Mùa hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt. Nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh. Những đồi cỏ xanh dọc quốc lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xanh xao gió thổi...
Mùa hè, gió Lào miền Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng luồng, từng chập, đưa "con trốt" chạy lừng lững trên cánh đồng cát chói chang. Những đồi hoa sim, hoa dủ dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời hạ chí. Dòng nước sông Hương, sông Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ đá, bãi cát chầm chậm chảy về phía Tam Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa.
Mùa hè, những con đường thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc dài dày kín, nâng khối tóc xôn xao lên khỏi chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào chè xanh thổi khô đi lớp mồ hôi rịn trên những lông tơ nõn.
Mùa hè, mưa rào tăm tắp đổ xuống kín trời An Lộc, chập chùng ẩn hiện những thân cây cao su nhoà vào nền trời xám tối. Khu rừng biến thành khối đêm đen trong khoảnh khắc, khối đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo từng cơn lốc gió... Mưa tan, trời tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương tây, cuối bình nguyên lồng lộng, núi Bà Đen ẩn một nét đen thẫm trên nền trời xanh ánh trăng. Và đàn nai bắt đầu tung tăng từ đầu nguồn, cuối lạch... Đàn nai chạy vun vút qua rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng, chạy và ngừng lại, "bép" mấy tiếng âm u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng cỏ.
Mùa hè, mùa đẹp đẽ, tươi gắt căng đầy sức sống, ngày ngày nỗ lực trên mặt nước loáng ánh nắng hay đồng lúa nặng hạt, hạt ngọc của trời, và người dân cất cao tiếng hò ...
... Được mùa chớ phụ ngô khoai
đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng ...
Tiếng hò chạy dài trên lúa, theo cơn gió đưa ra đến đầu ghềnh, cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi về Thế Chí, Đại Lộc dọc phá Tam giang lại vang dội một giọng hò khác, phảng phất nét tàn tạ bi thảm của hơi Nam Ai thê thiết ... hò ... ơ ... ai ... về ... ạ .. ạ ... Đại ... Lộc ... ạ ... ạ .. ai vượt ... ạ ... ơ ... Kế Môn ...
Đã từ lâu... lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa hè năm nay, 1972, tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30/3 ở Đông Hà, 24/4 ở Tân Cảnh, 7/4 ở An Lộc, 1/5 cho Huế và Quảng Trị ... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giã, Đất Đỏ ... toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ... Mùa hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng.
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa hè năm 1972 - Mùa hè Máu. Mùa hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Mùa hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày.
Ba sư đoàn bộ binh 304, 308, 324B cùng sáu trung đoàn địa phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công, và một sư đoàn pháo nặng 130ly cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bời một sư đoàn pháo nặng tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum, hướng tiến được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào. Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những "ngày hè đỏ lửa", trận cuối cùng để tìm kiếm kết thúc cho mười năm chiến tranh "giải phóng" cạn lực, sau "tổng công kích thất bại tết Mậu Thân 1968".
Quân ta phải chống lại, chống giữ để tự vệ, chống trả nơi biên giới cuối cùng: Tự Do hay Nô Lệ, Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết tử và trận chiến cực điểm. Ba tháng hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục chiến trường thay đổi từng nấc, từng bậc lớn. Từ 2,000 quả đạn pháo cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000 quả cho An Lộc. Bắc quân đi bước tàn nhẫn không nương tay, và quân dân Miền Nam đồng đương cự với nỗ lực cao nhất tại "điểm đứt hơi - điểm vỡ của chiến trận". Chúng ta đã chiến đấu, giữ vững và kiêu hùng chiến thắng.
Hôm nay, ngày đầu tháng 8, cuộc đại chiến đã bước qua tháng thứ tư, và có cơ kéo dài thêm một thời gian nữa. Nhưng quân và dân ta cắn răng, ngậm chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế, đánh thêm nữa cũng được. Trong nguy nan, dân tộc biến thành "Thánh chịu nạn". Dân tộc kiêu dũng quật cường vượt qua, bất chấp tất cả để tồn tại. Ngọn lửa mùa hè 1972 nung độ nóng cao nhất để trui rèn chúng ta - Người Việt Nam muốn sống đời đáng sống của Người - Người Tự Do.
Được đi, chứng kiến và dự phần vào ba mặt trận, ba vùng đất quê hương. Người viết không mong gì hơn ghi lại một vài khía cạnh của cuộc chiến - Cuộc chiến vĩ đại vượt mọi cuộc chiến tranh - mà phải một ủy ban quân sử, trong một thời gian dài mới có khả năng, điều kiện thâu thập và đúc kết toàn thể. Vì chỉ ghi biến cố qua một vài khía cạnh, với những người, đơn vị lâm chiến quen thuộc, người viết xin tạ lỗi do những thiếu sót mà một cá nhân không thể nào tránh khỏi, và đã phải viết lại từ một khoảng ngày tháng quá gấp rút.
I. CHARLIE, tên nghe quá lạQuả tình nếu không có trận chiến mùa hè 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là cái tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. "Charlie", "Cải cách" hay "C", đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lhũng sông Pô-kơ và đường 14, đông bắc là Tân Cảnh với 12km đường chim bay, đông nam là Kontum-thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên. Charlie bị bao vây bởi Căn cứ 5 và 6 ở phía bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngõ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè, mùa mưa rào, báo chí hàng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống vùng núi non, cạnh sườn cực tây địa giới nước Nam.
Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa năm 1971 qua đầu xuân 1972, Bắc quân vẫn không vượt qua được cửa ngõ hai căn cứ 5 và 6 nên Cộng quân đổi hướng tiến, lòn sâu xuống phía nam hai căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp "giải phóng" với mục tiêu cố định: Tân Cảnh, cắt đường 14.
Vòng đai Lữ đoàn II Nhảy dù nằm về phí trái quốc lộ có hình cánh cung, bắt đầu bởi căn cứ Anh Dũng ở cực bắc đến Yankee hay Yên Thế, ngã lần xuống nam với Charlie, Delta, Hotel, Metro và chót hết là Bắc Ninh, phía đông Võ Định, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn. Vòng đai này có nhiêm vụ che chở phí trái đường 14, phát hiện sự di chuyển từ đông sang tây của địch xong dùng phi pháo để tiêu diệt. Đây là lý thuyết chiến thuật, quan niệm hành quân của phía Cộng Hòa đối với mục tiêu và hướng tiến của phía Cộng Sản trong bao nhiêu năm. Nay địch thay đổi đường đi và quân ta lập vòng đai nhảy dù... Yankee, Charlie, Delta bắt đầu được đặt tên để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng. Đoạn sau kể về trận đánh ở Charlie, trận đánh nhỏ của một tiểu đoàn nhảy dù, nhưng điển hình cho toàn thể bi hùng cực độ về người Lính Chiến Việt Nam.
Đến đây,
Người gặp Người
Đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào khi chạy đến vùng Ba biên giới phía đông cao nguyên Boloven chia ra làm hai nhánh, nhánh thứ nhất từ Chavane đâm thẳng biên giới Lào-Việt xuyên qua dãy Chu-Mon-Ray để nhắm vào Darkto; nhánh thứ hai từ bản Tasseng qua trại Lệ Khánh và Kontum là mục tiêu cuối cùng của quan niệm chiến thuật Bắc quân. Phải chiếm giữ thị trấn cực bắc này để làm bàn đạp tấn công Pleiku, rồi từ đây tiến về phía đông xuống bình nguyên tỉnh Bình Định. Gọi nhánh thứ nhất là nhánh Bắc và nhánh thứ hai là nhánh Nam. trong chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Mặt trận B3 (chiến trường Tây Nguyên), đường rẽ phía Bắc được sử dụng, từ đỉnh 1773 của núi Chu-Mon-Ray, con đường không thể gọi là nhánh nhỏ của "đường mòn Hồ Chí Minh" nữa, nhưng phải gọi đó là "Bypass" của một cải lộ tuyến phẳng phiu trơn láng, chạy ngoằn nghèo qua các cao độ, đổ xuống những thung lũng hun hút của dãy Big Mama Mountain rồi bò theo hướng đông đến đỉnh Kngok Kon Kring. Đỉnh núi này cao quá, con đường phải quẹo qua trái, đi lên cao độ 960 và tạm dừng lại. Dừng lại vì phía đông, hướng trước mặt chỉ cách 10km, con sông Pô-kơ dậy sóng... Con sông ầm đổ qua ghè đá, ào ào đi giữa rừng xanh núi đỏ. Bên kia sông, quốc lộ 14 chỉ khoảng trên dưới 6km và đầu con đường là Tân Cảnh, mục tiêu của bao chiến dịch, từ ngày chiến tranh "giải phóng" bùng nổ.
Đây rồi, "...nồi cơm điện National" đây !! Tân Cảnh hấp dẫn ngon lành như cô gái yếu đuối hớ hênh thụ động nằm dưới thung lũng bát ngát ở đàng kia. Bộ đội ta tiến lên ! Nhưng không được nữa, con đường đã bị dừng lại, và bộ đội ta dù được "tùng thiết", dù được đại pháo "dọn đường" cũng phải dừng lại, vì đỉnh 960 chính là bãi đáp C, là cứ điểm Charlie và Tiểu đoàn 11 Nhảy dù đã xuống LZ(*) này từ ngày 2/4. Con cháu Bác và Đảng phải ngừng lại bố trí trận địa. Nỗ lực kinh khiếp kéo dài trên 50km đường núi, từ ngã rẽ đất Lào phải dừng lại vì chạm phải "sức người". Ở đây - Người đã gặp nhau.
Vực thấp, đỉnh cao, bạt núi, xẻ đèo, những con người cuồng tín và tội nghiệp của Miền Bắc đã làm được tất cả. Con đường núi của tướng Stiwelle từ Miến Điện đến Trùng Khánh, Trung Quốc năm 1945 đã là một sự khủng khiếp - đường xuyên sơn vạn dặm, dài thật dài, quanh co khúc khuỷu lớp lớp giữa núi rừng nhiệt đới, con đường nổi tiếng đúng như tầm vóc và giá trị của nó. Cả nước Tàu sống bám vào cái ống cứu nguy thậm thượt hun hút này. Vào thời điểm đầu thế chiến, nước Tàu, đồng minh "tuyệt vời cần thiết" của người Mỹ dễ thương cần phải sống để chống đỡ trục Bá Linh - Đông Kinh, con đường quả đáng tiền và đáng sợ. Nhưng đường này làm bằng máy, dưới sự yểm trợ và che chở của các "Ong Biển" hảo hạng, những người lính công binh chiến đấu hãnh diện của Mỹ quốc giàu sang hùng mạnh. Năm mươi cây số đường xuyên sơn của "bộ đội ta" thì khác hẳn, bộ đội đào bằng tay trong đêm tối, bộ đội lấp hố dưới tấm lưới lửa thép của B52, trên những giải thảm tử thần dầy lềnh bom bi CBU. Sức người và lòng cuồng tín đã vượt qua giới hạn. Đấy không còn là người với thịt da biết mệt mỏi đau đớn, cũng không là người với trí óc biết nguy biến và sợ hãi. Bắc quân, khối người vô tri tội nghiệp chìm đắm trong ảo tưởng và gian nguy triền miên. Con đường sạn đạo vào đất Ba Thục tân thời được hoàn thành từng phân từng thước... Bắc quân theo đó đi về Đông.
Nhưng đến đây, ở cao độ 960, người lính Bắc Việt không tiến được nữa vì đã gặp "Người" - Người rất bình thường và giản dị. Người biết lo âu, sợ nguy biến. Người có ước mơ và ham muốn vụn vặt. Những người không thần thánh hoá lãnh tụ và tin tưởng Thiên Chúa cũng chỉ là bạn tâm tình. Nhưng, đó cũng là những người lính đánh giặc "tới" nhất của Quân Lực Miền Nam, chỉ huy bởi những sĩ quan miệt mài trên dưới mười năm trận địa. Những sĩ quan biết đánh hơi rất chính xác khả năng và ý định của đối phương. Bắc quân dừng lại giữa đường, ảo tưởng bị công phá và tan vỡ - Họ gặp Lính Nhảy Dù Việt Nam.