Cô Marie Carré là một nữ y tá người Pháp. Cô đã trở lại đạo Công Giáo vào năm 1965. Qua đời ở thành phố Marseille, Pháp vào năm 1984.
Tháng 5-1972, cô cho xuất bản cuốn ES-1025 - Elève Seminariste 1025
Người phụ trách xuất bản xác định câu chuyện cô kể đúng sự thật, tuy nhiên cô có sửa đổi bản văn đôi chút cho dễ đọc.
Độc giả nên nhận xét và phán đoán về nhân vật mang danh số 1025, những dự án và công tác anh đã thực hiện trong Giáo Hội Công Giáo.
Đâu là những hậu quả tai hại anh và tổ chức của anh đã đạt được trong nửa thế kỷ qua ?!
Lời mở đầu
Làm sao một người không phải là văn sĩ lại bắt đầu viết sách ? Hay là làm sao cắt nghĩa được là một người cảm thấy có trách nhiệm phải xuất bản tập Ký Ức này ? - một tập ký ức kinh hoàng !
Hơn nữa, tôi xin nói là những trang đầu này là một lời kêu gọi người Công Giáo hôm nay qua hình thức một lời tựa, hay nói đúng hơn là một lời xưng tội. Phải, "một lời xưng tội" thì đúng, dầu không ai muốn dùng từ này ngày nay.
Tôi chỉ là một nữ y tá và tôi gặp một người bị chết vì tai nạn xe trong một nhà thương kia - tôi xin giấu tên. Ông ta là một người không tên, không quốc tịch, tôi muốn nói là không có giấy tờ gì để biết được lý lịch của ông.
Nhưng ông lại mang một cái cặp trong chứa nhiều tài liệu và tôi bó buộc phải xem. Một trong các tài liệu bắt đầu bằng câu: "Tôi là một người không tên, không gia đình, không quê hương và không gia sản"
Các tài liệu dầy khoảng một trăm trang đánh máy này đã không giúp tôi tìm ra danh tánh của người bị thương !
Hơn nữa, tôi xin khai thật, vì tôi nhắc đến việc xưng tội, nên tôi xin hoàn toàn thành thật về việc này: tôi đã quyết định đọc các tài liệu riêng tư này. Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ trên. Tôi không ngờ khi để cho cơn tò mò của nữ tính mạnh hơn các quan tâm nghề nghiệp của một y tá, thì việc đọc tài liệu đã giày vò và đè nặng lên tâm tư tôi.
Vì tập tài liệu quá quan trọng nên tôi không thể quăng vào lửa và cũng không dám đưa cho người khác. Là người Tin Lành trở lại Công Giáo, tôi yêu mến Giáo Hội, tôi phải đặt việc bênh vực Giáo Hội lên trên các lý do khác.
Tôi đã cố tìm hiểu về anh; khi hỏi, tôi xin anh nhắm mắt lại nếu anh muốn trả lời là đúng, lúc đó tôi chưa đọc tập tài liệu này. Nhưng anh đã không trả lời vì không còn sức hay không muốn. Tôi không bao giờ biết được !
Chỉ sau khi anh qua đời và sau khi đã đọc tập tài liệu trên, tôi mới nhận ra là anh đã đau khổ gấp ngàn lần vì đã dại dột viết tập Ký Ức Kinh Hoàng này hơn là vì chính vết thương của anh.
Nếu tôi biết được sức mạnh ghê gớm và tầm quan trọng không thể lường được của con người này, giờ đây không khác gì một khúc cây, tôi đã tìm lời để nói lên những điều anh cần phải nghe. Tôi cũng đã có thể phá tan cái áo giáp mà anh đã sáng chế để che đậy cái ý tưởng hắc ám của anh. Cái áo giáp đã được tôi luyện bằng hằng bao năm cực khổ, cũng có thể bị phá tan trong không đầy một giây. Thiên Chúa và các Thánh biết điều này.
Nhưng tôi không chỉ quan tâm đến công việc một người y tá; Phải, điều này hoàn toàn đúng (người ta không thể tìm được trong sách vở hay các khoá học và ngay cả trong các cuộc thi), ngoài việc săn sóc bệnh nhân, tôi còn cầu nguyện cho họ. Và tôi cũng cầu nguyện cho con người này mà người ta cho tôi biết là không mang giấy tờ gì trong người.
Tôi đặt cho anh ta một cái tên. Tôi gọi anh là Micae vì Vị Tổng Lãnh Thiên Thần này thường hay giúp đỡ tôi.
Vì vậy tôi cầu nguyện cho anh và gọi anh là Micae và chắc chắn anh là một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Nếu tôi biết trước điều này, vì bổn phận của một người Công Giáo, tôi vẫn cầu nguyện cho anh và xin người khác cầu nguyện nhiều hơn nữa.
Bây giờ tôi còn xin lễ cho anh.
Trong mắt anh Micae có cái nhìn làm tôi không thể quên được, nhưng tôi không đọc được cái nhìn đó.
Sau khi biết những tâm tình của anh, tôi cố làm sống dậy trong tôi sức mạnh cái nhìn của anh để biết anh muốn tôi làm gì với tập Ký Ức này.
Nhưng trước hết tại sao anh viết ra những điều này ?
Đây có phải là dấu chỉ của sự yếu đuối, một thứ yếu đuối nguy hiểm duy nhất mà anh đã phạm ? Mục đích của anh là gì ? Anh muốn tỏ ra mình đang thống trị hay là muốn tìm sự an ủi ? Chỉ có Chúa mới biết được !
Hôm nay tôi gặp cô bạn gái, và cô muốn tôi xuất bản tập tài liệu này. Nhưng tôi có quyền làm như vậy không ?
Cái đau khổ nhất của tôi là tôi không thể hỏi trong toà giải tội, như tôi đã thường làm cách đây ít năm.
Xin anh Micae tha thứ nếu tôi tiết lộ vai trò của anh, tôi hành động chỉ vì lợi ích cho anh và cho cả chúng ta.
Ad majorem dei Gloriam - Để cho sáng danh Chúa hơn.
Chương I
Người không tên và bí mật lớn nhất trong đời
Tôi tự hỏi tại sao tôi cảm thấy muốn viết lại ký ức của tôi. Thật hơi kỳ lạ ! Tôi nghĩ là tôi nên viết chúng vì mỗi đêm tôi viết trong chiêm bao, hình như có một sức mạnh vô hình đã thúc đẩy tôi, tôi còn tưởng tượng là tôi tiếp tục viết cả lúc ban ngày. Nhưng không quan trọng, tôi nghĩ không bao giờ có ai sẽ được đọc chúng; Đúng lúc, tôi sẽ thủ tiêu.
----------------------------------------
Tôi là một người không tên, không gia đình, không quê hương và không cả dòng tộc. Tôi là một trong số những người mà kẻ giàu sang quyền thế khinh chê. Vì điều trên và vì những người đã muốn tốt với tôi, tôi đã ngu đần chấp nhận chịu đau khổ. Tôi mong ước biết được niềm hạnh phúc nào sẽ phát xuất từ đó ! Nhưng tôi quá trẻ để tiên đoán được là từ cái bất hạnh có thể phát sinh "bầu trời và ánh sáng".
Trước hết tôi là một cậu bé không tên. Hình như là ba tuổi đầu. Tôi khóc và lê la trên một con đường bên xứ Ba Lan. Đó là vào năm 1920. Như vậy tôi có thể coi mình sinh vào năm 1917. Nhưng xuất xứ từ đâu và ai là cha mẹ ? Hình như là tôi chưa biết nói, tiếng Ba Lan của tôi rất kém và tiếng Nga còn tệ hơn. Tôi cũng không hiểu tiếng Đức. Tôi là ai ? Tôi cũng không thể nói được tên tôi. Sau cùng tôi cũng có một cái tên và trả lời khi người ta gọi tên tôi. Từ này về sau, tôi bằng lòng với cái tên mà cha mẹ nuôi đã đặt cho tôi.
Ngay hôm nay, sau năm mươi năm, một làn sóng giận dữ dầu yếu hơn còn xâm chiếm tâm hồn tôi, mỗi khi tôi nhớ đến ông bà bác sĩ X. Ông bà là người tốt, rộng rãi và cũng đại lượng. Họ không có con và đã nhận tôi làm con nuôi. Tôi tin là họ thương yêu tôi hơn cả chính con họ. Họ thương tôi vì tôi đã giúp họ thoát khỏi cái thất vọng mà bệnh hiếm con đã giáng xuống họ.
Tôi tin là họ coi tôi như một món quà từ Trời. Vì họ đạo đức đến nỗi mà mọi điều xảy ra cho họ, đều tin là do Thiên Chúa. Đương nhiên họ cũng dạy tôi nghĩ như vậy. Họ đạo đức đến nỗi mà tôi chưa bao giờ nghe họ nói xấu người khác.
Khi ông bà tìm thấy tôi la khóc một mình ngoài đường, lúc đó họ vẫn còn trẻ, khoảng 35 tuổi. Ông bà rất xinh đẹp và tôi cảm nhận được ngay là một tình yêu mạnh mẽ đã kết hiệp họ. Khi họ nhìn nhau rồi hôn nhau, một cảm giác tươi đẹp mang lại hạnh phúc cho tôi. Họ là cha là mẹ của tôi. Tôi muốn nhấn mạnh hết sức hai chữ "của tôi". Mẹ tôi, đặc biệt đã yêu thương tôi quá mức đến nỗi nhiều khi tôi cảm thấy khó chịu. Tôi không biết tại sao như thế. Thường tôi sống bình thản và chăm chỉ học hành. Tôi không là phiền lòng ông bà. Không phải vì tôi giống con gái. Tôi đánh nhau không tệ. Không cần phải hung dữ hay có tính tình xấu mới đánh nhau. Cha mẹ tôi, nhất là mẹ tôi, bà nghĩ là tôi là đứa con ngoan, nhưng họ không nhận thấy là vì may mắn mà tôi hợp với họ. Tôi nuôi rất nhiều tham vọng và họ chấp nhận điều đó. Một thằng con trai không còn mong muốn điều gì hơn nữa.
Năm tôi mười bốn tuổi, gia đình quyết định đi thăm Roma và Paris, vì tôi rất thành công trong việc học hành. Tôi vui quá nên tôi cố ngủ càng ngày càng ít. Tôi cho giấc ngủ làm mất thời giờ vì tôi muốn chuẩn bị kỹ lưỡng chuyến đi này. Tôi đọc trước khá nhiều về hai thành phố này.
Một đêm mắt tôi không chịu nghe tôi cứ muốn nhắm lại. Tôi nghĩ ba tôi có thuốc chống ngủ. Tôi rón rén đi ra phòng khách. Ông bà đang ở phòng bên cạnh và nói về tôi. Họ lo lắng về hộ chiếu của tôi vì tôi không phải con họ.
Đúng là như sét đánh ! Giống như người ta mô tả trong tiểu thuyết. Nhưng tôi cho là còn tệ hơn nhiều và ngôn ngữ nhân loại không có ngôn từ gì để diễn đạt sự kinh tởm như thế. Và nỗi đau từ giây phút đó mang một nét đặc thù không thể lường được, dầu vẫn còn nhỏ như một em bé mới sinh. Như một em bé, nó sẽ lớn dần và trở nên mạnh mẽ hơn và nạn nhân của nó không thể ngờ được.
Tôi muốn chết phức đi cho rồi, và tim tôi hình như cũng đập theo hướng này. Tim tôi đập mạnh biết mấy trong khi toàn thân tôi hình như đã biến thành khối đá. Tôi lại có thể cựa quậy. Thân xác tôi đau nhừ từ đầu tới chân. Tôi chưa hề phải nếm mùi đau khổ. Vì thế khi bị lần đầu, thì nó xâm chiếm tôi hoàn toàn và làm chủ cả cuộc sống tôi một thời gian. Nỗi đau của tôi thúc giục tôi bỏ nhà ra đi và tôi ra đi tức thì không mang theo một thứ gì hết. Tôi còn muốn ra đi tay không để không mắc nợ họ gì hết.
Chắc chắn là ông bà đã và đang là "thứ người đó". Cái hận thù tôi mang đối với họ cân xứng với tình yêu họ dành cho tôi. Vì họ luôn nói dối với tôi dầu họ thật sự yêu tôi. Vì vậy tôi sẽ không bao giờ tha thứ họ; trên nguyên tắc tôi không tha gì hết. Nếu sống hợp tình hợp lý, tôi phải biết ơn họ. Vì nhờ họ mà hôm nay tôi là một trong những mật vụ nằm vùng lợi hại nhất. Tôi đã trở thành kẻ thù riêng của Thiên Chúa, kẻ đã quyết định dạy và công bố cho toàn thể thế giới biết cái chết của Thiên Chúa, Đấng thật sự không bao giờ hiện hữu.
Nỗi đau của tôi thôi thúc tôi chạy xa đến tận Vladivostock - hải cảng thuộc Nga - tôi bắt đầu đi. Sau ít ngàn phút, dầu tôi là cậu bé lực lưỡng, tôi phải dựa vào một bức tường để lấy sức. Bức tường trở thành đám mây cho tôi, tôi tụt xuống đất, kinh hoàng; cùng lúc đó, một tiếng nói hình như vọng lại từ xa: "Tội nghiệp thằng nhỏ !"
Tôi quay lại với ý muốn bóp cổ người đàn bà đang cố tỏ cho tôi một chút tình người.
Ý đồ giết người của tôi được hậu thuẫn bằng cả một sự ghê tởm. Tôi sẽ không bao giờ đụng đến lằn da của người đàn bà xấu xa như thế dầu chỉ bằng đầu ngón tay. Tôi muốn nói nhưng cổ bị nghẹn. Hai người đàn bà cố ép tôi uống rượu, tôi nhổ ra, rồi tức thì thấy buốn ngủ.
Ánh sáng ban ngày đánh thức tôi dậy. Một người đàn bà ngồi dưới chân giường đang nhìn tôi. Vậy là bà đã mang tôi về nhà. Có thể cùng một người đàn bà nhưng bà không còn trang điểm như trước. Tôi nói với bà: "Bà không xấu như tối hôm qua". Bà bình tĩnh trả lời: "Và hơn ngày hôm kia". Tôi đói quá, tôi xin bà cho ăn vì đàn bà có bổn phận săn sóc đàn ông. Tôi cũng cho bà biết tức khắc là tôi sẽ không đòi hỏi gì nữa. Tôi phải công nhận là bà đã mang cho tôi cả tá thức ăn ngon.
Tôi bắt đầu nhẹ nhàng hơn đối với bà, khi bà nói với tôi: "Em bỏ nhà đi trốn, em là "thế này thế kia" !". Tôi không trả lời và chờ xem cái gì sẽ xảy ra sau đó. Bà nói: "Tôi có thể giúp em trốn qua Nga" - "Làm sao bà biết tôi muốn đi Nga ?" - "Em nói khi em ngủ" - "Do đó bà biết được tên tôi ?" - "Không, ở trên báo. Cha mẹ em năn nỉ em trở về. Ông bà hứa sẽ không la mắng em." - "Tôi không có cha mẹ"
Bà đã hiểu là tôi quyết định không về nhà vì bà nói: "Tôi có bà con bên Nga, tôi sẽ giúp em vượt qua biên giới".
Như một tia sáng loé trong đầu, tôi hỏi bà xem có thể đem một lá thư cho người bạn thân của tôi không, hắn sẽ đi học về khoảng mười hai giờ trưa. Bà hình như hãnh diện vì có thể làm một cái gì cho tôi. Tôi chuẩn bị một lá thư bằng mật mã, may mắn là chúng tôi có thói quen này để nghịch và không ai biết gì hết. Trong hoàn cảnh khó khăn này, tôi sẽ dùng cái trò chơi bình thường này. Người bạn tôi là con nhà giầu, cha mẹ anh chiều con và cho nó tiền nhiều hơn nó cần. Tôi hy vọng hôm nay nó để dành được khá nhiều tiền vì đang dự tính mua một món gì không cần thiết. Tôi biết cái tình bạn hắn dành cho tôi - chúng tôi dành cho nhau - quan trọng trên hết mọi sự và nói sẽ gởi cho tôi tất cả tiền bạc đã để dành được vì tôi không giấu nó ý định trốn qua Nga, một quốc gia nó thán phục vì các quyết định táo bạo. Thực sự vì hắn không hợp với bố nó nên nó thích nước Nga, quê hương của mẹ nó. Tôi cũng biết dầu nó ganh tị với tôi, nhưng nó sẵn sàng chết chứ không hé môi về việc bỏ nhà đi trốn của tôi. Tôi cũng nhớ là nó có một ông bác làm công chức tại thành phố Leningrad, tôi cũng xin địa chỉ của bác nó và ít lời giới thiệu. Khi người đàn bà sắp đi thì tôi thêm cái tái bút: "Tao muốn vào Đảng và làm lớn trong Đảng". Đây là một cuộc trả thù. Bà này sẽ chờ ở cửa nhà bạn tôi cho đến khi nó đi học về.
Bà may mắn vì ngày đó nó đi học về lúc hai giờ trưa.
Thằng bạn tôi nhận ra bà và đưa cho bà một cái gói. Trong đó có một lá thư dài bằng mật mã cho tôi, một lá thư bình thường cho ông bác của nó và một bó tiền xinh xắn. Thằng bạn thật tốt !
Tôi không nói ra vì một lý do ai cũng đoán được, là làm sao tôi vượt qua biên giới và đến được thành phố Leningrad.
Bằng khác, cuộc viếng thăm Bác lần đầu tiên mang một ấn tượng khó quên vì tôi nhớ kỹ trong lòng nên lấy làm vui mỗi khi sống laị cuộc gặp gỡ này.
Tôi không màng đến vị trí của Bác trong bộ máy hành chánh Nga, nhưng tôi quyết định thẳng thắn với ông.
Nếu tôi muốn đạt tới địa vị đã chọn cho mình, tôi nghĩ tốt nhất là phải ra vẻ thẳng thắn với con người độc đáo này. Tôi nghĩ là ông hiểu rất rõ ngay khi tôi thăm ông lần đầu và tôi đã làm ông hài lòng.
Bác bảo tôi trước hết phải học lý thuyết của Đảng và các ngôn ngữ. Mọi sự đều tuỳ thuộc vào việc học của tôi. Tôi trả lời là tôi đứng đầu mọi môn và không bao lâu tôi còn giỏi hơn cả giáo sư.
Chúng tôi đồng ý là tôi phải có một người mà tôi có thể tin tưởng hoàn toàn. Tôi nói ông là người độc nhất. Ông khoái chí dầu ông trả lời tôi bằng một nụ cười hơi mỉa mai.
Vào lúc ấy chắc chắn tôi mạnh mẽ hơn ông và tôi cảm thấy một nỗi vui xâm chiếm tôi, lần đầu tiên tôi vui từ khi tôi trốn khỏi nhà. Niềm vui không lâu, nhưng với tôi đó là điềm tốt.
Tôi học như điên khùng trong sáu năm. Hai niềm vui của tôi là mỗi ba tháng đi thăm Bác một lần và thù ghét Thiên Chúa với niềm xác tín là sẽ trở thành Đại Lãnh Tụ của giới Vô Thần trên thế giới.
Chương II
Bất hạnh làm con người thêm mạnh mẽ
Bác là người bạn độc nhất của tôi, người độc nhất thật sự biết tôi. Những người khác không quan trọng. Và tôi đã thành công dễ dàng.
Phụ nữ không hấp dẫn tôi, tôi còn thù ghét họ là khác và rồi tôi cũng không ưa thích những tên khùng thích chạy theo đàn bà.
Tôi nhất quyết học tập tới mức tối đa và tôi được hỗ trợ bằng một trí nhớ vượt bực. Sau khi chăm chỉ đọc một cuốn sách, tôi có thể thuộc lòng nó, cả khi nó được viết bằng một lối văn kiểu cách. Nhưng tôi cũng có khả năng chỉ giữ lại những gì có giá trị. Tôi có thể phê bình cả đến các giáo sư danh tiếng. Tôi thích chủ thuyết vô thần là nền tảng cho Đảng đến độ tôi hăng hái vô tận.
Sau sáu năm chuyên cần học tập. Một buổi chiều, Bác gọi tôi lên văn phòng ông. Từ trước đến giờ ông vẫn thường tiếp tôi tại nhà.
Hôm đó, tôi nhận ra ông là một sĩ quan công an cao cấp như tôi đã nghi ngờ từ lâu. Ông đưa ra một đề nghị gay go và ông nghĩ có thể làm phật lòng tôi. Ông bảo tôi: "Bây giờ tôi sẽ đưa anh đi thực hành một thứ vô thần đấu tranh quốc tế. Anh phải chiến đấu chống mọi tôn giáo, nhất là Công Giáo, vì Giáo Hội này được tổ chức chu đáo nhất. Để làm công việc này, anh phải gia nhập vào một chủng viện và trở thành một linh mục Công Giáo".
Câu trả lời của tôi chỉ là im lặng, trong khi đó tôi để cho một niềm vui xâm chiếm tôi, bề ngoài tôi tỏ ra lạnh lùng. Bác hài lòng và ông không giấu điều đó. Ông bình tĩnh nói tiếp: "Để có thể vào chủng viện, anh sẽ về lại nước Ba Lan, làm hoà với cha mẹ nuôi và đi gặp Đức Giám Mục". Tôi cảm thấy muốn nổi loạn. Từ khi tôi tiếp xúc với Bác, đây là lần đầu tiên tôi không làm chủ được mình. Ông không những hài lòng mà còn lấy làm vui về thái độ của tôi. Ông nói: "Anh không phải là con người được dựng nên bằng đá". Ý nghĩ này làm tôi nổi khùng và tôi trả lời cụt ngủn: "Tôi thế đấy, tôi sẽ luôn như thế dầu bất cứ chuyện gì xảy ra".
Bác có vẻ bình thản, ông còn lấy làm vui và coi như là sự nghiệp, đường đời và tương lai của tôi (và cả của Đảng) không tuỳ thuộc vào cái quyết định của ngày hôm nay.
Ông thêm: "Khô khan như đá là tốt, đức tính quan trọng hàng đầu cho bất cứ ai muốn làm nhân viên tình báo, nhưng trong hoàn cảnh này anh phải tỏ ra có nhiều tình cảm cho gia đình". Tôi cảm thấy mình như một tên hèn nhát và hỏi bằng một giọng buồn thê thảm: "còn sáu năm dài trong chủng viện ?". Ông trả lời tôi bằng một thái độ nghiêm nghị dành cho kẻ có tội: "Và nếu tôi nói đúng thì anh sẽ trả lời thế nào ?". Tôi trả lời dễ dàng là tôi chấp nhận và tôi ngạc nhiên khi thấy mình tinh khôn hơn ông. Ông tiếp tục cười và nói với tôi: "Phải, anh không thể che dấu là anh đã nghĩ tôi là một tên ngu đần đã ngây thơ chìa tay ra cho anh". Tôi đỏ mặt, điều này chưa bao giờ xảy ra cho tôi. Ông tiếp: "Một mật vụ không có máu trong các mạch, không có tim và không yêu ai, không yêu cả đến chính mình. Người đó thuộc quyền sở hữu của Đảng, Đảng sẽ ăn tươi nuốt sống mà không báo trước. Nhớ kỹ điều này là bất cứ anh sẽ ở đâu, chúng tôi sẽ theo dõi anh, và thủ tiêu anh khi anh thiếu khôn ngoan ngay cả vào lần đầu. Anh cũng phải hiểu là khi anh gặp nguy hiểm, ngay cả khi không phải do lỗi của anh, anh không thể trông chờ gì nơi chúng tôi. Anh sẽ bị chối bỏ." Tôi trả lời: "Tôi biết tất cả những điều đó", tôi không hề dấu Bác là tôi ghét chúng. Bác trả lời: "Hận thù, trừ hận thù đối với Thiên Chúa, không có chỗ đứng trong công tác của chúng ta, theo gương đồng chí Lenin. Tôi cần anh được một Giám Mục thực thụ tại quê hương Ba Lan chấp nhận anh, nhưng chúng tôi không có ý để anh theo học đạo tại quốc qia trên. Anh sẽ được gởi đi học tại một quốc gia ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhưng điều này bí mật, anh sẽ tỏ ngạc nhiên khi nhận được lệnh này. Phải, chúng tôi sợ chiến tranh sẽ bùng nổ ở Châu Âu vì một thằng điên đang cai trị tại Đức. Do đó anh nên đi học ở nơi khác, có thể là Canada. Chúng tôi cũng còn có một lý do khác, các chủng viện ở Âu Châu nghiêm ngặt hơn các chủng viện ở Mỹ Châu".
Tôi tỏ dấu phản đối kín đáo nhưng ông cũng phát giác được. Bác tiếp tục nói: "Tôi biết anh có thể chịu đựng sáu năm nghiêm ngặt trong chủng viện, không được ra ngoài, nhưng đó không phải là lý do. Chúng tôi muốn anh học hỏi xem điều gì đang xảy ra trên thế giới. Ta phải khôn ngoan và có khả năng nói với thế giới để làm cho người ta mất niềm tin. Chúng ta làm cho người ta hiểu mà không bao giờ bị nghi ngờ. Chúng tôi không gửi thanh niên vào chủng viện để rồi bị phát giác. Không, anh sẽ làm linh mục cho đến chết và anh sẽ tỏ ra là một linh mục trung thành và trinh khiết. Dầu sao tôi cũng biết anh, anh là một nhà trí thức". Rồi ông cho tôi ít chi tiết chính xác về hoạt động mà tôi sắp gia nhập và sau cùng thì tôi sẽ là người chỉ huy.
Khi vào chủng viện, tôi hiểu là phải cố gắng tìm hiểu và phá đổ tất cả những gì người ta dạy tôi. Nhưng để làm điều đó, tôi phải chăm chỉ và sáng suốt - nghĩa là không đam mê - học lịch sử của Giáo Hội. Tôi cũng không được quên là bắt đạo chỉ tạo thêm nhiều Thánh tử đạo, mà người Công Giáo có lý do để ca tụng Thánh tử đạo là hạt giống sinh người Ki-tô. Do đó không làm tăng thêm Thánh tử đạo. Tôi không quên là mọi tôn giáo dựa trên sợ hãi, sợ hãi của tổ tiên; mọi tôn giáo sinh ra từ nỗi sợ này. Do đó nếu người ta dẹp được sợ hãi là dẹp được tôn giáo. Nhưng điều đó cũng chưa đủ. Ông bảo tôi: "Tuỳ, anh phải tìm ra những phương pháp đúng". Tôi ngụp lặn trong mừng vui. Ông nói thêm: "Anh sẽ biên thư cho tôi mỗi tuần, rất ngắn và nói lên những khẩu hiệu mà anh muốn phổ biến trên thế giới và cũng kèm theo lời cắt nghĩa ngắn là tại sao anh chọn chúng. Sau một thời gian dài hay ngắn, anh sẽ được liên lạc trực tiếp với mạng lưới. Nghĩa là anh sẽ có mười người dưới quyền anh, và mỗi người trong mười người trên lại có mười người thuộc quyền".
"Mười người trực tiếp dưới quyền anh sẽ không bao giờ biết anh. Muốn tiếp xúc với anh họ phải qua tôi. Như vậy không bao giờ anh bị tố cáo. Chúng tôi đã có một số khá đông linh mục tại các quốc gia theo đạo Công Giáo, nhưng các anh sẽ không bao giờ biết nhau. Một người đang làm Giám Mục. Có thể anh sẽ tiếp xúc được với Ngài; điều này tuỳ cấp bậc anh sẽ đạt được. Chúng tôi có gián điệp ở khắp nơi và đặc biệt có những người lớn tuổi, họ theo dõi báo chí toàn thế giới. Một bản tóm lược tin tức sẽ được gởi thường xuyên tới anh. Chúng tôi có thể nhận biết dễ dàng khi nào ý kiến của anh đã lọt được vào đầu óc dân chúng. Này, một ý tưởng thành hay, khi được một văn sĩ khờ dại trình bày như của chính mình. Không ai tự cao hơn một văn sĩ. Chúng ta dựa trên các loại văn sĩ này và ta không cần huấn luyện họ. Họ làm việc cho chúng ta mà không biết hay là đúng hơn không muốn biết".
Tôi hỏi ông làm sao tôi có thể liên lạc với ông khi chiến tranh bùng nổ. Ông đã tiên liệu mọi sự. Khi cần, tôi sẽ nhận được một lá thư gửi từ một quốc gia tự do ở ngoài vòng thù nghịch.
Tôi sẽ nhận ra đây là lá thư thật vì sẽ mang ám số của tôi "SVTS-1025" nghĩa là sinh viên tu sĩ số 1025. Điều này đưa tôi tới kết luận là số 1025 là con số của tổ chức. Tôi ngạc nhiên vì tôi đã đoán đúng. Do đó tôi la to: "1024 linh mục chủng sinh đã gia nhập vào tổ chức trước tôi". Ông trả lời tôi một cách lạnh lùng: "Đúng". Tôi không ngã lòng nhưng bị thương tổn và nổi khùng. Tôi muốn bóp cổ chết hết những người này. Tôi chỉ nói: "Ông thật sự cần nhiều như vậy không ?". Bác chỉ mỉm cười. Tôi không nghĩ là tôi có thể giấu ông ý nghĩ của tôi. Tôi nói thêm, hơi bi quan: "Người ta phải nghĩ là những người này đã không làm tốt các công tác nên mới cần tuyển thêm nhân viên".
Nhưng ông đã không thoả mãn câu hỏi của tôi. Tôi muốn biết ít nhất là có thể liên lạc với vài người trong họ hay không. Nhưng Bác nhắc lại là không bao giờ tôi biết được ngay cả chỉ một người thôi. Tôi không hiểu và ngạc nhiên tôi hỏi ông: "Làm sao chúng tôi công tác tốt nếu bị phân tán thiếu điều hợp và không có thi đua ?". Ông trả lời: "Điều hợp thì đừng quan tâm, chúng tôi đã xem xét, chỉ những người có cấp bậc mới biết đường lối hoạt động của tổ chức. Còn về thi đua chúng tôi dựa vào tình yêu đối với Đảng".
Tôi không còn gì phải trả lời. Tôi không dám nói là Đảng không thể thực hiện được chiến dịch gì đáng giá cho thuyết vô thần, cho đến khi tôi trở thành lãnh đạo của tổ chức ! Tôi thật sự xác tín như vậy, vì tôi xếp số 1024 thành viên hoạt động trước tôi vào loại vô dụng.