by pleikey » 13 Jan 2009
Phần tiếp theo....
Khởi đầu Tình Ca:
Hiện Tượng Trịnh Công Sơn thật ra chưa xảy ra cho đến giữa thập niên 60 khi mà nhạc phản chiến trở thành phổ biến, khởi đầu người nhạc sĩ trẻ này chỉ thích viết tình ca như “Ướt Mi,” “Biển Nhớ,” “Diễm Xưa” và “ Tình Sầu” Có điều gì đó bí ẩn chung quanh các bản nhạc của Sơn, nhiều thắt mắt được nêu ra nguyên nhân nào tạo nên nguồn cảm hứng cho ông, đặc biệt là những bài tình ca. Mọi người muốn biết ai là người con gái trong bài hát. Lời đồn đãi lang xa rồi trở thành những huyền thoại và nó giúp phần tăng thêm sự chú ý về ông. Những năm về sau Sơn và những người bạn thân mới giải thích một số bí ẩn trong vài bài hát . Điển hình Sơn đã từng giải thích rằng bài “Ướt Mi” được viết để tặng cho người ca sĩ tên Thanh Thúy mà Sơn có lần nghe cô hát bài “Giọt Mưa Thu” khi cô vừa hát vừa khóc bỡi vì mẹ cô vừa qua đời tại quê nhà do bệnh lao phổi. Còn bài “Diễm Xưa” có lẽ là bản nhạc nổi tiếng nhất trong các bài tình ca của Sơn, Sơn giải thích rằng có một cô gái tên Diễm mà Sơn nhìn thấy từ ban công trước nhà tại Huế (xin xem hình ở phần đầu) trong lúc cô đi bộ dọc theo con đường Nguyễn Trường Tộ để đến lớp học.
Đó là những điều liên quan đến bản nhạc tình đầu tay, bên cạnh đó còn có những bí ẩn khác chung quanh những cảm hứng của ông mà chưa dám tiết lộ? Sơn lúc đó giải thích rằng có những điều không nên tiết lộ bỡi vì nó sẽ gây phản cảm với thính giả, giới trẻ miền Nam giờ chạy theo nhạc Âu Châu và nhạc Mỹ, thể loại này có tính cách mới hơn so với nhạc của các nhạc sĩ trong nước. Còn thể loại nhạc mang âm hưởng xưa mà người Việt thường gọi nhạc Tiền Chiến, là một nhầm lẫn bỡi nhiều nguyên nhân. Nhầm lẫn đầu tiên là bỡi những bản nhạc này được ra đời trước thời chống Pháp nhưng cũng có nhiều bài được viết trong thời kỳ và sau cuộc chiến. Nó cũng tạo nhầm lẫn bỡi vì nó bao gồm những bản nhạc tình cảm ủy mị được ra đời trong thời kỳ này, chẳng những thế, nó còn có thêm thể loại nhạc yêu nước. Có thể cái tên “Tiền Chiến” trở thành phổ thông bởi vì các bài hát ra đời trong giai đoạn này được gắn liền giữa âm hưởng và ý thơ mà được gọi nôm na thơ tiền chiến vào thập niên 30 và 40. Những bài thơ được viết bỡi một nhóm nhà thơ lãng mạn người Pháp có tầm ảnh hưởng lớn vào thế kỷ 19, chẳng hạn như Alphonse de Larmartine, Alfred Vigny, và Alfred de Musset. Nhiều bài thơ tiền chiến cũng được phổ nhạc. Điều quan trong ở đây cho chúng ta thấy rằng nhạc tiền chiến hãy còn phổ biến vào thập niên 50 khi mà Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác. Thật ra, “Giọt Mưa Thu” bài hát được sáng tác bỡi Đặng Thế Phong năm 1938 do Thanh Thúy hát vào năm 1958 đã tạo cảm hứng cho Sơn sáng tác bài tình ca nổi tiếng đầu tay “Ướt Mi.”
…………..
Mặc dù không bị cấm chính thức, nhạc tiền chiến rất hiếm khi được nghe ở miền Bắc. Lần đâu tiên đại thắng Pháp rồi đến chống Mỹ và phe đồng minh, các nhà lãnh đạo bên phía Dân Chủ Việt Nam không muốn người dân nghe các loại nhạc tình lãng mạn ủy mị. Dù sao nhạc tiền chiến được phổ biến trong Nam: Đó là nhửng bài hát tạo bình phong cho những đổi mới nổi bậc của Sơn. “Đi vào tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ,” Đặng Tiến đã nói “Trịnh Công Sơn dần dà tạo nên một tiếng nói mới cho nền âm nhạc, thoát khỏi khuôn mẩu nhạc xưa với thể loại nhạc cải cách mà chỉ mới nổi lên cách đây chừng 20 năm”
Sơn đã làm cách nào tạo nên các bài hát thể hiện một cách mới lạ? Văn Ngọc nhấn mạnh rằng cách thức mới trong lời nhạc của Sơn, điều mà ông đang đề cập, hoàn toàn không có giới hạn với chức năng diễn tả ý nhạc từ đầu đến cuối. “Nó mang một sức sống hoàn toàn độc lập, tự do. Nó hầu như gây cảm xúc bằng những ý tưởng tươi đẹp, nhiều ấn tượng, và những ưu tư mà đôi khi đạt đến trình độ chủ nghĩa siêu thực; và trong đó đôi khi lời nhạc không có liên hệ logic chút nào.” Sơn kiến tạo các bài hát bằng một đúc kết tài tình trực tiếp đi vào lòng người. Để đạt được điều này ông đã áp dụng phượng pháp từ các nhà thơ hiện đại, đó là điều tại sao ông được gọi là nhà thơ, chứ không chỉ là nhà viết nhạc Những kỹ xảo này bao hàm lời nhạc thiếu mạch lạc (ít nhất ở một mức logic nào đó); cấu trúc văn phạm bất bình thường đưa đến những giới hạn chấp nhận được; cách diễn tả mới, những hình tượng và ẩn dụ; cấu trúc từ nghữ một cách lạ lùng; và vần điệu; bao gồm phá vần và theo vần. Những kỹ xão này ta có thể thấy trong bài “Diễm Xưa.” Dù vậy ý của bài hát vẩn hiểu được - người đang chờ dưới mưa mong người yêu đến thăm – bài hát diển tả thiếu mạch lạc . “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, Để người phiêu lãng quên mình lãng du?” Lê Hữu gọi đây là “Ông nói gà, bà nót vịt; như lấy lời bài hát khác gắn vào bài này” Sơn dùng văn phạm bất bình thường như ta thấy ở dòng thứ hai: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” Khi thông dịch vợ tôi phải bỏ bớt “mấy thuở” bởi vì cấu trúc văn phạm của Sơn làm người ta khó biết rỏ sự liên hệ của các từ trong nguyên câu.
Trong bài “Diễm” cũng như các bản nhạc tiền chiến thường có mưa rơi, mùa thu, lá rơi, còn lại các thứ khác và ý tưởng hoàn toàn không có sự rập khuôn. Như tháp cổ, bia đá, và sỏi đá hổ trợ cho nhau mà nhạc tiền chiến chưa đuợc khai thác. Khả dĩ câu hát này, “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau,” trở thành nổi tiếng bởi vì nó mới lạ và dể thu hút. Kỹ xảo thứ tư là, cách đặt câu bất thường, theo nhiều nhà phê bình nhận ra sự khác biệt trong nét nhạc của Sơn, có thể gọi đó là sự đối nghịch của Sơn, hay ý tưởng đối nghịch (Cao Huy Thuần 2001b, Trần Hữu Thục 2001),còn một điểm đặc biệt nửa tôi sẽ đề cập sau. Trong bài “Diễm” có thêm dòng thứ 2 mang cấu trúc đặc biệt dạng thơ tứ tuyệt “Buồi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua,” Sơn sử dụng từ trong câu “Chuyến mưa qua” để diển tả trời mưa, dùng từ “chuyến’” là một bất thường, từ này chỉ dùng cho “chuyến xe, chuyến bay, chuyến xe lửa…” chứ chưa bao giời dùng cho cơn mưa (Lê Hữu 2001, 227). Có thêm vài dẩn chứng hay hơn nữa tìm thấy trong các câu thơ tứ tuyệt của một số nhạc tình, bài “Tình Sầu” của Sơn:
“Tình yêu như vết cháy trên da thịt người
Tình xa như trời, tình gần như khói mây
tình trầm như bóng cây
tình reo vui như nắng
tình buồn làm cơn say”
Câu thơ bắt đầu với tình yêu được so sánh như vết phỏng, chứng tỏ chiến tranh đã đi vào người viết nhạc này. Nó đề cập đến sương mù, mây, nắng, đó là những thứ sơn xếp đặt và sử dụng tạo nên sự bất tương đồng, như Đặng Tiến dẩn giải, “’Tình xa như trời’ là hợp lý, nhưng tại sao ‘tình gần như khói mây’?... ‘Tình reo vui như nắng ‘ là đúng, nhưng nghịch lý với ‘tình trầm như bóng cây.´ Tại sao lại có ‘làm cơn say’ ở đây?”
Đặng Tiến so sánh bài “Tình Sầu” với bài “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh., một bài hát tiền chiến năm 1952 hay 1953 hãy còn phổ biến ở Viêt Nam vào thập niên 60 và 70 (Tôi nghe bài này rất nhiều lần trong các phòng trà ở Huế và Đà Nẵng trong thời chiến). Nó bắt đầu như thế này:
"Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian”
Theo Đặng Tiến, trong khi lời nhạc tương phản mới lạ trong nhạc của Sơn, những câu hát trên đuợc xếp đặt những ý tưởng theo thứ tự với nhau: mây-gió, bướm-hoa, trăng-thu.
Cuối cùng là kỹ xảo dùng thơ, vần điệu – vừa theo vần và phá vần - Được Sơn sử dụng một cách khéo léo gắn liền với kết cấu. Các nhà viết nhạc khác cũng dùng thơ vần nhưng nó trở thành một công cụ quan trọng cho Sơn. Trần Hữu Thục nói rằng một số bài nối tiếng của Trịnh Công Sơn lúc hát theo vần điệu, lúc thì chỉ hát theo ý nghĩa. Tôi xin lấy bài “Diễm” để xếp vào thể loại này, ý nghĩa rời rạc làm chướng tai người nghe, đổi lại các từ trùng âm ở cuối các câu hát tạo nên kết cấu bài hát và tạo sự dể chịu. Do tiếng Việt đánh vần theo ngữ điệu, người ta có thể thấy nhiều vần điệu được dùng trong “Diễm” qua các âm của các từ cuối câu
Để giải thích điều gì thúc đẩy Sơn tìm đến những lời nhạc mới lạ? Đặng Tiến nhận định rằng sự tác động và cao trào thế giới trí thức ở các đô thành miền Nam Việt Nam giữa hại cuộc chiến Đông Dương. “Mọi người đọc Francoise Sagan ở Sài Gòn thời Pháp thuộc,” Đặng tiến cho biết, “Ở các thành thị, đặc biệt là các phòng trà, mọi người đều thảo luận về Malraux, Camus, và có cả Faulkner, Gorki, Hussler, Heiddegger.” Tại Huế, Sơn giao du với một nhóm bạn trí thức bao gồm các nghệ sĩ Đinh Cường và Bửu Chỉ, nhà triết học và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà thơ Ngô Kha (người có bằng luật ), và giáo sư người Pháp và nhà thông dịch Bửu Ý, hai người này đứng đầu khoa Pháp ngữ khu Pedagogy của trường đại học Huế. Sơn rỏ ràng đã tiếp thu chủ nghĩa tân thời qua tự rèn luyện môn triết học và qua những cuộc thảo luận với bạn thân và qua đó ta có thể lấy một thí dụ là ông dùng những từ tương phản khi ông không thích diễn đạt những ý nghĩa đơn giản, khi ông chọn cảm xúc hơn là cấu kết logic. Không còn nghi ngờ gì, ông đã được ảnh hưởng bỡi nhà thơ Apollinaire nước Pháp và T.S. Eliot, James Joyce, Gertrude Stein, và Ezra Pound ở Anh và Mỹ
Một thành viên khác trong giới bạn của Sơn, Thái Kim Lan, theo học môn triết học tại trường đại học Huế, đề cao sự tác đông của triết lý phương tây, đặc biệt là thuyết sinh tồn vào thời thanh xuân ở Huế. Những quan niệm về “Sự tồn tại tâm linh,” “thể chất và hư vô,” “cuộc đời vô nghĩa,” và Thần Thoại Sisyphus điều mà bà ấy nói, được tranh luận xôi nổi. Như Sơn đã học môn triết học tại trường French lycée, theo Thái Kim lan cho biết, ông thường chỉ ngồi lắng nghe trong các cuộc thảo luận, sau khi kết thúc ông làm mọi người ngạc nhiên bỡi ông đã có thể sáng tác một bài hát và “hát một cách triết lý.” Những bài hát của ông, theo lời của Thái Kim Lan, toàn là những những ý kiến tham khảo ban đầu vừa mới được bàn cãi, nó giúp bà tháo bỏ bớt đuợc những vướn mắt bị bó buộc. Thái Kim Lan cho rằng trong bài “Ngẫu Hứng” Sơn hát: “không có cái chết đầu tiên, đâu có cái chết sau cùng” nhằm định nghĩa sự “đầu tiên” và “sau cùng.” Trong bài “Lời Của Dòng Sông” ông muốn đề cập về vấn đề “thể chất và hư vô” Theo Thái Kim Lan thì đó là sự bất đồng của những triết lý mới trong các bài hát tạo nét khác biệt với các nhạc sĩ đi trước và tạo sự gần gủi tới giới trẻ
Sơn trước đây có sáng tác “Dã Tràng Ca” là một thí dụ hay cho thấy Sơn được ảnh hưởng và rèn luyện bỡi triết lý của Pháp. Trong bản trường ca này rỏ ràng ông có cảm hứng bỡi Thần Thoại Sisyphus của Camus, Sơn dùng biểu tượng con người Việt Nam lao động cần cù nhưng không có kết quả, con dã tràng là sự thể hiện gốc nhìn của cuộc sống ảm đạm như Camus qua tác phẩm nhằm nói lên sự cứu rỗi của tình yêu. Trong một buổi ra mắt giàn đồng ca năm 1962 do các học trò của Sơn tình diễn tại trường giáo dục Qui Nhơn, rất được khán giả hâm mộ nhưng chưa bao giờ được phổ biến hoặc ghi âm cho đến khi nhà sử học Nguyễn Đắc Xuân phỏng vấn các học trò của ông. Những lời nhạc triết lý trong “Dã Tràng Ca” và những tác phẩm tạo sự mới mẻ cho các bài hát của ông nhưng nó được viết cẩn thận để các ý tưởng được truyền đạt không quá xa vời hay xa lạ . “Tôi lúc nào cũng thích triết học,” Sơn viết như vậy, “và vậy tôi muốn đưa triết học vào các bài hát của tôi,” cũng như ông minh định, ông nhắm vào “triết lý nhẹ nhàn để mọi người có thể hiểu được, như một bài thơ ngụ ngôn hoặc lời ru mà bà mẹ hát ru con”
Nhưng nó không chỉ ở cách dùng từ trong các bài hát tạo nên sự mới mẻ và tính lột tả: Nhạc của ông mang âm hưởng hiện đại so với các bản nhạc thới tiền chiến như Đoàn Chuẩn và những tác phẩm trước đây của Văn Cao và Phạm Duy là các nhạc sĩ cùng thời với Sơn nhưng lớn tuổi hơn. Những gì làm nhạc của Sơn mang âm hưởng hiện đại? Sơn tạo sự thành công bỡi ảnh hưởng thời đại, không bắt chước hoặc bắt chước rất ít, cộng với thể thơ đường luật. Để tránh sự rập khuôn không phải điều dễ bởi vì nhiều bài hát tiền chiến hãy còn lan tràn như tôi đã đề cập, và những thơ văn truyền thống lâu đời. Đặng Tiếng lý luận rằng những dòng trong bài “Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh là dạng thơ thất ngôn, một dạng thơ phổ biến ở Việt Nam và Trung Hoa:
Lá vàng từng cánh rơi từng cánh (7 từ)
Rơi xuống âm thầm trên đất xưa (7 từ)
Trong khi giải thích tại sao nhạc của Sơn khác với những đàn anh đi trước, Văn Ngọc lý giải: “Khi một người hát những bài “Buồn Tàn Thu” của Văn Cao (1940) hay “Chinh Phụ Ca” của Phạm Duy” (1945), ca sĩ đó khó kiềm chế được cảm xúc từ những dòng thơ, ở mỗi từ, cũng như những ai hát ca trù. Cũng như những âm thanh bên tai, người ta có thể nghe luýt đàn Nguyệt và giọng ca hay tiếng trống, tiếng đàn catanhet. Trong khi đó, các bản nhạc của Sơn rất hiếm khi tạo cảm xúc như các hình thức nổi tiếng này. Nguyên nhân khác nữa là Sơn được giáo dục ở trường French lycée. Không giống như những bạn bè khác học trường Việt, ông không bi buộc phải học thuộc lòng các bài bài thơ được viết sang tiếng Việt truyền thống và trường phái cổ điển.
I thought I made a mistake once but it turned out it was a creative moment.
~ Scott Fleming