Cay Đắng Mùi Đời - Sưu Tầm

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Cay Đắng Mùi Đời - Sưu Tầm

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

Cay đắng mùi đời

Tác Giả: Sưu Tầm
I
(01)
Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò Công hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi tới khúc quanh, thì sẽ thấy bên phía tay trái cách lộ chừng ít trăm thước có một xóm đông, kêu là xóm Tre nhà ở chật, cái trở cửa lên, cái day cửa xuống, tre xanh kịch bao trùm kín mít, ngoài vuông tre thì ruộng bằng trang sấp liền từ giây, Qua mùa mưa cây đượm màu, ruộng nổi nước, thì trông ra chẳng khác nào cù lao nằm giữa sông lớn.
Ðến nửa tháng năm trời mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy, Chiều bữa nọ trận mưa mới tan, bóng mặt trời chói chói phía bến đó, trong xóm nhà nhúm lửa nấu cơm chiều khói lên ngui ngút; tre .níu nhau mừng trời mát lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu; bạn cày thá ví[1] tiếng vang vầy, công cấy hát hò hơi lảnh lót. Dưới sông Bao Ngược ghe chài chở lúa trương buồm trôi theo dòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc ních chạy chậm rì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.
Dưới cuối xom, phía mặt trời lặn, có một cái nhà lá đã nhỏ mà lại thấp, muốn vô nhà qua cửa phải cúi đầu. Dựa bên nhà có một cái chuồng vịt, tuy xấu nhưng mà sạch, nên không hôi cho lắm. Trước sân thì ướt át có một đám rau đắng đất không trồng mà mọc, dường như tỏ dấu người ở trong nhà chẳng biết ngọt bùi. Còn sau hè thì có hai hàng chuối xơ rơ, chớ không có một bụi tre, bởi vậy ở một xóm mà khác mấy nhà trong xóm.
Trong nhà im lìm vắng vẻ, chỉ có mấy con gà giò kiếm ăn chéo chéo dưới dàn, với một con chó vàng ốm, nằm dựa xó cửa lim dim như buồn ngủ. Cách một lát con chó vùng đứng dậy ngoắt đuôi, mấy con gà giật mình chớp cánh chạy vô buồng, còn ngoài bờ có một đứa trai nhỏ, chừng tám chín tuổi, trần truồng, thủng thẳng lùa một bầy vịt vô sân, sau lưng có một con heo đen ột ệt đi theo lấm luốc. Vô tới sân con heo đứng dựa đám rau đắng ngoắt đuôi mà ngó vô nhà, còn đứa nhỏ thì chạy lăng xăng chận bầy vịt mà nhốt.
Lúc thằng nhỏ đương đóng cửa chuồng vịt thì con chó thủng thẳng bước ra ngoắt đuổi mừng, rồi liếm cẳng liếm tay, coi như hình tiếp rước. Thằng nhỏ vỗ trên lưng con chó vài cái rồi đi lại chỗ khạp nước để trước cửa đứng mà kêu heo: ''Quắn, quắn ột! Quắn ột, ộc ột“. Con heo núc ních đi lại, thằng nhỏ mới lấy gáo múc nước trong khạp xối mà kỳ rửa bùn đất sạch sẽ rồi lùa vô nhà.
Lo cho vịt heo xong rồi, nó mới trở lại chỗ khạp nước nữa. Con chó chạy theo đứng xẩn bẩn bên chưn. Nó múc nước xối tắm, con chó sợ nước đổ ướt lông nên nhảy trái chạy vô nhà đứng ngó. Thăng nhỏ thấy vậy tức cười ngất rồi nói rằng: „Sao chạy đi? Ra đây tắm với tao chơi mà!''.
Thằng nhỏ đứng tắm mặt mày sáng rỡ, da trắng, thịt săn, hai bàn tay ngón tròn mà dài, đầu cạo chừa khớp tóc xuống khỏi ót, hình dạng nhắm coi thì chẳng kém chi con nhà sang giàu, nhưng mà vì bởi trong chốn lậu hạn bần cùng, nên dầu ngọc cũng phải lu, dầu vàng cũng mất nước.
Con chó vàng thình lình trong nhà vụt chạy thẳng ra sân, thằng nhỏ ngó theo thì thấy ngoài bờ có một người đàn bà xăm xăm đi vô, nó liền la lớn „má về“, rồi buông gáo chạy ra nắm tay mừng rỡ mà dắt vô. Người đàn bà nầy trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngang, ống quần vo tới đầu gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rậm, mình thấy ướt loi ngoi, sau lưng có giắt một cây nọc cấy, trên đầu bịt trùm khăn vải trắng, ngoài đội thêm một cái nón lá dừa, đi vô tới sân, mắt liếc ngó chuồng vịt rồi hỏi thắng nhỏ:
- Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con?
- Chưa má à! Tôi mới tắm rồi đuổi vô nhà đó đa.
- Vịt về đủ hay không con?
- Tôi nhốt mà quên đếm.
Thằng nhỏ nói chưa dứt lời, liền chạy lại chuồng vịt còn người đàn bà thì đi thẳng vô nhà thay áo quần. Một lát thằng nhỏ ở ngoài nói: ''Ðủ chín con, má à. Người đàn bà ở trong buồng trả lời: « Ðược ơi! Thôi con tắm rồi bận áo kẻo lạnh lắm con''. Thằng nhỏ nói: ''Tôi tắm rồi''.
Mẹ con bận áo quần xong rồi thì trời đã chạng vạng tối, ngoài bụi chuối nhái kêu chót chét, dựa xó hè dế đất ngâm nga. Mẹ thì đi nhúm lửa rồi vo gạo nấu cơm, còn con thì lấy cám sú cho heo ăn. Cơm chín mới đốt đèn dọn ăn, tuy có một dĩa rau với vài con cá sặt nhỏ mà mẹ con đói bụng nên ăn ngon lành, cũng như người ta ăn chả phụng khô lân, Lúc ăn cơm người đàn bà liếc ngó thằng nhỏ hoài, coi cặp mắt thì biết trong lòng thương nó lắm, song chẳng hiểu vì cớ nào bữa ấy hễ ngó con rồi day mặt chỗ khác, lại có sắc buồn. Ăn cơm rồi gài cửa tắt đèn mẹ con dắt nhau vào buồng mà ngủ.
Người đàn bà này là Lê Thị Thời có một người anh thứ hai tên là Lê Văn Tiết, chị ta nhằm thứ ba, nên từ khi có chồng cho đến nay trong xóm kêu là Ba Thời. Chị ta mồ côi cha mẹ, lúc còn nhỏ thì ở đợ cho ông cả trong làng, đến chừng được mười chín tuổi, có tên Trần Văn Hữu ở xóm Cầu Mống, cũng con mồ côi, ở với chú mà làm ruộng, thấy chị ta giỏi giắn mới cậy mai đi nói mà cưới. Vợ chồng ở với nhau được hai năm, người chú mới cất cho một cái nhà lá nhỏ, tại đầu Cầu Mống đặng ra ở riêng mà làm ăn. Tuy tên Hữu có tánh lỗ mãng, ăn nói không chừng, song vợ chồng ở với nhau cũng thuận hòa, mướn được một mẫu ruộng rồi vợ chồng gia công mà làm, làm ruộng nhà rồi lại đi cày cấy nhổ mạ, gặt lúa mướn cho người ta nữa, bởi vậy cho nên năm nào trong nhà cũng có dư được năm bảy chục giạ lúa.
Vợ chồng với nhau đến năm năm mới sanh được một đứa con gái. Thời chẳng may nên con nhỏ nuôi được bốn tháng rồi nó chết. Vợ chồng buồn rầu thối chí, hết muốn làm ăn, mà nhứt là tên Hữu nhớ con khóc hoài, tính trả ruộng đặng đi làm mượn, chớ không chịu lo cày cấy nữa. Ba Thời năn nỉ khuyên lơn hết sức mà chồng không nghe lời, làm mãn mùa rồi mới trả ruộng lại cho chủ mà đi chèo ghe mướn. Chồng đi khỏi, Ba Thời ở nhà một mình nuôi vịt nuôi gà, đi xúc đi tát, rồi đem đổi gạo mà ăn cho qua ngày. Một đôi tháng chồng về một lần, mà về thì thăm một ngày một buổi rồi đi, chớ không cho vợ một cắc nào, mà coi bộ quạu quọ nữa. Có một lần tên Hữu về, Ba Thời năn nỉ khuyên chồng ở nhà, dầu nghèo nàn cực khổ, đủ vợ chồng hủ hỉ cũng vui, tên Hữu nổi cộc bèn nạt rằng: “Mầy không bằng lòng thôi thì lấy chồng khác đi, hay là về ngoài anh mày mà ở đừng có nói nhiều chuyện lắm vậy”. Nói rồi bận áo bỏ ra đi nữa.
Cách sáu bảy tháng sau, Ba Thời nghe người ta nói chồng mình đã có vợ khác bên Cần Ðước và đã dắt nhau xuống Cần Thơ mà làm ruộng. Chị ta nghe chồng bạc bẽo thì phiền não vô cùng, vào ra quạnh quẽ hết muốn làm ăn, sớm tối thở than khó cầm giọt lụy. Nhà một ngày một nghèo, hai mái dột hết, không có tiền mua lá mà lợp lại, vô thưa với chú chồng thì ông biểu: Thằng chết vằm đó nó không thương con, thôi con bỏ nhà về ngoài anh con mà ở, rồi con muốn lấy chồng khác thi lấy, chớ chú biết liệu làm sao bây giờ ”.
Ba Thời đã sẵn ý phiền chồng, nghe chú chồng nói xuôi xị như vậy lại càng buồn thêm nữa, nên giao nhà cho chú chồng rồi gói áo quần trở về Xóm Tre mà nương náu với anh. Tuy chồng bạc bẽo thì phiền, nhưng mà chị ta vẫn cũng còn thương hoài chẳng hề tính lấy chỗng khác, nên về ở với vợ chồng Lê Văn Tiết gần một năm, ngày lo làm công việc, tối nằm mảng đợi trọng, thầm vái van cho chồng nghĩ bụng trở về, đặng cho cá nước sum vầy, dầu cực khổ cũng cam tâm mà chờ vận. Trông đã mỏi mắt, mà chồng chẳng thấy về, Ba Thời thối chí hết muốn làm ăn nữa.
Ba Thời ở với anh được một năm, kế có chú Tích là người gốc ở Xóm Tre, song mấy năm nay lên Chợ Lớn làm ăn, tuy có bà con trong họ muốn bán ruộng của ông bà lưu lại nên kêu chú về đứng giấy. Nhơn dịp ấy chú dắt vợ con về thăm bà con trong làng, tiện bước ghé thăm luôn hai anh em tên Tiết. Thím Tích thấy Ba Thời thì liền hỏi thăm việc chồng con, rồi khuyên Ba Thời theo mình lên Bình Tây ở mà vá bao cho nhà máy xay lúa. Ba Thời đương buồn chồng cuồng trí, nên nghe biểu như vậy liền nói với anh và chị dâu mà đi. Theo thế thường, tình chị dâu em chồng chẳng mặn nồng chi cho lắm, nhưng mà vợ tên Tiết thấy Ba Thời vô duyên bạc phận, chồng bỏ bơ vơ thì đem lòng thương, nên không muốn để cho Ba Thời đi, mà vì bởi tên Tiết thấy em ngày lơ lửng tối thở than, muốn cho em đi xa ít tháng đặng giải khuây, nên không nỡ cản.
Vợ chồng chú Tích ở một cái chòi nhỏ tại Bình Tây, thuộc phía sau nhà máy thổi. Ngoài mé sông đi dọc theo đường hẻm dựa nhà máy, đi mút tấm vách tường nhà máy phải băng ngang qua một miếng đất trống, mả mồ lúp xúp, cây lứt, u du mọc tàn lan, lại còn phải đi vòng theo mé vũng rau muống biển mọc đầy, rồi mới tới nhà chú Tích. Vợ chồng ở đây làm mấy năm cũng đủ ăn, chồng thì vác lúa, vợ thì vá bao, còn con gái, được mười lăm tuổi tên là con Thiện, thì coi nhà nấu cơm vá áo.
Ba Thời lên với vợ chồng chú Tích, mỗi ngày đi theo thím Tích mà vá bao, chẳng phải là vì thấy mỗi tháng ăn uống rồi còn dư được năm ba đồng bạc mà hết buồn, thiệt là vì ở xứ lạ không thấy người quen, mà nhứt là nhờ thím Tích hay kiếm chuyện nói cho vui nên Ba Thời lần lần khuây lãng. Tuy vậy mà cũng chẳng có khi nào mà Ba Thời tính tới sự cải giá, tự nguyện rằng dầu chồng chẳng tưởng mình cũng giữ cho trọn tiết với chồng.
Có đêm trời mưa rỉ rả, gió thổi lạnh lùng, Ba Thời nằm nhớ đến chồng thì dầm dề giọt lụy, thầm tiếc rằng chớ chi mà con còn sống, dầu chồng có bỏ, thì hủ hỉ với con, cũng còn có chỗ vui, ngặt vì chồng đã biệt mất, mà con cũng không còn, nên mới đau đớn chốn cô phòng hiu quạnh.
Ba Thời ở với vợ chồng chú Tích được một năm, bữa nọ vá bao đến tối, thím Tích đi về trước còn Ba Thời mắc qua chợ Bình Tây mua ít con khô lóc đem về ăn, nên thủng thẳng về sau. Về đến miếng đất trống ở phía sau nhà máy, lúc ấy đã bảy giờ tối lại nhằm lúc mùng bảy mùng tám, nên trăng không được tỏ. Ba Thời đương đi, thình lình nghe trong bụi lứt[2] dựa gò mả có tiếng con nít khóc, Ban đầu chị ta tưởng ma nhát nên ngực nhảy hồi hộp, mặt mày tái xanh, muốn bỏ mà chạy. Song chị ta nghĩ trời mới tối không lẽ có ma, mà dầu có ma thiệt đi nữa, đây cũng đã gần nhà không đủ lo sợ, nên chị ta đứng lại lóng nghe cho chắc coi thiệt phải con nít khóc hay không.
Ba Thời đứng lóng nghe thì tiếng khóc một hồi rồi nín. Chị ta vừa muốn bỏ đi, lại nghe khóc nữa. Chị ta mới làm gan lần lần đi vô bụi lứt coi vì cớ nào mà có con nít khóc trong đó. Ði gần tới thì tiếng khóc lại càng lớn hơn nữa. Chị ta vừa đi vừa phập phồng, chưn thì bước mà mắt thì ngó chừng nhà. Tới bụi lứt thiệt quả thấy có một đứa con nít nằm ngửa mà khóc, chung quanh có bao một cái mền tua trắng. Chị ta ngó chừng nhà chú Tích thì thấy có đốt đèn nên trong lòng bớt sợ, bèn cặp mấy con khô vô nách rồi thò tay đem hết cái mền và đứa nhỏ mang về.
Ba Thời bước vô nhà, vợ chồng chú Tích thấy có bồng con nít trum trủm trước ngực thì chưng hửng, không biết bồng con của ai. Ba Thời bèn thuật hết đầu đuôi việc mình xí được đứa nhỏ lại cho vợ chồng chú Tích nghe, rồi mới biểu thím Tích đem đèn lại đặng có dở đứa nhỏ ra coi bao lớn, con trai hay là con gái, có đau ốm chi hay không.
Ba Thời ngồi ghé phía đầu ván, thím Tích thì cầm đèn, còn chú Tích với con Thiện thì đứng ngó. Ba Thời dở mền ra thì thấy một đứa con trai, chừng năm sáu tháng, da trắng, tóc đen, môi son, miệng rộng, cườm tay như ống chỉ, bắp chưn như củ cải, đầu đội cái mũ kết bằng lụa màu bông phấn, mình mặc một cái áo đầm cũng bằng lụa màu bông hường, ở truồng mà chơn có mang một đôi vớ bằng chỉ len màu lông két[3], còn cổ lại có đeo một sợi dây chuyền vàng nhỏ. Ðứa nhỏ bị chói đèn nên nheo nheo con mắt một hồi rồi bú tay, ngó đèn không la chi hết.
Ba Thời thấy nó trắng trẻo ngộ nghĩnh mà chẳng bịnh hoạn thì mừng húm, liền bồng mà hun trơ hun trất rồi nói rằng: ''Con ai như vầy mà đem đi bỏ cho đành? Mình xí (lượm của rơi rớt) được, thôi, mình để nuôi chơi''.
Chú Tích liền cản rằng: “Không được đâu em! Qua coi tướng mạo áo mũ của thằng nhỏ này, qua chắc nó là con nhà giàu, có lẽ khi họ mướn * nuôi rồi có việc chi đó * nó bỏ lẩy. Nếu em giấu mà nuôi, qua sợ ngày sau lậu việc em mang tội chớ không chơi đâu”. Ba Thời nói: “Người ta bỏ mình xí được thì mình nuôi, như họ có biết, họ đến đòi thì mình trả, chớ có tội gì... Ý! Mà tôi nghi có lẽ khi con gái nhà giàu chửa hoang đẻ lạnh, sợ để nuôi xấu hổ, nên họ đem đi bỏ đây chớ gì. Tôi tưởng tôi nuôi được mà, có sao đâu mà sợ”.
Chú Tích nghe nói ngẫm nghĩ một hồi, rồi khuyên Ba Thời có muốn nuôi, thì phải đi cớ cò bót hay, làm như vậy dầu ngày sau có ai mất con họ tìm ra mối, mình mới khỏi tội. Thím Tích cho lời của chồng nói là hữu lý, nên dọn cơm ăn rồi hối Ba Thời qua bót mà cớ.
Lúc ngồi ăn cơm, Ba Thời để thằng nhỏ nằm một bên thì nó khóc như ác là[4]. Ba Thời thấy tội nghiệp, ngồi ăn không ngon, liền vạch áo cho nó bú thử * da, thì nó hết khóc mà lại nút mạnh lắm. Thím Tích thấy vậy mới nói rằng: “Thằng nhỏ này nó khát sữa nên mới khóc chớ gì”. Ăn cơm rồi Ba Thời mượn thím Tích dỗ giùm đứa nhỏ đặng đi với con Thiện ra quán mua hộp sữa bò về khuấy cho nó uống đỡ. Thằng nhỏ uống sữa no nê nằm lật chơi một hồi rồi ngủ chẳng la khóc chi nữa.
Last edited by lazyboy on 08 Feb 2007, edited 1 time in total.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng lazyboy từ: Mười Đậu

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

Rạng ngày Ba Thời mới thức dậy cho thằng nhỏ uống sữa no rồi, mới mượn thím Tích dắt đường đặng bồng nó qua bót mà cớ. Chị ta thưa hết đầu đuôi việc mình xí được đứa nhỏ cho ông cò nghe, rồi nài xin ông cò cho đứt cho mình nuôi, chớ đừng có bắt lại.
Ông cò nói không được, bời vì ổng không biết nó là con của ai, nên ổng không dám cho phép. Ba Thời năn nỉ hết lời, ông cò thấy vậy mới cho phép đem về nuôi song ổng dặn nếu có ai đến nhìn, có bằng cớ đủ, thì phải trả lại cho người ta. Ba Thời nghe nói như vậy thì dụ dự không muốn nuôi nghĩ vì mình nghèo bây giờ có nuôi thì phải mua sữa bò mà cho bú đã thất công mà còn tốn của, nếu một ngày kia phải trả lại cho người ta thì nuôi có ích chi đâu. Ông cò nói rằng đứa nhỏ này chắc là con nhà giàu, hễ cha mẹ nó đến nhìn thì ông sẽ biểu cho tiền mà đền công dưỡng dục không có sao mà sợ. Ba Thời trong lòng quyết xin đứt mà nuôi, nên dục dặc hoài, ông cò thấy vậy mới móc túi đưa cho chị ta một đồng bạc, biểu đem về mua sữa bò cho nó bú, mãn một tháng phải bồng nó qua bót rồi ổng sẽ liệu cho.
Ba Thời bồng về, ban đêm thì chị ta dỗ ngủ, còn ban ngày thì mượn con Thiện ở nhà cho uống sữa săn sóc giùm, mỗi tháng cho nó năm cắc bạc, đặng chị ta đi vá bao mà kiếm tiền. Nuôi được ít bữa chị ta nhai cơm mà đút, tập đặng cho nó biết ăn lần lần, đêm nằm thường vái đừng có ai đến nhìn đặng cho chị ta nuôi làm con mà hủ hỉ cho quên nỗi chồng bạc bẽo. Trọn một tháng thằng nhỏ ăn chơi mạnh giỏi như thường, không có chún chứn òi ọp chi hết.
Ðúng tháng Ba Thời bồng nó qua bót trình cho ông cò xem, thì ổng nói ổng có chạy giấy ra ngoài bót cái mà không thấy ai đến nhìn vậy như chị ta có muốn nuôi thì đem về mà nuôi, còn như không muốn nuôi thì trả tho ổng đặng ổng gởi vô nhà mồ côi, hoặc ổng cho nhà phước. Ba Thời tuy không chắc nuôi có bền hay không song thấy đứa nhỏ dễ thương nên không đành rứt mà giao cho người khác, bởi vậy đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi xin với ông cò để cho mình nuôi. Ông cò mới viết một cái giấy, ký tên đóng con dấu hẳn hòi, rồi đưa cho Ba Thời, biểu giữ cái giấy ấy, như ngày sau ai có nhận thì đem tới bót rồi trình cho cò họ xem khỏi ai trành tròng được.
Ba Thời được cái giấy của cò thì mừng rỡ vô cùng. Tối bữa ấy tính đặt tên cho thằng nhỏ mà không biết đặt tên gì, bàn luận với vợ chồng chú Tích một hồi rồi nhứt định, mình xí được nó, thôi đặt tên nó là thằng Ðược. Nuôi thằng nhỏ hơn một năm, nó biết đi và biết nói chút đỉnh rồi, chẳng may chú Tích đau không mấy ngày mà chết. Thím Tích bị chồng đau túng rối, rồi chồng chết tốn hao nữa, nên trong nhà nghèo khổ phải tính lấy chồng khác mà nuôi tấm thân. Thím Tích có chồng rồi dắt con về ở theo chồng ngoài chợ đũi. Ba Thời một mình bơ vơ, nên phải bồng con giang ghe trở về Xóm Tre mà ở với anh.
Mấy năm ở Bình Tây tiện tên để dành được ba mươi lăm đồng bạc. Lê Văn Tiết ở nhà nhờ ruộng trúng mấy năm cũng có dư được vài ba thiên lúa, làng lại cử làm chức phó thôn, thấy em về thì mừng rỡ, song thấy có thằng Ðược thì trong lòng sanh nghi. Ba Thời thuật việc thình lình mà gặp thằng Ðược lại cho anh chị nghe, rồi đưa giấy của ông cò cho anh chị coi, thì Lê Văn Tiết tin bụng em nên không hồ nghi chi nữa, nhưng mà vợ tên Tiết với xóm giềng ai thấy thằng Ðược nay đã được mười tám mười chín tháng, còn Ba Thời bỏ làng mà đi tính đã chẵn hai năm, thì cũng đều nghi cho Ba Thời đã có chửa hoang bốn năm tháng, sợ ở trong làng lậu việc, nên mới kiếm cớ mà đi, bới vậy cho nên ai cũng xầm xì, ai cũng nói thằng Ðược là con của Ba Thời đẻ.
Ba Thời chịu tiếng nhơ lấy làm oan ức, nhưng mà nghĩ vì lòng ngay dầu người không thấu chớ Trời Phật cũng hay, bởi vậy chị ta giả làm tai điếc mặt ngơ, quyết nuôi thằng Ðược sớm khuya hủ hỉ mà lấp bớt cái mạch sầu, không màng miệng mối lưỡi lằn, chi sá hơi hành giọng tỏi. Chị ta đi thăm chú chồng thì nghe nói chồng đi biệt không thấy về; chị ta mới mượn của anh thêm vài chục đồng bạc nữa, rồi mua cây lá cất sơ sài một cái nhà nhỏ mà ở gần với anh.
Ba Thời ở Xóm Tre trọn bảy năm trời, đến mùa cấy thì đi cấy, đến mùa gặt thì đi gặt, hết mùa làm ruộng thì xúc tôm bắt cá đem bán kiếm tiền; trong nhà lại nuôi vịt, nuôi heo, nuôi đến lớn rồi đem đi bán. Mẹ con hẩm hút, tuy là cực khổ, song cũng chẳng đói khát bữa nào. Còn người trong xóm hồi Ba Thời mới về, thì xúm xít dị nghị nhiều lời, đến chừng ở được đôi ba năm, việc đã nguôi ngoại, thì cũng không còn ai chê cười chi nữa. Có người thấy chị ta tánh hiền nết tốt, lại để ý mến yêu, nên đã không cười sự chồng đi khỏi ở nhà có con, mà lại còn kiếm cớ mà nói rằng thiệt thằng Ðược là con nuôi, bởi vì mặt mũi tay chân chẳng giống chị ta chỗ nào hết. Thế tình ấm lạnh nghĩ đến ngậm ngùi, khi thương dầu ngược cũng nói xuôi, lúc ghét dầu thiệt ngọt bùi cũng cho là cay đắng.
Trót mấy năm trường, tuy nhà nghèo cực khổ, tuy chồng bỏ buồn rầu, nhưng mà Ba Thơi hễ thấy mặt thằng Ðược thì hớn hở vui cười, dường như thằng nhỏ này có phép chi mầu nhiệm, dầu buồn thấy nó thì hết buồn, dầu mệt thấy nó thì quên mệt.
Hôm nay chị ta đi cấy về ngồi ăn cơn với con sao lại ngó nó mà buồn, chừng ăn cơm rồi sao lại tắt đèn đi ngủ liền, chẳng chuyện vãn chi hết, thằng Ðược tuy còn thơ ngây chưa hiểu việc đời cho lắm, song nó từ nhỏ cho đến bây lớn, vào ra hôm sớm chỉ thấy có một mình Ba Thời mà thôi, hồi nhỏ thì đút cơm rửa đít, khi đau thì ôm ấp ẵm bồng, lúc rảnh thì đưa võng hát hò, đêm lạnh thi trùm mền hun hít, mẹ thương con, con trìu mẹ, mẹ làm mệt thì con nói đỏ đẻ cho mẹ vui lòng, con đi thì mẹ chạy kiếm lăng xăng sợ con dại dột. Thằng Ðược vì lòng thương mẹ nên hễ mẹ đi khỏi thì ở nhà nó ngóng trông, chừng mẹ về thì nó chạy ra mừng, rồi lại thường liếc coi ý mẹ buồn vui cho biết. Bữa ấy nó thấy mẹ nó không được vui thì nó cũng buồn thầm, nó muốn hỏi coi vì cớ nào mà mẹ nó buồn, song nó nghĩ chắc là tại đi cấy mệt, rồi lại bị trơi mưa lạnh, nên biểu đi ngủ thì nó đi, nó không hỏi đến.
Thằng Ðược vào trong giường nằm với mẹ, chẳng hề trăn trở mà mẹ cũng im lìm. Gần hết canh một mà nó cũng chưa ngủ, trong trí có nhớ việc này tưởng việc nọ hoài, nhớ hồi xế trời mưa ở nhà trông mẹ, rồi lại thương mẹ lạnh lùng, nhớ hồi tối đi lùa con heo về gần tới sân gặp con rắn mối chạy ngang giựt mình giựt mẩy. Nó đương thao thức thình lình nghe mẹ nó cất đầu lên rồi day ra ngoài giường mà hỉ mũi. Nó biết mẹ nó chưa ngủ, song nó cứ nằm im lìm. Cách một hồi mẹ nó lại day qua ôm nó mà hun hai ba cái, nước mắt dính ướt mặt nó, nó mới hay là mẹ nó khóc. Nó làm bộ như ngủ, nằm nín luôn, song nó lấy làm buồn bực vô cùng, không hiểu có việc chi mà mẹ nó lại khóc thầm như vậy.
Thằng Ðược nằm buồn một hồi rồi ngủ quên. Ðến chừng sáng mẹ nó kêu nó thức dậy ăn cơm rồi dặn nó coi chừng nhà đặng đi cấy. Ngày ấy nó không vui chơi, không lấy đất liệng cu xanh, không bắt chó làm ngựa mà cỡi như mấy bữa khác. Nó cứ ngồi dựa cửa mà ngó ra ngoài ruộng hoài, suy tới nghĩ lui coi tại sao mà mẹ buồn rầu đến nỗi đêm nằm lụy ứa, rồi lại hỏi thầm rằng không biết tại sao mà trẻ nhỏ trong xóm như thằng Cam, con Lụa, thằng Phát, con Tiền, đứa nào cúng có mẹ mà lại cũng có cha, còn phận mình đây sao mình có một mẹ mà thôi, còn cha đi đâu mà thuở nay không thấy mặt. Nó nhớ tới sự mẹ nó khóc thầm thì buồn, mà chừng nó nghĩ tới việc nó không có cha, thì trong lòng nó lại càng áy náy, tưởng thầm rằng hay là tại không có cha nên mẹ mới buồn rầu đây chăng.
Ðến trưa Ba Thời nghỉ cấy, tạm về một chút mà thăm nhà, thấy con nằm chèo queo trên ván, bộ mặt buồn xo; mà thằng Ðược liếc coi thì thấy mẹ nó cũng chẳng vui chi đó. Ba Thời dòm heo, coi vịt, hỏi con có lấy cơm nguội mà ăn hay không rồi bỏ ra đi, chớ không hỏi coi tại sao con không chạy đi chơi. Ðến tối trở về thay áo thay quần rồi đi nấu cơn, thấy con cũng chẳng vui cười như trước, song cũng chẳng hỏi tới. Chừng cơm chín dọn ra ăn, thằng Ðược ngó mẹ nó một hồi rồi hỏi rằng:
- Tại sao mà từ hôm qua đến bữa nay má buồn dữ vậy má?
- Có giống gì đâu mà buồn.
- Có việc gì đó chớ sao lại không có.
- Có việc gì đâu?
- Không có, sao hồi hôm má khóc?
Ba Thời nghe hỏi tới đó thì chưng hửng, nên ngó con rồi lặng thinh không chịu trả lời. Thằng Ðược thấy vậy không muốn hỏi riết tới làm chi, nên và ít miếng cơm rồi kiếm chuyện khác mà nói rằng:
- Nầy má! Thằng Cam, thằng Phát, đứa nào nó cũng có tía nó hết, còn tía tôi là ai đâu má há?
- Tía con đi khỏi, gần về đa.
- Ði đâu vậy má?
- Ði làm ruộng dưới Cần Thơ.
- Tía tôi đi hồi nào đâu, mà sao từ nhỏ tới bây giờ tôi không thấy mặt lần nào hết vậy má?
- Ði lâu lắm mà! Ði hồi mới đẻ con ra lận.
- Sao má biết tía gần về?
- Có người ta nói.
- Ai nói đó má?
- Ai nói cũng vậy, con tra hạch làm chi, con.
- Tía tôi như tía thằng Cam vậy phải hôn má?
- Không. Tía con nhỏ hơn mà cao hơn.
- Sướng a! Tía tôi về đây tôi biểu tía tôi mua thép uốn lưỡi câu rồi tôi đi câu với tía tôi chơi. Nầy má, hôm trước thằng Phát đi câu vơi tía nó, nó câu được một con cá trê lớn quá, má à.
Ba Thời nghe con nói chừng nào thì trong lòng càng buồn chừng nấy, nên ngồi rưng rưng nước mắt không nói chi hết. Ăn cơm rồi mẹ con gài cửa tắt đèn đi ngủ. Ba Thời nằm im lìm, còn thằng Ðược cũng nằm nín khe không cục cựa. Vừa hết nửa canh một, trong ngoài đều lặng lẽ, duy có tiếng dế kêu giéo giắt với gió thổi lào xào mà thôi. Thằng Ðược nằm, cặp mắt còn lim dim, thình lình nghe ngoài sân có tiếng người đi động đất rồi bầy vịt trong chuồng la rộ, chó vàng trước ra sủa rân, Ba Thời miệng thì hỏi “ai đó”, tay thì kiếm hộp quẹt đặng đốt đèn. Ngoài sân có tiếng người đáp rằng; “Tao chớ ai, mở cửa chút, có thẳng nó về đây”.
Thằng Ðược nghe tiếng thì biết tiếng cậu Hai nó là Lê Văn Tiết, lại nghe nói “có thẳng nó về đây” tuy không biết thẳng là ai, song nó nghĩ là tía nó về, nên lật đật chạy ra đặng thấy mặt cha một chút. Nó vừa bước ra tới bộ ván để giữa nhà thì má nó đã mở cửa rồi. Nó đứng dựa đầu ván mà chờ thì Lê Văn Tiết ở ngoài bước vô trước, rồi có một người lạ mặt đầu bịt một cái khăn nhiễu trắng, mình mặc quần lãnh đen lưng xanh, áo bà ba lụa trắng dài phủ mổng trôn, tay cặp một cây dù máy cán cong như mỏ giằng xay lúa.
Ba Thời để chong đèn trên ván giữa, rồi qua bên cái chõng để phía tay trái mà ngồi. Lê Văn Tiết ngồi dựa cái đèn, còn người lạ mặt ấy để cây dù trên ván rồi cũng ngồi dựa một bên đó. Thằng Ðược đi lần lại ngồi một bên má nó, cẳng thì thò mà gãi con heo quắn nằm dưới sàn còn mắt thì ngó người lạ mặt đó trân trân rồi day qua liếc má nó. Hai người vô nhà rồi lặng thinh không nói chi hết, một lát Ba Thời mới hỏi người lạ mặt ấy rằng:
- Mình về bao giờ?
- Về mấy bữa rày.
- Về mấy bữa rày ở trong chú hay là ở đâu?
- Ở trỏng chớ ở đâu.
Hai người hỏi nhau có mấy lời, kế Lê Văn Tiết đứng dậy mà nói răng: “Ðể tôi về tôi lùa trâu vô chuồng. Dượng ba nó nghỉ rồi sáng mai lại nói chuyện chơi nghe”.
Lê Văn Tiết mở cửa ra về rồi, Trần Văn Hữu với Ba Thời ngồi lặng thinh không nói chuyện chi nữa hết. Cách một lát Ba Thời vỗ đầu thằng Ðược rồi biểu nho nhỏ rằng: “Khuya rồi, thôi đi ngủ đi con, ngồi làm chi đó”. Thằng Ðược leo xuống đất thì ngó chừng tên Hữu, trong lòng trông coi cha có hỏi đến mình chăng, nào dè tên Hữu đã không thèm nói tới, mà lại liếc ngó theo nó, bộ mặt hầm hầm, xem thấy phát sợ. Thằng Ðược vừa vô khỏi cửa buồng bỗng nghe cha nó hỏi má nó rằng: “Con của mầy đó phải không ?”. Ba Thời thở dài rỗi nói nho nhỏ với chồng rằng: “Ðể rồi tôi nói hết chuyện đó cho mình nghe”.
Thằng Ðược leo lên giường nằm lặng thinh, nhắm mắt giả đò ngủ, mà trong trí nó cứ tưởng tới người lạ mặt đó hoài, không biết người ấy có phải là cha nó hay không. Ban đầu nó chắc là phải, bởi vì hồi chiều mẹ nó có nói cha nó gần về, mà người nầy ở đâu lạ, thuở nay nó không biết nếu không phải là cha nó sao cậu nó đắt lại, rồi má nó kêu bằng “mình” lại hỏi “về bao giò”. Nghĩ như vậy rồi nó lại nghĩ, mà nếu người đó là cha nó sao coi bộ không thương nó, mà lại ngó nó lườm lườm dữ vậy. Nó vái thầm cho người đó đừng phải là cha nó, bởi vì nó thấy nó sợ quá, nếu có cha mà cha như vậy chi bằng không có cha, ở một mình với má như thuở nay còn vui hơn.
Ở ngoài im lìm, một lát nó nghe có người lấy cây gài cửa, rồi lần lần vô buồng. Nó lén mở mắt hí hí mà dòm thì thấy má nó lấy cái gối rồi ôm đi ra ngoài nữa. Nó không hiểu vì cớ nào má nó không vô mà ngủ còn ở ngoài cũng không nói chuyện mà thức đất đèn làm chi cho hao dầu. Nó đương suy nghĩ như vậy liền nghe hai người nói chuyện với nhau. Ban đầu má nó hỏi:
- Mấy năm nay mình đi làm ăn khá hay không?
- Sao lại không khá.
- Khá sao không về bỏ tôi ở nhà khổ hết sức vậy?
- Về lam giống gì?
- Như mình đi mình tính không về, thì hồi đó dắt tôi đi theo, chớ sao lại bỏ tôi lưu vong ở,nhà vậy.
- Mầy ở nhà sướng hỏng chết, còn ức nổi gì?
- Mình đừng có nói vậy. Sướng giống gì? Tôi biết hết; mình mắc dắt con vợ bé bên Cần Ðước đi với mình, nên không chịu dắt tôi đi chớ gì.
- Ừ tao dắt vợ bé đi đa mầy làm sao tao?
- Nói chuyện mà nghe vậy chớ ai làm sao mình được.
- Tao đi mầy ở nhà mầy có được một đứa con, còn ức hiếp gì nữa mà nói.
- Mình tưởng thằng nhỏ đó là con của tôi đẻ hay sao? Trời ôi, hèn chi hổm nay tôi nghe mình về trong Cầu Mống mà mình không chịu ra kiếm mà thăm tôi. Mình đừng có nghi như vậy mà tội nghiệp cho cái thân tôi. Vậy chớ hổm nay mình ở trong nhà chú, chú không có nói chuyện tôi xí được thằng nhỏ đó rồi tôi xin với ông cò đặng tôi nuôi lại cho mình nghe hay sao? Mình bỏ tôi mình đi hơn chín năm nay, tuy mình bạc bẽo chớ chẳng hề khi nào tôi dám phụ cái lòng mình bao giờ. Nay mình về nếu mình nghi quấy như vậy thì uổng công tôi chờ đợi bấy lâu nay lắm.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

- Tao về chú có nói chuyện cho tao nghe đủ hết, chú nói mầy nghèo khổ nên về với anh Hai rồi sau đi theo vợ chồng chú Tích lên Bình Tây mà làm mướn. Mầy xí được một đứa nhỏ mầy để mầy nuôi đặng hủ hỉ giải buồn. Tao ra ngoài này thồi xế đến bây giờ tao ở đằng nhà anh Hai, thì ảnh cũng nói y như lời của chú nói vậy, ảnh lại có đưa áo quần nón vớ của thằng nhỏ đó cho tao coi nữa.
- Phải nhà tôi trống trải, mà tôi lại hay bỏ nhà mà đi làm ăn, nên gởi đồ đó đằng nhà ảnh, mượn ảnh để trong giường hộc cất giùm. Ảnh có đưa giấy của ông cò cho mình coi hay không?
- Có.
- Nếu vậy, sao mình nghi nỗi gì?
- Không nghi sao được.
- Tại sao mình nghi, đâu mình nói cho tôi nghe thử coi.
- Ðàn bà, chồng đi làm ăn xa, ở nhà khi không mà có con, làm chồng ai lại không nghi.
- Tôi nói con tôi xí được tôi để tôi nuôi chớ không phải con tôi đẻ. Trời ôi? Oan ức cho tôi biết chừng nào.
- Thuở nay người ta có xí được thì xí được tiền bạc, chớ có ai mà xí được con bao giờ.
- Vậy chớ chú nói mình không đủ tin hay sao?
- Chú thương mầy, còn ghét tao nên chú nói theo mầy, hơi nào mà tin.
- Mình nói chú binh tôi, vậy chớ còn anh Hai đó mình cũng không tin ảnh nữa hay sao?
- Anh là anh ruột mầy chớ phải là anh tao hay sao. Mà chú với anh Hai ở nhà còn mầy lên ở trên Bình Tây, mầy làm giống gì mà có một đứa con đó, chú với anh Hai làm sao rõ được.
- Mắc chú Tích chú chết rồi, thôi mình lên mình hỏi thím Tích coi. Bây giờ thím có chồng khác ở ngoài chợ Ðũi đó, Thím quen với mầy chớ có quen với tao đâu mà hỏi. . .
- Thiệt tức lắm! Minh nói không phải con tôi xí được, vậy mình không con cái giấy của ông cò đó sao.
- Giấy gì ở đâu mầy kiếm đem về mà gạ bà con, ai có biết chữ Tây đâu mà coi.
Ba Thời nghe nói nghẹn ngùn, ngồi khóc ngay chớ không nói chi được nữa, khóc một hồi rồi chắc lưỡi than rằng: “Trời đất ôi! Oan ức cho tôi biết chừng nào! Xin Trời Phật soi xét giùm cái lòng ngay của tôi, kẻo tôi chịu tiếng oan như vầy tội nghiệp lắm mà!”
Trần Văn Hữu nằm bên ván hút thuốc không thèm nói chi hết. Thằng Ðược còn thức nằm nín thinh trong buồng, nghe hết đầu đuôi mọi việc, tuy nó còn thơ ngây, chưa đủ trí khôn, nên không hiểu những lời gay gắt nghi ngờ của tên Hữu làm đau đớn lòng dạ, làm nhuốc nhơ danh tiết của Ba Thời là dường nào, song nó biết tên Hữu không phải là cha nó thì nó chẳng chút chi buồn, còn nó biết Ba Thời là mẹ nuôi chớ không phải là mẹ ruột, thì trong lòng nó xốn xang bứt rứt vô cùng, không biết Ba Thời còn thương nó nữa hay không, không biết cha ruột ở đâu, tại sao mà đẻ nó ra rồi không chịu nuôi, lại bồng mà bỏ cho người ta xí được. Nó vừa suy nghĩ tới đó lại nghe tên Hữu tằng hắng rồi nói rằng:
- Mầy nói tao kiếm chuyện nói oan cho mầy, chớ thằng nhỏ đó không phải con của mầy đẻ; thôi thì mầy đuổi nó đi đâu nó đi đi.
- Con nít mới tám chín tuổi mình biểu đuổi nó đi, nó ra khỏi nhà biết làm giống gì cho có cơn mà ăn; làm như vậy mình không sợ tội hay sao?
- Tám chín tuổi còn nhỏ gì nữa. Ði ở với ngươi ta coi gà giữ vịt mà ăn cơm không được hay sao? Như nó làm biếng thì nó đi xin ăn, mầy tưởng nó dại nó nằm mà chịu chết đói hả?
- Nuôi nó từ hồi sáu bảy tháng đến bây giờ mến tay mến chơn ai nỡ lòng nào mà đuổi nó đi cho đành.
- Mầy nói hôngphải con của mầy đẻ, sao mầy thương nó dữ vậy?
- Con nít của họ đàng xóm mình thấy mình còn thương thay, huống chi là con mình nuôi.
- Nếu mầy nói đuổi nó đi thì tội nghiệp, thôi thì kiếm người ta mà cho họ nuôi, chớ mầy để nó ở trong nhà tao thấy ghét lắm, không biết chừng có ngày tao nổi giận đãy tao đập nó chết đa.
- Thôi, để thủng thẳng tôi nói với anh Hai chị Hai rồi tôi gởi nó ở đẳng.
- Tao không chịu vậy đâu. Mầy cho ai mầy cho đứt đi đặng họ đem nó đi khuất con mắt tao, chớ mầy gởi đằng anh Hai thì cũng như mầy để nhà đây vậy, gởi làm giống gì.
Ba Thời ngồi khóc tấm tức, không biết tính lẽ nào, muốn cho chồng hết nghi đặng vợ chồng sum hiệp lần gỡ mối thảm sầu, mà cũng thương thằng Ðược nên không nỡ phân ly, vì công nuôi cực nhọc. Ba Thời khóc than rồi nói rằng:
- Thôi, để thủng thẳng rồi tôi sẽ tính.
- Nếu mầy muốn ở đời với tao, thì mầy phải rứt thằng nhỏ đó mới được. Còn như mầy không chịu, thôi thì tao đi, để mầy ở nhà mà nuôi nó.
- Tôi nói thiệt nó là con tôi xí được tôi nuôi, nên tôi mới đặt tên nó là thằng Ðược. Mình không thương tôi mình muốn tính sao mình tính lấy.
- Té ra thằng nhỏ đó mầy đặt tên Ðược hay sao? Mầy là một con khốn nạn thiệt. Mầy oán tao rồi mầy lấy tên ông nội tao mà đặt tên con mầy há?
- Trời ơi. Tôi có biết tên ông nội mình là tên gì đâu. Tôi nào có oán thù mình mà mình nói vậy. Mình hỏi thăm họ mà coi, mình bỏ tôi mình đi mấy năm nay, tôi buồn rầu thì buồn rầu trong lòng, chớ có khi nào mà tôi nói nặng đến mình một tiếng chi đâu.
- Tên Hưu nằm lặng thinh một hồi rồi nói rằng: “Nếu mầy thương nó mầy không nỡ đem nó mà đi cho họ, thôi để rồi tao dắt nó tao cho họ giùm cho”. Ba Thời ngồi khóc thút thít, chẳng bao lâu thấy tên Hữu nằm nghiêng qua bên kia, gác tay ngang qua trán rồi ngủ ngáy pho pho. Ba Thời mới bưng cái đèn đem để trên ghế mà tắt rồi nằm với con. Thằng Ðược thấy dạng Ba Thời vô liền ôm mà nói nhỏ rằng: “Má đừng có đuổi tôi đi nghe hôn má. Tôi thương má lắm, để tôi ở với, đừng đuổi tôi tội nghiệp”. Ba Thời day qua ôm con ừ hai ba tiếng nhỏ nhỏ rồi kề mặt mà hun, nước mắt chảy chàm ngoàm. Mẹ con ôm nhau chặt cứng, một hồi rồi thằng Ðược ngủ quên.

[1] tiếng dùng điều khiển trâu. Thá: (thá ra) hướng ra ngoài miếng đất; ví: (ví vô) hướng vô trong miếng đất đang cày, bừa hay trục.
[2] một loại cỏ
[3] màu xanh
[4] một giống chim, la chói tai khi thấy dạng người đi tới gần
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

Cay đắng mùi đời
II a
(02)
Tên Hữu về ở với vợ coi bộ không tính đi đâu nữa nhưng mà cũng không tính làm công việc chi hết, ăn rồi cứ nằm ngay mà ngủ, ngủ đã thèm thức dậy thì vác dù đi dạo xóm.
Chẳng mấy ngày mùa cấy đã dứt, Ba Thời không biết làm việc chi, nên mỗi bữa hễ nước ròng sát rồi thì lội xuống rạch Băng mà xúc tôm bắt cá đem về, bữa nào có ít thì để ăn, bữa nào có dư thì sai con bưng lại đằng xóm mà bán.
Tên Hữu vài ngày thì biểu làm thịt một con gà luộc rồi xé phay mà uống rượu, nửa tháng biểu làm thịt một con vịt đặng nấu cháo mà ăn. Ba Thời bổn tánh hà tiện, bấy lâu nay nuôi gà nuôi vịt thì trông cho nó lớn đặng bán lấy tiền mua gạo, chớ chẳng khi nào dám làm thịt mà ăn bao giờ, nay chồng biểu thì xót ruột bầm gan, song vì bởi muốn làm cho vừa ý chồng, nên biểu sao nghe vậy chớ không dám cãi. Ðã vậy mỗi lần làm gà làm vịt tên Hữu lại đòi uống rượu, Ba Thời phải sai thằng Ðược xách ve lại quán mà mua chịu, khi năm bảy xu, khi một cắc tên Hữu về mới hơn một tháng mà tiền rượu và tiền thuốc hút, Ba Thời thiếu nợ đằng quán tính đã hơn bốn đồng bạc rồi.
Mà tên Hữu chẳng những là làm tốn hao cho vợ mà thôi, lại còn làm nhọc lòng cho vợ nhiều nỗi khác nữa. Mỗi ngày vào ra thấy mặt thằng Ðược thì kiếm chuyện rầy rà, hễ thấy nó ngồi chơi thì chửi rủa vang rân nói rằng: „Ðồ chó, già đầu rồi mà không biết làm công việc chi hết, thứ đồ như vậy nó chết đâu thì chết cho rảnh nuôi tốn cơm chớ ích lợi gì“, còn thấy nó làm công việc, hoặc quét nhà, hoặc cho heo ăn, thì lại mắng nhiếc rằng: „Mầy có làm thì làm cho thiệt tình đó, chớ đừng quẹt lọ, làm lấy có đó tao đánh mầy nát đầu đa, nói cho mầy biết“. Thằng Ðược tối ngày không dám nhích mép, hễ thấy mặt cha thì sợ sệt không dám ngó ngay; kiếm công chuyện mà làm hoài, chớ không dám ở không, ăn cơm thì ăn sau chớ không dám ăn chung. Còn Ba Thời tuy thương con mà không dám hở môi, vì sợ nói ra chồng nó bắt quanh bắt quẹo rồi sanh rầy rà hơn nữa.
Chẳng có bữa nào thằng Ðược khỏi bị bạt tay hay là khỏi nghe chửi rủa mà cũng chẳng có đêm nào Ba Thời nằm ngủ mà chẳng khóc thầm. Ba Thời chẳng những là thấy chồng ăn ở khổ khắc với con nên buồn rầu mà thôi, mà nhứt là thấy chồng không tính làm việc chi cứ nằm nhà mà ăn hoài làm cho mình phải mắc nợ mắc nần thì trong lòng lo sợ hết sức.
Bữa nọ, tên Hữu ngồi ăn cơm uống rượu coi bộ vui. Ba Thời mới mở lời hỏi thử coi chồng có tính mùa tới kiếm ruộng đặng mướn mà làm hay là tính làm việc chi khác. Tên Hữu nghe hỏi châu mày lặng thinh một hồi rồi đáp rằng:
- Tao bây giờ không muốn làm ăn chi nữa hết.
- Nếu không làm thì của đâu có mà ăn.
Tên Hữu lặng thinh không trả lời. Ba Thời mới nói tiếp rằng:
- Mấy năm nay mình đi khỏi, tôi ở nhà làm lắt lẻo đi cấy đi gặt, nuôi vịt nuôi heo, tuy không phải là giàu có chi, song nhờ trời nuôi nên khỏi đói khát. Mà thiệt cũng mẹ con tôi hẩm hút, ăn cực ở khổ, nên không tốn hao bao nhiêu, nay có mình về đó thêm một miệng ăn, mà lại còn tốn tiền rượu trà trầu thuốc nữa; nếu mình không chịu làm việc chi hết, thì chắc là tôi nuôi không nổi. Mình mới về hổm nay mà tôi đã mắc nợ đằng quán hơn bốn đồng bạc rồi. Tôi không biết làm sao mà trả cho họ.
- Ối! Mầy đừng có lo mà.
- Không lo sao được. Thuở nay tôi nghèo chớ tôi không chịu nhơ bợn của ai hết. Hồi tôi mới về cất nhà tôi có mượn của anh Hai vài chục đồng bạc, tôi lo hết sức tôi ráng nuôi một con heo tôi bán trả đủ cho ảnh rồi tôi mới hết lo. Từ hồi đó đến bây giờ tôi không dám vay hỏi của ai nữa. Hổm nay tôi thiếu mấy đồng bạc đằng quán tôi lo hoài ngủ không yên giấc.
- Mầy có con heo đó chi? Bán con heo đó không đủ trả hay sao mà sợ?
- Tôi nuôi heo đặng bán lấy tiền may áo quần mà mặc, chớ phải tính nuôi đặng bán mà xài hay sao?
- Mầy đừng nói lộn xộn để đó mặc tao tính cho. Tao biết rồi, trong ý mầy thấy tao về hổm nay tốn cơn của mầy nên mầy phiền chớ gì. Vậy chớ mầy nuôi thằng nhỏ đó sao mầy không sợ tốn.
Ba Thời thấy mình nói việc phải quấy mà chồng không biết nghe, lại còn kiếm chuyện nói xóc lại mình như vậy thì buồn trong lòng nên đứng dậy bỏ đi ra sau bếp ngồi mà khóc, chớ không dám nói chi nưa.
Thằng Ðược đương đứng sau hè cho vịt ăn, ngó vô bếp thấy má nó khóc, thì nó cũng ứa nước mắt, song không dám vô mà an ủi. Qua bữa sau tên Hữu ăn cơm sớm mai rồi liền xách dù ra đi. Ba Thời ở nhà mẹ con mới thong thả mà nói chuyện với nhau. Ba Thời kể hết đầu đuôi việc mình xí được thằng Ðược lại cho nó nghe; thằng Ðược tuy còn nhỏ, nhưng mà nuôi dưỡng tho phường lậu hạn, lam lụ, nơi chốn cơ hàn cực ăn, mặc rách đã quen rồi, chẳng hề mơ ước điều chi hết, bởi vậy cho nên nghe Ba Thời thuật chuyện của nó rồi thì nó tuy sợ Ba Thời không nuôi nó nữa mà thôi, chớ chẳng hề để ý tính tìm kiếm mẹ, cha hoặc may thân được sung sướng. Ba Thời thuật chuyện rồi liếc coi thì thấy con có sắc buồn, nên liền nói tiếp rằng: “Thuở nay mẹ không muốn nói chuyện đó cho con nghe là vì mẹ nghĩ con nghe con buồn chớ không có ích chi, bởi vì mẹ thương con nên dốc lòng nuôi con như con của mẹ đẻ vậy, nếu nói ra sợ con bớt thương mẹ rồi lại sợ con nói bậy nói bạ, cha mẹ ruột có hay đến mà nhìn con thì mẹ con ta còn ai đâu mà hủ hỉ. Nay mẹ nói ra đây là tại việc tình cờ làm cho con đã rõ biết ngọn ngành rồi, nên mẹ không lẽ còn giấu con nữa được. Tuy vậy mà mẹ khuyên con chớ nên buồn, ví dầu thế nào mẹ cũng thương con, dầu ngày sau con khôn lớn có tìm được cha mẹ ruột rồi con phụ bạc mẹ đi nữa, mẹ cũng cam tâm chớ không khi nào phiền trách”.
Thằng được nghe mấy lời thì nước mắt chảy ròng ròng, trong bụng muốn tỏ rằng dầu ngày sau mình được giàu sang đến bực nào đi nữa cũng chẳng phụ phàng tình mẹ, song không biết nói làm sao cho được, chỉ nói có mấy lời nầy mà thôi: “Con không bạc má đâu má sợ. Xin má làm sao nói giùm với tía để cho con ở đây với má hoài, chớ đừng có đuổi con tội nghiệp nghe hôn má”.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

Thằng Ðược nói tới đó, rồi day mặt ngó ra ngoài đường thì thấy tên Hữu đi xóm về, lại có dắt về một chú chệt[1] nữa. Ba Thời thấy có khách lật đật bước trái vô trong buồng, còn thằng Ðược thì sợ ở không, cha thấy cha rầy, nên cởi quần áo rồi xách giỏ đi ra mé sông kiếm cá bống kèo mà bắt. Nó bắt được vài chục con cá nhỏ nhỏ, đến mặt trời gần lặn mới xách giỏ trở về. Nó đứng ngoài sân dòm vô nhà thì thấy cha đương nằm tại bộ ván giữa mà ngủ. Nó lén đi vòng dựa hè ra phía sau xối nước mà tắm, rồi bước vô bếp thì thấy mẹ đương ngồi khoanh tay mặt mày buồn xo: Nó hỏi thăm mới hay tía nó kêu chệt tới hồi trưa đó là kêu coi con heo quắn đặng dứt giá mà bán.
Má nó nói chú chệt đã chịu mua hai mươi tám đồng, hẹn đến ngày mai thì chồng bạc mà bắt heo. Thằng Ðược tuy thương con heo quắn, nhưng mà nghe nói tía nó bán thì nó không dám nói chi hết, lại nghe nói bán tới hai mươi tám đồng bạc, thì chắc có tiền, khỏi lại quán mua chịu nữa, nên nó không hiểu tại sao mà má nó buồn.
Sáng ngày sau, mặt trời vừa mới mọc thì thấy chú chệt hôm qua đó đến nhà, mà bữa nay lại có dắt theo một người Việt Nam mập ú ở trần, tay lại có cầm một cái vòng với một cây đòn. Thằng Ðược rình coi thì thấy chú chệt đếm giấy bạc đưa cho tía nó rồi thò vòng giựt chưn con heo quắn trói lại khiêng đi. Chệt đi rồi tía nó đưa cho má nó một xấp giấy bạc mà nói rằng: “Ðây này, mầy lấy mười đồng đi trả nợ trả nần gì trả đi, còn mười tám đồng để tao cất đây cho”. Má nó ngồi khóc không nói chi hết.
Từ khi bán con heo quắn rồi thì Hữu ngày nào ăn cơm rồi cũng xách dù ra đi, chừng trở về thì mặt mày đỏ như cắc kè lửa, hơi rượu bay nực nồng. Tên Hữu đi chơi thì thằng Ðược trong bụng mừng thầm, còn Ba Thời thì buồn rầu không muốn nói chuyện. Thằng Ðược không hiểu vì cớ nào mà tía nó đi chơi mà má nó lại buồn, đến đêm nọ nó nằm nghe vợ chồng rầy lộn với nhau, Ba Thời phiền chồng bán heo lấy mười tám đồng bạc bỏ vô lưng hổm nay cờ bạc rượu trà tiêu gần hết, chừng ấy nó mới biết tại như vậy nên má nó buồn bực. Thằng Ðược tính thầm rằng chớ chi mà mình giàu có thì mình kiếm mua một con heo khác cho má mình, đặng má hết buồn, để tía đi chơi, cho mình ở nhà thong thả.
Tên Hữu về nhà ở chẵn hai tháng làm khó cho thằng Ðược, làm rầu cho Ba Thời không biết ngần nào mà kể xiết. Bữa nọ tên Hữu đi chơi, Ba Thời ở nhà lấy áo quần rách đem ra ngồi dựa cửa mà vá, thằng Ðược xẩn bẩn ngồi một bên mà thỏ thẻ nói chuyện này rồi hỏi bới chuyện khác. Trước sân gà vịt vắng teo, trong nhà chỉ còn có một con heo đen nhỏ mới mua bằng bắp cẳng nằm lim dim dưới sàn với con chó vàng ốm bày sườn đi không muốn bước. Ngoài đồng lúa lên xanh kịt, có mấy đám ruộng cấy lúa sớm đã lác đác trổ bông.
Ba Thời ngồi vá áo mà mặt thì buồn xo, thằng Ðược hỏi cực chẳng đã phải trả lời, chớ không muốn nói chuyện. Ðến xế trời chuyển mưa, mây giăng đen kịt, gió thổi ồ ào; tên Hữu đi chơi về lại có dắt về một ông già chừng năm mươi tuổi với một đứa con gái nhỏ chừng bảy tám tuổi.
Thằng Ðược vừa thấy cha thì lật đật đi vô buồng, đứng núp sau vách, rồi kề con mắt chỗ lỗ vách rách mà ngó. Nó thấy má nó chào khách rồi dẹp đồ may đi lấy trầu cau để trên khay cho khách ăn. Nó dòm ông già ấy thì thấy ổng mình mặc một cái áo xuyến dài cũ, trong có áo cổ giữa trắng, dưới mặc quần lãnh đen, đầu bịt khăn be nhiễu đen, chơi đi giày hàm ếch da láng, người vóc lớn, miệng rộng, môi dày, râu thưa mà dài lại bạc hoa râm, trán cao, mặt dùn da mà cặp mắt lớn, đôi chưn mày rậm. Còn con nhỏ đi theo ổng tuy nó mặc một cái áo lụa xanh cũ với một cái quần đen cũng cũ, nhưng mà da trắng môi son, đầu xước lược cày, tóc xuống nửa lưng, mặt mày sáng rỡ, nhắm coi chẳng kém chi mấy đứa con gái của hương chức giàu trong làng. Thằng Ðược lại thấy ông già ấy để lại cái bao bằng vải xanh với một cây đờn trên ván, gần chỗ ổng ngồi đó, nó biết cây đờn ấy kêu là đờn cò, song nó không hiểu hai cái bao ấy đựng vật gì ở trỏng.
Ông già ngồi vừa yên chỗ rồi thì tên Hữu hỏi vợ rằng: “Thằng Ðược đi đâu rồi mầy, biểu nó ra biểu chút nào”. Ba Thời chưa kịp trả lời, thì thằng Ðược trong buồng đà ríu ríu đi ra. Nó đi vừa mới tới đầu bộ ván thì tên Hữu nói với ông khách rằng: “Thằng nhỏ tôi đó! Nó sáng láng quá chớ, ngặt vì tôi nghèo nên không cho nó đi học được, thì uổng biết chừng nào”.
Ông già day lại ngó thằng Ðược rồi thò tay vào túi lấy ra một cặp kiếng con mắt mà mang vô. Thằng Ðược đứng dựa bên cái chõng mà ngó ổng, còn Ba Thời tuy đã bước vô cửa buồng rồi, song cũng đứng lại mà ngó chừng, không hiểu ông già nầy ở đâu và có ý gì mà lại đến coi thằng Ðược. Ban đầu chị ta nghi chồng mình tính đợ con cho ông già nầy rồi sau chị ta nghi ông nầy mất con nên tìm đến mà nhìn. Ba Thời đang nghi nghi ngại ngại, ông gà giơ tay ngoắt thằng Ðược mà biểu rằng: “Lại đây ông biểu chút, con”. Ba Thời nghe ổng xưng thì biết ổng không phải là cha thằng Ðược, tính đứng nán lại mà nghe coi ổng nói chuyện gì. Tên Hữu day vô buồng thấy vợ còn lấp ló xó cửa bèn biểu rằng: “Mầy coi nấu nước rồi bỏ trà chế cho ông thầy ổng uống chơi”.
Ba Thời quày quả đi vô bếp. Thằng Ðược mắt ngó chừng cha, còn chơn thì đi lần lại gần ông già. Ông già mang mắt kiềng ngó nó trân trân, tay vuốt cái chóp của nó rồi hỏi rằng: “Cháu mấy tuổi?”. Thằng Ðược nói nhỏ rằng: “Thưa tôi chín tuổi”. Ông già nghiêng tai biểu nói cho lớn một chút. Thằng Ðược phần thì sợ, phần thì đàm vướng cổ, nên nói lớn hơn, mà nói giọng nghe đặc sệt. Tên Hữu trợn mắt biểu: “Nói cho lớn coi nào!”. Thằng Ðược tằng hắng rồi nói: “Thưa, tôi chín tuổi”.
Ông già gật đầu rồi ngó tên Hữu mà nói rằng: “Ðược, tiếng nó tốt, hơi nó ấm mà lại dài, thằng nầy tập ca được. Mà chú em nó nói lại chớ nói giống gì mà mắc quá vậy”.
Lúc ấy Ba Thời ở trong buồng bước ra. Tên Hữu không trả lời với ông già, lại biểu thằng Ðược rằng: “'Thôi đi vô trong cậu Hai chơi đi, chừng nào tao kêu sẽ về”. Thằng Ðược không hiểu việc gì, nghe biểu đi chơi thì vâng lời nên lật đật bước ra đi. Ba Thời kêu lại biểu rằng: “Con vô nói với mợ Haí cho má mượn một nồi trà, con đem về cho má rồi sẽ đi chơi nghe con”. Thằng Ðược dạ một tiếng rồỉ đâm đầu chạy tuốt.
Tên Hữu lấy chổi quét cái ghế nghi rồi đi lấy gối bỏ trên ván mà mời ông già nằm. Ông già không nằm lại biểu con nhỏ đi theo đó ngồi trên chõng mà chơi, rồi day qua hỏi tên Hữu: “Sao chú em nó tính lẽ nào thì tính phứt cho rồi, đặng tôi đi cho sớm”. Tên Hữu đáp rằng: “Không phải bán chác chi mà nói giá cao giá thấp. Hồi trưa tôi vô nhà ông Hương Lộ chơi, tình cờ gặp thầy, tôi thấy thầy ngồi đờn còn con em đây ca theo, nhịp nhàng ăn rập nên tôi khen. Thầy nói thầy muốn kiếm thêm một đứa con traì nữa thầy nuôi rồi dạy nó đờn ca đặng kiếm tiền cho dễ. Vợ tôi nó có nuôi một đứa con nuôi, mà bây giờ nhà tôi nghèo, nhắm nuôi nó tốn cơm chớ không có ích Iợi gì. Tôi nghe thầy nói như vậy nên tôi mới tính giao nó lại cho thầy nuôi. Thầy nghĩ lại đó mà coi, vợ tôi nuôi từ hồi mới đẻ cho đến bây giờ tốn hao cực khổ biết là bao nhiêu. Nay nó đã được chín tuổi rồi, từ rày sắp về sau nhờ cậy nó được, vậy tôi đòi có hai chục đồng bạc có phải mắc mỏ chi đâu”.
Ông già lắc đầu rồi đáp rằng: “Con Liên của tôi đây là con mồ côi nó ở với cô nó mà cô nó nghèo nên nuôi nó không nổi, tôi cho có mười đồng bạc mà thôi. Nếu chú em nó muốn giao thằng nhỏ cho tôi nuôi đặng tôi dạy học đờn học ca, thôi để tôi trả cho chú em nó cũng mười đồng. Tôi nuôi nó bây giờ tôi phải tốn công mà dạy nó học, chớ là nhờ nhỏi gì được đâu mà phải trả tiền mắc”.
Ba Thời ra lấy bình tích đem đi súc cho sẵn rồi thằng Ðược đem trà về có chế nước cho khách uống, bỗng nghe hai đàng nói chuyện như vạy thì đứng chưng hửng, đợi ông già nói dứt lời bèn hỏi chồng rằng:
- Ủa, mình tính bán thằng Ðược hay sao mình?
- Ừ, chớ để nuôi làm gì.
- Tộì nghiệp lắm mà! Tôi nuôi nó đã tám chín năm nay, mến tay mến chơn, mình bán cũng như mình cắt ruột tôi vậy đa mình à.
- Con của mầy đẻ đó sao? Nếu mầy chịu thiệt con của mầy đẻ thì tao để cho mầy nuôi, tao không bán.
Ba Thời nghe chồng nói xéo mình thì ứa nước mắt, song vì thương con nên ráng gượng gạo kiếm cớ mà cãi rằng:
- Tôi đã có nói với mình rằng tôi chắc thằng Ðược là con nhà giàu sang; áo mền giày nón nó mặc hồi tôi xí được đó với mặt mũi nó bảnh bao, tay chân nó dịu nhỉu đó mình không thấy hay sao? Bây giờ mình bán nó mình lấy hai chục đồng bạc có phải là nhiều ở đâu, chi bằng mình để mình nuôi nó họa may ngày sau cha mẹ nó tìm mà nhìn nó mình xin một đôi trăm đồng bạc mới khá chớ.
- Mầy cản đảm để mầy nuôi có bữa tao dóa tao đập nó chết đây mầy mang họa đa, nói cho mầy biết. Ði coi nấu nước uống, tao tính thế nào tại nơi ý tao, mầy không được phép nói.
Ba Thời thấy chồng trộ trạo thì chảy nước mắt, rồi ríu ríu đi vô bếp, không dám nói chi nữa hết. Lúc hai vợ chồng đương đôi co với nhau thì ông già kéo gối mà nằm. Tuy ổng không rõ gia đạo của tên Hữu nhưng nghe nói đó thì ổng biết anh ta khắc thằng nhỏ lắm, nếu ổng mua nó ổng nuôi thì chắc là tội nghiệp cho vợ tên Hữu mà cũng là làm phước giùm cho thằng nhỏ. Chừng Ba Thời bước vô bếp ổng mới nói với tên Hữu rằng:
- Tôi coi ý thím nó trìu mến thằng nhỏ lắm; vậy thôi chú nó để mà nuôi, giao cho tôi làm chi rồi thím nó buồn rầu tội nghiệp.
- Không mà! Hễ tôi nhứt định thì tôi cho, cha nó cản tôi cũng không được, lựa là nó. Chẳng giấu chi thầy, tôi nghèo nên trôi nổi xuống Cần Thơ mà làm ruộng. Ở nhà vợ tôi lên trên Chợ Lớn ở đậu nhà người ta mà làm mướn, cách vài năm sau nó trở về nó có bồng về một đứa con, nó nói đứa nhỏ đó là con của họ nó xí được, nó để nó nuôi. Thầy nghĩ đó mà coi, theo thầy vậy thầy có nghi hay không. Mấy tháng nay tôi về tôi thấy thằng nhỏ gai con mắt nên sanh giặc trong nhà hoài, bởi vậy tôi tính kiếm người đặng cho phứt nó đi cho rồi, thì trong nhà mới an ổn lo làm ăn được.
Ba Thời trong bếp chạy ra nước mắt nước mũi chàm ngoàm khóc và thề rằng:
- Nếu không phải con tôi xí được mà tôi nói dối đặng gạt mình, thì xin ông thần trong làng nầy bẻ cổ vặn họng tôi đi.
Ông già thấy Ba Thời khóc lóc thề thốt như vậy thì lồm cồm ngồi dậy mà can rằng:
- Thôi, hai vợ chồng cũng chẳng nên rầy rà mà làm gì. Tôi là người ở xứ lạ tình cờ đền đây, chớ không phải là bà con quen biết chi với hai vợ chồng. Nãy giờ tôi nằm lóng tai nghe thì tôi đã rõ gia đạo của hai vợ chồng hết rồi. Thím em xí được con của họ bỏ rơi, thím em nó bồng về mà nuôi phải hôn, chú em nó đi làm ăn lâu ngày về thấy khi đi thì vợ không có nghén mà khi về vợ lại có con, nên để lòng nghi thím em nó nhà có ngoại tình, rồi vợ chồng sằng sặc với nhau hoài. Làm đàn ông mà nghi như chú em nó đó cũng chẳng phải lạ gì. Mà nãy giờ tôi nghe hơi thím em nó tức tối trong lòng lắm thì tôi biết chắc thím em nó thiệt tình chớ không có gian đối. Tôi đã trọng tuổi rồi, cũng đáng bực huynh trưởng của hai vợ chồng, tôi đến đây thấy hai vợ chồng cắn đắng với nhau như vậy tôi cũng buồn. Vậy tôi xin thím nó vui lòng để cho tôi nuôi giùm thằng nhỏ cho, làm như vậy chú em nó mới hết nghi, vợ chồng mới hòa thuận mà lo làm ăn với người ta. Tôi vẫn biết thím em nó nuôi thằng nhỏ tử hồi còn đỏ lắm lói cho đến bây giờ kể đã tám chín năm trường sao lại không thương, bây giờ thím em nó giao cho tôi dắt đi rồi thím em nó chắc là thương nhớ buồn rầu lắm chớ. Mà thím em nó nên nghĩ điều này: Thằng nhỏ thì mặt mày sáng láng lắm, nếu thím em nó để mà nuôi thì bất quá một vài năm nữa thím em nó bắt đi chăn trâu bắt đi mót lúa, rồi chừng nó lớn thì cầm cày, đánh xe càng tộỉ nghiệp cho thân nó. Chớ còn thím em nó bằng lòng để lại cho tôi nuôi thi tôi dạy nó học chữ, học đờn họa may ngày sau thân nó khỏi cực khổ coi có phải là tốt hơn hay không? Chú em nó đòi hai chục đồng bạc, thôi tôi cũng chịu cho đủ hai chục đồng bạc, tôi nuôi nó trước là làm phước giùm cho nó, sau nữa giúp cho hai vợ chồng hòa thuận mà ở đời với nhau dầu mắc rẻ cũng chẳng nệ gì”.
Tên Hữu nghe ông già chịu trả hai chục đồng bạc thì mặt mày hơn hở, còn Ba Thời nghe lời hơn thiệt thì động lòng nên ngồi khóc dầm dề. Chừng ông già nói dứt lời Ba Thời mới nói rằng:
- Thầy thấy thân tôi thầy thương nên thầy tính như vậy thiệt tôi đội ơn thầy lung lắm. Ngặt vì tôi nuôi nó đã mến tay mến chơn, nếu rứt mà giao cho thầy thì chắc tôi chết chớ chịu không nổi.
Ông già day lại ngó ngay Ba Thời nghiêm nghị rằng:
- Thím nói thím thương nó, nếu thiệt thương thì phải tính làm thế nào đặng ngày sau nó trở nên một người biết nhơn, biết nghĩa, biết hiếu, biết trung, đủ lực mà ở đời cho khỏi người ta khinh bỉ. Chớ thương mà tính làm cho nó chăn trâu, cầm cày, cạo heo pha nước, thương như vậy thì là cố ý làm hại cho nó chớ có phải là thiệt thương đâu”.
Ba Thời cúi đầu lặng thinh không nói chi hết. Tên Hữu đứng dậy ăn trầu rồi nói rằng:
- Nếu nay tôi giao nó cho thầy, thoảng nhưng ngày sau cha mẹ nó nhìn có cho tiền bạc thi ai lãnh.tiền bạc ấy?
Ông trề môi đáp rằng:
- Ối! Tôi có cần gì tiền bạc ấy đâu! Nếu ai có nhìn thì tôi chỉ cho họ đến nhà chú em nó rồi họ tính sao họ tính.
Thằng Ðược tay cầm một gói trà ở tróng nhà cậu Hai nó, nó đi về bước đến sân nó sợ rầy nên không dám vô cửa, nó đi dọc theo hè rồi vô phía cửa sau. Ði lại bếp thì thấy siêu nước sôi hơi lên ngui ngút, mà không có má nó ở đó, nó mới đi nhè nhẹ lại núp dựa cửa buồng mà dòm ra ngoài. Nó thấy dạng má nó ngồi trên cái chõng gần đó, nó mới kêu nho nhỏ: “Má, má trà đây né”. Ba Thời nghe kêu liền đứng dậy đi vô bếp. Thằng Ðược chạy theo tay đưa gói trà miệng thi nói rằng: “Mợ Hai, mở nói mượn trà sao mượn hoài, mở biểu lại quán mua mà uống chớ mở không có trà mà cho mượn nữa. May có cậu Hai ở nhà cẩu nghe nói cẩu rầy rồi cẩu lấy cho mượn đó đa”.
Ba Thời mở gói trà ra bỏ vô bình rồi ngồi chồm hổm mà chế nước, không nói chi hết. Thằng Ðược thấy má nó nước mắt nước mũi chàm ngoàm không hiểu có việc chi nên vịn vai má nó mà hỏi rằng: “Sao má khóc vậy má? Tía rầy nữa hay sao?”. Ba Thời không trả lời, song day ngó con một cách thảm thiết lắm, rồi xách bình nước mà đi ra ngoài trước. Thằng Ðược đứng bơ vơ buồn nghiến, ngoài hè dông gió lá đập ồ ào, rồi một lát mưa tuôn như cầm tỉn[2] mà đổ, trời gầm như súng nổ bên tai.
Ba Thời ở ngoài bước vô sập cái cửa sau cho khỏi mưa tạt ướt bếp. Thằng Ðược xẩn bẩn đi theo mà hỏi rằng: “Ông già nào đó vậy má? Hồi nãy tía biểu tôi đi chơi chùng nào kêu sẽ về, bây giờ trời mưa tôi ở nhà có được hay không má?” Ba Thời sập cửa xong rồi liền day lại ôm con ngồi bẹp xuống đất vừa khóc vừa nói răng: “Cha con nó bán con cho ông già đó rồi, con ôi!”.
Thằng Ðược nghe nói cũng chảy nước mắt rồi nói rằng: “Tôi không chịu đâu má. Tôi ở với má hà”. Ba Thời nghe con nói mấy lời thì đứt ruột nát gan, song cũng gắng gượng mà nói với con rằng: “Con ôi! Con còn nhỏ dại nên con không hiểu, chớ thân má mà nuôi con đây thiệt là thảm khổ không biết chừng nào. Mấy tháng nay tía con nó cứ nghi cho má lấy trai nên đẻ con ra đó chớ không phải là xí được con mà nuôi, bởi vậy cho nên nó ghét con, mà nó lại hành hài thân má hoài. Thiệt nếu má cự, không chịu giao con cho ông già đó, thì không ai làm sao mà dắt con đi được, song nếu má cản trở thì tía con nó nghi con là con của má đẻ, dường ấy cái danh tiết của má còn gì, vì vậy nên má thương con mà không mở miệng ra được”.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 08 Feb 2007

Thằng Ðược ngồi khóc một hồi rồi đứng dậy mặt chử bự lấy vạt áo lau nước mắt và nói rằng: “Thôi má đừng có buồn, đừng có khóc nữa. Tía có bán con thì để tía bán đặng con đi phứt cho rồi, chớ má cản trở để con ở lại đây tía rầy rà hoài tội nghiệp má lắm. Không có sao đâu má sợ! Con đi rồi chừng con khôn lớn con làm ăn có tiền nhiều con trở về con cho má, con không quên má đâu”.
Ba.Thời nghe con nói như vậy lại càng tủi trong lòng hơn nữa nên kéo con ngồị xuống rồi ôm nhau mẹ con khóc mướt. Ngoài sân trời đã hết dông nhưng mà còn mưa rỉ rả hoài không dứt hột. Tên Hữu thấy trời gần tối mà mưa không tạnh nên cầm ông già ở lại sáng ngày sẽ đi. Ông già tính đi qua bên Cần Ðước mà thấy ướt át nhắm đi cũng bất tiện, nên chịu ở nán ngủ nhờ một đêm. Tên Hữu kêu vợ biểu coi nấu cơm làm gà vịt cho khách ăn.
Cơm nước xong rồi, ông già lấy ra hai chục đồng bạc mà đưa cho vợ chồng tên Hữu, và kêu thằng Ðước ra rồi biểu nó sửa soạn gói áo quần cho sẵn đặng thức dậy đi cho sớm.
Trời chạng vạng tối thì mưa đã dứt hột. Ba Thời mới đi vô trong nhà người anh lấy hết áo mũ giầy mền và sợi dây chuyền của thằng Ðược mà đem về, tính khuya đưa hết cho con rồi dặn nó sau như cha mẹ ruột nó có nhìn thì đưa đồ ấy ra mà chiếu đối.
Ðêm ấy Ba Thờí không ngủ được, cứ nằm trăn trở nước mắt dầm dề. Thằng Ðươc cũng tức tửi trong lòng, nghĩ rằng còn có một đêm nay thì mình không còn ở với mẹ nữa, phải đi theo người ta mà không biết đi đâu, nên nằm một bên mẹ mà không dám đụng mình mẹ, cứ day mặt vô vách hoài.
Trời rạng đông gà lối xóm gáy vang rân, ông già thức dậy quẹt hộp quẹt mà đốt đèn rồi mở cửa ra sân mà tiểu tiện. Vợ chồng tên Hữu cũng thức dậy theo. Ông già trở vô kêu đứa con gái đi với ổng đó: “Liên, Liên dậy con, sáng rồi dậy sửa soạn mà đi cho sớm, kẻo trưa đi nắng lắm”. Ông lại day qua biểu tên Hữu rằng: “Kêu giùm thằng nhỏ thức dậy đặng nó đi”.
Thằng Ðược đã thức dậy đương đứng sau hè múc nước súc miệng rửa mặt, bỗng nghe tía nó kêu líền lật đật quăng gáo chạy ra. Ông già thấy nó liền biểu: “Lấy áo quần rồi đi con”. Thằng Ðược trở vô buồng, Ba Thời mới đưa cho nó một cái áo vải trắng với một cái quần vải trắng mới mà biểu nó mặc, rồi lại kêu nó mà dặn rằng: “Con ôi! Má để cho con đi đây chắc là má buồn rầu má chết gấp chớ chẳng không. Ðây né, những đồ này là đồ của con mặc trong lúc xí được con đó. Cái gói giấy đây là sơi dây chuyền của con. Con đừng có bỏ mất mấy món đồ này nghe con, bởi vì đồ đó là dấu tích của con nếu con bỏ mất thì sợ sau cha mẹ ruột con có nhìn không biết lấy gì mà làm tin. Má vái chọ con mạnh giỏi ăn chơi…”. Nói tới đó Ba Thời khóc tấm tức tấm tửi nên không tiếp được nữa.
Ở ngoài, tên Hữu kêu lớn rằng: “Ðược a, rồi chưa ra mà đi chớ, làm giống gì mà lục đục hoài ở trỏng vậy”.
Ba Thời té ngồi trên giường, tay trái thì chống giường, còn tay mặt thì lấy vạt áo tủ trên mặt mà khóc ngất. Thằng Ðược xách gói đồ bước ra tới cửa buồng, nghe má nó khóc, nó đứng lại ngó má nó và ứa nước mắt. Lúc ấy trời sáng mà còn mờ mờ, tên Hữu chạy vô nắm tay thằng Ðược kéo ra ngoài, để đứng dựa bên ông già. Ông già vỗ đầu nó mà nói rằng: “Con đi với ông, không sao đâu mà sợ”. Ông già vấn thuốc hút rồi đứng dậy biểu con nhỏ đi với ổng đó xách cây đờn, còn ổng lấy dù rồi xỏ vô hai cái bao vải xanh mà mang trên lưng. Ổng vừa muốn từ giã mà đi thì tên Hữu hỏi thằng Ðược rằng: “Mầy xách gói gì mà bùm sùm dữ vậy? Ðưa đây coi nào”.
Tên Hữu lấy cái gói của thằng Ðược rồi mở ra thấy có những áo mền giày mũ của nó hồi nhỏ đó liền kêu vợ mà nói rằng: “Mầy ra, mầy đưa đồ cho nó đem theo làm gì”. Nói rồi liền lấy đồ ấy mà bỏ ra ngoài ván, thấy có gói nhỏ mở ra thấy sợi dây chuyền cũng lấy lại nữa. Tên Hữu coi kỹ thì còn có một cái áo với một cái quần vải đen, mà hai cái tuy chưa rách song cũng đã cũ rồi nên lật đật gói lại mà đưa cho thằng Ðược rồi hỏi ông già rằng: “Hồi hôm thầy nói với tôi thầy qua Cần Ðước. Mà qua Cần Ðước rồi ở đó hay là còn đi đâu? Xin nói cho tôi biết đặng sau như cha mẹ nó có đến mà nhìn nó thì tôi biết mà kiếm thầy”.
Ông già dụ dự một chút rồi đáp rằng: “Sự ăn ở thiệt tôi chưa biết chắc ở đâu, mà không hại gì, nếu chú em có việc muốn kiếm tôi thì qua chợ Cần Ðước hỏi thăm thầy Ðàng thì họ chỉ cho”. Nói dứt lời liền từ giã tên Hữu mà đi, và day mặt vô cửa buồng thấy Ba Thời đứng đó thì nói rằng: “Thím em nó đừng có phiền, tôi nuôi cũng tử tế, không sao mà sợ. Thôi tôi kiếu hai vợ chồng.”
Thầy Ðàng nắm tay thằng Ðược mà dắt đi, con nhỏ xá hai vợ chồng tên Hữu rồi xách cây đờn đi theo sau. Ra tới sân thằng Ðược vùng vằng trì đứng lại mà kêu: “Má ôi! Má”. Ba Thời chạy ra cửa khóc rống lên nghe rất bi thảm. Tên Hữu trọn mắt ngó thằng Ðược, làm cho nó sợ khiếp vía nên dở bước đi theo thầy Ðàng không dám kêu má nữa.
Tên Hữu đứng coi đi ra tới đầu bờ rồi mới day lại nạt vợ rằng: “Nín đi nà! Khóc giống gì? Mầy nói không phải con mầy đẻ sao mà khóc dữ vậy... Thứ đồ ngu! Ðồ của thằng nhỏ sao mầy đưa cho nó chi vậy? Nếu thiệt nó là con của họ mầy xí được thì phải để đồ đó lại đặng sau có ai họ nhìn họ mới tìm đến mình, chớ đưa hết cho nó thì mình còn bằng cớ gì mà kể công nuôi dưỡng được”. Ba Thời không trả lời, trở vô trong ván hốt hết đồ của thằng Ðược đó mà ôm vô buồng rồi ngồi khóc rấm rứt.
Thầy Ðàng dắt thằng Ðược ra tới đường quan lộ rồi mới buông nó ra, biểu nó đi trước, còn thầy với con nhỏ thì đi theo sau. 'Thằng Ðược chơn đi mà mắt ngó lại nhà hoài, nước mắt chảy ròng ròng không dứt, trong bụng thầm nghĩ mình bước tới một bước thì càng xa mẹ, xa nhà thêm một khúc đường; hồi nãy nghe ông gíà nói đi qua Cần Ðước mà Cần Ðước ở đâu? Ông già nầy là ai? Ổng mua mình đem về bắt làm việc gì? Mình có thể nào trở về nhà má nữa hay khỏng?
Thằng Ðược trong lòng quặn đau như dao cắt, trong trí bối rối như tơ vò, bởi vậy cho nên chơn thì đi, mắt thì khóc, mặt thì ngó lại hoài, làm cho người đi chợ họ gặp ai cũng lấy làm kỳ, có người biết nó kêu hỏi nó đi đâu nó cũng không nói. Ra đến chợ Mỹ Lợi thầy Ðàng biểu hai đứa nhỏ đi thẳng lại cầu ngồi mà chờ đặng qua sông Bao Ngược. Mặt trời ửng mọc, hướng đông chói chói đỏ lòm. Thằng Ðược đứng trên cầu ngó lại xóm Tre thì thấy nhà má nó rõ ràng, thấy mấy bụi chuối sau hè mặt trời chói vàng vàng, thấy cửa chống có người đứng đó nhưng ở xa nên thấy người ấy mặc đồ đen chớ không rõ là ai, thấy con chó vàng đi nghểu nghến trưởc sân rồi đứng chong mỏ ngó ra đường dường như tìm kiếm bạn.
Thằng Ðược đứng ngó hoài không mỏi mắt, mà thầy Ðàng với con Liên đứng một bên thì đứng chớ cũng để cho nó ngó, chẳng hề hỏi một tiếng chi. Chiếc đò chèo qua tới, thầy Ðàng xách đồ và dắt hai đứa con xuống đò. Chiếc đò sớm mơi đi bảy tám người, người nầy hỏi người kia, người kia nói chuyện với người nọ om sòm song thằng Ðược cũng không khuây lãng cứ ngó về Xóm Tre hoài. Ðò qua tới mé sông bên kia, thằng Ðược leo lên bờ ngó trở lại bị giàn cây án khuất không thấy Xóm Tre nữa, không biết chỗ nào là nhà mình, rồi ngó tứ hướng thì cỏ cây lạ hoắc, chẳng có xóm nào là xóm.biết, chẳng có nhà nào là nhà mình quen thì hồi hộp trong lòng, nên đứng khóc thúc thít. Thầy Ðàng dưới đò bước lên vỗ vai biểu nó đi, thì nó đánh liều dơ bước đi theo chớ bơ vơ cảnh lạ quê người, không biết đi đâu mà tính.

[1] người Hoa ở Việt Nam
[2] hũ miệng túm, phình to ở giữa, bằng gốm tráng men, dung tích quãng 3l, sử dụng số lượng lớn ở các hãng nước mắm.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Cay đắng mùi đời
IIb
(03)
Thầy Ðàng tên thật là Trần Cao Ðàng, người gốc sanh đẻ tại xứ Cần Ðước, lúc còn nhỏ trong nhà cha mẹ nghèo lắm, cơm ăn không no, áo mặc không lành. Khi ấy nhà nước mở lập trường mà học chữ quốc ngữ với chữ Tây, nhà giàu không ai chịu cho con đi học. Nhà nước mới tống trát cho các làng dạy phải cấp học trò. Hương chức trong làng sợ quan quở phạt nên năn nỉ với ông thân của Ðàng để cho Ðàng đi học, hương chức với nhà giàu chung đậu với nhau mà chịu tiền cơm bánh áo quần, lại còn cấp dưỡng cho cha mẹ nhà ở được no ấm nữa. Thầy Ðàng nhờ có như vậy nên mới đi học được.
Học hơn mười năm quan bổ làm thầy giáo dạy tại trường Sài Gòn. Dạy học được vài năm gặp dịp quan Tham biện Chợ Lớn cần dùng một thầy thông ngôn, thầy Ðàng mới xin thôi ngạch thầy giáo rồi xin cấp bằng làm thông ngôn. Quan Tham biện thấy thầy giỏi giắn bặt thiệp thì đem lòng yêu thầy; bởi vậy cho nên thầy đứng thông ngôn nhà thầy tổng làng tới lui nườm nượp. Thầy rước cha mẹ về ở chung với thầy, còn đứa em gái của thầy tên là Ba Sự thì cha mẹ thầy đã gả cho người ở trong làng tên là Phan Hảo Tâm.
Thầy vốn là con nhà nghèo nhưng thầy làm việc quan đắc lộ, kẻ kính người yêu bởi vậy cho nên có một ông Cai tổng giàu có ở gần làng thầy mới kêu thầy mà gả con. Thầy cưới vợ về, vợ chồng ở với nhau hơn mười năm mà không có con. Lần lần cha mẹ hai bên khuất hết. Vợ chồng lãnh phần ăn của cha mỗi năm thâu huê lợi cũng được hai ba ngàn giạ lúa. Thầy làm việc quan có lương bổng, mà tổng kính phục nên đi lễ vật hàng ngày; đã vậy mà vợ thầy lại có của riêng, nếu thầy thủ phận như người ta thì bước quan lộ của thầy chắc là. rộng dày, mùi phú quí vinh huê chắc là thầy nếm đủ.
Nào dè người đời hễ có may thì có rủi, sự nên hư vinh nhục ngẫm cũng như nước lớn nước ròng. Thầy Ðàng làm việc quan được mười hai năm rủi gặp một quan Tham biện không yêu thầy như mấy ông trước, lại hễ thầy đi hầu trễ thì rầy, thầy làm việc chậm thì quở Tổng làng dòm thấy quan không yêu thầy nữa thì coi bộ họ cũng bớt kính mến. Thầy nghĩ thế tình lạt lẽo thì thầy buồn thầm, nên thầy gởi đơn xin quan trên đổi thầy qua tỉnh khác. Quan trên đã không nhận lời thầy, mà quan sở tại lại càng khắc với thầy nhiều hơn nữa, thầy tức trí mới xin thôi, rồi vợ chồng dắt nhau trở về Cần Ðước cất nhà mà ở.
Mấy năm thầy làm việc quan, nhà thầy khách khứa đông dầy dầy; thầy học đờn thầy đờn thiệt tươi, nên đêm nào thầy cũng qui tụ những tay đờn giỏi đến hòa chơi với thầy. Hễ đờn đến khuya thì ăn uống vui cười; vợ thầy tuy phải thức khuya coi nấu nướng mà đãi khách, song muốn vừa ý chồng nên chẳng có một tiếng chi phiền trách.
Từ ngày thầy về ở trong làng thì chẳng có ai tới chơi nữa, ban đêm vắng vẻ thầy có buồn thì lấy đờn ra rồi đờn một mình mà thôi, đờn cây này đã thèm rồi đờn qua cây khác. Vợ thầy chẳng có chi cực nhọc như khi trước, nhưng mà coi ý lại bớt trọng thầy. Nhiều khi vợ thầy nghe những bạn đồng liêu của thầy khi trước kẻ làm Huyện người làm Phủ, thì thường hay cằn rằn, hay trách thầy nói rằng tạí thầy ngang tàng chớ chi thầy nhịn nhục mà theo làm việc quan, thì chắc ngày nay cũng được rỡ ràng như ngườì vậy.
Thầy Ðàng bước ra khỏi vòng quan lộ thì trong lòng phơi phới, chẳng hề có ý tiếc một chút gì. Thầy tính nghỉ chơi thong thả một vài năm rồi sẽ liệu chước hoặc kinh dinh công thương hoặc khai sáng nông nghiệp. Chẳng dè vợ chồng về trong làng ở chưa đầy nửa năm mà thầy dòm coi vợ thầy ỷ của riêng nên có ý khinh thị thầy, hễ tính tới chuyện làm ăn thì nó cứ tiếc chức thông ngôn, ký lục, cứ ham làm bà Phủ, bà Huyện hoài; thầy thấy lòng dạ của đan bà như vậy thì thầy buồn thầm, bởi vậy cho nên thầy cứ bỏ nhà mà đi chơi cho khuây lãng. Thầy đi thì thôi chớ hễ về đến nhà thì vợ kiếm chuyện mà rầy rà. Thầy dọ chắc vợ thầy ngày trước mà yêu mến thầy đó là vì cái chức thông ngôn của thầy nên mới yêu; nay thầy không còn oai quyền nữa nên mới bạc đãi như vậy.
Ngày nọ vợ chồng rầy với nhau, vợ nói nhiều lời phi nghĩa thầy giận bèn viết tờ để mà giao cho vợ, rồi biểu như nói thầy là người không xứng đáng thì lấy chồng khác cho xứng đáng hơn thầy. Người vợ cũng vui lòng lãnh tờ để, coi chẳng chút chi trìu mến hết.
Thầy Ðàng thấy thế tình như vậy thì trong bụng cười thầm, bèn giao hết cửa nhà cho vợ, chỉ lấy có áo quần, đờn sách mà thôi. Mà tưởng dẫu thầy muốn lấy tiền của thầy cũng khó mà lấy cho đặng, bởi vì thầy làm việc quan hơn mười năm, tuy tiền bạc vô nhiều, song vô bao nhiêu thầy xài hết bấy nhiêu, đến ngày xin thôi đi về làng, thầy phải lấy huê lợi của vợ mà cất nhà và mua đồ đạc.
Nay vợ chồng xa nhau đồ đạc cửa nhà ấy có phải của thầy đâu mà thầy dám đòi. May khi trước thầy có cho ít người bằng hữu mượn mỗi người một đôi trăm đồng bạc. Vậy thầy dọn áo quần đờn sách qua nhà em rể là Phan Hảo Tâm mà gởi, rồi tính đi đòi nợ mà xài đỡ.
Thầy lên ở Sài Gòn, Chợ Lớn chơi mấy tháng anh em bạn kẻ thì khuyên thầy xin trở vô làm việc quan lại, người thì biểu thầy xin vô mấy hãng mà làm. Thầy nghĩ rằng mình đi trong quan lộ hơn mười năm đã chán rồi, nay mình được thong thả còn xin trở vô chi nữa. Còn bây giờ mình xin giúp việc cho mấy hãng thì cũng được, mà nếu tránh đường nầy rồi đi đường nọ, đường nào mình cũng không được làm chủ, như vậy thì ngày trước mình xin thôi làm việc chẳng là dại lắm sao?
Thầy suy đi nghĩ lại chín chắn rồi thầy mới nhứt định nếu không có nghề nào mà thầy làm chủ được thì thà thầy đi dạy đờn mà chơi, dầu nghèo hèn thì thầy cam phận nghèo hèn, chớ thầy không chịu quật hạ ai hết. Có thầy Hội đồng ở Bến Lức, vốn là người giàu lớn, khi trước có mang ơn thầy, ngày nọ gặp thầy tại Sài Gòn thì mừng rỡ hết sức, mời thầy đi ra nhà hàng ăn cơm nói chuyện chơi. Lúc ăn uống thầy tỏ hết tâm sự của thầy cho thầy Hội đồng nghe. Thầy Hội đồng nghe hết đầu đuôi rồi nói rằng: “Không hại gì thầy tính buôn bán làm ăn, nếu thầy cần dùng vốn liếng bao nhiêu tôi sẽ giúp giùm cho, không sao đâu mà sợ”.
Thầy Ðàng nghe mấy lời trong bụng mừng thầm, nên rủ anh em quen hùn hiệp với mình đặng lập tiệm trữ đậu mà bán. Anh em ai cũng thương, ai cũng muốn giúp cho thầy làm ăn, song làm việc tại Sài Gòn, Chợ Lớn không ai dư tiền nhiều, bởi vậy cho nên mỗi người chịu hùn năm bảy chục hoặc một trăm đồng bạc mà thôi. Thầy Ðàng thấy anh em hứa hùn, tuy vốn không nhiều, nhưng mà số hùn đông, thì lật đật đi Bến Lức tìm đến nhà thầy hội đồng nói chuyện lại cho thầy nghe, rồi cậy thầy giúp một đôi ngàn đặng có đủ tiền mà lập tiệm. Thầy Hội đồng nói không có bạc sẵn, biểu đợi ít ngày thầy sẽ đem lên Sài Gòn mà giúp cho. Ðợi gần trót tháng mà không thấy chi hết, thầy Ðàng túng thế phải xuống Bến Lức nữa, chẳng dè xuống đó lại không có thầy Hội đồng ở nhà. Thầy bền chí đi xuống luôn năm sáu lần nữa, mà không gặp mặt; thầy biết thầy Hội đồng nói không thiệt thì thầy tức cười thầm, rồi về nhứt định đi dạy đờn mà chơi, không thèm làm nghề chi hết.
Thầy đi trót năm tháng mới trở về nhà em rể. Thầy nghe nói có thầy Phó tổng sở tại vợ chết nên gắm ghé muốn cậy mai đến nói vợ thầy, mà ý vợ thầy cũng thuận rồi nên thầy Phó tới lui hoài. Thầy biết vợ thầy là người tham bạc tham tiền, trọng quyền trọng tước, thì thầy đã khinh bỉ rồi, mà thầy nghe nói mất tiết mất trinh thì thầy lại càng khinh bỉ nhiều hơn nữa.
Từ ấy về sau thầy mang mấy túi đờn lưu linh trong lục tỉnh, trót mười lăm năm trường, khi thì lên Châu Ðốc, khi thì xuống Bạc Liêu, khi thì lại Tây Ninh, khi thì qua Bà Rịa. Tuy có lúc thầy cũng xây xài bẩn chật, nhưng mà dầu khi nghèo cực thầy cũng giữ gìn danh dự, chẳng hề làm cho thấp phẩm giá của thầy. Lúc sau đây thầy thấy thiên hạ lại ưa nghe ca, thầy nghĩ dầu thầy đờn hay không có ai ca thì chắc thiên hạ cũng ít chuộng, bởi vậy cho nên ra Bà Rịa thầy thấy con Ðoàn Kim Liên mặt mày sáng sủa, mà tiếng nói lại thanh tao, thầy mới xin đặng thầy dạy ca, rồi dắt nhau đi đơn ca cho thiên hạ nghe chơi mà lấy tiền. Thầv nuôi con Liên hơn một năm thầy dạy nó đã biết đủ điều, mà lại biết được ít bản đờn tranh nữa. Vì nó có tám tuổi nên đờn ngón chưa được tươi, chớ còn ca thì ai cũng phải khen bởi vì tiếng nó đã tốt mà nó lại chắc nhịp nữa. Thầy trở vô Sài Gòn ở đờn mấy tháng thầy gặp một ông bầu gánh hát cải lương, người thấy thầy đờn tươi, đặt bài ca hay, mà con Liên lại có thinh có sắc thì ái mộ, nên cứ theo năn nỉ với thầy hoài, xin thầy theo giúp giùm, thầy thì làm thầy tuồng còn con Liên thì đứng rạp. Thầy nghe lời khuyển dụ thì cười ngất rồi dắt con Liên đi xuống Gò Công, không thèm trả lời chi hết. Thầy ở Gò Công chơi ít ngày rồi tính đi lần lần về Cần Ðước mà thăm em, nào dè ra tới Mỹ Lợi lại gặp tên Hữu rồi xin thêm thằng Ðược mà nuôi nữa.
Trong mười lăm năm nay thầy ít hay về tổ quán là vì vợ thầy đã cải giá, thầy sợ về vợ chồng gặp nhau tuy thầy không hờn giận, song vợ thầy cũng ngỡ ngàng. Nay thầy dắt hai đứa nhỏ vễ thì thầy cũng tính về thăm em vài ngày rồi đi, chớ không phải tính về mà ở đó.
Thầy Ðàng bước vô cửa thì vợ chồng Phan Hảo Tâm mừng rỡ hết sức hỏi căn nguyên con Liên với thằng Ðược rồi lật đật làm gà dọn cơm cho thầy ăn. Phan Hảo Tâm là người cần kiệm, làm ruộng không lớn, song nhờ làm thầy thuốc tổ đãi nên trong nhà có dư giả chút đỉnh; vợ chồng có hai đứa con, đứa con gái lớn đã có chồng về trên Rạch Ðào còn đứa con trai nhỏ thì còn học lại trường Chasseloup Laubat.
Thầy Ðàng thấy em trong nhà thong thả thì mừng thầm; thầy hỏi thăm mọi việc nhà, song chẳng hề khi nào hỏi tới vợ. Lúc thầy ngồi ăn cơm với hai đứa nhỏ, em gái thấy mới thỏ thẻ mà tỏ rằng vợ thầy đụng thầy Phó tổng xưa nay không có con mà năm ngoái thầy Phó tổng lại tỵ trần, vợ thầy bị sấp con ghẻ rầy rà nên đã trở về nhà cũ má ở, thầy Ðàng nghe nói đến chuyện vợ thì châu mày coi có sắc buồn, chẳng hiểu là tại thầy nhớ đến sự bất nghĩa của người xưa hay là tại thầy động lòng thương bạn cũ mà thầy không nói chi hết.
Thầy ở Cần Ðước mấy bữa thầy đến nhà thăm bà con cùng hết, nhưng mà thầy lánh không chịu đi lại gần nhà cũ của thầy. Thầy vừa tính từ tạ em rồi dắt hai đứa nhỏ mà đi chẳng dè thầy nhuốm bịnh thình lình nên thầy phải nấn ná ở lại mà dưỡng bịnh.
Phan Hảo Tâm lo thuốc cho thầy uống, tuy bịnh thầy không thêm, nhưng mà cũng không giảm chút nào. Phan Hảo Tâm coi mạch rất kỹ rồi nói thầy đau thận, nên cho thầy ăn cơn lạt với chuối hoặc với đường mà thôi, chớ không cho ăn đồ mặn, lại khuyên thầy phải nương náu mà uống thuốc đôi ba tháng thì bịnh mới dứt được. Thiệt thầy cũng chẳng đau chi cho lắm, chỉ đau lưng, nhức tay, mỏi cẳng và có khi lại ran cái ngực mà thôi, song vì bởi thầy ăn không được, nên nằm mới mấy bữa mà trong mình thầy yếu lắm.
Thằng Ðược với con Tiên ở đó cứ ăn rồi chơi, chớ không làm chi; chúng nó buồn, con Liên mới bày ra dạy thằng Ðược ca. Dạy đúng một tháng thằng Ðược đã biết ca đủ bản hết. Thầy Ðàng bịnh mười phần đã giảm được năm phần rồi, mới biểu em mua hai cuốn vần quốc ngữ, ban ngày thì dạy hai đứa nhỏ học chữ còn ban đêm thì dạy chúng nó học đờn. Con nhà giàu trong làng thấy thầy dạy hai đứa nầy học đờn, thì thừa dịp nên áp tới mà xin thầy dạy giùm. Thầy nghĩ mình còn bịnh chưa đi đâu được mà ở không cũng chẳng ích gì, nên thầy chịu dạy đặng cho hai đứa nhỏ trong nhà học theo cho dễ.
Người vợ cũ thầy bỏ thầy mà lấy Phó tổng gần mười lăm năm nay, nhà cửa phải giao cho một đứa cháu ở giữ giùm, lúa ruộng năm nào góp xong rồi cũng phải nhập với lúa của thầy Phó để mà xài chung. Tuy ở trong nhà thì tôi tớ, ra ngoài đường thì làng dân ai cũng thưa cũng dạ, cũng kêu là bà Phó, nhưng mà có một chút đó mà phải ra công xem xét việc nhà cho người ta, rồi mỗi năm lại phải giao cho người ta hơn hai ngàn giạ lúa nữa, nghĩ thiệt mắc quá. Ðã vậy mà lúc thầy Phó tỵ trần sắp nhỏ con ghẻ lại nói nhiều lời sỉ nhục, đứa thì nói mình thấy thầy Phó giàu nên bỏ chồng mà ám xác đặng giựt của, đứa thì nói vì mình nên thầy Phó mới mang bịnh mà tỵ trần.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Cô trở về nhà cũ mà ở, nghĩ đến việc chồng thì hổ thẹn trăm bề, mang chi cái thói ham tước ham quyền, mà mười mấy năm nay hao tiền tốn của không biết bao nhiêu, lại còn phải mang tiếng lộn chồng, mang điều bạc nghĩa. Cô đương buồn rầu bỗng nghe chồng cũ trở về, tuy cô không dám để lòng trông con chìm cũ vào cái lồng xưa, nhưng mà cô nằm ngồi không an, coi ra tuồng như cô thương nhớ thầy lắm vậy.
Ðêm nào cô cũng chong đèn ngồi mà suy nghĩ, nếu thầy Ðàng kêu cửa thì chắc là cô bỏ giày chạy ra ôm khóc rồi năn nỉ ỷ ôi cho thầy dung thứ tội ngày xưa, mà cô ngồi đợi hoài không nghe ai kêu, duy nghe canh tàn gà gáy vang rân, duy thấy chích bóng trong phòng hiu quạnh. Cách ít ngày cô lại nghe thầy nhuốm bịnh, cô mới lần đến mấy nhà gần Phan Hảo Tâm mà chơi. Tuy là cô giả bộ đi chơi, song trong lòng cô thì cô quyết hỏi thăm coi bịnh chứng của thầy nặng nhẹ thể nào, và thầy về có tỏ dấu đoái tưởng đến cô chút nào không. Người trong xóm thuật chuyện thầy về có hai đứa nhỏ cho cô nghe, lại nói bịnh thầy nặng lắm, có thể thầy phải ở uống thuốc lâu lâu mới mạnh được.
Ngày nào cô cũng đi qua đi lại ngang trước nhà Phan Hảo Tâm, rồi ghé mấy nhà gần đó khi thì hỏi mua trứng gà, khi thì mướn người đắp đất. Một bữa nọ cô đương ngồi trong nhà bà Cẩn, bỗng thấy thằng Ðược với con Liên đi lại đó chơi. Cô lấy làm mừng mới hỏi thăm chuyện thầy, lại thấy lai đứa nhỏ ngộ nghĩnh cô đem lòng thương nên cô biểu chúng nó đi theo cô lên nhà cô chơi. Thằng Ðược với con Liên bước vô nhà thấy nhà cửa kinh dinh, ghế tủ hực hỡ thì ké né không dám ngồi. Cô hối đứa ở trong nhà chạy đi mua bánh đem về cho hai đứa nhỏ ăn rồi cô mới hỏi rằng: “Hai cháu kêu ông thầy đó bằng giống gì ?”.
Hai đứa ngó nhau rồi thưa rằng: “Thưa, con kêu bằng thầy”.
Cô cười rồi nói rằng: “Hai cháu biết hôn? Qua đây là vợ cúa thầy đó đa, Thầy giận qua rồi bỏ đi hơn mười lăm năm nay không chịu về nhà. Hai cháu muốn ở đây với qua hay không. Như muốn thì biểu thầy về đây mà ở, đặng hai cháu sung sướng tấm thân. Ở với qua, qua may áo quần tốt cho mà mặc”.
Hai đứa ngồi lặng thinh không nói đi nói lại chi hết. Chơi một hồi rồi thưa với cô mà về, vì sợ đi chơi lâu thầy rầy. Cô cho mỗi đứa một cắc bạc rồi dặn mỗi bữa lên cô cho ăn bánh. Hai đứa nhỏ ra đường lấy làm đắc ý nói nói cười cười, hỏi với nhau tại sao thầy có nhà tốt, có vợ yêu như vậy mà lại không chịu về nhà lại trôi nổi dạy đờn làm chi cho cực thân nhọc trí. Tuy cô dặn, song hai đứa nhỏ về không dám nói ra mà hễ năm ba bữa thì giả bộ đi chơi rồi lên nhà cô mà ăn bánh.
Ngày nọ cô thấy Ba Sự, là em thầy Ðàng, đi ngang qua nhà, cô liền mời vô rồi khóc lóc mà tỏ lòng ăn lăn lỗi ngày trước, và xin cô Ba Sự làm phước nói giùm cho thầy hết giận đặng trở về nuôi dưỡng cho thong thả tấm thân. Cô Ba Sự thấy vậy cũng động lòng, nên hứa để đợi anh lành mạnh rồi sẽ kiếm cách mà dọ ý.
Thầy Ðàng uống thuốc hơn bảy tháng mới thiệt mạnh. Con Liên học đờn tranh đờn kìm lão thông còn thằng Ðược thì đờn kìm với đờn cò cây nào cũng đờn gần đủ bản. Hai đứa lại biết đọc biết víết chữ quốc ngữ rồi hết. An Tết xong rồi thầy mới cột đờn gói sách sửa soạn muốn dắt hai đứa nhỏ mà đi. Tối bữa ấy thầy đương nằm nói chuyện với em rể, thì em gái thầy trong buồng bước ra ngồi bộ ván bên kia têm trầu mà ăn rồi hỏi thầy rằng:
- Anh Hai, anh tính đi đâu nữa hay sao mà ngày nay anh thu xếp đồ đạc đó vậy?
- Ừ, qua tính sáng mai qua đi Bến Tre, Mỏ Cày chơi.
- Ý anh muốn em không dám cãi, chớ thiệt em thấy anh đi em buồn quá.
- Vậy chớ thuở nay đó sao?
- Thuở nay anh mạnh giỏi chẳng nói làm chi. Nay anh hơn năm mươi tuổi rồi, anh đã già yếu mà trong mình lại có bịnh nữa. Anh đi xa như mạnh giỏi chẳng nói gì còn khi ươn yếu thì có ai đâu mà nhờ cậy.
- Chí qua muốn thong thả, một chỗ tù túng qua chịu không được. Mà em biểu qua đừng đi thì tiền đâu có cho qua xài, cơm đâu có cho qua ăn.
Hảo Tâm nghe nói tới đó liền ngồi dậy mà trả lời:
- Anh ăn xài bao nhiêu đó mà anh lo dữ vậy. Anh ở nhà đây vợ chồng tôi nuôi cho.
- Dượng có bụng tốt thì tôi cảm ơn lắm. Song tôi biết dượng đủ ăn chớ không phải giàu có chi. Mấy tháng nay tôi về đây làm tốn cơm tốn nước mà lại còn tốn thuốc men của dượng nữa, tôi nghĩ tới thì tôi ái ngại vô cùng. Tôi chưa đền ơn cho dượng được, nay lành mạnh rồi lẽ nào tôi còn theo mà làm nhọc cho vợ chồng dượng nữa hay sao.
- Anh em mà đền ơn báo nghĩa nỗi gì.
Ba Sự xen vô mà nói rằng:
- Mà bây giờ anh tính đi làm việc gì ở đâu anh nói nghe thử coi.
- Ði ra trước dạy đờn kiếm tiền xài sau chơi luôn thể.
- Dạy đờn vậy chớ ở nhà đây lại dạy không được hay sao? Con nhà giàu họ học hiếm đó, anh dạy họ mà ăn tiền, cần gì phải đi đâu cho mệt.
- Ở nhà buồn lắm, dạy giống gì được.
- Cần Ðước là chỗ nhau rún của mình, về đây sao anh lại buồn? Hay là về ở đây anh nhớ chuyện cũ, anh xét phận anh bây giờ nghèo hèn, còn phận chị Hai thì giàu có, nên anh hổ thầm rồi anh buồn phải không?
- Qua có hổ thẹn chi đâu, qua đắc ý lắm chớ! Cái nghèo của qua đây gia tài của họ đó dầu bán cho hết đi nữa mua cũng không nổi đâu; em đừng có tưởng qua thấy họ giàu còn qua nghèo mà hổ thẹn.
- Hứ! Anh khinh khi người ta quá!... Ðời này có cái chi quí hơn đồng tiền. Phải hồi trước anh chịu nhịn nhục mà làm việc quan, thì ngày nay có lẽ anh đã làm tới Ðốc phủ rồi. Mà nếu anh không chịu làm quan, thì anh nương theo chỉ có lẽ trọn đời anh cũng khỏi cực khổ. Em nghĩ thiệt em tiếc quá.
- Phận em là đàn bà, em đâu có hiểu tâm chí của qua mà em nói.
- Em cũng biết làm đàn ông ở không mà ăn chực của vợ thiệt cũng không tốt gì đó. Mà hồi còn trai tráng anh đủ tài đủ trí, đủ tay đủ chơn, anh không thèm hưởng nhờ của vợ, thôi em cũng cho là phải đi. Nay anh đã già yếu rồi, nếu anh cứ cứng cỏi hoài thì...
- Em đừng có nói quấy như vậy! Con người lúc còn trẻ thì hay làm bậy, đến chừng già rồi mới sửa tánh lại. Phận anh đây, hồi nhỏ anh đã làm phải, bây giờ già rồi em lại biểu anh phải sửa lại mà làm quấy hay sao?
Thầy Ðàng nói tới đó lồm cồm ngồi dậy mà ngó ngay Ba Sự. Hảo Tâm cũng ngồi dậy vấn thuốc mà hút, còn thằng Ðược với con Liên thì đứng dựa tủ thuốc lóng tai mà nghe. Thầy Ðàng tằng hắng rồi nói:
- Thế thì em muốn qua trở lại vợ cũ qua hay sao chớ?
Ba Sự ngồi lặng thinh không trả lời. Thằng Ðược mấy tháng nay ăn bánh lãnh tiền của cô Phó đã nhiều, có lòng ước ao cho thầy chịu trở về với cô đặng ăn mặc cho sung sướng nên nghe thầy hỏi như vậy thì trong lòng hồi hộp trông coi thầy tính lẽ nào. Cách một hồi Ba Sự mới nói rằng:
- Nếu anh chịu trở về ở với chỉ thì tiện lắm. Em biết chắc hễ anh về thì chỉ mừng lắm. Chỉ thấy anh bây giờ già yếu nghèo nàn mà lại hay đau ốm, thì chỉ thương, nên mấy tháng nay chỉ cậy người này người kia nói giùm mà không dám nói. Em nghĩ nếu anh trở về ở với chỉ thì xong, bởi vì...
- Nín! Em đừng nói bậy. Em bưng chén nước em đổ rồi, em hốt lại cho đầy chén được hay không?
- Ở đời có cần gì. Ở đời này miễn là có tiền bạc nhiều thì thôi.
- Hứ? Khéo bày chuyện làm cho tôi mang nhục!
Hảo Tâm thấy anh vợ có sắc giận liền xen vô mà nói rằng:
- Vợ tôi nó tính quấy mà cũng có chỗ phải đó anh. Anh xét lại đó mà coi, nếu anh về ở với chỉ, thì nằm không cũng có của cho mà ăn; thân anh đã sung sướng mà anh em lại gần gũi nhau được nữa.
- Té ra dượng cũng vậy nữa sao?
Thầy Ðàng trả lời có mấy tiếng rồi nằm day mặt vô vách mà ngủ không thèm nói chi hết. Thằng Ðược với con Liên không hiểu vi cớ nào mà nhà tốt vợ đẹp mà thầy không thèm, nên ngó nhau rồi cũng dắt nhạu đi ngủ.
Rạng ngày có lái buôn lúa ở lối xóm dọn ghe bạn đi Bến Tre mua lúa đặng chở về Chợ Là mà bán. Thầy Ðàng thừa dịp ấy mới xin quá giang mà đi Bến Tre. Khi thầy ôm đờn dắt hai đứa nhỏ ra khỏi nhà thầy liền nói với chúng nó rằng: “Tao không dè sắp đó là đồ tiểu nhơn, Tao nói thiệt đến chết tao cũng không bước chơn về đó nữa. Mà ngày nào tao có chết bây cũng đừng cho chúng nó hay làm gì”
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Cay đắng mùi đời
III a
(04)
Ðêm rằm tháng giêng, bóng trăng tỏ chói trời Nam vằng vặc, dòng nước xanh tràn sông Trước minh mông. Từ vàm Kỳ Hôn xuồng tới mỏm Tam Lạch, trời trời nước nước ê hề trăng giọi, gió đùa, mặt nước lao xao mà lại rạng ngời coi như thể vàng trôi bạc chảy Cách một khoảngxa xa mới có một chiếc thuyền buồm trương, chèo xếp, thả giữa dòng để cho nước xuôi gió thuận đưa đi. Hai bên sông cây cỏ im lìm, một giây lâu mới nghe tiếng trống trở canh văng vẳng.
Chiếc ghe của thầy Ðàng ra khỏi vàm Kỳ Hôn rồi thì bạn lái đều ngủ hết, duy còn có một chú tài công ngồi phía sau, tay nắm lèo, tay cấp bánh lái, nhắm dòng nước mà thả linh đinh; đêm khuya khoảng vắng, gió mát trăng trong, anh ta hứng cảnh động tình nên cất tiếng mà nói thơ Lục Vân Tiên nghe inh ỏi. Thầy Ðàng nằm trong mui lặng lẽ đương suy đi xét lại những thế tục nhơn tình, bỗng nghe tiếng tài công nói thơ, thầy ngứa nghề, liền lồm cồm ngồi dậy lấy cây đờn cò mà đờn theo đặng giải cơn buồn chút đỉnh. Chú lái với hai đứa nhỏ đương ngủ nghe tiếng đờn cũng giựt mình thức dậy, rồi ngồi nghe chơi vui vẻ vô cùng. Chú lái muốn để cho bạn nghỉ ngơi cho yên, nên không kêu, chú mới bổn thân đốt đèn nhúm lửa rồi nấu nước trà cho thầy uống.
Tài công nói thơ một hồi rồi nghỉ. Thầy Ðàng uống nước rồi mới biểu thằng Ðược lấy đờn kìm mà hòa với thầy, còn con Liên thì ca theo. Chú lái tuy là người lam lụ làm ăn, xưa nay ở nhà làm ruộng thì mảng sợ mạ tim lúa háp, ngồi nghe đi buôn thì mảng lo bán đắt mua may, chớ chưa biết thú vị phong lưu là thể nào, nhưng mà chú ngồi nghe đờn ca một hồi rồi tâm thần bễ nghễ[1], mày mặt ngáo ngơ, nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi chú vậy chớ đờn ca như vậy mà hay dở thế nào, thì chắc chú nói nghe thì là hay, mà sao trong lòng ngần ngại bâng khuâng, dường như thương ai, nhớ ai, khó mà nói rõ ra cho được.
Con Liên ca mệt thì lấy đờn mà đờn, nhường lại cho thằng Ðược ca, hai đứa thay đổi với nhau ca đủ bài bản hết. Chú lái lấy làm đắc ý, mà chú tài công cũng rất vui lòng. Thầy Ðàng hồi hôm nằm lặng lẽ nghĩ đến việc đời thì buồn thầm, mà chừng thầy đờn cho hai đứa nhỏ ca một hồi rồi thì thầy quên hết những chuyện xưa, sắc mặt hân hoan, tấm lòng nhàn lạc.
Ghe xuống tới Bến Tre thầy Ðàng tạ ơn chú lái rồi ôm đờn dắt hai đứa nhỏ lên bờ, tìm nhà ông Phán Cầm là bạn học thuở nhỏ mà thăm. Ông Phán Cầm thấy thầy thì mừng rỡ vô cùng. Thầy dòm nhà ông Phán thấy chưng dọn hực hỡ, tôi tớ rần rộ, vợ con lòe loẹt, thầy nghĩ đến cách lập nghiệp của người giúp việc quan thì thầy có ý cười thầm. Nhưng mà anh em hồi nhỏ học một trường, yêu mến nhau, mà đã lâu rồi không có dịp gặp nhau, nên thầy không nỡ chiết báng nhau, thầy mới hỏi thăm gia đạo coi ông Phán làm ăn lợi hại thế nào cho biết. Ông Phán nghe hỏi đến việc nhà thì đắc ý bèn nói thiệt rằng từ khi ông đổi lại Bến Tre đến nay kể đã hơn mười năm rồi, lúc ban đầu, thiệt ông chẳng được khá cho lắm, song mấy năm sau đây dân sự quen biết ông nhiều, rồi thì tiền bạc vô như nước, ngày nào cũng kiếm chác năm mười đồng, mà nếu gặp mấy vụ lớn thì ông lại có tới năm ba chục. Ông Phán tỏ việc mình rồi mới hỏi thăm lại thầy Ðàng. Thầy thấy ông Phán lấy tình thiệt mà đãi mình, lại có ý muốn tỏ lòng nhàm chán thế tục của mình cho ông Phán biết nên cũng không giấu giếm, bèn thuật hết các việc của mình cho ông Phán nghe.
Ông Phán nghe thầy Ðàng nói hết đầu đuôi rồi, trong bụng hơi chê thầm rằng thầy không biết thừa thế, nhưng vì anh em thương nhau, nay mình được khá còn anh em mình nghèo, nếu không giúp nhau thì sợ miệng thiên hạ họ cười mình bất nghĩa, bởi vậy cho nên ông Phán mới cầm thầy ở lại đó, trước là anh em sum hiệp với nhau cho vui, sau nữa ông kiếm người học đờn cho thầy dạy, khỏi đi đâu cực khổ.
Cô Phán là người đàn bà hay chiều theo ý chồng, mà cô lại có tánh ham nghe đờn nghe ca, có ban hát cải lương nào lại hát tại Bến Tre, hễ hát mấy đêm thì cô xem đủ mấy đêm, dầu ca hay ca dở, dầu tuồng trưng lớp luân thường thuần mỹ, hay là diễn hồi phong tục suy đồi, cô cũng chẳng cầu miễn là nghe tiếng đàn giọng ca thì cô vui, chẳng kể chi lớp lang tuồng tập. Cô nghe ông Phán nói thầy Ðàng đờn cây nào cũng tươi, còn hai đứa bài nào ca cũng giỏi, thì cô có ý mừng thầm; chừng nghe nói thầy Ðàng chịu ở mà dạy đờn thì cô lấy làm đắc ý lắm. Cô sợ thầy Ðàng ngại ngùng không ở lâu, nên ông Phán đi hầu thì cô ở nhà bải buôi tiếp đãi thầy rất ân cần.
Chiều thứ bảy ông Phán dọn tiệc mời mấy thầy trong tỉnh đến ăn uống chơi, rồi thầy Ðàng với hai đứa nhỏ đờn ca, thì khách ngồi nghe chẳng ai mà không khen ngợi. Bữa sau có năm sáu thầy đến xin học đờn, lần lần rồi con nhà giàu rải rác cũng đến xin học, Thầy Ðàng ban đêm thì dạy đờn, còn ban ngày hễ ông Phán đi hầu rồi thì ở nhà thầy dạy con Liên với thằng Ðược học chữ, lại dạy cách cư xử với người đời, nhứt là thầy khuyên hai trẻ ở đời phải giữ gìn danh dự cho vẹn toàn.
Thầy Ðàng ở tại nhà ông Phán Cầm trót ba năm, vợ chồng ông Phán cũng vui vẻ luôn luôn như ngày mới đến. Thằng Ðược tuy ăn no mặc ấm, lại mấy thầy thấy nó bặt thiệp thường hay cho nó tiền mà xài chơi, nhưng mà có đêm nó nằm nhớ đến Ba Thời thì nó chứa chan giọt lụy. Ông Phán có một đứa con trai còn học ngoài Hà Nội, nên trong nhà chẳng có trẻ nhỏ đặng bậu bạn cho vui, túng thế nó phải chơi với con Liên; tuy con gái chơi không được vui, song gần gũi nhau nhiều ngày rồi lần lần khắng khít cùng nhau nên yêu nến nhau cũng như anh em ruột.
Bữa nọ ông Phán xin phép nghỉ mười ngày đặng về Biên Hòa mà thăm cố hương. Cô Phán ở nhà với thầy Ðàng, câu chuyện vãn, cách đứng ngói, coi có ý lả lơi. Thầy lấy làm bất bình, bèn giả chước đi Mỏ Cày thăm bà con, thầy để hai đứa nhỏ ở lại, còn thầy xách va-li xuống tàu đi mất. Ông Phán đi Biên Hòa về hai ba ngày rỗi thầy mới trở về. Thầy ở đó được nửa tháng nữa rồi thầy còn nói với ông Phán để cho thầy qua Trà Vinh chơi ít bữa. Ông Phán tưởng thầy đi ít bữa rồi trở lại, nên không cầm cọng làm gì. Thầy Ðàng đi từ giã mấy người học đờn thì họ tiễn hành mỗi người đôi ba chục đồng bạc, trong túi thầy cộng cũng được hơn một trăm rưỡi đồng bạc.
Thầy Ðàng sợ vợ chồng ông Phán nghi thầy đi luôn không trở lại, rồi cầm thầy thì khó cho thầy thoát thân, bởi vậy thầy đem theo có vài cái áo quần với mấy cây đờn, thầy để lại chút ít hành lý cho ông Phán và mấy thầy học đờn tin thầy sẽ trở lại.
Khi tàu chạy khỏi bến rồi, thầy Ðàng ngồi ngó quang cảnh hai bên mé sông thầy nghĩ thế thái nhơn tình thì thầy lắc đầu chán nản. Thầy kêu thằng Ðược lại ngồi một bên thầy rồi thầy nói: “Nầy con, xưa nay thiên hạ họ thường khinh bỉ mấy thầy dạy đờn, họ cho thầy đờn là bợm bãi. Thầy không hiểu vì cớ nào mà thầy đờn lại chịu tiếng nhơ như vậy. Nay thầy mới hiểu, nếu thầy đờn mà không biết giữ danh giá ắt chẳng khỏi mang nhơ đó con”.
Thằng Ðược nghe nói không hiểu ý thầy bèn hỏi rằng: “Thưa thầy, tại sao mà thầy nói vậy?”.
Thầy Ðàng vấn thuốc hút rồi nói tiếp rằng: “Phàm đàn bà con gái phần nhiều đều ưa nghe đờn. Mà tiếng đờn của Việt Nam thì là giéo giắc rỉ rả, nghe ca bắt thương, bắt nhớ, bất cảm, bắt động tình, bởi vậy cho nên ngón đờn tươi chừng nào thì càng làm cho đàn bà con gái dễ mê chừng nấy. Nếu làm thầy đờn mà không chánh tâm, không trọng nghĩa, thì thiếu chi dịp làm cho bọn quần thoa mất tiết mất trinh. Mà xưa nay bọn thầy đờn có bao nhiêu người được chánh tâm, biết trọng nghĩa? Bởi vậy cho nên mang tiếng bợm bãi cũng phải chớ nào không. Thầy coi con còn nhỏ mà ngón đờn đã tươi rồi, chắc chừng con khôn lớn cây cò với cây kìm của con chẳng ai ăn được. Vậy con phải nhớ lời thầy dặn, nếu ngày sau con có nghề nghiệp nào khác thì con đừng có dạy đờn; ví bằng con không có nghề, con phải ra làm thầy đờn thì con phải ráng mà chánh tâm trọng nghĩa cho lắm mới được”.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Thằng Ðược ngó con Liên mà cười chúm chím rồi day lại hỏi thầy Ðàng:
- Mình đi Trà Vinh đây rồi chừng nào trở về nhà ông Phán vậy thầy?
- Ði luôn chớ không về nữa.
- Sao vậy thầy?
- Nếu trở về đó sợ có ngày tao phải mang nhục.
- Nếu vậy sách với áo quần thầy còn để lại đó, thầy bỏ hết sao?
- Ðể kiếm chỗ ở yên rồi tao sẽ viết thơ mượn ông Phán gởi qua.
Ðến hai giờ chiều tàu súp lê nghe ình ỏi. Trên cầu tàu mà Trà Vinh thiên hạ lao xao, kẻ chực rước bà con, người hỏi thăm bậu bạn. Phía trong, xe kéo đậu sấp hàng ngay bót, bọn xa phu chạy lăng xăng mời khách lên xe. Chú bếp[2] đứng giữa cầu tay cầm roi mây, miệng hỏi giấy thuế thân, vinh mặt châu mày coi oai nghi lẫm liệt.
Thầy Ðàng xách va-li bước lên cầu ngoắc một tên xa phu lại mà trao cho nó biểu xách đen để lên xe, rồi thầy vói xuống tàu mà lấy mấy túi đờn và vịn cho hai đứa nhỏ leo lên. Thầy bịt khăn đen mặc áo dài lượt bượt, mà lại gặp dịp lộn xộn nên rủi sút rớt hết một chiếc giày hàm ếch xuống dưới kinh. Lúc thầy đương lụi đụi đó chú bếp đứng giữa cầu lại kêu: “Ê! Ông già kia, trình giấy thuế thân ra coi nào”. Thầy nghe nhưng mà mắc lộn xộn với chiếc giày nên không trả lời. Chừng hai đứa nhỏ lên xong rồi thầy rút chiếc giày còn lại đó trao cho con Liên cầm, rồi dắt nhau đi lại xe. Lúc đi ngang qua chú bếp thì thấy chú đương xét giấy thuế thân một người khách trú thầy mới đi luôn. Chú bếp dòm thấy bèn kêu trở lại mà hỏi rằng: “Sao không trình giấy thuế thân? Trốn đi đâu đó?”. Thầy nghe giọng vô lễ thì giận lắm, nhưng vì thầy biết luật phép, thầy sợ trái phép nước nên không dám đôi co. Thầy mở bóp lấy giấy thuế thân đưa cho chú bếp xem, chú bếp trọn mắt ngó thầy lườm lườm, còn thầy thì liếc ngó ngang, bộ khinh bỉ lắm. Chú bếp mở ra coi rồi trả giấy lại cho thầy, mà khoát tay biểu đi, bộ tịch thiện là xấc xược.
Thầy đương giận trong lòng, mà chừng đi lại gần tới xe, thầy lại nghe tiếng la hét om sòm. Thầy day lại thì thấy chú bếp lại cầm roi mà đánh bổ lên đầu một người trai chừng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, mặc quần vải đen cũ, áo vải trắng cụt, coi bộ thì biết là một nông phu quê mùa dốt nát ở trong làng. Thầy thấy vậy lấy làm bất bình, dằn lòng không được bèn bỏ mấy túi đờn chạy lại giựt roi mà nạt rằng: “Mầy ngang quá! Mầy có phép nào mà được đánh người ta. Như người ta có tội thì bắt giải người ta đến tòa bố hoặc tòa án cho quan phân xử, chớ sao mầy được gióc[3] roi trên đầu người ta vậy?”.
Chú bếp đã ghét sẵn thầy Ðàng rồi, chừng thấy thầy là người vô can mà nhảy ra binh vực như vậy thì càng giận hơn nữa, nên bỏ tên dân quê mùa ấy, day lai thộp ngực nắm áo thầy mà kéo đi. Thầy vùng vẫy không chịu đi, lại la om sòm biểu chú bếp phải buông ra. Chú bếp không thèm nghe, cứ việc kéo xểnh thầy đi. Thằng Ðược thấy việc chẳng lành thì bối rối trong lòng còn con Liên thi cặp mắt ướt rượt. Những người có mặt tại đó đều đứng nhìn trân trân, không ai nói tiếng chi hết.
Thầy Ðàng vùng vẫy không được, túng thế phải đi theo chú bếp, thầy vừa đi vừa day mặt lại kêu thằng Ðược mà nói rằng: “Ðược, con để hết đồ lên xe kéo rồi dắt em theo đây”. Thằng Ðược lấy túi đờn để lên xe với cái va-li rồi biểu xe kéo đi.
Chú bếp buông áo mà nắm tay thầy Ðàng dắt đi trước, kế đó thì thằng Ðược nắm tay con Liên mà đi theo, sau nữa thì cái xe kéo chở đồ. Ði đến cửa bót, chú bếp dắt thẳng thầy vào bót, còn con Liên thằng Ðược với cái xe kéo thì ở ngoài đường. Hai đứa nhỏ ngồi dựa lề đường mà ngó chừng vô bót, không biết việc lành dữ thế nào, nên trong lòng lấy làm lo sợ, cứ nhìn nhau hoài chớ không dám hó hé. Cách một hồi bỗng nghe tiếng ông Cò la hét om sòm, rồi cũng nghe tiếng thầy Ðàng trả lời, song nói tiếng Tây nên hai đứa nhỏ không hiểu. Tên xa phu ngồi vấn thuốc mà hút, lại lầm bầm nói rằng: “Ông Cò này ổng oai lắm, lôi thôi đây đố khói bị ổng”. Hai đứa nhỏ đương ngồi trong, bỗng có một tên lính trong bót đi ra thấy xe kéo với hai đứa nhỏ thì hỏi rằng: “Làm giống gì mà ở đây?”. Hai đứa nhỏ đứng dậy. Tên xa phu trả lời rằng: “Hai đứa em nó đi với ông già bị chú bếp bắt hồi nãy nên ngồi đây mà chờ ổng”. Tên lính nói rằng: “Vậy hay sao?” Ông Cò đã dạy giam ông già đó đặng sáng mai giải lên tòa, chờ giống gì được mà chờ. Ði đi cho mau, ở đây ông Cò ổng ra ổng thấy ổng rầy đa”.
Hai đứa nhỏ nghe nói thì chết điếng trong lòng, nên bắt rưng rưng nước mắt. Tên xa phu bèn nói rằng: “Hai đứa bây tính sao bây giờ? Bây có tiền hay không? Thôi, trả tiền xe cho tao đi, chớ bây neo xe tao hoài hay sao”. Thằng Ðược lấy làm bối rối không biết liệu thế nào. Lúc ở Bến Tre mấy thầy học đờn cho nó tiền, nó ăn không hết, lúc ấy trong lưng nó còn được tám cắc bạc, nên nó trả tiền xe thì được rồi, mà trả tiền rồi biết đi đâu, đồ đạc đem chỗ nào mà để. Nó đương lo tính trong lòng, tên xa phu lại hỏi răng: “Ở đây bây có bà con quen biết với ai hay không? Như có thì để tao chở giùm đồ lại đó rồi trả tiền luôn thể”. Thằng Ðược ngó con Liên rỏi đáp rằng: “Hại quá ở đây tôi không có quen với ai hết”.
Tên xa phu chau mày mà hỏi:
- Nếu không có quen, bây giờ ông già bị bắt rồi bây làm sao?
- Ðể tôi kiếm nhà ở đậu đặng chờ thầy tôi chớ biết làm sao bây giờ.
- Hứ! Nếu không có quen vậy chớ lại đây làm gì? Thôi, bây trả tiền xe phứt cho tao đi cho xong.
Thằng Ðược thò tay vào túi lấy ra một cắc bạc mà đưa cho tên xa phu, tên xa phu vùng vằng nói rằng: “Úy! Ðược đọt đâu nà, dưới cầu tàu keo lên tới đây rồi chờ nãy giờ gần một giờ đồng hồ, trả một cắc bạc sao được”. Thằng Ðược thấy vậy bèn lấy ra thêm một cắc bạc nữa rồi đưa mà nói rằng: “Tội nghiệp, xin chú thương giùm. Hai đứa tôi có tiền bạc gì đâu. May tôi có vài ba cắc bạc để ăn cơm đỡ. Xin chú chịu phiền lấy hai cắc bạc đây”.
Tên xa phu lấy hai cắc bạc rồi mới xách va-li với ba túi đờn mà đưa cho hai đứa nhỏ. Nó vừa kéo xe đi thăng Ðược kêu mà hỏi rằng: “Nầy chú không biết đường lại chợ đi ngõ nào đâu chú hả?”. Tên xa phu bảo đi thằng đường trước mặt đó lên đến ngã tư thì quẹo qua tay trái rồi đi riết xuống thì sẽ đụng chợ.
Thằng Ðược tay mặt xách cái va-li tay trái xách cá túi đờn kìm còn con Liên tay thì ôm đờn tranh, tay thì xách đờn cò, hai đứa dắt nhau đi theo đường tên xa phu mới chỉ đó. Hai đưa đi một khúc thì để xuống mà nghỉ tay. Con Liên mới hỏi thằng Ðược rằng:
- Thầy bị giam như vậy mà không biết có hại cho hay không?
- Không sao đâu Thầy biết tiếng Tây giỏi, đến tòa thầy nói chắc tòa tha liền chớ gì; không biết chừng thầy làm chú bếp đó bị phạt nữa chớ. Ngang quá mà! Mới làm bếp mà muốn đánh ai thì đánh.
- Tôi sợ quá anh à.
- Sợ giồng gì?
- Hồi tôi thấy chú bếp nắm áo thầy, tôi sợ run đó anh.
- Qua không sợ chút nào hết. Qua muốn nhảy vô binh thầy song qua sợ thầy rầy nên qua không dám.
- Bây giờ mình xuống chợ làm gì? Nếu mình đi đây thầy ra thầy biết mình ở đâu mà thầy kiếm. Tôi tưởng ở lối trước bót đó mà chờ thầy thì tốt hơn.
- Không được đâu. Người ta nói rằng Cò đã giam thầy đặng sáng mai giải đến tòa, thầy ra sao được mà chờ. Bây giờ mình xuống kiếm quán mua cơn ăn, rồi kiếm chỗ gởi đồ chớ xách tồn tền như vầy bất tiện lắm. Chừng gởi đồ xong rồi mình sẽ lên đó mà chờ thầy.
- Tiền đâu mình ăn cơm?
- Qua còn được sáu cắc bạc đây.
- Vậy sao? Nè, mà thầy ở trong bót chiều nay cơm đâu thầy ăn?
- Qua có tính rồi. Ðể xuống chợ qua mua bánh mì rồi đem cho thầy ăn.
Hai đứa bàn tính với nhau rồi mới xách đồ đi nữa, xuống tới chợ thì nghe đồng hồ trong tiệm rượu gõ bốn giờ. Hai đứa tìm vào một cái quán nhỏ, mua một xá xiêu sáu xu, bốn xu cơm mà ăn. Ăn uống xong rồi mới xách đồ đi kiếm mua một ổ bánh mì ba xu với một cặp lạp xưởng, mượn nướng cho chín, rồi xin giấy nhựt trình gói chung vô một gói. Hai đứa xách đồ đi qua đi lại trước chợ ba bốn lần; dòm coi thiên hạ đều lạ hết, không ai đoái hoài đến mình, nên tính xin gởi đồ ở đậu, mà không biết ai rộng lòng mà dám hỏi.
Ði nghểu nghến đến năm giờ, thình lình may gặp một người đàn bà chừng bốn mươi lăm tuổi ăn mặc tầm thường, đầu đội khăn vằn, chân không có giày guốc chi hết. Người ấy ngó con Liên một hồi rồi hỏi rằng: “Hai đứa bây ở đâu mà nãy giờ tao thấy xách đồ đi nghểu nghển hoài vậy?”. Thằng Ðược nghe hỏi thì trong lòng chẳng xiết nỗi mừng, nên lật đật thưa rằng: “Thưa thím, hai anh em tôi bên Bến Tre đi với thầy tôi, vừa đến đây hồi xế rủi gặp một chú bếp muốn kiếm chuyện hại thầy tôi, nên bắt đem về bót rồi ông Cò giam thầy tôi. Từ hồi xế đến bây giờ hai anh em tôi bơ vơ không biết chỗ nào mà nương ngụ”.
Người đàn bà ấy nghe nói như vậy liền đáp rằng: “'Té ra bây đi với ông già gây với chú bếp ngoài cầu tàu đó sao? Tao có nghe mấy anh xe kéo nói chuyện với nhau hồi nãy. Mà bây ở bên Bến Tre qua đây làm gì có bà con với ai không?”.
Thằng Ðược để va-li xuống đất rồi thưa rằng:
- Thưa, không biết thầy tôi có quen với ai không, chớ hai anh em tôi thiệt không có quen với ai bên nầy hết.
- Ủa? Nếu bây không quen, bây giờ thầy bây bị giam, bây làm sao?
- Thưa tôi muốn kiếm nhà gởi đồ và xin ngủ nhờ ít bữa, chờ thầy tôi ra rồi sẽ hay chớ biết làm sao.
Vả người đàn bà ấy góa chồng có một đứa con gái trạc chừng bằng con Liên mà cũng trắng trẻo ngộ nghĩnh như vậy, năm ngoái rủi đứa con gái đau rồi chết đí, nên từ ấy đến nay rầu buồn thương nhớ hoài. Nay gặp con Liên bỗng nhớ đến con, nên đứng nhìn nó một hổi rồi nói rằng: “Nếu hai đứa bây không có quen với ai, thôi thì vô nhà tao mà ở”.
Thằng Ðược với con Liên bèn xách đồ đi theo người đàn bà ấy. Ra khỏi chợ, quẹo qua tay mặt đi một đỗi xa xa, tới một dãy phố ngói cũ người đàn bà ấy ghé vô một căn phố, lấy chìa khóa trong túi ra mở cửa, rồi biểu hai đứa nhỏ vô. Thằng Ðược dòm coi trong nhà thì thấy ván giường xịch xạc lem luốc chẳng có vật chi quý mà trong nhà lại có trữ xoài thơm, lớp sắp trên Ván, lớp đổ dưới đất. Người đàn bà ấy thấy thằng Ðược ngó trước xem sau thì cười mà nói rằng: “Tao ở có nuột mình, không có ai hết. Tao bán đồ hàng bông ngoài chợ, hễ đi bán thì tao khóa cửa, gởi cho lối xóm họ coi chừng nhà giùm. Thôi bây ngồi đó chơi để tao đi nấu cơm ăn”.
Thằng.Ðược nói rằng nó với con Liên đã ăn cơm rồi; nó mới gởi đồ và để con Liên ở nhà, rồi nó cầm gói bánh mì lạp xưởng đem xuống bót đặng cho thầy nó ăn. Nó đi tới cửa bót, muốn vô mà không dám, nên ngồi trước đường cứ chong mất mà ngó vô hoài. Ðến chạng vạng tối có một người đàn bà ở trong bót dắt con đi ra, nó liệu chắc là vợ con lính trong bót nên chạy lại năn nỉ mượn đem bánh giùm vô cho thầy nó ăn. Người đàn bà ấy thấy thằng nhỏ ăn nói dễ thương nên xiêu lòng, mới lấy gói bánh đem vô trong bót.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Thằng Ðược trở về trong bụng mưng thầm, chắc đêm nay thầy khỏi đói. Nó mừng rồi lại nghĩ rằng không biết người ấy lãnh gói bánh rồi mà có đem đưa tới tay thầy hay không, hay là đem vô rồi đưa cho thằng con ăn thì mình mất tiền mà không ích chi cho thầy hết. Nghĩ như vậy rồi nó vùng tức cưa vì nó nói thầm rằng: “Ở đời mình chưa chắc người ta làm quấy mà mình nghi cho người ta như vậy thì là mình quấy trước”.
Nó trở về đến nhà thì chủ nhà đương ăn cơm. Nó thuật chuyện gởi bánh cho con Liên nghe rồi con nọ cứ theo hỏi nó vậy chớ thầy bị giam mà có hại chi hay không. Nó nói không hại, mà con nọ cũng cứ theo hỏi hoài. Chủ nhà ăn cơm rồi mới đóng cửa tắt đèn mà ngủ. Ðêm ấy hai đứa nó thao thức hoài ngủ không được bao nhiêu. Trời hừng sáng chủ nhà thức dậy rồi mở cửa sửa soạn gánh xoài với thơm ra chợ mà bán. Hai đứa nhỏ cũng thức dậy rửa mặt rồi dắt nhau đi lại trước cửa bót ngồi mà chờ, coi chừng ông Cò có giải thầy Ðàng qua tòa thì đi theo mà hỏi thăm.
Hai đứa nhỏ ngồi chờ đến chín giờ thấy ông Cò trong bót đi ra, kế đó thì thầy Ðàng, rồi sau rốt thì chú bếp hôm qua đó, mà chú lại ôm một cuốn sổ, chớ không có cầm roi mây nữa. Con Liên thấy thầy thì nước mắt tuôn dầm dề. Thầy Ðàng thấy hai đứa nhỏ liên hỏi rằng: “Tử hôm qua đến nay bây ở đâu?”. Thằng Ðược thưa rằng: “Thưa, con kiếm nhà họ con gởi đồ và ở đậu. Không sao đâu, thầy đừng lo”.
Ông Cò nghe nói chuyện bèn day lại rầy om sòm, thầy Ðàng cũng thả lời với ổng, song hai người nói tiếng Tây nên hai đứa nhỏ không biết nói chuyện gì. Thằng Ðược nắm tay con Liên dắt đi theo, coi ông Cò đem thầy đi đâu cho biết và có ý muốn hỏi coi hồi hôm thầy có tiếp được gói bánh mì hay không, nào dè hễ đi lại gần thì chú bếp rầy la, biểu phải đi dang ra hoài nên hỏi chuyện chi cũng không được.
Qua tới tòa, quan Biện lý chưa ra khách, ông Cò để thầy Ðàng với chú bếp ở ngoài, còn ổng vào trong bàn quan Lục sự mà nói chuyện. Thằng Ðược thấy vậy mới dắt con Liên men men đi lại gần. Thầy Ðàng có sắc buồn. Thầy kêu thằng Ðược mà nói rằng: “Ông Cò ổng buộc tội tao đánh lính, mà không hại gì, đến tòa ai phải quấy sẽ biết. Tao buồn có một điều là tao bị bắt buộc đây tao bỏ bây bơ vơ tội nghiệp mà thôi. Ðã vậy mà hôm qua lộn xộn tao làm rớt cái bóp, bây giờ trong lưng không còn một đồng tiền.
Con Liên nghe nói càng khóc hơn nữa. Thằng Ðược tuy trong lòng buồn bực khó chịu lắm, nhưng mà ngoài mặt tỉnh táo như thường. Nó nói cứng cỏi rằng: “Xin thầy đứng có lo cho hai con; con kiếm ăn được không sao đâu mà sợ, miễn thầy ra được thì thôi. Hồi hôm thầy có được ổ bánh mì với cặp lạp xưởng hay không”. Nói vừa tới đó ông Cò bước ra. Thầy Ðàng gật đầu rồi đi theo ông Cò vào phòng quan Biện lý.
Hai đứa nhỏ ở ngoài nghe trong phòng quan Biện lý nói om sòm một hồi, rồi có một tên lính hầu dắt thầy Ðàng ra. Thầy Ðàng vừa đi tới chỗ hai đứa nhỏ đứng thì nói rằng: “Quan Biện lý dạy đem tao vô khám mà giam, đặng mai mốt giải tao qua tòa cho quan Chánh Tòa xử. Thôi bây xin ở đậu mà chờ tao. Ðừng có khóc, vài bữa đây tao ra, không hại gì đâu mà sợ”.
Hai đứa nhỏ nghe nói đứng chết điếng trong lòng, cứ khóc rồi ngó theo, chớ không nói chi được hết. Cách một hồi lâu nới dắt nhau về nhà ở đậu đó. Vô đến cửa thì cửa khóa. Chúng nó dắt nhau ra chợ, mua một cắc bạc cơm với cá mà ăn, rồi trở về ngồi ngoài cửa than thở với nhau, tính tới tính lui, không biết làm sao mua cơm đem cho thầy ăn được.
Ðến trưa tan chợ, chủ nhà gánh gánh không đi về. Vô tới cửa thấy hai đứa nhỏ ngồi khóc thì chỉ hỏi thăm, chừng nghe rõ đầu đuôi rồi chỉ mới nói rằng: “Hễ tòa giam trong khám thì có cơm của nhà nước bây khỏi lo”. Hai đứa nghe nói như vậy thì bớt lo nhưng hễ nghĩ tới phận thầy mắc vòng lao lý thì giọt lụy tuôn rơi, dầu thấy việc chi vui cũng không cười, dầu ăn vật chi ngon cũng không muốn. Chị chủ nhà nấu cơn rồi dọn ra biểu hai đứa nhỏ ăn, thì chúng nó từ chối hoài không chịu ăn cứ nói ơn đùm đậu ơn đã nặng nề rồi, nếu còn làm tốn hao cho chử nhà nữa thiệt là chúng nó không dám.
Ðến 2 giờ chiều thằng Ðược biểu con Liên ở nhà để nó lên tòa dọ nghe tin tức của thầy coi thể nào. Nó đứng xẩn bẩn[4] trước tòa cho đến tan hầu mà không nghe chi hết. Nó lần trở trở về, tính dắt con Liên ra chợ ăn cơm, vì trong túi còn được ba cắc bạc, chẳng dè về nhà thì chị chủ nhà ép quá nên con Liên đã ăn cơm rồi; mà chỉ lại có để dành cơm cho nó nữa, thấy nó về chị ép riết, túng thế nó phải ăn.
Ðêm ấy thằng Ðược nằm suy nghĩ tới phận riêng thì buồn nát ruột. Khi ở nhà Ba Thời tuy bị tên Hữu hành hạ, song dầu thể nào có mẹ chở che; khi mới đi theo thầy Ðàng tưởng là thân này phải pha bụi vùi bùn, nào có dè đâu người đã đem lòng thương yêu mà lại ra công dạy dỗ nữa. Tuy đã biết Ba Thời không phải là mẹ ruột nhưng mà mẹ là ai đâu không thấy, duy thấy có một mình Ba Thời là người nuôi mình cho nên vai nên vóc; cha là đâu không biết, duy có biết thầy Ðàng là người dạy mình lẽ chánh lẽ tà; anh em không biết có hay không duy bậu bạn với con Liên đã gần bốn năm nay nên yêu thương như em ruột. Cái vòng thân ái của mình chỉ gồm có ba người mà thôi. Có khi thấy trẻ nhỏ trang lứa với mình đi chơi với cha mẹ chúng nó, thi trong lòng cũng hơi bứt rứt, thầm mong cho sum hiếp với cha mẹ đặng vui hưởng thú gia đình. Mà mẹ cha là ai đâu? Hỏi như vậy rồi mỉm cười không để ý đến nữa.
Nghĩ việc xưa rồi mới nghĩ đến việc nay: Hiện bây giờ đây trong ba người mình yêu thương, mà ba người ấy cũng yêu thương mình, một người thì ở xa, một người thì mắc cạn, duy còn một con Liên mà thôi. Mình không thế nào mà cậy nhờ người không có ở xa, cũng không thế nào mà giúp đỡ ngươi mắc cạn được, vậy thì mình phải lo mà bảo bọc cho con Liên. Trong túi bây giờ còn có ba cắc bạc, ví như nay mai đây thầy thoát nạn được thì không hại gì, chớ nếu thầy phải bị giam cầm đến mười bữa, hoặc nửa tháng, thì thân mình đây biết có cơm mà ăn hay không, còn con Liên nữa biết làm sao mà bảo bọc cho nó được.
Thằng Ðược nghĩ đến đó thì lo sợ hết sức. Nó tính đi tính lại đến gần nửa đêm mà không biết làm thế nào cho có cơm đủ hai đứa ăn đặng chờ thầy. Ngoài đường vắng vẻ trong nhà im lìm, một lát nghe trống nhà làng trở canh, rồi sau bếp chuột cạy nồi lộp cộp. Thằng Ðược ngồi dậy thấy con Liên cựa mình, nó mới nắm tay kêu thức dậy rồi nói nhỏ rằng: “Nầy em, qua tính sáng mai hai anh em mình xách đờn đến nhà mấy thầy rồi qua đờn em ca đặng cho họ nghe, hoặc may họ có cho tiền mua cơm mà ăn, chớ qua còn có ba cắc bạc, ăn chừng một vài ngày nữa hết rồi làm sao”. Con Liên gật đầu rồi đáp rằng: “Anh tính thế nào cũng được”.
Thằng Ðược thấy em chịu thì trong bụng mừng thầm, nên nằm xuống ngủ liền không còn lo sự hết tiền đói bụng nữa.

[1] mê khoái
[2] hạ sĩ
[3] quất, dùng roi đánh
[4] đi qua đi lại, cà-rà một bên
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Cay đắng mùi đời
III b
(05)
Sáng bữa sau con Liên thì xách đờn cò, còn thằng Ðược thì ôm đờn kìm, đi theo chị chủ nhà ra chợ, rồi từ giã mà lên tòa, đặng đón coi có gặp mặt thầy hay không. Hai đứa đón đến tan hầu mà không thấy, bèn dắt nhau trở về. Ði ngang một dãy phố, dòm hai căn đều chưng dọn rực rỡ, nên hai đứa nghi là chỗ mấy thầy thông ở, nên ngồi dựa dốc cây gáo mở đờn ra rồi thằng Ðược thì đờn cò, còn con Liên thì đờn kìm và ca. Lên dây vừa rồi, trẻ nhỏ vừa bu lại, con Liên vừa mới cất giọng lên mà ca bản hành vân, thình lình chú bếp phía đàng chợ đi lại, cầm roi mây rượt quất, trẻ nhỏ chạy la om sòm, con Liên với thằng Ðược thấy vậy thất kinh nên cũng lật đật ôm đờn mà chạy, mặt mày tái lét.
Hai đứa dắt nhau đi về, dọc đường con Liên nói với thằng Ðược rằng: “Không được đâu anh. Em sợ lính quá, em không dám ca nữa đâu”. Thằng Ðược ứa nước mắt, lầm lủi mà đi không nói chi hết. Về nhà thì chị chủ nhà đã về rồi, chỉ dọn cơm biểu hai đứa ăn với chỉ. Thằng Ðược bước lại khoanh tay mà thưa rằng: “Thưa thím, hai cháu đi với thầy, đến đây thầy cháu rủi bị quan bắt cầm tù, hai cháu bơ vơ, không biết đâu mà nương dựa, thím có lòng tốt cho hai cháu ở đậu, thiệt hai cháu đội ơn thím rất nhiều. Bụng cháu không muốn làm cho tốn cơm tốn gạo của thím, nên trong lưng cháu đã hết tiền rồi, cháu tính đi đờn ca cho họ nghe đặng họ cho tiền mà ăn cơm. Chẳng dè lính ở đây hung quá, mà bộ ghét hai cháu hay sao, nên cháu đờn ca họ rượt mà đánh, cháu nghĩ cùng thế rồi, không biết làm sao cho có tiền mua cơm mà ăn được. Vậy cháu phải tỏ thiệt với thím, xin thím để cháu gánh đồ cho thím đi bán, rồi thím cho hai cháu ăn cơm, tốn hao của thím bao nhiêu chừng thầy cháu ra rồi cháu sẽ xin tiền mà trả lại cho thím”.
Chị chủ nhà nghe nói động lòng, liền đáp rằng: “Hổm nay tao biểu bây ăn cơm với tao, sao không chịu, lại bày đặt đờn ca làm gì. Ở nhà ăn cơm, bây ăn hết bao nhiêu đó mà ngại”. Nói rồi mới biểu hai đứa lên ăn cơm với chỉ.
Buổi hầu nào thằng Ðược cũng lên đứng trước cứa tòa mà chờ thầy Ðàng, lại hễ sáng thì nó xin gánh xoài ra chợ cho chủ nhà; mà chủ nhà không cho. Hai đứa ở đậu được bốn bữa đến ngày thứ năm thằng Ðược cũng chực tại cứa tòa như mấy ngày trước. Nó vừa tới đó thì thấy lính dắt thầy Ðàng đi vô tòa. Nó bèn chạy theo mà hỏi rằng: “Hổm nay thầy có ăn cơm hay không vậy thầy?”. Thầy Ðàng gật đầu rồi hỏi lại rằng: “Con Liên đâu?”. Thằng Ðược đáp rằng: “Nó ở nhà”. Thầy gật đầu rồi bước vô tòa không nói chuyện chi nữa được.
Thằng Ðược đứng ngoài dòm vô một hồi thấy mấy ông tòa mặc áo rộng đen đầu đội mão cũng đen, ngồi nói với nhau. Một lát thấy chú bếp hôm nọ lên đứng thưa việc chi với tòa đó không biết rồi thầy Ðàng cũng lên đứng mà nói nữa. Thằng Ðược đứng coi gần một giờ đồng hồ xảy có hai người ở trong tòa bước ra, một người mặc đồ tây, một ngườì mặc áo dài bịt khăn đen, người mặc đồ tây nói với người kia rằng: “Ông đó bị kêu án nửa tháng tù tội nghiệp quá há? Ổng nói tiếng Tây giỏi, ổng cãi nghe sướng quá, mà cũng không khỏi. Chớ chi thằng cha bị đánh hôm đó ra làm chứng cho ổng thì chắc tòa tha, ngặt ổng binh nó mà rồi nó đi mất nên bây giờ ông còn chứng cớ chi mà đối nại.
Thằng Ðược nghe nói mấy lời nghĩ là họ nói chuyện thầy mình, nên mặt mày tái xanh, lo sợ hết sức. Nó muốn chạy theo mà hỏi thăm cho rõ ràng, song sợ đi rồi chừng thầy ra không gặp mặt thầy, nên cứ đứng ngoài dòm vô, thấy thầy ngồi trong mặt buồn xo một lát ngó ra ngoài thấy nó thì lại chau mày, bộ suy nghĩ trong trí lắm. Nó đứng vái thầm cho tòa tha thầy nó đặng thầy trò xum hiệp với nhau. Nó lại tính hễ tòa tha thầy nó rồi thi nó xin thầy nó mau mau đi đến xứ khác, chở đừng thèm ở Trà Vinh nữa.
Nó đương suy nghĩ, bỗng thấy trong tòa ngươi ta kéo nhau đi ra. Nó đứng nép một bên, họ ra hết rồi thì tới một tên lính dắt thầy Ðàng với hai ba người nữa đi sau. Thầy Ðàng thấy thằng Ðược liền lấy tay ngoắc nó biểu đi theo. Ra khỏi cửa tòa rồi thầy mới nói với nó rằng: “Thầy bị kêu án mười lăm ngày tù mà thầy tính cũng không kháng án làm gì. Vậy cháu dắt con Liên hỏi thăm đường mà lên Càng Long kiếm nhà ông Hội đồng Sáu đến mà tỏ việc của thầy cho ổng rõ rồi xin ở đậu đó mà chờ thầy. Bữa mười tám thì thầy ra, không sao đâu mà sợ”. Thằng Ðược nghe nói thì khóc muồi, nên thầy dặn nó không nhớ chi hết. Nó đi theo tới cửa khám, thấy lính dắt thầy nó vô rồi khép cánh cửa sắt lại kêu một cái ầm, không còn thấy thầy nó nữa thì nó đứt ruột nát gan, nước mắt dầm dề, đau đớn không xiết kể.
Nó thủng thẳng đi vòng theo vách tường chung quanh khám, dường như đứa dại đứa ngây. Ði đến trưa mỏi cẳng đói bụng, nó nhớ sực đến con Liên mới lần bước trở về nhà. Vừa tới cửa nó thấy con Liên đứng đó liền nói rằng: “Không xong rồi em! Thầy bị án mười lăm ngày tù”. Nó vừa nói tới đó, bỗng trong nhà có tiếng người đồng khóc nó không hiểu là ai. Chừng hỏi thăm con Liên nó nói rằng có tin cho kêu chị chủ nhà nói cha chỉ ở dưới Trà Cú đã chết rồi, thì thằng Ðược đứng sửng sốt. Nó lật đật chạy vô hỏi thăm thì chị chủ nhà cũng thuật y như lời con Liên mới nói với nó đó vậy. Thằng Ðược thầm nghĩ mình đã bị hoạn nạn mà gặp người cũng bị nữa, thì ngao ngán trong lòng, nên ngồi thở ra không nói chi được hết.
Chị chủ nhà dọn cơm ăn rồi hỏi nó vậy chớ tòa đã xử vụ thầy nó hay chưa. Nó thuật chuyện thầy nó bị nửa tháng tù cho chỉ nghe và nói ngày mười tám thầy nó mới ra được, Chị chủ nhà nói rằng bây giờ chỉ phải về Trà Cú lập tức đặng lo báo hiếu cho cha và hỏi hai đứa ờ nhà một mình có được hay không. Thằng Ðược nghĩ thầm trong bụng nếu mình ở đây lấy cơm đâu mà ăn, mà nếu biểu chị mua gạo để lại ở nhà thì phải mang ơn chỉ nhiều lắm. Huống chi chỉ trong nhà không giàu chi đó, mà lúc này chỉ lại bị tai họa như vậy, không lẽ mình còn làm tốn hao cho chỉ nữa. Nghĩ kỹ rồi nó mới thưa rằng: “Thưa thím, hổm nay hai cháu mang ơn thím rất nhiều nay thím có việc nhà lẽ thì hai cháu phải ở đây mà coi nhà giùm cho thím. Ngặt thầy cháu có dạy phải lên Càng Long mà báo tin cho anh em bạn của thầy cháu hay bởi vậy cháu sợ ở đây không tiện”.
Chị chủ nhà nói rằng: “Không, việc coi nhà không cần gì cho lắm; nhà tao không có vật chi cho đáng, như hai đứa bây mắc việc phải đi, thì tao khóa cửa gởi cho lối xóm họ coi chừng giùm cũng được”.
Ăn cơm rồi chị chủ nhà coi trong nhà có món chi tốt thì dọn đem gởi cho lối xóm, còn thằng Ðược với con Liên thì gói mấy túi đờn. Thu Xếp xong rồi mới xách gói ra đi. Chị chủ nhà khóa cửa rồi lấy ra năm cắc bạc đưa cho thằng Ðược mà nói rằng: “Ðường từ đây lên Càng Long thì xa, không biết bây đi tối có tới hay không. Vậy thì bây lấy mấy cắc bạc đây mà bỏ hờ trong lưng, đặng như kiếm nhà quen không được, thì mua cơm mà ăn đỡ ít bữa”. Thằng Ðược chối từ hoài, không dám lãnh tiền, rồi từ giã nhau ra đi.
Lối nửa chiều, gió thổi lao xao, nắng đã dịu bớt; đường Trà Vinh đi Vĩnh Long có nhiều khúc ngay bót, mà hai bên đường cây cỏ xanh tươi. Dưới ruộng thì nông phu chỗ cày chỗ gieo, còn trên đường xa xa có một người che dù mà đi, coi bộ huỡn đãi lắm.
Thằng Ðược tay xách va-lì, tay ôm cây đờn kìm, còn con Liên thì tay xách đờn cò vai vác đờn tranh chậm chậm mà đi, hễ mỏi cẳng mỏi tay thì để đồ dựa bên đưòng ngồi nói chuyên với nhau, bỗng có mót cái xe hơi chạy ngang qua bụi bay mù trời, hai đứa lật đật đứng nép bên dựa gốc cây mà tránh. Thằng Ðược thấy trên xe phía trước thì có một mình người coi máy, còn phía sau có một đưa con trai chừng chín mười tuổi ngồi mà thôi, nó mới ước phải chi xe đó họ cho mình lên ngồi nhờ thì là khỏe khoắn lắm. Hai đứa xách đồ đi nữa. Ði được một khoảng lại gặp một người ở trước mặt đi lại, thằng Ðược bèn hỏi thăm coi đã gần tới Càng Long hay chưa. Người ấy nói rằng còn chín ngàn thước nữa; nếu đi giỏi thì chạng vạng còn đi chậm thì hết nửa canh một mới tới.
Thằng Ðược nghe giựt mình bởi vi hai đứa mắc xách đồ nên đi mau không được, mà đi chậm như vậy, rủi nửa đường trời tối liệu thể nảo. Nó bèn day lại mà nói với con Liên rằng: “Hổm nay nhờ chị chủ nhà cho ăn cơm nên ba cắc bạc qua còn nguyên trong tủi đây bậy quá! Hồi trưa đi ngang chợ quên mua một ổ bánh mì đem theo, bây giờ lỡ tối giữa đường lấy gì mà ăn”. Nói như vậy rồi ngó con Liên thấy nó có sắc buồn, thằng Ðược liền nó tiếp rằng: “Qua tính như vầy em nghĩ thử coi có được hay không. Mình ráng đi tới xóm trước kia mình ghé xóm mua cơm ăn rồi kiếm nhà xin ngủ nhờ đỡ một đêm nay; sáng ngày mình sẽ đi nữa, chớ bây giờ trời đã gần tối rồi mà đường còn xa, qua sợ đi không kịp. Ðã vậy mà thầy dặn lên kiếm nhà ông Hội đồng gì đó qua quên tên rồi, qua nhớ có tiếng Càng Long với tiếng Hội đồng mà thôi, nếu lên đến đó ban đêm thì làm sao hỏi thăm được”.
Con Liên đã mỏi chơn, xách đờn đã mỏi tay mà lại đói bụng nữa, nên nghe thằng Ðược nói như vậy thì chịu liền. Hai đứa lần tới xóm, thằng Ðược thấy dựa bên đường có một cái nhà lá tuy nhỏ mà cao ráo sạch sẽ trước nhà có trồng bông trồng kiểng, sau hè có trồng chuối trồng cau, ở nhà bếp lại có khói lên ngui ngút, nó bèn ghé lại đó. Bước vô sân thì nghe trong nhà có tiếng người ca bản tứ đại cảnh.
Hai đứa vừa tới cửa, có một con chó vàng trong nhà chạy ra sủa vang rân. Hai đứa sợ chó cắn nên đứng lại, con Liên thì đứng nép sau lưng thằng Ðược. Trong nhà liền có một người đi ra, tuổi chưa đầy ba mươi mặc quần lãnh đen, áo ba ba lụa trắng, chơn đi dép Bắc, răng trắng, nước da cũng trắng, đầu bới tóc vẻn vang, hỏi hai đứa nhỏ rằng: “Hai đứa bây đi đâu?” Con chó cứ sủa hoài, người ấy phải la nó hai ba tiếng nó mới chịu chạy vô. Thằng Ðược hết sợ chó nữa mới để va-li với túi đồ xuống đất rồi vòng tay mà thưa rằng: “Thưa cậu em chẳng giấu chi cậu, em đi với thầy em, rủi thầy em có việc ở dưới Trà Vinh nên sai hai em lên Càng Long. Em tới đây trời gần tôi rồi, mà nghe nói đường còn xa lắm nên em ghé đây xin cậu làm phước như ăn cơm còn dư cho em nài đỡ một cắc đặng hai đứa em ăn đỡ dạ, và cho em ngủ nhờ một đêm rồi khuya em đi”.
- Bây nói bây đi với thầy mà thầy nào đó?
- Thưa thầy Ðàng.
- Thầy Ðấng nào ở đâu ?
- Thưa, thầy Ðàng ở Cần Ðước.
- Thầy Ðàng đờn hay lắm phải không?
- Thưa phải.
- Tao nghe cậu Ba nói ở Cần Ðước có thầy Ðàng đờn tươi lắm Mà bây giờ thầy ở đâu, mà sai bây đi đây.
- Thưa, thầy tồi bị ở tù dưới Trà Vinh
- Vậy sao? Tội nghiệp dữ hôn! Thôi vô đây.
Thằng Ðược với con Liên xách đồ vô nhà. Người ấy kêu vợ nấu cơm nhiều nhiều một chút đặng cho hai đứa nó ăn với. Thằng Ðược dòm trên vách thấy có treo đờn cò đờn kìm, đờn tam, đờn gáo, còn trên bộ ván phía đàng chái lại có để một cây đờn tranh. Nó mới đem va-li với mấy túi đờn mà để dựa vách. Chủ nhà thấy xách đồ đùm đề bèn hỏi coi xách mấy túi gì đó. Thằng Ðược nói là túi đờn. Người ấy nghe nói chưng hửng rồi hỏi rằng: “Em biết đờn hay không?” Thằng Ðược chúm chím cười rồi nói nó với con Liên đều biết đờn cả hai.
Chủ nhà bộ mừng quá, lật đật biểu hai đứa lên ván mà ngồi, hỏi đứa nào đờn cây nào, rồi mới lấy cây kìm đưa cho thằng Ðược, lấy cây tranh đưa cho con Liên, còn anh ta chì cầm cây cò mà nói rằng: “Qua biết đờn mà xóm này không ai biết, nên không hòa chơi với ai được hết. May gặp hai em, thôi đờn ít bản chơi rồi sẽ ăn cơm”.
Ba người đờn bốn bản bắc rồi mới sang qua dây oán. Thằng Ðược biểu con Liên vừa đờn vừa ca, chủ nhà đắc ý vô cùng, mà người vợ ở sau bếp có lẽ cũng vui hay sao nên lên đứng mà nghe rất lâu. Ðờn đến cơm dọn ra rồi mới chịu nghỉ mà ăn. Ăn cơm rồi nói chuyện chơi đến đốt đèn rồi ráp lại đờn nữa. Trong xóm người lớn trẻ nhỏ tựu tới nghe đông nức. Ðờn đến hết canh một con Liên buồn ngủ quá mới chịu dẹp mà đi ngủ.
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 

Postby lazyboy » 15 Mar 2007

Rạng ngày hai đứa thức dậy tính đi cho sớm. Chủ nhà cầm lại hoài biểu để ăn cơm rồi sẽ đi. Chừng hai đứa ra đi chủ nhà mới hỏi rằng:
- Hai em lên Càng Long mà lên nhà ai ?
- Thưa, thầy em biểu lên nhà ông Hội đồng mà em quên tên nên không biết Hội đồng nào
- Ở Càng Long có một mình Hội Ðồng Sáu, chớ có Hội đồng nào nữa đâu.
- Thưa, phải rồi Hội đồng Sáu. Vậy mà hổm nay em quên chớ.
- Thôi hai em đi đi, bận về ghé đây chơi nghe hôn.
- Dạ.
Hai đứa đi đỏ mặt trời đứng bóng mới tới Càng Long. Chúng nó hỏi thăm nhà Hội đồng Sáu mà vào thì thấy nhà cửa nguy nga, vựa lúa rất to bạn bè đông đảo. Thằng Ðược bước vô thấy thằng nhỏ ngồi xe hơi hôm qua đương đứng chơi trước cửa thì chưng hửng. Nó để con Liên ở ngoài, nó vô tỏ hết đầu đuôi chuyện thầy Ðàng bị tai nạn cho ông Hội đồng nghe, thì ổng chẳng có chút chi buồn mà lại buông lời nói rằng: “Thầy cứ làm bậy hoài. Thầy ở tù thì ở, chớ tao biết sao bây giờ”.
Thằng Ðược đi dọc đường thầm tưởng ông Hội đồng là anh em bạn với thầy mình lên nói cho ổng hay chắc ổng xuống Trà Vinh mà lo cho thầy mình khỏi tội, mà nếu ổng lo không được thì ít nữa ổng cũng nuôi mình và cũng đi thăm thầy chớ chẳng không, nào dè cực nhọc em đến đây mà cho ổng hay, rồi ổng nói xuôi xị như vậy thì còn trông cậy gì nữa. Thằng Ðược buồn ý muốn dắt con Liên mà đi, song nó nghĩ nếu mình đi bây giờ biết đi đâu, nên cực chẳng đã nó phải ơ nán lại coi ổng tính lẽ nào.
Hai đứa để đồ ngoài hàng tư rồi xẩn bẩn trước sân mà chơi. Ðến chiều trong nhà dọn cơm ăn, mà không thấy ai ra biểu ăn cơm.
Lúc chạng vạng tối có một người đàn bà đầu bịt khăn trùm, áo xăn ngang lưng cầm chổi ra quét sân thấy hai đứa liền nói lớn lên rằng: “Cơ khổ dữ hôn, hai đứa nhỏ hồi trưa đến bây giờ còn đây mà bầy trẻ ăn cơm không kêu nó ăn với chớ! Vậy đây em, đi vô ăn cơm với bầy trẻ kia kìa”.
Thằng Ðược không muốn ăn chút nào, ngặt nó sợ con Liên đói nên cực chẳng đã phải đi ăn. Vô nhà bếp thấy năm sáu tên bạn đương ngồi ăn cơm. Ngươi đàn bà lấy chén đũa đưa cho hai đứa rồi biểu lên ngồi mà ăn. Ăn cơn rồi người ấy lại biểu xách đồ đem để trên ván nhà sau rồi vô đó nằm mà ngủ.
Hai đứa nằm coi bạn bè giã gạo, ngoài sân mưa gió ồ ào. Trên nhà trên đèn đốt sáng trưng hai vợ chồng ông Hội đồng giỡn với thằng con cười ngả nghiêng ngả ngửa. Thằng Ðược bị trời lạnh ngủ không được, nằm suy nghĩ cuộc đời mà chua xót trong lòng. Thiệt nó chẳng phiền trách ông Hội đồng, song chẳng biết vì cớ nào trong lòng nó buồn mà lại giận lắm.
Ðến sáng nó kêu con Liên thức dậy rồi biểu nhỏ biểu sửa soạn mà đi. Con Liên gật đầu rồi kiểm đồ đạc. Thằng Ðược nghe tiếng ông Hội đồng nói om sòm trên nhà trên nó mới lên thưa với ổng mà đi. Ổng ừ lặng thinh, chớ không thèm hỏi đi đâu nữa. Hai đứa ra ngoài đường rồi con Liên mới hỏi thằng Ðược rằng:
- Mình đi đâu bây giờ anh?
- Ði đâu cũng được, miễn là đi cho khỏi cái nhà nầy thì thôi.
- Ừ em cũng không muốn ở đó nữa!
Hai đứa ra đến ngã ba, đứng nhắm biết đường đi xuống là đường Trà Vinh, còn đi lên thì không biết đi đâu. May lúc ấy có một người đi ngang qua. Thằng Ðược hỏi thăm thì họ nói đường đi lên đó là đương đi Vũng Liêm, Vĩnh Long. Nó bèn bàn tính với con Liên rồi dắt nhau đi lên Vũng Liêm.
Trót bảy tám ngày hai đứa nó xách đồ mà đi lưu linh nay đờn nhà này, mai ca nhà nọ, chỗ cho ăn cơn, chỗ cho ngủ đậu, người cho bánh trái, kẻ cho đôi quang, hai đứa nó đắp đỗi qua ngày, tuy là thân mệt nhọc cực khổ nhưng mà khỏi bị khinh khi nhục nhã. Chúng nó ở chợ vũng Liêm lần lên Nước Xoáy.
Lên tới kinh Mang Thít là ngày rằm Việt Nam. Thằng Ðược nhớ sực lời thầy bữa mười tám thầy ra, nên tính sẽ trở vễ TràVinh mà đón thầy. Lúc ấy trong lưng nó có được hơn hai đồng bạc, vì nó đờn ca ai cho tiền thì nó nua bánh chút đỉnh cho con Liên ăn mà thôi chớ nó không dám xài. Trời vừa xế qua, hai đứa đi tới mé kinh Mang Thít, thấy có một nhà bốn phía không có vách mà chính giữa lại có lót một bộ ván dầu. Chúng nó đem đồ vô đó rồi lên ván nằm mà nghỉ chơn.
Trời gió hiu hiu, nước dưới kinh chảy cuồn cuộn. Ngó qua mé kinh bên kia thấy có một chiếc ghe hầu bốn chèo, mui sơn xanh, đương đậu tại đó, bạn lụi hụi đứa tát nước, đứa nấu cơm. Một lát có một chiếc tàu dắt một đoàn ghe chài đến gần hai mươi chiếc, chạy ngang thổi xúp-lê nghe inh ỏi. Thằng Ðược hứng chí biểu con Liên mở đờn tranh ra còn nó lầy đờn kìm rồi hai đứa đờn ca chơi. Ghe đi ngang qua ai nghe cũng đều ngơ chèo mà ngó.
Hai đứa đờn được vài bản thì thấy chiếc ghe hầu nhổ sào chèo qua rồi đậu ngay cái nhà trống chỗ hai đứa nó ngồi đó. Thằng Ðược vừa đờn vừa ngó chừng chiếc ghe hầu thấy bốn tên bạn đứa đứng, đứa ngồi, mà đứa nào cũng chăm chỉ mà nghe đờn, còn trong mui thì có một người đàn bà, trạc chừng bốn mươi lăm tuổi mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, ngồi với một đứa con trai chừng mười tuổi, cũng mặc áo quần trắng, ôm mền ngồi, mặt mày buồn hiu. Hai đứa đờn ca một hồi rồi buông đờn nằm mà nghỉ. Người đàn bà ở dưới ghe hầu kêu tên bạn ngồi trước mũi mà dạy việc chi đó nghe không rõ, mà thấy tên bạn ấy lật đật lẩy tấm đòn dày[1] bắc lên mé kinh rồi leo lên bờ. Hai đứa không hiểu có việc chi nên lồm cồm ngồi dậy, kế tên bạn bước vào mà nói rằng: “Nầy, hai em, bà Hội đồng nghe hai em đờn hay nên biểu qua lên nói với hai em đi xuống ghe đờn cho bà với cậu Ba nghe chơi một hồi rồi bà cho tiền ăn bánh, Thằng Ðược nghe nói liền cười chúm chím mà đáp rằng: “Ðược chớ! Mà bà Hội đồng nào đâu đó vậy anh?”. Tên bạn nói: “Bà Hội đồng này ở bên Cần Thơ đem con đi uống thuốc trên Sài Gòn”. Thằng Ðược với con Liên xách đàn rồi đi theo tên bạn mà xuống ghe. Bà Hội đồng thấy hai đứa lần tấm đòn dày mà đi xuống, thì bồng con ngồi sụt vô trong, rồi kêu mà biểu hai đứa nó đem đờn bước ngay vô mui. Bà ngồi ngó hai đứa trân trân, còn thằng con bà thấy hai đứa lên dây đờn sửa soạn mà đờn thì trong lòng hớn hở ngoài mặt vui mừng, chớ không còn buồn xo như hồi nãy nữa. Hai đứa ngồi đờn, con Liên ca một hồi mệt rồi thằng Ðược tiếp mà ca. Bà Hội đồng ngồi nghe rất vui vẻ trong lòng mà nhứt là thằng con bà cười hoài, dường như thuở nay mới nghe đờn lấn thứ nhứt vậy.
Hai đứa đờn ca hơn nửa giờ đồng hồ, bà Hội đồng sợ nó mệt nên biểu nghỉ, rồi mở một cái tủ nhỏ, lấy ra một hộp bánh biểu hai đứa ăn. Con Liên mắc cỡ không chịu ăn. Thằng con bà Hội đồng nãy giờ nằm đắp mền mà nghe đờn, thấy hai đứa không chịu ăn bánh liền tốc mền ngồi dậy, lấy bánh đưa tới tay con Liên với thằng Ðược mà ép ăn. Hai đứa cực chẳng đã phải ăn, rồi thằng nhỏ cũng lấy mà ăn nữa. Ba đứa ăn bánh nói chuyện chơi với nhau coi vui vẻ lắm. Bà Hội đông thấy con vui thì cũng vui trong lòng, mà lại thấy hai đứa kia ngộ nghĩnh, bà cũng động lòng thương nữa. Bà hỏi thăm coi hai đứa con ai, nhà cửa ở đâu. Thằng Ðược nói rằng nó gốc ở Gò Công, còn con Liên thì ở Bà Ria, hai đứa đi theo thầy qua Trà Vinh, rủi thầy bị quan bỏ tù nên hai đứa phải đi đờn kiếm ăn mà chờ thầy.
Bà Hội đồng nghe nó thì chưng hửng mà nói rằng:
- Vậy mà qua tưởng hai cháu nhà ở gần đâu lối đây chớ. Té ra hai cháu không phải anh em ruột hay sao?
Thằng Ðược trả lời rằng:
- Thưa không.
- Bây giờ hai cháu tính đi đâu?
- Thưa, con tính dắt nhau trở xuống Trà Vinh đặng đón thầy con, vì còn có ba ngày nữa thầy con mãn tù.
- Tội nghiệp quá? Mới bây lớn mà lưu lạc bơ vơ như vầy chớ!
Thằng con bà Hội đồng day qua ôm bà mà nói rằng:
- Má biểu dọn cơm cho anh và chị đó ăn với con má.
Bà hun con và cười, rồi hối bạn nấu cơm riết đặng ăn rồi đi cho kịp con nước.
Cơm dọn ra cá thịt canh rau một mâm vĩ vèo, hai đứa thấy vậy lật đật xếp đờn rồi nói nhỏ nhau tính từ giã mà đi xuống vũng Liêm cho sớm. Bà Hội đồng biết nên cười mà nói rằng: “Khoan đã, để ăn cơm no rồi sẽ lên”. Hai mẹ con ép riết, túng thế hai đứa phải ăn. Ăn cơm rồi, trời đã xế chiều, nước rúng ròng mấy tên bạn sửa soạn chèo đặng lui ghe. Thằng Ðược với con Liên giợm muốn lên bờ, bà Hội đồng liền móc túi mà cho hai đứa một đồng bạc.
Hai đứa tạ ơn rồi xách đờn đứng dậy bước ra. Thằng con bà Hội đồng ngó thấy liền khóc rống lên. Hai đứa đứng khựng lại đó không hiểu tại sao mà nó khóc, còn bà Hội đồng lật đật ôm con mà hỏi: “Sao vậy con, con có đau bụng hay không?”. Thằng nhỏ vừa khóc vừa nói rằng: “Tôi hỏng chịu! Má làm sao biểu anh với chị đó ở lại dưới ghe mà đờn ca chơi với con, Má để hai người đó đi lên đây tôi đau nữa đa”. Bà Hội đồng lắc đầu mà nói rằng: “Biểu sao được, con?” Thằng nhỏ vùng ré lên mà khóc nữa, Bà Hội đồng thấy vậy mới biểu: “Thôi con nín đi, để má biểu nó đi theo dưới chơi với con”.
Thằng nhỏ nghe nói thì nín khóc. Bà Hợi đồng mới kêu thằng Ðược vô mui rồi biểu hai đứa nó đi theo bà đặng chơi với con bà muốn bạc tiền bao nhiêu bà cũng cho hết. Thằng Ðược cứ lắc đầu hoài nó nói rằng ngày mười tám thầy nó mãn tù nên nó phải trở xuống Tra Vinh mà kiếm thầy. Bà Hội đồng suy nghĩ một hồi rồi tính với thằng Ðược để bà viết thơ cho thầy thông Sự ở Trà Vinh mà cậy thầy nói lại giùm với thầy Ðàng hay sự hai đứa nó đi theo bà qua Mỹ Tho và dặn hễ ngày thầy Ðàng mãn tù thì trao cho thầy mười đồng bạc đặng làm phí lộ qua Mỹ Tho lại đầu cầu quây mà kiếm ghe bà. Thằng Ðược thấy bà Hội đồng tử tế mà nhứt là thấy con bà trìu mến thì động lòng, nên nghe tính như vậy thì nó chịu, song nó xin để cho nó viết riêng cho thầy nó một bức thơ nữa kẻo thầy nó nghi. Bà Hội đồng lấy làm vui lòng nên lật đật lấy giấy viết ra mà viết một bức thơ nói cặn kẽ cho thầy thông Sự rõ, rồi bà trao giấy viết cho thằng Ðược viết riêng một bức thơ cho thầy Ðàng nữa mà xin thầy hễ mãn tù thì lại nhà thầy thông Sự lấy tiền rồi qua Mỹ Tho mà kiếm mình.
Thơ viết xong rồi bà Hội đồng niêm lại và sai một tên bạn cầm xuống nhà dây thép Vũng Liêm mua cò[2] mà gởi. Tên bạn vừa ra đi bà lại nghĩ rằng bây giờ trời đã chiều rồi, mà từ đó xuống Vũng Liêm thì xa đường, sợ đến đó nhà dây thép đóng cửa rồi mua cò không được. Bà mới tính với thằng Ðược để lui ghe mà đi kịp nước rồi sáng ngày sau qua Chợ Lách sẽ bỏ thơ chẳng muộn gì.
Thằng Ðược con Liên nghe lời mới đem đờn và va-li vô trong mui đặng trống chỗ cho bạn đứng chèo, rồi hai đứa đứng ké né ở ngoài chớ không dám vô. Bà Hội đồng trải chiều thêm phía sau cho rộng, rồi biểu hai đứa vô mà nằm. Ghe lui thì thằng con bà Hội đồng vui vẻ hết sức, cứ biểu thằng Ðược nằm một bên nó mà thôi. Ðến tối thằng Ðược đờn con Liên ca, nội dưới ghe từ chủ cho tới bạn ai cũng đều thích ý.
Ghe đi đến Rạch Gầm bà Hội đồng mắc ghé thăm bà con ở đó hết một ngày một đêm, nên chiều ngày mười tám bạn chèo vô đầu cầu quây mà đậu. Mấy bữa ở dưới ghe, bà thấy hai đứa nhỏ mặt mày ngộ nghĩnh mà ăn nói lại có khuôn phép thì bà đem lòng thương, mà nhứt là bà thấy thằng con bà trìu mến hai đứa đó lắm, mấy bữa rồi nó vui cười hoài chớ không phải nằm buồn xo như lúc trước nữa, thì bà tính đợi thầy Ðàng qua tới bà sẽ nói với thầy mà xin đứt hai đứa nó đặng mà nuôi. Bà hỏi thằng Ðược thì nó nói nó mười bốn tuổi, còn con Liên mười ba tuổi. Bà ngồi suy nghĩ rồi bà rưng rưng nước mắt, day mặt ra phía sau không muốn nói chuyện nữa. Cách một hồi bà liền day lại ôm con mà hun chùn chụt, thằng Ðược với con Liên ngồi ngó nhau không hiểu ý bà thế nào. Bà hỏi hai đứa nó chịu làm con nuôi bà hay không thì chúng nó cúi đầu lặng thinh không trả lời.
Ðến chiều ngày mười chín thầy Ðàng qua tới Mỹ Tho. Thằng Ðược đương ngồi chơi trước mũi ghe, ngó thấy thầy đi trên bờ thì mừng rỡ hết sức liền đứng dậy kêu om sòm. Con Liên ở trong mui cũng lật đật bò ra mà mừng thầy. Thầy Ðàng vừa xuống tới mé sông thì bà Hội đồng biểu bạn ra bắc tấm đòn dày rồi mời thầy đi xuống ghe cho bà nói chuyện.
Thầy Ðàng vữa bước tới mũi ghe thì có thằng Ðược đứng chực sẵn tại đó; nó đưa tay cho thầy vịn mà xuống. Nó liếc xem thấy thầy nó mình gầy vóc ốm mà nước da lại huỳnh đàn thì trong lòng nó buồn thầm. Bà Hội đồng chào hỏi, mời vô trong mui mà ngồi, hối bạn rót nước đãi thầy rồi mới nói rằng: “Thưa thầy, tôi làm thất công thầy phải qua đến đây mà kiếm hai đứa nhỏ, tôi nghĩ lại thiệt tôi lỗi với thầy nhiều lắm. Nhưng mà không phải tôi có ý muốn làm nhọc lòng thầy, ấy là tại có việc như vầy xin thầy chịu phiền để tôi thuật lại cho thầy nghe, tôi là người ở Cần Thơ, khi trước tôi có một đứa con trai đầu lòng, vợ chồng tôi tưng tiu như vàng như ngọc. Thời chẳng may nên trời khiến đứa con lớn của tôi nó mất đi. Cách bốn năm sau tôi mới đẻ được một đứa con trai nữa là thằng Phong nầy đây”
Bà Hội đồng nói tới đó thì lấy tay vuốt đầu con; thầy Ðàng mang cặp mắt kiếng vô rồi ngó thằng nhỏ. Bà Hội đồng nói tiếp rằng: “Vì chồng tôi có bịnh ho, nên đẻ nó ra thì nó yếu ớt lắm. Tôi ráng nuôi nó hết sức nó mới mạnh giỏi tới bây giờ đây. Khi nó được ba tuổi rồi, thì chồng tôi đã mãn phần, bỏ nó lại cho một mình tôi nuôi. Tôi không kể chi đến gia tài sự sản, lúa ruộng tá diễn nó đong được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, tôi không có giờ mà coi sóc được, cứ lo nuôi con, miễn con tôi nó mạnh giỏi thì thôi, giàu nghèo thì tôi cũng không màng. Chẳng biết tại sao mà thằng con tôi nó đau ốm hoài. Mới đây tôi nghe nói trên Sài Gòn có một ông danh y chữa bịnh như thần, nên tôi dọn ghe đem con tôi lên cầu ổng xem mạch rồi điều trị thử coi như phước chủ may thầy nó có ăn chơi như con người ta được thì dầu tốn bao nhiêu tôi cũng chẳng nệ. Ghe tôi qua tới kinh Mang Thít may gặp hai đứa cháu đây, tôi mới biểu nó thuật chuyện nó lưu lạc linh đinh thì tôi động lòng thương, mà thằng con tôi nó lại trìu
mến không chịu để cho hai đứa đi, khóc lóc biểu một hai tôi phải đem hai đứa đi theo ghe với nó, nó mớI chịu. Tại như vậy nên tôi mới viết thơ cậy thầy thông Sự cho thầy hay và thằng Ðược mới viết cho thầy nữa”.
Thầy Ðàng nghe nói tới đó thì gật đầu mà đáp: “Thưa phải, bữa mười bảy tôi có tiếp được thơ của thằng Ðược, rồi chiều lại thầy thông Sự có sai bếp hầu nói chuyện ấy với tôi nữa. Hồi chiều hôm qua quan thả tôi ra tôi ghé ngủ tại nhà thầy một đêm, rồi sáng thầy đưa cho tôi mười đồng bạc để làm phí lộ mà đi xuống đây”.
Bà Hội đồng chúm chím rồi cười nói rằng:
- Hôm nọ tôi gấp đi nên tính bướng như vậy, té ra cũng là xong... Thưa thầy còn chuyện nầy nữa, hổm nay tôi tính hễ gặp thầy tôi tỏ thiệt với thầy xem thầy có bằng lòng hay không.
- Thưa, có chuyện chi?
- Tôi thấy hai đứa nhỏ tôi thương, mà thằng con tôi nó trìu mến không chịu rời, vậy nên hổm nay tôi tính đợi thầy đặng xin thầy cho đứt hai đứa nầy cho tôi nuôi, trước là hai đứa nó được sung sướng tấm thân, sau nữa con tôi có đứa bậu bạn cho nó vui lòng, hoặc may ra nó hết bịnh hoạn nữa. Chẳng giấu chi nhà tôi giàu lớn, mà còn có một đứa con nầy mà thôi. Nếu thầy cho tôi hai đứa cháu đây thì tôi sẽ sắm ăn sắm mặc cho chúng nó ấm no, rồi chừng lớn khôn tôi sẽ định đôi bạn, cho bạc tiền, đặng chúng nó lập thân, khỏi nghèo nàn cực khổ.
Thầy Ðàng ngồi ngó xuống mà suy nghĩ giây lâu rồi mới ngước lên mà nói rằng:
- Thưa bà, không được. Bà mới gặp hai đứa nó có mấy ngày rày mà bà đã đem lòng thương chúng nó, còn tôi nuôi chúng nó hơn bốn năm nay, đã gia công mà dạy dỗ mọi điều, hủ hỉ với nhau khi nắng mưa ấm lạnh, há tôi lại không thương chúng nó hay sao? Mà tôi nghĩ bà nuôi chúng nó mà làm gì? Xin lỗi cùng bà, để tôi nói cạn lời cho bà nghe. Bà là một người đàn bà góa chồng, bà có nhà tốt, bà có ruộng nhiều, bây giờ bà xin chúng nó đem về bà nuôi thì bất quá bà xin chúng nó mặc quần áo nhổn nha, ăn mâm cao đầy, chừng chúng nó lớn khôn bà dựng vợ gả chồng, bà cất nhà ngói cho chúng nó ở, chia ruộng tốt cho chúng nó đứng bộ ví dầu bà có thương lắm thì bà làm cho chúng nó ngày sau trở nên hai người giàu lớn mà thôi chớ làm sao mà biết dạy dỗ cho chúng nó biết đạo làm người. Phận tôi tuy nghèo, nhưng mà tôi quyết nuôi hai đứa nó đặng dạy cho chúng nó biết trọng nhơn nghĩa, biết khinh tiền tài, biết đường phải mà đi, biết nẻo quấy mà tránh, nhứt là làm cho chúng nó nếm cho đủ đắng cay mùi đời, đặng khi chúng nó lớn khôn dầu nghèo cũng không buồn lòng, mà giàu cũng không kiêu hãnh. Vậy xin bà đừng có nài nỉ mà làm gì, để tôi nuôi chúng nó, vì tôi nuôi thì có ích cho chúng nó hơn là bà nuôi.
Thằng Phong thấy thầy Ðàng không chịu cho thằng Ðược và con Liên thì nó nằm xuống mặt mày buồn nghiến. Bà Hội đồng theo năn nỉ hoài, bà lại nói xa nói gần cho thầy biết rằng nếu thầy muốn đòi tiền bao nhiêu bà cũng sẵn lòng trả cho thầy hết, Thầy Ðàng nghe nói tới việc tiền bạc thì thầy châu mày rồi nói rằng: “Bà tưởng tôi dục dặc đặng đòi tiền bà hay sao? Thưa bà, nếu bà nghĩ như vậy thì tội nghiệp cho tôi lắm. Không, tôi không phải là người xảo trá đâu, xin bà chớ tưởng như vậy mà lầm”.
Bà Hội đồng ngồi lặng thinh không nói chi nữa được. Thầy Ðàng cũng ngồi ngó lên bờ mà suy nghĩ một hồi rồi day lại nói rằng: “Thưa bà, vì tôi nuôi hai đứa nó đã ba bốn năm nay, mà tôi lại có công dạy dỗ chúng nó nhiều, nên tôi trìu mến yêu thương, không đành giao chúng nó lại cho bà được. Tôi mà giành chúng nó đây, là vì tôi muốn dạy thêm chúng nó cho biết rõ thế thái nhơn tình, muốn cho chúng nó nếm đủ mùi đời chua cay mặn lạt mà thôi, chớ tôi chẳng có ý nào khác. Nhưng mà tôi nghĩ lại thằng Ðược nó là con trai tôi nuôi nó đặng dạy dỗ nó thì phải rồi, chớ còn con Liên nó là con gái, tôi khó mà dạy dỗ nó theo ý tôi muốn được. Vậy thôi để tôi cho bà con Liên cho bà nuôi đặng bà dạy dỗ giùm cho nó có đức hạnh, biết nữ công còn thằng Ðược xin bà để cho nó theo tôi đặng tôi dạy nó biết nam nhi khí phách”.
Thầy Ðàng nói dứt lời liền biểu thằng Ðược lấy va-li đưa cho thầy, rồi thầy mở ra lựa quần áo của con Liên thầy bỏ ra ngoài và để lại cho nó một cây đờn tranh, còn bao nhiêu thì thấy gói lại rồi biểu thằng Ðược xách mà đi với thầy. Thằng Ðược thấy mình phải phân cách con Liên thì trong lòng chẳng vui, mà chừng day qua thấy thằng Phong nằm khóc thì lại càng buồn hơn nữa, nên nước mắt tuôn dầm dề. Bà Hội đồng thấy vậy càng động lòng thương, song bà gượng gạo lấy ra năm chục đồng bạc đưa cho thầy Ðàng và xin thầy đem theo mà làm phí lộ. Thầy Ðàng từ chối hoài không chịu lấy bạc ấy, thầy nói thầy để con Liên ở lại ấy là thầy cậy bà nuôi dưỡng, dạy giỗ giùm, chớ không phải thầy bán mà lấy bạc.
Bà Hội đồng nài nỉ hoài, nói rằng: năm chục đồng bạc nầy là bạc bà cho thằng Ðược không chịu lãnh thì bà ái ngại trong lòng, bà không dám lãnh con Liên mà nuôi dưỡng. Bà nói hết lời thầy thấy vậy mới lấy năm đồng bạc cho bà hết hiềm nghi mà thôi. Thầy Ðàng đứng dậy tử giã bà Hội đồng mà lên bờ và khuyên con Liên hãy ở lại cho bà dạy dỗ, thì ba đứa nhỏ đều khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Bà Hội đồng thấy tình cảnh như vậy, giọt lụy cũng khó cầm còn thầy Ðàng tuy bề ngoài chẳng tỏ dấu buồn, song bề trong thầy cũng đau lòng xót dạ.

[1] miếng ván dày dùng làm cầu để đi lên xuống ghe
[2] tem thơ
lazyboy
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $2,394
Posts: 283
Joined: 08 Aug 2005
 
 


Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 61 guests