Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi - Ngọc Lan

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi - Ngọc Lan

Postby hoatimxua » 10 Aug 2008

Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi
Tác Giả: Ngọc Lan

Image

Chương Một
Duyên Tiền Định

Tôi quen anh một chiều chớm thu năm 1995 khi đi dự một tiệc cưới của con một người bạn không thân lắm, ở một thành phố khá thơ mộng trên miền Bắc California. Rất tình cờ, vì bàn tiệc nơi tôi ngồi còn trống quá nhiều, nên người ta sát nhập tôi qua bên bàn của Sĩ Phú, ghế kế bên anh còn trống, tôi được người ta sắp xếp cho ngồi chiếc ghế đó. Trước đó, tôi chưa từng gặp Sĩ Phú bao giờ, cũng như chưa từng được may mắn xem anh trong các chương trình nhạc của Đài Truyền Hình Việt Nam ngày xưa. Nhưng tôi rất thích giọng hát của anh qua các ca khúc được nghe trên đài phát thanh như Trở Về Bến Mơ, Hoài Cảm, Em Tôi, Chiều Vàng, Cô Láng Giềng, Thu Quyến Rũ vân vân...

Thời đó, mặc dù rất ái mộ giọng hát anh , nhưng được gặp Sĩ Phú ngoài đời là một điều tôi không bao giờ mơ đến. Anh cao vời vợi và quá xa xôi cho tôi. Một nam danh ca có hằng triệu người yêu mến tiếng hát, nhất là bao nhiêu cô gái quý phái hay sang trọng hơn tôi rất nhiều đang say mê anh thời bấy giờ, làm gì mà đến lượt tôi. Hơn nữa, tôi là một người hình như chưa bao giờ biết đam mê một cái gì trên đời. Cái gì đẹp, hay, thì khen, thì ngưỡng mộ chút ít thôi chứ không nhất thiết phải theo đuổi cho bằng được. Thế nên, đi tìm để làm quen Sĩ Phú thời bấy giờ là một điều không tưởng đối với tôi. Vì thế khi được người bạn giới thiệu với Sĩ Phú, tôi trố mắt ra nhìn anh:

- Ủa, anh là Sĩ Phú, ca sĩ Sĩ Phú hát bài Cô Láng Giềng đó phải không ? ...Ô, Lan rất hân hạnh được gặp anh.

Anh cười rất hiền:

- Vâng, tôi cũng rất hân hạnh được gặp cô

Đấy là những giây phút đầu gặp nhau, tôi hơi bối rối, xúc động nhưng lòng vui vui vì vừa gặp được thần tượng trong một giây phút không ngờ nhất. Tôi muốn nói với anh tôi là thính giả rất ái mộ giọng hát của anh và rất vui mừng hân hạnh đã gặp được anh, nhưng lại không biết phải nói như thế nào để không bị vụng về, lừng khừng mãi, tôi đành làm thinh.

Giữa buổi tiệc, có một người đem đến cho anh một quyển sách, nói dăm ba câu thăm hỏi thông thường rồi bỏ đi, anh cảm ơn anh ta rồi một cách rất từ tốn, anh hỏi tôi:

- Người bạn tôi biết tôi đang tìm quyển sách này nên anh ấy mua tặng tôi, cô có đọc quyển sách này chưa ?

- Quyển sách gì vậy , thưa anh ?

- À, quyển này nói rất nhiều về Phật Giáo Tây Tạng và Mật Tông, sách cũ lắm rồi, nhưng tôi chưa có dịp đọc lại.

- Em không biết nhiều về Tây Tạng, chỉ biết rằng Tây Tạng là một xứ huyền bí , một cao nguyên có nhiều sương mù quanh năm, một quốc gia mà Phật Giáo là Quốc Giáo và người lãnh đạo cũng là các vị Lạt Ma phải không anh ?

- Cũng gần như vậy, rồi sao nữa ?

- Một quốc gia mà vị trí cũng khá đặc biệt, Trung Quốc đã chiếm Tây Tạng có lẽ cũng vì lý do đó...

- Khi nào có dịp, tôi sẽ nói nhiều cho cô nghe những gì tôi biết về lịch sử Phật Giáo Tây Tạng. Bây giờ thì mời cô ăn đi.

Rồi anh gắp thức ăn, bỏ vào chén cho tôi.

Suốt buổi tiệc, anh rất vui và cởi mở. Những câu đối thoại khôi hài rất dí dỏm của anh đã làm cả bàn tiệc cùng cười. Tôi thấy nhiều người nhìn anh một cách thích thú, theo dõi từng cử chỉ của anh với một vẻ thán phục.

Khi tiệc gần tàn, chợt nhớ ra điều gì, tôi hỏi anh:

- Trên thành phố này có nhiều nhà sách Việt Nam không, thưa anh ?

- Cũng khá nhiều, cô muốn mua sách à ?

- Dạ, chị của em cần mua hai quyển sách, mà ở dưới ấy em tìm mãi không ra, các nhà sách bán hết rồi và họ bảo là người ta không tái bản nữa.

- Cô đang tìm sách gì vậy ?

- Dạ thưa quyển Thép Đen của tác giả Đặng Chí Bình, một bộ gồm 4 cuốn, nhưng có hai cuốn em không tìm ra, em định ngày mai sẽ đi tìm nhưng chắc không có đủ thì giờ vì chuyến bay bị thay đổi sớm hơn dự định...

- Cô đi về dưới ấy sớm vậy à ?

- Dạ, mười giờ sáng là phải có mặt tại phi trường.

- Thôi cũng được, như thế này, tôi sẽ hỏi bạn tôi, anh ta là chủ một tiệm sách ở đây, nếu anh tìm ra sách cô cần, tôi sẽ gửi xuống cho cô, được không ?

Tôi mừng quá, vội nói:

- Ô, thưa anh, thế còn gì quý cho bằng, nếu không gây bất tiện thì xin anh hỏi giùm, Lan cảm ơn anh nhiều lắm.

Tôi cho anh địa chỉ, số phone, và đưa tiền cho anh nhưng anh nhất định không lấy, anh lấy lý do là không biết giá tiền.

Tiệc tàn, chia tay, có một chút gì xao xuyến, lưu luyến trong tôi, nhưng vì bản tánh tự trọng, cẩn thận, tôi cố không tỏ lộ ra ngoài.

Một tuần sau, anh gửi xuống cho tôi hai cuốn sách, tôi rất vui mừng. Lần đầu tiên, tôi thấy được nét chữ của anh, cứng rắn nhưng rất tao nhã. Tôi cắt cái địa chỉ của anh để dành kỷ niệm. Đem 2 cuốn sách cho bà chị và đòi tiền để trả lại cho anh. Theo địa chỉ của anh, tôi gửi thư trả tiền lại và cảm ơn anh, nhưng anh đã không lãnh tiền cái chi phiếu đó mà lại ký gửi tặng một hội từ thiện cho trẻ em. Và cũng từ đó, tôi và anh bặt tin nhau. Anh không hề gọi hay viết trả lời dù anh có địa chỉ và điện thoại của tôi.

Vài tháng sau đó, tôi nghe anh sắp sửa ra mắt CD Tà Áo Xanh tại khiêu vũ trường Ritz ở thành phố Anaheim. Tôi chưa từng đi vũ trường bao giờ, nhưng tôi sẽ đi vì Sĩ Phú. Tôi mời một chị bạn quen cùng đi đêm hôm ấy. Một vị thính giả khác của anh mà tôi mới vừa quen, từ Việt Nam sang được hai năm , khi biết tôi đi dự đêm ra mắt CD này, đã vội vàng nhờ tôi đưa cho anh một lá thư của bà. Bà ấy cho biết lá thư chỉ là một danh sách những bản nhạc yêu cầu mà bà muốn anh hát sau này.

Đêm ra mắt CD Tà Áo Xanh được tổ chức ngày 4 tháng 11 năm 1995. Mặc dù thành phần ca sĩ rất ít, ngoài những ca sĩ hát thường trực của vũ trường, nhưng vẫn rất đông khán thính giả của anh đến dự.

Tôi ngồi chung bàn với một cặp vợ chồng đến từ thành phố Simi Valley, thành phố này cách vũ trường một tiếng rưỡi đến hai tiếng đồng hồ. Chị cho tôi biết:

- Tôi chưa từng bao giờ đi vũ trường, đây là lần đầu tiên tôi đến đây, cũng chỉ vì chúng tôi rất thích Sĩ Phú.

Tôi cho chị biết tôi cũng như trường hợp của chị.

Đêm ấy anh hát rất nhiều và hát rất hay những bản nhạc mà chúng tôi rất thích như Mắt Biếc, Niệm Khúc Cuối, Trở Về Bến Mơ, Cô Láng Giềng... Người bạn tôi khen giọng anh vẫn còn quá hay, và rất đầm ấm trữ tình. Mặc dù, anh vừa bị một tai nạn trước đó hai tuần, chân anh vẫn còn rất đau nhức khi trình diễn.

Một vài lần, khi anh đứng gần chỗ ngồi của chúng tôi, đã có lúc tôi muốn đưa cho anh phong thư của người đàn bà cho rảnh tay, nhưng sự nhút nhát làm tôi khựng lại.

Một lúc sau đó, anh MC Việt Thảo đi vòng quanh thính giả để tiếp nhận các mảnh giấy họ viết tên các bản nhạc để yêu cầu Sĩ Phú ca. Giá lúc ấy mà tôi bạo dạn một chút nhờ anh Việt Thảo trao giùm lá thư cho anh thì xong rồi, đâu còn gì để nói, nhưng tôi lại nhút nhát quá chừng, cứ lưỡng lự rồi ngồi yên không nhúc nhích. Lá thư vẫn còn trong ví tôi. Tôi còn nhớ khi anh Việt Thảo đọc từ một mảnh giấy của một thính giả nào đó yêu cầu anh Sĩ Phú hát bản Sao Chưa Thấy Hồi Âm, tôi thấy anh Sĩ Phú hơi nhăn mặt. Làm sao anh nhớ lời bản nhạc này cho được vì hình như anh chưa từng hát bản nhạc này bao giờ. Có lẽ vị thính giả này chỉ chọc anh cho vui vậy thôi.

Sân khấu trở lại yên tĩnh khi anh cất tiếng hát bài Niệm Khúc Cuối. Trong lúc anh đang say sưa ru hồn vào bản nhạc, một cô gái rất trẻ, lên sàn nhảy, tặng anh một đóa hoa hồng, rồi bỗng nhiên cô ôm vội anh vào lòng, và cùng anh nhịp nhàng trong tiếng nhạc. Tất cả mọi người đêm hôm ấy đều trố mắt ra nhìn. Tôi buột miệng nói với người khách ngồi chung bàn:

- Ô đẹp quá hở chị, cô ấy còn quá trẻ vậy mà đã yêu tiếng hát Sĩ Phú rồi. Sao mà cô ấy tự nhiên quá !

Tôi bỗng thèm cái tự nhiên ấy. Tôi ước gì tôi dạn dĩ thêm một chút nữa.

Khi Sĩ Phú hát xong một loạt 6, 7 bài hát, chương trình tạm ngưng, tiếng nhạc quá ồn, chúng tôi chịu không được vì không quen nghe nhạc náo động, bèn mua vội hai CD anh ra mắt đêm ấy là Tà Áo Xanh và Trái Tim Hững Hờ từ chị Diễm Phúc rồi cùng cô bạn ra về vì cô ta phải đi làm sớm ngày hôm sau. Lại một lần nữa, tôi và anh vẫn xa cách.

Cuối năm 1995, tôi vẫn còn giữ lá thư của người đàn bà viết cho Sĩ Phú. Tự trách mình là đã không gửi lá thư đến anh cho rồi để khỏi thắc mắc, bận tâm. Theo số điện thoại trên bìa CD Tà Áo Xanh, tôi gọi anh. May mắn cho tôi, đầu giây bên kia là Sĩ Phú.

- Anh Sĩ Phú đó hả, Lan đây, Ngọc Lan đây, anh còn nhớ Lan không ?

- À...à nhớ , anh vẫn nhớ Lan, có gì lạ không Ngọc Lan ?

- Anh vẫn mạnh khỏe chứ ?

- Cảm ơn Lan, anh vẫn khỏe, Lan cũng vậy hả ?

- Dạ, cảm ơn anh. Tháng mười một vừa qua Lan có đi dự đêm ra mắt CD Tà Áo Xanh của anh. Có thấy anh nhưng không tiện chạy lên say hello với anh. Thưa anh, có một vài chuyện Lan cần nói, anh có thì giờ nghe không ?

- Anh sắp sửa đi ra ngoài với một người bạn kiếm một chút gì ăn, nhưng không sao đâu, Ngọc Lan có gì muốn nói thì cứ nói đi.

- Có một người quen nhờ Lan đưa một lá thư cho anh lâu rồi, Lan giữ mãi chưa gửi lên cho anh vì bà ấy muốn giao tận tay anh. Bà ấy nói đã từng nhờ trung tâm băng nhạc chuyển thư lại cho anh một lần nhưng không thấy hồi âm. Có thể là anh không nhận được nên lần này bà muốn nhờ Lan đưa thẳng cho anh trong đêm ra mắt nhưng thấy anh bận hát suốt buổi tối, Lan chẳng tìm được giây phút nào rảnh để đưa cho anh.

- À vậy sao ?

- Dạ, rồi đài phát thanh VNCR ở dưới này thỉnh thoảng hát nhạc của anh nhưng họ nói là không có nhiều CD của anh. Nếu có thể, thì xin anh một số CD để Lan sẽ đưa cho họ để thỉnh thoảng họ phát nhạc của anh cho thính giả nghe đỡ buồn. Và điều cuối cùng Lan muốn hỏi, ai là người dịch ra lời Việt những bản nhạc ngoại quốc trong CD số hai của anh, lời Việt rất là sâu sắc, dịch sát nghĩa nhưng lại rất trữ tình, Lan thích CD này lắm !

Tôi nói một hơi không nghỉ vì sợ anh sắp đi không có thì giờ để nghe tôi.

Anh yên lặng một chốc, rồi với một giọng thật trầm buồn và rất dịu dàng, anh từ tốn đáp:

- Anh sẽ gửi cho Lan một số CD của anh, để Lan muốn tặng ai cũng được. Còn những bản nhạc lời Việt là do anh dịch lấy, cũng thường thôi Lan ạ, không có gì Lan phải khen. Thế…Lan thích bản nhạc nào nhất ?

- Lan thích nhất bài số 7 Hey, bài số 2 Si Tình, và Where Is Your Heart. Bài Three Times A Lady anh hát hay hơn ca sĩ Mỹ. Trong cuối thập niên 1970, Lan nghe bản nhạc đó hàng ngày trên các đài phát thanh Mỹ, nhưng Lan không ngờ anh hát hay đến như vậy !

- Anh rất mừng là có người thích CD này, đó là một an ủi lớn cho anh !

- Sao vậy anh ? Thính giả của anh không thích CD này sao ?

- Anh làm CD này cốt yếu cho những thính giả trẻ và luôn cả cho những thính giả lớn tuổi, những ai biết thưởng thức nhạc Mỹ thì cùng nghe. Anh muốn tạo thêm một sắc thái mới lạ, nhưng anh thất vọng, vì thính giả chỉ muốn nghe anh hát tình ca Việt Nam mà thôi. Hình như tiếng hát của anh gắn liền với nhạc tình của mình mà thôi, họ không chấp nhận CD nhạc ngoại quốc này.

- Sao anh biết ?

- Vì CD này bán chậm, các trung tâm băng nhạc không đẩy băng đi được, có nhiều trung tâm lại không muốn mua vô nữa Lan à !

- Em thì trái lại, từ ngày có CD này đến giờ, em nghe nó suốt ngày, nghe mãi rồi ghiền luôn, lên xe là mở cassette ngay. Anh hát bản Si Tình hay lắm. Lan nói thật đó, không nịnh anh đâu. Lan có nghe Julio Iglesias hát bản nhạc này, nhưng giọng anh ta nghe không rõ, vì anh ta ngân nhiều quá, không nghe được lời, còn giọng anh rất rõ ràng, nghe thích lắm. Lan cho mấy người Mỹ làm chung sở nghe CD của anh, họ khen anh đấy, không những họ chỉ khen, mà còn khen hết lòng nữa.

- Cảm ơn Ngọc Lan, thật vậy sao ?

- Dạ thật , có một bà người Mỹ sau khi đem CD của anh về nghe, hôm sau trở lại đòi mua CD và nói với Lan như thế này “ Việt Nam lại có người hát hay như thế sao ? Ông ta hát mà không có một chút gì chứng tỏ ông ta là người ngoại quốc. Nước Mỹ của chúng tôi đang cần những người ca sĩ như ông này. Nhạc bây giờ tôi rất chán, nghe nhức cái đầu, thật là vô giá trị. Nếu ông này còn ra thêm CD nhạc Mỹ, thì tôi chắc chắn sẽ là khách hàng của ông ấy !” Và...anh à, luôn cả người Tàu họ cũng thích tiếng hát của anh nữa.

Anh làm thinh chẳng nói gì cả trước những lời nói rất chân tình của tôi.

- Anh Sĩ Phú à, vẫn biết rằng là ca sĩ thì ai cũng muốn tiếng hát của mình được đi xa hơn, nhiều người biết đến hơn. Nhưng trong trường hợp này, anh nên nghĩ rằng dù sao đi nữa, có ít nhất là em và các bạn Mỹ trong sở mến phục và cảm ơn anh đã thực hiện nên CD đó là đủ rồi.

Anh nói rất từ tốn:

- Cảm ơn Ngọc Lan rất nhiều. Bây giờ thì anh nhờ Lan đọc lá thư của bà thính giả giùm anh đi, bà tên gì vậy em ?

- Thưa anh, bà ấy tên là Nguyễn Thị Minh Hương, để Lan đọc thư bà ấy cho anh nghe nhé.

Tôi mở vội phong thư của bà rồi đọc cho anh nghe.

Những hàng chữ đầu bà khen tặng anh hết lời, bà cho biết tên bà là Hương. Khi còn ở Việt Nam bà có mấy cuốn băng nhạc rất cũ có tiếng hát Sĩ Phú, nghe tới nghe lui bao nhiêu năm trời, các cuộn băng hư tả tơi nhưng bà vẫn còn giữ đến bây giờ. Phần còn lại, bà viết một cái danh sách dài của những bản nhạc mà bà muốn anh Sĩ Phú hát cho bà. Tôi e ngại, không biết anh có muốn nghe hết hay không :

- Bà ấy kể nhiều bài nhạc quá anh à, không biết anh có thì giờ để nghe không ?

- Không sao đâu, Lan cứ đọc đi, anh muốn nghe, anh đang chờ một người bạn, chừng nào anh ấy tới thì thôi.

Tôi bắt đầu đọc:

- Bến Xuân ,Bên Cầu Biên Giới , Xuân Tha Hương, Em Còn Nhớ Mùa Xuân, Suối Mơ, Em Tôi, Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay, Lá Thư ,Hoài Cảm, Tiếc Thu, Thu Quyến Rũ, Bây Giờ Tháng Mấy, Hoa Xuân, Nhớ Người Ra Đi, Lá Đổ Muôn Chiều... và khoảng 10 bài nữa mà tôi không nhớ hết.

Tôi kết luận:

- Phần lớn những bản nhạc này Lan cũng rất thích, khi nào có dịp mong nghe anh hát.

- Bà Hương chọn nhạc khá lắm, đây là những bản ruột của anh, anh đã từng hát một số những bản nhạc này ngày xưa trước 75. Mấy lúc gần đây anh không còn hát nữa. Không phải lúc nào anh cũng hát được đâu Lan à. Đôi khi còn phải tùy theo cảm hứng nữa. Bản nhạc nào mà khi hát, anh có sự rung động thật đầy thì anh hát mới hay được. Còn nếu không, anh hát chẳng ra sao cả. Tuy nhiên, anh sẽ chiều bà ấy. Anh sẽ cố gắng ở các CD sau của anh.

Anh chợt kêu lên:

- Có tiếng chuông, anh bạn đã đến rồi, thôi anh phải đi, Lan còn gì để nói nữa không ?

- Còn nhiều lắm, nhưng để khi khác đi anh. Thôi Lan chúc anh đi ăn ngon !

- Cảm ơn Lan, thôi Lan ngủ ngon nhé !

Một tuần sau tôi nhận được 5 CD và 5 băng nhạc anh gửi tặng. Tôi gọi điện thoại để cảm ơn anh, nhưng anh như bóng chim tăm cá, không có ở nhà, tôi để lại lời nhắn. Một lần nữa, anh và tôi lại xa cách, nghìn trùng xa cách. Anh đã về Việt Nam.


Tháng hai năm 1996, từ Việt Nam trở về, anh gọi cho tôi trong một lúc mà tôi không ngờ nhất. Tôi vì quá bận rộn với đời sống gia đình và công việc nên đã tạm quên hình bóng anh.

Anh cho tôi biết anh đã về Việt Nam để dự hôn lễ của đứa con trai thứ và vừa trở về Mỹ được hai ngày.

- Hai ngày nay anh ngủ vùi vì giờ giấc thay đổi, anh mới vừa thức giấc. Chợt nhớ đến Lan nên anh gọi để nói chuyện.

- Ồ, cảm ơn anh đã gọi lại cho Lan, em tưởng là anh đã quên em rồi chứ !

- Anh không quên Lan, nhưng thường thì anh ít gọi cho ai, anh lười lắm. Hơn nữa là anh không biết phải nói gì. Anh không muốn làm phiền người khác về những chuyện vu vơ của mình.

Rồi anh xin lỗi vì đã không nói về chuyến đi này với tôi trước khi anh ra đi.

Thật ra, anh nào có lỗi gì đâu, anh và tôi vẫn còn là hai người xa lạ mà.

Nhưng lần này tôi thấy anh có vẻ gần gũi, thân mật hơn chứ không có vẻ xa cách như trước. Hay, có lẽ sau chuyến đi về Việt Nam, anh thoải mái hơn vì trách nhiệm đã hoàn thành ?

Tôi lẩm cẩm hỏi anh đủ chuyện về quê hương, về kinh tế, về đời sống, giáo dục, học đường, thời trang vân vân...

- Còn đàn bà con gái bên đó như thế nào, thưa anh, chắc con gái lớn lên sau năm 1975 thay đổi nhiều ? Họ có đẹp không anh ?

- Anh có nhìn ngắm ai đâu mà biết, và anh cũng hoàn toàn chẳng thấy gì cả. Đẹp hay xấu là do cái tâm mà ra. Đối với anh, đẹp không phải là một cái gì sẽ tồn tại với thời gian, nhưng cái tính tình rất quan trọng với anh.

Tôi vụt hỏi anh một câu thật vô duyên:

- Anh Phú ơi, người đàn bà lý tưởng đối với anh phải như thế nào ?

- Hiền, chịu đựng và thông minh.

- Anh có tìm ra người ấy chưa ? Người thông minh thì chưa chắc gì thích chịu đựng. Hiền thì có thể, nhưng chịu đựng thì đâu có dễ ?

- Anh không có đi tìm ai hết, anh tin ở định mệnh. Đã lâu rồi anh không còn có một sự liên lạc về tình cảm với ai hết, anh tự chôn mình nơi chốn này...

Tôi nghe anh thở dài, giọng nói anh bỗng dưng trầm xuống, rất nhỏ.

Tôi cũng hạ thấp giọng lại, xao xuyến hỏi anh:

- Anh có buồn gì không ? Em có cảm tưởng anh buồn lắm lắm.

- Tại sao Lan lại nghĩ rằng anh buồn?

- Tại vì... em cảm nhận như thế ! Giọng nói của anh đã diễn tả rất nhiều những gì anh nghĩ và khi anh nói thì hình như có một cái gì đó chất chứa từ đáy lòng.

Rồi tôi ngập ngừng hỏi anh:

- Anh có muốn tâm sự điều gì với em không ?

Anh yên lặng rất lâu, khi tôi tưởng chừng như anh đã ngủ, anh mới lên tiếng:

- Thôi em đi ngủ đi, đêm đã khuya rồi, ngày mai, anh sẽ gọi lại cho em. Good night em !

Ngày mai là một ngày thật dài, tôi mong trời mau tối để nói chuyện với anh. Tám giờ rưỡi anh gọi tôi, hôm đó anh có vẻ đỡ hơn ngày hôm trước, giọng nói của anh vui tươi hơn, hồn nhiên hơn. Anh tâm tình với tôi rất nhiều trong đêm đó. Chúng tôi nói chuyện rất hào hứng và rất sôi nổi đến nỗi không còn để ý đến thì giờ trôi qua nữa.

Cú điện thoại này kéo dài 11 tiếng đồng hồ. Chúng tôi đi ngủ vào lúc 8 giờ sáng hôm sau. Đêm tâm tình này đã mở đầu cho một chuyện tình thật đẹp và thật cao quý giữa Sĩ Phú và tôi.

Những ngày sau đó tôi và anh là hai người bạn hình như không rời nhau trong tư tưởng, chúng tôi có ngay một tình bạn rất thân mặc dù không gặp mặt nhau.

Kẻ ở phương Bắc người ở phương Nam, chúng tôi bỗng nhiên là hai người bạn tri kỷ, hình như đã quen nhau từ kiếp nào rồi.


Cuộc tình viễn liên này kéo dài 3 năm trời cho đến khi anh về với tôi. Dĩ nhiên là trong thời kỳ này, chúng tôi gặp nhau rất thường, nhưng chúng tôi vẫn chia ly trong đời sống vì anh không chịu dời về miền Nam California.

Còn tôi thì không thể dời chỗ ở vì các ràng buộc khác trong cuộc đời. Hơn nữa, anh nói anh muốn hai chúng tôi giữ mãi tình bạn như thế này và sẽ không có gì khác hơn là tình bạn cao quý mà thôi. Tôi tôn trọng ước muốn của anh. Tôi biết anh có những ràng buộc và trách nhiệm, nên, lặng lẽ nơi này, tôi chấp nhận, tôi cố gắng sống một cuộc sống bình thường và vẫn liên lạc thường xuyên với anh. Ngày cũng như đêm, khi nào rảnh rỗi chúng tôi gọi nhau và tâm sự rất nhiều, thường là 4 hay 5 tiếng đồng hồ một ngày.

Tiền điện thoại hằng tháng của chúng tôi thường là trên dưới 300 đô la cho mỗi người.

Chúng tôi quấn quít nhau trong tư tưởng, chúng tôi mân mê nhau trong lờøi nói. Chúng tôi đọc được tư tưởng, ý nghĩ của nhau. Hình như mỗi lời nói và tư tưởng của chúng tôi đều là những tư tưởng của nhau. Anh nghĩ như tôi nghĩ, anh nói những gì tôi muốn nói, anh thích những gì tôi thích, anh yêu những gì tôi yêu.

Tôi không thể, và không thể nào không nghĩ rằng, có lẽ chúng tôi là anh em sinh đôi ở kiếp này, nhưng vì bị chia cách lúc sinh ra, thất lạc đến bây giờ mới tìm được nhau. Một sự trùng hợp về tư tưởng lạ lùng. Chỉ có anh em sinh đôi thì mới có thể đạt được sự trùng hợp hiếm hoi như vậy.

Tôi bàng hoàng nói với anh:

- Không lẽ anh và em là anh em sinh đôi hay sao ? Em có cảm tưởng anh và em đã gặp nhau trên trăm năm rồi, anh ạ !

Anh cười thật hiền và đùa với tôi:

- Em là người tình trăm năm của anh đấy !

Rồi anh tiếp :

- Đây là một cơ duyên, Ngọc Lan ạ ! Chúng ta phải có duyên lắm mới gặp nhau như thế. Đây có lẽ là định mệnh run rủi cho chúng ta gặp nhau ở cuối đoạn đời này vậy.

- Anh có hối hận là đã gọi cho em không ?

- Không bao giờ anh hối hận gì cả vì em rất xứng đáng Ngọc Lan à !

- Em cũng cảm nhận như vậy về anh. Em may mắn lắm mới được quen anh.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 10 Aug 2008

Chương Hai
Nguyễn Sĩ Phú và Tuổi Thơ

Sĩ Phú ra đời ngày 9 tháng 1 năm 1942 tại thành phố Boneng Thaket bên Lào. Bố anh là người Hà Nội, mẹ anh quê ở Bắc Ninh. Bố anh làm việc bên Lào, nên 3 anh em anh đều sinh ra tại đó. Gia đình anh là một gia đình khá giả, nề nếp, mẫu mực. Anh là người con út trong gia đình 4 người con. Chị Dung, người chị cả đã bị mất liên lạc từ khi chị định cư tại Thái Lan, anh không nhớ năm nào. Anh chỉ còn có ông anh, Nguyễn Sĩ Bảo và bà chị Nguyễn Thị Phúc mà thôi. Năm 1944 anh theo cha mẹ từ Lào trở về Hà Nội. Tại đây, họ sống trong một ngôi biệt thự sang trọng cho đến khi di cư vào Nam.

Mãi cho đến 4 tuổi, anh cũng vẫn chưa biết nói, theo gia đình cho biết, anh rất sáng, biết được tất cả mọi sự việc chung quanh, nhưng nhất định không nói. Mẹ anh buồn rầu lo lắng, nhưng bỗng một ngày, trước sự ngạc nhiên và vui mừng của mọi người, sau khi cùng anh Bảo được chị * dẫn đi chơi ở sở thú về, anh đã chạy lại nói với mẹ:

- Mợ ơi, em thấy con voi. Mợ ơi, em thấy con voi !

Anh nói một loạt hai câu như vậy. Và đó là hai câu nói đầu tiên trong đời anh.

Không lâu sau, lúc vừa lên 5, 6 tuổi là anh đã chứng tỏ rằng mình có khiếu về ca hát, anh bắt đầu tập hát và thường nghêu ngao ca hát suốt ngày.

Mẹ anh đặt cho anh một cái tên cúng cơm rất dễ thương, cậu bé Tí Tò. Khi Tí Tò còn nhỏ, cậu rất ngoan ngoãn, lúc nào cũng quấn quít bên mẹ. Anh bảo anh là con trai cưng của mẹ.

Cậu bé Tí Tò được một chị * nuôi từ thuở nhỏ, cậu rất quyến luyến chị này, khi chị xin phép về quê lấy chồng, Tí Tò khóc hết nước mắt không chịu ăn uống gì hết, cậu nói cậu sẽ làm đám cưới với chị một ngày nào khi cậu lớn lên.

Anh kể tôi nghe, có một lần, bị mẹ lãng quên, cậu ở nhà tức tối đem đồ trong nhà ra đập bể hết. Mẹ cậu không đánh đòn con về tội này, chỉ lẳng lặng nhờ chị ở dọn dẹp những vật đổ vỡ. Cậu vỡ lẽ, hối hận và thán phục hành động của mẹ, từ đó về sau và có lẽ hết cuộc đời, cậu không bao giờ dám đập vỡ bất cứ một cái gì vì biết rằng việc đó sẽ không giải quyết được gì cả ngoài sự mất mát, hư hao.

Anh là một người con rất hiếu thảo, anh yêu cha mẹ vô cùng. Trong suốt thời gian tôi quen anh, lúc nào anh cũng nhắc nhở tới bố mẹ, nhất là mẹ anh. Bà chính là hình ảnh của một bà mẹ hiền Việt Nam. Suốt đời tận tụy hy sinh cho chồng con. Anh giống bố ở dáng vóc cao lớn và nhân cách rộng lượng, nhưng lại rất gần mẹ. Bà cụ là một người đàn bà có vóc dáng cao đẹp. Bà là một người đàn bà có học thức, yêu văn hóa, rất tháo vát và tận tụy. Ðối với anh, mẹ là tất cả, anh luôn nói về mẹ với một sự tôn kính và thán phục.

Ngôi nhà của gia đình anh ở Hà Nội cũng đầy kỷ niệm của thời thơ ấu, anh kể tôi nghe một vài chuyện ma về ngôi nhà này làm tôi rởn tóc gáy, tôi sợ lắm, không cho anh kể thêm nữa.

Theo chị Phúc kể lại, cái tinh thần bất khuất, anh dũng của anh đã có từ những ngày còn thơ.

Chị kể, lúc anh vừa được 9 tuổi, một hôm trên đường đi học về nhà, anh thấy anh Bảo đang bị một bọn học sinh du đãng bao vây và áp đảo, lúc ấy anh Bảo độ khoảng mười lăm tuổi nhưng rất hiền lành, yếu đuối. Anh Sĩ Phú nhanh trí chạy vào một cái quán nhỏ kế bên, chụp vội một cái chai không, đập bể cổ chai, chạy ra ngoài đứng ngay giữa đám đông quơ cái chai có miệng vỡ lởm chởm vào bọn chúng và la to lên:

- Ðứa nào có giỏi thì vào đây, chúng mày đụng đến anh tao thì sẽ bị vỡ mặt đấy !

Bọn học sinh sau đó lần lượt tháo chạy vì cậu bé Sĩ Phú lúc đó mặc dù chỉ 9 tuổi nhưng đã dám hiên ngang đứng lên chống lại bọn chúng. Hai anh em xách cập chạy về nhà kể lại cho bố mẹ nghe. Dĩ nhiên là bố mẹ rất vui lòng vì biết anh đã chứng tỏ là một đứa bé can đảm hào hiệp ở cái tuổi còn măng sữa.

Năm 1954, theo chân hàng triệu người khác, gia đình anh di cư vào Nam. Anh bùi ngùi lìa xa ngôi nhà thân yêu chất đầy kỷ niệm của thời thơ ấu, năm đó, anh chỉ mới 12 tuổi.

Gia đình anh lúc đầu định cư ở khu Chợ Quán, quận 5. Vài năm sau, dời về cư ngụ ở đường Lê Văn Duyệt, Hòa Hưng cho đến năm 1975.

Vào trung học đệ nhất cấp ở Nguyễn Khuyến và sau đó đệ nhị cấp ở Chu Văn An, cậu bé Tí Tò ngày nào, bây giờ đã là một cậu thiếu niên cao lêu nghêu, khôi ngô và sáng dạ.

Anh có một trí thông minh rất đặc biệt, anh nhớ hết những gì thầy giảng và những sách nào anh đã đọc qua. Bài vở ở trường, về nhà anh ít khi đọc lại, nhưng vẫn luôn được điểm cao, chả bù với những bạn bè chung quanh phải học suốt đêm để rồi cũng chỉ bằng anh mà thôi. Anh Nguyễn Bá Bình, bạn anh từ thời niên thiếu đã nói với tôi:

- Phú nó thông minh lắm chị Lan ơi, nó không có bao giờ đụng đến sách vở mà vẫn được điểm cao, còn tụi này học quá trời cũng chỉ bằng Phú.

Anh rất giỏi toán và ca hát cũng là một trong những sinh hoạt thời bấy giờ của anh. Tôi được chị Phúc cho biết là lúc anh học Ðệ Ngũ, chị và anh Sĩ Phú có theo học một lớp nhạc tư về nhạc lý, nhưng sau đó chị bỏ cuộc, anh Phú tiếp tục học thêm được 3 năm. Chị cho tôi biết anh Phú thổi khẩu cầm, và thổi sáo rất hay. Nhạc cụ nào anh cũng có thể sử dụng được, nhưng lại chỉ thích chú trọng về ca hát mà thôi.

Chị Phúc kể, lúc Tí Tò vừa lên 7 hay 8 tuổi, mẹ dẫn cậu đi chợ mua một đôi giầy mới, cậu không chịu, cứ nhất định đòi mẹ mua cho một cây đàn guitar. Mẹ không thích cho cậu đánh đàn, không muốn con mẹ đi theo con đường văn nghệ. Nhưng cậu bé Tí Tò cứ nhất định đòi cho được cây đàn. Mẹ không mua cho, nên cậu giận mẹ lắm và nhất định không bao giờ xỏ chân vào đôi giầy mới cho đến khi chân cậu lớn dài ra không còn mang được nữa. Anh Phú kể thêm với tôi:

- Lúc vào tiệm, mẹ bảo thử giầy, anh nói với mẹ là không có một đôi giầy nào trong tiệm này vừa chân anh hết. Anh không muốn mẹ mua đôi giầy, mà chỉ muốn mẹ để dành tiền đó mua cho anh một cây đàn mà thôi. Rất tiếc là mẹ đã nhất định không mua cho anh cây đàn chứ nếu không thì anh đã trở thành nhạc sĩ mất rồi!

Sau này, trong niềm thương tiếc em, chị Phúc nói:

- Tội nghiệp Phú lắm Lan ơi, lúc còn nhỏ Phú rất cô đơn, đến lớn Phú lại càng cô đơn hơn. Tôi thì là chị gái không hiểu và gần gũi em trai nhiều. Còn anh Bảo thì cách xa Phú đến 5, 6 tuổi. Phú nó chơi một mình lẻ loi lắm. Trong nhà có một thiên tài mà rất tiếc không ai nhìn thấy để nâng đỡ hỗ trợ tinh thần. Phú nó thông minh, có khiếu về âm nhạc. Phú đi lên và nổi tiếng là do công một mình của Phú.

Rồi chị chắt lưỡi:

- Tiếc quá đi thôi Lan ơi, tội Phú quá, bây giờ nghĩ lại, tôi càng thương Phú vô cùng !Cũng trong thời niên thiếu, anh có theo học võ Vovinam, đạt đến đẳng Huyền Ðai. Vì vậy, sau này có dịp, anh được cử làm giám đốc của trung tâm Võ Ðạo Thần Phong của Không Quân VN khoảng trên một năm để thay thế cho vị giám đốc thực thụ đang du học ở ngoại quốc.

Chị cũng nói thêm là anh Phú thuở nhỏ học rất giỏi, nên đã nhảy lớp vào đại học lúc chỉ mới 16 tuổi.

Mối tình đầu...

Anh chập chững đi vào đời với một mối tình non dại mà anh bảo đây là mối tình đầu của anh. Năm 17 tuổi, một sinh viên nghèo, tay trắng, anh quen biết một cô học trò đệ nhị cấp mà tôi sẽ gọi là cô Thùy. Họ quý mến nhau trong tình thương yêu trong sạch của tuổi thanh xuân. Tình bạn bỗng chốc gắn bó dịu dàng trong nề nếp của một xã hội còn khép kín. Một ngày nọ, khi đến thăm cô, anh đã phải đối diện với các ông anh của cô. Họ cho anh biết là họ không bằng lòng anh gặp em gái của họ nữa vì cô em của họ là một cành vàng lá ngọc, phải được đặt để ở một nơi chốn cao sang hơn, xứng đáng hơn, còn anh chỉ là một anh sinh viên nghèo rớt mồng tơi, thì đừng hòng đụng đến cô em gái của họ.

Anh buồn và thất vọng. Vì tự trọng, anh âm thầm bỏ ra đi, và không bao giờ tìm gặp Thùy nữa. Sự việc này đã gây một vết hằn tâm lý sâu đậm nơi anh. Anh tâm tình với tôi:

- Từ đó về sau, anh không bao giờ muốn làm quen với các cô gái kín cổng cao tường, cành vàng lá ngọc nữa. Anh sợ rồi...

Anh vào đời, với sự e dè, thiếu tự tin vì sợ bị chối bỏ một lần nữa.

Nhưng câu chuyện tình này không dừng lại ở đây. chúng ta hãy nghe anh nói về những năm tháng sau đó:

- Năm năm sau, vào một ngày nắng ấm, lúc ấy anh là trung úy Không Quân. Tình cờ, trong lúc lái xe jeep vào cổng trại, anh phải ngừng lại để cho một người đàn bà tay bồng một đứa trẻ thơ rất nhỏ và tay kia dẫn một đứa bé khoảng 2 tuổi rưỡi băng qua đường. Người thiếu phụ trông có vẻ lam lũ, xốc xếch. Hình dáng người đàn bà này quá quen thuộc. Anh chợt nhìn kỹ một lần nữa. Trời ơi, anh giật nẩy người, người đàn bà này không ai khác hơn là Thùy, người yêu đầu đời bé nhỏ của anh ngày xưa. Giờ đây nàng đã là một thiếu phụ tay bồng tay bế. Anh xúc động mãnh liệt. Anh gọi khẽ, "Thùy, có phải Thùy đó hay không ?" Người đàn bà chợt quay lại nhìn anh, bốn mắt nhìn nhau. Quả thật rồi, nàng đấy chứ còn ai nữa. Chỉ năm năm thôi mà nàng đã thay đổi quá nhiều. Ôi, còn đâu người con gái cành vàng lá ngọc ngày xưa. Anh nghẹn ngào không nói nên lời...Người thiếu phụ vội vã quay đi, dẫn đứa con nhỏ đi thật nhanh, bỏ lại sau lưng một hình bóng, một kỷ niệm buồn.

Trong hai năm 1960-1961, lúc vừa tròn 18 tuổi, anh sinh viên Sĩ Phú khởi đầu nghiệp dĩ của anh là giáo sư đệ nhất cấp của hai trường trung học Thăng Long và La San Nghĩa Thục. Anh dạy Toán và Lý Hóa cho lớp Ðệ Tứ. Theo lời anh Hải Nguyễn, Giám đốc điều hành văn phòng Luật Sư Richard S. Herschenfeld tại Little Saigon, California và cũng là một người bạn dạy chung trường với anh trong những năm này đãø nói với tôi, là học trò trường Thăng Long dạo ấy rất mê anh giáo trẻ Sĩ Phú. Tôi tưởng tượng một lớp học đầy những học sinh, nam cũng như nữ chen chúc nhau nhìn anh giáo trẻ đẹp trai giảng dạy môn toán Lý Hóa một cách rất chăm chú. Môn này vốn là một môn học khô khan, khó nuốt như cơm sống nhưng có lẽ nét đẹp trẻ trung của anh cũng đã giúp cho môn học này một phần nào đỡ chán phèo.

Cũng trong thời gian này, anh ca hát rất nhiều nhưng không có hoạt động nào rầm rộ cả vì anh chỉ hát cho các chương trình của Tổng Hội Sinh Viên mà thôi.

Anh lúc nào cũng tự ví mình là một Chàng Lãng Tử từ đâu đến, ôm đàn hát giữa trời (lời Phạm Duy Nhượng).
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, ổi xanh, longha

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Aug 2008

Chương Ba
KQ Nguyễn Sĩ Phú **

Năm 1962

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung

R ời đại học, anh ghi tên vào binh chủng Hải Quân, anh học ban B, giỏi toán, nên luôn luôn có ý định xin vào Hải Quân, nhưng giấy tờ bị trục trặc vì một lý do nào đó, anh không gia nhập binh chủng này được. Anh đổi qua xin gia nhập vào binh chủng Không Quân. Anh nói suýt chút nữa là anh không được gia nhập vào binh chủng này vì lúc khám sức khỏe, người ta cho rằng anh bị bệnh phổi vì hình quang tuyến cho thấy có những dấu vết không bình thường bên phổi mặt của anh. Anh nhất quyết tranh đấu, cho rằng anh không thấy gì bất bình thường về sức khỏe, và hơn nữa, anh chưa từng bị bệnh phổi bao giờ. Người ta khám sức khỏe cho anh lần thứ hai, cũng không khác gì lần đầu, họ vẫn cho rằng anh bị bệnh phổi.

Nhưng đến lần thứ ba, vì không tìm được gì khác hơn, người ta kết luận là anh có một vết sẹo trên lá phổi mặt do bẩm sinh. Sau cùng thì anh được nhận vào binh chủng Không Quân. Từ giã gia đình bố mẹ, và những bạn bè thân yêu, anh thụ huấn khóa huấn luyện quân sự 62A tại Nha Trang. Số quân của anh là 62/600.534

Từ năm 1963 cho đến 1965, anh được gửi qua Hoa Kỳ 3 lần để học lái trực thăng chiến đấu và các lớp huấn luyện quân sự khác.

Nhờ nói chuyện với anh Nguyễn Bá Bình, tôi mới được biết thêm một vài chi tiết về anh Phú:
Khi anh Phú được Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi cho đi Mỹ để học lái trực thăng chiến đấu, Sĩ Phú rất buồn và đã khóc với anh Bình. Lý do là vì anh Sĩ Phú rất mong muốn được học lái chiến đấu cơ phản lực, anh muốn là một phi công lái chiến đấu cơ để xông pha ra chiến trường. Anh than thở với anh Bình:

- Tao cao lớn dềnh dàng có sức lực như vầy mà tại sao lại không được chọn để lái chiến đấu cơ ?

Anh không bao giờ chê trực thăng, nhưng ước mơ của anh là được lái chiến đấu cơ ra chiến trường.
Về sau này, chúng tôi mới biết nguyên do nào Sĩ Phú đã không được chọn để theo học khóa lái chiến đấu cơ. Theo lời một người bạn thân của anh Bình trước làm ở Phủ Tổng Thống nói thì vì lý do an ninh. Lúc bấy giờ là thời của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, muốn được lái những loại chiến đấu cơ, cha mẹ người được tuyển phải là những công chức làm việc lâu năm trong chính quyền hay có gốc gác và phải được chọn lựa thật kỹ. Bố của anh Sĩ Phú là một tư chức không có làm việc cho chính quyền, nên anh đã không may mắn được chọn. Có lẽ họ sợ chiến đấu cơ có thể dội bom Dinh Ðộc Lập một cách chớp nhoáng chăng ?
Trong thời gian huấn luyện ở Hoa Kỳ, anh làm quen và gần gũi hơn với nghệ thuật của Hoa Kỳ. Anh tâm sự là anh rất thích xem show của Ed Sullivan. Anh say mê âm nhạc nghệ thuật Hoa Kỳ vì đấy là thời buổi của những bản nhạc vàng ca tụng tình yêu chân chính, chất phác, thơ ngây, của một xã hội còn trật tự và đầy những truyền thống tốt. Anh nhớ thuộc làu những bản nhạc Mỹ đó, mà về sau này, khi có dịp, anh hát nho nhỏ cho tôi nghe. Anh kể về những buổi cơm đơn sơ nhưng ấm áp đầy tình người của bạn bè xa xứ tụ tập lại sau giờ học tập, để cùng nhau thưởng thức hương vị ngọt ngào của nồi cơm dẻo thật ngon, như những ngày còn thơ lẩn quẩn bên mẹ. Anh yêu mùi gạo nấu tỏa hương thơm ngào ngạt, ấm áp đầy khắp nhà, anh yêu bếp lửa hồng, nơi có một nồi cá thu kho riềng... một nồi canh nóng, kỷ niệm của những ngày còn xanh, anh kể lại với một sự luyến tiếc vô cùng. Anh là một người sống rất nhiều về nội tâm, và không bao giờ quên một kỷ niệm nào, dù là kỷ niệm nhỏ nhất. Anh trân quý kỷ niệm, những bạn bè cũ, vì kỷ niệm và bạn cũ là một phần đời của anh. Anh Hải Nguyễn đã nói với tôi như thế này :
" Khi Phú nổi tiếng, Phú vẫn gọi cho tôi và tìm lại tôi, tôi quý Phú ở cái tính trung hậu, không quên bạn bè xưa" .

Năm 1965, trở về Việt Nam sau lần sang Mỹ lần thứ hai, chỉ mới 23 tuổi đầu, anh đã phải đương đầu với một bế tắc nan giải. Một thay đổi trong cuộc đời mà đây cũng là một trong những đầu dây mối nhợ đã gây ra những đau khổ triền miên trong suốt cuộc đời còn lại của anh.
Cho tôi được phép ngừng ở đây để mở và đóng một dấu ngoặc đơn là, tôi không muốn viết nhiều và đào sâu chuyện này vì tôi tôn trọng người quá cố cũng như người còn sống. Tôi chỉ muốn viết lên những sự thật một cách rất tế nhị. Nhưng, sự thật phải được viết lên để câu chuyện được mạch lạc và liên tục, xin tất cả độc giả từ mọi phía thông cảm cho tôi.

Anh ở một cái thế bị kẹt, phải lập gia đình không chính thức với một người đàn bà lớn hơn anh 6 hay 7 tuổi, mà trước đó, anh đã ra tay nghĩa hiệp, với ước mong duy nhất rằng anh sẽ giúp người đàn bà này làm lại được cuộc đời, tạo dựng cho bà ấy một tương lai sáng đẹp hơn và với một đời sống khả kính, đúng nghĩa hơn.

Bất cứ một người bạn nào của Sĩ Phú cũng đều nhìn nhận rằng, Sĩ Phú rất hiền, rất thương bạn và ăn ở rất có tình nghĩa. Anh là người rất thông minh, nhưng vì anh sống quá nhiều bằng tình cảm, bằng trái tim, không bằng khối óc, cho nên đôi khi trong cuộc đời đã chịu quá nhiều mất mát, thiệt thòi.

Anh hy sinh bản thân và tự nguyện giúp người đàn bà này làm lại cuộc đời vì tội nghiệp cho hoàn cảnh của bà ta. Nhưng, trước một Sĩ Phú rất đẹp trai, ngơ ngác như một con nai vàng, và là một chàng trai tơ vừa mới lớn lên, con cờ lật ngược, anh đã trở thành nạn nhân và anh phải sống với kinh nghiệm đau xót và nhức nhối này cho đến hết cuộc đời còn lại của anh.

Khi anh kể lại, anh đã nghẹn lời bao nhiêu lần. Tôi phải ngừng lại, chờ đợi, tôn trọng giây phút đó, yên lặng không hỏi thêm gì nữa. Vì Sĩ Phú là Sĩ Phú, là một người đàn ông với một biển tình cảm trong tim, và một trời chịu đựng trong thân thể, anh đau đớn chấp nhận nó khi đã lỡ uống một liều thuốc thật đắng vào rồi. Hai mươi bốn tuổi đầu, một anh lính mới tò te rất là nhút nhát và ít kinh nghiệm về đàn bà như Sĩ Phú đã học một bài học thật đắt giá, anh đã là cha của một đứa bé trai, may mắn thay, đứa bé rất kháu khỉnh bụ bẫm dễ thương.

Anh rất sợ cha mẹ già buồn khổ, vì gia đình anh là một gia đình nho giáo, nề nếp. Anh dấu gia đình, sống chui sống nhủi trong một thời gian dài. Nhưng rồi gia đình anh cũng biết, một ngày đẹp trời, một chị * em theo lệnh của người đàn bà, bồng đứa bé 3 tuổi đến tìm ông bà nội và cho biết đứa bé này là con trai của Nguyễn Sĩ Phú. Ðứa bé này là Nguyễn Sĩ Trường Sơn, người con trưởng của Sĩ Phú bây giờ.
Theo lời chị Phúc, Ông Bà Nội rất thương đứa bé vì nó đẹp tuyệt vời và giống bố nó như đúc.

Nhưng họ không bao giờ chấp nhận người đàn bà mẹ đứa bé này là con dâu, vì lúc ấy gia đình bố mẹ anh đang dạm hỏi mối mai cho anh một người con gái hiền lành con nhà đàng hoàng tử tế.
Vì người đàn bà mẹ của đứa bé đã đăng trên báo chí Việt Nam ngày đó để bêu xấu anh và dọa rằng sẽ tự tử nếu Sĩ Phú có ý định bỏ bà ta. Sĩ Phú biết rằng mình đã bị vướng vào một cái bẫy, và bị ràng buộc từ đây. Người đàn bà này rất mong muốn làm hôn thú với anh, nhưng anh nhất định không bằng lòng. Anh cũng như chị Phúc đã nói với tôi rất nhiều lần là anh không hề yêu người đàn bà này bao giờ. Anh chỉ bị sập vào cái bẫy của bà ta mà thôi.

Anh tâm sự:
- Anh không thể tưởng tượng nổi làm thế nào mà anh có thể chịu đựng và sống trong một hoàn cảnh như vậy được đến gần mười năm trời !
Sau này, khi tôi gọi điện thoại về Việt Nam để thăm hỏi, được những người thân của bà cho biết rằng bà có tâm sự với họ về Sĩ Phú và theo lời bà kể lại, ngày đó, anh gọi người đàn bà này bằng " Chị Hai " và cho đến ngày anh xa bà, chưa từng một lần trong đời anh, đi chung với bà ta ngoài chỗ công cộng và cực chẳng đã nếu có ai đến nhà, anh buộc lòng phải giới thiệu rằng đây là Chị Hai. Mặc cho ai muốn hiểu như thế nào thì hiểu.

Anh tâm sự tiếp :

- Anh có cảm tưởng như anh bị sụp vào một cái hố sâu, muốn chui ra nhưng bị vướng lại. Bạn bè khuyên anh nên dứt khoát và bỏ đi để làm lại cuộc đời, nhưng anh còn con, còn trách nhiệm, anh không thể bỏ đi đuợc. Mấy người bạn anh đứa nào cũng tháo chạy, đứa nào cũng nói anh ngu ở lại chịu trận!

Sĩ Phú rất thương con, bao nhiêu tình thương anh dành hết cho con. Nhưng anh hãy còn quá trẻ để lâm vào một tình trạng như vậy. Anh chỉ là một gã con trai mới lớn lên, vì làm chuyện nghĩa hiệp cho nên đã vướng khổ đau.

Cũng theo lời anh Bình kể, khi chỉ mới là Thiếu Úy, vì muốn được thoát khỏi tay người đàn bà này, anh đã trút hết bao nhiêu tiền bạc anh có lúc đó cho bà ta, xem số tiền này như tiền tử, với hy vọng đó là một nghĩa cử cao đẹp trước khi chia tay. Rồi anh tình nguyện đệ đơn lên Bộ Tư Lệnh Không Quân xin được làm phi công lái cho lực lượng Lôi Hổ Biệt Kích để thả dù những anh hùng cảm tử quân ra Bắc. Ðấy là một trách nhiệm vô cùng to tát và nguy hiểm, thông thường thì ai cũng sợ một công tác đi không hẹn ngày về như vậy, nhưng anh thì lại tình nguyện xin đi. Nhưng Bộ Tư Lệnh Không Quân đã không chấp nhận đơn xin của anh. Có lẽ, anh chỉ muốn đi xa người đàn bà này mà không kể gì đến tính mạng, hay là cũng có thể, anh muốn chết, vì chết là cách giải quyết dễ nhất. Sống bên một người đàn bà mà mình không yêu thương, mà lại không thể xa rời được vì trách nhiệm và lương tâm thì không có một sự đau đớn mất mát nào hơn. Hơn nữa, người đàn bà này lúc ấy lại cứ hăm dọa là sẽ tự tử nếu Sĩ Phú bỏ bà và đăng báo rêu rao, nói xấu anh. Có thể nói, đây là một sự sách nhiễu tình dục trắng trợn, mà nạn nhân là một người đàn ông quá hiền lành đến độ không thể tưởng được. Anh thuật lại với tôi:

- Có một thời gian anh bị thuyên chuyển đi về đơn vị xa ở Phan Rang, đôi khi một năm mấy hai năm không về nhà, nhưng khi vừa về đến nhà, bà ấy lại đem trình anh một đứa con vừa mới sinh và nói đứa bé là con của anh.

- Rồi anh xử sự như thế nào với bà ấy ?

- Thì anh đành nhận làm con anh luôn vậy, anh xin khai sinh cho đứa nhỏ dù biết không phải là con của anh. Anh biết cả bố của đứa nhỏ. Về sau này bà ấy nói làm như vậy để dằn mặt anh chơi cho đỡ tức.

- Anh lạ quá, em không thể tưởng được trên đời này còn có nhiều chuyện lạ lùng như vậy.

- Sau khi biết chắc rằng anh sẽ không bỏ bà ấy, vào lúc cuộc chiến bắt đầu sôi nổi ở chiến trường, có lần một người bạn nhắc đến việc xin cho anh một lá bùa hộ mạng, thì lúc ấy bà ta mới ra mặt giới thiệu anh đến một ông thầy bùa tên là Thầy Tư mà bà ấy bảo là thầy bùa của bà bao lâu nay. Lúc đó anh mới vỡ lẽ.

Tinh thần anh bị tổn thương rất nặng nề, nó đã lôi kéo cả một tương lai tươi sáng của anh vào bóng đêm sâu thẳm. Cuộc sống tình cảm của anh đi xuống, nhưng cũng từ đó, một giọng hát thật trữ tình, dịu dàng, đầm ấm đi lên. Qua ca khúc, anh đã gửi gấm, tâm tình đến người nghe nỗi lòng u uất của mình từ đó.
Sau biến cố Mậu Thân, từ phi đoàn, anh được Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về để giao phó một chức vụ mới. Anh được giao phó chức Trưởng Khối Cổ Ðộng Tuyên Truyền và Trưởng Ban Tâm Lý Chiến cho Sư Ðoàn 5. Anh phụ trách các chương trình phát thanh, phát hình của Không Quân trong đó, có chương trình Tuyển Mộ Phi Công cho binh chủng Không Quân ở Ðài Truyền Hình Quân Ðội. Anh cất tiếng hát bài hùng ca đầu tiên trên Ðài Truyền Hình Sài Gòn vào năm 1968 trong dịp kỷ niệm ngày thành lập binh chủng Không Quân.

Hào hùng trong bộ đồ bay và với vóc dáng cao lớn, khôi trai của anh, lại thêm giọng hát thiên phú rất đàn ông, rất quyến rũ, tên tuổi của anh bỗng nhiên trở thành câu chuyện bàn tán của thanh niên nam nữ thời bấy giờ. Chẳng mấy chốc thanh niên gia nhập binh chủng Không Quân rất đông, tạo nên một phong trào gia nhập Không Quân ồ ạt. Lực lượng Không Quân từ một con số khiêm nhường đã trở nên lớn mạnh gấp chục lần.
Anh tâm tình với tôi: " Ðó là lúc mà anh cảm thấy vui mừng nhất em à (anh không dám dùng chữ hãnh diện) vì anh đã làm một cái gì đó cho quê hương, cho quân đội."

Một trong những trung tâm băng nhạc nổi tiếng thời bấy giờ là trung tâm Tú Quỳnh của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương đã liên lạc với anh và mời anh ký giao kèo cộng tác. Trong thời gian này, anh đã thu rất nhiều nhạc phẩm cho trung tâm Tú Quỳnh. Cũng chính những nhạc phẩm này đã góp phần đưa tên tuổi anh lên cao và tiếng hát của anh cũng bắt đầu đi sâu vào mọi thành phần và mọi lứa tuổi.

Anh cũng đã từng nhắc nhở với tôi nhiều lần về nhạc sĩ Ngọc Chánh và những tình cảm trân quý và sự giúp đỡ của ông cho anh trong những ngày đầu bước chân vào cuộc đời văn nghệ. Sau này, tôi có dịp nói chuyện với ông Ngọc Chánh thì được ông cho biết là Sĩ Phú đã từng hát cho trung tâm băng nhạc Shotgun trong thời gian từ 1969 đến 1974. Tổng cộng, anh góp tiếng hát của mình cho khoảng 50 băng nhạc của trung tâm Shotgun. Ông Ngọc Chánh cho tôi biết anh hát cho ông trên dưới khoảng 100 bài hát đa số là những ca khúc tiền chiến nổi tiếng. Ông Ngọc Chánh cũng cho biết rằng Sĩ Phú là hiện tượng, là giọng hát số một của thời bấy giờ. Nhưng rất tiếc vì nhiệm vụ với quê hương, một sĩ quan trong Không Quân, nên Sĩ Phú đã không hát được cho ông nhiều như các ca sĩ khác. Nên mỗi một băng nhạc, chỉ có hai bài của Sĩ Phú mà thôi. Nhưng với tôi, con số một trăm bài cũng là con số đáng kể. Ðáng tiếc thay, những bản nhạc này nay đã bị thất lạc gần hết.
Song song với bổn phận của một sĩ quan Không Quân, anh đã cộng tác một thời gian dài trong " Chương Trình Phạm Mạnh Cương" phát hình hàng tuần trên Ðài Truyền Hình Việt Nam từ năm 1969. Cũng trong thời kỳ này, anh còn hợp tác với chương trình " Chiến Sĩ Và Ðời Sống " trên Ðài Phát Thanh Quân Ðội.

Ngày 20 tháng 10 năm 1970, anh được bộ Tư Lệnh Không Quân gửi qua Mỹ du học về bộ môn báo chí và phim ảnh tại Fort Benjamin Harrison, tiểu bang Indiana.

Trong thời gian này, nhờ vào trí thông minh, bộ óc linh động, tài ăn nói lưu loát, sau khi trình lên một bản luận án, anh đậu cao và được một phần thưởng quý giá không những đem lại danh dự cho anh, mà luôn cả cho binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh đã được Bộ Tư Lệnh Không Quân Hoa Kỳ trao tặng bằng thưởng " Người Hùng Biện Giỏi Nhất " (Best Lecturer and Best Speaker).

Họ nói rằng anh là người ngoại quốc đầu tiên được giải thưởng cao quý này. Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam đã được thông báo về sự việc này. Cũng với tài hùng biện, anh thảo một bài viết nói về chính sách của người Mỹ tại Việt Nam, nhưng, thay vì khen ngợi, anh đã trình bày cảm tưởng về chính sách và âm mưu của Hoa Kỳ tại Việt Nam thời bấy giờ. Vì sự thật ít nhiều bị phơi bày dưới ngọn bút độc đáo của vị thủ khoa và nhất là một sĩ quan Việt Nam, đối với Hoa Kỳ, là một vi phạm đến quyền lợi và an ninh quốc gia, nên anh bị họ "hộ tống" ra máy bay để trở về Việt Nam ngay lập tức.

Ðó là chuyến đi huấn luyện cuối cùng của anh tại Hoa Kỳ.

Về nước, có một thời gian anh hợp tác với nhà xuất bản Sóng của nhà văn quá cố Nguyễn Ðông Ngạc, cũng là một người bạn khá thân của anh. Với một khả năng Anh Văn thông thạo lưu loát, cùng với các nhà văn khác thời bấy giờ như Ðinh Nguyên và Phan Lệ Thanh, anh đã góp phần phiên dịch các tác phẩm nổi tiếng do nhà xuất bản Sóng ấn hành như Một Thời Ðể Yêu Và Một Thời Ðể Chết (A Time To Love and A Time to Die) và Chuyện Tình (Love Story).

Thời đó, tôi thích nhất là tác phẩm Một Thời Ðể Yêu Và Một Thời Ðể Chết của nhà văn Mỹ gốc Ðức là ông Erich Maria Remarque (1898-1970). Quyển sách nói về cuộc tình của một cặp trai gái rất trẻ trong trận Ðệ Nhị Thế Chiến tại Ðức.

Ðã trên hai mươi lăm năm từ ngày đọc quyển sách này nên tôi không còn nhớ những chi tiết rõ ràng, tuy nhiên tôi có thể sơ lược như sau:
Nàng là con gái một vị bác sĩ, thầy học của chàng. Chàng là một quân nhân trong quân đội Ðức Quốc thời bấy giờ. Chàng đi nghỉ phép hai tuần, về thăm nhà, thì nhà cửa bị tan nát, gia đình mẹ chàng bị thất lạc. Tìm thầy, thầy đã mất, chỉ gặp con gái của thầy. Hai người gặp nhau trong hoàn cảnh chiến tranh tao loạn, đổ nát vì mưa bom. Trong những hầm trú bom, họ yêu nhau, cưới nhau, sống chung rồi chia tay nhau trong vòng 2 tuần lễ. Trở lại chiến trường, chàng bỏ thây, để lại người vợ vừa mới cưới được hai tuần.

Chưa bao giờ trong đời, tôi đọc một tác phẩm nào hai lần như tôi đã đọc tác phẩm này vì tôi rất thích nó, và tôi không bao giờ ngờ rằng, người phụ dịch ra quyển sách đó lại là anh Sĩ Phú, người bạn yêu quý suốt đời mà tôi đã gặp trên 20 năm sau.

Năm 1973, hình ảnh của Sĩ Phú trong cuốn phim tài liệu Cánh Chim Tự Do (Wings of Freedom) do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện đã làm nổi bật hình ảnh hào hùng của một chiến sĩ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa.

Trong thời gian này, anh có đóng thêm một cuốn phim nữa cũng do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện, nhưng rất ít người biết đến cuốn phim tài liệu này. Tôi không nhớ tên của cuốn phim này.
Ðầu năm 1974, anh chia tay người đàn bà anh sống chung. Anh tâm tình cùng tôi:

- Bỗng nhiên, có một sự thúc đẩy vô cùng mãnh liệt đã đưa anh vượt ra khỏi bùa mê thuốc lú. Anh bắt đầu nhận thức được tất cả. Anh đã thoát ra khỏi một cơn ác mộng. Nhìn lại, anh bàng hoàng hối tiếc quãng đời đã đi qua. Ðó là một kinh nghiệm đau thương mà anh mang canh cánh trong lòng bao nhiêu năm trời.

Với tất cả sự chân thành, anh nói tiếp:
- Nhưng dù sao đi nữa, dù không yêu nhưng anh cũng phải mang ơn người đàn bà này, người đã mang nặng đẻ đau và nuôi nấng các con của anh được nên người.
Thanh niên nam nữ thời bấy giờ đua nhau đi tìm thần tượng nghệ thuật của họ.

Sĩ Phú là một hiện tượng mới lạ thời bấy giờ. Cả một xã hội, một thế hệ đang chao đảo vì cuộc chiến tàn khốc, lòng người chùng xuống, lao đao, bỗng dưng bùng lên một sức sống tươi mát hơn, có ý nghĩa hơn. Tình ca bỗng dưng trở về với vị trí nguyên thủy của chính nó: trong lòng của tất cả mọi con người đang yêu, được yêu và sẽ yêu, vì người lái đò chuyên chở tình ca Sĩ Phú đã mang đến tận con tim của họ những suối nguồn âm nhạc cuồn cuộn bằng giọng hát thiên phú trữ tình bất hủ của anh. Cũng chính giọng hát này, anh đã đem bao hạnh phúc đến cho những người yêu nhau nhưng không diễn tả được bằng lời nói, cũng như xoa dịu bao thương nhớ, đớn đau, xót xa của những người phải xa nhau.
Nhưng Sĩ Phú lúc nào cũng là Sĩ Phú, anh không thay đổi dù rất nổi tiếng. Như một con chim đã bị đạn, anh rụt rè, lo sợ tất cả. Anh nghĩ rằng anh không xứng đáng với ai nữa cả. Hằng ngàn người ái mộ đến với anh, anh đều trốn lánh vì anh nghĩ rằng anh không còn gì để dâng hiến nữa. Một người sống nội tâm như anh, thật khó để quên được quá khứ.

Lúc này cũng là lúc cực thịnh của anh, tên tuổi anh ngày càng lan rộng và thanh niên gia nhập binh chủng Không Quân càng ngày càng đông.
Tuy nổi tiếng, nhưng anh vẫn luôn luôn khiêm nhường.

Với Sĩ Phú, đức tính đó là do thiên phú. Càng nổi tiếng, anh càng khiêm nhường và luôn luôn đi tìm những bạn bè và kỷ niệm cũ. Những ai đã từng làm việc với anh cũng đều đi đến một kết luận, anh là một người chỉ huy, một thuộc cấp rất khả kính, rất dễ thương. Anh được lòng hầu hết tất cả bạn bè, không phân biệt cấp bực và ngôi thứ, anh là bạn của tất cả, và là một người bạn tốt. Một cựu sĩ quan Không Quân đến chia buồn, thăm viếng trong ngày tang lễ của anh đã chia sẻ với tôi như sau:

- Tôi không trách các bà, các cô nào mê Sĩ Phú hết, vì chính chúng tôi là đàn ông, mà chúng tôi còn mê Sĩ Phú, huống hồ gì các cô, vì?..Sĩ Phú rất dễ thương " (Xin lỗi, rất tiếc vì tôi quá bận rộn trong những ngày tang lễ và cũng vô ý không hỏi quý danh của vị sĩ quan này, nhưng cho phép tôi lập lại nguyên văn của ông).

Có rất nhiều thính giả ái mộ đã ào ạt viết thư và tìm đến anh. Nhưng vì đã trải qua một kinh nghiệm chua xót, nên anh chỉ muốn rút vào tổ để tìm sự che chở.

Khi tôi hỏi Sĩ Phú về những cuộc tình trong giai đoạn này, anh nói:
- Anh chẳng có một cuộc tình nào hết vào lúc đó. Có rất nhiều người đã đến với anh, nhưng không có gì phải nói vì đó chỉ là tình cảm cao quý của thính giả dành cho một ca sĩ mà họ yêu thích. Nhưng chính vì thế, mà anh rất trân quý tình cảm này. Anh không bao giờ quên những người đã đến với anh với một tình bạn thật đơn sơ, trong sạch. Còn những người đã đến với anh như những người yêu, dù với bất cứ hình thức nào, bộc lộ bằng lời nói hay âm thầm, anh cầu mong cho họ sẽ có hạnh phúc sau này với người họ yêu, vì anh không thể nào đem đến hạnh phúc cho họ được. Ðôi khi, anh cảm thấy anh chỉ là một con người bình thường mà thôi, bản thân anh, anh không bao giờ nghĩ anh xứng đáng với những tình cảm nồng hậu mà người ta dành cho anh.
Ðã lỡ lầm một lần

Từ đó thật ngại ngùng

Sợ thêm tâm sự đắng...

(Nhớ Một Người - Thanh Bình)

Khi tôi nói với anh là tôi không muốn đi tìm anh ngày ấy vì biết không thể nào với tới anh được. Anh tiếc nuối hỏi tôi:

- Tại sao ngày ấy em không đi tìm anh ? Nếu như có duyên với nhau và có em ngày ấy, thì biết đâu chừng mọi sự việc sẽ khác rất nhiều. Cuộc đời anh có lẽ sẽ không thế nào buồn như ngày hôm nay. Ngọc Lan ơi, where were you when I needed you ?

Một lần khác, anh kể một câu chuyện về một cô gái rất trẻ. Cô có một gương mặt xinh như búp bê, rất dễ thương, thơ ngây và trong sạch. Ngày ấy, cô rất thương Sĩ Phú, cô đi theo anh ở khắp mọi nơi, trên 4 vùng chiến thuật. Nơi nào có sự xuất hiện của anh, là có cô gái đó. Cô nói cô rất yêu mến " chú" Sĩ Phú và tiếng hát của "chú". Cảm tình cô gái ấy dành cho anh rất cao quý, rất đơn sơ, và trong sạch. Cô không màu mè, không săn đón, cô chỉ lặng lẽ có mặt ở những nơi mà anh sẽ đi qua.

Vì trân quý cảm tình của cô gái, anh đã rất đặc biệt lo lắng cho cô và gìn giữ đời cho cô cho đến một ngày cô chia tay.

- Em có tin anh không ? Anh chưa từng bao giờ chạm vào người cô ấy !

- Rồi khi nào thì cô ấy xa anh ?

- Sau 4 năm dài lặng lẽ.

- Bốn năm trời cũng là một thời gian khá lâu. Cô ấy phải quý anh lắm mới âm thầm theo chân anh trên khắp bốn vùng chiến thuật ! Rồi sao nữa anh? Anh có gặp lại cô gái ấy sau này không ?

- Không, nhưng anh nghe nói cô ấy cũng có sang Mỹ và hiện giờ đang ở một tiểu bang miền Ðông Bắc.

- Kỷ niệm đẹp quá, làm sao mà cô ấy có thể quên anh được.

- Anh hy vọng là cô ấy sẽ quên anh mặc dù anh không nghĩ là cô ấy sẽ quên anh. Anh hy vọng hạnh phúc hiện tại của cô sẽ là một phần thưởng an ủi cho cô và cho chính anh nữa.

Ðó, Sĩ Phú là như vậy đó, có những mối tình trong sạch đã đến với anh, nhưng thà để cho qua đi, vì, đối với anh, nếu không gần nhau được, thì xin hãy giữ gìn cho nhau.

Trong ngày lễ cầu siêu 49 ngày cho anh ở chùa Liên Hoa, tôi được một người bạn Không Quân rất thân với anh là KQ Nguyễn Hồng Vân kể lại chuyện cô gái này với tôi như nhắc lại một trong những nghĩa cử cao đẹp của Sĩ Phú. Từ những gì anh Hồng Vân nói ra, tôi thấy những gì anh Sĩ Phú nói về cô đều đúng, không thêm, không bớt.

Tôi rất trân trọng tình cảm cô đã dành cho Sĩ Phú, một tình cảm đẹp tuyệt vời. Tôi biết rõ hơn ai hết, cô sẽ không bao giờ quên được Sĩ Phú, người tình trong mộng đầu đời của cô, vì cũng như cô, tôi không bao giờ có thể quên được Sĩ Phú, người bạn tri kỷ cuối đời của tôi.

Tôi xin thay mặt cô, thắp cho anh Sĩ Phú một nén hương để tưởng niệm và vĩnh biệt người bạn lòng năm cũ của cô.

** Không Quân Nguyễn Sĩ Phú, đó là một cách xưng hô về một người quân nhân trong binh chủng Không Quân.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, ổi xanh

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Aug 2008

Chương Bốn
Theo Vận Nước Nổi Trôi

Tháng Tư năm 1975, bố của anh bị bệnh nặng, trong hoàn cảnh chiến tranh hỗn loạn tơi bời của những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, ông cụ qua đời và được mẹ con anh chôn cất ngày 24 tháng 4 năm 1975. Hơn một tuần lễ trước ngày mất nước, chị Phúc từ bên Mỹ về Việt Nam để đem gia đình mẹ anh về Mỹ cùng chị. Chị giục anh Phú ra đi, nhưng anh không chịu và nói rằng:

- Ðất nước còn, quân đội còn, em không thể nào bỏ nước bỏ bạn bè quân ngũ ra đi được chị à !

Anh chọn ở lại cho đến giờ phút cuối. Anh Bảo khuyên anh nên ra đi vì anh là một sĩ quan Không Quân, hơn nữa lại ở trong khối Cổ Ðộng Tuyên Truyền, anh có thể bị tù tội nếu ở lại. Còn anh Bảo là một nhà giáo, là dân sự, không sợ bị tù tội. Thêm nữa, Bố mới mất, vì quyến luyến, anh Bảo muốn ở lại để trông lo mồ mả cho Bố anh. Nhưng một lần nữa, Sĩ Phú lại từ chối. Tuy vậy, anh đã van xin mẹ của 3 đứa con anh cho chúng được ra đi theo chị Phúc, nhưng bà nhất định từ chối, không cho các con ra đi.

Chiều ngày 29-4, vận nước đảo điên, biết là không còn cách gì để cứu vãn nữa, anh đau đớn vào thăm mộ bố anh và quỳ lạy, khóc thương:

- Cậu ơi, con phải làm gì bây giờ, sống khôn thác thiêng, xin Cậu về cho con biết con phải làm gì và đi về đâu.

Anh thắp một nén hương cuối cùng trước mồ rồi thất thểu ra đi. Một sĩ quan Không Quân Mỹ bạn của anh bất chợt gặp anh ở giữa đường, chạy chậm xe lại kè sát theo xe anh, nói to:

- Phú, ông đi đâu đó, sao không đi vào phi trường ?

Anh chạy xe chậm lại lắc đầu, người bạn lại giục:

- Phú ơi, ông đi với tôi, nhanh lên !

Vị sĩ quan Mỹ ngừng xe jeep lại, chạy xuống lôi anh lên xe của ông và nhắm hướng phi truờng Tân Sơn Nhất.

Vừa vào đến phi trường, anh thấy 1 chiếc máy bay trực thăng đang sắp sửa cất cánh, một người sĩ quan Mỹ khác vốn đã quen biết từ trước vừa trông thấy anh, từ trên máy bay vội chạy xuống kéo ùa anh và người bạn vào máy bay và ra lệnh cất cánh.

Ðó là chuyến máy bay quân sự cuối cùng rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất lúc 6 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975.

Chiếc trực thăng chở anh ra Ðệ Thất Hạm Ðội của Hoa Kỳ đang trực ngoài khơi miền Nam Việt Nam. Khi nhìn các quân nhân Hoa Kỳ để cho chiếc trực thăng đó và nhiều chiếc khác rơi tỏm vào lòng đại dương, anh biết, It's over.

Ðã hết, hết tất cả.

Cả một lịch sử oai hùng, những chiến thắng vinh quang, quê hương rạng rỡ, dân tộc kiêu hùng, những anh linh, những hào khí. Tất cả, đã trở thành lịch sử. Anh bật khóc, anh khóc thật nhiều, cho quê hương, cho dân tộc, cho bao nhiêu chiến sĩ anh dũng trong đó có cả các bạn bè yêu dấu của anh đã nằm xuống để cho anh và chúng ta được sống, được thở, được nhìn thấy bến bờ tự do... anh khóc vì tình yêu quê hương, dân tộc vô bờ bến trong anh...

Trời ơi ! Ba đứa con anh, chúng đâu rồi, con anh đâu rồi ?

Nỗi thương nhớ quê hương, nỗi buồn vì nhớ các con ở lại, đã làm anh khóc thật nhiều ngày ấy.

Nước non ngàn dậm ơ ...ra đi...

Nước non ngàn dậm ơ ...ra đi...

Anh khóc nhiều đến nỗi mắt anh bị lòa hơn một tháng trời. Một bác sĩ quân y Mỹ đã tận tụy cứu chữa cho anh và hỏi cớ sự nào anh khóc đến nỗi bị lòa, họ hỏi về con anh, chúng nó tên gì, anh cũng không còn nhớ nữa. Anh đã bị lòa và mất trí hơn một tháng trời.

Anh tâm sự với tôi:

- Cái hận mất nước, cái đau đớn của người quân nhân đã phục vụ dưới bóng cờ chính nghĩa, giờ thành kẻ chiến bại, mất nước, bỏ dân tộc, quê hương, bạn bè ra đi thật là đau đớn vô cùng. Anh thấy anh đau hơn cái đau mất con mà anh đã phải chịu đựng lúc đó.

Tôi biết anh là một người ái quốc, một sĩ quan trung trực trong binh chủng Không Quân,một binh chủng ưu tú của quân đội VNCH. Anh yêu dân tộc, yêu quê hương đậm đà và tha thiết như yêu một người tình. Anh quyến luyến mảnh đất nghèo nàn nhưng rất giàu tình người này. Anh tình nguyện gia nhập vào quân đội với một ý định phục vụ quê hương, dân tộc. Anh đã kêu gọi các từng lớp thanh niên gia nhập quân đội để phục vụ cho màu cờ sắc áo, cho chính nghĩa của quốc gia.

Giờ đây, người chiến sĩ anh dũng năm xưa đã phải bôn ba lưu lạc nơi xứ người, xa quê hương yêu dấu, bỏ lại sau lưng một lịch sử oai hùng đã được tạo nên bằng xương máu của các bạn bè thân yêu của anh và một dân tộc bất khuất đang oằn oại đau thương... thì bảo sao anh không buồn.

Mãi hơn một tháng sau, anh mới bắt đầu nhìn thấy sự vật trở lại, và trí nhớ bắt đầu phục hồi. Anh đã được đưa về căn cứ Fort Chaffee, Arkansas. Anh không nói nhiều về những ngày tháng tại đây với tôi ngoài một vài kỷ niệm rất đẹp với những thính giả ái mộ. Rời Fort Chaffee, anh đi về miền California nắng ấm.

Anh được một người bạn quen trong gia đình bên chồng chị Phúc bảo lãnh anh về San Jose, miền Bắc California. Nhưng chỉ một tuần sau, anh bỏ về thành phố San Diego ở miền Nam California. Năm đầu tiên tạm trú ở San Diego, anh đã gặp và sống với một số anh chị em sinh viên. Họ rất yêu quý anh và rất thân với anh. Cũng dễ hiểu thôi, anh là một người đàn ông rất giản dị, rất đơn sơ, thật cởi mở, thích khôi hài, dí dỏm, bạn bè ở đây có mến anh thì cũng không có gì lạ cả.

Tạm quên đi cái đau lòng vì phải xa con, xa bạn bè, xa quê hương yêu dấu, anh bắt đầu đi học lại ở một đại học và một trường dạy nghề. Sau đó tốt nghiệp Kỹ sư Viễn Thông và làm việc cho một hãng Mỹ. Hoạt động văn nghệ lai rai, anh được rất nhiều bầu show ngày ấy mời anh đi trình diễn hầu hết Âu Châu và ở những quốc gia có nhiều người Việt tị nạn.

Trong những chuyến đi trình diễn, anh quen với một người đàn bà tôi xin gọi là Kim Uyên, một ca sĩ trong một ban nhạc nữ của Sài Gòn ngày xưa. Vì cảm kích lòng hiếu thảo, thương mẹ, thương anh chị em của cô, anh đem lòng yêu mến vì nghĩ rằng một người con hiếu thảo như vậy có lẽ sẽ là một người vợ hiền, vợ tốt. Cuối cùng, anh về sống chung chính thức với cô đựơc 5 năm từ năm 1978 cho đến năm 1983.

Tôi hỏi anh có làm hôn thú với cô không, anh trả lời:

- Không, nhưng đó không phải là do ý anh. Anh chưa từng bao giờ được cái may mắn để làm hôn thú với người đàn bà anh yêu.

Anh tâm tình với tôi rất nhiều về cuộc chung sống kém hạnh phúc này, nhưng tôi thiết tưởng không cần phải viết lên đây tất cả. Tôi chỉ muốn nói sơ qua về một vài tâm tình của anh mà thôi.

Cô đã có một đứa con riêng khi về với anh, lúc bấy giờ cậu bé còn rất nhỏ. Trời sinh anh ra để thương con nít. Anh thương yêu cậu bé vô cùng, lúc cậu còn nhỏ, anh nói, anh hay để cậu ở trên vai anh, và bồng cậu bé đi chơi khắp nơi. Anh săn sóc cậu không khác gì con ruột của mình. Sau này khi lớn lên, cậu rất hãnh diện về anh, người cha kế đứng đắn đàng hoàng của cậu. Còn về Kim Uyên, bao nhiêu tình yêu trong đời của cô, cô dành hết cho đứa bé này. Nó là lẽ sống của đời cô. Theo như nhận xét của riêng tôi, sau này khi gặp cô, tôi biết cô là mẫu người đàn bà chẳng thà bỏ chồng chứ không bỏ con hay anh chị em mẹ cha.

Cô có phước lớn khi có một người chồng rất tiến bộ, văn minh như Sĩ Phú biết thương con riêng của vợ như con ruột, một người đàn ông rất rộng lượng bao dung, và chỉ mong có một mái ấm gia đình bình thường mà thôi. Ðáng tiếc thay, cô đã để hạnh phúc rất quý giá này rơi khỏi tầm tay. Anh ngậm ngùi kể:

- Anh lúc nào cũng là cái bóng bên đường và chỉ là một vật trang điểm cho cuộc đời cô ấy mà thôi. Anh không bao giờ được cái hân hạnh đi trên con đường chính với cô ấy, vì tình thương cô dành cho gia đình quá mãnh liệt nên hình như không còn nhớ rằng mình còn một người chồng là anh. Nhưng anh không bao giờ ganh ghét, anh rất thương yêu gia đình họ và nhất là bà mẹ và đứa con của cô ấy. Anh chỉ mong được một chút chăm sóc, chút để ý từ người vợ mà thôi, chứ anh không bao giờ muốn tách rời họ.

Một đòi hỏi như thế không có gì quá đáng từ một người chồng, có thể nói là quá khiêm nhượng, quá nhân đạo nữa là khác. Một trong những đức tính tốt nhất của Sĩ Phú là không bao giờ nói xấu người thứ ba. Anh rất kỵ nói sau lưng người thứ ba. Ði đâu và làm gì, ai nói xấu người thứ ba vắng mặt là anh bỏ đi liền. Anh không bao giờ đặt điều, luôn luôn tôn trọng sự thật, và rất thật thà, anh thật thà đến nỗi đôi khi tôi phải kêu trời vì ngượng. Nhưng để anh phải nói lên những lời than thở như vậy thì sự việc phải quá lắm rồi !

Ai lấy chồng lấy vợ mà không mong muốn một hạnh phúc lứa đôi ? Ai mà không mong đợi một mái ấm gia đình ? Nhưng mái ấm chắc chắn không phải là đây.

Khi tôi hỏi anh về sự ăn uống:

- Anh ăn uống có dễ dàng không? Chắc chị ấy nấu ăn ngon lắm ?

- Anh ăn uống rất dễ.

Và anh tâm sự:

- Em có biết không? Trong suốt 5 năm sống chung, món ăn duy nhất của gia đình anh là một đĩa đồ xào ! Ngày nào cũng một đĩa đồ xào y hệt như ngày hôm trước.

Tôi kêu lên, không tin:

- Hả, anh nói cái gì ? Thật không anh ? Trời đất ơi, làm sao mà chịu nổi ? Ăn hoài không chán sao?

- Anh nói thật, ăn mãi rồi đâm ra ngán. Chính vì vậy mà anh xuống bếp tự nấu thức ăn cho anh.

Sĩ Phú nấu ăn rất ngon. Ngon không ngờ được.

Anh có một cái khẩu vị rất đặc biệt, anh là người biết thưởng ngoạn món ăn ngon mặc dù anh ăn uống rất đơn sơ.

- Nếu phải đặt ra tiêu chuẩn món này phải như thế này, món kia phải như thế kia, thì anh rất khó. Nhưng nếu chỉ ăn để mà ăn và đừng đặt tiêu chuẩn gì hết, thì anh rất dễ, cái gì anh ăn cũng được.

Sự thật là y như vậy.

Nồi canh chua tôm anh nấu cho tôi ăn lần đầu tiên trong đời, đến chết tôi sẽ không bao giờ quên. Mặn, ngọt, chua, cay, thơm phức mùi tôm tươi và một chút húng quế, một chút chanh vắt vào, một chút củ hành tây cho ngọt, một chút ớt cay cay ... hương vị lạ tuyệt vời...

Tôi vừa ăn vừa hít hà, và khen tặng anh hết lời. Tôi chưa bao giờ cảm thấy ngon như vậy. Tôi nhớ mãi không thôi.

Sau đám tang của anh, cô Kim Uyên có gọi cho tôi một lần để tâm tình, kể lể, khi tôi thẳng thắn cho cô biết về những lời than thở này của anh về sự đối xử của cô, cô không chối, nhưng cô cười và cho tôi biết là cô cũng yêu anh ấy lắm chứ và cũng lo cho anh ấy lắm.

Trong thời gian chung sống với cô, anh có đem theo mẹ anh và một đứa cháu trai gọi anh bằng chú, về nương náu một thời gian. Bà cụ ở với chị Phúc bên tiểu bang Virginia từ năm 1975, nay nghe tin con mình đã tạm ổn định, nên đòi qua California để được ở gần anh là đứa con yêu quý của bà. Hai mẹ con rất mực yêu thương nhau, bà săn sóc cho anh rất nhiều những khi anh bệnh hoạn đau ốm hay cơm nước cho anh khi anh đi làm về. Bà yêu quý anh như cái thuở anh vẫn còn là cậu bé Tí Tò của mẹ. Vì là một người đàn bà có học thức, bà rất thương yêu và quý mến con dâu.

Nhưng gia đình vẫn lục đục, cơm không lành, canh không ngọt đã khiến bà cụ và đứa cháu trai dọn ra. Anh đau khổ cũng vì nhịn nhục hơi nhiều và một phần vì anh quá hiền, không muốn gia đình bị xào xáo thêm. Anh là người đàn ông sống bằng tình cảm, là một người con hiếu, nên sự việc không lo cho mẹ được trong lúc tuổi già đã là một sự hối hận vô cùng trong anh. Vì thế nên anh đã tâm sự với tôi rất nhiều về giai đoạn này để trút hết những ưu phiền anh đã mang quá lâu mà không có người để tâm sự.

- Em là người đàn bà duy nhất, đầu tiên trong đời mà anh tâm sự. Chưa bao giờ anh có dịp tâm sự với bất cứ ai trong đời anh.

Từ khi tâm sự được trút bỏ, anh có vẻ vui hơn và những khoắc khoải, băn khoăn bứt rứt ban đầu cũng lắng dịu hẳn đi. Hình như sự tìm được một nơi chốn nương tựa tinh thần đã làm anh cảm thấy thoải mái hơn, vui sống hơn vì anh biết từ đây, sẽ có một Ngọc Lan luôn luôn ở bên anh để chia sẻ những vui buồn.

Năm 1983, một tai biến xảy ra. Ðứa con gái chưa đầy 5 tuổi của anh và Kim Uyên, theo như lời anh kể, đẹp như một thiên thần, có thiên tài về âm nhạc, qua đời sau một giấc ngủ từ nửa đêm vì một lý do mà theo giải thích, có lẽ cháu đã bị té trong trường học trước đó, gây thương tích trong não.

Sau cái chết của đứa con thân yêu mà anh đã trút hết bao yêu thương vào đó, hạnh phúc lứa đôi đổ vỡ hoàn toàn và không thể nào hàn gắn được, anh ra đi mang theo một nỗi buồn thấm thía.

- Bạn bè của anh, đứa nào hiểu được hoàn cảnh gia đình của anh cũng đều có chung một kết luận. Họ bảo Con gái của anh là một thiên thần được bề trên đưa xuống trần gian để làm một sợi dây nối liền giữa anh và bà Kim Uyên và để hàn gắn những đổ vỡ giữa anh và bà ấy, nhưng vì không làm thành sứ mạng đó, nên cháu nó đã bỏ trở về trên ấy ".

Năm 1983, anh theo hãng Intech Incorporated, chuyển lên thành phố Santa Clara ở miền Bắc California để làm việc. Anh là một kỹ sư được hãng rất trọng dụng. Họ quý mến anh vì anh là một chuyên viên kỳ cựu của họ. Họ bằng lòng dọn lên Santa Clara để gia nhập với hãng chính của họ với một điều kiện là 5 kỹ sư gạo cội của họ phải được tăng lương và di chuyển theo họ. Anh Sĩ Phú là một trong 5 người đó. Anh chọn thành phố San Jose làm nơi tạm dung cho anh.

Họ làm giấy tờ đưa anh sang Ðài Loan để huấn luyện các nhân viên của hãng bên đó, nhưng việc xin giấy thông hành cho anh bị gặp trở ngại, cho nên họ phải gửi kỹ sư Ðài Loan qua Hoa Kỳ để thụ huấn với anh. Anh rất tích cực, tha thiết với công việc, xem việc sở như việc nhà của mình. Anh làm việc rất có lương tâm và đứng đắn.

Anh kể:

- Có nhiều đêm anh ở lại sở làm thật khuya, mưa gió bão bùng mà anh cũng phải đi ra ngoài và leo lên nóc của các tòa nhà cao để thử nghiệm (testing) những dữ kiện, những công việc anh vừa mới tạo thành. Người Mỹ rất nể anh và lúc nào họ cũng nhìn anh bằng một cặp mắt quý mến lẫn thán phục.

Nhưng từ ngày đứa con gái yêu quý qua đời, anh đau đớn, cô đơn và chán chường, anh bỏ việc, bỏ ca hát, buông lỏng tất cả, nhưng không buông thả. Anh sống âm thầm một mình để tìm lại với chính bản thân mình, tâm hồn mình, những gì đã bị đánh mất.

Ngày xưa, khi nghe anh kể đến đây, tôi không thể nào tưởng tượng được nỗi buồn của một người mất mát một nguời thân như thế nào. Tôi biết sự mất mát nào cũng đều rất lớn lao, nhất là mất một đứa con mà anh rất yêu thương. Nhưng tôi lại trách anh tại sao lại phải nghỉ việc làm, sao không cố gắng lên để chiến đấu với cuộc đời. Bây giờ khi chính tôi mất anh, chỉ có tôi mới biết được sự mất mát này lớn lao biết là dường nào. Cho đến bây giờ, tôi cũng không thể không nghĩ đến anh trong giây lát. Ở đâu và làm gì, tôi cũng nghĩ đến anh, hình bóng của anh ở mọi nơi, nhìn đâu tôi cũng thấy anh, tôi ngồi làm việc mà cũng nghĩ đến anh, khi tôi lái xe tôi cũng nghĩ đến anh. Tôi nghĩ về anh rất nhiều, nhiều đến nỗi tôi không còn tha thiết gì nữa cả, tôi muốn nghỉ việc, tôi muốn bỏ tất cả để được ra đi cùng anh.

Dù tôi đã được các sư huynh của tôi dạy dỗ về tâm linh, về sự vô thường của cõi đời tạm bợ này, có sinh ắt phải có tử, con người ai ai rồi cũng lần lượt ra đi, nhưng tôi vẫn buồn. Dù tôi biết cái chết chỉ là một sự thay đổi như thay đổi một cái áo, từ cõi này, ta thay một cái áo, khoác lên mình chiếc áo kia, để đi về một cõi khác. Linh hồn người chết sẽ được hướng dẫn về thiên đường, nơi có những cảnh bồng lai non nước cực lạc vĩnh viễn.

Nhưng tôi vẫn buồn.

Tôi buồn vì anh không còn bằng xương bằng thịt với tôi nữa. Tôi buồn vì không còn nhìn được nụ cười hiền hậu của anh nữa. Tôi buồn vì anh không còn ở bên tôi để chia sẻ với tôi những vui buồn trần thế nữa. Tôi buồn vì tôi chỉ còn có thể ôm lấy bức hình trên bàn thờ anh mà thôi. Tôi còn buồn vì tôi còn vô minh, chưa giác ngộ để biết rằng, anh đã vào thiên đàng rồi, tôi nên mừng cho anh hơn là buồn. Cái đau khổ nhất của tôi là đã không làm nhiều hơn cho anh khi anh còn sống.

Tôi ước gì anh đã có thể kéo dài cuộc sống để tôi có thể săn sóc cho anh nhiều hơn nữa, dù cho bao nhiêu năm tháng cực khổ, tôi cũng rất vui lòng.

Vì anh, một người tôi vô cùng khâm phục, rất xứng đáng để được hưởng tất cả những gì tốt đẹp nhất trên trần thế này. Sự lo lắng chăm sóc của tôi cho anh sau này thật là nhỏ nhoi không đáng gì, so với con người đáng được kính trọng của anh.

Vài tuần lễ đầu theo hãng dời lên San Jose, anh về thăm nhà mỗi tuần, rồi 2 tuần một lần, sau đó 3 tuần anh về một lần, rồi một tháng một lần, sau đó anh không về nữa vì, thật ra, anh và Kim Uyên không bị ràng buộc vì không có hôn thú. Tình yêu thì đã hết từ lâu, có chăng thì chỉ còn đứa bé để cứu vãn hạnh phúc. Nay con anh đã ra đi, ly dị không còn là vấn đề nữa. Sau cùng cuộc tình giữa anh và Kim Uyên có thể xem như đã chấm dứt vào cuối năm 1983.

Anh ra đi với hai bàn tay trắng. Theo lời yêu cầu của cô, anh để lại tất cả tài sản của anh cho cô, luôn cả một căn nhà lầu 3 từng rất đẹp ở khu vùng biển Venice, gần Santa Monica và một apartment gồm có 8 căn ở Los Angeles.

Anh đã tâm tình với tôi:

- Ðối với anh, nhà cửa không thành vấn đề. Ðâu anh cũng ở được hết. Anh muốn cô Kim Uyên có một nơi chốn đàng hoàng, chắc chắn để nuôi dưỡng đứa con của cô nên người.

Tuy xa nhau, anh vẫn xem cô là một người bạn và một năm vài lần thăm viếng cô cho mãi đến sau này khi bị bệnh, anh không còn đi thăm cô được nữa. Cũng theo lời anh, cô Kim Uyên muốn mọi người vẫn nghĩ cô là vợ của nam danh ca Sĩ Phú, cô không muốn mọi người biết là Sĩ Phú đã xa cô. Anh chiều cô, có ai hỏi anh vẫn là chồng cô, anh đành phải miễn cưỡng gật đầu. Kỳ thật, trong 15 năm Sĩ Phú cư ngụ ở San Jose, hình như cô chưa bao giờ lên thăm viếng anh, dù một lần.

Khi đứa con trai riêng của cô tốt nghiệp Trung Học, anh về thăm hai mẹ con và mua tặng cho cậu một cái xe hơi mới tinh để làm quà ra trường vì anh rất thương yêu cậu. Trong thời gian anh sống với tôi, anh luôn luôn khen ngợi cậu con trai của cô và rất hãnh diện về cậu.

Tôi thán phục tấm lòng rộng lượng của anh đối với hai mẹ con cô Kim Uyên nhưng trách anh quá mềm yếu không nói thẳng với cô là anh đã dứt khoát với cô vào năm 1983, để đường ai nấy đi cho xong, không ai bận bịu vì ai nữa. Kéo dài thêm thì nào có lợi gì đâu khi mà tình yêu không còn nữa, mà lại làm đau lòng cho cả hai. Anh trả lời với tôi như thế này:

- Chẳng thà người ta phụ anh, nhưng anh không phụ ai cả. Dù có xa nhau nhưng anh và bà ấy vẫn xem nhau như bạn, anh đi về thăm hai mẹ con của bà ấy rất thường. Em biết không, mãi cho đến đầu thập niên 90, anh và bà ấy vẫn còn khai thuế lợi tức chung mặc dù đã sống xa nhau rất lâu. Vì dù sao đi nữa, chúng anh vẫn còn sợi giây liên lạc là đứa con gái đã mất rồi.

- Anh quả thật là một người đàn ông khác thường. Em chỉ sợ người đàn bà sau này của anh sẽ buồn...vì anh không dứt khoát được. Anh sống về tình cảm nhiều quá.

- Anh biết anh thiếu sự cương quyết, đó là nhược điểm lớn của anh. Nhưng anh không muốn bà ấy đau lòng....

Rồi anh kể tiếp:

- Cũng may cho anh lắm, công ty của anh chuyển lên San Jose, anh đi theo họ, chứ nếu không thì giờ này chắc anh vẫn còn ở với bà ấy vì anh chỉ muốn yên phận cho nó xong.

Tôi kêu lên:

- Trời đất ơi, em hy vọng là anh nói chơi cho vui thôi. Nhưng nghe giọng nói của anh, em không nghĩ là anh nói chơi.

Rồi tôi một lần nữa, lại kêu trời:

- Anh Phú ơi, anh sống vì trái tim quá nhiều, nhiều đến nỗi anh không muốn sử dụng lý trí. Anh sợ làm đau lòng người ta, anh không muốn phụ ai nên chịu đựng cả đời. Em rất tiếc cho anh vì anh đã phí đi cái tuổi đẹp nhất của một đời người !

Anh vội nói:

- Em à, cô ấy cũng đã phí đi cái tuổi thanh xuân của cô ấy cho anh vậy ! Chứ cô ấy nào có vui sướng gì đâu ? Chẳng qua là anh không may mắn đi trọn đường đời với cô ấy vì tình duyên chỉ bấy nhiêu thôi !

Chân thành, anh nói tiếp :

- Cô ấy đã mang nặng đẻ đau cho anh một đứa con gái đẹp tuyệt vời. Anh không bao giờ quên ơn đó của cô ta.

- Bây giờ thì em còn hiểu anh hơn nữa. Em thán phục anh, anh là một người đàn ông rất rộng lượng !

Chị Phúc tâm sự với tôi sau này:

- Lan có để ý đến bàn tay của Phú không ? Những ngón tay của Phú rất dài và bàn tay thì rất mềm, chứng tỏ Phú là người đàn ông sống rất nhiều bằng tình cảm, bằng nội tâm, và thường những người như vậy, đôi khi họ có khuynh hướng thiếu sự cương quyết về phương diện tình cảm.

Khi tôi gặp cô Kim Uyên lần đầu tiên sau khi anh thọ bệnh, cô khoe với tôi cô là vợ của Sĩ Phú gần hai mươi năm. Tôi chỉ yên lặng ghi nhận, không nói gì. Vì sự thật, tôi đã được biết từ lâu. Nhưng về sau, khi cô nhắc lại nhiều lần nữa, tôi mới phải nói với cô rằng:

- Nếu anh ấy ở với chị gần hai mươi năm, vậy thì còn thời giờ đâu cho cô Châu mấy năm và 5 năm với Ngọc Lan ?

Ðối với tôi, mọi sự việc trên đời này cần phải có một tấm lòng. Tấm lòng tốt làm nên tất cả mọi việc. Hai mươi, hay ba mươi năm cũng không là gì hết nếu không có một tình yêu chân thật, một sự cảm thông sâu xa với người phối ngẫu và một tấm lòng biết hy sinh, tận tụy của một người vợ hiền.

Tôi đã nói với cô sau tang lễ của anh Sĩ Phú như thế này:

- Anh Sĩ Phú rất là đàng hoàng và tử tế. Anh là một người đàn ông biết điều, rộng lượng, ăn ở rất có tình có nghĩa, lại rất chiều chuộng đàn bà. Trong thời gian bệnh hoạn, vì đau đớn thân xác, mọi việc đối với anh đều rất khó khăn mà tôi vẫn yêu quý thán phục con người anh ấy, và rất sẵn sàng chăm sóc anh ấy bao nhiêu năm nữa cũng được, thì tại sao khi anh ấy còn bên chị, còn ca hay hát giỏi, còn đẹp trai, còn nổi tiếng, còn sức khỏe, còn tất cả mà chị không giữ được anh ấy ? Tôi nghĩ đó là lỗi của chị, lỗi của người đàn bà. Ðôi khi vì quá ích kỷ, mà chị không thấy được cái đẹp cái tốt của người chồng mình. Một người chồng quá hoàn hảo tuyệt vời như vậy, làm sao chị có thể tìm được một người nào khác trên đời này nữa?
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, ổi xanh, longha

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby conganhthuc » 21 Aug 2008

Cám ơn bài viết về thần tượng cũa em, cAt hong kết bài Cô Láng Giềng., chỉ thích nge Đường xa ướt mưa và bài gì cũa Đức Huy ông hát bằng giọng mũi rất hay à nhớ rồi " Và tôi cũng yêu em "

:tốt: :hoa: :đàn:
User avatar
conganhthuc
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $33,622
Posts: 1851
Joined: 20 May 2007
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng conganhthuc từ: hoatimxua

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 23 Aug 2008

Chương Năm
Anh Vẫn Còn Cô Ðơn

Vào khoảng 1987-1988, anh có dịp quen biết một người đàn bà có tên là VNC mà tôi xin gọi là cô Châu, mà theo lời anh, và theo nhận xét của tôi, anh rất yêu quý người đàn bà này.

Cô Châu là một người đàn bà có học, cô du học tại Mỹ trước năm 1975, cô rất đẹp, quý phái, thông minh và rất có nhân cách, cô lại hay làm việc từ thiện và rất thương người. Ðây là mẫu người đàn bà lý tưởng mà anh mong đợi. Cô sinh sống và làm việc trên San Francisco. Anh yêu quý cô ở chỗ cô là một người đàn bà rộng lượng và hiền lành. Cô rất yêu thương các em của cô còn ở lại Việt Nam và lo lắng giúp đỡ họ đủ điều.

Cảm ơn Thượng Ðế, cảm ơn cô Châu, tôi mừng cho anh, cô yêu anh đủ để lo lắng săn sóc anh và đời sống tinh thần của anh . Anh tâm tình với tôi về cô cũng khá nhiều, luôn luôn lúc nào cũng nói những lời rất đẹp về người đàn bà này. Anh quen biết cô khoảng trên 2 năm trước khi anh chung sống cùng cô.

Năm 1987 anh cho ra đời băng nhạc Có Tình Nào Không Phai, băng nhạc đầu tiên của anh tại hải ngoại. Băng nhạc này đã được anh thu âm lâu lắm rồi, khoảng năm 1984 hay 1985 gì đó, nhưng rồi vì chán nản, anh bỏ ca, bỏ hát, anh muốn cho nó ra đời cho xong để giã từ sân khấu. Trung tâm DX bấy giờ đang trong thời kỳ phôi thai, rất muốn mua lại băng nhạc này của anh. Vì tình bạn, anh nhượng lại băng nhạc ấy để cho trung tâm này khai thác mà vài năm sau đó họ trả cho anh một cái giá rất ư là khiêm nhượng không đầy phân nửa cái vốn mà anh đã bỏ ra. Bây giờ khi viết những dòng chữ này, tôi bỗng cảm thấy thương người nghệ sĩ vô cùng. Họ đã bỏ ra bao nhiêu công sức, của cải, và với tất cả sự tha thiết chân thành nhất của người nghệ sĩ , để hoàn thành những tác phẩm nghệ thuật giá trị cho người, cho đời, để rồi, cuối cùng thu lại những cái vặt vãnh không đáng gì. Sự an ủi quý báu nhất cho họ là, bằng cách nào đó, tiếng hát của họ được đi xa hơn, họ gần gũi với thính giả hơn, và sự thương yêu của thính giả dành cho họ.

Tạm xa lìa thế giới âm nhạc, anh đi tìm một cuộc sống riêng tư, đơn giản và âm thầm.

Nhưng cô Châu là một người đàn bà tháo vát, thích làm ăn, thích mạo hiểm, nên chiều ý cô, anh và cô cùng mở một nhà hàng khá sang trọng trên San Francisco. Lúc đầu theo anh thì công việc làm ăn rất khấm khá, có một dạo anh rất giàu. Nhưng vài năm sau, vì những hoàn cảnh bất lợi xảy ra, mà vụ động đất lớn ở San Francisco là một trong những nguyên nhân, nhà hàng thua lỗ, anh phải đóng cửa.

Vợ chồng anh thu gọn lại, dọn về Fremont, mướn một căn nhà ở vùng ngoại ô để ở. Ngôi nhà mà cũng là tổ ấm của họ đầy những cây cối, chim chóc và thú vật. Anh rất mê thú vật và chim chóc, anh có hàng trăm những con chim hiếm quý, một số chó mèo. Anh cũng có khoảng vài cặp đà điểu (ostric) mà theo anh, thời bấy giờ chúng trị giá trên dưới vài chục đến một trăm ngàn đô la. Anh đọc sách rất nhiều về chim chóc, thú vật nhất là về chó và mèo nên kiến thức về chúng anh hiểu rất sâu rộng.

Cô Châu, người bạn đường của anh lúc ấy, chán nản vì công việc làm ăn thua lỗ, bắt đầu đi về Việt Nam khoảng năm 1990, 1991. Cô về Việt Nam để xây nhà cửa cho các em cô, và cho chính cô cùng với anh. Cô định xây một căn nhà đơn sơ nho nhỏ mà theo lẽ sẽ là nơi họ sẽ về dưỡng già khi về hưu. Anh Sĩ Phú đã giúp cô vẽ họa đồ thiết kế cho căn nhà ấy. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi quá nhanh, vì các người em và những người thân thuộc của cô ở Việt Nam phụ giúp thêm ý kiến, cô lần lần thay đổi ý định, biến ngôi nhà đơn sơ thành một tòa nhà vĩ đại. Anh Sĩ Phú lại phải một lần nữa vẽ lại họa đồ cho tòa nhà này. Anh tâm tình với tôi:

- Căn nhà không còn là của anh nữa, vì anh là người rất đơn sơ, anh thích cái gì cũng đơn sơ và giản dị, tòa lâu đài này không phải là anh, và không cho anh nữa.

Tuy nhiên, vì anh là người vẽ lối kiến trúc cho ngôi nhà này, nên anh thuộc làu từng góc, từng cạnh, từng nơi chốn của ngôi nhà và từng viên gạch đặt trong ngôi nhà ấy. Anh có chụp rất nhiều bức hình về ngôi nhà này và có cho tôi xem. Ðấy là một tòa nhà khá đẹp ở bề ngoài vì có những tháp cao và nhọn, kiểu cách mới lạ. Khi tôi chê lối bày biện trong nhà đầy màu sắc rực rỡ, diêm dúa và thiếu mỹ thuật, anh đồng ý với tôi:

- Em nói đúng, nó diêm dúa thật. Chính anh cũng thấy như vậy. Vì thế cho nên anh không cảm thấy thoải mái chút nào về ngôi nhà này.

Căn nhà này tọa lạc ở Hốc Môn, và cho mãi đến ngày hôm nay được các du khách và chính quyền địa phương cho là tòa nhà đẹp nhất Sàigòn nếu chỉ nhìn phía bên ngoài mà thôi.

Nhưng oái oăm thay, có nhà mà như không nhà, khi Sĩ Phú về Việt Nam thăm viếng con cái, anh đã không ở lại đây, vì như anh đã nói, tòa nhà này không phải cho anh. Và cũng vì muốn tránh người mẹ của các con anh, nên anh ở chung với gia đình của một người bạn thân.

Mười chín ngày trước khi anh lìa đời, cô Châu muốn khoe với tôi nhà đẹp của cô, nên có gửi cho anh một lá thư và một quyển album nhỏ, trong có các hình ảnh đẹp về tòa nhà lộng lẫy của cô.

Tôi hỏi anh:

- Anh có muốn xem thư và quyển album này hay không cưng ?

Anh trả lời:

- Không, anh không muốn xem. Anh không thích nhà đẹp lộng lẫy, anh là một người giản dị, anh thích cái gì cũng giản dị. Ðối với anh, nơi nào có trái tim anh ngự trị, nơi ấy sẽ là nhà anh. Ngọc Lan à, em hãy hứa với anh , là em sẽ bỏ cuốn album này đi, em nhé !

Cô Châu đi về Việt Nam rất nhiều lần. Cô đem tất cả các giống chim quý của anh về VN để nuôi trong ngôi nhà mới đẹp của cô. Cô xây những chuồng, lồng và nhà rất sang trọng cho chúng ở.

Ở bên đây bờ đại dương, Sĩ Phú lại một lần nữa bơ vơ đơn độc, trong thời gian cô thu dọn về Việt Nam, anh dọn nhà về vùng Sunnyvale, một thành phố xinh xinh gần San Jose để sống một mình. Tuy anh không hẳn là hoàn toàn xa cô Châu nhưng theo như anh và gia đình người sống chung với anh thời bấy giờ cho tôi biết là cô chưa từng bao giờ thăm viếng anh tại ngôi nhà này.

Thỉnh thoảng khi cô về Mỹ, cô tạm trú tại nhà của cô em gái ở San Francisco. Anh lên thăm viếng cô như hai người bạn cũ, nhưng hình như tình yêu không còn như ngày xưa nữa. Dù vậy, anh vẫn muốn người yêu ở lại với anh, cùng nhau san sẻ những yêu thương, và gầy dựng lại hạnh phúc và mái ấm gia đình, thay vì kẻ ở người đi, lâu lâu gặp nhau một lần rồi lại tiếp tục chia xa.

Nhưng, số trời đã định, và vì hai lý tưởng quá khác biệt, anh không muốn về Việt Nam sinh sống, còn cô thì rất tha thiết muốn gần các em cô và gần tòa nhà mới, nên cô đi về Việt Nam rất thường.

Tình yêu càng ngày càng phai dần.

Hai người chỉ gặp nhau để làm những gì cô ấy cần anh làm, rồi lại chia tay, ai về nhà nấy.

Anh tiếp tục sống những ngày cô đơn, vô vị mãi đến năm 1995 khi anh bắt đầu quen tôi. Ðã có nhiều lần anh tâm sự:

- Dạo đó anh rất cô đơn. Sự cô đơn rất khủng khiếp đã tàn phá đời anh. Nhưng dù vậy, tim anh đã đóng cửa suốt gần 5 năm trời từ ngày cô Châu ra đi, không một hình bóng của người đàn bà nào khác lọt vào tim anh từ dạo ấy. Từ một người có tất cả để trở thành người mất tất cả, mất luôn cả người đàn bà mà anh yêu quý, anh đau khổ vô cùng.

Tuy nhiên, anh không bao giờ tỏ cho tôi thấy là anh tiếc tiền bạc đã mất, nhưng anh tiếc mãi mối tình mà anh nghĩ sẽ tồn tại cho đến trọn đời.

Anh bứt rứt đau khổ nói với tôi:

- Cả đời anh luôn đi tìm một tình yêu chân thật, anh khao khát có được một mái ấm với người mình yêu. Anh vô cùng thèm muốn một gia đình như bao nhiêu người khác, nhưng chưa bao giờ anh có, vì lúc vừa tìm thấy được thì lại bị rơi khỏi tầm tay và vụt mất.

Không riêng gì anh, mà chính tôi cũng cùng một số kiếp như anh, rất vất vả trong đường tình yêu .

Ðồng thanh tương ứng
Ðồng khí tương cầu

Chúng tôi quý nhau và thông cảm nhau hơn vì cùng chung một tâm sự, một nỗi lòng.

Ðã buồn, giờ càng buồn hơn. Anh bỏ ăn, bỏ uống, bỏ việc. Anh ăn uống rất thất thường, có khi cả ngày chỉ uống một ly cà phê đậm, không có được một bát cơm. Ðó là lúc anh chán chường nhất, không còn tha thiết gì nữa.

Hàng đêm, tôi gọi điện thoại để nhắc nhở anh phải đi ăn uống và tôi cúp điện thoại ngay để cho anh đi ăn. Vài tiếng đồng hồ sau tôi gọi lại để xem anh đã đi ăn chưa, thì anh cũng vẫn chưa ăn uống gì cả.

Tôi biết, trong thời gian này, anh phải lo rất nhiều cho ba đứa con bên Việt Nam. Bao nhiêu tiền bạc làm ra, anh đều gửi hết về Việt Nam cho các con.

Anh gửi về cho các con những đồng bạc cuối cùng.

Cơ thể anh bị sa sút và anh gầy đi, hao mòn thấy rõ. Bên cạnh đó, anh rất quan tâm về ba đứa con, anh rất buồn vì đã không làm cách nào để xin cho các cháu qua Mỹ được.

- Anh rất chán đời, không còn tha thiết gì nữa. Cả một cuộc đời cứ mãi lận đận lao đao. Làm cái gì cũng hỏng. Không có một ngày gọi là vui. Em có biết không, Sơn con anh, nó cũng mang một tâm trạng như anh, nó nói Bố ơi cả đời con không có một ngày vui. Anh rất buồn vì con anh quá bi quan. Có người cha nào nghe con nói một câu não nùng như vậy mà không buồn đâu em !

Chúng ta có thể nhìn một người đàn ông mà biết rằng người ấy có được hạnh phúc hay không. Sự hạnh phúc làm cho họ hồng hào, khỏe mạnh, sung mãn và yêu đời. Anh Sĩ Phú đã không được cái may mắn như vậy.

Có một vài người bạn thấy anh quá cô đơn, chiếc bóng, và nhất là một ca sĩ nổi tiếng mà sống giam hãm cuộc đời vào chốn cô liêu như vậy, đã giới thiệu anh cho những người đàn bà rất sang trọng, giàu có, và là những thính giả ái mộ anh, nhưng anh nhất định từ chối và chọn sự cô đơn riêng mình.

Tôi nghĩ, có lẽ căn bệnh tàn nhẫn nhất đời của anh bắt đầu ngấm ngầm vào cơ thể anh từ lúc này.

Tiền bạc, vật chất đối với anh không nghĩa lý gì nữa. Vinh quang phú quý đối với anh chỉ là phù du, chợt đến, chợt đi, tất cả chỉ là hư ảo. Hình ảnh u buồn và sa sút này quý vị có lẽ đều nhìn thấy trong Video Asia Những Tình Khúc Mùa Chinh Chiến, khi anh trình diễn bản nhạc Tuyết Trắng.

Sau này cô Châu hối hận vì đã bỏ anh đi, cô đâu có ngờ người bạn đời của cô lúc đó chỉ cần tình yêu chứ đâu cần nhà cao cửa đẹp.

Trước đó anh đã từng nghiên cứu về triết lý Phật Giáo, anh cũng đã theo học một hai lớp thiền, nhưng chưa bao giờ bằng lúc này, anh mải miết ngày đêm để đọc, và đọc rất nhiều sách. Anh quên thời gian, quên luôn cả chính bản thân. Anh tìm vào sách vở Phật Giáo, và thế giới tâm linh để tìm một lối thoát. Anh thích thú vật nên đã bỏ rất nhiều thì giờ để tìm hiểu nghiên cứu về chúng. Anh xem các chương trình trên TV về đời sống thế giới loài vật. Anh nghiên cứu về khoa học, kỹ thuật vốn là môn ruột của anh. Anh nghiên cứu và đọc sách rất nhiều về không gian, vũ trụ và những thành phần cấu tạo. Anh tìm tòi học hỏi rất nhiều về những sự kiện lịch sử trên thế giới. Lịch sử Việt Nam và Trung Hoa thì anh nằm lòng. Anh nhớ từng ngày từng tháng của mỗi sự kiện, anh nhớ vanh vách tên và quốc hiệu của từng vị vua.

Trời cho anh một bộ óc, một trí nhớ hiếm có, anh nhớ hết những gì anh đọc. Chỉ cần nghe qua hay đọc một lần là anh có thể lập lại thật rõ ràng những điều đã đọc một cách rất là chi tiết. Tôi thường đùa với anh:

- Anh là một cuốn tự điển bách khoa sống. Không ai có thể nhớ hết như vậy, thường thì người ta phải tham khảo, còn anh thì có sẵn trong đầu. Chính em cũng là người có một trí nhớ gần như anh vậy, nhưng lần này em xin chịu thua anh đó.

Bây giờ nhìn lại, tôi càng thấy rõ hơn, một trong những lý do khiến anh nhớ nhiều, nhớ dai là vì anh là một người lắng nghe giỏi.

Anh luôn theo dõi câu chuyện với tất cả sự chú tâm vì anh kính trọng người đối diện. Vì thế, đôi khi anh hơi bực tôi mỗi khi tôi không chú trọng lắng nghe, và hay hỏi lại những gì anh vừa nói.

Anh dịu dàng mắng khéo tôi:

- Em thì có bao giờ nghe anh nói gì đâu, cứ ờ ờ...mãi, mà khi anh hỏi lại thì không nhớ gì hết !

Tôi lại chống chế:

- Em chỉ muốn nhớ những gì em muốn nhớ mà thôi !

Năm 1995, anh trở lại sân khấu vì những khuyến khích, thúc giục của bạn hữu và nhiều thính giả. Anh cho ra đời 2 CD Tà Áo Xanh và Trái Tim Hững Hờ (nhạc Mỹ lời Việt) và tổ chức một đêm ra mắt 2 CD này vào ngày 4 tháng 11 năm 1995 tại vũ trường Ritz ở thành phố Anaheim, tiểu bang California.

Trong năm này, hoạt động văn nghệ của anh bắt đầu trổi dậy chút đỉnh. Anh đã thu cho trung tâm Asia hai bản nhạc mà anh rất yêu thích, để quay video tựa đề Tác Giả Tác Phẩm và Gửi Người Một Niềm Vui, đó là hai bản nhạc Mắt Biếc và Niệm Khúc Cuối của Ngô Thụy Miên.

Trong video Tác Giả Tác Phẩm, trước khi bắt đầu vào bản nhạc Mắt Biếc, anh nói với thính giả rằng anh rất hân hạnh gặp lại họ sau mười năm xa vắng. Anh nói:

- Tôi xin trình bày nhạc phẩm Mắt Biếc, vì tôi đã tìm thấy một khoảng đời của chính tôi trong đó !

Cũng trong năm này, anh qua Canada để xuất hiện trong một chương trình ca vũ nhạc để quay video của Trung Tâm Trường Thanh. Anh phụ trách phần giới thiệu chương trình cùng với cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Trong video này, anh trông rất trẻ và khá đẹp trai, bên cạnh Kỳ Duyên. Có một đoạn, Kỳ Duyên hỏi anh định nghĩa tình yêu là gì, anh trả lời khá duyên dáng:

- Tôi chỉ biết yêu thôi chứ không định nghĩa được tình yêu !

Anh ăn nói chững chạc đàng hoàng và lưu loát mặc dù anh có cho tôi biết là trong show nhạc này, anh đã được mời làm MC rất trễ, chỉ hai hay ba ngày trước khi thu hình mà thôi.

Vì không thích hợp với lối làm việc, tổ chức lỏng lẻo của họ gây quá nhiều trở ngại trong ngày thu hình, nên anh không dấu được nét nhăn nhó trên sân quay. Tôi lấy làm tiếc nói với anh:

- Nếu em là anh thì có lẽ em sẽ không nhận lời làm MC cho show này vì anh không có thì giờ để soạn thảo, tập dượt. Các MC khác người ta bỏ cả tháng trời để soạn bài vở và tập dượt cho ăn khớp với nhau. Khán giả đâu có biết là anh không có thì giờ để làm việc và chuẩn bị đâu ? Họ đâu có biết những trở ngại của anh, họ sẽ đánh giá anh qua những gì họ nghe thấy trong cuốn video mà thôi.

Anh chắc lưỡi:

- Anh vì nể tình anh em, bạn bè quen biết mà làm. Thôi em à, em đừng buồn, chuyện cũ đã qua rồi.

Anh thu cho Video Trường Thanh hai lần. Nếu tôi nhớ không lầm thì lần đầu tiên vào năm 1993.

Anh chết đi nhưng tiền thù lao anh làm MC và ca sĩ cho hai show này chưa từng được lãnh. Có một lần thấy anh cần tiền để gửi về Việt Nam cho các con, tôi bảo anh nên gọi người chủ show này để xin được trả tiền thù lao hầu có tiền gửi về cho các cháu. Anh bị tôi hối thúc nhiều lần, sau cùng buộc lòng phải nhấc điện thoại lên gọi, bên kia có tiếng người trả lời.

Tôi nghe anh nói:

- TT đó hả em ?

- TT đây, ai đó ?

- Anh Sĩ Phú đây em !

Người bên kia đầu dây cúp điện thoại liền lập tức.

Anh bỡ ngỡ gọi lại, người bên kia không trả lời nữa.

Tôi xin tình nguyện gặp người ấy đòi tiền giùm anh, nhưng anh nhất quyết cản ngăn không cho tôi gặp con nợ và khẩn khoản van xin tôi đừng nhắc gì hết về con người đó với bất cứ ai. Anh không muốn tôi nói với người ngoài biết vì tội nghiệp người ta. Tôi buồn lắm vì sau đó, có lẽ vì ngán ngẩm tình đời, anh bị bệnh nhức đầu đến ba ngày mới khỏi.

Ðấy, Sĩ Phú đúng là như vậy, anh sống cho tha nhân và vì tha nhân mà quên cả thân mình. Ôâi đẹp thay một con người cao thượng và biết sống nhẫn nhục trong tất cả mọi hoàn cảnh !

Trong thời gian ở San Jose, cứ đều đều mỗi tháng, anh nhận được một lá thư từ Việt Nam gửi sang, của một nữ thính giả rất trẻ ái mộ giọng hát anh. Cô viết không dài, nhưng mỗi lá thư là một khích lệ tinh thần cho anh, rất chân tình, rất ưu ái. Tên cô là Nguyễn Minh Châu. Trong lá thư đầu tiên cô gửi có để địa chỉ, nhưng vì anh bị lạc mất lá thư đó trong một lần dọn nhà, nên không biết địa chỉ của cô để hồi âm. Những lá thư sau đó, cô không ghi địa chỉ.

Cô không hề hay biết anh dọn nhà, cứ tiếp tục gửi về cho anh ở địa chỉ cũ, may mắn là người bạn của anh ở nhà cũ vẫn tiếp tục trao thư lại cho anh.

Cô gửi thư liên tục cho anh suốt 12 năm trời, sau này vì anh về quận Cam thường, ít còn liên lạc với người bạn cũ, nên anh không biết cô có còn gửi thư cho anh nữa hay không.

Khi chúng tôi làm CD Còn Chút Gì Ðể Nhớ, Sĩ Phú có ghi một vài hàng chữ trong bìa CD này để cảm tạ tấm chân tình của cô đối với anh trong 12 năm qua. Tôi hy vọng là một ngày nào đó cô sẽ đọc được những hàng chữ này và liên lạc với tôi, vì chúng tôi rất mến cô và muốn liên lạc với cô.

Trước khi qua đời, Sĩ Phú đã ký tặng cho cô một CD mới nhất của anh và mong rằng một ngày nào đó tôi sẽ gặp cô để trao lại tận tay món quà này vì tôi biết cô sẽ quý nó vô cùng.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, christiane, ổi xanh

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 23 Aug 2008

Chương Sáu
Các Con Của Anh

Anh có ba người con ruột, người con trưởng là Nguyễn Sĩ Trường Sơn, người con thứ hai là Nguyễn Sĩ Trường Thành, người con út là cô Nguyễn Ngọc Thanh Tuyền.

Trong thời gian anh ở một mình từ năm 1990 đến 1995, anh về Việt Nam 2 lần để thăm các con. Lần đầu tiên là năm 1992, lần thứ nhì là năm 1994.

Trong kỳ về lần thứ hai, các con anh lúc đó đã chán nản vì chờ đợi giấy tờ quá lâu để đoàn tụ cùng bố, nên xin phép bố cho chúng ở lại Việt Nam.

Năm 1982, anh có làm đơn xin bảo lãnh các con anh qua Mỹ đoàn tụ, nhưng giấy tờ bị rất nhiều trở ngại, nên trên mười năm dài, anh vẫn chưa đạt ý nguyện. Các con anh xin bố mua nhà cửa để khi chúng lập gia đình thì có nơi sinh sống. Rất thương và chiều con, năm 1994, anh mua cho chúng một căn nhà lầu 3 tầng rất khang trang ở một khu khá tốt tại Sài Gòn. Anh dự định mua căn nhà này là dành cho 3 gia đình của 3 đứa con. Mỗi gia đình một tầng lầu.

Nhưng không lâu sau đó, đứa con trưởng của anh là Trường Sơn, dọn ra riêng, một lần nữa, anh lại phải gửi tiền về Việt Nam để giúp cậu con này mua một cái nhà khác. Rồi đứa con gái út của anh, Thanh Tuyền, lại dọn ra riêng, xin bố tiền mua một cái nhà riêng cho cô, anh lại gửi tiền về cho cô con gái mua một cái nhà khác.

Ngôi nhà ba tầng lầu anh mua lúc đầu được đứa con trai thứ, Trường Thành, ở lại chăm sóc đến bây giờ.

Cũng tạm yên, ba đứa con có ba cái nhà, mơ ước của anh đã thành.

Khi anh nghe cô con gái út bán cái nhà của cô hai tháng sau đó để lấy tiền đưa cho người mẹ chồng hùn mua một cái nhà khác lớn hơn và nhà này do bà mẹ chồng của cô đứng tên, anh buồn vô cùng.

Những cố gắng của anh tiêu thành bọt biển. Anh tỏ vẻ rất lo lắng cho cô con gái út về việc cô làm dâu nhà người ta. Không biết người ta có thương con mình không.

Sau này, khi sống chung cùng tôi, có một lần anh than thở về điều này, nhưng vì tôi mải miết bận rộn làm việc mà xao lãng, không tập trung vào câu chuyện. Bây giờ anh mất rồi, tôi vô cùng hối tiếc, thì cũng đã quá muộn. Nhưng dù sao đi nữa tôi cũng còn chút an ủi cho riêng tôi vì tôi cũng đã xoa dịu anh một phần nào nỗi lo lắng:

- Không sao đâu anh, thời buổi này ít còn cảnh mẹ chồng nàng dâu anh à. Dù sao đi nữa, con gái của anh cũng là đứa có học, có sắc, có đầu óc, nó không đến nông nỗi nào đâu. Dựa theo những gì anh đã kể về Tuyền, em thấy, Tuyền rất thông minh và khôn khéo lắm.

Vụ mua bán nhà cửa là do các con của anh bên Việt Nam kể lại cho tôi nghe khi tôi gọi các cháu để lấy thêm tài liệu cho quyển sách này.

Sẵn trong dịp này, tôi xin phép với quý vị cho tôi nói một chút về việc bảo lãnh các con của anh. Vì có rất nhiều vị thính giả thắc mắc hỏi tôi rằng tại sao Sĩ Phú qua Mỹ đã lâu mà không bảo lãnh con qua Mỹ sớm. Lại có người trách rằng anh đã không làm tròn phận sự của một người cha, vân vân ... và vân vân...

Tôi xin nói sơ qua trường hợp của anh.

Ngày xưa bảo lãnh bà con từ Việt Nam sang Mỹ không nhanh như bây giờ. Cứ mỗi 6 tháng, là người ta bắt người bảo lãnh phải cập nhật hóa giấy tờ.

Trường hợp anh Phú cũng vậy.

Anh than thở cứ mỗi 6 tháng là phải nộp thêm hồ sơ để bổ túc mà ròng rã 10 năm trời, con anh vẫn không qua được. Lần nào anh khiếu nại thì họ cũng bảo chờ. Cho đến khi anh nghỉ làm việc, và công việc làm ăn buôn bán bị thất bại lỗ lã, họ lấy lý do là anh không đủ điều kiện về tài chính để bảo lãnh cho con anh. Họ gửi cho anh một văn thư xác nhận là hồ sơ của các cháu sẽ thuộc vào loại không thể đi sang Mỹ được và họ sẽ không tái xét trường hợp này. Sau này khi anh kể cho anh Nam Lộc, một người bạn thân và cũng là một chuyên viên về Di Trú và Tị Nạn rất quen thuộc với cộng đồng Việt Nam tại miền Nam California trong suốt một phần tư thế kỷ qua, thì được anh Nam Lộc cho biết rằng, anh có thể tìm một người quen thân nào đó để đứng ra lo bảo trợ vấn đề tài chính giùm anh. Anh Nam Lộc cũng đã cho tôi biết Sĩ Phú đã nói với anh như sau:

- Trong hoàn cảnh này, với trách nhiệm đòi hỏi nặng nề như thế, ai mà còn có thể đứng ra để lo giùm tôi nữa ?

Sau này, tôi đã nhiều lần xin anh cho tôi được phép đứng ra lo việc bảo trợ tài chính cho các con anh, như tôi đã từng làm cho rất nhiều người khác, nhưng mỗi lần, anh đều từ chối. Anh không muốn các con của anh là một gánh nặng cho tôi.

Nhưng, tôi biết vấn đề tài chính không phải là lý do chính khiến họ khước từ. Tôi xin dẫn chứng một câu chuyện có thể giúp quý vị hiểu rõ vấn đề hơn.

Năm 1980 mẹ tôi bảo lãnh người con ruột, là em trai ruột của tôi sang Mỹ. Người em tôi, dĩ nhiên là mang họ cha như tất cả chúng tôi, nhưng vì người bảo lãnh là mẹ tôi, mà ở Việt Nam, phong tục của ta là người vợï không có đổi họ theo họ chồng, nên họ của em tôi và mẹ tôi không giống nhau. Thế mà người Mỹ họ nhất định không cho em tôi sang, dù cho trong khai sinh của em tôi có cùng họ với cha tôi, mà cha tôi là chồng của mẹ tôi. Nếu người bảo lãnh cho em tôi là cha tôi, thì em tôi đã được qua rất nhanh, nhưng vì cha tôi đã mất từ lâu, mẹ tôi bảo lãnh mới gây ra cớ sự. Chúng tôi là anh chị em ruột cũng có thể bảo lãnh được cho em, nhưng vì nghĩ rằng liên hệ giữa mẹ và con nhanh hơn, dễ hơn nên mới nhờ mẹ tôi đứng ra bảo lãnh, vì thế mới bị rắc rối.

Sau 14 năm trời, em tôi cũng không qua được, tôi viết rất nhiều thư cho Tòa Ðại Sứ Mỹ bên Thái Lan, nhờ người đưa tận tayï, họ cũng đều lấy lý do là em tôi không qua được vì họ tin là nó không phải là con ruột của mẹ tôi. Sau 14 năm chịu đựng, tôi liên lạc và viết thư cho Dân Biểu Cộng Hòa là ông Robert Dornan thời bấy giờ, kể rõ sự tình và nhờ ông can thiệp, 2 tháng sau, em tôi được qua Mỹ đoàn tụ gia đình.

Bây giờ tôi xin trở lại vấn đề tại sao anh Sĩ Phú không đem con qua Mỹ được, kể cả sau này khi anh sắp mất, tôi đã làm tất cả những gì có thể làm để đem các cháu qua cho chúng gặp mặt bố lần cuối cùng, nhưng cũng thất bại.

Lý do là vì anh và mẹ các con anh sống chung không hôn thú. Vì thế đối với luật pháp Mỹ, các cháu là những đứa con ngoại hôn. Dù khai sinh có để tên anh là cha đi nữa, nhưng khi tình trạng gia đình của hai người vẫn là độc thân, người Mỹ sẽ khó mà tin các cháu là con của anh và người đàn bà đó.

Theo tôi nghĩ, hôn nhân là một sự ràng buộc gia đình được luật pháp công nhận, sau khi thành chồng vợ, đứa con của hai người mới được xem là con của họ theo pháp lý. Nếu hai người sống chung với nhau không hôn thú, họ có thể suy luận ra hàng chục lý do rằng các cháu không phải là con ruột của anh. Chẳng hạn như họ có thể suy ra rằng các cháu là con riêng của bà ấy với một người nào khác được anh nhận làm con, vân vân và vân vân. Với lý lẽ đó, người Mỹ không chịu cho phép các con anh qua.

Mục Sư Nguyễn Xuân Bảo của Thánh Ðường Sài Gòn là người đã cùng tôi hết lòng tận tâm đứng ra xin bảo đảm cho ba cháu được qua thăm bố trước khi anh nhắm mắt từ giã cõi đời đã cho tôi biết:

- Tôi có nói chuyện với Tòa Tổng Lãnh Sự ở Saigon và hỏi lý do nào mà họ từ chối cấp chiếu khán cho ba đứa con anh Phú sang Mỹ, họ cho tôi biết vì con anh là con ngoại hôn.

Mà quả thực, khi đứa con thứ nhì của anh được kêu đi phỏng vấn, kết quả cũng vậy. Theo lời cháu kể, cháu là giám đốc của một công ty khá lớn bên Việt Nam, lại là kỹ sư điện toán, có nhà cửa đàng hoàng (nhà của bố Sĩ Phú mua cho) và bên vợ cháu rất khá giả, nhưng cháu vẫn bị họ đánh rớt rất nhanh chóng mà không cần xem xét gì thêm.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, christiane, ổi xanh, longha

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 23 Aug 2008

Chương Bảy
Người Ði Qua Ðời Anh

Anh kể cho tôi nghe cả cuộc đời anh trong những tháng ngày đầu tiên yêu nhau. Chúng tôi tâm sự với nhau về những cuộc hôn nhân trước, những nỗi khổ tâm mà chúng tôi đã trải qua trong đời.

Trước sau như một, và mãi cho đến những ngày cuối cùng, kể cả trong lời trối trăn, lúc nào anh cũng chỉ nói về 2 người đàn bà đã đi qua đời anh như là vợ của anh. Đó là cô Kim Uyên và cô Châu. Anh nói:

- Suốt 25 năm qua, anh chỉ có 2 người đàn bà này, và họ là hai người duy nhất. Còn tất cả những ai khác chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhân thế mà thôi. Em chỉ cần biết như vậy cho anh là đủ rồi. Và nhớ, đừng bao giờ biện hộ cho anh, nếu có ai nói gì, em nhé !

Cũng trong dịp này, anh tâm sự với tôi về một nữ ca sĩ, tôi xin gọi cô là KL.

Vừa nghe đến tên cô, tôi cứ nhất định nói với anh:

- Anh ơi, cô ấy là người yêu của ông Tổng Thống Thiệu mà anh. Em biết mà !

- Không có ông Tổng Thống Thiệu nào hết. Ngọc Lan à, em hãy nghe anh vì chính anh là nhân vật chính đây !

Tôi mở đôi mắt tròn xoe:

- Anh là nhân vật chính ? Thật không anh ?

- Vâng, rất thật !

Rồi anh kể:

- Cô ấy không có gì với ông Thiệu hết. Tin đồn bà Thiệu ghen vì cô có con với ông Thiệu, rồi tống cô qua bên Đức là một chuyện hoàn toàn bịa đặt, một chuyện dựng đứng trắng trợn một trăm phần trăm. Cô là một người đàn bà rất tốt. Từ cái thuở vừa biết yêu, cô đã đem lòng yêu thương anh tha thiết. Ngay cả trong ngày sinh nhật 21 tuổi, cô bất chấp tất cả dư luận, luôn cả gia đình, để công khai biểu lộ tình yêu của cô cho anh. Nhưng anh lúc nào cũng chỉ xem cô ấy là một người bạn tốt. Đúng nghĩa một người bạn, không hơn không kém. Vừa mới lớn lên, vừa biết yêu, cô ấy đã yêu thương anh cho đến lúc có chồng, thì giờ đâu mà có dư cho ông Thiệu ? Ông Thiệu chưa bao giờ có mặt trong cuộc đời kể cả trong đầu óc của KL nữa. Ông Thiệu không có một dính dáng nào với KL cả. Gia đình cô ấy không muốn cô lấy anh, vì chê anh là ca sĩ, nghệ sĩ, nghèo, sợ cô ấy sẽ sa ngã với anh, nên họ mới tìm cách tống cô đi qua bên Tây Đức. Họ nhờ một cựu sĩ quan Không Quân mà anh biết, đang sống bên Tây Đức, lo liệu giấy tờ để xin cho cô được đi du học. Sau khi đến nơi đến chốn, mọi chuyện êm xuôi, nhờ có một sự mai mối nào đó, cô lấy chồng, một bác sĩ, sự việc ấy cũng chỉ là một diễn tiến bình thường mà thôi. Em đừng bao giờ nghĩ cô ấy là bồ ông Tổng Thống Thiệu như bao nhiêu người khác đã nghĩ, oan cho ông Thiệu và cô ấy lắm !

- Em thật không ngờ, hoàn toàn không giống như những gì em đã từng được nghe về cô ấy.

Rồi anh kể tiếp:

- Em có biết không, đêm cuối cùng trước ngày lên máy bay sang Tây Đức, cô có mời anh đến nhà riêng của cô, một mình với anh, cô tỏ tình và muốn làm người yêu của anh trong đêm ấy. Khi thân cận gần gũi, anh mới khám phá ra rằng, cô ấy còn trinh trắng, anh biết chắc chắn như vậy !

Anh có vẻ xúc động, ngừng một chút, rồi tiếp tục:

- Anh vỡ lẽ, anh bối rối, nhưng anh mừng cho cô ấy. Vì biết giá trị của cô như vậy, nên anh lại càng muốn gìn giữ và tránh xa để cho cô ra đi. Anh không dám chạm vào người cô KL trong đêm ấy em à, anh sợ lắm (Nguyên văn lời Sĩ Phú). Vị bác sĩ chồng cô ấy là người biết rõ giá trị của vợ mình hơn ai hết. Thế em có bao giờ nghe anh ta thanh minh về chuyện người vợ của anh ta với ông Thiệu không ? Anh ta không cần phải làm gì hết. Giá trị của KL là ở những gì nguyện vẹn cô để dành cho người chồng cô ấy, chứ đâu phải do ở cửa miệng của người đời đâu em. Chính vì vậy, mà anh phải nói lên những lời này với em, nhân thế đã bôi nhọ cô, cô ấy bị oan vô cùng. Bao nhiêu năm nay, bao nhiêu người đã nói oan cho cô cũng chỉ vì những lời đồn vô căn cứ. Anh là người duy nhất biết được sự thật về cô ấy ngoài chồng cô.

Mặc cho ai nghĩ gì thì nghĩ và mặc cho cô ấy nói gì thì nói, anh luôn luôn và mãi mãi xem KL như một người bạn thân rất quý. Cô có một tấm lòng rất tốt mặc dù đôi khi ăn nói hơi lung tung và om xòm làm cho người ta hiểu lầm. Còn xem cô như một người yêu thì không bao giờ. Anh quen biết chồng của cô ấy và anh ta rất quý anh.

Em đừng bao giờ phải thắc mắc về người đàn bà này nữa. Anh nhấn mạnh: “ Cô ấy không bao giờ ở trong đầu anh, không bao giờ trong tim anh hay sách vở của anh. Từ ngày quen biết cô đến giờ, anh chưa bao giờ có một liên hệ tình cảm không đứng đắn nào với KL cả ngoài tình bạn tốt đẹp bao lâu nay, cũng như ông Tổng Thống Thiệu, ông ta chưa bao giờ chạm được vào người cô ấy, và ông ta đúng, khi đã nói là ông không có một liên hệ nào với KL cả”.

Anh nói tiếp:

- Anh luôn luôn cố gắng giữ tiếng tăm cho trong sạch, không vì một lý do nào mà anh lại làm cho nó vẩn đục. Anh không những giữ tiếng cho anh, mà anh còn mong gìn giữ tiếng tốt cho binh chủng Không Quân nữa. Cái gì anh làm, anh đều nghĩ đến Không Quân. Anh có trách nhiệm với Binh Chủng Không Quân vì chính anh đã góp phần gầy dựng nên binh chủng này. Anh có trách nhiệm phải gìn giữ tiếng thơm cho họ.

Tôi lặng người đi, vô cùng xúc động, không nói được lời nào. Tôi biết anh đã trút hết bao nỗi lòng của anh cho tôi, và đấy là những gì Sĩ Phú nói về KL.

Trong tinh thần tôn trọng người đã khuất và vì lời hứa của tôi với anh, tôi thuật lại nguyên văn những gì anh nói không thêm không bớt. Tôi tin Sĩ Phú hoàn toàn, vì sau năm năm quen và gần gũi anh, tôi biết Sĩ Phú luôn luôn nói sự thật, anh không bao giờ nói thêm hay nói bớt bất cứ một sự việc nào. Đây là một người đàn ông tôi rất thán phục, anh chịu trách nhiệm về lời nói và rất thận trọng khi nói về một ai. Trong lối tiếp xử, anh rất thận trọng và rất dịu dàng nên anh tạo ra một tình cảm thân ái và kính phục từ người đối diện rất dễ dàng.

Mời quý độc giả theo dõi một đoạn phỏng vấn KL sau đây, bài phỏng vấn này đã được đăng trên Kịch Ảnh Magazine số 9 xuất bản vào tháng 8 năm 2000 tại Houston tiểu bang Texas:

- Tại sao đang thành công và tiếng hát của cô đang được nhiều người ái mộ mà cô lại bỏ đi Tây Đức ? Đây có phải là đáp số của một bài toán khó giải của gia đình cô ?

- Ba Má tôi muốn tôi đi ngoại quốc học, vì hồi đó có phong trào du học, nhưng vì tôi không giỏi ngoại ngữ để xin đi Mỹ hay Pháp nên đành chọn Đức Quốc vì lúc đó xin đi du học tại Đức không cần thi sinh ngữ.

- Đây là câu hỏi cuối cùng, nhưng cũng là câu hỏi hóc búa nhất. Cô có thể trả lời một cách thành thật hay không?

- Cứ việc hỏi tự nhiên ! (Cười)

- Cô nghĩ thế nào về lời đồn cô với cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ? Đúng hay sai ?

- Trước khi trả lời HV, tôi xin phép được kể một câu chuyện ngắn có thật:

Cách đây không lâu, nhân dịp xuống Cali, được đài phát thanh… mời lên phỏng vấn, ngoài phòng thâu thanh, người xướng ngôn viên của đài hỏi tôi: ”Lúc nãy on air trên đài mình ngại không hỏi KL điều này. Bây giờ L có thể cho mình biết L có cảm tưởng gì khi bồ với một vị Nguyên Thủ Quốc Gia?”

Tôi nói: ”Trước khi trả lời câu hỏi của chị, cho phép L hỏi chị một câu: Chị có cảm tưởng gì khi bồ với một vị Nguyên Thủ Quốc Gia ?

Cô xướng ngôn viên lắc đầu quầy quậy, xua tay : Tôi đâu có bao giờ bồ với Tổng Thống mà biết cảm tưởng !

Tôi bèn trả lời : Đó thấy không, tôi cũng vậy. Có bồ đâu mà biết !”

- Như vậy là L phủ nhận tin đồn ? Nhưng không có lửa sao có khói. Có bao giờ cô được mời vào dinh hát riêng cho TT Thiệu, hay ăn uống, đi chơi chung, có người nhìn thấy rồi thêu dệt ra không ?

- Không, trăm lần không, vạn lần không. Tôi không hề gặp ông Thiệu. Đồn gì mà ác ôn làm tên tôi chết theo tin đồn ! Nếu như đồn tôi với một người nào đó dù bình thường, mà trước kia tôi đã từng yêu thương rồi giờ đây người đó có ngồi xe lăn, bán thân bất toại nằm chờ chết, như…Sĩ Phú, thì tôi sẽ nhận là CÓ. Còn Tổng Thống hay vua chúa mà tôi không hề có liên hệ thì suốt đời tôi vẫn nói là KHÔNG !

- Cô vừa nhắc đến Sĩ Phú. Vậy cô có liên hệ gì ?

- Khi còn ở Việt Nam, tôi đã từng yêu thương Sĩ Phú. Sau này, khi cả hai đã lập gia đình, thì chúng tôi trở thành bạn thân. Tôi vừa đi thăm Sĩ Phú ở Cali về. Chắc anh ấy không còn sống được bao lâu nữa. Tôi rất buồn. Khi đến thăm, anh đã nói với tôi những lời như trăn trối. Cầu mong có một phép lạ nào đó giúp anh bình phục lại”

Đối với tôi, những lời nói trước sau như một của Sĩ Phú đã một phần nào làm sáng tỏ một nỗi oan ức mà cô KL đã phải chịu đựng trong bao nhiêu năm qua.

Có thể một vài người sẽ tin tôi, có thể sẽ không, tuy nhiên, tôi chỉ có thể kết luận như thế này:

Sự thật là sự thật. Sự thật đã được nói lên bằng chính hai nhân vật chính, Sĩ Phú và KL bằng với tất cả sự thành tâm của họ. Và nhất là với Sĩ Phú, đây là nhữõng lời tâm tình cuối cùng của anh với tôi về KL. Nhưng nếu người ta không tin sự thật, mà còn muốn đi tìm một sự không thật để mà tin, thì đó là cái quyền của họ. Vì con người là con người, cái tốt rất khó nói hoặc khó tin, nhưng cái không tốt rất dễ nói và dễ tin.

Ở đây, tôi chỉ ghi chép lại một cách vô tư mà thôi vì tôi rất trọng lời nói của Sĩ Phú và không vì một lý do nào mà phải bào chữa cho cô KL . Thật ra, cô cũng đã từng lên một hai đài phát thanh ở Little Saigon nói lung tung về cảm tình của cô dành cho Sĩ Phú, cô đã từng làm cho chúng tôi nhức đầu, nhức óc mấy ngày, nhưng đó chỉ là vì cô vụng nói, nên đã gây ra bao sự hiểu lầm. Tôi xem đấy chỉ là chuyện nhỏ nhặt trong đời sống không đáng kể. Cái quan trọng là nhân phẩm của cô đã bị hiểu lầm trong bao năm qua, cần phải được sáng tỏ nếu có cơ hội.

Nhưng như thế là tôi làm trái lại lời dặn dò của anh Sĩ Phú, anh đã từng khuyên tôi, là đừng bao đính chính cho anh vì sự thật lúc nào cũng là sự thật. Nhưng, em xin lỗi linh hồn anh và cầu mong anh tha thứ nếu em phải nói lên sự thật về anh và KL.

Ngày xưa, tôi rất thích xem cô hát trên TV vì đối với tôi cô rất xinh đẹp. Nếu như cô và Sĩ Phú mà có đem lòng yêu thương nhau ngày ấy, thì tôi cũng không thể nào trách họ được, vì cô và Sĩ Phú rất xứng đôi, trai tài gái sắc. Ngoài anh Sĩ Phú ra, hơn ai hết, tôi biết rõ tình yêu cô dành cho Sĩ Phú trong suốt 30 năm như thế nào. Tôi đã từng đưa cô vào nhà thương thăm anh Sĩ Phú, sau đó tôi lại chở cô về. Cô đã tỏ ra là một người đàn bà đáng quý, rất chung thủy với kỷ niệm và là một người bạn rất trung tín. Một người đàn bà, mà suốt đời chỉ biết đến một mối tình mà thôi thì còn lòng dạ nào mà nghĩ đến người đàn ông khác, chẳng hạn như ông Tổng Thống Thiệu ?

Có người lại hỏi:

- Thế cô ấy đã có chồng con, tại sao còn đi thương người khác ? Bộ cô ta không sợ chồng cô ta ghen hay sao?

Đó là một câu hỏi rất thông thường, nhưng đèn nhà ai nấy sáng. Tôi không muốn đào sâu vào câu chuyện này. Tôi không muốn nói tình yêu của cô cho Sĩ Phú là cao quý và bất hủ, nhưng tình yêu ấy rất trong sạch và cũng là một tình bạn đáng khen ngợi. Ở đời, một người đàn bà không có quyền để có một người bạn đúng nghĩa bạn, dù người đó là đàn ông hay sao ?

Nếu tôi không lầm thì Tổng Thống Thiệu đã từng nói:

- “Muốn biết về KL thì phải hỏi Sĩ Phú chứ, tại sao lại hỏi tôi ?”
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, christiane, ổi xanh, longha

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 26 Aug 2008

Chương Tám
Ngọc Lan

Bấy giờ tôi mới nói lên những gì tôi nghĩ, và có lẽ, cũng là cảm nghĩ và thắc mắc của rất nhiều người:

- Em nghe người ta nói rất nhiều về anh, các anh Không Quân hào hoa phong nhã và bay bướm, lúc nào cũng có nhiều người đẹp bên cạnh và ăn chơi ghê lắm. Nhưng em không ngờ, và sẽ không bao giờ ngờ là sự thật quá khác biệt. Nếu em không quen anh và được chia sẻ tâm tình với anh, có lẽ em cũng sẽ tin những lời đồn đó, anh ạ !

- Chỉ một vài phần tử nào đó trong Không Quân đã tạo ra cái tiếng hào hoa phong nhã, bay bướm mà thôi, chứ không phải cứ Không Quân là hào hoa phong nhã và bay bướm. Không Quân cũng như các binh chủng khác, ban ngày xách máy bay đi vào lòng địch, buổi chiều nếu may mắn không bị đánh rơi, thì vác máy bay về. Chúng anh cũng xông vào lửa đạn như ai, cũng góp phần vào việc bảo vệ quê hương như tất cả mọi binh chủng khác nhưng lại bị gán cho là hào hoa phong nhã, bay bướm vân vân... (mặc dù hào hoa phong nhã không có gì là xấu, nhưng Sĩ Phú không thích bị gán cho cái từ ấy )

Rồi anh nói tiếp:

- Anh suýt nữa bị bắn rơi lúc còn ở Phi Ðoàn, đạn bay vèo vèo bên đùi, nhưng chỉ bị sướt đầu gối mà thôi. Ðến giờ phút này, anh vẫn còn bị ê ở đầu gối mỗi khi khiêng đồ nặng hay đi nhiều. Tuần nào tụi anh cũng thay phiên nhau chôn hai ba thằng bạn. Cuộc đời quả thật vô thường !

Anh nói tiếp:

- Trong hoàn cảnh chiến tranh, đành phải chịu vậy. Mới thấy người bạn hôm qua, hôm nay phải đi vớt xác về. Ðứa nào cũng ngán ngẩm, không dám lấy vợ, vì không muốn người vợ mới cưới của mình trở thành góa phụ. Vì hoàn cảnh chiến tranh đau xót như vậy, nên Không Quân bọn anh phần nhiều đứa nào cũng hút thuốc, có lẽ để tìm một chút gì an ủi, bình an trong lòng. Anh cũng hút thuốc là vì vậy. Anh không có thấy bay bướm ở chỗ nào cả.

Anh ngừng một hồi lâu, rồi chậm rãi tiếp tục:

- Bây giờ trở lại với thắc mắc của em, yes, anh là một thằng đàn ông tuy rất khiêm nhượng về thành quả của mình, nhưng rất hãnh diện về con người và nhân cách mình. Anh không phải là một người buông thả, ăn chơi trác táng thả mồi bắt bóng. Anh là người đàn ông sống rất mực thước, sống với khuôn khổ. Anh yêu một cuộc sống đạo hạnh, giản dị và dung hòa. Anh không thích đám đông. Không thích vật chất xa hoa hay đàn bà đẹp lộng lẫy, lại càng không thích nổi tiếng. Ừ, cứ cho anh là một ca sĩ nổi tiếng đi, nhưng anh lại không thích vũ trường và ánh đèn màu. Nơi mà anh thích nhất và muốn có nhất là một mái ấm gia đình, một tổ ấm của cuộc sống lứa đôi với người đàn bà mình yêu.

Rồi anh kể tiếp :

- Vài năm trước, anh có đến nhà vợ chồng một người bạn. Anh có dịp nhìn thấy cái bếp của gia đình nó, trời ơi, anh không bao giờ quên. Cái bếp nó ấm cúng làm sao. Anh vào bếp mà ngơ ngẩn không muốn ra, nó làm sao ấy, ấm cúng vô cùng. Anh nhìn tất cả mọi vật chung quanh, đều giản dị, thô sơ, không cầu kỳ, không bóng loáng để làm cảnh, mà là thật, rất thật. Những nồi niêu xoong chảo, những dĩa thức ăn nấu chín đậy lồng bàn, nồi canh nóng, nồi cơm dẻo thật thơm tho, làm anh thèm đến chảy nước miếng cái tổ ấm nho nhỏ ấm cúng đó.

Tôi nghe anh nói mà quặn đau trong lòng, xót xa dâng đầy trong tim tôi.

Tôi thật không ngờ,và sẽ không bao giờ ngờ. Lúc đó tôi nghĩ nếu tôi nói ra chắc sẽ không ai tin. Là một người như Sĩ Phú mà lại phải đi tìm những cái rất tầm thường trong cuộc đời mà theo lẽ, anh phải có như một lẽ rất tự nhiên.

Tôi không ngờ, một Sĩ Phú, chỉ với một giấc mơ rất bình thường như vậy, mà đã hơn nửa đời người, vẫn còn cô đơn đi tìm.

Tôi thường hay nói với những người quen hay thính giả muốn tìm hiểu về anh:

- Giọng hát của anh như thế nào thì con người của anh như thế ấy : Từ tốn, dịu dàng, hiền lành và thật ngọt ngào.

Ðó là những đức tính rất bình thường, rất tự nhiên của Sĩ Phú.

Có một lần, ở trong sở tôi làm việc, có người nói một sự việc về anh mà khi vừa nghe, tôi biết là không phải anh rồi, nhưng tôi vẫn về nhà hỏi lại, thì được anh trả lời:

- Khi người ta nói gì về anh, em đừng nên, và đừng bao giờ biện hộ. Sự thật thì lúc nào cũng là sự thật. Ở trên đời này, không có một sự việc nào mà người ta có thể che đậy, gian dối mãi, sớm muộn gì, sự thật cũng sẽ được phô bày. Ngọc Lan ơi, nếu em biện minh cho anh, thì em sẽ vô tình làm cho người ta nói thêm những điều không đúng. Tội nghiệp họ, em vô tình khiến họ tạo ra cái khẩu nghiệp. Vì nói oan ức về người hay chửi rủa người là những nghiệp khẩu rất nặng, theo thuyết nhà Phật.

Anh nói không sai, từ đó về sau, mỗi khi tôi nghe điều gì không tốt về bất cứ ai, tôi không nói gì hết và bỏ đi nếu cần, và người nói sẽ phải ngừng lại vì chẳng còn ai nghe. Tôi tránh được cái nhức đầu không cần thiết, và người đối diện sẽ không vướng vào khẩu nghiệp.


Cuối tháng 3 năm 1996, anh gọi cho tôi biết anh sẽ xuống quận Cam để tham dự một đêm nhạc tại vũ trường Ritz. Show này là do anh Lê Bá Chư, chủ nhân của trung tâm băng nhạc Giáng Ngọc tổ chức.

Anh nói:

- Vì anh Chư là một người bạn cũ của anh, nên anh muốn xuống để chung vui với anh Chư, chứ còn tháng Ba, tháng Tư là hai tháng trong năm mà anh rất bận rộn, ít có bao giờ đi đâu.

Anh không cho tôi biết anh sẽ xuống lúc nào và bằng chuyến bay nào. Và đây cũng là một đặc tính nữa của anh, anh không muốn tôi phải ra phi trường đón vì anh rất sợ làm phiền. Anh sợ tôi phải hấp tấp bỏ những công việc đang làm dang dở vì anh.

- Ngày xưa khi cái thuở đi show còn nhộn nhịp, một tháng người ta mời anh đi Âu Châu mấy lần, mãi rồi, đi đi về về như cơm bữa, bà ấy không ra phi trường đưa đón nữa, anh phải tự mình tìm phương tiện di chuyển lấy. Vì thế cho nên anh quen rồi, và hơn nữa, anh không bao giờ muốn làm phiền ai, anh cũng muốn có sự tự do cho chính anh. Anh không thích bị lệ thuộc vào người khác. Khi cần thì cứ nhảy lên xe mà đi, chứ không muốn chờ đợi người khác đưa đón mình.

Tôi khăng khăng đòi ra phi trường đón anh, nhưng anh nhất định từ chối dù rằng đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên sau bảy tháng quen nhau.

Buổi chiều, ngồi làm việc trong sở, tôi vặn radio lên, tình cờ nghe được cuộc phỏng vấn của một đài phát thanh dành cho trung tâm Giáng Ngọc. Tôi nghe nữ xướng ngôn viên Thụy Trinh giới thiệu nam danh ca Sĩ Phú đã đến quận Cam và mời anh nói một vài lời với thính giả. Lúc ấy tôi mới biết là anh đã đến nơi.

Trong chương trình đó, một thính giả đã hỏi anh:

- Anh Sĩ Phú có người yêu không ?

Anh trả lời:

- Ở cái tuổi của tôi, cái mà tôi quý nhất trên đời này bây giờ là một người bạn đồng hành. Một người luôn luôn sát cánh với mình cho đến hết cuộc đời. Tôi cần một người bạn đồng hành hơn là cần một người yêu.

Năm giờ chiều hôm ấy, anh gọi điện thoại cho tôi ở sở.

- Em đó hả, anh đây cưng !

Ðó là cú phone đầu tiên anh gọi vô sở tôi. Anh không thích gọi vô sở của bất cứ ai. Anh đã từng nói:

- Chỉ trừ trường hợp khẩn cấp chứ còn bình thường thì anh luôn luôn gọi sau giờ làm việc. Vì gọi vô sở, nếu có chuyện gì phiền muộn, mình làm người ta phân tâm, không làm việc được, mình vô tình hại người ta.

Vì tôi thuyết phục mãi, anh mới chịu gọi tôi lần này.

- Dạ em đây anh, em có nghe anh líu lo trên đài phát thanh trưa nay.

- Bây giờ anh rảnh rồi đó cưng ! Chiều nay, anh sẽ gặp em ở đâu ?

- Thưa anh ở nhà hàng SL, anh biết nó ở đâu không ?

- Em cứ cho anh địa chỉ đi, anh sẽ tìm đến.

Tôi cho anh biết nhà hàng SL ở khu thương xá nào và chỉ đường cho anh.

Anh dặn tôi:

- Em cứ từ từ mà làm việc. Ðừng vì anh mà xao lãng công việc nhé ! Mình còn rất nhiều thì giờ chiều nay em à !

- Dạ vâng, cảm ơn anh. Em sẽ không hấp tấp đâu.

Buổi chiều, khi tan sở, tôi lái xe đến nhà hàng SL như đã hẹn.

Thật ngẫu nhiên ! Tôi và anh cùng đến nơi một lượt.

Anh ra khỏi xe, đi nhanh đến xe của tôi và mở cửa. Hai chúng tôi nhìn nhau, trong lòng cùng thấy hân hoan. Anh đưa tay dìu tôi ra khỏi xe, rất vui mừng gặp lại nhau sau 7 tháng trời xa cách. Hai chúng tôi ôm nhau thật lâu, mừng mừng tủi tủi. Tôi còn nhớ, anh đưa tay vuốt tóc tôi, nụ cười của anh thật chứa chan hy vọng vào tương lai.

Hôm ấy, anh mặt chiếc quần tây đen, áo sơ mi trắng không cà vạt, áo da khoác ngoài màu đen. Còn tôi mặc nguyên bộ complet đen rất tiệp màu với anh.

Lúc ấy, trông anh thật giản dị và thật trẻ trung.

Tôi quen với nhà hàng SL rất thân nhưng họ không ngờ tôi quen với anh Sĩ Phú. Khi thấy chúng tôi bước vào, họ ngạc nhiên thích thú, quấn quít bên chúng tôi suốt buổi tối hôm ấy. Chị Bảy, Sương, Trí đều vui mừng vì vừa biết được chúng tôi quen nhau, họ hết lời khen anh Sĩ Phúù. Anh trông rất trẻ, hoạt bát, khiêm nhường, nhã nhặn, anh đã chiếm hết cảm tình của họ rồi. Một vài thính giả của anh cũng tò mò nhìn anh, từ bàn ăn, khẽ gật đầu mỉm cười chào anh.

Sương và chị Bảy cứ khen là anh còn rất trẻ và luôn ca ngợi giọng hát của anh.

Các cô cũng không ngần ngại khen tôi hết lòng với anh làm tôi ngượng quá chừng. Tôi sợ anh nghĩ là chúng tôi một phe, căn dặn nhau trước để khen nhau trước mặt anh.

Nhìn nét bối rối của tôi, anh cười rất hiền và đùa bảo tôi:

- Anh đọc được hết ý nghĩ của em rồi, không sao đâu, các cô có dặn dò nhau trước rồi thì có sao đâu.

Tôi bật cười:

- Anh Phú hay thật ! Sao anh biết Lan nghĩ gì ?

- Dễ ợt.

Anh chợt hỏi tôi:

- Hồi trưa này em có nghe chương trình của anh Lê Bá Chư không ?

- Dạ em có nghe anh ạ !

- Khi anh nói về người bạn đồng hành, anh nghĩ đến em nhiều lắm, anh nói về em đấy !

- Vậy hở anh ? Em không để ý. Em không ngờ.

Rồi anh gắp những thức ăn ngon nhất vào chén cho tôi. Anh săn sóc miếng ăn cho tôi rất cẩn thận. Bây giờ nghĩ lại, không những anh săn sóc miếng ăn rất kỹ cho tôi ngày hôm ấy, mà cả cho 5 năm sau, cho đến khi anh bị bệnh nặng không còn gắp thức ăn được nữa thì thôi?

Viết đến đây, tôi nghẹn ngào, nhìn tấm ảnh lớn để trước quan tài của anh ngày nào, giờ đây truớc mặt tôi, trên chiếc máy vi tính. Ðôi mắt thật tình tứ, vương vấn nỗi buồn muôn thuở của anh nhìn tôi xót xa, không cầm được xúc động, tôi bật khóc. Nước mắt tôi rơi đầy trên cái bàn đánh của máy vi tính.

Ðương trẻ thế ngờ đâu anh mất
Anh ơi anh, sự thật không ngờ
Nhìn nhau lệ ứa mắt mờ
Mất người trong ảnh, bây giờ tìm đâu ?

(Nhìn ảnh- Thơ tiền chiến của Tương Phố)

Trang sách này, giọt nước mắt này, tâm sự này em xin gửi trọn về anh yêu dấu, Sĩ Phú.


Ðã hơn hai tháng từ ngày anh ra đi, không một ngày nào mà tôi không cầu nguyện cho anh.

Tôi nhớ đến lời trối trăn của anh, 12 ngày trước khi anh từ trần:

- Em phải viết đúng sự thật về anh, về những gì anh đã nói với em, em nhớ nhé Ngọc Lan ! Ðừng thêm bớt, nếu em viết sai, anh sẽ trở về bóp cổ em đấy.

Tôi không ngờ anh nói lên câu ấy, tôi nhìn anh trân trối :

- Bóp cổ ? Wow? Em hứa với anh là em sẽ viết lên sự thật, và em sẽ giữ lời hứa vì không muốn bị anh bóp cổ !

Sau buổi cơm tối, chúng tôi ở lại SL thật lâu để trò chuyện đến khi nhà hàng đóng cửa. Những người bạn ở SL lưu luyến tạm biệt chúng tôi.

Anh đưa tôi ra xe, anh nói:

- Thôi đêm đã khuya, mình chia tay đi em. Ngày mai em còn phải đi làm. Thôi em về ngủ sớm đi.

- Thế còn anh, tối nay anh đi về đâu ?

- Anh về nhà của anh Phòng, anh chị ấy đang chờ anh.

Anh Phòng là một người anh kết nghĩa với anh Sĩ Phú. Nhà anh Phòng ở không xa khu Little Saigon lắm và là nơi anh Phú cư ngụ mỗi khi từ San Jose xuống Quận Cam.

- Làm sao em liên lạc được với anh ? Tối mai là đêm nhạc rồi, em có còn gặp anh nữa hay không ?

- Em cứ chờ anh ở đó, anh sẽ tìm em.

Chúng tôi chia tay liền sau đó.

Ngày hôm sau tôi đi làm như thường lệ, anh không gọi cho tôi, mà tôi cũng không biết anh ở đâu mà gọi anh. Anh kín đáo như vậy đó.

Nhưng tôi tin rằng hãy còn quá sớm để đòi hỏi nhiều nơi anh. Nếu anh muốn nói chuyện với tôi, anh sẽ tìm tôi.

Buổi chiều hôm ấy, anh gọi tôi để nhắn nhủ một vài lời về đêm nhạc.

Chín giờ rưỡi tôi đến Ritz. Biết là giờ này anh chưa đến, nên tôi đi kiếm một cái bàn để ngồi chờ anh.

Ðây là lần thứ hai tôi đến Ritz, cả hai lần đều là vì anh Sĩ Phú.

Tôi không bao giờ thích những nơi chốn náo nhiệt, nhất là vũ trường, mà lại đến một mình như thế này thì thật là chuyện hiếm có. Tôi không cảm thấy thoải mái chút nào, nhưng vì anh hát ở đó , tôi buộc lòng đến để gặp anh.

Ban nhạc đã bắt đầu, các ca sĩ thường trực của vũ trường lần lượt ra trình diễn. Nhưng anh thì chưa thấy đến.

Mãi đến 11 giờ đêm, anh mới vào.

Tôi mời anh ngồi và băn khoăn hỏi anh:

- Ngày hôm nay có gì lạ không anh? Anh chị Phòng vẫn mạnh khỏe bình thường hở anh?

- Cảm ơn em, anh chị ấy vẫn bình thường. Em đến lâu chưa ?

- Em đến lúc 9 giờ30, trông chờ anh nãy giờ không thấy, em tưởng là anh không đến, em tính đi về rồi đó !

- Anh chị Phòng giữ anh lại nói chuyện, lâu lâu anh em gặp nhau một lần mà. Vả lại, anh ngủ dậy trễ sáng nay. Ðêm hôm qua em ngủ được không ?

- Cảm ơn anh, em ngủ ngon lắm !

Anh kêu nước ngọt cho hai chúng tôi.

Anh ngồi với tôi một lúc, sau đó người ta giới thiệu anh lên sân khấu, anh xin phép tôi cho anh đi lên. Ðêm ấy, anh không có dịp hát riêng một bản nhạc nào cho khán giả, nhưng anh và ca sĩ Hà Thanh đã hát chung với nhau nhạc phẩm Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa.

Khi giới thiệu bản nhạc này và những kỷ niệm, anh khôi hài dí dỏm:

- Thưa quý vị, Không biết cô Hà Thanh như thế nào chứ còn tôi và cô ấy thì không có một kỷ niệm nào... ướt át cả.

Khán giả cười ồ lên.

Vừa xong bản nhạc, anh bước chân xuống hậu trường là gặp ngay ca sĩ KL đang chờ ở đó.

Vì nể cô, anh ngồi lại nói chuyện với cô KL và các ca sĩ khác suốt đêm, bỏ tôi ngồi một mình cô đơn. Khi cô lên sân khấu để hợp ca, anh chạy mau về bàn tôi, anh rên nho nhỏ:

- Cô ấy đạp cái gót nhọn của đôi giầy cô lên đôi giầy của anh nhiều lần, thiếu điều cô ấy muốn nghiền nát chân anh ra, anh đau quá !

Tôi ngạc nhiên kêu lên:

- Tại sao anh lại để như vậy ? Sao anh không kêu lên cho cô ấy biết và về đây ngồi với em ?

Anh làm thinh. Mãi một lúc sau, anh ghé thật sát vào tai tôi nói nhỏ:

- Từ mãi bên Tây Ðức qua gặp anh. Thôi, không có gì hết, đừng nghĩ gì hết nghe em, hãy tội nghiệp và nhân nhượng người ta !

Sĩ Phú là như vậy. Cái gì anh cũng chịu đựng vì không muốn làm đau lòng ai, dù cho sự chịu đựng gây cho anh bao nhiêu thiệt thòi và rắc rối trong cuộc đời.

Sau đêm hát, anh và tôi đi tìm một chút gì để ăn. Anh bảo tôi để xe lại để đi chung một xe với anh. Khi anh vừa rồ máy xe, có một số thính giả từ đâu chạy đến, vịn vào xe của anh và nhìn vào trong thăm hỏi. Có một anh đưa tay cho anh bắt và tha thiết nói:

- Anh Sĩ Phú, anh khỏe không anh ? Em là thính giả của anh, em rất thích tiếng hát của anh.

Sĩ Phú tươi cười và cảm động đáp lại:

- Cảm ơn em, anh cũng mạnh. Hôm nay em vui không ?

Người thính giả trẻ vội nói :

- Vui lắm anh, anh nên hát thêm nhiều đi anh. Tụi em thích nghe anh hát lắm !

- Cảm ơn em, anh sẽ lần lần hát trở lại...Chào em...

Anh có vẻ bối rối vì sợ tôi buồn về vụ cô KL, nên lái xe loanh quanh. Mãi một lúc sau anh mới tìm ra đúng đường. Cả hai chúng tôi đều yên lặng, không ai nói với ai một lời.

Khi sắp đến khu Little Saigon, anh hỏi tôi:

- Em có biết nhà hàng nào còn mở cửa giờ này không ?

- Em có nghe quảng cáo trên đài phát thanh rất nhiều về nhà hàng KT mở cửa suốt đêm hay nửa đêm gì đó, anh muốn đi thử không ?

- Ở đâu vậy em ?

- Ngay trên đường Bolsa, trước chợ Bolsa Super Market đó anh.

Vào tiệm, tôi kêu một tô mì tôm cua, còn anh thì một tô cháo cá.

Anh khen cháo ngon và hỏi tôi:

- Em ăn ngon không ?

- Ðược lắm anh à !

Anh nhìn tôi ái ngại, anh biết tôi rõ lắm. Dù chỉ mới gặp nhau, nhưng vì qua những ngày tháng tâm tình, anh biết tính tôi rất khó khi đi ra ngoài ăn uống vì tôi lúc nào cũng cẩn thận và rất sạch sẽ. Tôi chỉ đến những nơi nào quen biết, vì tôi biết chủ nhân của nhà hàng đó và việc họ điều hành bếp núc như thế nào.

Ðây là một vấn đề lớn và là vấn đề duy nhất của chúng tôi. Còn tất cả những gì khác thì chúng tôi hòa thuận vô cùng.

Anh thì lúc nào cũng thích đi ăn nhà hàng, nhưng vì cái tính quá kỹ của tôi, nên đôi khi là trở ngại lớn. Anh không muốn tôi đi ăn tiệm miễn cưỡng vì anh, mà anh muốn tôi phải thưởng thức những thức ăn như anh. Anh buồn trong lòng và bứt rứt nếu tôi ăn không ngon. Anh luôn luôn săn sóc miếng ăn cho tôi, chiều tôi vô cùng và luôn luôn theo tôi đến nhà hàng nào tôi muốn đến.

Nhưng như vậy thì tội nghiệp và thật bất công cho anh nữa. Tôi không muốn anh chiều tôi mãi, nên đã cố gắng tập thay đổi chút ít để hòa mình vào trong mọi hoàn cảnh. Xưa nay tôi rất ít nấu bếp, nhưng vì anh nấu ăn quá ngon, tôi học rất nhiều từ anh và bắt đầu tập tành nấu nướng. Lần lần, tôi nấu ăn cũng không đến nỗi nào tệ.

Anh thích món tôi nấu ngon nhất là phở, và mãi về sau này, nhờ nấu ăn ngon miệng và sạch sẽ ở nhà, chúng tôi ít có bao giờ đi ăn ngoài nữa.

Nhưng, từ ngày anh mất đến giờ, tôi không còn tha thiết gì và cũng không vào bếp nữa. Ðối với tôi, Rượu ngon không có bạn hiền không ngon. Không còn anh nữa để săn sóc miếng ăn cho nhau, những món ăn ngon nay đã trở thành vô vị. Tôi ăn để mà sống lây lất cho qua ngày.

Ăn xong khuya hôm đó anh đưa tôi trở về Ritz để lấy xe, rồi tôi chạy theo xe anh để đưa anh về nhà anh Phòng. Anh ôm tôi và hôn tóc tôi nói lời từ giã vì trưa hôm sau anh về lại San Jose.

Vừa đến San Jose, anh gọi cho tôi biết anh đi về bình an và căn dặn tôi phải gìn giữ sức khỏe:

- Em phải uống nước nhiều hơn nữa, em uống quá ít nước.

- Cảm ơn anh đã lo cho em như vậy. Em hứa với anh, em sẽ uống nhiều nước từ nay về sau, anh đừng lo cho em nữa, nhé cưng !

- Khoảng hai tuần nữa anh sẽ xuống thăm em.

- Thôi anh à, anh đi lên đi xuống làm chi cho tốn kém. Anh cứ ở trên đó đi. Lâu lâu rồi hãy đi một lần cho đỡ tốn, nhé anh ! Khi nào rảnh, em sẽ lên thăm anh, chịu không ?

- Chịu !

Ðêm nào chúng tôi cũng nói chuyện và tâm tình đến quá nửa khuya mới đi ngủ. Trong thời gian này, chúng tôi bàn rất nhiều về âm nhạc VN. Anh phân tích từ giọng ca, từ lời hát, anh dạy tôi cách thẩm âm. Anh mở rộng sự hiểu biết về âm nhạc cho tôi. Thỉnh thoảng tôi hát nho nhỏ cho anh nghe về một bản nhạc nào đó. Anh nói anh rất thích nghe tôi hát nho nhỏ trong điện thoại, và anh còn khuyến khích tôi nên hát thường xuyên hơn. Tôi nói với anh:

- Em thật là dại dột, em đâu dám múa rìu qua mắt thợ !

- Thật mà em, anh rất thích nghe em hát !

Mà quả thực, anh hay thúc tôi hát nho nhỏ trong điện thoại cho anh nghe mỗi lần chúng tôi bàn về âm nhạc.

Hai tuần sau, anh thình lình gọi tôi ở sở, anh nói:

- Em đó hả, anh đã xuống đây rồi đó em !

Tôi mừng lắm nhưng trách anh:

- Sao anh không cho biết để em ra phi trường đón anh và anh không phải mướn xe cho đỡ tốn tiền ?

- Thôi, làm chi cho phí công em, anh mướn xe đi được mà.

- Nhưng anh sẽ bị tốn kém lắm, anh phải nghĩ đến đường dài chứ ?

- Rồi, anh nghe rồi, thế chiều nay gặp em được không ?

- Dạ được, ở đâu ? Anh về nhà em nhé ?

- Từ từ rồi tính. À này em, em có biết một nhà hàng nào gần nơi em ở không ?

- Chi vậy anh ?

- Vì anh không muốn em đi xa đến khu Little Saigon.

- Không sao hết, em không ngại đi xa.

- Nhưng anh muốn ăn đồ Mỹ tối nay.

- Vậy thì để em tính xem, em không biết nhà hàng Mỹ nào gần nhà em ngay bây giờ. Em sẽ kiếm trong yellow page, chút xíu anh gọi lại đi. À, hay là anh cho em xin số điện thoại nhà anh Phòng, chút xíu em gọi lại cho anh.

Anh cho tôi số điện thoại của anh Phòng.

Tôi nhớ, anh đã từng cho tôi biết anh rất lười ăn, lười nấu ở nhà, anh ăn uống cũng bất thường lắm, khi nào có dịp, anh hay đi ăn thịt bò bít tết ở nhà hàng Mỹ để bù vào những lúc thiếu ăn.

Tôi chọn một nhà hàng gần xa lộ để anh dễ tìm và nhà hàng này có bán món bò bít tết. Tôi gọi phone lại cho anh và hẹn gặp anh tại đó buổi chiều sau giờ làm việc.

Buổi tối hai chúng tôi gặp nhau tại bãi đậu xe của nhà hàng Galveston ở thành phố Placentia, chúng tôi ôm nhau và chào hỏi, tôi xúc động kêu lên:

- Trời ơi anh gầy quá, anh gầy vô cùng. Chỉ xa anh có hai tuần thôi mà anh lại gầy đến như vậy.

Anh nhìn tôi cười buồn, dí ngón tay anh vào trán tôi và không nói gì cả.

Chúng tôi chọn một bàn khuất để có một chút riêng tư. Rồi anh kêu món thịt bò anh thích. Không ngờ nhà hàng này làm bò bít tết mà theo anh, là the best. Anh nói họ làm rất ngon. Anh là dân chuyên ăn món này. Anh bảo với tôi là món này nhà hàng Việt Nam làm chưa ngon bằng nhà hàng Mỹ vì họ bỏ nhiều sốt quá không còn giống bò bít tết nữa mà là giống thịt bò xào. Theo anh bò bít tết phải mềm mại, khô ráo, thơm và nhất là miếng thịt phải dầy. Chúng tôi ăn uống và hàn huyên cho đến khi nhà hàng đóng cửa.

Tôi xin được trả tiền, nhưng anh nhất định không chịu, anh bảo chờ lần sau hãy trả.

Chia tay, anh nhất định không về nhà tôi, anh đi về nhà anh Phòng sau bữa ăn. Tôi cảm ơn anh đã xuống thăm tôi, rồi chia tay ra về.

Tôi giận anh một cách bâng quơ, lái xe đi về một nước không thèm nhìn lại anh sau khi ra khỏi bãi đậu xe. Lòng tôi lúc ấy buồn mênh mang. Một nỗi buồn khóù tả xâm chiếm tâm hồn tôi.

Gần một tiếng đồng hồ sau đó, tôi gọi điện thoại cho anh ở nhà anh Phòng. Giọng anh tươi hẳn lên khi nghe tiếng tôi. Chúng tôi nói chuyện thật lâu cho đến khi cả hai đều buồn ngủ.

Trưa ngày hôm sau anh trở về San Jose và gọi tôi liền sau đóù, anh tỏ vẻ rất quyến luyến với tôi. Tôi cảm thấy thương anh vô cùng.


Anh nói một cách rất tha thiết:

- I miss you so much, anh nhớ đôi mắt em vô cùng !

Tôi rất cảm động vì lời nói của anh, nhưng tôi cũng rất thực tế:

- Em cũng nhớ anh lắm nhưng em tiếc cho anh quá đi thôi, tại sao anh lại đến thăm em chỉ một chút ngắn ngủi rồi về để tốn kém quá nhiều. Bộ anh không tốn tiền vé máy bay hay sao ? Tiền mướn xe rất đắt nữa. Em mong anh đến thăm em vài ngày, để em có dịp đi chơi với anh đây đó và sống với nhau vài ba ngày. Nhà em có đủ phòng cho anh ở mà.

- Anh biết, anh biết, nhưng anh không muốn làm phiền em. Anh quen rồi, anh yêu cái tự do của anh rồi, anh không muốn lệ thuộc vào người khác. Nếu anh tiếc tiền, không mướn xe, để em lái xe chở anh đi đây, đi đó, có phải quá bận rộn cho em không, còn thì giờ đâu em lo cho em và con em ? Và hơn nữa, em còn phải đi làm. Anh ở nhà em có cần đi đâu cũng sẽ rất bất tiện.

- Thì anh có thể đưa em đi làm rồi lấy cái xe đi đâu thì đi, buổi chiều đi đón em.

- Rồi anh cần đi thăm mấy ông bạn già của anh ở mãi tận Los Angeles, phải nhớ canh chừng giờ để về đón em, em có thấy sự bất tiện hay không ?

- Thôi không sao, nếu anh đã nói như vậy thì em xin chịu vậy.

- Nhà anh Phòng đông, có anh ấy hàn huyên đỡ buồn. Mấy đứa con của anh chị cũng thương chú Phú lắm !

Những ngày đầu chúng tôi gặp nhau, anh có vẻ rất ngượng ngập và bối rối, anh tránh sự đụng chạm tối đa. Lúc đó tôi không biết tại sao. Sau này tôi mới vỡ lẽ.

Anh Bình nói với tôi sau ngày 26 tháng 7 năm 2000 :

- Phú nó nhát gái lắm chị Lan ơi ! - À ra thế !

- Ngày xưa lúc còn ở Việt Nam, cả bọn đi chơi chung với nhau, đứa nào cũng đua nhau mà tán các cô, chỉ có mình Phú nó ngồi ỳ ra một chỗ, không dám đụng đến ai và không bao giờ dám tán ai cả. Nó nhát gái lắm !

Trong suốt thời gian đầu tôi quen anh, tôi cảm nhận một điều khó tả nhưng không biết phải gọi cái đó là gì. Khi tôi ôm anh lần đầu tiên, tôi thấy người anh nóng ran, nóng như lửa và run lên. Tôi cứ tưởng là anh nóng và run vì bị xúc động. Nhưng không ngờ lý do là tại gần một người đàn bà mới quen, anh run lên như sấy.

Cũng có những lúc tôi cứ tưởng là anh không thương tôi. Nhưng tôi nghĩ nếu không thương tôi thì tội gì anh lại phải đi xuống đi lên cho khổ sở và tốn kém như vậy. Những lúc gần nhau, anh lúng túng, và bối rối ghê lắm, nhưng khi anh ở xa, anh là Sĩ Phú yêu dấu của tôi. Anh bình thường và rất thoải mái, anh nói chuyện với tôi suốt đêm cũng được. Vì thế, tôi đề nghị với anh là đừng nên đi xuống thăm tôi nữa.

- Anh ơi, anh nên để dành tiền đi cưng. Lâu lâu em đi lên ấy thăm anh là được rồi. Em đi lên đó rẻ hơn anh xuống em nhiều. Em là đàn bà, em chắt chiu lắm, anh là đàn ông, quá dễ dãi, anh không chịu chọn lựa mua giấy máy bay cho rẻ, cứ bạ đâu mua đấy thành ra mua đắt.

Mà thật vậy, anh tâm tình với tôi trong lần gặp gỡ thứ ba:

- Chiều nay anh đi lang thang ngoài phố, chợt nghĩ đến Ngọc Lan và nhớ em quá chừng, anh lái xe đi thẳng ra phi trường, mua vé xuống đây thăm em luôn. Vì vậy anh không có đem theo quần áo ngủ hay kem đánh răng gì hết.

Tôi xúc động ôm anh vỗ về, thì thầm:

- Trời ơi, tội nghiệp anh quá đi thôi, anh nghệ sĩ và đa tình như thế là cùng !

Anh luôn nôn nóng muốn gặp tôi, nhưng khi gặp mặt rồi, thì anh luôn dè đặt, trịnh trọng và lúc nào cũng gìn giữ ý tứ. Anh không bao giờ chạm đến tôi trừ những lúc chúng tôi ôm nhau chào mừng ngoài đường khi anh mới xuống. Tình bạn giữa hai chúng tôi lúc đó, đẹp và cao quý vô cùng. Dần dần tôi cảm thấy anh đỡ ngượng ngùng và bớt bối rối hơn. Mỗi lần gặp tôi sau này, trông anh thoải mái và tự nhiên hơn những lần trước nhiều.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, ổi xanh, longha

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 26 Aug 2008

Chương Chín
Cái Phút Ban Ðầu Lưu Luyến Ấy

Nhân dịp lễ Ðộc Lập 4 tháng 7 năm 1996, được nghỉ 3 ngày lễ cuối tuần, tôi mua vé máy bay lên San Jose thăm anh.

Lúc đầu anh không chịu cho tôi đi, anh bảo tôi hãy ở nhà, để anh xuống. Nhưng thấy tôi đã nhất quyết nên anh đành phải chiều và nôn nóng chờ đợi. Anh gọi và căn dặn tôi đủ điều rất kỹ càng.

Tôi may mắn có một người bạn quen trên thành phố San Jose. Cô có một căn nhà cho mướn, người mướn nhà mới vừa dọn ra được hai tuần, cô vừa dọn dẹp nhà xong nhưng chưa kịp cho người khác mướn. Cô có nhã ý cho chúng tôi mượn ngôi nhà này trong 3 ngày. Một giờ rưỡi trưa anh ra phi trường đón tôi ánh mắt rất vui mừng nhưng, hình như, sự rụt rè và một chút gì e ngại vẫn còn trong anh. Khi tôi ôm anh ở phi trường, tôi thấy anh run lên. Tôi đùa với anh:

- Chắc anh nhớ em lắm nên mới run lên như vậy !

Anh cười hiền hòa, không nói một lời nào. Một tay xách va li cho tôi một tay anh nắm tay tôi đi về chỗ đậu xe . Anh để đồ đạc vào chiếc Volvo trắng của anh rồi đi vòng lại để mở cửa xe cho tôi.

Anh hỏi tôi:

- Em có đói bụng không ?

- Em đói chút thôi anh à.

- Anh muốn đưa em đến tiệm phở của anh Dực.

- Thế thì đi anh !

Nghe đến tiệm phở của anh Dực, tôi đồng ý liền và muốn đến đó xem sao vì tôi nghe anh Sĩ Phú nói về anh Dực cũng khá nhiều. Anh kể tôi nghe trường hợp anh và anh Dực gặp nhau như sau:

Một năm rưỡi trước khi tôi quen anh Sĩ Phú, một đêm kia anh đi tìm một tiệm ăn Việt Nam để ăn tối. Tiệm Phở Bình ở Sunnyvale cách nhà anh không xa mấy. Bụng đói cồn cào, anh kêu một tô phở chín vè . Anh Dực là người đem tô phở ra cho anh Phú. Sau khi ăn thử một vài miếng, anh tỏ vẻ không tha thiết với tô phở cho lắm mặc dù anh rất đói bụng? Viết đến đây, tôi vội nhắc điện thoại gọi lên San Jose cho anh Dực để hỏi thêm những chi tiết. Ở đầu dây bên kia là anh Dực:

- Anh Dực ơi, Ngọc Lan đây anh, anh khỏe không ?

Anh Dực vui vẻ trả lời:

- Cảm ơn Lan, anh bình thường, em cũng khỏe chứ ?

- Dạ cảm ơn anh, em đang viết đến đoạn anh và anh Phú gặp nhau lần đầu tiên, xin anh cho em biết rõ hơn những gì anh và anh Phú nói với nhau trong ngày đầu tiên hai anh gặp nhau. Anh Phú có kể cho em nghe rồi, nhưng em muốn nghe thêm cho đầy đủ từ phía anh. Chiều ý tôi, anh Dực kể lại về cuộc gặp gỡ với Sĩ Phú như sau:

Lúc đó, anh Sĩ Phú đang chăm chú nghe một băng cassette bằng cái headphone. Anh Dực không biết người đàn ông này là ngoại quốc hay Việt Nam vì anh ta cao lớn đẹp trai, trông giống người ngoại quốc. Tiệm phở của anh ít có người Việt, vì tiệm này trước đó là một tiệm ăn của người Mễ. Nên anh Dực mới đến làm quen và hỏi anh Phú:

- Xin lỗi, anh có phải là người Việt Nam không ?

Anh Sĩ Phú từ tốn và lịch sự trả lời:

- Tôi là người Việt Nam, có gì không, thưa anh ?

- Xin lỗi anh, anh đang nghe băng nhạc gì đấy, tôi có một cuốn băng này tôi muốn cho anh nghe.

- Băng gì thế anh ?

- Ðây là cuốn băng nhạc của Sĩ Phú trước 1975. Anh có biết không, tôi rất thích nó và xem đây là hành trang duy nhất mà tôi mang theo khi qua Mỹ đó anh ạ !

Nhưng anh Sĩ Phú từ chối không chịu nghe, anh nói anh chỉ thích nghe Sĩ Phú hát ở bên Mỹ sau 1975 mà thôi. Anh Dực mới bảo:

- Nhưng mà Sĩ Phú qua đây đâu còn hát hay nữa anh, ông ta dồn hơi, nén hơi nhiều quá đi mà không được tự nhiên như xưa nữa. Anh biết không, đối với tôi Sĩ Phú là người gìn giữ kỷ niệm cho chúng tôi. Chúng tôi rất thích nghe giọng hát của Sĩ Phú ngày xưa vì nó gợi cho chúng tôi rất nhiều kỷ niệm yêu dấu mà chúng tôi không thể nào quên được.

Sĩ Phú rất bình thản, không tỏ vẻ phiền giận gì hết, anh chỉ cho anh Dực biết là anh muốn được nghe cái cassette mà anh đang nghe thôi.

Vừa lúc đó, em gái của anh Dực là cô Bình và người em trai tên Long bước vào tiệm, Bình cúi đầu chào khách, cô ấy nhận ra người khách không ai khác hơn là Sĩ Phú. Nên sau khi anh Dực nói với Bình về ông khách này, Bình kéo anh vào bếp rồi nói nhỏ:

- Người khách đó là Sĩ Phú đấy !

- Thật không ?

- Chứ còn ai nữa, chúng em biết Sĩ Phú mà !

Anh Dực vỡ lẽ hối hận, chạy đến bên Sĩ Phú, vui cười xin lỗi, hai anh em nhìn nhau thông cảm.

Anh Dực hỏi Sĩ Phú:

- Tại sao anh không ăn hết tô phở ?

Anh Sĩ Phú trả lời:

- Nước phở của cậu ngọt thì ngọt thật, nhưng không phải là nước phở vì nó không có vị phở. Không có vị phở, thì nó chỉ là canh mà thôi.

Anh Dực nóng lòng hỏi Sĩ Phú:

- Anh có biết nấu cách nào để cho đúng vị phở không ? Tôi rất mong muốn biết được phương thức để nấu cho đúng anh à !

Anh Sĩ Phú đóng góp cho anh Dực một số ý kiến. Hai anh em bắt đầu tìm tòi nghiên cứu cách nấu phở từ ngày ấy.

Theo anh Dực kể thì, hai anh đã bỏ công ra nghiên cứu gần 50 công thức nấu phở. Ðêm nào anh Phú cũng đến tiệm phở của anh Dực trò chuyện và cùng nhau nấu phở cho đến 11 giờ đêm. Anh Dực cảm động kể cho tôi nghe những đêm mưa gió bão bùng, hai anh em cùng nhau trò chuyện, bàn về âm nhạc, thi văn, vừa nấu phở, vừa đọc thơ, anh có nhiều kỷ niệm rất đẹp về Sĩ Phú.

Sáu tháng sau đó, tiệm phở Bình bán từ 36 đô la một ngày lên đến 5 hay 6 trăm đô la một ngày. Và từ đó đến nay, tiệm phở Bình là tiệm phở đắt khách nhất ở Sunnyvale, mỗi buổi trưa, anh thu được trên dưới khoảng 2000 đô la.

Anh Dực hãnh diện cho tôi biết vào mỗi buổi trưa, có khoảng ba bốn lượt khách đến ăn. Họ ngồi đầy khắp nơi trong tiệm phở và ngoài hành lang, anh nấu khoảng 400 tô phở mỗi buổi trưa.

Anh Dực không quên công anh Sĩ Phú:

- Cái tiệm này thành công là nhờ cái tài nêm nếm rất bén nhạy của anh Phú đấy, tinh vi vô cùng. Có một lần, anh nấu cho anh Phú một tô phở, anh cố tình để 10 miếng thịt chín anh vừa vớt ra và một miếng thịt anh xắt ra trước đó 3 tiếng đồng hồ. Anh Phú lôi cái miếng thịt cũ 3 tiếng đồng hồ ra và nói:

- Tôi nếm thấy miếng thịt này nó có cái vị khác mấy miếng kia, nó vẫn ngon vẫn thơm nhưng nó đã cũ rồi.

Anh Dực nói với tôi:

- Công thức nấu phở của anh Phú, anh vẫn giữ đến bây giờ không thay đổi.

Anh Sĩ Phú xuất hiện thường xuyên ở tiệm phở của anh Dực. Anh hay vào bếp phụ các anh chị em trong đó. Khách Việt Nam họ thấy anh ở đó thường xuyên, lâu ngày, moị người cứ tưởng tiệm phở Bình là của anh Phú, nên họ đặt tên phở Bình là phở Sĩ Phú.

Cái đặc điểm thứ nhất của Phở Bình là rất hậu hĩ, không ai đi ra khỏi tiệm mà còn chưa no. Một tô phở thật nhiều bánh phở và thịt. Ðã có bao nhiêu tờ báo của Mỹ đã viết về tiệm phở này và khen ngợi hết lời. Báo San Jose Mercury News gọi tiệm phở này là một thiên đường Phở của họ.

Cái đặc điểm thứ hai của tiệm phở này là do anh Dực, người có máu rất nghệ sĩ và mê thi phú. Anh đã biến cái tiệm phở thành một nơi thi văn hội ngộ với bạn hữu trong một bầu không khí ấm cúng và thân mật.


Bây giờ thì tôi xin trở lại lúc anh Phú đưa tôi đến tiệm phở của anh Dực lần đầu tiên. Anh Dực đi đâu vắng, chúng tôi ngồi chờ. Anh Phú vào bếp. Một lúc sau anh Dực về.

Anh là một người đàn ông ngoài 50 nhưng diện mạo phong cách anh rất trẻ trung, chững chạc. Anh có một dáng vóc nghệ sĩ,một gương mặt hiền hậu với mái tóc muối tiêu và rất hoạt bát, vừa thấy anh là tôi có cảm tình ngay.

Anh Sĩ Phú giới thiệu tôi với anh Dực. Anh chào đón tôi bằng một nụ cười thật tươi và thân thiện:

- Chào Ngọc Lan.

Tôi đứng dậy chào anh:

- Kính chào anh Dực. Em nghe anh Phú nói về anh rất nhiều mà mãi đến giờ mới hân hạnh được gặp.

- Tôi và anh Phú thân nhau như anh em. Chúng tôi xem anh Phú như người trong gia đình vậy Ngọc Lan à !

- Thế thì còn gì quý cho bằng, thưa anh !

- Ngọc Lan lên đây chơi lâu không ?

- Rất tiếc chỉ ba ngày lễ thôi anh ạ !

- Ô ! Vậy thì anh chúc Ngọc Lan vui !

- Cảm ơn anh.

Rồi hai anh xoay qua, líu lo trao đổi vài câu thăm hỏi rồi vào bếp.

Anh Dực lăng xăng với chúng tôi. Tự tay làm tô phở cho anh Phú, trong khi anh Phú vào bếp, làm cho tôi một tô và đem đến tận bàn.

Tôi cảm động cảm ơn và mời anh cùng ăn.

Tôi và anh Sĩ Phú không bao giờ bỏ tương và ớt vào phở. Chúng tôi quan niệm, muốn nếm vị phở thật sự, thì phải nếm không, chứ còn bỏ tương ớt vào thì tô phở nào cũng như tô phở ấy, tức là không phải nước phở nữa, mà là nước lèo tương ớt và vì thế, mình đánh lừa cái khẩu vị của mình, phở có ngon dở cũng khó biết.

Sau khi ăn hết tô phở, tôi nói với anh Phú:

- Phở ngon thật anh à, em không khen nịnh các anh đâu, thịt rất thơm và nước dùng quả thật có vị phở thơm tho và thật sắc.

Chúng tôi ở lại trò chuyện với anh Dực một lúc rồi xin phép ra đi.

Rời tiệm phở Bình, chúng tôi về nhà trọ của Hân, người bạn tôi.

Ngôi nhà cách tiệm phở không xa. Anh đưa tôi vào nhà trước rồi trở ra xe đem va li của tôi vào. Ngôi nhà khá xinh xắn, một tầng trệt thuộc loại nhà cũ, vườn tược trước sau khá rộng rãi tươm tất, trong nhà còn một ít đồ đạc cũ kỹ có lẽ chủ cũ để lại, 2 cái ghế xếp ở phòng ăn, trong phòng ngủ có hai tấm nệm cũ rích chồng lên nhau.

Anh mở cửa cho thoáng khí, xoay người lại, tôi đứng ngay sau lưng anh. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, anh hôn tôi, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Ðây là lần đầu tiên anh hôn tôi sau hơn mười tháng trời kể từ ngày chúng tôi gặp nhau trong tiệc cưới con gái người bạn mùa thu năm 1995.

Người anh nóng ran như lửa, run lên bần bật.

Tôi hoảng hốt hỏi:

- Anh có sao không ? Tại sao anh nóng như vậy ?

Anh điềm tĩnh trả lời:

- Tại vì anh bị bối rối.

- Nhưng tại sao anh bị bối rối?

- Tại vì anh là như vậy, anh không quen?

Anh bỏ lửng câu nói.

- Em có xa lạ gì với anh đâu ! Mình quen nhau cũng lâu rồi.

- Anh biết, anh biết, anh xin lỗi em.

- Anh đâu có lỗi gì mà xin lỗi, em xin lỗi anh thì có, vì đã làm cho anh bối rối.

Anh nhìn ngoài cửa sổ, một con chim bay là đà trong sân sau vườn. Anh kêu lên:

- Em có nhìn thấy con chim đó không ? Em có biết con chim đó là loại nào chim nào không ?

Tôi lắc đầu:

- Em chịu thua thôi, đối với em, ngoài mấy con chim sẻ ra, em thấy con chim nào cũng giống nhau, nhưng có phải là con Hummingbird không anh ?

- Ðúng đấy, có lẽ nó đang kiếm tìm nước, để anh đi tìm một cái lon đựng nước cho nó uống . Em ra ngoài với anh đi.

Chúng tôi ra ngoài sân, cây cối um tùm mát mẻ, chim chóc bay đầy, gọi nhau líu lo. Tôi đứng ngây người trước tấm tranh tuyệt đẹp ấy, lòng tràn đầy hạnh phúc. Một lúc sau, tôi đi vào nhà, khệ nệ bưng ra hai cái ghế xếp để ở trong sân xi măng sau nhà. Anh lấy nước cho con Hummingbird uống. Chẳng mấy chốc, cả đàn chim lũ lượt tìm đến.

Chúng tôi ngồi ngoài vườn nói chuyện cho đến khi trời tối.

Tôi rủ anh đi chợ để mua một số vật dụng như đèn cầy, muỗng đĩa giấy, khăn lau tay, nước ngọt, trái cây vân vân...

Tối hôm đó, anh đưa tôi đi ăn, tôi không còn nhớ tên của nhà hàng này nữa.

Trong lúc chúng tôi gọi món ăn, tôi nghe thoang thoảng tiếng nhạc của bài Mắt Biếc mà anh hát ngày nào cho trung tâm Asia. Tôi kêu lên:

- Bài Mắt Biếc của anh đó, có lẽ người ta nhận ra anh

- Có lẽ...

Một người khách trẻ từ bàn bên kia nhà hàng đi qua bàn chúng tôi.

- Anh Sĩ Phú, có phải anh là Sĩ Phú không ?

Anh Sĩ Phú gật đầu chào, tươi cười:

- Vâng, chào em !

Anh ta giới thiệu là một thính giả rất ái mộ giọng hát của anh. Rồi anh vẫy tay gọi người vợ đến và giới thiệu:

- Ðây là bà xã của em, hai đứa em đều thích nghe anh hát.

- Cảm ơn các em. Có lẽ các em có băng của Sĩ Phú nhiều hơn anh ?

- Làm gì có đâu anh, vì anh có chịu ra CD đâu?

Cô vợ tiếp lời:

- Tụi em chờ anh lâu quá trời ! Ði tìm CD của anh mỏi? con mắt vậy đó...tiệm nào cũng vào hỏi, nhưng họ nói anh không ra CD nữa.

Lời than phiền dịu dàng mộc mạc của cô gái trẻ làm anh mỉm cười, anh nói:

- Thì anh đã ra 2 CD Tà Áo Xanh và Trái Tim Hững Hờ rồi đó, các em có chưa ?

Anh chồng nói:

- Em mua liền sau đêm anh ra mắt ở San Jose, nhưng CD của anh hiếm lắm, lâu lâu anh mới ra một lần, anh ráng ra thêm nhiều nữa đi anh.

- Rồi, anh sẽ ra thêm CD nữa, mặc sức cho các em nghe nhé, được rồi?được rồi...anh cảm ơn các em.

Họ nói vài lời trao đổi với anh trước khi chào chúng tôi và trở lại bàn ăn.

Chúng tôi về nhà trọ thì trời đã khuya lắm rồi.

Không có điện trong nhà, ngôi nhà tối âm u , ánh đèn đường quá yếu ớt, không đủ soi sáng vào bên trong nhà, tôi mò mẫm đốt nến lên.

Nhìn ngọn nến bập bùng, tôi thấy một sự ấm áp lạ thường len lỏi trong tim. Lúc ấy tôi chợt nhớ lại những kỷ niệm xa xưa nơi quê nhà, mỗi khi mưa gió bão bùng, điện bị cúp, mẹ tôi thường đốt nến, căn nhà lại trở nên ấm cúng lạ thường. Tôi lại liên tưởng đến tiếng ru con êm đềm trong những đêm mưa gió não nùng của người hàng xóm sát vách...

Tôi nói cho anh nghe ý tưởng của tôi, anh gật đầu:

- Không kỷ niệm nào bằng kỷ niệm quê hương mình, em nhỉ ? Dù cho ở đây có như thế nào đi nữa, anh vẫn thấy quê hương mình là đẹp nhất và yêu dấu nhất. Dù cho quê hương mình có nghèo xác xơ đi nữa, vẫn là quê hương yêu dấu.

Tôi đi rửa mặt, đánh răng.

Anh ra xe lấy một cái chăn rạ mà lúc nào anh cũng để ở trong xe, vì tôi căn dặn anh phải luôn luôn để một cái trong xe phòng hờ trường hợp khẩn cấp bị kẹt vì mưa bão hay động đất thì ít ra có cái mà đắp cho ấm.

Anh đem chăn đắp cho tôi:

- Good night em !

- Good night anh !

Tôi nhắm mắt lại.

Một lát sau, tôi nghe tiếng nước anh tắm ào ào trong phòng tắm.

Anh ra khỏi phòng tắm lúc nào tôi không hay vì đã ngủ thiếp đi rồi.


Sáng hôm sau anh dậy trễ, anh từng nói là anh phải ngủ tám tiếng mỗi đêm. Còn tôi từ bao năm nay, chỉ ngủ nhiều nhất là sáu tiếng. Tôn trọng giấc ngủ của anh, tôi yên lặng ra xe lấy thêm đồ đạc vào. Trang điểm xong, tôi đi ra ngoài sân ngắm nhìn cây cối, chim chóc. Lon nước anh để cho chim uống hôm qua đã có phần nào vơi đi, tôi đổ nước thêm vào cho đầy. Tôi ngồi lên cái ghế mà tôi bỏ quên ngoài vườn tối hôm qua. Lấy giấy ghi lại những gì đã xảy ra trong thời gian tôi quen anh cho đến lúc bấây giờ. Vì tôi dự định một ngày nào đó, tôi sẽ viết sách về anh.

Tôi nhớ, có một lần, khi tôi cho anh biết là tôi sẽ viết sách về anh, Sĩ Phú nhìn tôi cảm động, nhưng rồi ngần ngừ, bảo tôi:

- Thôi em à, có thể người ta sẽ nghĩ là em biện hộ cho anh hay viết sách để khen ngợi anh chỉ vì em mê anh đấy!

- Khen ngợi thì quả thật là anh có quá nhiều điều đáng được khen ngợi. Nhưng em sẽ viết rất thật về anh, không thêm không bớt, anh có cho phép em không?

Anh không nói gì hết.

Nắng lên dần, tôi vào nhà.

Anh vừa mới thức giấc, không thấy tôi nên anh đi tìm.

Chúng tôi sửa soạn đi ăn sáng. Anh đi thay quần áo. Tôi viết nốt phần còn lại.

Tiệm phở của anh Dực đóng cửa ngày Chủ Nhật. Nhưng vì tôi đòi ăn phở, nên anh đưa tôi đến tiệm phở Cường.

- Phở Cường khá ngon, ngang ngửa không thua gì phở Bình của mình đâu anh ạ !

- Thì vì anh thấy ngon, nên đưa em đến đây để xem em có thấy như anh hay không.

Rồi anh tiếp:

- Anh Dực không chịu lấy tiền của anh, nên nhiều khi anh ngại không muốn đến tiệm anh ấy. Ăn không hoài của người ta kỳ lắm, anh không thích.

- Thì anh cứ bắt anh Dực phải lấy tiền.

- Anh ấy nhất định không chịu. Mẹ của anh Dực nói với anh Phú mà trả tiền thì bác sẽ từ Phú đấy !

Anh nhép miệng:

- Bà cụ quý anh lắm !

Tôi tươi cười và đùa với anh:

- Rõ khổ cho anh quá đi thôi, em ước gì em có quen một người bạn thân là chủ tiệm phở như anh.

Anh lườm tôi:

- Thì em cứ ở trên này để mà đi ăn phở Bình free suốt ngày.

Rời phở Cường, anh đưa tôi ra khu phố Việt Nam chơi.

Khu chợ Việt Nam ở San Jose khá lớn, cũng phồn thịnh và tấp nập người mua kẻ bán đông đảo không thua gì khu Little Saigon của quận Cam, miền nam California. Anh biết tôi thích ăn bánh choux cream của tiệm bánh Hồng Vân nên chở tôi đến đó. Tôi rất mê bánh sữa của họ, nhất là loại sầu riêng. Phải nói rằng bánh sữa của Hồng Vân rất ngon, rất tuyệt vời. Bất cứ khi nào có dịp lên San Jose, là tôi nhất định phải đi đến tiệm bánh Hồng Vân mua cho bằng được vài hộp bánh này đem về bỏ tủ lạnh để dành ăn. Tôi cũng không quên mua thêm vài hộp để làm quà cho gia đình, bạn bè.

Buổi chiều đi ăn, chúng tôi gặp ca nhạc sĩ Trịnh Nam Sơn ở nhà hàng và sau đó là gặp một vài người bạn lớn tuổi của anh Sĩ Phú. Bạn bè xúm lại quanh anh nói chuyện, nhưng tôi thấy anh rất ít nói, chỉ ngồi lắng nghe.

Thấy tôi có vẻ mệt mỏi và buồn ngủ, anh chia tay họ ra về.

Chúng tôi tản bộ một lúc trước khi lên xe.

- Không ngờ anh quen nhiều người quá nhỉ !

- Cũng thường thôi em à, anh ở trên này lâu rồi, dần dần thành phố này trở nên nhỏ đi vì đi đâu cũng thấy người quen.

Tôi đổi đề tài:

- Em thấy thính giả vẫn còn thương anh lắm đấy. Hai ngày nay, đi đâu em cũng thấy những sự thương yêu, chào đón và cảm tình của thính giả dành cho anh. Em nghĩ là anh nên hát thêm. Có lẽ anh nên ra thêm CD đi anh !

- Anh cũng đang nghĩ đến điều ấy. Ðể từ từ rồi anh làm. Anh còn có thể hát rất nhiều. Em đừng lo.

Ngày vui nào rồi cũng tàn.

Ngày chia tay đến. Anh đưa tôi ra phi trường. Trong khi ngồi chờ chuyến bay, anh cảm ơn tôi đã lên thăm anh. Chúng tôi vô cùng bịn rịn, lưu luyến chia tay. Anh vuốt tóc tôi và nói:

- Vài tuần nữa thu xếp công việc xong rồi, anh sẽ xuống thăm em.

- Anh ráng ăn uống đầy đủ. Ðừng lười ăn nhé anh !

Rồi tôi khuyên nhủ anh:

- Anh chịu khó lại tiệm anh Dực đi anh. Anh em có nhau cho vui, em không muốn anh ở nhà một mình, buồn lắm. Em quý anh Dực lắm đó.

- Em đừng lo, anh với anh Dực như anh em trong gia đình rồi.

- Vậy thì anh đừng ngại ăn phở free nhà anh ấy nữa, anh ăn uống có bao nhiêu đâu ? Anh phải nghĩ đến tấm lòng của anh ấy hơn là đến một hai tô phở.

- Anh sẽ nghe lời em !

Chuyến bay sắp sửa bắt đầu, tôi đứng dậy chuẩn bị hành lý, hai chúng tôi ôm nhau bịn rịn, lưu luyến không muốn rời nhau.

Tôi bước chân ra đi, lòng buồn man mác, mang theo một kỷ niệm đẹp tuyệt vời và để lại sau lưng một người mà tôi yêu quý vô ngần.


Viết đến đây tôi dừng lại, đi xuống bếp kiếm một cái gì ăn cho đỡ dạ. Ăn xong, tôi sực nhớ là phải gọi Hòa Thượng Thích Chơn Thành của chùa Liên Hoa. Hôm nay là ngày 8 tháng 10, năm 2000. Tức là 82 ngày từ ngày anh mất. Tôi sắp sửa làm lễ 100 ngày cho anh.

Tôi may mắn được Hòa Thượng Thích Chơn Thành trả lời điện thoại.

- Thưa thầy, con đây, Nỗi Buồn Thiên Thu đây !

- À, Nỗi Buồn Thiên Thu, sao hôm rày con đi đâu mà không thấy con đến ?

- Thưa Thầy, hôm rày con rất bận, nhưng con vẫn nghĩ và nhớ đến thầy lắm !

- Con bận chuyện gì quá vậy ?

- Thưa thầy, con phải lo viết cuốn sách cho anh Phú, rồi con đang lo hoàn thành cái CD mới nhất của anh để kịp ra mắt trong dịp 100 ngày sắp tới. Rồi nào là con đang lo làm trang webpage trên Internet cho anh, và con còn phải làm việc một ngày mười tiếng đồng hồ ở sở vì thế con làm sao còn thì giờ đi đâu nữa ?

Thầy Chơn Thành ngạc nhiên hỏi tôi:

- Con ra CD gì nữa vậy ?

- Dạ thưa thầy, CD cuối cùng Chờ Em nhưng con hy vọng nó không phải là CD cuối cùng. Nhưng dù không đi thăm thầy được, con vẫn gọi điện thoại hỏi thăm thầy nhưng không lần nào gặp được thầy cả. Chắc chắn tuần sau con sẽ ghé chùa.

- Thầy cảm ơn con.

- Thưa thầy, sắp đến 100 ngày của anh Sĩ Phú rồi, con muốn bàn chuyện với Thầy hay Diệu Minh để chuẩn bị ngày này cho anh.

- Ðược rồi, con nói chuyện với Diệu Minh đi, Nỗi Buồn Thiên Thu đây, Diệu Minh ơi !

Sở dĩ thầy Chơn Thành gọi tôi là Nỗi Buồn Thiên Thu vì sau đám tang anh Phú, tôi có tâm sự với thầy rằng, sự mất mát này là một mất mát to lớn cho đời tôi, và nỗi buồn khủng khiếp này tôi gọi là nỗi buồn thiên thu. Không có một bút mực nào trên thế gian này có thể diễn tả được nỗi lòng tôi lúc ấy.


Sau khi lo xong vụ tổ chức 100 ngày cho anh, tôi đi ra ngoài sân trước nhà để tưới cây cỏ. Dù có máy tưới tự động, nhưng tưới cây ban đêm là một cái thú cho tôi, tôi tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn khi nhìn hoa lá cỏ cây. Sân trước nhà tôi dài và kín đáo. Ai vào nhà cũng đều đi qua một cái sân hẹp và dài đầy những loại hoa đủ màu sắc với cây lá xanh um chào đón hai bên. Mùi hương ngạt ngào của hoa Ngọc Lan trước cửa làm tôi chợt nhớ đến một người. Tôi nhớ anh, nhớ vô cùng. Tôi nhớ ngày nào anh trồng cây Ngọc Lan trong vườn trước cửa nhà cho tôi. Thỉnh thoảng anh ra hái cho tôi một hoa Ngọc Lan đem vào để trong một cái dĩa nhỏ trên bàn ăn. Chúng tôi thường dùng cơm tối hằng đêm với hương hoa Ngoc Lan thoang thoảng dịu dàng.

Ôi kỷ niệm, tất cả giờ đây chỉ là kỷ niệm.

Rồi, một nỗi buồn chợt đến, buồn héo hắt, buồn tả tơi, nỗi buồn làm buốt giá hồn tôi, người tôi như tê đi, tim tôi se thắt lại. Tôi nhìn chung quanh, hơn hai tuần nay tôi không ra ngoài nhìn cây cỏ, bây giờ chúng nẩy nở um tùm che phủ gần kín lối đi vào nhà. Những dây leo, hoa dại phủ gần kín bức tường ngăn chia nhà tôi và nhà bên cạnh. Tôi nhìn những cây đinh đóng trên bức tường đá, những sợi dây kẽm mỏng nối liền những cây đinh với nhau để cho những loại hoa leo được bám vào tường dễ dàng hơn. Tôi nhớ ngày xưa anh đã bỏ hết mấy buổi chiều đóng đinh trên tường đá để giăng dây cho tôi, anh đã chăm sóc từng cụm hoa, bụi cây cho tôi, anh đã từng tưới nước bón phân cây cho ngôi vườn mỗi đêm.

Ôi, tất cả chỉ còn là kỷ niệm mà thôi.

Anh ơi, hồn anh bây giờ ở đâu ?

Tôi nhớ có một đêm nào, không đầy 5 tháng trước, tôi và anh ra đứng giữa trời đốt đèn cúng sao, cầu nguyện cho anh được hết bệnh.

Sau khi hai chúng tôi yên lặng cầu nguyện, tôi hỏi anh:

- Anh có cầu nguyện nhiều không anh ?

Anh trả lời rất buồn:

- Có, anh cầu nguyện cho anh mau được đi sớm !

Tôi đau khổ kêu lên:

- Trời ơi, tại sao anh lại cầu nguyện như vậy ? Tại sao ?

Nét mặt anh rất buồn, anh nói:

- Anh không muốn em cực khổ và chịu đựng vì anh nữa. Anh không muốn bị đau đớn thể xác nữa. Bệnh anh đâu còn gì cách gì để chữa nữa đâu em ?

Nghĩ đến đây, tôi quặn thắt ruột. Tôi đau đớn nhớ anh.

Tôi đau đớn vô cùng, bật khóc, tôi bỗng òa lên khóc thật lớn.

- Anh ơi, em nhớ anh quá ! Tội nghiệp anh quá ! Trời ơi, em nhớ anh vô cùng !

Tôi nấc lên, gào lên khủng khiếp, như một con vật bị bức tử trước khi chết. Tôi vội chạy vào nhà, nằm vật vã trên chiếc giường mà ngày xưa anh đã từng nằm khi bệnh nặng. Tôi khóc, tôi khóc, và tôi khóc.

Lòng cuồng điên vì nhớ
Ôi đâu người, đâu ân tình cũ...
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa.

(Hoài Cảm- Cung Tiến)

Tôi không cưỡng lại được sự thương nhớ ray rứt như gậm nhấm vào xương, nước mắt cứ tuôn trào lai láng, tôi bò lê lết dưới đất, tôi khóc lăn ra trên nền gạch lạnh, tôi quỳ dưới bức ảnh chúa Giê Su, tôi van lạy Ngài:

- Xin Chúa cho con được ra đi theo anh con. Xin Chúa giúp con. Xin Chúa thương con.

Mỗi khi tôi nghĩ đến anh và cầu nguyện, tôi ngừng hẳn, không khóc nữa, tôi cảm thấy ấm áp lạ thường, và tôi rất tỉnh táo, có lẽ anh đang vỗ về tôi đó chăng ? Có lẽ tiếng khóc của tôi đã động đến trời cao ? Có lẽ tiếng khóc, tiếng gào thét của tôi đã động đến hương hồn anh chăng ?

Nhưng chỉ một lúc sau, tôi lại khóc, và tôi lại khóc. Tiếng gào thét nức nở của tôi như tiếng thịnh nộ của một đêm giông bão và sấm sét đầy trời. Tiếng gào thét đau thương của tôi không khác gì tiếng thét của con vật trước khi chết.

Lòng tôi tơi bời, ngực tôi đau nhói lên vì trái tim như bị ai xiết chặt. Tôi đau đớn quá, ước gì tôi được ra đi để không bao giờ bị đớn đau nữa.

Tôi khóc, tôi khóc và tôi lại tiếp tục khóc nức nở và tức tưởi. Tôi lê lết đi lên lầu, vào phòng cầu nguyện, nơi đó tôi thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, cha mẹ tôi và anh. Tôi đốt một cây nến cho anh và hai cây cho mẹ đỡ đầu của tôi là Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi quỳ xuống, ôm bức hình anh vào lòng và cầu nguyện:

- Anh ơi, em đau đớn lắm, em nhớ anh lắm, xin anh giúp em tìm lại được sự yên tĩnh trong tâm hồn. Xin anh hãy ở bên em đêm nay !

Lạ thay, tôi không khóc được nữa, tôi tỉnh táo lại và cảm thấy được sự bình an trong tâm hồn. Tôi ôm hình anh trong tay, tôi hôn vào đôi mắt anh. Nét mặt dịu dàng, phúc hậu của anh bỗng như sáng ra. Anh nhìn tôi như an ủi, như van lơn, như vỗ về, đôi môi của anh như mấp máy muốn nói cùng tôi, làm tôi vô cùng xúc động.

Anh đã về với tôi rồi !

Em cảm ơn anh. Cảm ơn anh yêu dấu, anh Sĩ Phú.

Tôi nhìn đồng hồ, 11 giờ 58 phút nửa đêm, tôi đã khóc gần bốn tiếng đồng hồ rồi.

Từ đêm hôm ấy về sau và mãi đến ngày hôm nay, hai đuôi mắt của tôi lúc nào cũng ươn ướt, không lúc nào khô dòng lệ.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, christiane, ổi xanh

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 26 Aug 2008

Chương Mười
Mùa Thu Kỷ Niệm

Ðầu tháng 10 năm 1996, tôi vào dealer để tìm mua một chiếc xe mới. Khi đến nơi, tôi gọi anh:
- Anh ơi, em đang ở chỗ bán xe đây anh.

- Em định mua xe đấy à ?

- Dạ thưa vâng, xe em đã bị hư rất nhiều, anh không nhớ sao ?

- Anh nhớ rồi. Nhưng em quyết định mua xe hôm nay à?

- Dạ thưa vâng, em cần một cái xe mới. Em chờ anh xuống để đi mua với em nhưng có lẽ không kịp vì em cần gấp, nếu không thì không có xe đi làm thứ hai này. Anh ơi, anh thích màu nào nhất ?

- Anh thích màu trắng nhất, đối với anh màu trắng trông rất nhã nhặn và cũng là màu của thiên thần. Tuy nhiên em thích màu nào thì mua màu ấy đừng chiều anh nhé ! Không quan trọng lắm đâu em !

- Em cũng thích màu trắng lắm anh ạ, ngày xưa em cũng đã từng có xe màu trắng. Rồi xong... em sẽ mua xe màu trắng.

- Tùy em, em muốn mua cái gì cũng được, cái xe nào em thích thì anh thích. À này em, em đừng có trả giá rẻ mạt, kỳ lắm !

Tôi chọc anh:

- Anh yên chí, em sẽ trả giá hết ga cho anh xem !

Tôi nghe tiếng anh chắc lưỡi trong điện thoại.

Mỗi lần tôi nói với anh là tôi trả giá ở các tiệm Mỹ, anh nhìn tôi đôi mắt mở tròn xoe:

- Thật hả, họ để cho em trả giá à ?

- Thật chứ anh, tại sao không ? Cái gì cũng thương lượng được. Em chỉ trả giá ở chợ Mỹ thôi, còn tiệm Việt Nam em thường không trả giá vì em biết họ không có lời bao nhiêu.

Anh nói một mình, nhưng đủ cho tôi nghe:

- Anh chỉ sợ em trả giá lâu lắc, về nhà khuya lắc khuya lơ, không tốt !

Mười giờ đêm hôm ấy tôi lái về nhà chiếc xe mới toanh màu trắng. Tôi gọi anh để khoe về chiếc xe mới này. Anh mừng vì từ nay anh không phải lo lắng cho xe cộ của tôi nữa. Lần thăm tôi trước đó, anh đã phải sửa xe cho tôi rất cực khổ. Tội nghiệp anh, chúng tôi đã ở ngoài đường suốt hơn nửa ngày vì xe bị hư. Tôi khờ khạo gọi nhà anh Phòng làm phiền anh trong khi tôi có thể gọi roadside cấp cứu để họ giúp tôi. Anh phải hoãn lại chuyến bay về San Jose trưa hôm đó để lo cho tôi.

Tối nay , bỗng dưng tôi cảm nhận một cái gì từ anh, anh có vẻ buồn, anh hay buồn vui lẫn lộn. Khi anh vui nhất cũng có thể là lúc anh buồn nhất, mà lúc anh buồn thì cũng có thể gượng cười để nói một vài câu dí dỏm cho vui.

Tôi băn khoăn hỏi anh:

- Anh có OK không ? Có chuyện gì không anh ? Giọng nói của anh có vẻ buồn lắm !

- Buồn thì lúc nào anh cũng buồn vì có quá nhiều chuyện để lo âu. Nhưng, anh vẫn bình thường. Em khéo lo quá đi thôi!

Tôi bắt qua chuyện âm nhạc:

- À anh này, em sẽ liên lạc với nhạc sĩ Thanh Lâm, Văn Phụng, Lê Văn Thiện.

- Để làm gì vậy em ?

- Để lo hòa âm cho CD sắp tới của anh.

- Từ từ đi em, chưa vội đâu!

- Nhưng mà mình đã bàn tới bàn lui không biết bao nhiêu lần rồi anh, không bắt đầu bây giờ thì chừng nào mới bắt đầu đây? Nếu anh không hát bây giờ thì bao giờ anh mới hát nữa ? Càng ngày càng lớn tuổi, em sợ...

- Em đừng lo, anh sẽ hát cho em khoảng 100 bản nhạc nữa, và anh bảo đảm với em, giọng hát anh sẽ còn trẻ mãi, không già đâu !

- Thật không anh ? Làm sao được như vậy hở anh ?

- Không làm gì hết, anh biết như vậy.

- Chà, em nghi quá !

- Không phải lúc nào anh cũng hát hay được cả em ạ. Muốn hát hay thì anh phải có một sự rung động nào đó trong tâm hồn. Lúc này là lúc anh không muốn ca hát chút nào, anh chán lắm !

Tôi biết, dạo đó anh thường hay buồn. Anh chán nản vô cùng vì một cái gì đó mà anh không muốn tôi biết, nói đúng hơn, anh không muốn tôi lo lắng cho anh.

- Chắc chắn trong CD mới này, anh sẽ hát bản Chán Nản . Anh rất muốn hát bản nhạc đó !

Tôi thật tình:

- Em chưa bao giờ nghe bản nhạc đó, của tác giả nào vậy anh?

- Của Văn Phụng.

Tôi ngạc nhiên:

- Thường thì em thấy nhạc sĩ Văn Phụng viết những bài ca tươi sáng lắm mà, tại sao lại chán nản ?

Anh kể cho tôi nghe nguyên do nào nhạc sĩ Văn Phụng đã sáng tác nhạc phẩm đó.

Nghe xong tôi lo lắng hỏi anh:

- Nhưng phần anh, tại sao anh lại chán nản, anh nói cho Lan biết đi.

Anh chán tất cả. ôi khi cuộc sống không còn một ý nghĩa gì đối với anh nữa hết !

- Dù anh có quen em, anh vẫn chán nản ?

- Từ ngày quen em, anh thấy cuộc đời vui lên và có thêm ý nghĩa hơn trước. Cứ mong cho đến tối để tâm sự với em. May mà có em, chứ không thì không biết đời anh sẽ ra sao ? Mấy lúc này em không thấy anh thay đổi rất nhiều cho em sao ?

- Em biết, anh thay đổi cho em nhiều lắm. Em cảm ơn anh vô cùng. Nhưng nếu như vậy, thì tại sao anh lại chán nản , cái gì làm cho anh chán nản ?

- Không phải lỗi ở em, mà là do anh, anh buồn nản vô cùng. Cả đời cứ lo hoài mà không có gì thành tựu, cái gì cũng hư hao, cũng mất mát...đôi khi anh không còn sự tự tin nữa... Nỗi buồn của anh hình như đã bị đóng đinh quá chặt rồi, quá sâu đậm rồi. Khó mà dứt được.

Tôi nói mà không suy nghĩ:

- Em biết tại sao anh chán nản.

- Tại sao ?

- Anh cho phép em nói nhé ! Đừng giận em nhé !

Anh nói dịu dàng:

- Thì em cứ nói đi, Có bao giờ anh giận em đâu !

Tôi nói một cách thong thả, rất dịu dàng, đầy thông cảm với anh:

- Vì anh bị giằng co. Anh muốn được yên thân để sống mà cũng không yên được. Các con của anh bên Việt Nam lúc nào cũng vòi vĩnh rất nhiều với bố. Vì như anh đã nói với em, các con anh tưởng anh là triệu phú bên đây, chúng muốn anh giúp cho cái này, cái kia. Bao nhiêu năm trời nay, anh nghèo vì các con của anh. Anh rất muốn đem các con anh qua mà đem không được. Em biết anh buồn suốt cả đời và hối hận lắm, và vì vậy ở bên đây anh lo lắng cho chúng rất nhiều đến nỗi anh kiệt sức luôn. Tài chính kiệt quệ, việc làm ăn bị thua lỗ, anh mất mát rất nhiều. Từ một người có tất cả, và rồi anh mất tất cả, bảo sao anh không buồn... Rồi cô Châu người bạn đời của anh, đi đi về về Việt Nam, tuy không còn ở với anh nữa, nhưng vì những liên hệ sau bao nhiêu năm nay giữa cô ấy với các con của anh, anh không thể bỏ được, nhưng cũng không thể sống chung được. Bỏ thì thương mà vương thì tội, anh cứ bị giằng co mãi. Anh không có được một cuộc sống riêng tư yên ổn, anh không thể tự quyết định cho cuộc đời anh, anh không dứt khoát được với ai hết. Những bứt rứt lo âu và vất vả trong cuộc đời đã làm cho anh vô cùng mệt mỏi và chỉ muốn xa lánh tất cả để được yên thân....

Tôi ngừng nói, yên lặng một chút, xem anh có nói gì không, nhưng anh giữ yên lặng. Tôi tiếp:

- Và vì thế anh luôn luôn cưu mang những sầu khổ canh cánh bên lòng và những người liên hệ với anh cũng nào có vui sướng gì đâu. Vì biết như vậy nên anh hối hận, càng buồn hơn. Em biết, anh rất cần một mái ấm gia đình bình thường như bao nhiêu gia đình khác trên đời này, anh rất cần em săn sóc cho anh, anh cần một tình yêu chân thật và một đời sống hạnh phúc với em, nhưng anh không thể có được em. Hay nói một cách khác, anh muốn kết hợp với em lắm mà anh không thể làm được, ít ra là lúc này, vì thế anh đâm ra chán nản, muốn bỏ cuộc, phải không ?

Anh yên lặng nghe tôi nói một hơi dài. Mãi một lúc sau, tôi mới nghe anh trả lời:

- Có lẽ em nói đúng, cô bé sáng lắm !

- Em không cần phải sáng suốt để biết. Vì em hiểu anh vô cùng. Anh ơi, em thương anh lắm, anh sống quá nhiều bằng con tim, nên anh chịu đựng cũng quá nhiều. Ai bắt anh phải ở vậy chờ cô ấy đâu, vậy mà anh đang chờ đợi cô ấy. Em nghĩ có lẽ anh còn thương cô ấy lắm, phải không ?

- Cô ấy cũng rất dễ thương như em vậy, cô ấy không làm gì lỗi hết, anh không có lý do nào để bỏ cô ấy được.

Nhưng em đã nghĩ đi rồi nghĩ lại, anh cũng đã quyết định rồi, anh sẽ không trở về với cô ấy nữa vì năm năm nay anh sống một mình quen rồi. Cô ấy có đời sống của riêng cô, anh có đời sống của riêng anh. Cùng lắm thì làm bạn với nhau, vì anh và cô cũng quen nhau lâu rồi. Nhưng... vì các con anh bên Việt Nam rất quý cô và rất gần gũi với cô, việc đó mới làm cho anh khó xử !

Tôi biết là các con của anh rất yêu quý cô Châu vì cô rất gần gũi với chúng. Bao lâu nay các con của anh chỉ biết cô Châu là người bạn đời của Bố mà thôi. Ba người con của anh hoàn toàn không biết gì về cô Kim Uyên, luôn cả tên của cô Kim Uyên, các cháu cũng không nhớ.

- Cảm ơn anh đã nói lên sự thật từ cõi lòng, em cũng biết như vậy, cho nên có bao giờ em than phiền trách móc gì anh đâu ? Nhưng anh ơi, em đã nói với anh bao nhiêu lần, anh không dứt khoát với ai cả thành ra cứ đau khổ hoài ! Anh tự mang lấy sự khổ đau vào cho mình mà thôi. Anh còn nhớ những lời anh nói không ? Chúng mình sẽ mãi mãi là hai người bạn tri kỷ suốt đời mà thôi, chứ sẽ không là vợ chồng. Nhưng, khi cuộc đời anh mà không có em, thì anh buồn, và anh muốn kết hợp với em, đôi khi, anh hơi mâu thuẫn đấy nhé !

Tôi nói thêm:

- Thật ra, em không muốn nói gì nhiều về người thứ ba không có mặt ở đây, nhưng chính cô ấy đã bỏ anh đi về Việt Nam mà, đó đã là có lỗi rồi. Năm năm nay anh sống cô đơn một mình, không có ai để yêu thương, để lo lắng, chia sẻ trong lúc ốm đau. Không có ai săn sóc miếng cơm manh áo cho anh hết, anh ốm o gầy mòn như cây sậy, anh hao mòn rất nhiều, anh có biết không ? Em ca ngợi lòng chung thủy của anh đó, nhưng anh chịu đựng như vậy cũng đủ lắm rồi anh à ! ừng tự hành hạ anh nữa. Mấy lúc này anh ốm lắm, lần gặp nhau lần trước, em ôm anh mà vòng tay còn rộng thênh thang. Em thương anh đến chảy nước mắt. Ráng ăn uống đầy đủ đi cưng, em sợ anh bị bệnh lắm !

Rồi tôi hỏi anh và tự trả lời:

- Anh có biết tại sao người ta bị bệnh không? Vì buồn rầu đau khổ sẽ gây ra depression, lo lắng thái quá sẽ gây ra stress, rồi mang bệnh. Stress kills đó anh. Stress gây ra bao nhiêu thứ bệnh, luôn cả ung thư nữa. Anh phải ráng giữ gìn sức khỏe, nghe anh ? Anh có hứa với em là anh sẽ không buồn lo nữa không ?

Anh mệt mỏi trả lời:

- Anh không hứa, nhưng anh sẽ cố gắng vươn lên. Lan ơi, anh biết là anh sống bằng tình cảm quá nhiều nên sinh ra ủy mị để vương vào khổ đau. Em thương anh, thì anh mong em hiểu cho anh điều này...

Tôi ngắt lời anh:

- Em biết điều đó, anh không cần phải nói, chấp nhận anh hay là xa anh, phải không ?

Giọng anh buồn vô biên:

- Ngọc Lan ơi, không ai trên đời này hiểu và thông cảm anh bằng em ! Em là người duy nhất trên đời này mà anh rất tin tưởng để trút hết những tâm tình của anh.

- Và vì em hiểu anh rất nhiều, nên em đành phải xa anh để giúp anh quyết định dễ dàng và không bị ám ảnh vì tội lỗi.

Anh hốt hoảng:

- Em đi đâu ?

- Em đi đâu, anh không cần biết, chỉ biết xa anh là được rồi. Em sẽ xa anh vì thương anh và muốn giúp anh.

- Anh sẽ đi tìm em
.
- Anh sẽ không bao giờ tìm ra em đâu !

- Chân trời góc biển nào anh cũng tìm ra em.

Rồi anh buồn bã thở dài:

- Anh hiểu em, anh không bao giờ trách em đâu, Lan ạ, em chịu đựng cũng khá nhiều rồi !

Suốt một đời, tôi chưa từng bao giờ được nghe một giọng nói nào tuyệt vời, chan chứa đầy yêu thương như giọng nói của anh, rất mềm mại và nhẹ nhàng như hơi thở, như tơ lụa, như sương khói lãng đãng chiều thu. Một nhân vật nào đó, đã từng nói Sĩ Phú hát như nói, và nói như hát quả thực không sai. Tôi nghĩ là tôi vô cùng may mắn được quen biết anh nhất là ở một thời điểm như thế này. Cái giá trị tuyệt đỉnh của con người được biểu lộ rõ rệt nhất và đáng được đề cao hay không là do ở những hoàn cảnh cùng cực đau khổ hay bất hạnh mà nên, chứ không phải ở những lúc người ta được hạnh phúc, yêu đời, khỏe mạnh và có trong tay tất cả.

Lúc đó tôi chỉ muốn có sự hiện diện của anh ở bên tôi, để tôi được ôm anh vào lòng và an ủi anh, và nói những lời yêu thương tha thiết nhất với anh. Tôi muốn nói cho anh biết tôi quý anh biết là ngần nào. Hơn ai hết, anh rất cần sự thông cảm sâu xa, sự yêu thương ngọt ngào dịu dàng của tôi.

Tôi hối hận ngọt ngào vỗ về anh:

- Thôi anh đừng lo buồn gì nữa cưng à. Lúc nào anh cũng có em để tâm sự, để hàn huyên. Khi nào anh buồn như đêm nay thì cứ gọi em. Em sẽ luôn luôn ở bên anh để chia sẻ những buồn vui cùng với anh. Em hứa với anh ngàn năm em sẽ không bao giờ xa anh. Xin anh nhớ cho em điều đó.

Anh im lặng không nói một lời.

Hai chúng tôi cùng im lặng.

Tôi phá tan sự im lặng:

- Anh ơi, anh đâu rồi, còn đó không ?

- Còn, thì em cứ nói đi !

- Bố này, quen với em thì phải vui lên, không được buồn hoài, em vốn là một đứa hay đùa vui, bố phải để cho em được cười chứ ! Chả lẽ cứ buồn hoài sao ? Em sẽ già mất.

- Nhưng anh làm sao mà cười được ?

- Nếu không cười được, thì ít ra anh phải cố gắng vui lên. Có lẽ em sẽ gửi tặng anh quyển sách Quẳng Gánh Lo Ði Mà Vui Sống của Nguyễn Hiến Lê cho anh đọc đỡ buồn.

- Cảm ơn em, anh không cần, anh có thể tự lo được cho thân anh.

Tôi cố gắng thêm:

- Anh ơi, nụ cười là liều thuốc bổ, sẽ làm cho chúng ta trẻ và lâu già. Buồn lo không giải quyết được gì cả, chỉ làm cho chúng ta hao mòn mà thôi. Anh ráng lên đi để vượt qua, anh đừng quá khắt khe với chính anh. Anh ráng tạo nụ cười đi anh.

- Rồi, thì anh sẽ làm cho em cười

Bắt chước nghệ sĩ Văn Chung, anh vụt cười phá lên. Tôi tức cười, cười theo anh. Tôi bảo:

- Anh cười giống lắm, nhưng anh thua chú Văn Chung !

- Vì sao ?

- Vì không dê bằng chú !



Gần ba tuần lễ liên tiếp sau đó, anh không gọi tôi, mà tôi cũng chẳng gọi anh. ây là lần đầu tiên từ ngày chúng tôi quen nhau mà không nói chuyện hằng đêm. Rất tự nhiên, anh không gọi tôi nữa, và vì một lý do nào đó, tôi cũng không gọi lại cho anh. Nhưng tôi tôn trọng anh, những gì anh muốn làm, thì anh sẽ được tự do để làm.

Tôi nghĩ hãy để cho anh làm những gì anh phải làm, cho anh được hạnh phúc vì anh đã được làm những gì anh muốn .

Bấy giờ là gần cuối tháng mười năm 1996.

Tôi đã quen anh hơn một năm rồi. Trời vừa chớm thu, buồn cô liêu, trời giăêng đầy mây xám , gió heo may thổi nhè nhẹ, mang về một chút gì lạnh lùng vào không gian. Mùa thu lặng lẽ đến, nơi nơi, đâu đây, hình như có gió thu lạnh, hương thu buồn... gợi trong tôi nỗi buồn tê tái, mênh mông. Nhữõng cây phong sau đồi nhà tôi lá đã bắt đầu trở màu vàng, rồi đỏ, và rồi rơi tan tác, ngập đầy trong sân nhà.

Tôi mê lá phong, tôi trồng phong trước nhà, sau nhà. Sân nhà tôi trước sau ngập đầy những lá khô, lá vàng rơi đầy khắp nơi...Tôi ở ven đồi, rất yên tĩnh, không một tiếng ồn của thành phố ồn ào náo nhiệt. Con đường vào nhà tôi rất đẹp, rất nên thơ. Mùa Xuân thì nhờ những trận mưa đầu mùa, cây cối hai bên đường xanh mướt , đồi núi mượt mà. Mùa hè thì những hoa dại mọc đầy trên cánh đồi trước nhà tôi, tạo nên một bức tranh đủ màu sắc tuyệt vời. Mùa Thu thì lá vàng khắp nơi, rụng đầy lối đi... Mùa ông thì chỉ còn cây trơ khẳng khiu, trụi lá, tiêu điều.

Buổi chiều nhớ anh, tôi ra ngồi ngoài vườn sau nhà, nhìn lá mùa thu bay tan tác trong ánh nắng chiều hấp hối. Lá rơi, từng chiếc lá rơi...gió lành lạnh, tiếng nước đâu đây róc rách, một con sóc nhỏ ở đâu nhảy ra trước chỗ tôi ngồi, nhìn tôi nửa như thân thiện, nửa như trách móc, rồi lạnh lùng nhảy đi, biến mất vào đám lá khô xào xạc, bỏ tôi ở lại bơ vơ, đơn lẻ, tiếc nuối, lòng buồn man mác.

Lá vàng mùa thu rơi tản mát trong không gian lúc nào cũng gợi trong tôi những hình ảnh lãng đãng của mùa thu cố hương xa xôi một thuở nào....

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Ðạp lên lá vàng khô ?

( Tiếng Thu - Lưu Trọng Lư)

Mùa Thu lãng mạn, tuyệt vời...thơ mộng của những ngày xa xưa cũ, tưởng đã nhạt nhòa theo năm tháng, nay bỗng lại về, xâm chiếm tâm hồn tôi.

Tôi nghe hình như đâu đây có tiếng nức nở sầu bi,

tiếng vĩ cầm réo rắt trong sương khói chiều lãng đãng

hay, đó chỉ là... tiếng lòng tôi ?? Nào ai biết .....

Ánh nắng chiều yếu ớt xuyên qua mái hiên sau nhà, làm tôi nhớ. Nhớ ơi là nhớ, trời đất mịt mù, không gian vô tận, thương nhớ vô cùng.

Không biết giờ đây anh đang làm gì, anh có còn nghĩ đến tôi không ?

Tôi khom lưng nhặt một chiếc lá vàng vừa mới rơi, lòng bâng khuâng nhung nhớ

Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.

(Chiều Thu - Thái Can, thơ tiền chiến)

Ðối với tôi, mùa thu nào cũng đẹp, nhưng mùa thu nào cũng mang đến cho tôi một sự chia ly, xa cách...

Mùa thu năm trước, chúng tôi đã đến với nhau trong phút giây rồi lại chia xa.

Mùa thu này, tôi lại vắng anh. Không lẽ tôi vắng anh thật sao ?

Tôi rùng mình không dám nghĩ đến nữa...

Bài ca Nhắn Gió Chiều mà anh đã hát năm xưa nơi quê nhà yêu dấu đã in sâu vào tim tôi tự thuở nào....

Chiều nay sớm về với sắc thu đắm u buồn
Cùng gió ngàn với sương thu mờ phai
Ai có về nẻo xa
Cho nhắn cùng người xưa
Nhớ khi hoàng hôn cùng ai dưới màn sương
Bước đều trên đường lòng khao khát yêu đương
Mây cùng với gió lòng ta muốn nhắn đôi câu
Tới phương trời vắng cho lòng nhớ thương
Lòng sao vẫn còn mang mối sầu mỗi thu về
Khi bóng nắng tà khuất dưới làn sương chiều buông
Còn đây núi kia, đây dòng sông này
Nào ai biết chăng tấm lòng nát tan
Còn đâu những phút tơ lòng hòa chung
Còn đâu những phút êm đềm nhớ nhung
Mà nay đến đây tơ động, phím chùng
Nào ai biết cùng cõi lòng sầu thương
....

Tôi đi vào nhà vì trời khá lạnh, và bóng đêm cũng vừa buông đầy lên vạn vật, cỏ cây...Một tiếng sấm to vang rền cả núi đồi. Tôi giựt mình.

- Có lẽ trời sắp mưa, mưa đầu mùa, mưa đêm nay chăng?

Trời đã khuya, tôi chưa ngủ được. Có một cái gì thôi thúc trong tôi, tôi muốn gọi anh, để chỉ được nghe anh nói, để chỉ hỏi thăm anh có khỏe không, có ăn uống điều độ không, rồi thôi. Nhưng tôi nhất quyết không gọi anh, mặc kệ, cứ để yên cho anh, đừng chạm vào công việc của anh. Tôi biết là anh sẽ bình an, vì tôi luôn luôn cầu nguyện cho anh hằng đêm. Tôi lấy một cuốn sách ra đọc và thiếp đi lúc nào không biết.

Quá nửa đêm tôi thức giấc vì tiếng mưa rơi ào ào, lộp độp khá mạnh trên mái ngói, mưa giăng đầy khắp nơi, mưa đập vào cửa sổ liên hồi, những cây phong trước nhà bị mưa gió xô đẩy nghiêng ngả, chạm vào nhau xào xạc, xơ xác. Gió rít lên, có tiếng sấm sét gầm gừ rồi vang rền, mưa rơi mạnh phủ mờ nhân ảnh. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh đèn đường soi lờ mờ mặt đất phủ đầy những hoa mưa, những giọt mưa rơi xuống đường thật mạnh tạo nên những xoáy nước tròn như những bong bóng nhỏ. Hàng ngàn sợi nước từ trên trời rơi xuống tạo thành hàng ngàn xoáy nước nhỏ trên mặt đường. Hàng ngàn những hoa mưa, vụt đến rồi vụt tan vỡ đi thật nhanh. Mưa rơi, mưa vẫn rơi đều trên mái ngói, mưa trên khắp lối đi, mưa rơi trong lòng ...

Tôi trở về giường ngủ, nằm co quắp trong chăn vì lạnh, nhìn đăm đăm vào bóng tối lờ mờ, cố hình dung những ngày thơ mộng đã qua...

Một mùa thu xa vắng
Như mơ hồ về trong đêm tối
Cố nhân xa rồi
Có ai về lối xưa

(Hoài Cảm - Cung Tiến)

Trời mưa lạnh làm tôi ngủ thiếp đi...

Hình như có tiếng điện thoại reo, tôi giật mình thức giấc một lần nữa. Bên ngoài mưa vẫn rơi, mưa vẫn tí tách rơi. Tôi lắng nghe, đúng rồi, tiếng điện thoại tiếp tục reo, anh đấy, chứ còn ai gọi ngoài giờ này. Tôi bật dậy, cầm ống điện thoại lên.

- Anh đây cưng , em ngủ chưa ?

Tôi rất mừng nghe được tiếng nói của anh sau bao ngày xa cách, nhưng cố nén sự vui mừng, tôi thản nhiên:

- Em đã ngủ rồi, nhưng mưa to quá đã đánh thức em dậy. Mưa đầu mùa mà sao to quá anh ạ, trên ấy có mưa không anh ?

- Không em à, nhưng hôm nay khí hậu khá lạnh. Trời u ám suốt ngày hôm nay làm anh nhớ em vô cùng ! Lúc này em khỏe không cưng ?

- Cảm ơn anh, em bình thường anh ạ, còn anh thế nào ?

- Anh rất bận !

- Em cũng nghĩ như vậy, em nghĩ là anh rất bận. Gần ba tuần nay hai anh em không nói chuyện với nhau, có gì lạ không anh? Anh vẫn mạnh chứ ?

- Cám ơn em, anh vẫn mạnh, nhưng có nhiều chuyện bận lòng lắm !

- Anh có đi San Francisco không ? Anh có gặp chị ấy không ?

- Có, anh đi hai ngày, ở lại trên ấy một đêm, còn mấy tuần nay ở nhà, không đi đâu hết !

- Ủa, vậy sao ? Em tưởng là anh đi lên trên đó hai ba tuần nay chứ ?

- Không, anh đi chỉ hai ngày mà thôi, rồi ở nhà suốt ngày mấy tuần nay. Nhưng anh rất bận rộn với sổ sách của người ta.

Giọng anh chợt buồn:

- Nhiều chuyện rắc rối nhức đầu lắm, toàn là chuyện lẩm cẩm không đáng gì. Nhưng thôi không có gì đáng nói cả. Anh không muốn em phải bận lòng. Hai ba ngày nữa anh sẽ xuống thăm em. Thôi khuya rồi, đi ngủ đi em. Theo lẽ anh không gọi, chờ đến mai mới gọi, nhưng anh nhớ em quá, anh muốn nghe giọng nói của cưng.

- Em cũng nhớ anh vô cùng, em muốn khóc đây !

- Cái gì mà em phải khổ như vậy, thì bây giờ mình nói chuyện với nhau rồi, hết nhớ rồi phải không ? Thôi đi ngủ đi cưng !

- Chưa, nói chuyện một chút nữa đi anh, em không buồn ngủ nữa.

- Thì em cứ nói đi.

- Anh xuống liền ngày mai đi. I miss you.

- I miss you too, Anh nhớ em kinh khủng !

- Thật không ?

Giọng anh rất tha thiết:

- Thật, suốt ngày, lúc nào hình ảnh em cũng ở trong đầu anh. Mấy tuần nay, em lúc nào cũng ở trong tim anh, không lúc nào mà anh không nghĩ đến Ngọc Lan. Nếu mổ tim anh ra được, thì em sẽ thấy toàn là hình ảnh của Ngọc Lan đầy hết tim anh. Em là người duy nhất mà năm năm nay được lọt vào tim anh. Anh đã đóng cửa trái tim từ lâu rồi.

Không cần anh nói, tôi cũng đã biết lòng anh từ lâu.

- Nhưng anh giận em, phải không ?

- Không, anh không giận em, anh định không gọi em 2 tháng, để anh nhìn lại bản thân anh,xem anh muốn gì, để anh định một lối đi nhất định cho anh. Em là một hiện tượng, anh không thể ngờ ngày giờ này trong đời mà anh còn gặp một người như em. Anh không tin là em có thật trên đời này. Anh không bao giờ ngờ cái tình cảm anh dành cho em quá mãnh liệt như vậy. Anh rất phân vân, anh muốn không gọi em, và thử sống bình thường mà không có em để xem sao. Nếu anh vượt qua được hai tháng đó, thì anh xem như anh đã khắc phục được sự ham muốn một thay đổi trong giờ phút này và anh biết tình cảm mãnh liệt anh dành cho em chỉ là nhất thời mà thôi. Nhưng anh đã lầm, càng ngày anh càng nhớ em và chỉ nghĩ đến em thôi. i đâu và làm gì, suốt ngày anh đều nghĩ đến em. Anh không thể nào gạt hình bóng của em ra khỏi đầu anh, cho dầu là chỉ trong giây phút. I just cannot get you out of my mind. Lúc muốn quên em thì chính là lúc anh nhớ em nhiều nhất. Em đã là đời sống của anh mất rồi, Ngọc Lan ạ !

- Em cảm ơn anh, cảm ơn tình yêu cao quý anh dành cho em !

- Mấy hôm nay anh thèm nghe giọng nói Nha Trang * của em lắm !

Tôi bật cười. Tôi nhớ ngày xưa lúc mới quen anh, tôi hỏi anh vì sao anh thích tôi, anh trả lời vì anh rất thích nghe giọng nói của tôi. Giọng nói đàn bà lý tưởng nhất đối với anh là giọng nói Nha Trang. Vì giọng nói ấy không hẳn Nam Kỳ nhưng cũng không hẳn Bắc Kỳ, có một chút gì dịu dàng, thẳng thắn và chân thật ở giọng nói đó làm anh chú ý, rồi yêu thích.

- Khi nghe em nói, anh cảm thấy rất vững lòng, đây là giọng nói của một người đàn bà làm anh cảm thấy rất thoải mái và ấm áp trong tâm hồn.

Nghe tôi bật cười, anh nói thêm:

- Chiều hôm qua chút xíu nữa là anh xách xe ra phi trường xuống thăm em rồi. Nhưng vì muốn làm cho xong công chuyện trên này nên đành thôi...

Tôi vui vẻ nhắc anh:

- Còn giọng nói của anh nữa, anh nghĩ là em quên được sao anh ? Ngày mai anh nhớ mua vé máy bay đi, đừng để cho đến giờ phút cuối cùng mới mua rồi bị trả giá cao mà lại phải bị chờ đến phút cuối mới lên được nữa.

Tôi nói thêm:

- Em mà biết anh muốn đi lúc nào thì em gọi đặt vé cho anh.

- Em đừng lo, lúc nào hãng máy bay cũng còn vé cho anh. Thôi em đi ngủ đi. Trời sáng rồi đấy. Ngoài trời còn mưa không em ?

* Tôi không phải là người Nha Trang. Tuy nhiên theo đa số người kể cả anh Sĩ Phú, đều nghĩ rằng tôi là người Nha Trang. Có lẽ hai dòng máu Bắc Nam trong tôi tạo ra giọng nói có hơi hướng miền Trung chăng ?
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: madmomar, christiane, ổi xanh

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Sep 2008

Chương Mười Một
May Mà Có Em...

Cuối Thu năm 1996, chúng tôi bắt tay vào việc thực hiện CD mới May Mà Có Em . Anh Sĩ Phú rất đồng ý với tôi về tựa đề của CD này.
Chúng tôi chọn bài bản cho 3 CD một lượt.

Cho CD 1 tức là May Mà Có Em (mà sau này đổi tên là Còn Chút Gì Ðể Nhớ), anh muốn hát bản Tình Cầm, Chán Nản, Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ, Nhạt Nhòa, Hoài Cảm còn các bản còn lại hai chúng tôi cùng chọn .

CD thứ 2 gồm có những bản nhạc như Bến Xuân, Em Ði Rồi, Bài Không Tên Cuối Cùng, Ở Lại, Còn Yêu Em Mãi, Em Sẽ Cho Tôi Bầu Trời, Mắt Lệ Cho Người, Quên Câu Giã Từ, Tuổi 13, Vầng Tóc Rối.

CD thứ 3 sẽ là một CD đặc biệt, anh sẽ hát 6 bản của nhạc sĩ Phạm Duy như Tình Ca, Tình Hoài Hương, Nhớ Người Ra Ði, Bên Cầu Biên Giới, Kỷ Vật Cho Em hay Hoa Xuân, Ngậm Ngùi, Tiếng Thời Gian của Lâm Tuyền, Thu Quyến Rũ, Lá Ðổ Muôn Chiều, Chiều Vàng, Tình Quê Hương.

Tôi liên lạc với nhạc sĩ Duy Cường để lo phần hòa âm cho CD thứ nhất. Sau đó tôi liên lạc với nhạc sĩ Ðồng Sơn để lo cho cái CD thứ hai, chúng tôi dự định để Duy Cường hòa âm CD thứ ba sau khi CD thứ nhất hoàn thành.

Anh nói với tôi:

- Nhạc của Phạm Duy và Ngô Thụy Miên rất thích hợp với giọng hát của anh. Anh đã từng hát những bản tình ca quê hương của Phạm Duy rồi, và anh hát rất tới hay lắm em à. Em hãy chờ xem !

Tôi tình thật nói với anh:

- Anh ơi, em rất thích nhạc của Phạm Duy, nhất là những bản anh chọn trong CD3 thì quá tuyệt vời. Ðối với em, đó là những đại tác phẩm của Phạm Duy. Nhưng mà cái bản Tình Cầm anh chọn cho CD 1, nó như thế nào ấy, em không thích bản nhạc đó lắm !

Anh kêu lên:

- Anh chọn bản Tình Cầm là để hát cho em đó, anh sẽ hát bản nhạc ấy đặc biệt cho em . Em nghe kỹ lời ca đi, rất thi vị và dễ thương. Có một chút gì tiếc nuối, trách móc nhẹ nhàng trong ấy.

- Anh hát thử một vài câu cho em nghe đi !

Anh nhất định không chịu ca, tôi phải năn nỉ mãi, anh mềm lòng mới chịu hát nho nhỏ cho tôi nghe:

Nếu anh còn trẻ, như năm cũ,

Quyết đón em về, sống với anh

Những khi chiều vàng phơ phất đến

Anh đàn em hát, níu xuân xanh?.

(thơ Hoàng Cầm )

Lần đầu tiên tôi nghe anh hát mà không cần micro hay phòng thu âm, quả thực là giọng hát thiên phú. Tôi không thể nào diễn tả được sự xúc động của tôi lúc đó. Có khen anh hát hay cũng bằng thừa. Vì đó đúng là giọng hát ru hồn người và thật êm đềm trữ tình, chỉ có tạo hóa nắn nót thì mới tuyệt vời như vậy !

Anh thấy tôi làm thinh không nói gì thì anh cũng ngừng hát. Tôi phá tan sự yên lặng:

- Em không ngờ bản nhạc này hay như vậy. Quả thực là anh đã tạo nên bản nhạc này. Em đã từng nghe nó nhiều lần qua ca sĩ khác, nhưng em không thích, nó đã không gây được một cảm xúc nào hết trong em. Nhưng bây giờ chỉ mới nghe anh hát vỏn vẹn có nửa bản nhạc mà em thấy xúc động vô cùng.

Anh nói dỗi:

- Em đừng làm bộ khen khéo, thế sao hồi nãy lại chê?

- Thật mà anh, em khen thật đó !

Anh yên lặng một lúc rồi dẫn giải:

- Nói đùa với em cho vui, anh biết em sẽ thích bản nhạc này sau khi anh thu xong, với nhạc đệm và âm thanh kỹ thuật phòng thu, nó sẽ khác hơn nhiều.

- Nhưng mà em chỉ thích nghe anh hát khơi khơi như vậy, em không cần nghe nhạc đệm ! Giọng anh quá hay như vậy thì anh đâu có cần kỹ thuật giúp anh.

Hai tháng sau, đầu năm 1997, nhạc sĩ Duy Cường làm xong phần hòa âm cho CD May Mà Có Em. Tôi vội vàng cùng anh Duy Cường đến phòng thu của John Tomlingson để bắt đầu chuyển phần hòa âm vào sound track. Xong xuôi, tôi gọi cho anh biết để anh sửa soạn xuống tôi để lo phần thu âm và cùng lúc, tôi gửi lên anh một băng nhựa copy của phần hòa âm để anh nghe thử trước khi hát.

Nhưng tôi không bao giờ ngờ, anh đã mỏi mệt quá rồi, buồn chán, đau khổ nội tâm đã làm cho anh mất đi phần cảm hứng, anh không tha thiết gì đến ca hát nữa. Anh cứ bảo tôi:

- Ðể từ từ rồi anh sẽ đi thu, em đừng vội.

hay:

- Lúc này anh không muốn hát chút nào, anh không có cảm hứng gì hết ! Nếu anh hát, sẽ không hay đâu vì không có sự rung động nào từ trái tim.

Tôi cố gắng van nài anh:

- Anh không ráng được sao anh ? Please, please?anh

- Rất tiếc anh chưa hát được em à, em gắng chờ anh một thời gian nữa xem sao !

Thế là tôi xếp lại chồng hồ sơ để qua một bên và chờ đợi.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: ổi xanh, christiane

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Sep 2008

Chương Mười Hai
Ngôi Nhà Nhỏ Trên Sân Golf

Ðầu tháng 2 năm 1997, tôi mua nhà mới và để bảng bán ngôi nhà đang ở. Mặc dù ngôi nhà đó là một thiên đàng đối với tôi, sân trước, sân sau đều rất rộng rãi, ngôi nhà lại mới tinh, tôi được chứng kiến từ ngày người ta đặt sườn nhà cho đến lúc hoàn thành, kiểu kiến trúc rất lạ, khác thường, nhưng nó quá lớn, mà tôi thì quá bận rộn, không còn thì giờ để chăm sóc nữa. Hơn nữa, tôi có quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết hồi bấy giờ mà tôi không thể giữ ngôi nhà này được nữa. Tôi trang hoàng ngôi nhà này rất đẹp, vì đã tốn suốt hai năm trời để làm đẹp nó. Tôi đọc rất nhiều các loại sách về trang trí nhà cửa trong đó, cuốn Architectural Digest được tôi sưu tầm trên 15 năm. Tôi đã đi cùng hết các nơi để mua hay đặt làm các vật liệu để trang hoàng. Ðối với tôi việc ăn uống thì rất dễ, rất đạm bạc, đơn sơ, nhưng nói đến trang trí nhà cửa thì tôi rất khó khăn là vì tôi có tiêu chuẩn rất cao. Tất cả mọi đồ đạc, bàn ghế, đồ dùng, tranh ảnh và luôn cả cây cối trong nhà đều phải được chọn lọc rất kỹ trước khi mua. Màu sắc phải thật hài hòa với nhau và tất cả mọi thứ trong nhà phải đi chung với nhau. Không cần thiết là đồ đạc trong nhà phải là loại đắt tiền, nhưng kiểu cách phải lịch sự, trang nhã, không hào nhoáng. Cách trang hoàng của tôi rất độc đáo. Vì lối kiến trúc có 2 vòng cung cao chót vót trong nhà, tôi bèn biến cái phòng khách rộng thênh thang của tôi thành một nơi chốn mà khi bước vào phòng khách, người ta có cảm tưởng như đang đứng trên một sân khấu rất đẹp hay, người ta có cảm tưởng như đang đứng bên trong một lan can của một ngôi biệt thự cổ nhìn ra một vườn hoa, rất trữ tình, rất lãng mạn.

Tôi rất tiếc mà phải bán nó đi.

Khi báo tin cho anh biết tôi sẽ bán nhà cũ và mua nhà mới nhỏ hơn, anh hoàn toàn không có ý kiến gì. Anh là một người rất tự trọng và rất có ý tứ. Những gì tôi làm cho chính riêng tôi, anh luôn luôn đứng qua một bên, chỉ khi nào tôi nhờ anh giúp ý, hay kêu gọi sự giúp đỡ của anh, thì lúc ấy anh mới bước vào. Nếu anh cần phải hay bất đắc dĩ phải bước vào công việc riêng của tôi, anh rất cẩn thận, cùng nhau phân tích sự việc, rồi để tôi quyết định, anh không bao giờ nói những lời gì để làm lệch lạc sự quyết đoán của tôi. Nhưng những gì mà chúng tôi làm chung với nhau, thì anh rất tích cực, anh giúp tôi rất nhiều ý kiến. Trong thời gian này, tôi học hỏi rất nhiều ở anh. Anh là một người đa tài, tháo vát, anh biết rất nhiều và thực hành những điều anh biết một cách khôn khéo và hợp lý. Anh rất ít nói hay là khoe khoang những gì mình biết, anh chỉ lẳng lặng làm việc. Ðối với anh, cái thành quả mới là quan trọng, chứ không phải lời nói suông.

Khi tôi nói:

- Khi nào em mua nhà mới nhỏ hơn, gọn hơn, anh về ở với em, anh nhé!

Anh trả lời trước sau như một:

- Anh sẽ đến thăm em, nhưng anh không dám hứa với em là anh sẽ về ở đó.

- Anh có thương em không ? Mà lúc nào cũng luôn trả lời không ?

- Anh rất thương em, không thương em thì thương ai bây giờ. Tuy nhiên anh chưa thể về với em được, vả lại, anh không có nhu cầu gì cả, anh ở đâu cũng được. Anh sống đơn sơ quen rồi.

- Thì em sẽ xây một tổ ấm rất đơn sơ cho anh.

- Cảm ơn em, nhưng anh không muốn em bị mang tiếng. Anh muốn giữ tiếng cho em. Và anh cũng không muốn người đời bảo rằng anh lợi dụng em.

- Em không cần, ai nói gì thì nói, em không để ý đến dư luận nữa, người ta đâu có hiểu mình bằng mình đâu anh. Mình không có làm gì xấu xa để mà phải sợ. Mà tại sao anh lại sợ ?

- Vì anh sống với dư luận, dù sao đi nữa, anh cũng là người của công chúng. Anh muốn sống trong sạch cho chính anh và cho binh chủng Không Quân. Anh không muốn binh chủng của anh bị tai tiếng.

- Nhưng mà sống chung với em đâu có gì là xấu đâu ?

- Em nói đúng, trong hoàn cảnh này, không có gì là xấu. Nhưng anh chưa có thể làm được gì ngay bây giờ. Khi nào được là anh làm ngay vì anh rất mong muốn được kết hợp với em. Xin em hiểu cho anh.

Tôi rất tôn trọng anh nên chấp nhận những gì anh nói.

Mỗi lần anh xuống thăm tôi, hai chúng tôi đều đi đến thăm ngôi nhà tương lai còn đang xây cất dở dang. Ngôi nhà này tọa lạc trên một sân golf. Mở cửa phòng ngủ chính ra ngoài là một cái bao lơn nhìn ra ngoài sân golf, bên tay trái có một cái hồ khá lớn. Bên kia sân golf là một vườn cam. Lúc bấy giờ là mùa mưa, quang cảnh phía sau ngôi nhà tương lai của tôi như một bức tranh tuyệt đẹp vì cây cỏ xanh mượt mà, nước mưa từ trên vườn cam chảy ào xuống tràn vào sân golf, nước lênh láng trong sân như một con suối nhỏ, rồi cuồn cuộn chảy ra hồ. Các thú vật trong rừng cam chạy ra nhảy tung tăng trong sân cỏ. Tôi và anh đứng ngây người ra nhìn bức tranh tuyệt vời ấy.

Tôi ôm anh và hỏi:

- Anh có thấy đẹp không ? Anh có thích ngôi nhà này không ?

- Anh thấy đẹp lắm, thích thì anh cũng thích, nhưng với anh, vấn đề nhà cửa thì anh không còn tha thiết gì nữa.

Tôi biết sự buồn thảm, thất vọng trong anh đã làm cho anh không còn biết ham thích bất cứ gì nữa trong cuộc đời. Anh không màng nhà cao cửa đẹp, anh không màng danh vọng bạc tiền, anh chỉ mong một điều duy nhất trong đời: xin cho được một mái ấm đơn sơ với người mình yêu và xin được âm thầm sống một cuộc đời thật đạm bạc, thật bình yên để có được một sự thanh thản trong tâm hồn.

Dạo đó, tôi biết lắm, anh rất mong muốn được sống gần tôi để cùng nhau đi hết đoạn đường còn lại của cuộc đời, nhưng những bứt rứt, hối hận, dầy vò trong lòng anh đã ngăn cản anh lại. Ước mong được kết hợp với tôi mỗi lúc một xa vời. Mỗi lần tôi năn nỉ anh đi thu âm cho CD May Mà Có Em, anh cứ lần lựa khất từ, anh nói với tôi rằng anh không còn thích ca hát gì nữa vì lòng anh lúc bấy giờ quá sầu thảm và tiêu điều xơ xác, tim anh tả tơi như những mảnh vụn. Anh không còn có một sự rung động nào trong con tim để mà ca hát nữa.

Anh ăn uống rất bất thường, có khi anh nhịn ăn suốt ngày, rồi làm việc hay đọc sách suốt đêm và ngủ rất ít. Anh gầy còm và cao lêu khêu như một cây sậy. Cứ mỗi lần anh xuống thăm tôi, tôi muốn làm một cái gì đó để mong anh vui và yêu đời mà ham sống, tôi rủ anh đi mua sắm, đi xi nê và luôn cả đi chơi xa với tôi, anh cũng từ chối. Tuy nhiên khi tôi rủ anh cùng đi chọn thảm, chọn gạch để lót trong nhà bếp và các phòng tắm của ngôi nhà mới, thì anh rất sốt sắng đi với tôi. Cả hai chúng tôi đều có một gu giống nhau về màu sắc. Chúng tôi chọn thảm gần như màu trắng cho ngôi nhà mới này vì gần hai mươi năm nay, đó chỉ là màu thảm duy nhất tôi dùng cho nhà cửa mà thôi. Anh chọn gạch hơi phơn phớt màu hồng rất nhạt nhưng không phải là hồng, gần như trắng và nhất định, chúng tôi không chọn loại gạch men bóng loáng mà chọn loại mờ, trông có vẻ như một loại đá, rất tự nhiên vì tôi muốn đem thiên nhiên vào ngôi nhà này.

Một trục trặc bất ngờ đến với tôi khi sắp sửa đến giai đoạn cuối cùng của giấy tờ mua nhà. Vì nhà cũ của tôi lúc ấy chưa bán được, mà cho ngôi nhà mới, tôi lại sửa phòng ngủ chính cho rộng ra để có một chỗ làm việc và đọc sách, nhà bếp nâng cấp lên thành màu trắng kiểu Âu Châu, và đóng một cái lan can để nhìn ra sân golf và hồ nước nên giá nhà bị tăng lên, nhà băng lấy lý do nào là tôi là đàn bà độc thân, nào là nhà cũ tôi chưa bán được, tiền nhà mỗi tháng tôi phải trả rất cao, nào là chi phí nhà mới cao hơn lúc đầu vân vân.. nên họ bắt tôi phải trả 25 phần trăm, thay vì 20 phần trăm như tất cả các trường hợp thông thường khác. Khi tôi than thở với anh về trục trặc này, anh mau mắn ngỏ ý giúp trả 5 phần trăm còn lại cho tôi. Cảm động vì lòng tốt của anh, tôi đâm ra lo ngại, tôi nói:

- Em sợ sau khi dọn vào nhà mới, em còn rất nhiều việc phải chi tiêu, em sợ sẽ không trả lại cho anh liền được. Nếu anh cần tiền gấp, em sẽ không có liền.

Anh nói:

- Em lo xa lắm, nhưng em đừng ngại gì hết, cứ lo chuyện trước mắt trước đi. Còn anh thì sao cũng được.

Tôi đề nghị để tên anh vào giấy tờ chung với tôi, nhưng anh nhất định từ chối.

Sau cùng thì ngôi nhà cũng hoàn thành. Nhờ sự giúp đỡ của anh tôi mua được ngôi nhà mới này. Ngày dọn nhà, anh từ San Jose xuống và cùng Hoàng Trọng Thụy, người bạn thân của chúng tôi lúc đó, dọn nhà phụ tôi.

Trong lúc lu bu dọn dẹp, tôi có điện thoại. Ðầu dây bên kia là Minh Phượng, người bạn tôi xem như em gái của tôi, Phượng là một xướng ngôn viên nổi tiếng của một đài phát thanh ở quận Cam, khi tôi nói với Phượng là anh Sĩ Phú có mặt ở nhà tôi, Phượng ngỏ ý muốn nói chuyện với anh, tôi đưa ống nói cho anh:

- Anh say hello với Phượng đi anh !

- Hello Phượng, anh Sĩ Phú đây em !

Tôi lu bu đi tiếp tục dọn dẹp và cho đồ vào thùng. Một hồi lâu, anh đưa lại điện thoại cho tôi, rồi tiếp tục làm việc. Không biết anh và Phượng đã nói những gì, mà xem Phượng có vẻ quý anh lắm và hết lòng khen ngợi anh Sĩ Phú có giọng nói rất truyền cảm, rất tốt và ấm trong điện thoại. Phượng khen giọng anh không thua một xướng ngôn viên nào trong các đài phát thanh thời bấy giờ.

Tôi nói với Phượng:

- Chị đã nói với Phượng rồi mà, bây giờ thì Phượng mới chịu tin chị, là anh Sĩ Phú có giọng nói rất ngọt ngào đầm ấm và thật trữ tình.

Khi tôi nói với anh về những lời khen này, anh vừa làm việc, vừa nheo mắt nhìn tôi:

- Anh có cái gì đâu mà các cô cứ khen mãi ! Theo lẽ anh phải khen Phượng mới đúng chứ vì quả thật Phượng có một giọng nói rất rõ và trong sáng mà xướng ngôn viên nào cũng cần phải có.

Phượng thấy chúng tôi dọn nhà mệt mà chưa có ăn uống gì nên cô có nhã ý đi mua thức ăn và đem lên cho chúng tôi, nhưng vì nhà tôi quá xa cho Phượng nên chúng tôi xin được từ chối và cảm ơn Phượng.

Ðến khuya hôm ấy, chúng tôi dọn gần hết đồ đạc về nhà mới, hai chúng tôi đều bị mệt nhoài vì dọn nhà suốt ngày. Mãi làm việc mà quên ăn uống, tôi và anh đói meo. Trời đã khuya, chúng tôi chỉ còn biết chở nhau đi Denny's ăn tối. Lần đầu tiên, từ ngày chúng tôi quen nhau, anh và tôi mới có dịp gần gũi và thương yêu nhau hơn. Ðêm ấy, chúng tôi là hai người bạn hạnh phúc nhất trên đời vì đó là lần đầu tiên, chúng tôi thực sự mới có được một tổ ấm riêng cho chúng tôi. Mặc dù mệt lả vì dọn nhà suốt ngày, nhưng anh và tôi cứ mãi quấn quít bên nhau, hàn huyên, tâm sự cho đến gần sáng. Anh và tôi cùng chung một ý nghĩ, mặc dù chỉ quen nhau hơn một năm, nhưng hình như sợi dây vô hình nào đó đã thắt chặt chúng tôi lại dường như hơn một trăm năm rồi. Càng biết nhiều về anh, tôi càng ngưỡng mộ anh và yêu quý anh hơn ở cái tư cách có một không hai của anh. Anh là một người đàn ông ngoại hạng.

Anh ở lại một tuần lễ sau đó để phụ tôi cất bỏ đồ đạc vào nơi chốn đàng hoàng, anh dọn dẹp rất kỹ lưỡng từ trong ra ngoài. Anh làm với tất cả sức lực và sự nhiệt thành. Anh rất điềm tĩnh trong lúc gặp trở ngại khó khăn và anh luôn luôn có câu giải đáp cho mọi vấn đề.

Tôi phải buột miệng khen anh:

- Nhà binh có khác, cái gì anh cũng biết, cái gì anh cũng làm được, anh ơi, nói cho em nghe đi, cái gì mà anh không biết và không làm được?

Anh vẫn lẳng lặng làm việc, không trả lời câu hỏi nửa đùa nửa thật của tôi.

Ban ngày lúc tôi đi làm việc, anh ở nhà giúp tôi làm hết những gì tôi cần, công việc rất nhiều, làm hoài không hết. Càng làm càng nhiều việc.

Chúng tôi đưa nhau đi ăn nhà hàng mỗi buổi tối vì tôi chưa nấu nướng được trong lúc này. Tìm kiếm mãi, sau cùng, thì chúng tôi tìm được hai nhà hàng, một nhà hàng thì chuyên bán Bò Bảy Món rất ngon ở góc Harbor và freeway 22, còn nhà hàng kia thì có món cá nướng thật độc đáo ở đường First. Cả hai đều khá khang trang và sạch sẽ ở gần khu Little Saigon. Trong thời gian đó, chúng tôi thay phiên lui tới thường xuyên ở hai nhà hàng này để dùng cơm tối.

Tôi trước đó không bao giờ thích Bò Bảy Món trừ ra món cháo sau cùng, nhưng từ lúc đi ăn thường xuyên với anh, tôi lần lần làm quen với các món khác và sau cùng thì rất thích món Bò Bảy Món này , vả lại, nhà hàng này nấu ăn cũng khá ngon hợp với khẩu vị của chúng tôi, vì thế cho nên, cứ mỗi buổi tối, chúng tôi đều đến dùng những bữa cơm rất thịnh soạn và qua những bữa cơm này,chúng tôi tìm được rất nhiều hạnh phúc bên nhau. Tình cảm của chúng tôi càng ngày càng khắng khít.

Hai tháng sau khi dọn vào nhà mới, mọi việc tương đối tạm ổn định, chúng tôi bắt đầu lo việc vườn tược. Sân sau và sân trước của nhà tôi rất nhỏ so với nhà cũ, nhưng chúng tôi vẫn có chỗ để trồng thật nhiều hoa ở sân trước và cây ăn trái ở sân sau.

Anh trồng cho tôi một cây hoa Ngọc Lan thật đẹp ngay trước nhà gần cửa ra vào, một cây hoa giấy, để leo tường và vô số những bông hoa khác. Anh đi Home Depot để mua những dụng cụ cần thiết mà một người đàn ông nào trong mọi gia đình cũng đều có như búa, kìm, đinh đóng đủ loại, bù lon, máy khoan điện vân vân...Anh bỏ suốt một ngày để đóng đinh lên những bức tường đá để giăng dây cho hoa leo sát tường, thay vì xài những loại hàng rào bằng gỗ người ta bán đầy ở các vườn cây. Tôi không muốn anh phải tốn quá nhiều thì giờ cho ngôi nhà này như vậy, nhưng anh rất nhiệt thành, anh bảo:

- Nếu anh không làm thì thà anh trở về San Jose cho xong vì anh cũng rất bận rộn trên ấy. Nhưng anh muốn tất cả mọi việc ở dưới này xong xuôi đâu ra đó rồi thì anh mới yên lòng về lại. Em cứ để anh làm, chừng nào mệt thì anh nghỉ, anh lo cho anh được mà cưng !

Anh đóng thêm kệ gỗ, và treo những bức tranh vào những chỗ nào tôi muốn. Anh đi đặt mua các tấm màn mini blind giùm tôi rồi gắn lên rất là kỹ lưỡng, anh lấy thước đo đàng hoàng trước khi đóng cây đinh vào tường, anh nâng niu những gì trong tay chứ không chỉ làm lấy lệ cho xong chuyện.

Có một đêm, anh thức thật khuya ở ngoài garage để sửa chữa một tấm màn mini blind nhỏ xíu đang bị rối loạn vì anh lỡ đánh rơi nó. Tôi không hay biết gì hết, đến một lúc sau, tôi không thấy anh, đi tìm anh, thì mới nhận thấy sự mỏi mệt nơi anh. Tôi hối hận vô cùng, vội trách anh:

- Anh bỏ nó đi, nó có tốn bao nhiêu tiền đâu mà anh phải bận tâm tốn thì giờ vô ích với nó.

Anh điềm tĩnh trả lời:

- Nhưng anh biết em không hoang phí, nên anh không muốn bỏ nó. Anh muốn giữ nó cho em.

Tôi cảm động:

- Anh à, cái gì cần phải bỏ thì bỏ, em không tiếc đâu. Thì giờ quý báu đó anh để nghỉ mệt, nghe nhạc, không thích hơn sao ? Tội nghiệp vì anh quá hết lòng, nên không chịu cân nhắc gì hết !

Tôi giành lấy tấm màn từ tay anh, anh dằng lại, tôi năn nỉ anh:

- Mấy tấm màn mini blind này em chỉ xài tạm mà thôi, chừng nào có shutter để thay thế thì em sẽ bỏ nó hết. Em chỉ thích mini blind ở những nơi không quan trọng như cửa sổ phòng tắm mà thôi. Anh chớ nhọc công vì nó.

Anh đành nghe lời tôi, vứt tấm màn vào sọt rác gần đó và đi dọn dẹp đồ nghề. Tôi phụ anh vứt hết đồ lỉnh kỉnh vào thùng rác. Vào nhà, anh đi tắm, tôi gọt trái cây cho anh ăn, tôi không muốn anh làm gì khác nữa, anh đã mệt đừ vì làm việc suốt ngày rồi.

Tôi đem xoài ngọt cho anh ăn và cảm ơn anh rối rít về những gì anh đã giúp tôi. Anh vuốt tóc tôi bảo rằng:

- Em đừng bận lòng, anh rất muốn làm thật nhiều cho em. Làm gì được thì anh sẽ làm. Em viết ra giấy đi những gì em muốn anh làm cho em ngày mai, anh sẽ lo liệu.

Tôi nhìn lại ngôi nhà, từ ngày có bàn tay tháo vát của anh, nó đã trở nên xinh đẹp gọn gàng và trang nhã vô cùng. Tất cả những gì anh đã làm, mãi cho đến ngày giờ này tôi vẫn không thay đổi. Tôi yêu quý từ góc nhà, từ kẹt cửa, chỗ nào có bàn tay thân yêu của anh đã đi qua, tôi không chạm đến vì e ngại sẽ làm mất đi hình ảnh cao quý của anh.

Một tháng sau, chúng tôi đi mua hai cây nhãn hột tiêu lấy giống từ Thái Lan, anh trồng một cây trước nhà. Còn sân sau anh trồng cho tôi một cây nhãn, một cây ổi xá lị, táo Tàu, hồng dòn, sa pô chê và khế ngọt. Tôi cũng không quên trồng một cây phong sau nhà để được nhìn lá trổ vàng khi mùa thu đến như ở ngôi nhà cũ của tôi dạo nào.

Năm đầu, cây khế cho chúng tôi khoảng trên 50 trái khế ngọt thật lớn, nhưng từ đó đến nay, nó càng ngày càng cằn cỗi lần lần. Nhưng các cây khác thì cho rất nhiều trái ngọt, càng ngày trái càng lớn và nhiều. Cây nhãn ngọt Thái Lan không làm tôi thất vọng. Mặc dù mỗi năm tôi chỉ được khoảng 100 đến 150 trái, nhưng rất ngọt, thơm và hột thì rất nhỏ. Còn cây sa-pô-chê thì đến giờ này vẫn chưa có trái nào. Anh thất vọng về cây này nhất vì lúc đầu, anh đặt rất nhiều hy vọng vì cành lá của nó sum xuê đẹp đẽ lắm.

Từ ngày tôi dọn về nhà mới, mỗi lần anh xuống thăm, anh ở lại nhà tôi chứ không về nhà của anh Phòng nữa. Thỉnh thoảng có đi đâu, anh ghé vào thăm anh chị Phòng chốc lát rồi đi.

Cũng trong thời gian này, lần nào anh xuống thăm tôi là anh cũng luôn luôn về thăm viếng cô Kim Uyên và người con trai con riêng của cô khoảng nửa ngày.

Ðôi khi anh cũng hay lười, nằm nhà đọc sách suốt ngày, không chịu đi đâu, tôi sợ anh bị buồn chán vì tôi phải đi làm suốt ngày. Tôi phải giục anh đi thăm cô Kim Uyên.

- Sao anh không đi thăm cô ấy đi. Anh nằm nhà mãi sẽ đâm ra chán !

- Cô ấy cũng đang làm việc, đâu có rảnh em. Chiều tối anh sẽ đi.

Mỗi lần anh thăm viếng tôi như vậy, anh thường lưu lại hai ba tuần lễ, đôi khi đến cả tháng rồi mới trở về San Jose.

Trong thời gian này, tôi vẫn đi làm việc bình thường, anh đem công việc theo với anh và làm việc tại nhà tôi, chừng nào xong thì anh gửi đi.

Ðôi khi anh có rảnh một chút thì anh nấu ăn giùm tôi. Buổi chiều đi làm về được ăn một buổi cơm rất thịnh soạn và ngon miệng do anh nấu thì còn gì bằng. Phải nói rằng tài nấu nướng của anh rất độc đáo, không ai bì. Anh nấu đủ món, món nào cũng ngon. Canh chua vừa đủ chua và hơi cay một chút, cá kho thì anh kho vàng óng mềm mại, không bao giờ bị bể khứa cá, tôm rang thì rất hồng và dòn thơm phức, món nào ra món đó, đối với anh, nấu ăn là một nghệ thuật. Những thức ăn anh nấu chẳng những vừa ngon mà vừa trông đẹp mắt nữa.

Khi đi làm về nhà, anh không muốn tôi làm gì hết, anh bảo:

- Em nên nghỉ ngơi một chút đi rồi hãy dùng cơm.

Nếu tôi không nghe lời anh, tiếp tục vào bếp, thì anh kéo tôi ra.

Anh dọn cơm ra bàn rất tươm tất, chén, muỗng, đũa và khăn ăn, lúc nào hoa Ngọc Lan nở, anh hái một đóa vào nhà, để lên bàn ăn cho tôi.

Tôi vặn máy hát lên, để CD Tà Áo Xanh của Sĩ Phú vào, chưa kịp cho máy hát thì anh đã bảo:

- Thôi em à, anh không muốn nghe !

- Tại sao anh không muốn nghe ? Em thích CD này lắm.

- Anh không thích nghe anh hát trong lúc này.

- Nếu anh nói như vậy thì thôi, em sẽ không để nhạc.

Tôi tắt máy, trở về lại bàn ăn.

Anh âu yếm nói với tôi:

- Buổi chiều em đi làm về anh rất vui. Ði ăn tiệm hoài anh ngán quá, tốn kém mà lại không bằng ở nhà. Nếu anh mà có nhiều thì giờ thì anh sẽ nấu ăn thường cho em.

Tôi cảm động nhìn anh:

- Ăn uống như thế này thì quá thịnh soạn, đẹp và ngon quá anh à. Cả đời em, chưa bao giờ em ngờ được là, một ngày nào đó, em sẽ được anh Sĩ Phú nấu cho em ăn. Anh làm em cảm động lắm, không lẽ bây giờ em bảo anh đừng nấu nữa, nhưng anh có thì giờ đâu?

- Em đừng lo, khi nào anh nấu được thì anh sẽ nấu. Còn nếu không có thì giờ nấu thì chúng ta đi ăn tiệm. Thôi, mời em cầm đũa.

- Dạ mời anh !

Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện rất thân mật trong những buổi cơm tối như vậy. Tôi học rất nhiều tính tốt về anh, anh là một người vô cùng thuận thảo khi nói đến vấn đề ăn uống. Anh luôn luôn nhường những thức ăn ngon cho tôi và hết lòng săn sóc tôi trong bữa ăn. Hình như đó là một niềm vui cho anh.

Chúng tôi thay phiên gắp thức ăn cho nhau. Anh nói:

- Cho anh biết món ăn nào em thích, anh sẽ nấu cho em.

- Em ăn dễ và đơn sơ lắm, món nào anh nấu thì em ăn. Nấu ăn ngon như thế này thì cái gì em cũng ăn được.

Anh lườm tôi:

- Nhưng em đâu có ăn được rau cải.

Tôi bật cười với anh, rồi phân trần:

- Em tệ thật. Không hiểu sao, em không ăn được rau cải. Nhưng rau tươi, cải xà lách ăn bún thì em ăn rất nhiều, còn ngoài ra những loại cải như bẹ xanh, bẹ trắng, cải ngọt, cải làn, rau dền, rau lang, rau muống, giá sống gì gì đó thì tới chết, không bao giờ em ăn được. Ăn vào là nhả ra hết. Thôi, anh cứ cho em ăn đậu hũ chiên với nước tương đi, suốt đời em ăn cũng được, không bao giờ chán.

- Anh và em rất hợp tánh tình, duy chỉ có cái chuyện ăn rau cải, anh lấy làm lạ là tại sao em ăn không được. Anh thì rất thích ăn rau cải. Thôi được, để từ từ, anh sẽ tập em ăn rau.

- Chúc anh thành công, vì em đã tập cả đời rồi mà không ăn được!

- Ngày mai anh sẽ làm bò bía cho em ăn. Anh làm bò bía ngon lắm !

- Ô, em thích bò bía lắm ! Nếu anh nói ngon thì nhất định phải ngon. Có bao giờ anh khen anh đâu?

Hôm sau, đi làm về, vừa ló đầu vào nhà là ngửi mùi bò bía làm tôi đói run lên.

Tôi đã từng ăn bò bía Viễn Ðông ở Sài Gòn ngày xưa rồi, thua xa bò bía của anh Sĩ Phú. Anh làm tương ăn rất ngon, anh quẹt tương vào bánh tráng và củ sắn trước khi anh cuốn. Khi ăn không cần phải chấm vào tương. Tôi nói với anh:

- Ðúng là anh cuốn theo kiểu ở quê nhà ngày xưa. Cái mùi bò bía này giống như mùi bò bía em ăn ở nhà lúc còn bé. Rất đặc biệt em không làm sao diễn tả được, hai mươi năm nay bây giờ mới ngửi lại. Anh Phú ơi, có lẽ anh nên mở nhà hàng vì anh nấu ăn quá ngon, ngon tuyệt vời.

- Anh đã từng có nhà hàng rồi, em nhớ không ? Cực lắm em ạ, đừng có ham.

Tôi tập ăn ít ban đêm vì sợ mập, vậy mà tối hôm ấy tôi ăn một lượt 7, 8 cuốn dài hơn bò bía ở mấy hàng food to go bán mà vẫn chưa thấy no. Nhưng tôi phải ngừng vì sợ bị anh cười là tham ăn.

- Em sợ mập chứ không thì em sẽ ăn thêm nữa !

- Em mập hay ốm thì có sao đâu, anh cũng vẫn thương em như thường. Em đừng quá lo lắng về bề ngoài. Em có mập thì anh vẫn không thay đổi ý. Giá trị của người đàn bà là ở trong tâm hồn của họ và những gì họ làm cho gia đình, chứ đâu phải ở một vài cân bên ngoài. Mập thì làm ốm lại rất dễ, chứ tâm hồn không đẹp thì làm cho tốt đẹp được mới là khó.

- Em cảm ơn bài học của anh, vậy thì bây giờ em có thể ăn thêm một cuốn nữa không ? Anh ơi, hình như bỏ tương ở trong cuốn bò bía ngon hơn là chấm tương đó anh. Em ăn thấy no chứ không thấy ngán !

Quả thật trong thời gian anh thăm viếng thường trực, tôi bị lên cân vì ăn hơi nhiều. Nhưng anh thì vẫn gầy gầy, vì cứ mỗi lần anh trở về San Jose được một hai tuần, thì anh lại rơi vào trường hợp cô đơn, buồn khổ vì không ai chia sẻ đời sống, miếng cơm manh áo với anh?

Nỗi buồn của anh vẫn triền miên, ray rứt.

Ngày đó, anh buồn vời vợi vì anh muốn chia sẻ đời sống với tôi, anh rất muốn cùng tôi đi hết đoạn đời còn lại, nhưng cái gì đó, đã làm cho anh dừng lại, và nuối tiếc rồi khổ đau. Có nhiều lúc tôi và anh đã tính chuyện hôn nhân. Tôi nói với Phượng điều này, Phượng vui mừng bàn với tôi một hôn lễ:

- Em và Việt Dzũng sẽ làm MC cho anh chị, và ban nhạc Chí Tài sẽ hát trong ngày cưới của anh chị ...

Tôi nói lại cho anh nghe những gì chúng tôi bàn về ngày hôn lễ, anh vô cùng xúc động, anh bảo tôi:

- Ðây sẽ là đám cưới đầu tiên trong đời anh. Anh ước gì đó là sự thật.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: ổi xanh, christiane

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Sep 2008

Chương Mười Ba
Tuyết Trắng

Cuối năm 1997.

Anh đến phòng thu âm của trung tâm Asia Entertainments để thu âm bản nhạc Tuyết Trắng. Lúc đó tôi đang làm việc cho một công ty lớn ở thành phố Cypress, quận Cam. Tôi có trách nhiệm phải điều hành một kế hoạch sửa đổi hệ thống điện toán của công ty này để đối phó với vấn nạn Con bọ điện toán năm 2000. Tôi làm việc rất nhiều giờ, và luôn ở lại sở rất trễ. Sau khi anh thu âm xong bản nhạc Tuyết Trắng, khoảng nửa đêm, từ phòng thu của trung tâm Asia, anh gọi cho tôi:

- Em ơi anh đây, thu âm xong rồi. Trời ơi giờ này mà em còn làm việc sao ?

- Vâng thưa anh, em còn làm, từ nay cho đến tháng giêng năm 1999, có lẽ em sẽ làm nhiều giờ. Công việc nhiều lắm anh ạ !

- Gì mà dữ vậy em, em nghỉ mệt một chút đi. Em có muốn nghe bản Tuyết Trắng anh vừa thu xong không ?

- Dạ vâng, em muốn nghe lắm !

Tôi nghe tiếng anh nói chuyện với anh em ở phòng thu, một lúc sau, tôi nghe bản nhạc bắt đầu?

Hết bản nhạc, anh cho tôi nghe thêm bản Tuyết Trắng do anh hát lại lần thứ hai. Sau khi nghe xong bản nhạc do anh hát hai lần, anh hỏi tôi:

- Em thích bản nào nhất ?

- Em thích bản thứ hai, vì lần thứ hai anh hát nhuyễn hơn, dịu dàng hơn, mượt mà hơn, bản nhạc đầu em nghe tuy rằng cũng khá hay nhưng hơi cứng, và hơi rời rạc một chút. Anh nên bảo họ chọn bản nhạc thứ hai đi anh à !

Khuya hôm ấy anh mang về một băng cassette có bản nhạc mà anh vừa thu hai lần. Chúng tôi nghe đi nghe lại rất nhiều lần cho đến 2 giờ30 sáng.

Ðối với tôi thì có lẽ bản nhạc này có một chút kỷ niệm gì đó cho cuộc tình của chúng tôi, vì từ ngày tôi quen anh cho đến lúc bấy giờ, anh chưa từng hát một bản nhạc nào cho bất cứ một trung tâm băng nhạc nào hay cả cho chính CD của anh.

Có một lần khi vừa mới quen anh, tôi hỏi anh :

- Tại sao em không thấy anh xuất hiện thường xuyên trên các băng video của các trung tâm băng nhạc lớn ?

Anh hơi buồn và trả lời rằng :

- Anh không được họ mời, cho nên anh ít xuất hiện. Chừng nào người ta mời, thì anh mới đi.

- Mà anh có muốn lên các show đó không ?

- Cũng tốt thôi, nếu người ta mời thì anh sẽ lên !

Lúc ấy tôi cảm thấy thương xót anh vô cùng. Anh có vẻ cô đơn, cần một hoạt động văn nghệ gì đó để đem anh gần với các bạn nghệ sĩ của anh hơn và để đem anh ra khỏi sự buồn tẻ, lẻ loi.

Ðã nhiều lần, tôi muốn làm một sản phẩm nghệ thuật nào đó cho anh, chẳng hạn như một băng video ca nhạc để đời, nhưng rồi lại thôi vì không có khả năng tài chính.



Sáng sớm hôm sau tôi gọi cho Minh Phượng và nói cho Phượng biết rằng anh cần một bộ đồ bay Không Quân để mặc ngày trình diễn, Phượng tức thì liên lạc với một cựu sĩ quan Không Quân cô quen biết và vị cựu sĩ quan này có nhã ý cho anh Sĩ Phú mượn tạm bộ đồ bay của ông ta, nhưng rất tiếc, bộ đồ bay rất chật so với dáng cao lớn của anh Sĩ Phú, mặc dù lúc ấy anh Sĩ Phú rất ốm yếu, gầy còm. Nhưng anh cất giữ những miếng phù hiệu của các đơn vị Không Quân để về sau nếu cần, gắn vào bộ đồ bay để tạo nên một chút ít màu sắc và trung thực hơn là một bộ đồ bay mà không có phù hiệu của đơn vị.



Hôm sau anh phải đi tìm mua một bộ đồ. Rất là cực khổ để tìm một tiệm buôn bán quân nhu. Anh phải lục lọi, tìm kiếm trong điện thoại niên giám mãi mới tìm được hai tiệm chuyên bán những đồ phế thải của quân đội. Anh lái xe đi thật xa để mua bộ đồ bay ấy.

May mắn cho anh, họ còn một vài bộ, nên anh tìm được bộ đồ bay mới tinh, vừa khít và khá đẹp. Anh mua thêm một cái áo khoác ngoài, một sợi dây buộc bụng, một đôi giầy, nhưng không tìm ra được một cái nón phi công để đội. Anh đi suốt ngày hôm ấy, từ sáng đến chiều để tìm mua cái nón phi công, nhưng không tìm ra. Hôm sau anh lại về lại San Jose vì có chuyện gấp, việc tìm kiếm cái nón bị dở dang.



Tôi giúp anh đi tìm mua cái nón đó.

Lần này, tôi tìm được một tiệm chuyên bán đồ quân nhu vừa cũ và mới ở tận thành phố San Pedro, cách nhà tôi 50 dậm. Vì kẹt xe nên tôi và đứa con gái nhỏ của tôi phải mất một tiếng đồng hồ mới đến nơi. Chưa từng bao giờ để ý cái nón của phi công là như thế nào, nghe anh tả trong điện thoại, tôi mang máng hình dung ra cái nón phi công tương tự như một cái nón mô tô, nhưng thanh thanh và kiểu cách hơn.



Ðến nơi, tôi gọi điện thoại cho anh, hỏi anh rất kỹ và tả sơ cho anh biết những cái nón mà họ có trong tiệm. Tôi lục lọi trong đống nón của họ để tìm một cái nón như anh tả, nhưng tất cả đều không phải. Tất cả đều là những cái nón bình thường. Rồi tôi lại tìm cùng hết trong tiệm, mà vẫn không được cái nào.

Sau cùng thất vọng quá, tôi trở về đống nón đầu tiên mà tôi đã tìm, moi lên được một cái nón trắng mà tôi nghĩ là nón phi công. Tôi hỏi người chủ tiệm, ông ta nói đúng là nón phi công. May mắn thay nó lại đúng màu anh cần, nhưng rất tiếc cái nón quá cũ, trầy trụa xấu xí, dây nón bị sút ra tòng teng, nhìn xem không đẹp đẽ chút nào.

Người chủ tiệm đòi 160 đô la cho cái nón này.

Tôi mở to mắt nhìn ông ta:

- Ông nói gì, cái nón cũ rích như cái nón này mà là 160 đô la ? Ông có nói lầm không ?

Ông ta nói:

- Không, tôi không lầm đâu, những cái thứ này bây giờ chúng tôi không thể nào tìm được nữa. Nhưng nếu cô mua nó, thì sau khi xài xong, cô có thể đem bán lại cho chúng tôi phân nửa giá tiền, chúng tôi sẽ mua lại nếu có biên nhận của tiệm chúng tôi.

Sau khi gọi anh để nói chuyện về cái nón này, tôi nhờ ông chủ tiệm gọi điện thoại giúp tôi tìm một cái nón như vậy ở những tiệm khác. Họ cũng mau mắn và tận tình giúp tôi. Họ gọi hai ba cửa tiệm, không tiệm nào có bán nón phi công. Nhưng khi gọi đến tiệm cuối cùng, họ bảo có bán nón phi công cũ, và giá tiền cũng không rẻ hơn bao nhiêu. Tôi bằng lòng mua cái nón này với giá 160 đô la để khỏi phải đi xa tìm tòi vô ích.

Tôi mừng là đã tìm được cái nón cho anh, vì anh rất muốn cầm cái nón này lúc ca, nếu không thì anh sẽ cảm thấy trơ trẽn và trơ trọi lắm.

Tối hôm đó, tôi lau chùi sạch sẽ, rồi đánh bóng cái nón cho anh. Tôi lui cui làm việc suốt đêm, cái nón quá cũ mà lại xệu xạo, hư tới hư lui, dây nón sút ra? tôi loay hoay mãi và sau cùng rồi cũng xong. Xem ra, cái nón phi công của anh lúc này tương đối đỡ hơn lúc mới mua nhiều, nó sạch sẽ hơn và trông cũng đẹp ra phết. Tôi rất vui mừng, gọi điện thoại cho anh biết. Anh rất xúc động cảm ơn tôi rất chân thành:

- Anh cảm ơn em rất nhiều. Tội nghiệp em tôi quá, nếu không có em thì không biết anh sẽ ra sao. Hồi chiều hai mẹ con em lái xe đi xa để đi mua nón cho anh, làm anh lo lắm, anh cầu nguyện rất nhiều cho em và Crystal (con gái của tôi) , anh cứ nơm nớp lo sợ em bị tai nạn, anh lo lắm.

- Em cảm ơn bố đã lo cho em, nhưng bố đừng lo cho em nữa, em lái xe nghề lắm mà !

- Nghề thì nghề, nhưng em lái xe cao bồi lắm, đôi khi anh lo cho em mà mất ăn, mất ngủ !

Tôi kiếm một cái thùng giấy, gói cái nón lại cẩn thận, bỏ vào thùng và sáng hôm sau, trước khi đi làm, tôi đi ra bưu điện gửi cái nón lên cho anh.

Anh nhận được cái nón hai ngày sau đó, anh rất mừng gọi tôi cho biết và một lần nữa, anh cảm ơn tôi.

Vài ngày sau, vào một buổi sáng anh kêu nhức đầu và không khỏe trong người, buổi chiều anh bị nóng đầu và nửa đêm thì bị sốt cao đến gần 102 độ.

Tôi lo lắng cho anh vô cùng, tôi trách khéo anh:

- Khổ quá đi thôi, anh ở trên đó thì em làm được gì cho anh bây giờ ? Ngày mai em sẽ lên đó để chăm sóc anh.

- Không sao đâu cưng, anh sẽ khỏi, sắp đi show rồi, không lẽ anh bệnh sao ? Em đừng lên làm gì, anh bị bệnh ai đi đón em ? Phiền lắm !

- Thì em kêu tắc xi đi chứ gì ! Anh ơi thiếu gì cách. Anh đã uống thuốc chưa ?

- Anh uống hai ba loại thuốc rồi, một chút nữa thuốc sẽ làm cho anh ngủ, em đừng lo cho anh nhé !

- Lo chứ sao không lo, không lo cho anh thì còn lo cho ai bây giờ ? Anh à, nếu anh có cần gì, gọi cho em liền nhé cưng ! Thôi ngủ đi anh, em hy vọng tối nay thuốc sẽ giúp anh bớt sốt và ngày mai thức dậy, em hy vọng anh sẽ đỡ bệnh. Ngày mai em lên thăm anh.

Sau khi nói chuyện với anh xong, tôi gọi điện thoại đặt mua vé máy bay để lên thăm anh ngày hôm sau, vì mua quá cận ngày, vất vả lắm tôi mới dành được một chỗ trên chuyến bay khoảng 11 giờ trưa.

Chín giờ sáng anh gọi tôi giọng còn ngái ngủ, anh cho biết đã đỡ rất nhiều nhờ uống thuốc hạ nhiệt. Thuốc làm anh ngủ suốt đêm sau khi nói chuyện với tôi hôm qua.

Khi cho anh biết tôi sửa soạn ra phi trường, anh vội bảo:

- Em nên đi làm đi, đừng vì anh mà bỏ công việc sở, em rất bận mà. Vả lại anh cũng đã đỡ lắm rồi. Hôm nay nhiệt độ của anh hạ còn 99 độ 7. Từ giờ đến chiều thì có lẽ anh sẽ đỡ hơn. Em nghe lời bố đi cưng. Ði làm đi.

- Anh không muốn em lên trên đó để săn sóc cho anh sao ?

- Anh lúc nào cũng muốn gặp em và được em săn sóc cho anh. Việc đó quý vô cùng. Nhưng anh nghĩ em không cần thiết phải lên. Nhà chật chội, chị Út giữ vài ba đứa trẻ trong nhà, ồn ào náo nhiệt từ sáng cho đến khuya, em không thích đâu, em lên đây anh không có chỗ cho em ở và anh cứ phải lo cho em thì anh còn bệnh nặng hơn.

Tuy anh nói vậy, nhưng tôi biết rõ cái lý do tại sao anh không muốn tôi lên.

- Thôi, nếu anh nói như vậy thì em sẽ không lên. Em sẽ gọi họ để cancel vé máy bay vậy.

Tôi có cảm tưởng là anh buồn lắm.

- Em đừng giận anh nhé, Ngọc Lan ! Em nên để dành tiền. Sau khi đi Canada về, anh sẽ xuống thăm em.

- Em không giận anh đâu, cưng à. Nhất là lúc anh bệnh mà không muốn phiền đến em thì em càng thương anh hơn. Bất cứ khi nào anh có cần em thì cứ gọi em, anh nhé !

- Cảm ơn em. Thôi bây giờ để anh ngủ thêm một tí nhé.

- Anh ráng ngủ nhiều đi anh nhé. I love you.

- I love you too, cưng !

Hai ngày sau đó, trong lúc vẫn còn bệnh dù có thuyên giảm đôi chút, anh bay sang Canada để thu hình cho bản nhạc Tuyết Trắng trong cuốn video Những Tình Khúc Mùa Chinh Chiến của trung tâm Asia.

Lúc trở về California, anh đi xuống thẳng quận Cam để thăm tôi. Vào lúc này thì anh chịu cho tôi đi ra phi trường đón anh.

Quả thật, những sự đau buồn, lo lắng thái quá về ba đứa con của anh, về người tình cũ không còn ở với anh, sự cô đơn vì đời sống không có tôi. Những bứt rứt và sự chịu đựng đã dằn vặt anh, những sự ăn uống rất bất thường của anh, ngần ấy đã làm cho anh yếu đuối, bệnh hoạn, xơ xác, tả tơi. Anh ốm tong teo, dù anh không xanh xao mấy, nhưng vẻ mệt mỏi, lo buồn vẫn còn hằn trên gương mặt anh.

Quý khán thính giả đã nhìn thấy hình ảnh này trên video mà anh xuất hiện lần cuối cùng với trung tâm Asia.

Anh không cười khi thấy tôi, nhưng nét mặt anh rạng ngời chan chứa thương yêu khi anh nhìn tôi. Tôi mừng rơi nước mắt chạy tới ôm chầm lấy anh, âu yếm hỏi:

- Bố đi máy bay có mệt không ?

Anh ngừng lại hôn trên tóc tôi, trả lời:

- Không, anh không mệt. Ði máy bay thường lắm rồi. Có gì lạ không em ? Em có gặp Crystal không ? Hôm nay Crystal không đi đón anh à ?

- Dạ thưa anh em có gặp con rất thường. Hôm nay Crystal đi chơi softball rồi anh ạ !

Rồi tôi khoe với anh:

- Crystal chơi thể thao rất khá anh ạ ! Nó rất giỏi về cả hai bộ môn khúc côn cầu và bóng rổ và nó lại học giỏi nữa. Con bé đã được nhiều báo chí trong đó có tờ LA Times, tờ OC Register phỏng vấn và nói về nó như một thiên tài thể thao.

Anh sung sướng mỉm cười :

- Anh biết mà, Crystal giỏi giống mẹ lắm ! Còn mẹ em như thế nào, mẹ có đỡ bệnh không em ?

- Mẹ thì không khỏe đâu anh, càng ngày càng yếu, tội nghiệp mẹ em lắm anh ơi !

Anh buồn bã, lặng thinh.

Tôi lái xe đưa anh về nhà.

Trên đường về nhà, tôi hỏi anh về chuyến đi Canada của anh. Anh bảo mọi việc bình thường. Tuy nhiên anh than phiền là ánh đèn sân khấu rất nóng trong màn trình diễn đã làm cho anh khó chịu, môi anh bị khô rát, người nóng ran lên, làm cho anh không được thoải mái khi đứng hát. Mỗi một bài ca thì quang cảnh phối trí phải dàn dựng rất công phu, chiếm rất nhiều thì giờ mà anh thì lại không khỏe trong người.

Tôi nói với anh:

- Em rất tiếc, nếu anh không thoải mái thì làm sao mà làm show hay cho được ? Vả lại, anh mới vừa hết bệnh mà!

Anh không nói gì cả.

Tôi hỏi tiếp:

- Anh có nhớ đem theo cái nón trắng với anh qua Canada không?

- Có, anh có đem theo và có dùng nó.

Vừa bước vào nhà, tôi cảm thấy anh có vẻ thoải mái hơn, tươi tỉnh hơn. Anh ôm tôi sát vào lòng anh, hôn tôi và tươi cười nói:

- I am home, Sweetheart. Home sweet home !

-Anh đã về nhà rồi em ơi ! Ôi ngôi nhà yêu quý !
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: ổi xanh, christiane

Re: Sĩ Phú - Biết Bao Giờ Nguôi

Postby hoatimxua » 18 Sep 2008

Chương Mười Bốn
Mùa Giáng Sinh Yêu Dấu

Những ngày cuối năm 1997.

Mùa Giáng Sinh năm ấy là một mùa lễ tôi có rất nhiều kỷ niệm với anh. Vì có quá nhiều mưa bão, rất nhiều chuyến bay đã bị tạm hoãn hay hủy bỏ. Chúng tôi liên lạc với nhau rất khó khăn vì cả anh và tôi không có chắc là anh sẽ lên được máy bay, một phần là vì anh mua vé quá trễ nên phải ra phi trường sớm để chầu chực mong được một chỗ ngồi để xuống thăm tôi, một phần là vì các hãng máy bay đua nhau hủy bỏ các chuyến bay vì giông bão trên San Jose.

Bảy giờ tối tôi rời sở.Tám giờ đêm tôi đã có mặt tại phi trường Los Angeles để đón anh. Chuyến bay của anh bị hủy bỏ, người ta chuyển hành khách qua chuyến bay khác. Tôi tiếp tục chờ đợi chuyến sau, rồi chuyến sau và rồi chuyến sau nữa, nhưng chẳng thấy anh đâu.

Tôi buồn bã vô cùng, nhìn con đường dài hun hút tối đen sau khi người khách cuối cùng ra khỏi chuyến bay, tôi không khỏi ngậm ngùi thất vọng.

Tôi đã bỏ quên điện thoại di động của tôi trong xe, và vì đậu xe quá xa, tôi không muốn đi lấy, nên việc liên lạc từ phi trường Los Angeles đến San Jose rất khó khăn.

Những nhân viên của các hãng hàng không trước đó đã giúp tôi tìm anh, họ gọi lên phi trường San Jose, kêu tên anh rất nhiều lần, nhưng không liên lạc được với anh.

- Ông Nguyễn Sĩ Phú, xin ông vui lòng liên lạc gấp với hãng hàng không South West của chúng tôi. Có người nhà ở Los Angeles đang tìm ông. Ông Nguyễn Sĩ Phú?

Chờ mãi không thấy anh trả lời, người nhân viên kiểm vé nhìn tôi thương hại, anh ta nói:

- Ông ấy không trả lời, có lẽ ông không còn ở đó nữa, thật rất tiếc !

- Cảm ơn ông đã giúp tôi, chắc ông ấy đã trở về nhà rồi. Thôi chào ông.

Ðó là một giờ sáng ngày 24 tháng 12 năm 1997. Chuyến bay thưa dần, người cũng thưa dần, tôi mệt mỏi lủi thủi ra về. Vừa ra xe, tôi gọi điện thoại lên cho anh, anh hấp tấp trả lời điện thoại:

- Em đó hả ? Ở đâu đấy ? Anh lên máy bay không được, họ hủy bỏ chuyến của anh, anh chờ đi lên ở chuyến sau nhưng cũng không được, thấy đã khuya quá rồi, nên anh về nhà chờ em gọi.

Tôi kể mọi sự việc cho anh nghe. Anh kêu lên:

- Tội nghiệp em, tại sao em phải chờ đợi như vậy ? Thấy em không gọi, anh tưởng em đã về nhà và đi ngủ rồi, vì anh đã dặn em, anh không có chắc đi được chuyến 9 giờ. Chừng nào đến thì anh sẽ gọi?

Tôi và anh hiểu lầm nhau quá trầm trọng, tôi tự trách là đã không nghe kỹ lời anh nói. Chả trách gì anh luôn bảo tôi Em không bao giờ lắng nghe kỹ, cứ ờ ờ cho qua chuyện .

Sáng hôm đó, ngày 24 tháng 12, anh đi sớm và ở suốt ngày tại phi trường để chờ máy bay, nhưng một lần nữa, các chuyến bay đều chật cứng, không còn dư một chỗ cho anh. Anh về nhà và bảo tôi đừng chờ anh nữa. Khi nào anh biết được chắc chắn sẽ lên phi cơ thì anh sẽ gọi cho tôi biết. Chúng tôi gọi cho tất cả các chuyến bay và các hãng hàng không, nhưng vô ích, không hãng nào còn chỗ trống.

Ðêm Giáng Sinh, chúng tôi gọi nhau để chúc mừng Chúa Giê Su ra đời.

Tôi trách anh:

- Nếu anh chịu nghe lời em đặt vé máy bay trước thì mình đâu có mất bao nhiêu thì giờ quý báu và giờ này mình lại được bên nhau. Anh thật là cứng đầu, em chịu thua.

- Nhưng công việc của anh ở đây rất bất thường, anh không biết lúc nào mới có thể đi được.

- Nhưng nếu anh đã định đi từ hai tuần trước, thì anh không nên nhận làm cho những ngày này. Ðôi khi anh phải nói Không với người ta. Nếu anh đã nhất quyết muốn đi, thì khi người ta nhờ anh, anh nên trả lời rằng xin lỗi, tôi đã có hẹn ngày ấy rồi, xin cho tôi một ngày khác .

Rồi tôi chắc lưỡi than thở:

- Anh nghệ sĩ thật, không bao giờ anh lo trước, anh làm việc toàn là tùy hứng.

- Thôi em đừng nói nữa, anh đã nghe đủ rồi, ngày mai chắc chắn thế nào cũng có chuyến bay và anh sẽ về.

Chiều ngày 25 thì dĩ nhiên dễ lên máy bay hơn bao giờ hết. Cuối cùng thì anh cũng đến quận Cam để cùng tôi chào đón một ngày Giáng Sinh và một Sinh Nhật cho tôi? sắp sửa chấm dứt.

Anh hối hận ôm tôi vào lòng vỗ về, anh dẫn tôi đi ăn tối ở nhà hàng Galveston ở thành phố Placentia. nơi bán bò bít tết rất ngon mà chúng tôi thường lui tới.

Thấy tôi không nói gì thật lâu, anh đưa tay nắém lấy tay tôi, anh nhìn thẳng vào mắt tôi, khe khẽ mỉm cười, hát nho nhỏ một bài nhạc Mỹ, âm điệu rất trữ tình, lời nhạc như thế này:

Hey my little sweetheart
Look in my eyes
And let me tell you
That I love you so much
And will always love you
With all my heart?

Tạm dịch

Hỡi người tình nhỏ bé của tôi ơi
Xin em hãy nhìn vào mắt tôi
Ðể cho tôi được nói với em rằng
Tôi rất yêu em và mãi mãi sẽ yêu em
Bằng tất cả trái tim mình?

Tôi rất cảm động, tha thiết nhìn anh. Hai tay tôi ôm tay anh. Ðây là một lời xin lỗi rất tình tứ, không còn gì tình tứ bằng của anh. Tôi dịu dàng nói:

- Em cảm ơn anh vô cùng, bản nhạc hay tuyệt vời vì do chính anh hát. Em đã hiểu lòng anh rồi. Em không bao giờ giận anh đâu ! Làm sao mà em giận anh được ?

Rồi tôi nói thêm:

- Em đã có nói với anh chưa, là anh hát live rất hay.

Anh không nói gì, dịu dàng nhìn tôi, hai tay tôi vẫn còn ôm lấy tay anh, anh đưa lên môi, hôn nhẹ. Từ từ buông tay tôi ra, anh cắt một miếng thịt bò, một miếng khoai tây nướng bỏ vào đĩa của tôi, anh âu yếm nói:

- Ăn đi em !

Trong bữa ăn, chúng tôi trò chuyện rất tương đắc, bao nhiêu tâm sự chúng tôi đều đem ra kể lể cho nhau nghe. Anh lắng nghe những tâm tình của tôi với tất cả sự thương yêu chân thành của anh, anh khuyên nhủ, chỉ bảo, khuyên lơn. Anh rất chú trọng đến đời sống của tôi. Một phần đời của anh có hạnh phúc vui vẻ hay không là tùy nơi tôi có hạnh phúc vui vẻ hay không.

Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy hạnh phúc bằng lúc này. Những buổi ăn tối nào cũng là những khoảng thời gian đáng ghi nhớ, nhưng chưa có buổi ăn nào đầy ý nghĩa và thật hạnh phúc để đời như buổi ăn tối đêm 25 tháng 12, năm 1997. Sinh nhật tôi năm đó, anh tặng cho tôi một con gấu trắng nhồi bông nhỏ, thật xinh xắn dễ thương.
Cho Anh giữ lại một cành hoa tím.
Để mang về pha mực viết tình thơ.
Nhớ ngày xưa hoa tím rụng hững hờ.
Nơi chốn cũ em còn gom thương nhớ.
(hht)
User avatar
hoatimxua
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $625,942
Posts: 9462
Joined: 27 Apr 2005
Location: Vườn Địa Đàng
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng hoatimxua từ: ổi xanh, christiane

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 95 guests