyên khi tôi xem đất, định hướng, biệt mạch, thì được đặt dưới quyền quan Cần chính điện thuyết thư Nguyễn Cố, là người được chỉ định chỉ huy xây cất các công trình trên. Trong lúc trà dư tửu hậu, tôi có kể cho ông nghe về những bí mật của thuật Phong thủy Đại Việt, trong đó có thế đất Thái đường. Thế đất này không những phát đế vương, mà còn được thánh nhân giáng thế, mạnh đến nỗi thiên hạ bất khả đương.

Trong năm đệ tử của Tự Kinh, thì Tử Đức là người rất giỏi về Tử vi, Nhâm độn, bói Dịch và Địa lý (Phong thủy);

ông hỏi:

- Chắc Nguyễn Cố xin thầy để cốt tổ tiên vào đấy, hầu sau này con cháu thành thánh, thành đế vương, phải không?

- Vâng!

- Rồi thầy không chịu, nên bị Nguyễn Cố trôi sông chứ gì?

Tử Đức nói tiếp: Nhưng phúc nhà thầy to lớn, do vậy thầy gặp chúng tôi cứu mà thoát chết!

- Thưa, không phải vậy. Việc như thế này, trước khi để xương của thân phụ Nguyễn Cố, thì ông ta hỏi tôi rằng với thế đất như vậy, tại sao tôi không để xương cốt tổ tiên tôi vào đó? Tôi trả lời: Nếu thầy địa lý nào cũng có thể tự để lấy phần mộ tổ tiên mình, thì cái nghề này sẽ tuyệt diệt, vì chỉ cần để mộ xong, ít năm sau trở thanh giầu có rồi... giải nghệ.

Tử Đức tán thành:

- Tôi hiểu. Phàm khi gặp thế đất tốt, muốn táng mộ tổ tiên vào đấy, thì phải xem lại phúc đức tam căn, ngũ đại nhà mình, liệu có xứng với địa vị tương lai không đã. Bằng bất xứng, thì chẳng những hồn phách tổ tiên bị nguy hại, mà con cháu còn bị liên lụy nữa. Có phải thế không?

- Dạ, đúng thế.

Bạch Hạc hỏi:

- Thưa thầy, tam căn, ngũ đại là gì vậy?

Đoàn Thông thấy Bạch Hạc còn nhỏ tuổi, ông ta độ chừng nàng là tiểu thư con của ân nhân cứu mạng, nên ông ta lễ phép trả lời:

- Thưa tiểu cô nương, đó là phải xét cái ân, cái phúc, cái đức của ngũ đại nhà mình. Ngũ đại là đời cụ, đời ông, bản thân mình cùng anh em mình, con mình, cháu mình. Các câu hỏi thuộc tam căn là: Ân đức có đủ trải ra ở đất nước không? Gia đạo có hòa hợp với hương đảng (làng xóm) không? Bản thân, gia nhân có hòa mục, trên dưới có tôn ty không?

Đoàn Thông ngừng lại một lát để thở rồi tiếp:

- Trở lại với ông Nguyễn Cố, tôi có hỏi ông về ngũ đại tam căn, ông cứ thực thà trình bầy. Sau khi nghe qua, tôi thấy giòng họ nhà ông không đủ phúc đức hưởng cái thế đất Thái đường phát đế vương, nảy sinh thánh hiền này. Bởi chỉ nguyên việc ông a dua với Đỗ Anh Vũ cũng đủ thất đức di hại tới con cháu ít nhất năm đời, thì còn đâu là đức nữa mà hưởng? Nhưng tôi không giám nói thẳng ra. Trong khi ông cứ nài ép. Tôi đành nhận lời.

Tự Kinh hỏi:

- Ông ta có hứa tạ cho thầy bao nhiêu vàng, bạc không?

- Dạ có. Ông hứa rằng sau khi để mộ xong, ông sẽ tạ mười nén vàng (100 lượng ngày nay). Ông còn nói: Tương lai, được thiên hạ, sẽ cắt đất phong vương cho tôi. Thế rồi công việc bắt đầu. Nhưng sau khi tôi cải táng mộ ông thân sinh ra Nguyễn Cố, đem táng vào thế đất Thái đường xong, thì ông sai gia nhân trói tôi lại, nhét dẻ vào miệng mà nói rằng: Từ đời vua Lý Thái tông, vì sợ dân chúng táng mồ mả tổ tiên vào thế đất phát đế vương, rồi tranh giang sơn nhà Lý, nên trong triều thường ban chỉ nhắc các quan địa phương: nếu ở đâu thấy có thế đất đế vương thì phải tâu về triều; triều đình sẽ sai người đến ếm đi. Nay ông để mả cho giòng họ Nguyễn của tôi, mà tin này lộ ra ngoài, thì chẳng những mồ mả ấy sẽ bị đào lên, mà còn bị giết cả nhà. Vì vậy tôi phải giết ông để phi tang. Sau đó ông sai gia nhân ném tôi xuống sông. Khi ném họ quên gỡ cái túi hành lý đeo trên lưng tôi, nên tôi chỉ bị trôi lềnh bềnh, bị ngộp nước mà không chết ngay. Giữa lúc tôi sắp chết vì lạnh, vì ngộp nước thì gặp chư vị ân nhân cứu mạng.

Quách Tử Minh hỏi:

- Theo như thầy biết, thì trong nước Đại Việt ta, hiện nay, giòng họ nào đủ ngũ đại, tam căn hưởng thế đất Thái đường?

Đoàn Thông đáp ngay:

- Theo như kiến thức nông cạn của tôi thì có ít nhất năm giòng họ. Trong năm giòng họ này, thì giòng họ Trần ở Hải ấp, thuộc trấn Thiên trường đứng đầu. Nhưng người trưởng tộc là đại hiệp Trần Tự Kinh lại không muốn cho con cháu mình làm đế, làm vương.

Nghe Thông nói, Tự Kinh giật mình hỏi:

- Này thầy, vì lý do nào mà nhà thầy lại cho rằng giòng họ Trần ở Thiên trường xứng đáng nhất?

- Thưa, vì gần hai trăm năm nay, sấm đã truyền rằng, họ Trần sẽ kế họ Lý làm vua cõi trời Nam.

Vũ Tử Mẫn hỏi:

- Bài sấm đó ra sao, mong thầy đọc cho chúng tôi nghe thử?

Đoàn Thông móc một tấm thẻ đồng trong túi ra đọc:

- Về thời vua Lê Long Đĩnh (1005-1009) vào một ngày không mưa, tự nhiên có tiếng sấm nổ, rồi sét đánh vỡ đôi cây gạo ở châu Cổ pháp ra. Mảnh gỗ giữa cây gạo có chữ, chép một bài sấm như sau:

Mộc căn diểu diểu,

Mộc biểu thanh thanh.

Hòa đao mộc lạc,

Thập bát tử thành.

Đông-a nhập địa,

Dị mộc tái sinh.

Chấn cung xuất nhật,

Đoài cung ẩn tinh.

Lục thất niên gian,

Thiên hạ thái bình.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Nay tôi xin giảng: Mộc căn diểu diểu nghĩa là gốc cây kia héo, để chỉ triều Lê sắp hết vận số như cây mà rễ bị héo. Mộc biểu thanh thanh, là cành cây xanh xanh. Khi gốc héo, mà cành lại mọc xanh, thì có nghĩa là vua mất ngôi, mà ngôi đó lại thuộc về bầy tôi. Câu này ứng với vua Lê ngọa triều sắp băng, và người thay thế là bầy tôi. Hòa đao mộc lạc, chữ hòa, chữ đao, chữ mộc là chữ Lê, lạc là rơi uống; vậy câu này có nghĩa nhà Lê hết số. Thập bát tử thành, chữ thập, chữ bát, chữ tử là chữ Lý câu này chỉ người bầy tôi thay vua Lê họ Lý, sau ứng với Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn. Đông-a nhập địa, nghĩa là giòng họ Đông-a sẽ lên thay họ Lý. Chữ Đông với chữ A thành chữ Trần .

Anh Hoa hỏi:

- Thế còn các câu sau?

- Thưa phu nhân, kẻ hèn này chưa giải nổi. Xét như sấm truyền thì tương lai giòng họ Trần sẽ lên thay họ Lý, vì vậy tôi mới quyết tặng thế đất Thái đường cho đại hiệp Trần Tự Kinh.

Ghi chú của thuật giả.

Sự thực nghĩa các câu ấy như thế này: Dị mộc tái sinh nghĩa là một cây mới kỳ lạ tái sinh để chỉ kế tục nhà Trần là nhà Lê. Chấn cung xuất nhật nghĩa là vừng Đông mặt trời mọc, để chỉ nhà Mạc thay nhà Lê. Đoài cung ẩn tinh nghĩa là phương Tây có ngôi sao ẩn để chỉ nhà Tây sơn sẽ nối tiếp. Lục thất niên gian, thiên hạ thái bình là trong vòng 6+7= 13 năm nữa sẽ có thái bình.

Nghe Đoàn Thông luận, tất cả mọi người trong thuyền đều đưa mắt nhìn Tự Kinh.


Cao Tử Đức hỏi:

- Từ hơn năm trăm năm nay, thế thế lưu truyền rằng có thế đất Thái đường, đã bị Cao Biền yểm đi mất rồi, nhưng nào có ai tìm ra nó đâu? Thế đất ấy ra sao?

Đoàn Thông cúi đầu, chắp tay vái Tự Kinh cùng các đệ tử của ông rồi nói:

- Thông này đã xuống quỷ môn quan, được các vị cứu sống, thì dù gan, dù ruột cũng xin dãi bầy với các vị.

Lão móc trong bọc ra mấy cái thẻ đồng, trên khắc chằng chịt đầy chữ, rồi nói:

- Niên hiệu Hàm thông thứ tư, đời Đường Ý tông (Giáp Thân, 864), quan Thái sử lệnh tâu rằng tại Giao châu có nhiều thế đất phát đế vương, chiếu hào quang lên đến trời, tương lai có thể nảy sinh ra chúa thánh, tôi hiền. Nhà vua cùng quần thần triều nghị rồi quyết định: Giao châu xưa nay là đất rồng nằm hổ phục; thời Đông Hán đã nảy sinh ra vụ chị em nhị Trưng cùng 162 anh hùng nổi dậy làm nghiêng ngửa Trung nguyên. Bây giờ các thế đất phát đế vương chiếu sáng như vậy thì phải mau ếm đi, bằng không, thì tương lai Trung nguyên khó mà chống nổi. Nhà vua bèn sai Cao Biền (713 756) sang làm Đô hộ tổng quản Kinh lược, và ban dụ rằng: ị Giao châu hiện có nhiều thế đất vượng đế vương, khanh sang ếm hết đi, rồi vẽ bản đồ tâu về cho trẫm xem Ể. Biền đến đất Việt, thấy thế đất nào có linh khí thì ếm hết; duy núi Tản, vì thánh Tản quá linh, y ếm không xong mà hút bỏ mạng. Sau khi hoàn tất, Biền vẽ bản đồ tường thuật chư sự thành bộ sách Cao Biền di cảo tâu về triều. Bộ sách này, sau lọt vào tay tể tướng Cao Hoài Đức đời Tống Thái tổ. Vua Thái tổ sai chép ra làm nhiều bản trao cho Khu mật viện, Binh bộ, Lễ bộ, mỗi nơi một bộ. Nguyên bản thì cất trong ngự thư phòng, truyền cho các vua kế vị. Trong sách có nói đến thế đất Cổ pháp phát tích ra triều Lý trên hai trăm năm và ngôi đất Thái đường. Đến đời vua Nhân tông, thì Kinh Nam vương...

Cao Tử Đức đưa mắt nhìn sư phụ, như ngỏ ý xin phép rồi nói:

- Giai thoại này chúng tôi có biết: Vương lấy trộm được bộ Cao Biền di cảo, đem về Đại Việt. Chính vì vậy mà hai thánh tăng Đạo Hạnh, Minh Không mới căn cứ vào đó mà biết rõ vụ Cao đem linh khí Đại Việt bỏ vào bụng ba mươi sáu con trâu, chôn ở núi Thái sơn... rồi mang trở về. Nhưng ngay đương thời, hai thánh tăng Đạo Hạnh, Minh Không cũng không tìm thấy cái đất Thái đường ở đâu. Người ta cho rằng lâu ngày, thế đất này đã bị tiêu tan rồi.

Ghi chú của thuật giả.

Tôi đã thuật về hai vụ này:

Chi tiết về ngôi mộ phát tích ra triều Lý, xin đọc Anh hùng Tiêu sơn, do Xuân thu Hoa kỳ xuất bản. Chi tiết về việc hai thánh tăng Đao Hạnh, Minh Không, trâu vàng v.v. xin đọc Nam quốc sơn hà do Đại Nam Hoa kỳ xuất bản.

Đoàn Thông tiếp:

- Thế đất Cổ pháp thì do bồ tát Định Không triệt yểm, mà nhà Lý chiếm được thiên hạ. Còn thế đất Thái đường thì chưa ai triệt yểm được cả. Cái thế đất Thái đường này sở dĩ không ai tìm được, vì trải qua hơn bốn trăm năm, long mạch đã di chuyển đi, nên không ai biết nó ở đâu. Bởi trong sách Cao Biền chép rằng nó ở dẫy núi Tổ sơn, trên vùng Tam đảo, dần dần trong hơn trăm năm nó di chuyển xuống vùng Cổ bi ngoại ô Thăng long. Trăm năm sau nữa, nó di chuyển tới xã Kệ châu, Cai xá (Nay thuộc Hưng yên). Hơn trăm năm sau nữa, nó di chuyển đến xã Phương trà (Nay thuộc Nam hà). Cuối cùng, khi hai thánh tăng Minh Không, Đạo Hạnh xây tháp Phổ minh, thì nó bị linh khí ở tháp kêu gọi nên di về ngay gần trang Thiên trường. Tới đây, nó gặp trở ngại vì Cao Biền yểm. Nếu như không có ai đem xương cốt táng vào, cùng gỡ yểm ra, thì nó sẽ chết. Nhưng, hồi tiên phụ còn tại thế, người kiên nhẫn, mà tìm ra vết tích; rồi đến đời tôi, tôi đã tìm ra trọn vẹn.

Đoàn Thông móc trong bọc ra một trục lụa, trên vẽ bản đồ bằng sơn, nên tuy bị ướt, mà không bị mờ, lão chỉ vào bản đồ:

- Đây, huyệt nằm chỗ này, ngay cạnh Hải ấp, trông ra sông Phú lương (nay thuộc Mỹ lộc, Nam định). Kia là cửa sông Tuần vàng, phía sau có núi Voi phục. Hai bên huyệt có hai hàng gò đống đá đất. Hình những gò bên trái này giống như nghiên, như bút, như mực, tức văn quan chầu. Hình những gò bên phải như hình mười tám loại vũ khí, tức võ quan chầu. Chỗ huyệt là thổ phúc tàng kim tức cái chỗ đất như cái bụng dấu vàng, ngồi ở phương Càn trông sang phương Tốn.

Lão tấm tắc nói một mình:

- Tiếc thực là tiếc, huyệt nằm gần ngay tổng đường phái Đông-a. Phải chi cụ Trần Tự Kinh chịu cho con cháu làm thánh, làm đế thì để ngay vào đây. Nếu để trúng toàn vẹn thì nó chính là thế đất:



Phấn đại đương mi chiếu,

Yên hoa đối diện sinh.

Dĩ nhan sắc khuynh quốc

Đắc thiên hạ thái bình.

(Son phấn chiếu giữa mi,

Mây, hoa sinh trước mặt,

Dùng nhan sắc nghiêng nước,

Lấy thiên hạ thái bình.)



Tử Đức gật đầu công nhận lời Thông nói đúng. Ông hỏi:

- Trong Cao Biền di cảo, y chép về thế đất này, rồi tâu lên vua Đường như sau: Thần dĩ trúc lộ lập tự yểm chi . Nghĩa là đất này thần đắp một con lộ trồng trúc mà yểm. Thế con đường trúc đó đâu?

Đoàn Thông chỉ vào bản đồ:

- Chính là chỗ này.

Tự Hấp nhăn mặt:

- Đây là rừng tre, chứ có phải con đường trồng trúc đâu?

- Thưa đại hiệp, hồi xưa khi Biền trồng, thì nó chỉ là con đường nhỏ. Nhưng trải qua hơn bốn trăm năm, nay nó trở thành rừng.

Cao Tử Đức tự chửi thầm:

- Hỡi ơi, bấy lâu mình cứ lên vùng Tam đảo tìm thế đất , có ngờ đâu sau hơn bốn trăm năm nó đã di chuyển về đây.



Ông hỏi:

- Này, theo thầy thì long huyệt chạy từ Tam đảo về. Thế thì hồi đó huyệt đâu có ở đây, mà Biền trồng trúc để yểm?

- Thưa đại hiệp vấn đề như thế này. Khi Biền khám phá ra long huyệt, thì y cũng tìm ra con đường mà rồng sẽ chuyển thân. Y đoán trước nó sẽ tới đây, nên yểm để rồng không còn đường đi, rồi sau ít năm sẽ mắc kẹt vào rễ tre mà chết.

Tất cả cử tọa đều kinh hãi, vì thế đất nằm ngay trong phạm vi Thiên trường, mà Nguyễn Cố với Đoàn Thông đào bới, để mộ, khá ồn ào, sao không ai chú ý?

Tự Kinh đưa mắt nhìn Tô Trung Sách như phiền trách: Con thay ta trông nom, cai quản trang Thiên trường mà sao cái vụ Nguyễn Cố, Đoàn Thông đến để mộ, phá rừng lại không biết?

Trung Sách biết ý sư phụ, ông trình:

- Cách nay hơn tháng, có lái buôn tới hỏi mua hết rừng tre. Họ nói rằng sẽ chặt hết tre, cùng đào cả gốc đi. Con thấy cái rừng này xưa nay tối vô ích, chim cò tụ về làm tổ, gây hại cho việc chăn nuôi trồng tỉa, con định phá đi từ lâu. Nay có người mua, lại còn chặt tre, đào gốc dùm, nên con đã bán với giá rẻ. Nào ngờ, Nguyễn Cố mua để táng mộ...

Đoàn Thông chắp tay vái Tự Kinh:

- Xin lão gia thứ lỗi, chính tiểu nhân đã bầy ra mưu này, để có thể phá thế yểm độc của Cao Biền.

Lão lại cầm thẻ đồng lên đọc:

- Đây, nguyên văn đoạn Biền chép về thế đất này như sau:



Khí mạch chỉnh nguyên dương,

Lục long bàn khuất khúc.

Thất đẩu hiện châu trang,

Điệp điệp lai hòa án,

Điều điều lai tụ đường.

Hỏa hổ tầm cương lũng,

Tê đường vọng đại giang.

Tả hữu biên loan bão,

Chu tước thị đích tàng,

Tam cấp càn khôn định,

Đốc sinh đại thánh hiền,

Tam bách dư niên tộ,

Phúc cơ hưởng thọ khang.

(Mạch khí chính nguyên dương,

Rồng đất nằm che kín,

Bẩy sao chầu chiếu sang,

Lớp lớp cùng tới án.

Chuyển chuyển cùng tụ đường.

Hỏa, hổ chầu bảo vệ.

Phía trước thấy đại giang.

Phải, trái chim loan vọng,

Chu tước ẩn ở trong.

Ba bậc càn khôn định,

Sẽ sinh đại thánh hiền.

Ba trăm năm đất ấy,

Phúc, lộc lại thọ khang.)



Đoàn Thông có vẻ mệt mỏi lắm rồi, y nhìn Trần Tự Kinh:

- Hỡi ơi! Thiên mệnh an bài, cơ trời khó biết! Khi tìm thấy, tôi định đi Thiên trường tìm đại hiệp Trần Tự Kinh để dâng cho giòng họ Đông a. Nhưng nay sự thể đã như thế này thì thực là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Trước đây ngôi đất Cổ pháp, các thiền sư Tiêu sơn canh giữ hơn trăm năm, để tìm người phúc đức mà ban cho. Chung cuộc, ông thân sinh ra vua Lý Thái tổ đi làm ruộng về, mệt quá, nằm nghỉ tại đây, rồi hóa, mà hưởng, lập ra nhà Lý trên hai trăm năm. Còn thế đất Thái đường, tôi định dâng cho giòng họ Đông a, sau lại về Nguyễn Cố. Nguyễn Cố giết tôi mà không thành, thì ra trời dành thế đất này cho các vị. Nay tôi xin dâng cho các vị.

Tự Duy hỏi:

- Ông đã đem thế đất Thái đường cho Nguyễn Cố, đã táng xương cha Nguyễn vào rồi, thì ông có cho chúng tôi, e cũng vô ích.

Đoàn Thông cười bí hiểm:

- Khi sắp để mộ cho Nguyễn Cố, tôi thấy con mắt ông ta luôn hiện ra nét xảo quyệt, nên tôi có phục sẵn một cơ mưu đề phòng khi bị họ trở mặt thì còn có cách đối phó.

Tự Hấp hỏi:

- Mưu ấy như thế nào?

- Sau khi để huyệt xong, tôi dặn Nguyễn Cố rằng ị Kiểu đất này sau tất phát đế, phát vương, nảy sinh thánh nhân, thì phải chăm lo đề phòng cẩn thận. Vậy nội trong một trăm ngày, nếu thấy mưa gió, sấm sét thì xem trên mộ có gì lạ không? Nếu lành ít, dữ nhiều thì phải dời mộ đi ngay Ể.

Cao Tử Đức ngồi nhỏm người dậy:

- Tôi biết rồi. Phàm khi để mộ vào huyệt phát đế vương, thì sau ba ngày, xương cốt bắt đầu thông với long mạch; đất trời giao hội mà có mưa gió, sấm sét. Nếu ta nhân đó làm cái gì quái dị trên mộ, ắt Nguyễn Cố sợ mà dời mộ đi nơi khác. Bấy giờ ta đem xương cốt giòng họ khác táng vào. Có phải vậy không?

- Quả đúng thế.

Nói đến đây Đoàn Thông quá mệt mỏi, người lắc lư. Phạm Tử Tuệ vội vực ông ta vào khoang thuyền, truyền đắp chăn, cho nằm nghỉ.

Ngoài khoang thuyền, Tự Kinh suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Các con ạ! Giòng họ Trần nhà ta vào thời Hồng bàng, sinh sống ở vùng Khúc giang, quận Nam hải, nay thuộc lộ Quảng đông. Đến thời vua An Dương, tổ Trần Tự Minh giúp vua dựng nghiệp, được phong tước Phương Chính hầu, giữ chức tể tướng. Sau Nam hải bị Tần chiếm, tổ mới di đến vùng Thiên trường này mà lập nghiệp. Về thời Bắc thuộc, ngôi mộ của Khai tổ Tự Viễn để vào thế đất Hổ phục, Ưng phi, cho nên từ mấy đời nay chúng ta đều được hưởng Vương bất vi vương, bá bất vi bá nhi quyền khuynh thiên hạ, nghĩa là vua chẳng phải vua, bá chẳng phải bá, mà quyền nghiêng thiên hạ. Từ hồi ấy đến giờ, đời nào nhà ta cũng hưởng cái uy đó. Chỉ duy thời Thuận thiên (1010-1028), tổ Tự Mai vì làm phò mã Tống, để bảo vệ đất Việt mà phải xuất chính làm quan. Về cuối đời, người hối hận đã bỏ ra bao nhiêu năm ngồi trên mình ngựa mà chung cuộc cũng trắng tay. Vì vậy người có di chúc cho con cháu rằng sau này không nên vì chút công danh mà tranh dành với đời. Bây giờ Đoàn Thông muốn tặng ta thế đất này, ta chỉ nên tạ ông ta rồi bảo vệ tính mạng ông ta mà thôi. Đối với triều Lý ta sẽ dùng hết lực bảo vệ ngôi vua cho họ.

Năm đại đệ tử, hai con trai, hai con dâu, một đệ tử út của Tự Kinh cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi Quách Tử Minh hướng sư phụ nói bằng giọng tha thiết:

- Sư phụ! Khi mệnh trời đã an bài, thì chẳng nên từ chối. Con thấy khí số họ Lý sắp hết rồi, ta có giúp, e cũng uổng phí tâm cơ mà thôi. Kìa, Gia cát Vũ hầu, thân là nho sĩ, mà lặn lội sáu lần xuất Kỳ sơn, cuối cùng mửa ra máu chết ở Ngũ trượng nguyên. Gần đây, bọn Hàn Thế Trung, Ngô Giới, Ngô Lân, Nhạc Phi đem hết tài trí ra giúp Triệu Cấu lập lại nhà Nam Tống, cuối cùng đi đến kết quả là Hàn Thế Trung bị cách; anh em họ Ngô phải bỏ quan đi ở ẩn; Nhạc Phi với con bị giết; đầu, thân thể đem phơi nắng phơi mưa cho dân chúng xem, cho ruồi bọ đục khoét. Xin sư phu chẳng nên bỏ ra ngoài thiện ý của Đoàn Thông.

Tự Kinh xua tay :

- Nếu các con đã nghĩ vậy, thì ta nên đem người ấy về làm vua, thì đất nước này lại hùng mạnh như thời vua Thánh tông, Nhân tông ngay. Nhưng nếu đem người ấy về, thì cái ông Đại Định hoàng đế phải chết, điều mà người ấy không muốn.

Cha con thầy trò cùng bàn luận phân vân chưa dứt, thì Đoàn Thông từ trong khoang thuyền bước ra, ông thụp lạy Tự Kinh. Tự Kinh phất tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ ông ta, khiến ông ta không quỳ được. Đoàn ngồi xuống cạnh Tự Kinh, nói bằng giọng tha thiết:

- Thì ra ngài là đại hiệp Tư Kinh, chưởng môn phái Đông a đấy. Còn các vị đây đều là cao đồ cả. Hèn chi phong thái khác thường. Từ nãy đến giờ, Thông này được nghe những lời nghị luận của các vị, trong lòng càng phục thêm. Như tôn ý của đại hiệp, thì đại hiệp không muốn cho con cháu phát đế vương, thì cũng dễ thôi. Bởi thế đất Thái đường này vốn lưỡng tính; một là phát đế vương, hai là thánh nhân giáng thế. Vậy thì thế này: tiểu nhân xin để mộ lệch đi một chút, thì không phát đế vương nữa, mà chỉ có thánh nhân giáng thế. Như vậy hẳn đại hiệp vui lòng?
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Cao Tử Đức thấy trong khi nói, con mắt Đoàn Thông thoáng một nét giảo hoạt, ông nghĩ thầm:

- Ta cứ yên lặng xem y định làm gì? Tính mệnh y, cùng gia quyến đang bị Nguyễn Cố đe dọa, hoàn toàn trông vào sự che chở của chúng ta, chắc y không thể hại chúng ta.

Nghĩ vậy, ông ngồi im.



Tự Kinh nghe Đoàn Thông nói, thì mừng chi siết kể. Ông đứng dậy chắp tay xá Đoàn Thông ba xá:

- Xin đa tạ nhà thầy. Kinh này không muốn cướp thế đất của Nguyễn Cố. Vậy chỉ khi nào Nguyễn Cố tự di chuyển mộ ông thân sinh của y đi, thì Kinh này mới đồng ý táng mộ thân phụ vào đó. Kinh này xin hứa trước với thày hai điều: Một là ngay sau khi an vị ngôi mộ, dù thành, dù bại, Kinh này cũng xin tạ thầy ba mươi nén vàng. Hai là môn phái Đông-a xin đón gia quyến thầy về sống trong trang Thiên trường; dù Nguyễn Cố, dù vua Lý cũng không thể đụng đến cái lông, cái tóc gia quyến thầy.

Ông đưa mắt cho con trưởng là Tự Hấp:

- Cái việc vợ chồng con với Vũ Tử Mẫn, Phạm Tử Tuệ đi Thăng long điều tra nên để ra tết. Bây giờ con hãy cùng sư đệ Cao Tử Đức tiếp Đoàn tiên sinh, lo đem gia quyến tiên sinh về trang mình hầu bảo vệ.

Đến đây, thuyền đã cập bến, đợi mọi người đều lên bờ, trong thuyền chỉ còn mấy đệ tử làm thuyền phu, Tự Hấp hỏi Cao Tử Tuệ:

- Sư đệ nghĩ sao?

Tử Tuệ nói với Đoàn Thông:

- Đoàn tiên sinh, cái vụ chỉ an mộ cho thánh nhân giáng sinh, mà không phát đế vương, tôi e không thể thực hiện nổi. Dường như tiên sinh có gì dấu diếm sư phụ tôi. Mong tiên sinh giải cho.

Đoàn Thông chắp tay vái dài:

- Đại hiệp thực minh mẫn. Trong khi tiểu nhân nói với lão đại hiệp, tiểu nhân thấy trán của đại hiệp chau lại rồi mỉm cười thì biết rằng đại hiệp đã hiểu ý tiểu nhân rồi.

- Tôi thử nói ý tiên sinh xem có đúng không nhé. Tiên sinh nghĩ: Thế đất quý như thế mà bỏ thì uổng quá. Chi bằng tiên sinh dối sư phụ tôi rằng để lệch đi một chút, sẽ không phát đế vương, mà nảy sinh thánh nhân, sự thực tiên sinh để đúng huyệt. Sư phụ tôi đâu có biết gì? Sau đây mấy chục năm, khi mọi sự ứng nghiệm thì cả sư phụ tôi với tiên sinh đều đã ra người thiên cổ rồi. Phải không?

- Quả như đại hiệp đoán.

Tự Hấp hỏi:

- Bây giờ chúng ta phải làm gì?

- Tôi an mộ cho nhà Nguyễn Cố đã hai ngày. Nội đêm nay thì xương với long mạch sẽ bắt đầu nối với nhau, trời đất giao thoa, sấm chớp phát sinh. Vậy ngay tối nay, đại hiệp sai người lấy tô mộc nấu ra trộn lẫn với bột giả làm máu. Lại sai đem chín cái búa đồng chờ sẵn. Khi sấm chớp nổ trên trời thì sai người đem nước tô mộc đổ lên mộ nhà Nguyễn Cố, đem mấy cái búa đồng này cắm xung quanh. Khi trời sáng, Nguyễn Cố sai người ra thăm mộ thấy xung quanh đầy máu, lại có búa đồng thì y tưởng đâu mình làm ác, bây giờ trời đánh vào mồ mả ông cha. Như vậy y kinh hoàng, tất di chuyển cốt cha y ra khỏi thế đất. Sau đấy ít ngày ta mời lão đại hiệp tới thăm, thì thấy huyệt trống không. Lão đại hiệp tất vui lòng cho cải táng cốt tiền nhân an vào.

Cao Tử Đức hỏi:

- Nguyễn Cố có biết tuồng chữ của ông không?

- Thưa y biết. Ý đại hiệp muốn?!?!!

- Để trị cái tội Nguyễn Cố vô ơn bạc nghĩa, ăn cháo đá bát... Ông đã để mộ cho nhà y, mà y giết ông, ta phải dọa làm y chết khiếp một bữa cho bõ ghét.

Đoàn Thông mừng chi siết kể, y hỏi:

- Thưa đại hiệp dọa như thế nào?

- Bây giờ tôi đưa cho ông tấm ván nhỏ, ông viết lên đấy một bài văn, kiện y ở cửa trời. Tôi sẽ đem miếng ván để lên mộ cha y. Khi y thấy máu, thấy búa đã kinh hãi, nay lại thấy tờ sớ kiện lên trời, chắc y sợ đến té đái vãi phân ra.

Đoàn Thông mừng chi siết kể, y cầm bút viết liền, rồi trao cho Tử Đức. Tử Đức xem xong, bật cười:

- Thế nay, sáng mai gia nhân Nguyễn Cố đem về cho y, cùng báo cáo tự sự, thì y đến chết khiếp.

Ghi chú của thuật giả.



Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, có nhắc đến việc Cao Biền yểm các thế đất linh của Đại Việt cùng viết bộ Cao Biền di cảo. Tôi đã tra tìm hầu hết các thư viện Thượng hải, Bắc kinh, Trường sa, nhưng không tìm ra bộ này. Trong khi đó tại Đài loan, Hương cảng lại xuất hiện tới bẩy bản khác nhau, do bẩy người chú giải. Những người chú giải này đa số đều là thầy địa lý cả. Các ông thầy này đều nói rằng bản của mình là do gia truyền. Nhưng tôi đọc kỹ, thì thấy có rất nhiều điều nghi ngờ như: Văn phong là văn đời Minh, đời Thanh hoặc văn thời Dân quốc; những điều nói về Việt Nam thì hầu hết sai. Do vậy tôi không tin rằng đó là chính bản.

Hồi này thuật nguồn gốc viễn tổ của Hưng Đạo vương. Tôi phối hợp quốc sử, gia phả của tiền nhân để lại cũng như gia phả của con cháu Trần Ích Tắc hiện sống tại Trường sa, thì sau này các vua Trần truy phong cho tổ tiên như :

1.Khai tổ hoàng đế Trần Tự Kinh (1103-1190)

2.Ninh tổ hoàng đế Trần Tự Hấp (1132-1210)

3.Nguyên tổ hoàng đế Trần Lý (1151-1215)

4.Khai vận, Lập cực, Hoằng nhân, Ưng đạo, Thuần chân, Chí đức, Thần vũ, Thánh văn, Thùy dụ, Chí hiếu hoàng đế Trần Thừa, miếu hiệu Hy tông (1183- 1234)

5.An sinh vương Trần Liễu miếu hiệu Hiển Hoàng (1210-1251)

6.Thái sư, Thượng phụ, Thượng Quốc công, Long công, Thịnh đức, Vũ liệt, Hùng huân, Nhân võ, Hưng Đạo đại vương (1226-1300).

Về nơi phát xuất ra họ Trần, thì có hai thuyết: Một là họ Trần lập nghiệp lâu đời tại Thiên trường (Mỹ lộc, Nam định), hai là từ vùng An sinh ở Hải dương di xuống.

Bộ Trần đại vương bình Nguyên thực lục tại đền Bảo lộc Nam định thì :

Nguyên thế tổ họ Trần từ An sinh, thuộc Đông triều, tỉnh Hải dương (Nay tại đây còn nhiều lăng tẩm nhà Trần), di đến ở xã Tức mạc ( xưa gọi là Hải ấp), huyện Mỹ lộc tỉnh Nam định. Tôi không mấy tin thuyết này. Bởi bộ sách trên dường như viết vào thời Hưng Đạo vương băng (1300). Khi Trương Phụ sang đánh giặc Hồ Quý Ly, đã mang về Kim lăng (1407). Sau khi vua Lê dành được tự chủ, bộ sách này cũng không được viết lại, vì vua Lê sợ dân chúng tưởng nhớ Trần triều. Mãi tới niên hiệu Hồng Thuận thứ ba (1511) đời vua Lê Tương Dực bộ này mới được viết lại trong trường hợp như sau: Nhân bốn vị tướng kết nghĩa huynh đệ là Tráng tiết đại tướng quân Kiên thành vương Nguyễn Vu, Trung vũ tướng quân Tín nghĩa công Vũ Chi, Bình man tướng quân Hoài đức hầu Phạm Cập, Thiên tướng Nghĩa hòa bá Hoàng Gia. Nguyên sau khi bốn vị lập công lớn, đã nguyện bỏ công lao, chức tước để xin vua ân xá cho Nguyễn Vu cái tội khi quân; bởi ông họ Trần, cháu đời thứ 12 Hưng Đạo vương, giòng Hưng Vũ vương. Trong dịp này, bộ sách trên được viết lại, nên có rất nhiều điều khác với gia phả.



Sau khi được ân xá, Trần Vu, Vũ Chi, Phạm Cập, Hoàng Gia được ban cho đất phía Nam sông Linh cơ. Bốn ngài đem tông tộc xuống đây khai hoang lập ra tổng Quần anh, nay là các xã Phạm Vị, Quần phương Trung, Quần phương Đông, Quần phương thượng, Quần phương Hạ, thuộc huyện Hải hậu, tỉnh Nam định. Tại các xã này đều có những nhà từ thờ tứ tổ, chứ không thờ riêng rẽ.

Để thi hành chính sách xóa bỏ văn hóa, văn minh cổ của Việt Nam, hầu thực hiện chế độ Xã hội chủ nghĩa; vào thời Lê Duẫn, nhà từ thờ tứ tổ tại xã Quần phương trung (nay là xã Hải trung) cũng như đền thờ Hưng Đạo vương, bị chính quyền ra lệnh phá hủy.

Thuyết thứ nhì, do gia phả của tiền nhân tôi để lại. Thuyết này thì chép rằng, nhân An sinh vương Trần Liễu là anh vua Trần Thái tông được phong ở vùng Yên bang, nên đã xây lăng mộ giả, để tế vọng các vị tiên vương nhà Trần. Do vậy mà có lăng mộ, chứ lăng mộ thực sự thì chôn rất bí mật, chỉ con cháu đương thời biết được mà thôi.

Về nguồn gốc họ Trần, thì gia phả nói rằng tổ tiên vốn thuộc giòng dõi Phương chính hầu Trần Tự Minh, ở vùng Khúc giang (Nay thuộc Quảng Đông). Ngài giữ chức tể tướng thời vua An Dương. Nhân vùng Khúc giang bị nhà Tần chiếm mất, ngài mới di xuống vùng Thiên trường.



Trong những năm 1977-1995, khi theo phái đoàn Pháp sang Trung quốc trao đổi y học, tôi đã tìm ra được tới tám chi khác nhau của con cháu Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, hiện sống rải rác ở Trường sa, Hồ Nam, Quế dương, Linh lăng, Liễu châu (Trung quốc). Nguyên Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc cùng gia thuộc phản vua Trần theo Mông cổ, lưu lạc bên Trung nguyên. Các đời sau rất thịnh. Cuối thế kỷ thứ 14, cháu của vương là Trần Hữu Lượng hô hào anh hùng Trung nguyên nổi lên đuổi Mông cổ, thế lực rất lớn, đã chiếm được quá nửa Trung quốc. Giữa lúc ông sắp thành công lên làm vua, thì bị Chu Nguyên Chương đánh bại. Vì vụ Trần Hữu Lượng cùng với Chu Nguyên Chương tranh dành con hươu, mà sau đó triều Minh truy lùng con cháu Chiêu quốc vương rất ngặt. Họ phải đổi ra họ khác. Mãi đầu đời Thanh, đám này mới trở lại họ Trần. Hiện hậu duệ của Chiêu quốc vương khoảng năm vạn người.

Năm 1990, tôi được mời tới dự buổi họp của tám chi họ Trần này tại Linh lăng, để chỉnh đốn lại những sai lầm trong gia phả. Sau khi tra xét, họ tìm ra được ông Trần Định Nhân, là thống tôn đời thứ 27 của Chiêu quốc vương thuộc chi ở Trương sa. Ông Nhân là một viên chức lớn của Trung quốc. Dịp này tôi có trao đổi gia phả với các chi, giúp tài liệu cho họ về họ Trần từ sau khi Chiêu quốc vương vong quốc tới nay. Ông Nhân cho biết, hiện con cháu Chiêu quốc vương đến hai người làm bộ trưởng, sáu người trong ủy ban trung ương đảng Cộng sản. Buồn là khi đàm luận, ông cứ tự hào mình là người Hoa, coi Đại Việt như một tỉnh của Trung quốc.

Tháng 8 năm 1991, tôi đi trong phái đoàn Pháp sang Trường sa, trao đổi y học, vô tình thời gian ở đây đúng vào ngày giỗ Hy tông (Trần Thừa) hoàng đế. Tôi với bác sĩ Trần thị Phương Châu có rủ ông Trần Định Nhân cùng với một số là hậu duệ của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, giỗ chung (Dĩ nhiên tài chánh do tôi với Phương Châu đài thọ). Ông từ chối. Chúng tôi vẫn tiếp tục giỗ như thường. Tôi nhờ một nhà hàng lớn của Nhạc dương lâu làm cỗ. Để tỏ cho các bạn Pháp, Trung quốc biết rằng tuy tôi mang Pháp tịch, được nước Pháp trọng đãi nhưng vẫn không quên nguồn gốc, Châu với tôi có mời toàn thể phái đoàn Pháp, cũng như một số chức sắc địa phương Trung quốc. Ông Định Nhân đến dự trong phái đoàn chính quyền địa phương. Giữa bữa tiệc, ông đứng lên phát biểu ý kiến: Rằng đất Việt Nam từ xưa là lãnh thổ Trung quốc. Rằng hiện nay, và mãi mãi cũng vẫn là của Trung quốc. Rằng mảnh đất Việt Nam hiện bị thế lực quốc tế tách khỏi tổ quốc như Hương cảng, như Đài loan. Rằng tương lai sẽ phải trở về với tổ quốc. Lập tức ông bị cử tọa (phái đoàn Trung quốc) la ó, phản đối. Sau vụ này ông bị mất chức, rồi trở thành chủ quán cà phê ở Tương Âu, ngoại ô Trường sa. Từ đấy, dù có nhiều dịp gặp lại, mà tôi với ông không nói chuyện riêng với nhau.

Câu chuyện tới đây thì ngừng lại, vì trời đã về khuya. Rừng núi Louisville chìm vào bóng đêm. Xung quanh chúng tôi, tiếng dế nỉ non, thỉnh thoảng vọng lại tiếng chim ăn đêm. Mười tám người trẻ vẫn chưa muốn chấm dứt, chưa muốn đi ngủ.

Tôi mỉm cười:

- Lịch sử anh hùng của tộc Việt, nói không bao giờ hết, viết không bao giờ cùng. Mười năm sau, trăm năm sau, nghìn năm sau, biết đâu con cháu chúng ta, cũng như con cháu của anh em chúng ta ở trong nước, sẽ có dịp hội ngộ với nhau. Việc của chúng ta, là phải tự nhắc nhở, nhắc nhở người thân, nhắc nhở con cháu rằng: Đừng quên nguồn gốc Việt của mình, quyết không để một người trở thành Trần Định Nhân. Ta có thể mang quốc tịch Hoa Kỳ, Canada, Trung quốc, Pháp, Ý, Đức nhưng ta vẫn thuộc tộc Việt, vẫn là con Rồng, cháu Tiên.

Một cháu gái, dáng người thanh nhã, mềm mại hỏi:

- Cảm ơn thầy. Thưa thầy, thầy vừa thuật sơ lược về nguồn gốc của họ Trần, cũng như những yếu tố làm cho triều Lý suy vong. Thầy cũng cho chúng con một bài học rằng phải tránh vết xe xấu của bọn vong quốc, bọn con cháu Trần Ích Tắc, mà nguyên do chính là bậc cha mẹ thiếu cái tự hào về nguồn gốc anh hùng của tổ tiên. Bây giờ, con lại muốn thầy thuật tiếp cho chúng con nghe vụ Đỗ Anh Vũ. Về sau y chết già? Chết bệnh? Hay bị triều đình giết?

Nhìn những con mắt sáng long lanh, tỏ ra thần thái tinh anh, lòng tôi ngùn ngụt yêu thương những người trẻ hôm ấy, mà có lẽ chỉ chúa Jésus, đức Thích ca Mâu ni, đức thánh Khổng là có thể yêu đệ tử hơn mà thôi.

Tôi trả lời:

- Y bị giết, bị xẻo từng miếng thịt một... Y bị cỡi ngựa gỗ. Sự việc như sau.



Nói với tuổi trẻ tộc Việt:

Đối với tộc Việt chúng ta, không thế lực đi ngược với ý dân nào có thể tồn tại lâu dài, không cá nhân tàn bạo nào mà không bị sức mạnh của quần chúng đập tan.

Trong căn nhà gỗ không một tiếng động, tôi thuật tiếp:

- Trong ĐVSKTT, quyển tư, phần Lý kỷ, Anh tông kỷ, niên hiệu Đại Định thứ 11, bên Trung nguyên là niên hiệu Thiệu Hưng thứ 20, đời vua Cao tông (Canh Ngọ, DL.1150) có chép đầy đủ tội ác của Đỗ Anh Vũ. Nhưng khi chép về cái chết của y lại rất sơ sài. Y không chết về tay vua Anh tông, vì Anh tông là ông vua khờ. Mà y chết về tay Chiêu Linh Hoàng hậu, vợ vua Anh tông, về tay Thái tử Lý Long Xưởng, con đầu lòng của vua Anh tông, về tay những anh hùng vô danh thảo dã. Hồi thịnh thời, khi giết người, y chế ra những hình cụ, những phương pháp man rợ thì khi bị trừng phạt, y lại nhận lĩnh chính những hình cụ, phương pháp mà y đã chế ra . Đúng như tục ngữ Việt nói: Gieo gió thì gặt bão, gậy ông lại đập lưng ông; hoặc mỉa mai hơn giáo Tầu lại đâm Chệt. Còn Chiêu Linh Hoàng hậu, Thái tử Long Xưởng, thì cả hai đều là những anh hùng cuối cùng của họ Lý, của triều đại Tiêu sơn.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Hồi Thứ Nhì

Côi sơn song ưng


******

Niên hiệu Đại Định thứ mười chín (Mậu Dần, 1158) đời vua Anh tông triều Lý của Đại Việt, bên Trung nguyên nhằm niên hiệu Thiệu Hưng thứ 28 đời vua Cao tông nhà Tống, ngày 15 mùa Thu, tháng 8.

Cái tin quan quan Kiểm hiệu Thái sư, Phụ quốc đại tướng quân, lĩnh Càn nguyên điện đại học sĩ, Long thành tiết độ sứ, Khai phủ nghị đồng tam ty, Nghĩa dũng quốc công Đỗ Anh Vũ cùng cả nhà bị võ lâm đột nhập dinh giữa tiệc Trung thu, rồi xử tử tận số, làm rúng động kinh thành Thăng long. Khắp đế đô, người ta tụ năm, túm ba lại mà bàn tán. Quan phủ thừa Thăng long là Tô Hiến Thành đích thân vào cung xin chỉ dụ của nhà vua, rồi lấy vũ khí trong kho ra, đem phát cho đội Phụng quốc vệ, dẫn tới bao vây dinh Thái sư, để điều tra.

Nhà vua truyền thiết đại triều, nghe tâu trình về vụ này. Tuy năm nay vua đã hai mươi ba tuổi, nhưng Cảm Thánh hoàng thái hậu cũng buông rèm ngồi thính chính. Quần thần ngạc nhiên khi thấy Thái tử Long Xưởng mới tám tuổi, cũng được nhà vua cho đứng cạnh ngai vàng, dường như để hiểu rõ một biến cố quan trọng.

Đúng giờ Mão, bách quan tề tựu đông đủ, ba hồi chuông trống, ban nhạc tấu bản Nguyên thọ:

Minh minh thiên tử,

Vạn dân sở vương.

Hiển hiển lệnh đức,

Như Khuê, như Chương,

Tuyên chiêu nghĩa vận,

Trường phát kỳ tường.

Thiên tích thuần hỗ,

Thánh thọ vô cương.

Dịch:

Vua ta sáng suốt,

Vạn dân ngước nhìn,

Đức tốt rừng rực,

Như ngọc Khuê, Chương,

Tuyên, gọi nghĩa trọng

Điềm lành tứ phương.

Trời ban phúc lớn,

Thánh thọ vô cương.

Một đại thần mình hạc xương mai, tóc bạc phơ bước ra phủ phục tâu:

- Thần Lưu Khánh Đàm, Đặc tiến Thiếu sư, Đồng bình chương sự, Trung vũ quân tiết độ sứ, Tả Kim ngô đại tướng quân, Khu mật viện sứ, lĩnh Chiêu văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, Đăng châu quốc công, kính tâu.

Nhà vua ban chỉ:

- Thiếu sư bình thân.

- Đêm qua, quan thái sư Đỗ Anh Vũ cùng gia thuộc hơn năm mươi người bị thích khách đột nhập vào dinh, xử cỡi ngựa gỗ chín người, giết chết tám mươi ba người ; giữa lúc đang ăn tết Trung thu. Vì vậy thần xin thiết đại triều để phủ thừa Thăng long tâu trình.

Tiếng Thái hậu từ sau màn khóc nức nở hỏi:

- Khánh Đàm! Có biết thích khách là ai không?

Bách quan nghe Thái hậu hỏi một lão thần đáng tuổi ông, tuổi cha bằng lời lẽ khiếm nhã, thì trong lòng nảy ra mối khinh rẻ, chửi thầm: Phường vô học, bất thuật.

- Thần xin để phủ thừa Thăng long tâu.

Một võ quan bước ra quỳ gối:

- Thần Thái tử thiếu bảo, Uy viễn đại học sĩ, Khu mật viện sứ, lĩnh Binh bộ thượng thư kiêm phủ thừa Thăng long, Chinh viễn đại tướng quân, Nam trực hầu, Tô Hiến Thành kính tâu.

Nhà vua vẫy tay:

- Thái bảo bình thân.

- Canh năm vừa qua, một gia nhân của phủ Thái sư tới phủ thần cáo rằng, quan Thái sư với tám người bị võ lâm cho cỡi ngựa gỗ, còn lại toàn gia bị giết lúc giờ Hợi. Thần vội vã cùng các bộ khoái tới điều tra. Sau đây là kết quả.

Hiến Thành cầm tờ biểu lên đọc:

- Vào đầu giờ Hợi, Thái sư cùng thê, thiếp, gia thuộc, gia tướng đang ăn tết Trung thu ngoài sân, thì có ba người đàn ông, một người đàn bà tuổi trung niên với hơn ba chục thiếu niên nam nữ xuất hiện. Chỉ không đầy một khắc, họ điểm huyệt tất cả trên trăm người, chia nhau ra lục soát trong dinh, còn sót người nào thì điểm huyệt người đó, rồi đem xếp thành hàng giữa sân.

Lại bộ thượng thư Đỗ An Di hỏi :

- Xin Thiếu bảo tâu rõ hơn một chút. Bởi Thái sư là đệ tử của đại sư Khánh Hỷ phái Tiêu sơn, bản lĩnh đâu phải tầm thường, mà thích khách điểm huyệt dễ dàng như vậy ? Lại nữa, tùy tòng cũng như gia thuộc của Thái sư nếu không là những đệ nhất cao thủ, thì cũng là những võ tướng. Tôi nghe cạnh Thái sư có Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên. Vậy họ đâu ? Sao thích khách lại lộng hành như chỗ không người ?

Tô Hiến Thành đáp :

- Thưa thượng thư, đêm qua Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên phải chầu hầu Thái hậu nên vắng mặt. Hơn nữa, võ công của đám thích khách quá cao cường. Người nào cũng như người nào, họ chỉ đánh có một chiêu lại hạ một cao thủ của Thái sư. Riêng Thái sư thì bị một người đàn bà hạ. Thị đánh chiêu thứ nhất, Thái sư bật tung lại sau ba bước. Thị đánh chiêu thứ nhì, Thái sư ngã ngồi xuống. Thị vung tay điểm huyệt Thái sư, rồi túm tóc ngài ném ra giữa sân .

Các võ quan cùng bật lên tiếng úi chà tỏ vẻ kinh ngạc.

Thái tử Long Xưởng gật đầu:

- Đám người này bản lĩnh phải kinh thế hãi tục lắm mới có thể hành sự quang minh, lỗi lạc như vậy.

Các quan giật mình, nghĩ thầm:

- Cái ông vua con này khen sát nhân quang minh lỗi lạc, thì ít ra cũng vui mừng khi Thái sư Anh Vũ bị giết.

Thái hậu hỏi:

- Này Tô Hiến Thành, trong dinh Thái sư lúc nào cũng có một đội Phụng quốc vệ. Thế bọn này đâu?

Các quan lại bất mãn về cách xưng hô của Thái hậu. Đúng ra bà phải nói: Này quan Thái bảo, cho đúng với ngôn từ của vị mẫu nghi thiên hạ, thì bà lại gọi tên ra, là điều cực kỳ thô lỗ.

Nhưng Hiến Thành vẫn khom người xuống:

- Tâu Thái hậu, cách đây hai ngày, quan địa phương báo về rằng có một bọn du thủ, du thực đem mấy chục hình nộm, trên hình nộm đề tên Thái sư với... với...trói dính bụng vào nhau.

Đến đây Tô Hiến Thành im bặt.

Thái hậu gắt:

- Với ai? Người là Binh bộ thượng thư mà sao nói ấp a, ấp úng như chó ăn vụng bột vậy? Đồ ăn nợ!

Bị nhục mạ, mặt Tô Hiến Thành tái đi, nhưng ông vẫn bình tĩnh đáp:

- Tâu, với ... với tên Thái hậu.

Cả triều đình đều bật lên tiếng ồ kinh ngạc.

Nhà vua hỏi:

- Chúng đem hình nộm Thái hậu với Thái sư làm gì?

- Tâu, chúng treo ngược lên cây, dùng tên bắn xuyên qua ngực. Chúng lại buộc vào hình nộm mảnh vải có chữ : Kẻ nào gỡ hình nộm đem đi, sẽ bị chặt tay . Vì vậy hoàng nam các thôn, xã không ai dám gỡ. Thái sư phải sai đội Phụng quốc vệ lên đường gỡ hình nộm, cùng truy lùng thủ phạm. Hóa cho nên dinh thự chỉ có gia tướng, thân binh, số người không làm bao, nên sát nhân mới dễ dàng hành sự.

Thái tử Long Xưởng nở một nụ cười:

- Tâu phụ hoàng, thần nhi đoán rồi, chắc chắn đám người giết Thái sư với đám người treo hình nộm là một. Họ biết rằng muốn lọt được vào phủ Thái sư , thì phải tìm cách đưa đội Phụng quốc vệ rời dinh của người. Vì vậy, họ mới bầy ra cái vụ treo hình nộm. Vô tình Thái sư mắc mưu... Thôi, Thái bảo tâu tiếp vụ án dinh Thái sư đi.

Nhà vua gật đầu tỏ ý ngợi khen Thái tử thông minh. Quần thần thấy vụ án sát nhân đến gần trăm người chết ngay giữa Thăng long, hơn nữa người bị giết lại là một quan đầu triều; thế mà dường như nét mặt nhà vua có vẻ hân hoan hơn là ưu tư.

Hiến Thành tiếp:

- Viên thủ lĩnh cầm bản án đọc lên kể tội Thái sư cùng những người trong gia thuộc, cuối cùng tuyên án: Chín người bị cỡi ngựa gỗ hai mươi ba người bị khoét hai mắt, cắt gân chân tay, cắt lưỡi; năm mươi người bị chết chém. Ngược lại bọn người nghèo phải bán thân làm nô bộc, có tới ba mươi sáu người được cấp vàng, bạc, châu báu, rồi cho về quê làm ăn. Mỗi người này đều được cấp một bản án, tuyên rằng : Được miễn làm gia nô cho họ Đỗ. Nếu như quan lại, phú gia nào gây rắc rối với họ sẽ bị khoét hai mắt, chặt hai chân, hai tay.

Thái tử gật gật đầu mỉm cười, dường như tỏ vẻ thích thú:

- Thưa Thái bảo, thế nạn nhân bị xử tại chỗ sao?

- Tâu điện hạ vâng. Những người bị án tử hình, thì họ chém đầu ngay. Những người bị khoét mắt, cắt chân tay cũng bị hành hình trong dinh. Sau khi hành hình, họ đem thuốc băng bó vết thương cho nạn nhân, vì vậy không nạn nhân nào chết cả. Còn chín người bị cỡi ngựa gỗ, thì họ đem chín tấm ván ra, trói chín người bằng dây mây, mỗi người vào một tấm ván, dựng ngược tấm ván lên xe. Sau đó họ cho người dong xe ra chín địa điểm khác nhau.

Thái hậu hỏi:

- Chín địa điểm đó ở đâu?

- Tâu, tại năm cửa thành, Văn miếu, chùa Một cột, đền thờ Trưng vương, đền thờ Linh Nhân hoàng thái hậu. Tại mỗi địa điểm này, họ bắc loa gọi dân chúng tới thực đông, rồi tuyên đọc bản án nạn nhân. Cuối cùng mới cho xẻo từng miếng thịt.

Thái hậu nguyền rủa, khóc thút thít: - Thái sư bị...bị... xẻo thịt sao? Hu...hu... Người có đau đớn lắm không? Chúng xẻo thịt Thái sư ở địa điểm nào?

- Tâu, ở Văn miếu.

- Trời ơi! Tiên sư cha bọn quan quân đâu, mà để cho bọn ác nhân hoành hành như vậy? Còn người ! Người là phủ thừa Thăng long, người chui ở trong váy con đĩ nào, mà cái vụ giết Thái sư ồn ào như thế, phải đợi cho đến khi gia nhân phủ Thái sư báo, người mới biết?



Nghe Thái hậu văng tục, nhục mạ đại thần, hầu hết các quan đều rùng mình than thầm: Hỡi ơi, mấy chục năm qua, người đàn bà tham dâm, thất học này cùng tên Đỗ Anh Vũ cầm quyền, mà mình cứ phải cúi đầu nghe lệnh thì nhục nhã quá. Các quan đều tưởng Tô Hiến Thành bị xỉ nhục thế ắt sẽ tái mặt, rồi từ quan lui về điền dã.

Nhưng không ai ngờ, mặt Hiến Thành vẫn tươi tỉnh:

- Tâu Thái hậu, chính Thái sư ban lệnh rằng: Phàm điều quân từ một ngũ (Năm người) trở lên phải có lệnh của ngài. Vì vậy, ngay trong kinh thành, cũng không có quân tuần phòng ban đêm. Một chiếu chỉ khác của hoàng thượng ban ra rằng: Bất kể cấm quân, Phụng quốc vệ đều phải cất vũ khí vào kho, khi có chiếu chỉ mới được lấy ra. Do vậy , các đô thống chỉ huy Cấm quân, tuy có nghe báo vụ này mà không tập hợp được quân. Ví dù có tập hợp được quân, thì cũng không có vũ khí để đánh đuổi sát nhân.

Thái tử an ủi Tô Hiến Thành:

- Thiếu bảo không cần biện luận! Đây là những tôn sư võ lâm. Khi họ đã ra tay, thì dù ngay thời đức Nhân tông, binh lực hùng mạnh, luật nước nghiêm cẩn, cũng khó phòng. Tôi biết rất rõ rằng, Thiếu bảo là Binh bộ thượng thư, tài trí có, nhưng chân tay bị bó thì làm gì được? Xưởng này đọc trong Thái tổ thực lục, Thái tông kỷ sự, Thánh tông di sự... đều chép rằng thời đó, mỗi khi có trộm cướp thì chỉ cần hoàng nam, hoàng nữ cũng đủ sức đánh dẹp. Ngay như quân Tống, sức mạnh nghiêng trời lệch đất, mà muốn đánh vào một làng có trăm hoàng nam, cũng phải hơn ngàn người. Thế nhưng nay, gian nhân không biết là ai, nhiều ít thế nào, chúng chỉ đề mấy chữ rằng ai gỡ hình nộm sẽ bị chặt tay; cũng khiến hoàng nam sợ đã đành, mà đến quân địa phương cũng không dám đụng đến. Như vậy là cái phong khí Đại Việt suy đồi rồi. Suy đồi từ đâu? Do ai? Các vị dư biết!

Thái hậu quát:

- Ranh con chưa ráo máu đầu, mày biết gì mà xen vào việc quốc gia đại sự? Mày nên nhớ, tuổi mày còn nhỏ, lại chưa mở phủ đệ riêng, chức tước chưa có, mà ngoác mồm ra giữa triều đường ư?

Bị bà mắng, Thái tử đành đứng im.

Thiếu sư Lưu Khánh Đàm lên tiếng:

- Tâu thái hậu, Thái tử tuổi tuy nhỏ, nhưng nhờ hưởng cốt nhục của chư vị tiên đế, nên thông tuệ khác thường. Thái tử chưa có chức tước, chưa mở phủ đệ riêng, nhưng Thái tử là hoàng trưởng tử thì vẫn là trừ quân. Thần dám xin Thái hậu để Thái tử được dự bàn trong buổi triều hội này.

Thái hậu định lên tiếng bác lời Lưu Khánh Đàm, nhưng bà chợt nhớ ra ông là cố mệnh đại thần thời vua Nhân tông, nên đành im lặng.

Thái tử nhìn các quan, rồi tiếp:

- Vào thời đức Thánh tông, Nhân tông khi Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn vọng thê hòa thượng, mỗi khi lên án, xử tội ai, thì đều để lại tín hiệu. Vậy hung thủ có để tên lại không?

- Tâu, trên bản án có vẽ hình hai con chim ưng đang bay trên hai ngọn núi. Như vậy người chủ trương cuộc thảm sát này là Côi sơn song ưng.

Cả triều đình đều rúng động. Các quan thanh liêm chính trực thì hiện ra nét hân hoan không bút nào tả siết. Ngược lại bọn phe đảng của Anh Vũ thì mặt nhìn mặt, vừa hốt hoảng, vừa kinh hoàng.

Thái hậu hỏi bằng giọng run run:

- Côi sơn song ưng là ai vậy?

Tô Hiến Thành tỏ vẻ luống cuống, ông đưa mắt nhìn quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền.

Theo Lý triều hội điển sự lệ, thì Hoàng Nghĩa Hiền là thầy của nhà vua, khi vào chầu được ngồi, khi tâu không phải xưng tên. Nhưng ông bị Đỗ Anh Vũ với Hoàng thái hậu chèn ép, nên không được hưởng ân huệ này. Ông bước ra tâu:

- Thần Dao thụ thái phó, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, Khu mật viện sứ, Nam quốc công Hoàng Nghĩa Hiền kính tâu.

Nhà vua tuyên chỉ:

- Xin thầy bình thân.

- Tâu Thái hậu, từ hơn hai năm nay, trong võ lâm Đại Việt xuất hiện một cặp vợ chồng tuổi khoảng ba mươi đến bốn mươi, võ công cực kỳ cao siêu. Hai người ẩn hiện như thiên thần, thiên tướng, chuyên cứu khốn phò nguy, mà không bao giờ xưng tên. Nhưng mỗi khi hành hiệp, hai người để lại một tấm thẻ, trên khắc hình hai con chim ưng xòe cánh bay ngang qua hai ngọn núi. Vì hai người xuất hiện lần đầu ở Trường yên, nên người ta gọi là Côi sơn song ưng (Ghi chú: Côi sơn là tên một ngọn núi ơ Trường yên nay thuộc Ninh bình). Từ hồi ấy đến giờ, Côi sơn song ưng qua lại, dọc ngang trên giang hồ, giết không biết bao nhiêu bọn gian thần tặc tử, bọn đạo tặc, bọn mãi quốc cầu vinh. Cho đến nay, mỗi khi bọn gian nghe đến tên Côi sơn song ưng là kinh hồn động phách.

Nhà vua chau mày hỏi:

- Côi sơn song ưng hành sự như vậy, mà sao các trấn không tâu về cho trẫm hay? Lạ thực.

- Tâu bệ hạ mỗi vụ xẩy ra, đều có biểu tâu về, nhưng... nhưng Thái sư đọc xong thì truyền rằng sẽ diện tâu với bệ hạ. Nào ngờ Thái sư lại dấu diếm.

Thái tử tâu:

- Từ bấy lâu nay, Thái sư bưng bít không tâu lên phụ hoàng biết bao nhiêu sự trọng đại đã đành, mà người còn cấm không cho ai nhắc những chuyện đó trong Hoàng thành nữa. Thần nhi chỉ là đứa trẻ tóc còn đỏ, mà cũng nghe biết rất nhiều về Côi sơn song ưng nữa là...
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Thái hậu quát lên:

- Long Xưởng, gần đây tao thấy mày có những hành vi, ngôn từ luôn luôn tỏ ra bất kính với Thái sư. Dù sao Thái sư cũng lớn hơn mày đến ba bậc, mà mày lại dám xung chàng với người ư?

Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền can thiệp:

- Tâu Thái hậu, những điều Thái tử nghị luận đều đúng với đạo lý cả. Xin Thái hậu bớt nổi lôi đình.

Nhà vua tuyên chỉ:

- Xưởng nhi hãy kể ra một vài vụ án, mà Côi sơn song ưng xử để trẫm tường.

Thái tử khoan thai thuật:

- Vụ án thứ nhất, thần nhi xin kể là vụ Song ưng xử bọn bán trâu cái sang Quảng Tây.

ị ... Nguyên từ thời đức Thánh tông, khi Linh Nhân hoàng thái hậu tiến cung, người tâu rõ tệ trạng giết trâu, bán trâu sang Trung nguyên. Đức Thánh tông ban chỉ phạt rất nặng tội giết trâu, bán trâu; nên chỉ ít năm sau số trâu trong nước dư thừa để cầy cấy, chuyên chở. Lệnh này cho đến nay vẫn còn hiệu lực. Thế nhưng, tình trạng hương đảng lỏng lẻo, nên dân chúng vẫn giết trâu mỗi khi hiếu hỷ. Bọn trộm trâu vẫn hoành hành, chúng trộm trâu đem lên mạn ngược bán sang Tống. Khổ hơn nữa, chúng chuyên bán trâu cái. Trong những bọn buôn trâu này, quan trọng nhất là tên Đèo Hiệp, thủ lĩnh một động người Nùng. Chúng dựa vào thế Đỗ Thái sư, nên quan nha địa phương không ai dám động đến chúng.

Một nông dân nghèo quê ở Hồng châu, tên Chu Kim, vì không có trâu cầy, phải đi thuê của một phú gia. Ngay đêm đó, trâu bị trộm bắt. Chủ trâu bắt đền, Chu Kim không có tiền đền. Chủ trâu đi trình quan. Quan xử: Vợ chồng Chu Kim phải bán mình cho phú gia, thay trâu cầy ruộng. Vợ chồng Chu Kim biết rõ trâu bị trộm bán cho Đèo Hiệp. Hai vợ chồng tìm đến đàn trâu của y, thì thấy con trâu ấy. Nhưng Đèo Hiệp lấp liếm rằng, trâu đó của y. Chu Kim gọi phú gia đến để nhận trâu. Đèo Hiệp không cho, y bảo trâu đó của y mua từ lâu rồi. Việc đưa lên quan. Quan sợ thế lực của Đèo Hiệp, xử cho y thắng, truyền đánh Chu Kim ba mươi bổng về tội cáo gian. Quá uất ức, Chu Kim thắt cổ chết. Việc tới tai Song ưng. Song ưng cùng đệ tử xuất hiện giữa ban đêm, bắt huyện lệnh, lý dịch mang loa gọi dân chúng đến xem xử kiện. Song ưng gọi chủ trâu với Đèo Hiệp, rồi chỉ vào con trâu tang vật bảo rằng:

- Trâu nào cũng có tên, phàm khi chủ gọi thì trâu sẽ rống lên rồi chạy đến. Bây giờ hai người đứng trước bầy trâu, lên tiếng gọi trâu. Nếu như ai gọi, mà nó lên tiếng rồi chạy lại, thì là trâu của người đó.

Quả nhiên, Đèo Hiệp gọi, trâu không ứng tiếng. Còn khi chủ trâu gọi, thì trâu rống lên rồi phóng tới trước mặt.

Song ưng tuyên án:

- Đèo Hiệp buôn lậu trâu qua biên giới, theo Hình thư thì bị phát vãng 10 năm, tái phạm thì bị chém ngang lưng. Nếu như buôn từ mười con trở lên thì bị giết cả nhà, tang vật bị tịch thu. Đây mi buôn lậu nhiều lần, buôn hàng đàn trâu, vậy thì phải giết cả nhà. Nhưng trong hình thư có khoản cho phép dùng tiền chuộc tội. Vậy, nay tao cho mày được chuộc tội. Nhà mày gồm một vợ với hai đứa con, tao cho mày chuộc mạng mày năm trăm lượng vàng, vợ mày ba trăm lượng, mỗi đứa con hai trăm lượng. Tổng cộng một nghìn hai trăm lượng. Mày ức hiếp Chu Kim, để đến nỗi nó phải tự tử chết, mày phải đền mạng nó ba trăm lượng nữa. Tất cả bầy trâu của mày đều bị tịch thu. Đấy tao xử như vậy đấy, nếu mày không chịu, thì tao chặt đầu cả nhà mày ngay tại đây.



Dĩ nhiên Đèo Hiệp chịu.

Song ưng xử đến viên huyện lệnh:

- Mày là mệnh quan của triều đình, đáng lẽ thấy bọn bán trâu qua biên giới thì phải bắt giam, đem xử tội. Đây mày làm lơ, như vậy là có mắt như mù. Khi Chu Kim đến kiện, đáng lẽ phải truyền bắt giam đứa trộm trâu, truyền trả trâu cho chủ... thì mày xử ức, che dấu cho kẻ gian, như vậy, hai tay mày vi luật. Nay tao xử chặt hai tay, khoét hai mắt mày.

Tuyên án xong, Song ưng cho thi hành ngay tại chỗ. Sau vụ án này, nạn trộm trâu, bán trâu sang Trung nguyên ở vùng biên giới chấm dứt Ể.

Nhà vua than:

- Hỡi ơi! Vụ án lớn như vậy, mà trẫm không biết gì! Số vàng mà tên Đèo Hiệp nộp phạt là một nghìn hai trăm lượng, Song ưng lấy ba trăm lượng bồi thường cho Chu Kim, vậy còn chín trăm lượng với bầy trâu đâu?

- Tâu, Song ưng đem số vàng đổi thành bạc, đem chuộc những người con gái trong vùng, bất hạnh phải bán mình làm nô bộc cho nhà giầu, rồi gả cho những người con trai nghèo không có tiền cưới vợ. Còn bầy trâu, thì chia cho nông dân nghèo.

- Như vậy Song ưng là quan Hình bộ thượng thư tư rồi. Hoàng nhi hãy thuật thêm vụ nữa.

- Vụ thứ nhì mà thần nhi biết là vụ Song ưng xử bọn cướp biển ở Hải Nam xâm nhập vùng Tiên yên.

ị ...Thời đức Nhân tông về trước, luật Tống Việt định rõ rằng: Khi ngư nhân nước nọ muốn sang lãnh hải nước kia đánh cá thì phải có phép của phủ huyện địa phương. Ngư nhân Hải Nam tự kết thành bang, mang tên Hải Nam điếu ngư gọi tắt là bang Hải ngư. Song là loại cá vừa ngon, lại vừa bổ huyết. Ngư nhân Tống đánh nhiều quá, nên gần đây lãnh hải Tống không còn loại cá này nữa. Họ tràn sang lãnh hải Việt mà đánh. Lúc đầu họ xin phép; mỗi ngày, không cần biết họ đánh được bao nhiêu, một thuyền phải nộp thuế năm chỉ bạc. Thông thường, quan huyện Tiên yên cho phép hai trăm, đến ba trăm thuyền nhập nội. Từ hai chục năm nay, quan huyện Tiên yên tham của đút, nên mỗi ngày cho phép từ năm trăm tới một nghìn thuyền Tống vào. Đấy là thuyền nhập cảnh chính thức, chứ thực ra có hàng mấy ngàn thuyền nhập lậu. Bọn Hải ngư dựa thế quan huyện Tiên yên, chúng đuổi hết ngư nhân Việt khỏi ngư trường. Vì thế nên ngư dân Việt không còn đất sống nữa, họ cùng nhau kiện lên quan. Nhưng quan không xử thì chớ, mà hễ người nào thưa thì khi ra khơi, đàn ông bị bọn Hải ngư giết chết, đàn bà thì chúng hãm hiếp rồi quẳng xuống biển. Thuyền, lưới, chúng cướp luôn. Như vậy rõ ràng quan huyện Tiên yên đã báo cho bang Điếu ngư biết.

Ngư dân Việt khốn khổ khôn cùng, đành nằm trong làng chài mà khóc với nhau. Nhiều gia đình chết đói. Một ngày kia có hơn trăm người đến làng chài tập trung trai tráng lại dạy võ, cùng phương cách đánh nhau trên biển. Rồi trăm võ sĩ đó bảo họ cứ ra khơi đánh cá, sẽ được bảo vệ. Khi đoàn thuyền Việt vừa ra ngư trường, thì bị bọn Hải ngư vây đánh. Lập tức trăm võ sĩ ra tay, họ tung mình sang thuyền bọn Hải ngư, thoáng một cái họ đã điểm huyệt hầu hết ngư dân Tống. Trận chiến ngày đầu không ai chết, bị thương cả. Ngư dân Việt kéo hơn năm trăm thuyền Tống, hơn hai nghìn tù mang về làng chài. Sang ngày thứ hai, thứ ba cũng tương tư. Bọn thủ lãnh bang Hải ngư thấy ngàn rưởi thuyền của mình ra đi không về, chúng kéo đại lực lượng đi tìm. Có ngư dân Tống biết truyện báo cho chúng biết. Chúng cho rằng quan huyện Việt làm truyện này, chúng kéo nhau vào cửa biển Tiên yên, rồi nhập huyện đường lý luận với quan huyện. Giữa lúc ấy, có ba người đàn ông, một người đàn bà với hơn trăm võ sĩ xuất hiện. Họ nhanh chóng điểm huyệt huyện lệnh, thân binh cùng với bang Hải Nam điếu ngư. Một người kéo lá cờ có thêu hình hai con chim ưng đang bay qua đỉnh núi. Họ cho triệu tập tất cả ngư dân Việt, Tống lại rồi xử tội: Huyện lệnh với bang chúa, phó bang chúa Hải ngư bị chặt hai chân, hai tay, khoét hai mắt. Ngư dân Tống nào có giấy phép nhập cảnh thì được tha về, kẻ nào không có giấy phép thì phải nộp phạt số bạc bằng sáu mươi ngày thuế chính thức, và cấm tuyệt không cho vào lãnh hải Đại Việt đánh cá nữa.

Cuối cùng Song ưng tuyên án:

- Kể từ nay, bất cứ ngư dân Việt nào nhập lãnh hải Tống, hay ngược lại ngư dân Tống nào nhập lãnh hải Việt, mà không xin phép sẽ bị chặt một tay, tái phạm sẽ bị chặt hai tay, khoét hai mắt.

Số bạc ngư dân Tống nộp phạt thì Song ưng trao cho những gia đình bị bọn Hải ngư giết hại.

Từ đấy bọn quan lại vùng Tiên yên cho tới ngư dân hai bên đều nhất nhất tuân theo phép nước Đại Việt Ể.

Thái hậu hét lên:

- Như vậy là loạn to rồi. Đời thủa nhà ai, bọn cướp lại lộng hành đến như thế được? Chúng công khai hành hình mệnh quan của triều đình, mà triều đình toàn một lũ ăn hại, không biết giữ quốc pháp. Xá gì hai tên cướp Côi sơn song ưng, chúng công khai làm phản, mà không ai trị nổi!

Thiếu sư Lưu Khánh Đàm biện luận:

- Tâu Thái hậu, những vụ Song ưng xử như vậy có đến hàng trăm, hàng nghìn. Khi một vụ xẩy ra, các quan địa phương thượng biểu về triều, thần cho xét lại chi tiết, tâu lên hoàng thượng. Nhưng Thái sư bảo để Thái sư giải quyết, nên chi, chính hoàng thượng cũng không biết gì, thì chư vị đại thần làm sao mà can thiệp vào? Vả lại, mỗi vụ Song ưng xử, đều căn cứ vào bộ Hình thư , trừng trị bọn bất trung, bất hiếu, bọn đạo tặc, bọn tham quan... thì đâu có thể bảo rằng Song ưng là đồ phản tặc?

Thái tử tiếp lời Thiếu sư:

- Thưa thầy, theo như Xưởng nghĩ, thì dường như Song ưng là hai vị đại hiệp không muốn xuất đầu lộ diện, hết lòng phù trợ cho bản triều, chứ không hề có ý phản bội.

Sau khi nghe Thái tử thuật hai vụ án do Côi sơn song ưng xử ,nhà vua tuyên chỉ cho Thiếu sư Lưu Khánh Đàm:

- Xin Thiếu sư lục sao lại tất cả những tấu trình về các án do Song ưng đã xử, rồi đem cho trẫm ngự lãm.

Tô Hiến Thành hỏi Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền:

- Thưa quan Thái phó, không biết Song ưng thuộc môn phái nào?

- Lão phu là văn quan nên không rõ vụ này. Xin để quan Thống lĩnh Phụng quốc vệ trả lời.

Một võ quan bước ra quỳ tâu:

- Thần đô thống Đàm Dĩ Mông, thống lĩnh Phụng quốc vệ xin kính tâu: Vì võ công Song ưng quá cao, nên khi ra tay diệt trừ trộm cướp thì chỉ đánh một chiêu đã khiến đối thủ chết rồi. Do thế không ai biết Song ưng thuộc môn phái nào? Có người đoán già rằng Song ưng là người thuộc phái Sài sơn, bởi chưởng môn phái này là Lê Thúc Cẩn với vợ là Ngô Lan Chi có nhiều hành vi quái dị, đi đâu cũng mang theo đàn chim ưng năm con. Lại cũng có người cho rằng, Côi sơn song ưng là Trần Tự Hấp với vợ là Bùi Anh Hoa thuộc phái Đông a.

Nhà vua hỏi quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền:

- Thưa thầy, thầy là người có qua lại với Trần Tự Kinh, thầy thấy vụ này ra sao?

Hoàng Nghĩa Hiền bước ra tâu:

- Thần không tin Côi sơn song ưng là Trần Tự Hấp. Bởi Tự Hấp là con trưởng của đại hiệp Trần Tự Kinh chưởng môn phái Đông a. Mà Tự Kinh là người ôn nhu, nhân từ bậc nhất Đại Việt, đến giết con gà, con vịt ông còn không nỡ nữa là giết người hàng loạt như vậy. Tự Hấp là người con chí hiếu, chắc y không thể làm trái với chủ trương của cha.

Tô Hiến Thành nhăn mặt:

- Thưa Thái phó, hay là một trong các đệ tử của Tự Kinh?

- Không! Không thể là đệ tử của ông được. Ông có năm đệ tử được võ lâm tặng cho mỹ danh Đại Việt ngũ tuyệt. Một là Quách Tử Minh, chưởng lực tuyệt cao. Hai là Vũ Tử Mẫn, văn chương tuyệt thế. Ba là Phạm Tử Tuệ, y học tuyệt minh. Bốn là Cao Tử Đức, tử vi, nhâm độn, địa lý, bói dịch tuyệt trần. Năm là Trần Tử Giác tiễn thủ tuyệt diệu. Ngoài ra, ông còn nhận thêm một đệ tử út là Tô Trung Sách. Cả hai con trai, hai con dâu, sáu đệ tử... võ công, đạo đức nức tiếng thiên hạ. Chắc chắn họ không dám làm những gì trái ý sư phụ.

Hình bộ thượng thư Trần Trung Tá tâu :

- Thần Nam sơn hầu Trần Trung Tá, Tả gián nghị đại phu, lĩnh Hình bộ thượng thư kính tâu. Để có thể tìm ra Côi sơn song ưng, ta không nên bỏ một ai mà không nghi ngờ cả. Xét chung, bản lĩnh Song ưng cao như vậy, thì phải thuộc về ngũ đại môn phái. Như quan Thái phó luận thì Song ưng không thể là người phái Đông a. Vậy còn lại bốn phái là Mê linh, Sài sơn, Tản viên, Tiêu sơn... đều phải nghi cả. Phái Tiêu sơn là nơi xuất thân của Thái sư, vả các đại cao thủ đều là chư tăng. Mà cao tăng phái Tiêu sơn đều có lòng quảng đại, từ bi, hỷ xả. Vậy Song ưng không thể là người phái này.

Thái hậu hỏi:

- Hay là người của phái Tản viên ?

- Tâu Thái hậu, cũng không phải.

Hiến Thành phân giải : Vụ án dinh Thái sư không thể là người phái này. Bởi hôm qua là ngày đại hội của phái Tản viên ở Tản lĩnh, để làm lễ tuyên phong tân chưởng môn Cao Đức Hòa. Các cao thủ với chư đệ tử đều ở trên Tản lĩnh cả.

Thái tử Long Xưởng hỏi Trung Tá :

- Vậy chỉ còn lại người của phái Mê linh, Sài sơn. Đại phu cho rằng phái nào đáng nghi nhất ?

- Từ ngày thành lập đến giờ, phái Mê linh giữ vững tinh thần thời Lĩnh Nam là không bao giờ can thiệp vào việc đời, việc võ lâm. Đệ tử phái này chỉ can thiệp khi bị ngoại xâm mà thôi. Còn phái Sài sơn, thì năm mươi năm qua đệ tử phái này chuyên vân du thiên hạ hành y đạo cứu người, không lý gì đến chính sự, cũng như chuyện phải trái của võ lâm.

Long Xưởng bật cười :

- Rút cuộc ta vẫn không tìm ra căn cước Song ưng.

Thái hậu hỏi Tô Hiến Thành :

- Này Tô Hiến Thành. Người có cách nào tìm ra Côi sơn song ưng để trả thù cho Thái sư không?

- Tâu thái hậu, điều này không khó. Hiện phái Đông a người nhiều, thế mạnh. Cao thủ của họ có mặt khắp nơi. Bây giờ nhân cái vụ Côi sơn song ưng giết cả nhà Thái sư, ta cứ đổ diệt cho phái Đông a. Như vậy tự nhiên phái này phải sai người điều tra, rồi công bố cho võ lâm biết Song ưng là ai. Sau đó ta đem quân về làng của chúng, bắt cả nhà Song ưng cỡi ngựa gỗ trả thù cho Thái sư.

Hoàng Nghĩa Hiền phản đối:

- Từ hơn trăm năm qua, thời nào phái Đông a cũng có những nhân tài kiệt hiệt phò tá triều đình. Cho đến nay, uy đức của Quốc trượng Tự An, Kinh Nam vương Tự Mai, Quốc mẫu Thanh Mai, Mộc tồn hòa thượng, vẫn còn sáng chói trong tâm trăm họ. Ta không thể, không nên làm chuyện gắp lửa bỏ bàn tay như vậy.

Thái hậu hừ một tiếng rồi ban chỉ cho nhà vua:

- Hoàng nhi! Kế này của Tô Hiến Thành hay thực! Hoàng nhi hãy dùng đi. Xá gì bọn vai u thịt bắp Đông a. Nếu cần, ta đem quân về Thiên trường làm cỏ bọn này cũng cứ được đi. Ta cần tìm ra Côi sơn song ưng, rồi đào mồ, cuốc mả mười đời tổ tiên chúng lên, đổ xuống hố phân. Còn ba họ nhà chúng, sẽ cho cỡi ngựa gỗ.

Thái tử Long Xương trách Tô Hiến Thành :

- Từ ngày bản triều lập nền chính thống đến giờ, tuy trải qua nhiều năm thăng trầm khác nhau. Nhưng đời nào cũng dùng đức từ bi, hỷ xả của đức Thế tôn, dùng nhân nghĩa của Khổng Mạnh cai trị dân. Nay triều đình có trăm quan đều thuộc loại văn mô, vũ lược... mà ta không tìm ra căn cước Côi sơn song ưng, thì hỏi sao có thể tìm ra bọn gian tế, bọn mãi quốc cầu vinh, bọn gian thần tặc tử ? Thái bảo hiện là Binh bộ thượng thư, nắm binh quyền trong tay, nhân lực có hàng chục vạn, quyền hành bao trùm Đại Việt. Thái bảo phải dâng những lời trung nghĩa, nhân đức lên cho đấng quân phụ, chứ có đâu phủi tay, rồi đổ oan cho môn phái Đông a. Tin này lọt ra ngoài, thì uy tín triều đình còn gì nữa ? ! ? ! ?

Bị một thiếu niên dùng chính đạo khiển trách giữa triều đình, mặt Hiến Thành tái xanh. Ông cúi đầu :

- Thần hơi có đôi chút nông nổi.

Nghe cháu đàn hạch một đại thần bằng đạo lý, thay vì vui mưng, thì mặt Thái hậu tái xanh. Ba quát :

- Câm cái mõm chó lại. Bằng không bà sẽ vã vào miệng bây giờ. Được, nội trong ba năm mà mi không tìm ra Côi sơn song ưng, thì ta sẽ truất mi xuống làm thường dân, xóa tên trong ngọc diệp. Thôi ta hồi cung.

Thấy mẹ lui về cung, nhà vua như thoát được cái ách, ngài tuyên chỉ:

- Tô thái bảo! Thế bản án Côi sơn song ưng buộc tội Đỗ Anh Vũ đâu, xin Thái bảo đọc lên cho triều đình cùng nghe.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Thấy nhà vua gọi tên của Đỗ Anh Vũ ra, thay vì gọi là Thái sư, triều thần không ngạc nhiên. Vì hai chục năm qua, y tư thông với Thái hậu, áp chế nhà vua, mà nhà vua không làm gì được.

Thấy Hiến Thành tỏ vẻ ngần ngừ, Long Xưởng thúc:

- Tôi biết trong bản án ắt có nhiều điều đại bất kính với triều đình. Nhưng này Thái bảo, dù là bất kính, nhưng sát nhân đã dán khắp kinh thành, thì dân chúng đều biết rồi, vậy ta còn dấu diếm các đại thần làm gì?

Bất đắc dĩ Tô Hiến Thành phải trình ra một mảnh vải lớn viết đầy chữ. Nhà vua trao cho quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền:

- Xin thầy đọc lên để triều đình cùng nghe.

Hoàng Nghĩa Hiền cầm mảnh vải đọc:

Côi sơn song ưng, cáo tri với triều đình, võ lâm, hương đảng Đại Việt.

Nước Đại Việt ta, trải qua 88 đời vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng, đã đỉnh lập ra một nước văn hiến , có luật pháp, có kỷ cương. Các triều đại gần đây như Đinh, Lê, tuy không lâu dài, nhưng cũng có những năm thịnh trị, luật lệ, phép tắc càng nghiêm hơn, mà phong hóa càng rực rỡ. Kế đến đức Thái tổ, ứng lòng trời, thuận lòng người lập ra bản triều, dùng đức từ bi hỷ xả của đức Thế tôn mà cai trị dân. Kế tới đức Thái tông, Thánh tông, Nhân tông... lại dùng Nho làm giềng mối dạy dân, luôn theo lễ nghi của thánh hiền.

Kể từ khi đức Thần tông băng, quyền vào tay hai con đàn bà ngu xuẩn, được tôn phong cái gọi là Chiêu Hiếu thái hoàng thái hậu, Cảm Thánh hoàng thái hậu... đã làm giềng mối xã tắc hỗn loạn, mà kỷ cương, luân thường bị phá bỏ. Đỗ thị trao toàn quyền cho đứa em là Đỗ Anh Vũ, một ác nhân, văn không thông, binh không biết cầm quân. Trong suốt hai mươi năm qua, hai con đàn bà ngu dốt lăng loàn này, với tên Đỗ Anh Vũ đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nay chỉ nêu ra những tội chính:

Một là, chúng ám hại Lệ Thiên hoàng hậu, rồi lại đánh thuốc độc giết chết quan Tả Kim ngô đại tướng quân, Vinh quốc vương Lý Sơn, là thân phụ của Lệ Thiên hoàng hậu. Theo bộ Hình thư thì phải giết cả nhà.

Hai là, Anh Vũ tư thông với Cảm Thánh hoàng thái hậu, làm ô uế nội cung. Theo bộ Hình thư thì phải giết cả nhà.

Ba là, giả chiếu chỉ sát hại Chiêu Hòa vương Lý Long Vũ, vì vương tuân chỉ của hoàng đế bắt Anh Vũ về tội thông dâm với Cảm Thánh hoàng thái hậu. Theo Hình thư thì phải tội lăng trì cùng giết cả họ.

Bốn là, sát hại Chiêu Hiếu thái hoàng thái hậu. Theo bộ Hình thư thì phải giết cả ba họ.

Năm là, giả chiếu chỉ, giáng truất các hoàng thân Trí Minh vương, Bảo Ninh hầu, Bảo Thắng hầu. Lại sát hại các đại thần Nguyễn Dương, Vũ Đái, Đỗ Aãt, Đồng Lợi và gia thuộc. Theo Hình thư thì phải giết ba họ.

Sáu là, chúng áp chế vua, giải tán mười hai hiệu Thiên tử binh là mười hai cây cột chống xã tắc. Theo Hình thư thì phải tội giết ba họ.

Chúng ta đã điều tra rõ chính phạm, tòng phạm, nay kết án theo Hình thư: Tám tên chính phạm với Anh Vũ cho cỡi ngựa gỗ. Tất cả vợ, con y đều bị khoét hai mắt, cắt gân tay chân, cắt lưỡi. Các gia nhân ác độc thì bị chém ngang lưng.

Niên hiệu Đại Định thứ mười chín, mùa Thu tháng tám, ngày rằm.

Nhà vua nghe đọc xong thì mỉm cười:

- Trước đây, ác nhân Đỗ Anh Vũ hoành hành, mà trẫm chịu bó tay. Đêm đêm, trẫm thường khấn các vị tiên đế sao cho Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn hòa thượng sống lại để trừ khử chúng dùm. Nay nhờ anh linh tiên đế phù hộ, mà bọn này bị Côi sơn song ưng giết, thực là may mắn cho xã tắc. Bây giờ chư khanh với trẫm hãy xây dựng lại những gì thời đức Thái tổ, Thái tông, Thánh tông, Nhân tông đã làm.

Thái tử Long Xưởng hô:

- Các võ sĩ đâu?

Mười tám người mặc y phục dân dã, tuổi còn rất trẻ, dáng người nhỏ bé, từ ngoài dạ lên, rồi vào điện cúi đầu:

- Xin chờ chỉ dụ của bệ hạ.

Đô thống Đàm Dĩ Mông là người chỉ huy Phụng quốc vệ kinh ngạc vô cùng, vì trong mười tám người, không có người nào y quen mặt cả. Hơn nữa, các Phụng quốc vệ không được mang vũ khí, mà nay họ đều cầm kiếm.

Thái tử quát:

- Bắt tất cả bọn gian thần ngay tức thời.

Mười tám người cùng dạ lên một tiếng, rồi ra tay. Các quan thuộc đảng của Anh Vũ bị điểm huyệt, rồi bị trói. Khi võ sĩ bắt Đàm Dĩ Mông, y phát chiêu chống trả. Một võ sĩ chỉ đánh có ba chiêu, y đã bị điểm ngã. Mông khiếu oan:

- Tâu bệ hạ, thần vô tội. Nếu thần có tội, thì tội đó do Thái hậu ban cho.

Y quay lại nói với đám võ sĩ:

- Thì ra các người là những cao thủ phái Mê linh đấy!

Nhà vua truyền chỉ với Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền:

- Kể từ lúc này, thầy phụ trách chư sự Thượng thư lệnh, hủy bỏ tất cả luật lệ, hình phạt tàn bạo do Anh Vu đặt ra. Chúng ta trở lại với thời đức Nhân tông. Truy phong, phục hồi chức tước cho tất cả những người bị y hại, phàm tài sản sung công thì trả cho oan chủ. Tài sản của Anh Vũ, thì tịch thu tận số sung công. Lại giao cho bộ Hình xét tội trạng phe đảng của y, đem xử cho nghiêm chính pháp.

Nhà vua tuyên chỉ cho Thiếu sư Lưu Khánh Đàm:

- Thiếu sư là cố mệnh đại thần từ đời đức Nhân tông, nay xin thay thế Anh Vũ, lĩnh Thái sư, quản Khu mật viện, lĩnh Phụ quốc thái úy, mau mau phục hồi Khu mật viện, cùng chỉnh đốn lại các hiệu Thiên tử binh.

Khánh Đàm lĩnh mệnh.

Nhà vua gọi một võ quan:

- Tả lãnh vệ thượng tướng quân.

Võ quan ấy bước ra tâu:

- Thần, Phí Công Tín, Tả lãnh vệ thượng tướng quân, thống lĩnh hiệu binh Kinh Bắc, tước Trung dũng bá xin chờ chỉ dụ của bệ hạ.

- Trẫm phong khanh lên hàm Thiếu bảo. Trong khi chờ đợi thiết lập lại Cấm quân, Thị vệ, trẫm giao cho khanh giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khanh hãy đem hiệu binh Kinh Bắc về để bảo vệ Hoàng thành. Thôi bãi triều!

Nhạc tấu bản Long hồi:

Kỳ nghi bất thắc,

Túc ung hòa minh,

Tỷ tập hy vụ thuần hỗ,

Thọ khảo thả ninh,

Lệnh văn bất dĩ,

Duật tuấn hữ thanh.

Thiên tử vạn niên,

Phúc lộc lai thành.

Dịch:

Cung đình chính lễ,

Đầy đủ hòa minh,

Phúc tốt sáng rực,

Thọ bền an ninh.

Thanh truyền vô tận,

Tốt bền dài lâu.

Thiên tử vạn năm,

Phúc lành đến mãi.

Đại Định hoàng đế dắt tay Thái tử Long Xưởng hồi cung. Tới cung Chiêu Linh, hoàng hậu ra đón. Vừa thấy hậu, nhà vua nắm lấy tay:

- Hậu thực là Linh Nhân hoàng thái hậu tái thế. Những gì hậu luận bàn cùng trẫm đã diễn ra không sai một chút nào. Có điều Xưởng nhi mẫn tuệ khác thường, trẫm là cha, mà không biết, thực đáng trách. Bây giờ ác nhân chết rồi, hậu với trẫm có rất nhiều việc phải làm, để tái phục hồi những gì từ thời đức Nhân tông, nay đã mất.

Chiêu Linh hoàng hậu truyền cung nữ dâng trà cho nhà vua. Hậu tâu:

- Từ hồi bản triều ngự chính thống đến giờ, đều có lệ: Khi một hoàng tử sinh ra, lập tức được phong chức tước, rồi khi đã trên mười tuổi thì cho mở phủ đệ riêng, để có thể thiết lập Đông cung quan, phụ giúp phụ hoàng thi hành chính pháp. Nay Xưởng nhi tuy mới tám tuổi, nhưng thông tuệ khác thường, học một biết mười, thiếp cũng xin bệ hạ ban chỉ cho Xưởng nhi mở phủ đệ, hầu phụ giúp bệ hạ trong dịp phục hưng này.

- Hậu luận đúng. Ngay ngày mai, trẫm sẽ ban chỉ phong chức tước cho Xưởng nhi, còn việc mở phủ đệ riêng, thì chưa thể, vì Xưởng nhi mới tám tuổi.

Long Xưởng thấy cha mẹ khen mình, thì xen vào:

- Tâu, thần nhi nghĩ, trên đời này không ai có thể phụ giúp phụ hoàng đắc lực, trung thành, tận tụy bằng mẫu hậu. Phụ hoàng nên học theo đức Thánh tông dùng Linh Nhân hoàng thái hậu, mà dùng mẫu hậu như một đại học sĩ, để hôm sớm cùng nhau luận bàn quốc sách. Nay thần nhi chưa được mở phủ đệ riêng, thì thần nhi xin chầu hầu phụ hoàng sớm tối để học phép trị dân, thì cũng như mở phủ đệ riêng vậy.

Nhà vua xoa đầu Long Xưởng:

- Được, phụ hoàng sẽ làm như con tâu.

Ngự trù dọn cơm lên.

Chỉ có Hoàng hậu với Thái tử cùng ngồi ăn. Nhà vua hỏi:

- Này hậu, đêm qua, hậu cho trẫm biết chi tiết cái tin ác nhân Anh Vũ bị giết cả nhà. Rồi hậu xếp đặt mọi chuyện. Trong lúc khẩn cấp, trẫm nhất nhất nghe lời hậu mà thành công. Nay trẫm có thắc mắc: Tin đó, cuối canh năm phủ thừa Thăng long mới biết, mà sao canh ba hậu đã biết mà tâu với trẫm? Lại nữa, hậu kiếm đâu ra mười tám võ sĩ bản lĩnh thực không tầm thường, mau chóng bắt gọn phe đảng ác nhân Đỗ Anh Vũ, bằng không thực khó mà kiềm chế được chúng.

Hoàng hậu chưa kịp trả lời, thì Thái tử Long Xưởng đã chỉ ra cây hoa ngọc lan ngoài sân, trên đó có đôi chim ưng đang rỉa lông:

- Tâu phụ hoàng, chính Côi sơn song ưng đã sai chim ưng báo cho mẫu hậu biết, để mẫu hậu chuẩn bị kịp.

Ghi chú của thuật giả.

ĐVSKTT, Lý kỷ Anh tông kỷ, chép về vua Lý Anh tông như là một người nhu nhược, lên ngôi vua khi còn bế ngửa. Tất cả giáo dục của nhà vua đều do bà là Chiêu Hiếu thái hậu họ Đỗ, mẹ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê, trông coi. Mà khốn thay, hai bà vốn tham dâm, ngu độn, hủ lậu, ích kỷ. Đỗ thái hậu chỉ biết có họ hàng nhà mình, trao quyền cho đứa em ác độc, bất tài. Lê thị, đã thất học, lại dâm đãng, không biết đến vận mệnh của xã tắc, cũng chẳng đoái hoài tới sự nghiệp triều Lý, chỉ biết có tình nhân Đỗ Anh Vũ. Bà đang tâm sát hại không biết bao nhiêu người. Bị bà, rồi mẹ, rồi Anh Vũ kiềm chế, hóa cho nên nhà vua trở thành người đần độn, ù lỳ. Nhà vua biết rõ Anh Vũ tiếm quyền, mẹ áp chế, nhưng không biết làm sao thoát ra.

May mắn thay, nhà vua được bà vợ chính là Chiêu Linh hoàng hậu, vốn thông minh, có học, có chí khí lại được con trưởng là Thái tử Long Xưởng, mẫn tiệp, đa năng ở cạnh... phò tá, nên sự nghiệp triều Lý còn kéo dài thêm được bốn mươi năm nữa.

Đêm qua, lúc đầu canh ba, Chiêu Linh hoàng hậu, cùng Thái tử Long Xưởng đánh thức nhà vua dậy báo cho biết một biến cố quan trọng: Toàn gia ác nhân Đỗ Anh Vũ đã bị Côi sơn song ưng xử tử tại gia. Đội Phụng quốc vệ duy nhất được mang vũ khí, không còn ở Thăng long nữa. Đây là dịp may có một không hai để nhà vua nắm lấy quyền hành. Nhà vua nhìn quanh cung Chiêu Linh, thấy có đội võ sĩ, mặc y phục thị vệ, lưng đeo bảo kiếm, khí thế rất hùng tráng, càng ngạc nhiên.



Trước một tin quan trọng, dồn dập như vậy, tuy mừng nhưng không biết phải phản ứng ra sao, nhà vua hỏi hậu:

- Bây giờ trẫm phải làm gì?

- Ngay sáng mai, bệ hạ phải làm ba việc. Một là cái tin Anh Vũ bị giết, thì quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền sẽ xin thiết đại triều để nghe phủ thừa Thăng long tâu trình kết quả điều tra. Chắc chắn Thái hậu sẽ buông màn thính chính. Thái hậu có tuyên chỉ gì chăng nữa, bệ hạ cũng cứ ừ hự cho qua. Đợi khi người hồi cung rồi, bấy giờ bệ hạ mới hành động. Hai là, các quan trong triều hiện chia ra làm ba loại. Loại một, gồm những vị trung lương, có tài lương đống, không chịu theo phe đảng Anh Vũ, như Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, Thiếu sư Lưu Khánh Đàm... Khi những vị này tâu gì, nói gì, bệ hạ luôn mỉm cười, ban lời khuyến khích sau đó lấy tất cả chức tước quyền hành của Anh Vũ với phe đảng của chúng trao cho họ. Loại hai, là những người vốn có tài, có đức, nhưng vì muốn có quyền, muốn yên thân, a dua theo ác nhân... loại này bệ hạ nên vuốt ve, an ủi, để họ giữ lòng trung, nhưng không trao cho quyền hành gì khác. Loại ba, là loại a dua theo phe đảng của ác nhân, thì đa số bị Song ưng giết tại nhà Anh Vũ rồi. Bọn còn lại, bệ hạ hô võ sĩ kiềm chế tức khắc, rồi trao cho bộ Hình xử theo luật. Ba là, hiện bệ hạ không có thị vệ, ngự lâm quân để giữ Hoàng thành, phòng Thăng long. Vậy ngay bây giờ, bệ hạ ban mật chỉ cho tướng quân Phí Công Tín, cấp tốc đem đạo binh Kinh Bắc về Thăng long; sao cho trong lúc thiết triều, thì đạo quân đó bao vây dinh thự phe đảng ác nhân, kiềm chế vợ con chúng để phòng bất trắc.

Nhà vua mừng lắm, cầm bút viết mật chỉ cho Phí Công Tín liền, rồi trao cho hoàng hậu. Hoàng hậu gọi một cung nữ thân cận, nguyên là đệ tử đồng môn của phái Mê linh, được đưa vào cung từ lâu, tên Khánh Mỹ, dưa thẻ bài cho nó rồi dặn:

- Sư muội cầm mật chỉ này, vượt cửa Đan phượng, rồi tìm đến dinh Phí tướng quân trao cho người. Nhắc lại, tính mệnh sư muội có thể mất chứ mật chỉ này không thể để lọt ra ngoài.

Nhà vua vẫn lo lắng:

- Thông thường khi trẫm thiết triều thì có một đội Phụng quốc vệ của Anh Vũ ứng trực canh phòng. Nay đội đó bị Anh Vũ đưa lên vùng Tản viên, trẫm không có võ sĩ để bắt bọn phe đảng của y, làm sao bây giờ? Mà ví dù đội đó có ứng trực chăng nữa, khi trẫm ban chỉ bắt phe đảng Anh Vũ, chúng cũng không tuân. Hậu có nhớ trước đây, trẫm từng truyền chúng bắt Anh Vũ, mà chúng bất tuân, đến nỗi trẫm phải nhờ Chiêu Hòa vương Lý Long Vũ không?

- Thiếp đã trù liệu cả rồi.

Hậu chỉ vào đội cung nữ trong võ phục thị vệ: Đây là những nữ cao thủ, mà thiếp đã đưa vào cung từ lâu. Một người có thể địch trăm người. Suốt đêm nay họ ứng trực tại đây để bảo giá. Sáng mai, khi bệ hạ lâm triều, họ sẽ ứng trực ngoài điện Càn nguyên. Khi bệ hạ cần bắt một gian thần nào, bệ hạ cứ hô một tiếng họ sẽ tuân chỉ thi hành ngay.

Thế rồi buổi thiết triều diễn ra đúng như Chiêu Linh hoàng hậu ước tính. Phe đảng Anh Vũ bị bắt trọn vẹn. Cuộc dẹp loạn thành công, không tốn một mũi tên, không đổ một giọt máu. Bây giờ nhà vua đã nắm trọn quyền hành. Ngài đưa mắt nhìn hoàng hậu, long tâm nghĩ thầm:

- Hỡi ơi, trước đây ta chỉ biết rằng hậu là người xinh đẹp, ôn nhu văn nhã, ta tuyệt không ngờ hậu lại có tài thao lược đến như thế. Chính ngay Thái hậu, Anh Vũ, thường ngày gặp hậu, thường ngày qua cung Chiêu Linh, mà cũng không biết tới những gì hậu chuẩn bị. Nhưng tại sao hậu lại quen biết với Côi sơn song ưng, kể cũng lạ. Ta phải từ từ tìm hiểu mới được.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Ghi chú của thuật giả.

Sự việc này ĐVSKTT, Lý kỷ, Anh tông kỷ chép giản dị:

Niên hiệu Đại Định thứ 19, Mậu Dần (DL.1157); Tống, Thiệu Hưng năm thứ 28, mùa Thu, tháng 8, Đỗ Anh Vũ chết. Sai Thiếu bảo Phí Công Tín tuyển dân đinh, định các hạng, và lấy người sung vào việc thờ kính ở sơn lăng. Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới biết rõ chi tiết mà thôi.

Thình lình, một người bịt mặt từ trên nóc cung nhảy xuống như con chim đại bàng, chụp nhà vua. Nhà vua kinh hãi, la lên một tiếng, đành nhắm mắt chờ chết.

Hồi còn niên thiếu, nhà vua có học võ với Chiêu Hòa vương Lý Long Vũ. Nhưng sau sáu tháng, xẩy ra vụ Anh Vũ thông dâm với thái hậu, nhà vua truyền thị vệ bắt y, nhưng tất cả thị vệ đều là người của y, nên chúng không tuân chỉ. Ngài xin vương bắt. Vương phải đanh trên trăm hiệp mới bắt được y. Vương điểm huyệt y, trao cho nhà vua. Nhưng y được thái hậu ân xá. Ngay hôm sau, y giả chiếu chỉ, sai Phung quốc vệ giết Long Vũ. Kể từ đấy, để đề phòng trường hợp tương tự xẩy ra cho người tình, thái hậu cấm nhà vua tập võ. Cho nên hôm nay, bị thích khách dùng hổ trảo chụp, kình lực mạnh vô cùng, nhà vua chỉ biết dùng hai tay ôm đầu, nhắm mắt chờ chết.

Hoàng hậu quát lên một tiếng, bà phát chưởng tấn công vào thích khách, khiến y bỏ nhà vua quay về tự cứu mình. Quả nhiên, thích khách nhảy lùi ba bước để hóa giải kình lực của hậu, rồi phát chiêu đỡ. Bộp một tiếng, cả hoàng hậu lẫn thích khách đều bật lui lại sau ba bước. Thích khách khen:

- Võ công Mê linh! Khá lắm!

Nói rồi y đánh một chiêu thẳng vào ngực bà, cử chỉ cự kỳ khả ố. Hoàng hậu dùng tay trái gạt tay đối thủ, tay phải đấm thẳng vào mặt y. Y trầm người xuống tránh đòn rồi vọt mình lên cao. Ở trên cao, y dáng thẳng xuống một chưởng. Hoàng hậu xuất chiêu Kình ngư thăng thiên trả đòn. Hai người quấn lấy nhau giao đấu.

Long Xưởng đứng ngoài truyền lệnh cho thái giám:

- Các người không có vũ khí, thì vào bếp lấy dao, lấy củi ra vây lấy thích khách.

Nói dứt Long Xưởng lấy thanh Thượng phương bảo kiếm của phụ hoàng nhảy vào vòng chiến.

Vừa lúc đó có, tiếng viên thái giám phòng kính sự hô lớn:

- Thánh giá Thái hậu giá lâm!

Nhà vua, Long Xưởng vội hành lễ.

Mặt Cảm Thánh thái hậu lạnh như tiền:

- Các người bình thân.

Phía sau bà có hai thái giám, một mập, một gầy; hai cung nữ giống nhau như hai giọt nước. Thấy năm người không hành lễ với nhà vua, hoàng hậu; thái tử chất vấn:

- Các người tên là gì? Nhập cung từ bao giờ? Các người có biết đây là đâu không, mà vô lễ đến như vậy?



Mặt bọn chúng lạnh như tiền, tất cả đều cười nhạt, tỏ ý khinh rẻ.

Thái hậu nhìn Hoàng hậu giao chiến với thích khách bất phân thắng bại, bà hất hàm cho viên thái giám gầy:

- Thằng Ba vô dụng quá. Thằng Hai ra tay đi thôi.

Thằng Hai dạ một tiếng rồi chắp tay lại như lễ Phật, rồi xỉa vào giữa hoàng hậu với thích khách. Bùng một tiếng, cả Hoàng hậu, lẫn thích khách cùng bật lui lại ba bước mới đứng vững. Thích khách cười nhạt rồi khoanh tay lại đứng sau Thái hậu, thái độ ung dung coi khinh mọi sự.

Cử chỉ của thằng Hai, thằng Ba khiến cho nhà vua, Hoàng hậu, Thái tử biết rằng chúng là người của Thái hậu sai tới.

Thái hậu quắc mắt nhìn Long Xưởng, rồi vung tay tát nó một cái. Long Xưởng trầm người xuống tránh khỏi.

Một cung nữ, bật lên tiếng ủa, rồi nói:

- Đây là thân pháp Mê linh.

Thái hậu lại vung tay túm tóc Long Xưởng. Long Xưởng thụp người xuống, rồi lộn một vòng, y đã tránh được thế chụp của thái hậu.

Cung nữ lại lên tiếng:

- Cũng vẫn là thân pháp Mê linh.

Thái hậu quát:

- Mi...Mi có đứng im không?

- Tâu tổ mẫu, thần nhi không có tội gì!

Thái hậu hất hàm ra lệnh:

- Thằng Ba, kiềm chế nó.

Tên thích khách cúi đầu:

- Tuân chỉ Thái hậu!

Thấp thoáng một cái, y đã lạng người tới cạnh Long Xưởng. Tay phải vung ra, y túm cổ áo Long Xưởng, nhắc bổng lên ; tay trái điểm huyệt nó, đem đến trước mặt Thái hậu, rồi ném xuống nền cung.

Nhà vua, Hoàng hậu cùng quỳ gối:

- Xin mẫu hậu mở từ tâm tha tội cho Xưởng nhi.

Thái hậu ngồi xuống chiếc long ỷ, tuyên chỉ:

- Các người bình thân.

Thình lình hai bàn tay Hoàng hậu lạnh ngắt, xám đen, sưng lớn, rồi đau đớn khủng khiếp. Hậu nghiến răng để khỏi bật thành tiếng rên la.

Thái hậu chỉ vào mặt Long Xưởng hỏi Hoàng hậu:

- Ta hỏi các người: Trước đây ta đã ban chỉ cấm ngặt các hoàng tử, công chúa, cung nga, thái giám tập võ lại cũng cấm tuyển nữ quan, cung nga, thái giám biết võ. Vậy thằng này đã học võ với ai? Học ở đâu?

- Tâu mẫu hậu, Xưởng nhi có học mấy cái múa của một tên Phụng quốc vệ cho thân thể mạnh khỏe mà thôi.

Mặt thái hậu càng cau có, khó coi:

- Mấy cái múa! Rõ ràng võ công của nó là võ công Mê linh. Ta hỏi mi, thằng Phụng quốc vệ đó tên gì, ở hỏa đầu nào?

Ghi chú của thuật giả:

Hỏa đầu là một đơn vị thuộc Phụng quốc vệ, do Đỗ Anh Vũ đặt ra, tương đương với ngày nay là tiểu đoàn.

Hoàng hậu luống cuống:

- Tâu...Tâu...

Long Xưởng bình tĩnh trả lời:

- Tâu, hài nhi học với mẫu hậu. Mẫu hậu là đệ tử phái Mê linh, nên võ công của hài nhi là võ công Mê linh, thì có chi lạ?

Thái hậu chỉ mặt Hoàng hậu:

- À, thì ra thế, mi là đệ tử phái Mê linh đấy. Giỏi! Mi nhập cung kể đã mười năm dư, ta là chúa Hoàng thành, trong Hoàng thành có một đại hành gia mai phục, mà ta không biết gì! Kể ra bản lĩnh che dấu của mi cũng cao siêu đấy chứ! Ta có lời khen mi. Quân này to gan thực!

Long Xưởng biện luận:

- Tâu thái hậu, Mê linh là một danh môn chính phái. Thời Thuận Thiên vua bà Bình Dương từng làm chưởng môn, rồi Linh Nhân hoàng thái hậu cũng là đệ tử của phái này. Mẫu hậu có học võ công Mê linh, thì thái hậu phải vui mừng mới phải chứ? Có đâu lại coi như một trọng tội?

Thái hậu vung tay tát Long Xưởng một cái, rồi chỉ tay vào Hoàng hậu:

- Câm cái mõm lại. Mi còn mở miệng ra, thì lập tức ta phế cái ngôi vị Hoàng hậu của con mẹ mi, dĩ nhiên mẹ bị phế thì con bị truất. Ta sẽ lập Hoàng hậu, Thái tử mới. Mi có hiểu không?

Bà quay lại nói với nhà vua:

- Còn hoàng nhi! Hôm nay, người cho đọc bản án của Côi sơn song ưng lên giữa triều đình để làm nhục ta, làm nhục thái sư. Mi làm nhục ta thì còn có thể tha thứ được, chứ mi làm nhục thái sư thì không thể tha thứ cho mi.

Bà bật lên tiếng khóc, chỉ vào Hoàng hậu:

- Từ sáng đến giờ, ta cứ thắc mắc mãi rằng: Cái vụ Song ưng giết cả nhà thái sư, mà tại sao mi lại biết trước ta? Ngay cái việc mi mật tổ chức đội thị vệ, do ai giúp mi; chứ cái mã như mi, thì không thể làm được. Bây giờ ta mới biết là do con này!

Từ khi lên ngôi, nhà vua bị mẹ lấn quyền, áp chế đã lâu. Mỗi khi bà mắng, chửi, không cần biết có lỗi hay không; bà bắt nhà vua phải cúi đầu, ngậm miệng, không được biện luận. Riết rồi thành quen. Bây giờ bị bà kết tội, ngài chỉ biết im lặng chịu trận.

Bà hô lớn:

- Đem chúng ra!

Một đội võ sĩ giải 18 người bị trói từ phía sau cung đi ra. Thoáng nhìn, Hoàng hậu phát run, bởi đó là 18 võ sĩ của phái Mê linh gửi giúp hậu, bấy lâu nay tiềm ẩn ở trong cung. Vừa rồi chính đội này đã giúp hậu bắt hết gian đảng của Anh Vũ tại triều. Không hiểu bằng cách nào, bà đã chuyển bại thành thắng, bắt trọn đám này.

Thái hậu nói với nhà vua:

- Mi tưởng với mấy thế võ mèo cào của con vợ mi, với mấy cái bị thịt, nó đem vào trong cung, mà có thể khống chế được ta ư? Khó lắm.

Đến đây Hoàng hậu đau đớn quá, bà cúi gập người lại, bật lên tiếng rên :

- Ái! Đau. Ái...

Bọn thằng Cả, thằng Hai, thằng Ba, và hai cung nữ theo hầu Thái hậu nhếch một nụ cười nửa miệng, tỏ vẻ khoan khoái.

Thái hậu cười nhạt :

- Mi đã luyện võ, hẳn mi biết rằng tại sao mi đau đớn như vậy chứ ?

- Ái ! Tâu... Tâu dường như là Huyền âm chưởng.

- Đúng vậy.

Nhà vua với Hoàng hậu phát run. Thái hậu gằn từng tiếng :

- Chỉ vì ta khinh thường hai đứa mi, mà mi thành công trong chốc lát sáng nay. Nhưng ta chỉ việc trở bàn tay một cái là mọi sự lại đâu vào đó. Ta đã ban chỉ cho Phí Công Tín đem quân trở về Kinh Bắc rồi. Ta lại thả tất cả các quan bị bắt hôm nay, và ban chỉ rằng tự hậu họ không thống thuộc cái gọi là triều đình của mi nữa, mà trực thuộc cung Cảm Thánh của ta. Mi hiểu không?

- Dạ.

- Việc thái sư qua đời rồi ta bỏ qua. Bây giờ ta cho mi chọn một trong hai con đường.

- Xin mẫu hậu tuyên chỉ.

- Con đường thứ nhất, mi phải tuân theo ba điều. Một là, kể từ nay, mọi sự trong Hoàng thành này, hoàn toàn do ta làm chủ. Tuyệt đối mi với Hoàng hậu không được xen vào. Hai là, mi phải ban chỉ thu nhặt hài cốt thái sư với gia đình đem chôn cất tử tế lại tuyệt đối không cho bất cứ hoàng tử, công chúa, cung nga, thái giám luyện tập võ nghệ. Ba là, những gì ta làm cho ích quốc, lợi dân, triều đình phải tuân theo, không được chống đối.

Bà chỉ tay vào mặt Hoàng hậu :

- Nếu mi tuân thì ta sẽ cho nó thuốc giải. Bằng không, nó sẽ đau đớn cùng cực trong 49 ngày rồi chết.

Thấy nhà vua còn trì nghi, thái hậu nổi giận chỉ vào Hoàng hậu với Long Xưởng:

- Con đường thứ nhì là, nếu như mi không tuân, thì ta sẽ ban chỉ phế mi xuống, lập một người khác lên thay. Mi tưởng trong thế gian này, chỉ mình mi làm vua được sao? Dĩ nhiên khi mi bị phế, thì ta cũng phế y thị xuống làm cung nữ, rồi cũng phế thằng nhóc con xuống. Mi biết đấy, đất không hai mặt trời, nước không hai vua... Sau đó cái gì sẽ xẩy ra thì bọn mi tự đoán lấy!

Nhà vua đành cúi đầu:

- Thần nhi xin tuân chỉ mẫu hậu.

Thái hậu đứng đậy hô:

- Ta đi thôi.

Ba thái giám, hai cung nữ nhìn nhà vua, Hoàng hậu cười nhạt, rồi theo Thái hậu rời cung Chiêu Linh.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Hồi Thứ Ba

Đền Thờ Vua Trưng

******

Niên hiệu Đại Định thứ 21, đời vua Anh tông của Đại Việt, bên Trung nguyên là niên hiệu Thiệu Hưng thứ 30, đời vua Cao Tông đời Nam Tống (Canh Thìn DL. 1160).

Theo hội điển sự lệ của triều Lý, thì hằng năm nhà vua sẽ ban đại yến cho hoàng tộc vào các ngày đản sinh, ngày kị của năm vị tiên tiên đế, năm vị hoàng hậu; ngày lễ Càn nguyên (sinh nhật của vua); các ngày tết Nguyên đán, Hàn thực, Trung nguyên, Trung thu. Lại ban tiểu yến vào ngày đầu của tiết khí. Mỗi năm có 24 tiết khí, nên có 24 buổi tiểu yến. Cộng chung là 39 buổi.

Theo luật cung đình thời Lý, thì mỗi tiết khí đến, trăm vạn loại chim muông, hoa quả nảy nở, quan Thái sử lệnh thuộc bộ Lễ sẽ ban lệnh cho các vùng tiến phương vật cho nhà vua. Mỗi vùng sẽ dâng những đặc sản mà vùng khác không có, hoặc có nhưng kém phẩm chất. Các vị An phủ sứ, Tuyên vũ sứ vùng ấy, sẽ dâng thời trân của vùng mình lên Thiên tử. Như trấn Đông triều, sẽ dâng Đông trùng hạ thảo vào tiết Tiểu hàn. Trấn Thiên trường dâng chuối thơm vào tiết Đông chí. Trấn Trường yên dâng rươi vào tiết Hàn lộ. Những buổi ban yến này mục đích để nhà vua và hoàng tộc thắt thêm tình thân huyết tộc. Từ khi Đỗ Anh Vũ chuyên quyền, thì lệ này bãi bỏ.

GHI CHÚ CỦA THUẬT GIẢ:

Đông trùng hạ thảo : Tên một vị thuốc, thường biến thể từ côn trùng sang thảo mộc. Về mùa Đông thì là một loài tằm ẩn ở dưới đất. Về mùa Hè, thì biến thành một loài cỏ. Và cứ thế luân hồi không ngừng. Xin xem bài đọc thêm ở cuối quyển 1.

Năm nay, Đỗ Anh Vũ bị giết rồi, nhà vua nghe lời khuyên của Thái tử Long Xưởng, ngài tuyên chỉ tái thiết lệ cũ. Buổi ban yến đầu tiên nhằm tiết Hàn lộ. Khác với mọi năm, năm nay gió hanh may tới trễ, mà mùa rươi lại tới sớm. Quan An vũ sứ trấn Trường yên vội sai ngựa lưu tinh phi như bay, đem về dâng cho nhà vua hơn một yến, loại rươi thực lớn. Viên thái giám phụ trách ty Thượng thiện tiếp nhận rươi rồi bắt tay vào làm yến rươi tức thì. Yến rươi gồm có năm món chính: Chả rươi, mắm rươi, rươi xào, rươi chưng, rươi hấp.

Hoàng hậu thân dẫn cung nga, mang mỗi loại một bát lớn, đến cung Cảm Thánh dâng cho Thái hậu, rồi ban chỉ triệu hoàng tộc vào cung Long hoa để cùng hưởng món thời trân. Tuy nói rằng hoàng tộc, chứ thực ra chỉ bản thân, vợ, con, cháu của : Các hoàng tử, các tước vương, công, hầu, các công chúa, phò mã mới được hưởng đặc ân này mà thôi. Sau buổi yến, Hoàng hậu sẽ ban vàng, ngọc, lụa cho con cháu trong hoàng tộc mới ra đời trong năm.

Theo luật lệ của các triều đại Việt xưa, ngoài Hoàng hậu ra, nhà vua còn có nhiều bà vợ, mang chức tước khác nhau. Số các bà vợ này không nhất định. Ít thì vài, ba chục, nhiều có thể tới ba nghìn.

Đại Định hoàng đế tuy bị bà nội, mẹ đẻ, Anh Vũ áp chế, tạo ngài thành một người trì nghi, không chí khí, không quyết đoán,ù lỳ, chỉ biết hưởng thụ. Nhưng trời ban cho nhà vua cái đặc ân là việc phòng the thì ngài rất khỏe. Ngoài hoàng hậu ra, ngài cóÔ sáu bà phi là Thần phi, Quý phi, Thục phi, Đức phi, Hiền phi, Giai phi; khoảng hơn hai chục bà ở vai thấp hơn như Tu dung, Tu nghi, Phu nhân. Đấy là các bà Việt. Ngài cũng nạp thêm con gái của các động trưởng vùng Bắc cương, các thiếu nữ người Lào, người Chàm. Theo TTCTBK thì ngài rất thích con gái người Chàm. ĐVSKTT chép : Niên hiệu Đại Định thứ 15, mùa Đông, tháng mười (Giáp Tuất, DL. 1154) vua Chiêm là Chế bì La bút dâng con gái, nhà vua thu nạp và phong ngay làm Nam phương phu nhân, lại ban cho hiệu là Chiêu đức huyền quân (Nàng tiên có nhiều đức) sau thăng lên Giai phi. Giai phi là người đẹp nhất trong hậu cung, nàng lại lầu thông Thi, Thư, đàn ngọt hát hay nên được nhà vua sủng ái nhất. Ngoài ra ngài còn hàng mấy chục bà ở bậc Tu dung, Tu nghi, Phu nhân đều có cung riêng. Trong những cung ấy, các bà có thái giám, cung nga hầu hạ. Tuy các cung nga làm nhiệm vụ hèn hạ, nhưng bất cứ lúc nào, nhà vua thấy một cung nga... coi ngon mắt, thì vẫn có thể đem về chỗ ngủ riêng của mình để ngự . Chỗ ngủ riêng của nhà vua gọi chung là tẩm cung. Tẩm cung của các vua nhà Lý là cung Long thụy (Long là rồng, thụy là ngủ). Khi một cung nga, được vua ngự, thì gọi là được ban hồng ân. Thường, một cung nga sau lần được ban hồng ân, nhà vua sẽ ban chế thăng chức cao hay thấp tùy ý. Lại ban chỉ xây cung điện riêng cho ở, cấp thái giám, cung nữ hầu hạ. Cho nên nhà vua có rất nhiều con.

Long Xưởng có cái may là hoàng nam đầu tiên, lại do hoàng hậu sinh ra, nên được phong làm thái tử. Sau Long Xưởng, nhà vua còn có thêm ba hoàng tử, chín công chúa nữa. Trong mười hai người em đó, không có người nào cùng mẹ với Long Xưởng.

Biết rằng mình là con cả, lại là trừ quân, sau này phụ hoàng băng hà rồi, sẽ nối ngôi vua; nên Long Xưởng hết sức lễ độ với các bà phi, cũng như chăm sóc các em, để tạo một hòa khí trong hoàng tộc. Nó nghĩ: Khi mình lên ngôi vua rồi, thì tất cả tài vật trong thiên hạ đều là của mình. Vì vậy nó không cần giữ bất cứ vật gì làm của riêng. Mỗi khi được phụ hoàng, mẫu hậu ban thưởng, hoặc được các quan dâng cho cái gì, Long Xưởng lại họp các em, rồi chia đều, không phân biệt lớn nhỏ, nam nữ. Hóa cho nên trong ba em trai là Long Minh, Long Đức, Long Hòa, không người nào tỏ ý ganh tỵ, kèn cựa với anh. Đó là điều hiếm có trong lịch sử các nước Á châu.

Tuy nhiên, hằng ngày, Long Xưởng sủng ái nhất là công chúa Đoan Nghi, con của thần phi Bùi Chiêu Dương sinh ra. Đoan Nghi nhỏ hơn Long Xưởng hai tuổi, cực kỳ thông minh, lại ôn nhu văn nhã. Anh em gần nhau như bóng với hình.

Các bà phi khác đã chuẩn bị cho các con y phục chỉnh tề, sau đó tất cả cùng dùng xe tới cung Chiêu Linh để cùng đi với Long Xưởng dự yến. Long Xưởng hành lễ với các bà phi, rồi hướng vào các em:

- Hôm nay là ngày rằm tháng mười. Phụ hoàng ban yến tại cung Long hoa. Vậy anh nhắc các em về lễ nghi lần nữa.

Rồi Long Xưởng dặn dò các em thực kỹ nghi thức triều yết phụ hoàng, mẫu hậu, khi hành lễ với các thân vương, cung cách đối đáp với các thế tử, quận chúa, công tử, tiểu thư... thực chi tiết.

Mọi việc xong xuôi, nó chia cho các em đi trên ba xe. Xe của Long Xưởng có ba em trai, trong khi có hai xe phải chở đến chín công chúa, với ba nhũ mẫu. Thấy xe có Đoan Nghi hơi chật, nó nảy ra ý đem bớt Đoan Nghi sang xe mình. Nó lại trước Bùi thần phi, cung tay:

- Hài nhi xin thần phi để Đoan Nghi đi cùng xe với hài nhi, cho vui.

Thần phi nắm tay Long Xưởng, rồi nói bằng lời cảm động:

- Chắc thái tử mới đọc bộ sách nào hay, định giảng cho Đoan Nghi hẳn! Thái tử cứ tự tiện. Anh dạy em, thì là điều cha mẹ đều mong ước.

Hai chiếc xe rầm rộ lên đường. Trên đường đi, Đoan Nghi hỏi anh :

- Này ! Anh Long Xưởng ơi ! Hồi xưa, mình có ba bà thái tổ cô anh hùng, trấn ngự biên cương phải không ? Các ngài là những ai vậy ?

Để thử trí nhớ các em, Long Xưởng hỏi Long Minh :

- Long Minh trả lời cho Đoan Nghi đi.

Long Minh vuốt má Đoan Nghi :

- Con bé ngoan ngoãn, mít ướt nhất Đại Việt nghe cho rõ nhé. Ba vị ấy đều là công chúa con đức Thái tông. Vị thứ nhất là công chúa Bình Dương !

- À, em biết rồi ! Ngài là Quan thế âm phân thân giáng thế, phải không ?

Long Minh bật cười :

- Phải, mà không phải.

- Tại sao ? Phải thì là phải, không thì là không, chứ có đâu vừa phải, lại vừa không!

- Nghe đã nào! Phải, vì hành trạng của ngài giống Quan Aạm, nên người đương thời suy tôn ngài như vậy. Không, vì ngài là người trần như chúng ta.

- Vị thứ nhì, thứ ba là ai ?

Long Minh lại đáp :

- Vị thứ nhì là công chúa Kim Thành. Vị thứ ba là công chúa Trường Ninh. Ba vị cùng ba phò mã, suốt đời trấn ngự biên cương mấy chục năm.

- Thế sao mẹ kể, đức Thánh tông cũng có ba công chúa anh hùng đánh Tống. Các vị là những vị nào ?

- À, ba vị đó chúng ta phải gọi là tổ cô. Công chúa thưa nhất là Thiên Thành, trấn ngự Bắc biên. Công chúa thứ nhì là Động Thiên, rất giỏi thủy chiến. Ngài tuẫn quốc trận Phú lương. Công chúa thứ ba là Thiên Ninh tuẫn quốc trận Như nguyệt.

Đoan Nghi reo lên :

- Em biết công chúa Thiên Ninh rồi, ngài là bà chúa kho chứ gì ? Hồi đầu năm em theo mẹ đi Kinh Bắc lễ đền thờ ngài. Em có khấn xin vay ngài một chuỗi ngọc trai. Thế mà nay đã là tháng mười, em vẫn chưa thấy gì !

Long Xưởng vuốt tóc Đoan Nghi :

- Có, ngài khen em ngoan, học giỏi, nên ngài không cho vay, mà ban thưởng cho em luôn.

Đoan Nghi ngửa hai bàn tay ra :

- Đâu ? Ở chỗ nào ?

Long Xưởng móc trong bọc ra cái hộp bằng bạc, rồi mở hộp. Trong hộp có một chuỗi ngọc trai năm vòng. Nó đeo vào cổ em:

- Đây chứ đâu !

Đoan Nghi chắp tay hướng lên trời :

- Đa tạ tổ cô đã ban cho con.

Long Hòa vốn ít nói, từ đầu đến cuối nó ngồi im, bây giờ mới lên tiếng :

- Đoan Nghi phải tạ ơn anh cả mới đúng !

Nguyên trước đây sứ thần Lão qua sang triều cống, họ cũng đem một ít lễ vật dâng cho Thái tử. Nhân Long Xưởng nghe Thần phi nói chuyện với Hoàng hậu rằng : Hôm đi lễ đền bà chúa kho, Đoan Nghi có khấn xin vay một chuỗi ngọc trai. Long Xưởng ghi vào dạ. Hôm nay nó mang ra tặng em gái.

Đoan Nghi nhắc lại lời Long Hòa:

- Đa tạ anh cả.

Long Xưởng tát yêu em gái:

- Anh cứ mong mình có thực nhiều ngọc, ngà để tặng cho các em gái. Anh lại mong học được nhiều điều mới lạ để dạy lại cho các em trai.

Xe đã tới điện Long hoa.

Một thái giám phụ trách kính sự hô lớn:

- Kính thỉnh chư vị điện hạ vào cung.

Lễ nghi tất.

Liếc mắt nhìn trong cung Long hoa, Long Xưởng nói với các em :

- Vì ác nhân Đỗ Anh Vũ ép phụ hoàng ban chỉ sát hại Chiêu Hòa vương Lý Long Vũ, giáng truất Trí Minh vương Lý Long Dũng, Bảo Ninh hầu Lý Long Can, Bảo Thắng hầu Lý Long Hiền, phò mã Dương Tự Minh, cho nên những lần dự yến trước, thì người trong phủ này đều không được dự . Bây giờ ác nhân đã bị tru diệt, nên các vị đều hiện diện. So trong ngọc diệp, anh em chúng ta đều dưới vai các người. Vậy chúng ta phải tới đưa lời vấn an cho phải đạo.

Bốn anh em cùng đứng dậy, tới bục dành cho thân nhân Chiêu Hòa vương, chắp tay hướng thế tử, quận chúa con Chiêu Hòa vương hành lễ. Nó dùng ngôn từ bình dân:

- Bọn chúng cháu xin vấn an các cô, các chú.

Chiêu Hòa vương có bốn con trai, năm con gái, đều đã thành gia thất. Thế tử lớn nhất là Lý Long Cẩn vội đáp lễ:

- Không dám! Xin các vị điện hạ chẳng nên hạ thể. Hôm nay đây, ác nhân đã đền tội, chúng ta được hưởng huyết nhục trùng phùng là vui rồi.

Thế là mọi người lại bàn luận quanh vụ Đỗ Anh Vũ bị giết cả nhà. Thế tử Long Cẩn than :

- Côi sơn song ưng tưởng đâu làm một mẻ quét sạch lũ hôi tanh họ Đỗ, không ngờ lại để cho bọn tay sai cùng hung cực ác lọt lưới.

Long Xưởng kinh ngạc :

- Chúng là những đứa nào vậy ?



- Sở dĩ Anh Vũ hoành hành là ỷ có Thái hậu sủng ái, và bọn Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên võ công cao thâm không biết đâu mà lường... làm tay sai. Cuộc ra tay của Hoàng hậu, quét sạch bọn hôi tanh trong triều sở dĩ thất bại là do bọn này lọt lưới mà ra.

- ! ? ! ?

- Nùng sơn tam anh là Vương Nhất, Cao Nhị và Đỗ Anh Hào. Anh Hào là con của Đỗ Anh Vũ, nhưng không rõ mẹ chúng là ai. Còn Tô lịch nhị tiên vốn họ Lê, cháu của Thái hậu. Cả năm đứa này cùng học võ với một đại tôn sư. Có người bảo võ công chúng ba phần giống Hoa sơn bên Trung quốc, bẩy phần giống Đông a của Đại Việt. Hiện các võ quan trong triều không ai địch nổi một trong năm tên này.

Nghe Long Cẩn nói, Long Xưởng nhớ lại ba người đàn ông và hai người đàn bà theo Thái hậu đến cung Chiêu Linh đàn áp nhà vua hồi tháng tám. Một chút ánh sáng ló dạng chiếu vào bóng đêm của Hoàng cung.

Long Xưởng hỏi :

- Sao chú biết rằng, trong các võ quan tại triều, không ai địch lại chúng ?

- À truyện này xẩy ra hồi thái tử còn thơ, nên không biết. Trong dịp tết Trung thu, thái hậu cho mời tát cả các võ quan có võ công cao, các thị vệ, các đô đầu vào cung Cảm Thánh dự tiệc. Thái hậu ban chỉ cho các quan : Ai chịu được của Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên hai mươi chiêu thì được thăng hai trật. Ai chịu được mười chiêu thì được thăng một trật. Ai chịu được ba chiêu thì được tặng một nén vàng.

- Thế kết quả ra sao ?

- Hầu hết các võ quan, thị vệ, không ai chịu được quá ba chiêu. Chỉ có ba người đoạt giải mà thôi. Người thứ nhất là đô thống Lưu Khánh Bình đấu ngang tay với Cao Nhị. Sau đó Bình được thăng lên hàng tướng quân. Người thứ nhì là Tô Hiến Thành đấu với Cảm Linh, y chịu được trên trăm hiệp, cũng được thăng hai trật. Người thứ ba là Đàm Dĩ Mông, đấu với Cảm Chi y chịu được sáu chiêu, được thưởng hai nén vàng.

Đến đó viên thái giám kính sự hô :

- Hoàng thượng, hoàng hậu, chư vị quý phi giá lâm.

Mọi người im lặng quỳ gối.

Nhà vua cùng hoàng hậu, bốn bà phi vào cung Long hoa. An tọa rồi, nhà vua tuyên chỉ :

- Miễn lễ!

Mọi người về chỗ ngồi.

Từ khi lên ngôi vào lúc ba tuổi đến giờ, nhà vua chỉ biết ăn, ngủ... Mọi sự do bà nội, rồi Thái hậu với Đỗ Anh Vũ quyết đoán hết. Bất cứ nhà vua nói gì, đưa ý kiến gì, cũng bị các bà quát mắng, sau đó bác bỏ. Riết rồi ngài thành cục bột, khi có sự không biết nói gì, làm gì. Hôm nay là ngày đầu tiên, sau hơn hai chục năm lên ngôi, nhà vua được ngồi chủ vị một buổi yến hội như thế này. Nhà vua tỏ ra luống cuống, ngài đưa mắt cho Hoàng hậu. Hoàng hậu biết ý nhà vua, vội thay ngài ban dụ. Trong dụ, đại ý nói nhân mùa rươi mới, nhà vua muốn hoàng tộc cùng hội nhau dự yến. Bởi hơn hai chục năm qua, bị ác nhân Anh Vũ kiềm chế ngài, rồi giết hại tôn thất, khiến hoàng tộc phân hóa, nghi ngờ, thù hận lẫn nhau. Bữa yến hôm nay, để nối lại tình ruột thịt.

Thế rồi các thân vương, công chúa, phò mã cùng đưa lời chúc tụng nhà vua.

Trí Minh vương vốn đã nghe đã biết ông anh mình chỉ làm vua cho có danh vị. Ngược lại, ông nghe nói, cũng như trực tiếp tìm hiểu về đứa cháu mình là Long Xưởng. Nào là cực kỳ thông minh. Nào là khoan hòa, nhân từ. Ông hy vọng vào Long Xưởng rất nhiều. Nhân dịp này, ông muốn thúc nhà vua cho lập Đông cung triều để Long Xưởng sớm dự vào việc triều chính. Ông tâu :

- Tâu hoàng huynh! Từ khi đức Thái tổ nhà ta lập nghiệp rồng, ngài đã phong cho đức Thái tông làm Khai Thiên vương, cho ở Đông phủ để dự vào chính sự. Lại nữa, khi đức Thái tông vừa lên ngôi đã phong cho đức Thánh tông làm Khai Hoàng vương, cho ra ở Đông cung. Nay thái tử Long Xưởng, tuổi tuy còn nhỏ, nhưng thông tuệ khác thường, lại có đức độ, hành sự không khác Quốc phụ khi ưa. Xin hoàng huynh khẩn phong chức tước cho thái tử, và lập Đông cung triều, để thái tử quen với chính sự.

Nghe em tâu, nhà vua gật đầu :

- Trẫm sẽ ban hành chiếu chỉ như hoàng đệ tâu.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Ghi chú của thuật giả.

Quốc phụ đây để chỉ Khai quốc vương Lý Long Bồ, con thứ nhì của vua Lý Thái tổ. Ngài là cột trụ của triều vua Thái tổ, Thái tông, Thánh tông. Xin đọc Anh hùng Tiêu sơn, Thuận Thiên di sử , Anh hùng Bắc cương, Anh linh thần võ tộc Việt và Nam quốc sơn hà của Yên tử cư sĩ.

Sau buổi hội yến đó, thì hơn tháng sau có chiếu chỉ ban ra phong chức tước cho thái tử, gồm cả chức văn lẫn võ:

Thái sư, Thượng trụ quốc, khai phủ nghị đồng tam tư, Phụ quốc thượng tướng quân, Lĩnh Nam tiết độ sứ, Hiển Trung vương.

Nhưng vì thái tử còn nhỏ, nên nhà vua không thể vượt luật cho mở phủ đệ riêng. Ngược lại nhà vua dùng Chiêu Linh hoàng hậu, với thái tử như những đại học sĩ làm việc bên cạnh.

Sau hơn hai năm trôi qua, thái tử đã lớn, nên được cho mở phủ đệ riêng, cho ra ở Đông cung ngoài thành, cùng lập Đông cung triều.

Phủ đệ của Đông cung được xây dựng vào đời đức Thái tổ (Nhâm Tý, DL.1012), niên hiệu Thuận Thiên thứ ba. Nguyên bấy giờ vua Lý Thái tổ mới lên ngôi, lòng dân chưa an; luật pháp, kỷ cương chưa vững. Ngài ban chiếu cầu hiền, rồi sai xây cung Long đức ngoài thành cho con trưởng là Khai Thiên vương ở, để tiếp xúc với sĩ dân trong nước, và hiểu dân tình. Tuy nhiên cung Long đức không phải là Đông cung, vì Khai Thiên vương chưa được lập làm trừ quân.

Sau khi Khai Thiên vương lên ngôi, tức vua Lý Thái tông, ngài phong cho con trưởng là Khai Hoàng vương Nhật Tông làm Đông cung thái tử, cung Long đức đổi thành Đông cung. Lúc thái tử Nhật tông đủ mười tuổi, được cho ra ở đây, làm phủ đệ riêng, tiếp xúc với sĩ dân.

Rồi thái tử Nhật tông lên nối ngôi, tức vua Thánh tông. Bởi nhà vua chưa có hoàng nam, nên Đông cung bị bỏ không một thời gian dài. Tới khi vua Thánh tông băng, thì thái tử Càn Đức mới bẩy tuổi, chưa được mở phủ đệ riêng. Đông cung vẫn không có chủ. Thái tử Càn Đức lên ngôi, sau là vua Nhân tông. Vua Nhân tông không có con trai, ngài nuôi con của em là Sùng hiền hầu tên Lý Dương Hoán, lập làm Thái tử.

Niên hiệu Thiên phù Duệ vũ thứ 6 (Ất Tỵ DL. 1125), vua cho thái tử Dương Hoán ra ở Đông cung. Niên hiệu Thiên phù Khánh thọ nguyên niên (Đinh Mùi, DL. 1127), vua Nhân tông băng, thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, sau là vua Thần tông. Bấy giờ vua Thần tông cũng chưa có hoàng nam, một lần nữa Đông cung lại vô chủ.

Niên hiệu Thiên Thuận thứ 4 (Tân Hợi, DL. 1131), vua Thần Tông âm thầm ra ngoài kinh thành thăm dân cho biết sự tình. Trong dịp này, nhà vua gặp một thiếu nữ bán hoa, sắc nước hương trời tên Hồng Hạnh. Nhà vua say mê Hồng Hạnh, rồi đón về, phong làm tu dung. Năm sau, ngày1 tháng 5 năm Nhâm Tý, tu dung Hồng Hạnh sinh hoàng tử Thiên Lộc. Nhà vua lập làm thái tử, tước phong Minh Đạo vương. Vì sinh hoàng nam, tu dung Hồng Hạnh được thăng lên thần phi. Điều này làm Thái thượng hoàng (Sùng hiền hầu) và Chiêu Hiếu hoàng thái hậu ( Đỗ phu nhân, vợ Sùng Hiền hầu) không vui, vì Hồng Hạnh là con nhà dân dã.

Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ 6 đời vua Thần Tông (Mậu Ngọ, DL. 1138), tuy thái tử Thiên Lộc mới 7 tuổi, nhưng cũng được cho ra ở Đông cung. Tháng bẩy năm đó, vua không khỏe. Biết rằng mình sắp băng, mới gọi tham tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn Thông vào để viết di chiếu cho thái tử Thiên Lộc nối ngôi. Cảm Thánh hoàng hậu muốn tranh ngôi vua cho con mình là hoàng tử Thiên Tộ, mới cùng hai bà phi Nhật Phụng và Phụng Thánh đem vàng ngọc đút cho Từ Văn Thông và dặn rằng khi nhà vua bảo viết chiếu thì báo cho ba bà biết. Quả nhiên khi vua sai viết chiếu, Thông cầm bút chần chờ, rồi mật báo cho ba bà. Ba bà vào khóc rằng : ị Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của một tu dung, xuất thân dân dã. Nếu cho Thiên Lộc nối ngôi, thì e người mẹ sẽ tiếm lấn sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con thiếp tránh sao khỏi hại Ể. Vì thế nhà vua xuống chiếu lập Thiên Tộ lên làm vua, dù bấy giờ mới 3 tuổi (tức vua Anh Tông). Nhà vua lên ngôi được hai ngày thì Chiêu Hiếu hoàng thái hậu, Cảm Thánh thái hậu đuổi Thiên Lộc ra khỏi Đông cung. Từ đấy Đông cung tiếp tục bỏ trống cho đến nay (1160) đã hai mươi ba năm.

Bây giờ Thái tử Long Xưởng đã mười tuổi, chư đại thần chiếu luật lệ xin cho ở Đông cung, lập Đông cung triều. Nhà vua chưa kịp ban chỉ, thì đã gặp sự phản đối của Thái hậu.

Nguyên sau khi Anh Vũ bị giết, phe đảng họ Lê thuộc giòng họ của thái hậu, giòng họ Đỗ của Anh Vũ...sợ bóng sợ gió Côi sơn song ưng, chúng không dám dự vào việc triều chính nữa. Kể từ khi lên ngôi đến nay là 25 năm, lần đầu tiên nhà vua nắm lại được một số quyền hành. Trong suốt hai năm qua, được các lão thần như thái sư Lưu Khánh Đàm, Tthái phó Hoàng Nghĩa Hiền, các thân vương như Trí Minh vương Lý Long Dũng, Bảo Minh hầu Lý Long Can, Bảo Thắng hầu Lý Long Hiền hết sức phò tá, nên Đại Việt đã có kỷ cương.

Công việc chỉnh đốn lại thực bận rộn. Nào tái tổ chức mười hai hiệu Thiên tử binh, tái tổ chức đoàn thị vệ. Nào giảm cung nga, thái giám, giảm chi tiêu nội cung. Nào chỉnh đốn lại hệ thống làng xã, tái phối trí hệ thống kiểm soát trâu bò. Cấm hẳn việc giết trâu, bò, dù là quốc lễ. Hóa cho nên chưa đầy hai năm, mà dân chúng no đủ, phong hóa được phục hưng. Bề ngoài, ai cũng tưởng nhà vua làm, nhưng thực ra, nhà vua chỉ làm theo lời khuyên của đại thần, thân vương, hoàng hậu, thái tử.

Thấy những thay đổi của triều đình, bọn tay chân của thái hậu gì mà không biết rằng: Nhà vua chỉ là cục bột, mọi sự ngoài triều do các quan, mọi sự bề trong do thái tử. Vì hoàng hậu bị thái hậu kiềm chế bằng độc chưởng Huyền âm, mỗi tháng bà phải đến cung Cảm Thánh xin thái hậu ban thuốc giải, nên bà đóng vai mũ ni che tai, ngớ ngớ ngẩn ngẩn. Bà muốn làm gì, khuyên nhà vua làm gì, lại rỉ tai Long Xưởng. Bọn gian cứ tưởng những gì Long Xưởng tâu xin nhà vua làm là của thái tử. Vì vậy chúngỳ càng sợ Long Xưởng. Chúng nghĩ : Bây giờ, với tài trí ấy mà thái tử mở Đông cung triều, thì thực là nguy cho chúng. Chúng tâu xin thái hậu bác bỏ việc này. Nhưng trước những luật lệ, điển chế của triều đình, thái hậu đành nhượng bộ.

Tuy nhượng bộ, mà bà vẫn không chịu thua. Bà không để hoàng hậu cũng như thái tử tuyển cung nga, thái giám, thị vệ, bộc phụ, mã phu cho Đông cung . Bà dành quyền tuyển người cho cháu. Đấy là cái khăn để che dấu việc chuyên quyền, chứ thực sự bà đem người của bà từ cung Cảm Thánh sang. Quan trọng nhất là chức thái tử mật thư tỉnh sự, bà bổ nhiệm cháu gọi bằng cô tên Lê Du vào chức này. Du tuổi đã trên năm mươi. Chức thái tử mật thư tỉnh sự rất quan trọng, tương đương với ngày nay là đổng lý văn phòng. Với chức mật thư tỉnh sự, Du coi hết văn thư, Du còn cai quản hết những người phục thị riêng cho Đông cung như thị vệ, cung nga, thái giám, thân binh, bộc phụ, mã phu và cả nhũ mẫu của thái tử nữa. Chức thứ nhì là trưởng sử, để ghi chép tất cả những gì xẩy ra trong Đông cung. Thái hậu bổ nhiệm Đỗ Anh Hạc, cháu gọi Đỗ Anh Vũ bằng chú, y thoát chết trong vụ Côi sơn song ưng xử mấy năm trước. Còn trưởng toán thị vệ, bà bổ nhiệm thằng Ba, tức Đỗ Anh Hào, con của Anh Vũ. Y chính là tên thích khách mà bà sai đến kiềm chế nhà vua hai năm trước.

Thế là nhất cử, nhất động của thái tử, bọn này đều mật tấu cho thái hậu hết. Đông cung trở thành một nhà tù giam lỏng Long Xưởng.

Nhưng có một người, bà không có quyền thay thế, ví dù bà có quyền thay thế, bà cũng không thể thay thế, đó là * Loan, người nuôi sữa của thái tử.

Luật định ra từ thời vua Thái tổ về việc tuyển * cho các hoàng tử, công chúa như sau: Khi một hoàng tử, công chúa sinh ra, thì hoàng hậu tuyển chọn lấy một phụ nữ trẻ, vợ của chức quan nhỏ, có sức khỏe, không bệnh tật, tâm tính lương thuần; đang nuôi sữa cho con, phong làm nhũ mẫu.

Nhũ mẫu của công chúa được hưởng bổng bằng trưởng toán cung nga, hàm tới tứ phẩm. Nhũ mẫu của hoàng tử, hưởng bổng bằng Lễ nghi học sĩ, hàm tới tam phẩm. Sau ba năm, nhũ mẫu được ban thưởng rất nhiều vàng bạc, lại cấp ruộng cho, rồi trả về với gia đình. Còn như vì lòng hiếu kính với người con sữa, nhũ mẫu muốn ở lại trong cung, thì vẫn được cấp ruộng, lại cũng vẫn được hưởng bổng như khi còn nuôi sữa. Người con của nhũ mẫu được phong chức nghĩa đệ hay nghĩa muội của công chúa, hoàng tử.

Nhũ mẫu của Long Xưởng họ Chu tên Thúy Loan, con của một võ quan nhỏ là Chu Minh, giữ chức sư trưởng trong hiệu binh địa phương Thiên trường. Năm mười sáu tuổi, * được gả cho một võ quan cấp tá lĩnh làm việc tại Khu mật viện tên Tăng Quốc. Năm mười bảy tuổi * sinh đứa con đầu lòng, là Tăng Khoa. Tăng Khoa vừa đầy tháng thì * được tuyển làm nhũ mẫu cho Long Xưởng. * phải mượn người nuôi sữa cho con, để nhập cung. Tuy phải xa chồng, xa con, nhưng * được hoàng hậu cực kỳ sủng ái. * ở trong một phòng trang trí sang trọng tại cung Chiêu Linh, nuôi ăn như những công chúa, hoàng tử. * cũng cấp thái giám, cung nữ hầu hạ. Chiêu Linh hoàng hậu luôn ban thưởng vàng bạc cho * vào dịp đầy tháng, đầy năm của Long Xưởng. Cứ hai ngày, * được về thăm chồng một lần.


Khi hết hạn ba năm, * Loan xin ở lại phục thị thái tử. Năm nay * mới hai mươi bảy tuổi, nhưng địa vị, uy tín của * rất lớn, vì tâm tính hiền hậu, hay giúp đỡ người. Bây giờ thái tử được phong tước vương, ra ở Đông cung, các quan chiếu luật, xin thăng * lên chức thái tử thượng thiện, tước Nhu mẫn, Đoan duệ phu nhân. Cái chức thái tử thượng thiện tuy không lớn, nhưng rất quan trọng. Với chức vụ này, * cai quản kho lẫm, tài vật, điều khiển việc nấu nướng, y phục của Đông cung. Đứa con sữa của * là Tăng Khoa được phong tước thái tử nghĩa đệ, được tự do ra vào Đông cung, được vào học ở trường Quốc tử giám. Chồng của * được thăng lên hàng tướng quân. Cả nhà * được vào ở hẳn trong Đông cung.

Gia đình * chỉ vỏn vẹn có bốn người, gồm hai vợ chồng, với Tăng Khoa, thêm một con ở bằng tuổi Khoa tên Nhài, mà * mua về mấy tháng trước. Nguyên con Nhài là con một thầy lang ở Gia lâm. Năm trước mẹ nó chết, dì ghẻ đánh đập nó quá tàn nhẫn. Hàng xóm thương tình xin cho nó làm con ở nhà *. * không muốn chiếm đoạt con của người, * gặp bố nó xin mua. Bố nó bán cho * với giá năm lạng bạc. Từ khi về với *, con Nhài rất chăm chỉ, vừa ngoan, vừa hiền, nó lại chịu khó học, nên cũng đọc thông văn tự. Nó được mọi nết, chỉ phải một tội là mặt nó rỗ chằng chịt, rất khó coi. Năm nay nó đã mười bẩy tuổi, cái tuổi mà hoa chớm nở. Con nhài trổ mã, chân tay dài, thân hình nảy nở. Ngực nở, lưng tròn dáng đi nhẹ nhàng, tiếng nói trong mà ngọt như cam thảo.

Theo hội điển sự lệ triều Lý, thì khi một người được tuyển vào hậu cung, Đông cung, thì Khu mật viện phải điều tra lý lịch. Khu mật viện cho người sang Gia lâm tìm thầy lang điều tra thì biết rằng thầy là người chất phác, ngoan dân. Kết quả con Nhài được tuyển làm người phụ nấu bếp cho * Loan. Long Xưởng dùng nó làm người hầu cận thên tín.

Vì vậy, tuy bị người của Cảm Thánh thái hậu bao vây, nhưng Long Xưởng vẫn còn bốn người thân tín là vợ chồng * Loan với đứa em sữa Tăng Khoa, con Nhài. Bề ngoài thì Tăng Khoa học văn, chơi đùa với thái tử, chứ thực ra nó là con thoi đem tin tức của thái tử cho thái sư Lưu Khánh Đàm, Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền. Nhất là nó thông báo cho Thái tử biết những gì xẩy ra ở ngoài kinh thành. Ngoài ra, trong những giờ học, Long Xưởng được trò truyện với các em trai, em gái.

Ngay hôm Hoàng hậu bị trúng Huyền âm độc chưởng của thằng Hai. Trong khi bà đau đớn đến chết đi sống lại, thì Long Xưởng nhắc :

- Thần nhi nghe nói : Khi Linh Nhân hoàng thái hậu còn tại thế, tự tay người chế ra một cái áo. Lúc nào người cũng mặc cái áo đó bên mình. Sau khi đức Nhân tông lập hoàng hậu, người trao áo đó cho, và dặn rằng : Trọn đời ta, khi thì giúp đức Thánh tông trị nước, để người bình Chiêm. Khi thì thính chính, phù tá hoàng nhi. Ta đã đem tất cả tâm huyết ra chế thành cái áo này. Nay con là Hoàng hậu, ta truyền cho con. Cái áo này, khi mặc vào có thể giúp cho mẫu nghi thiên hạ giữ được chính đạo, phò tá thiên tử. AÔo lại có khả năng chống được tất cả độc tố trong thiên hạ. Con hãy giữ lấy, sau này, đời đời chỉ truyền cho các hoàng hậu mà thôi. Vậy cái áo ấy đâu ?

- Khi được phong làm hoàng hậu, mẹ được Thái hậu trao cho cái áo ấy. Mẹ đã mặc thử, thì không thấy gì lạ cả. Mẹ lại đem ra nghiên cứu, thì chỉ thấy lớp ngoài bằng lông hồ cừu, lớp giữa bằng lụa, lớp trong cùng bằng gấm. Không có chữ hay đồ hình gì cả.

Bà lấy cái áo ấy trao cho Long Xưởng :

- Đây, di vật đó đây. Con vốn thông minh. Vậy con hãy đem về nghiên cứu xem, biết đâu trong đó không có di thư, mật kế gì để lại cũng nên.

Long Xưởng nhận áo, đem về, nhờ nhũ mẫu dùng dao nhỏ tách lơ lụa, gấm, da ra, rồi vạch từng cái lông, tìm từng nút chỉ cũng không thấy gì lạ. Một lần chán nản, vương gục đầu xuống án thư ngủ thiếp đi. Ngủ một giấc, vương giật mình thức dậy, vô ý tay đụng phải bát nước trà tươi, làm nước đổ lên lên lớp da. Vương vội lấy khăn lau nước, thì thấy lớp da lờ mờ hiện lên những giòng chữ li ti chép tất cả võ công mà Linh Nhân hoàng thái hậu đã học được : Võ công Đông a, Chu sa Nhật hồ độc chưởng, nội công Âm nhu, Không minh tâm pháp, Long biên kiếm pháp cùng võ công căn bản của phái Mê linh. Vương tỉnh ngộ, nghĩ thầm :

- Thì ra xưa kia, Linh Nhân hoàng thái hậu đã dùng một thứ mực đặc biệt chép mật thư trong lớp da này. Muốn đọc được, thì phải dùng nước trà tươi đổ lên, chữ mới hiện ra.

Vương đóng cửa, đem nước trà bôi lên khắp lớp da, rồi chép ra giấy.

Vương nghĩ thầm :

- Mẫu hậu ta là đệ tử của phái Mê linh, tuy nhiên bản lĩnh của người không được làm bao. Ta học lại mấy chiêu của người, thành ra vô dụng. Ta nghe, gần đây chưởng môn phái Mê linh là Nghi Hòa sư thái bị ám toán, viên tịch thình lình. Võ phổ của phái Mê linh bị mất, nên các tuyệt học thất truyền. Nên từ đấy, võ công phái này không còn nổi danh như xưa. Nay ta vô tình có được di thư này. Ta âm thầm luyện thành, rồi thình lình ra tay thanh toán bọn Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên, giải vây cho phụ hoàng, cho mẫu hậu.

Sợ rằng trong lúc vô tình, bị người của Thái hậu khám phá ra, Long Xưởng học thuộc tất cả di thư, rồi nhờ nhũ mẫu may các lớp da, lụa, gấm lại như cũ. Từ đấy vương đóng cửa âm thầm luyện di thư. Trong khi bề ngoài không chú ý gì đến luyện võ cả.

Trước hôm thiết Đông cung triều lần đầu, Hoàng hậu đã dặn dò Thái tử phải tối cẩn thận trong hai vấn đề: Một là tỏ ra thực nhân từ, yêu dân như yêu con. Hai là phải làm như nhu nhược, ba phải; các quan bàn gì, thì chỉ ậm ừ, không quyết đoán, để dò ý xem người nào của Thái hậu, rồi sau đó tìm lấy những người tâm huyết, trung thành mà dùng.

Ngày lễ Thượng nguyên, 15 tháng giêng, niên hiệu Đại Định thứ 21 (Canh Thìn, DL.1160), phủ Thái tử thiết Đông cung triều lần đầu tiên. Tuy Long Xưởng được thiết Đông cung triều, tức là bắt tay vào những việc chăm lo cho toàn dân, là điều mà Thái tử ước mơ, chờ đợi từ mấy năm nay... Nhưng trong lòng người thiếu niên ấy lại nặng trĩu lo âu. Bởi nếu cứ nhìn bề ngoài của chính sự, ai cũng tưởng mọi sự tốt đẹp. Nhưng trong thực tế, thì quốc sản khánh kiệt, triều đình xung đột với cung Cảm Thánh. Các quan thì chia làm hai, một nửa xu phụ Thái hậu, một nửa theo triều đình. Cái trở ngại lớn lao nhất của nhà vua cho tới Thái tử là: Bên cung Cảm Thánh, thái hậu muốn làm gì thì làm. Bà không cần đến đạo lý, điển chương, luật lệ.

Nguyên trước đây, bà cùng với Đỗ Anh Vũ áp chế nhà vua, không coi luật lệ, kỷ cương ra gì. Hai người tự tuyển cung nga, thái giám, thị vệ, mà không cần đến triều đình. Riết rồi các quan không còn tuân chỉ nhà vua, chạy theo xu phụ y với Thái hậu. May sao, Côi sơn song ưng giết Anh Vũ cùng với chân tay thân tín của y, Hoàng hậu cho bắt bọn quan lại phe đảng còn lại... Nhưng bọn quan lại này, được đội võ sĩ riêng của Thái hậu giải thoát, rồi đặt chúng trựỳc thuộc cung Cảm Thánh.

Tuy được thoát nạn, nhưng chúng cũng biết rằng, mình sống bám theo Thái hậu là ở ngoài vòng pháp luật. Nếu một mai, nhà vua dành được quyền, hay Thái hậu băng thì ba họ nhà chúng sẽ bị tru diệt. Chúng cũng nhìn thấy: Nhà vua tuy nhu nhược, nhưng Thái tử lại cực kỳ thông minh; mai này nhà vua băng hà, thì không biết những thảm khốc nào sẽ đến với chúng? Trước cái thế nguy đó, một liều ba bẩy cũng liều, chúng xui Thái hậu: Hiện Thái hậu lâm cảnh cỡi cọp rồi, dù người không muốn giết cọp, nhưng bước khỏi lưng cọp, e bị cọp cắn. Đám quan lại theo Anh Vũ, không thuộc họ Đỗ cũng thuộc họ Lê là họ của hậu. Nay Đỗ Anh Vũ chết, thì nhà vua sẽ nhân đó giết ba họ Anh Vũ, rồi không chừng giết ba họ nhà hậu nữa. Vậy nhân người của Anh Vũ còn lại, đang gặp đường cùng, Thái hậu phải chiêu mộ chúng, với anh em nhà hậu, rồi thiết lập trong cung Cảm Thánh như một triều đình riêng biệt.



Thái hậu nghe theo. Bà đưa vào cung rất nhiều đàn ông, mà trong luật cung đình, thì tại Hoàng thành không cho bất cứ người đàn ông nào vào, nếu không phải thái giám. Bà công khai chiêu mộ bọn đầu trộm, đuôi cướp; lập thành năm đội thị vệ riêng, ba đội nam, hai đội nữ. Đám thị vệ dần dần đông tới mấy trăm người, do ba cao thủ võ lâm Vương Nhất, Cao Nhị, Đỗ Anh Hào chỉ huy. Bà ban cho ba tên này mỹ danh là Nùng sơn tam anh. Cả triều đình không ai biết căn cước chúng ra sao. Cái đêm Anh Vũ bị giết, thì cả ba đang ở trong cung Cảm Thánh, nên thoát nạn. Bà còn lập hai đội nữ thị vệ do hai cung nữ tên Cảm Linh, Cảm Chi, cháu gọi bà bằng cô, chỉ huy; đó chính là hai cung nữ đã hộ vệ bà đến cung Chiêu Linh áp đảo nhà vua. Thái hậu lại luôn luôn ban chỉ trực tiếp cho các quan. Đa số các chỉ dụ đó đều trái ngược với những điều triều đình đã nghị sự.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Lúc đầu, khi có những chỉ dụ của cung Cảm Thánh ban ra trái luật, các đại thần trì nghi, tâu lại xin ý kiến nhà vua. Nhà vua tuyên chỉ: Khi có chỉ dụ của thái hậu, cứ việc thi hành, không cần tâu lại. Dần dần cung Cảm Thánh trở thành một triều đình với uy quyền mênh mông tuyệt đối. Một số các đại thần quay ra xu phụ với thái hậu, tuy nhiên chúng vẫn phập phồng sợ bóng, sợ gió Côi sơn song ưng, bằng không chúng đã xui Thái hậu phế nhà vua xuống, rồi lập một ấu quân lên thay.

Theo hội điển sự lệ của triều Lý, thì mỗi tháng nhà vua thiết đại triều hai lần vào ngày mùng một và mười rằm, thiết tiểu triều vào ngày mùng mười và hai mươi. Khi thiết tiểu triều, thành phần gồm có Tam công là Thái sư, Thái phó, Thái úy; Tể tướng, lục bộ Thượng thư, quản Khu mật viện, Tổng trấn Thăng long, Đô đốc thống lĩnh thủy quân, và những quan lại chuyên môn sẽ bàn đến trong buổi đình nghị. Khi thiết đại triều, thành phần cũng như trên, thêm các thân vương, thống lĩnh kỵ binh, thống lĩnh mười hiệu Thiên tử binh, các An phủ sứ, Tuyên vũ sứ.

Dù thiết đại triều, hay tiểu triều thì cũng nghị những vấn đề đại cương. Khi nhà vua lập Thái tử, mỗi tháng Thái tử thiết Đông cung triều bốn lần vào ngay ngày hôm sau thiết đại và tiểu triều. Đông cung triều chỉ để thi hành, hoặc kiểm soát việc thi hành những việc triều đình đã nghị, đã ban ra.

Đông cung triều gồm có các quan như triều đình, nhưng thêm chữ thái tử ở đầu. Như triều đình có Thái sư, Thái phó, Thái bảo, thì Đông cung triều có Thái tử thái sư, Thái tử thiếu sư, Thái tử thái bảo...Thông thường các Đông cung quan cũng kiêm luôn những chức vụ khác của triều đình. Long Xưởng không hy vọng gì vào các Đông cung quan vì họ đều là chân tay của Thái hậu. Biết thế, Long Xưởng mời thêm các vị trong hoàng tộc như Trí Minh vương, Bảo Thắng hầu, Bảo Minh hầu vào Đông cung quan, nhưng dặằn riêng rằng khi nghị sự thì các vị này cứ ù ù, cạc cạc để cho chân tay của Thái hậu tin rằng các ông chỉ là cái bị thịt. Rồi sau đó nếu có ý kiến gì, thì mật tấu cho Long Xưởng bằng đường dây của * Loan, của Tăng Khoa.

Khi thiết triều Đông cung, thì chỉ có ba hồi chiêng trống, chứ không cử nhạc. Thái tử từ trong bước ra.

Lễ quan hô:

- Thái tử giá lâm.

Tất cả các quan đều quỳ gối hành đại lễ. Duy ba người là Trí Minh vương Lý Long Dũng là chú vua; quan Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, quan Thái sư Lưu Khánh Đàm cùng các thầy của Thái tử nên miễn mọi lễ nghi.

Thái tử cung tay đáp lễ với các quan.

Lễ quan hô:

- Bình thân.

Các quan đứng làm hai hàng, văn bên trái, võ bên phải. Trí Minh vương, Thái sư, Thái phó thì được ngồi.

Thái tử vái Trí Minh vương:

- Hài nhi xin vấn an thúc phụ.



- Đa tạ điện hạ, thần vẫn an.

Thái tử lại vái Thái sư, Thái phó, đưa ra lời vấn an bằng ngôn từ bình dân:

- Con xin vấn an hai thầy.

Nhìn Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, thái tử vui vẻ:

- Thưa thầy, nhìn sắc diện thầy, con thấy dường như thầy có điều gì cao hứng lắm thì phải?

- Đúng như điện hạ phán, thần vui mừng, vì hôm nay là ngay đầu tiên điện hạ thiết triều; bắt đầu một kỷ nguyên mới.

Long Xưởng nói với các quan:

- Chư vị đây đều là những người văn mô, vũ lược, lại có tấm lòng son với xã tắc. Hôm nay, các vị cùng Xưởng này họp tiểu triều. Xưởng mong các vị đừng tiếc công dạy dỗ. Điều khiến Xưởng ăn không ngon, ngủ không yên là sao kiến thiết Đại Việt ta thành một nước hùng mạnh,dân chúng hạnh phúc như thời vua Hùng, vua Trưng xưa, hay như thời các vị tiên đế bản triều.

Lại quay sang nói với Hoàng Nghĩa Hiền:

- Thưa thầy! Chương trình nghị sự hôm nay gồm có những gì?

- Khải, thứ nhất, nghị chi tiết việc dựng đền thờ vua Trưng ở phường Bố cái. Thứ nhì, nghị việc chi dụng của hậu cung. Thứ ba, nghị việc tuyển thiện nhân cho Đông cung. Về vụ thứ nhất xin để quan Lễ bộ thượng thư tâu.

Một đại thần bước ra :

- Thần Chu An Thái, Thái tử thiếu sư, Tiên Dung điện đại học sĩ, Đăng châu hầu, Lễ bộ thượng thư, xin kính khải.

- Xin đại học sĩ bình thân.

- Do chỉ dụ của Thái tử, truyền thiểm bộ kiếm thế đất linh lập đền thờ vua Trưng. Sau hơn nửa tháng, thần tìm ra khu đất, mà lúc ngài thắng giặc tại Long biên, đã lập đàn tế Quốc tổ. Khu đất này xứng đáng lập đền thờ ngài.

- Như vậy hẳn đại học sĩ đã tìm được di tích gì từ thời Lĩnh Nam còn sót lại chăng ?

- Khải, khi lập đàn tế Quốc tổ, vua Trưng sai lấy đá trắng ở núi Tản viên tạc bốn cái cột đài. Sau khi tế, hai cột được đưa về kinh đô Mê linh, nay không biết ở đâu. Hai tảng còn lại để ở cửa thành Long biên. Lúc Bắc bình vương Đào Kỳ cùng vương phi sắp phá vòng vây chạy về Cổ loa, người truyền đem hai tảng đá linh chôn vào chỗ kín. Hậu nhân không biết hai tảng đá đó chôn ở chỗ nào. Trong khi thần tìm đất linh xây đền, thần thấy bờ sông ở phường Bố cái có ánh sáng chiếu lên, thần sai đào chỗ ấy, thì tìm ra hai cái cột đá linh thời Lĩnh Nam.

Long Xưởng rót một chung cam thảo trao cho An Thái:

- Đại học sĩ hành sự mẫn cán, mau chóng, thực xứng đáng làm con cháu của vua Trưng, nên anh linh ngài mới đưa khanh tới chỗ chôn báu vật. Khanh hãy uống chung nước này lấy giọng.

An Thái uống hết chung trà rồi dâng sơ đồ vẽ đền, gồm có ba gian chính điện, hai dẫy ngang mỗi dẫy ba gian nữa. Bên dưới ghi rõ chi phí xây cất, thời gian khởi công, thời gian hoàn tất. Long Xưởng đọc qua, không thấy mục ghi số tiền công khố phải chi, thì ngạc nhiên:

- Khanh cho biết tổng số công khố phải chi ra là bao nhiêu?

- Khải điện hạ, trải qua tất cả các triều đại, mỗi khi xây, hoặc tu bổ đền thờ Nhị thánh thì không bao giờ công khố phải chi cả. Thủ tục như sau: Triều đình ban chỉ dụ cho bộ Lễ tìm địa điểm, hoặc dân chúng xin lập tại địa điểm nào. Bộ Lễ sẽ thể theo ý dân, vẽ đồ hình, rồi tâu lên. Dân chúng họp nhau, tìm người đức hạnh, có uy tín bầu lấy ban kiến tạo. Bấy giờ mới quyên giáo thập phương, lấy tiền xây cất.

- Có bao giờ tiền thập phương cúng, mà không đủ để xây cất không?

- Khải, việc này chưa từng xẩy ra. Chỉ nguyên lính của ngài với chư tướng cúng, cũng dư thừa rồi.

Long Xưởng kinh ngạc:

- Lính của ngài? Ngài tuẫn quốc đã 1117 năm rồi, mà lính của ngài còn sống ư?

Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền biết vấn đề này ông chưa giảng cho Long Xưởng, nên Long Xưởng không biết. Ông vội xen vào:

- Khải, nguyên sau khi vua Trưng cùng chư tướng tuẫn quốc rồi, các ngài hiển linh, thường nhập vào những người có phúc trạch, để phán lời ích quốc, lợi dân. Trong ngôn từ bình dân, người ta gọi những người được các ngài nhập đồng là lính. Hằng năm, vào đầu tháng hai, trên toàn quốc mở hội Mê linh, tất cả lính của các ngài đều trẩy hội Hát giang hầu bóng. Hoặc không trẩy hội Hát giang được thì hầu ở những am điện địa phương. Những lính của các ngài, thường khá giả, nên họ cúng rất hậu. Có điều sau khi lập đền thờ, thì cần ruộng, đất, lấy lợi hoa mầu, ấy mới là điều cần thiết, mà triều đình phải chu toàn.

Long Xưởng vui vẻ:

- Thưa thầy, con được hưởng bổng của tước đại vương đã hai năm, nhưng vẫn ở trong cung với mẫu hậu. Lương, tiền, hoa lợi hai trăm mẫu ruộng kim điền, hoặc là con phát cho kẻ khó, hoặc là con tặng cho võ lâm, hào kiệt. Vậy con có quyền dùng ruộng được phụ hoàng ban cho, cúng vào đền của ngài không?

- Khải Thái tử, đúng luật thì không được, nhưng lệ thì được. Lệ này có vào thời đức Thánh tông. Bấy giờ Linh Nhân hoàng thái hậu mới tiến cung, còn ở chức phu nhân. Đức Thánh tông ban cho ngài một trăm mẫu kim điền. Ngài đã cúng vào chùa Báo ân hai mươi mẫu. Từ đấy việc hoàng tộc dùng ruộng đất phong cúng vào đền chùa thành lệ.

Long Xưởng hỏi Chu An Thái:

- Theo đại học sĩ, thì việc hương khói đền thờ vua Trưng, phải cần hoa lợi bao nhiêu mẫu kim điền?

- Khải, khoảng hai mẫu.

Long Xưởng tuyên chỉ cho Mật thư tỉnh sự Lê Du:

- Lê tỉnh sự, hãy làm thủ tục, để cô gia cúng vào đền thờ vua Trưng mười mẫu kim điền.

Việc nghị sự xây đền vua Trưng đã xong.

Ghi chú của thuật giả.

Việc này ĐVSKTT, Lý kỷ, Anh tông kỷ chép giản dị như sau:

...Canh Thìn, niên hiệu Đại Định năm thứ 21, Tống Thiệu Hưng năm thứ 30 (DL.1160), mùa Xuân tháng giêng, làm đền thờ Hai Bà ở phường Bố Cái...

Huyền sử nói rằng, Hai Bà nhảy xuống sông Hát giang tự tử. Anh linh hóa thành tượng đồng, đến thời Lý thì trôi đến bờ sông Hồng ngoại thành Thăng long, chiếu hào quang sách rực, rồi báo mộng cho dân chúng biết. Dân chúng ra chỗ ấy thì thấy hai tượng đồng, bèn vớt lên rồi xin triều đình cho lập đền thờ. Nhân đó đặt tên xã ấy là Đồng nhân (Nay là phường Đồng nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà nội). Đến đời Lê bãi sông có đền tọa lạc bị nước xói lở, dân chúng lại di chuyển đền đến xã Đại từ. Vào thời Gia long (1818) đất lại bị lở đền di chuyển đến địa điểm hiện nay.

Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới đươc biết chi tiết việc này mà thôi. Nếu độc giả muốn hành hương đền này thì cứ về Hà nội, đi xe đến quận Hai Bà Trưng, sẽ thấy đền tọa lạc cạnh Viên minh tư. Viên minh tự là nơi mà thuật giả có nhều kỷ niệm thời thơ ấu. Bởi bản sư trụ trì tại đây. Trước kia thì chùa do sư ni trụ trì, đền do thủ từ trông coi riêng. Từ sau khi bản sư trụ trì thì ngài kiêm luôn. Năm 1993, thuật giả trở lại viếng đền chùa, chỉ gặp sư cô Đàm Vinh là vai sư điệt của thuật giả. Sư cô dẫn thuật giả thăm đền, chùa cùng tháp của bản sư.

Độc giả muốn thâm cứu thêm về ngôi đền này có thể tìm trong các thư tịch sau.

Bằng chữ Hán:

ĐVSKTT Lý kỷ, Anh tông kỷ.

Đại việt địa dư chí.

Hà nội địa dư chí.

Thăng long cổ tích khảo,.

Hà nội sơn xuyên phong vực.

Các tỉnh địa dư chí.

Bắc Thành địa dư chí lục,

Bắc kỳ giang sơn cổ tích bị khảo,

La thành cổ tích vịnh.

Bằng chữ Việt : của Yên tử cư sĩ gồm ba bộ.

Anh hùng Lĩnh Nam,

Động đình hồ ngoại sử,

Cẩm khê di hận.

Đều do Nam á Paris xuất bản.

Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền khải :

- Bây giờ nghị tới việc chi tiêu của nội cung. Thần xin để Thái tử thiềm sự khải.

Một văn quan bước ra:

- Thần Thái tử thiềm sự, lĩnh Hộ bộ tham tri Văn Đức Ý xin khải.

Ghi chú của thuật giả:

Như vậy Ý lĩnh hai chức vụ. Chức vụ Đông cung quan là Thái tử thiềm sự, tương đương với ngày nay là bộ trưởng phủ Tổng thống hay Thủ tướng. Chức vụ của triều đình là Tham tri bộ hộ, tương đương với thứ trưởng bộ Tài chánh.

- Trong hai năm vừa qua, việc chi dụng của nội cung lên quá cao. Cao nhất kể từ khi bản triều lập chính thống. Hiện quốc sản, công nho trống rỗng, đến nỗi hai tháng qua, binh tướng các lộ chưa được phát bổng. Vì vậy buổi thiết triều hôm qua, đình thần nghị tìm cách giảm chi nội cung, và giao cho Đông cung triều nghị chi tiết, nên giảm chi ở cung nào? Giảm người? Giảm mua sắm? Hay tăng thuế?

Thái tử xua tay:

- Cô gia thấy giữa hai việc giảm chi với tăng thuế, thì ta nên chọn việc giảm chi. Xưa, thời Thuận Thiên, đức Thái tổ cai trị trong mười tám năm, mà không hề tăng thuế, trái lại tha thuế đến sáu năm. Tính chung, cứ hai năm, thì tha thuế một năm. Cái ân đức trải khắp lê dân đó, mới khiến triều đình bảo dân nhảy vào nước, vào lửa, họ cũng tuân. Do thế, nên Đại Việt ta, Nam bình Chiêm, Bắc đánh Tống. Nay ta không tha thuế được, thì cũng đừng tăng thuế...

Thái tử hỏi Đức Ý:

- Bây giờ khanh cho biết, tại sao trong hai năm qua, chi tiêu nội cung lại quá cao? Cung nào tăng? Ai chuẩn cho tăng? Phần dự trữ quốc sản đâu, mà binh tướng không được phát bổng?

- Khải, trong hai năm qua, tại tất cả các cung không xây cất thêm, không tuyển thêm người. Nhưng chi phí tăng là tăng ở cung Cảm Thánh.

Nghe nói đến cung Cảm Thánh, các quan đều đưa mắt nhìn nhau đầy bối rối.

- Tăng như thế nào?

Thái tử hỏi: Tăng người? Tăng xây cất hay tăng chi tiêu?

- Khải, tăng cả ba. Thứ nhất, Thái hậu tuyển ba đội thị vệ nam, hai đội thị vệ nữ. Thứ nhì, Thái hậu bổ nhiệm hơn trăm quan chức các loại. Thứ ba, Thái hậu tăng số cung nga, thái giám lên gấp mười lần. Lại nữa Thái hậu cho xây cất dinh thự, doanh trại cho các tân quan, tân thị vệ.

Thái tử hỏi các quan:

- Chư khanh nghĩ sao? Muốn giảm chi ở cung Cảm Thánh thì cô gia bất lực mất rồi. Từ hơn hai năm nay, bất cứ việc gì liên quan tới cung Cảm Thánh, thì từ phụ hoàng cho đến mẫu hậu đều không dám mó tay vào cái tổ ong bầu này. Chư khánh tính xem, ta có thể giảm chi ở các cung khác không? Hà! Nhất định cô gia không cho tăng thuế.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Postby Mười Đậu » 02 Nov 2005

Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền bàn:

- Chỉ dụ của Thái tử tỏ ra là đấng trừ quân nhân đức. Nhưng nếu không tăng thuế thì lấy gì để chi dụng? Còn giảm chi ư? Thần xét kỹ, các cung, các điện đều tiết giảm chi tiêu tới mức thấp nhất rồi, không thể giảm hơn được nữa. Bây giờ Văn Thiềm sự hãy tâu chi tiết về các khoản chi dụng năm qua tại cung Cảm Thánh, rồi đình nghị để tìm lấy một ngõ thoát.

Văn Đức Ý xuất ra một tập sách mỏng, rồi tâu:

- Vào thời Linh Nhân hoàng thái hậu, cung Ỷ Lan chỉ có một đội cung nữ, một đội thái giám, mỗi đội mười hai người, và một đội thị vệ mười tám người. Ngoài ra bộc phụ, mã phu, ngự trù mười tám người nữa. Cộng sáu mươi người. Hiện nay tại cung Linh Cảm, thì cung nữ, thái giám đều có mười đội. Tăng 216 người. Tính chung, nuôi ăn, cư trú, trả bổng, y phục, mỗi người một tháng ba lượng vàng. Cộng một năm tăng 7776 lượng. Muốn có số vàng này thì phải thu thuế mười vạn mẫu ruộng loại nhất đẳng kim điền.

Các quan đều ngao ngán đưa mắt nhìn nhau.

- Chư đại thần của triều đình là 72 vị. Trong khi các quan chức của cung Cảm Thánh hơn trăm vị. Thái hậu ban chỉ phát bổng cho chư quan cung Cảm Thánh cao hơn các quan của triều đình rất nhiều. Người nào cũng có nghi vệ như xe, ngựa, lính hầu. Chi phí cho hơn trăm quan của cung Cảm Thánh còn cao hơn tổng cộng chi phí của triều đình với Đông cung quan. Tính đổ đồng, năm vừa qua, chi cho các quan cung Cảm Thánh là một vạn hai nghìn lượng vàng. Muốn có số vàng này thì phải thu thuế mười lăm vạn mẫu ruộng loại nhất kim đẳng điền.

Các quan đều suýt xoa, về số chi kinh khủng này.

Đức Ý tiếp:

- Về ba đội thị vệ nam, hai đội thị vệ nữ, quân số hơn năm trăm người. So với thời Linh Nhân hoàng thái hậu, tăng 508 người. Theo quan giai của triều đình, thì thị vệ hưởng bổng bằng tam phẩm. Nhất đẳng thị vệ bằng nhất phẩm. Lại phải mua sắm vũ khí, xe cộ, lừa ngựa, y phục, doanh trại y dược... trăm thứ tốn kém. Tổng chi hằng năm của năm đội thị vệ này còn cao hơn năm hiệu Thiên tử binh nữa. Nếu cộng tất cả chi phí của cung Cảm Thánh lại, thì bằng chi phí của cả triều đình, nội cung và mười hai hiệu Thiên tử binh. Nghĩa là bằng một nửa tổng chi phí toàn quốc. Hai năm qua, phần chi thì thêm, mà phần thu thì vẫn thế, nên quốc sản khánh kiệt, kho đụn trống rỗng, tình trạng thực nguy vô cùng.

Long Xưởng hỏi:

- Khanh nói nguy, là ý thế nào?

Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền biết học trò mình chưa được giảng về vấn đề này ông đỡ lời Đức Ý:

- Khải Thái tử, nguyên vào thời đức Thánh tông, khi ngài bình Chiêm, bấy giờ Linh Nhân hoàng thái hậu còn là Ỷ Lan thần phi, hậu thay vua nhiếp chính. Thái hậu thấy rõ cái họa Chiêm thành, cái ách Trung quốc, bất cứ lúc bào cũng có thể xẩy ra chiến tranh. Mà chiến tranh thì chi tiêu tốn kém vô cùng. Lỡ ra khi chiến tranh xẩy ra thình lình thì lấy đâu ra để chi dụng? Vì vậy Thái hậu cho thiết lập một quốc khố dự trữ gấp rưỡi số chi hàng năm trên toàn quốc. Hóa cho nên mấy chục năm qua, quốc khố luôn luôn duy trì tình trạng đó. Nhưng trong hai năm qua, chi tiêu quá nhiều, thành ra quốc khố dự trữ hết sạch. Giả như thình lình quốc gia hữu sự thì lấy đâu ra để chi dụng? Vì vậy Văn Thiềm sự mới khải rằng nguy...

Thái tử thiếu bảo Tô Hiến Thành khải:

- Từ xưa đến giờ, chư sự nội cung thì triều đình không thể, không nên bàn đến. Thời đức Thánh tông, khi Linh Nhân hoàng thái hậu đưa ra quốc kế giảm chi nội cung, Thái sư Lý Đạo Thành cùng các đại thần đều từ chối nghị sự. Sau đích thân đức Thánh tông phải phụ trách công việc này. Nay trên Thái tử còn Hoàng thượng, Hoàng hậu, cao hơn còn có Thái hậu. Khi triều đình nghị sự việc gì, mà cung Cảm Thánh bác bỏ, thì cũng đành bó tay. Vậy liệu Đông cung triều nghị sự rồi có thi hành được không? Nên thần xin Thái tử diện tấu với Hoàng thượng về việc này thì hơn.

Thái tử than thầm:

- Cái ông Tô này tương đối có tài cầm quân, mình hy vọng vào ông để có thể thanh toán bọn đầu trâu mặt ngựa đang ẩn thân ở cung Cảm Thánh. Không ngờ ông cũng chỉ là thứ ngu trung mà thôi. Ta phải tìm người khác trợ giúp mới hy vọng.

Thế là vấn đề giảm chi nội cung đành gác lại.

Long Xưởng buồn vô hạn, trong tâm thiếu niên này nảy ra những bất mãn:

- Mình muốn cho dân giầu, nước mạnh, nhưng phụ hoàng thì bị Thái hậu kiềm chế. Mà Thái hậu là người thất học, chuyên nghe lời bọn vô lại xúi dục. Làm sao bây giờ?

Thái tử thở dài hỏi quan Thái phó:

- Thưa thầy bây giờ đến vấn đề gì?

- Vấn đề nghị sự thứ ba hôm nay là tìm thiện nhân cho thái tử. Nguyên vào thời đức Thái tổ, niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 (1012), ngài phong cho đức Thái tông tước Khai Thiên vương, truyền ra ở cung Long đức ngoài thành, với ý muốn cho đức Thái tông hiểu dân tình, cùng tiếp hào kiệt, kết nạp nhân tài. Nay Thái tử được phong chức tước, được lập làm trừ quân, lệ này đươc tái lập.

Thái tử hiểu ý ông thầy, trong lòng thiếu niên nghĩ thầm:

- Đất nước mình không thiếu gì những anh tài, những hào kiệt có lòng son với xã tắc. Ta nhân việc cũ, tiếp xúc với dân, mà khuất thân cầu hiền, thì cái phong khí thời đức Thái tổ, Thái tông có cơ phục hưng.

- Vậy bây giờ ta phải làm gì?

Thái tử hỏi: Thầy dậy cho biết phải làm việc gì trước? Việc gì sau?

Thái sư Lưu Khánh Đàm khải:

- Xin Thái tử ban chỉ cầu hiền tài, rồi sai in thành nhiều bản gửi xuống tận xã ấp. Hằng ngày, Thái tử tiếp võ lâm, kẻ sĩ, lắng nghe những lời ngay thẳng của họ. Lại ra sức khuất thân chiêu hiền đãi sĩ như Khai Quốc vương trước đây, thì chẳng mấy chốc nhân tài sẽ xuất hiện.

- Đấy là đại cương. Nhưng chi tiết, phải chiêu mộ ai trước?

- Về võ, đầu tiên phải cầu là tổ chức đại hội võ lâm. Từ thời Đinh, mỗi năm vào ngày 15 tháng tám là ngày giỗ Bắc bình vương Đào Kỳ với vương phi Phương Dung, võ lâm tổ chức đại hội tại Lộc hà, Hội phụ. Nhưng từ sau khi đức Thần tông băng, Đỗ thái hậu nhiếp chính, người nghe lời Anh Vũ, nghi ngờ võ lâm, rồi ban chỉ bãi bỏ. Kể từ đấy phong khí luyện võ trong nước không còn nữa. Nay Thái tử ban chỉ tái tổ chức giỗ Bắc bình vương, lại mở khoa thi tuyển người tài, cho làm tướng. Như vậy nhân tâm đều hướng về triều đình, võ lâm đều theo gió mà quy phục.

Thái tử cung tay hướng Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền:

- Xin thầy cho soạn chỉ cầu hiền, tổ chức giỗ Bắc Bình vương cùng thi võ. Chư sự nhất nhất chiểu theo những gì thời đức Thái tổ đã làm. Còn việc Thái tử luyện võ...

Ông nhấn mạnh :

- Thái hậu là chúa Hoàng thành, người từng ban chỉ cấm tất cả phi tần, cung nga, thái giám luyện võ. Trước kia Thái tử ở trong Hoàng thành thì bị chi phối bởi lệnh này. Nay Thái tử ra ở Đông cung. Đông cung nằm ngoài Hoàng thành, trong Đông cung có nhiều phòng luyện võ từ thời đức Thái tổ để lại. Vì vậy Thái tử có thể dùng các phòng này, rồi tuyển gia sư luyện võ cho thân thể khỏe mạnh.

Đến đó buổi thiết triều chấm dứt.

Lễ quan hô:

- Thái tử hồi cung. Bãi triều.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 60 guests