Góc VĂN * Tìnhhoàihương * Những Câu Chuyện Tình

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

4* Đồi Tà Biên

Postby Ái Ưu Du » 17 Apr 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 4

Đồi TÀ BIÊN


Lúc gần năm giờ sáng, đoàn xe của phòng 5, có hai chiếc xe GMC, và một chiếc xe jeep, bon bon trực chỉ về hướng Quảng Ngãi. Dọc hai bờ quốc lộ, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt. Lá tre reo vui ca hát trong nắng sớm. Hàng tre lớp lớp nghiêng bóng sà xuống soi mình trên mặt nước ven sông.
Càng thúc giục lòng Trúc dạt dào niềm vui và nôn nóng xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm.
Xe lên hướng đồi Tà Biên gần huyện Minh Long nằm bên phía phải, nhìn từ xa đồi Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng. Con đường đất đỏ độc nhất ngoằn ngoèo nổi bật trên lưng đồi quanh co, như sợi gân xù xì dày cộm nhô cao, chia cả ngọn đồi ra làm hai phần.
Sau cơn mưa chiều hôm trước, con đường cái đã vạch hẳn ra hai lằn bánh xe in lún sâu xuống mặt đất nâu xám. Lổm chổm những mảng da đất khô ghồ ghề cạ quẹt trên lườn xe. Trông từ xa, lưng đồi kinh dị như những cục máu bầm, nức nẻ sau vết thương lở loét.
Dưới chân ngọn đồi, nhiều bãi cỏ hôi và bụi hoa mắc cỡ chằn chịt gai mọc lúp xúp, chung quanh là công sự phòng thủ có giao thông hào chu đáo. Hai cánh cửa cổng bằng gỗ khá lớn, sợi dây xích dài và to móc từ bên trạm gát ở phía vào, giăng qua tít bên trạm gát ở phía ra.
Sau sợi dây xích lại có thêm một vòng chắn bố phòng cẩn mât, là những con bọ ngựa gỗ. Nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn, lòng thòng những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại.
Tại cổng gát có hai anh lính đứng lúi húi làm việc trong trạm, và hai anh khác bồng súng gát bên ngoài cổng trạm. Trạm gát có hệ thống đường dây phone chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã chiến reo roóc roóc hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay liên tục trên máy truyền tin kêu tít tít tít, tè tè tè… hữu hiệu và nhanh chóng.
Đoàn xe của phòng 5 tạm ngừng bên hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên từng bậc thang lắt lẻo chênh vênh. Đoàn xe đậu lại gần vạt đất trống, chờ xin lệnh từ Bộ Tổng Chỉ Huy hành quân - Sư Đoàn 2, cho phép xe chở người vào khu phi quân sự.
Sau khi hai anh lính tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc xe đậu bên lề đường, trong đó có đoàn xe của phòng 5 (gồm ba chiếc) được phép vào vùng cấm địa khá rộng. Con đường nhỏ độc nhất chạy một chiều tấp nập đủ thứ loại xe chạy lên, chạy xuống ì ầm. Đường gò đất đỏ cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống, như con lươn đất uốn lượn nhô lên, giống đúc con đường cái dưới làng.
Dọc theo bốn phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng ba bốn hecta, có rào kẽm gai chằn chịt, và những giao thông hào cao lút đầu người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bằng bê tông chắn ghi sắt dày và to. Chung quanh gian hầm bao bọc thêm nhiều hàng bao cát, dường như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống đất sâu, chỉ nhô lên khỏi mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía.
Bên mé phải là nơi đặt bộ chỉ huy hành quân. Xạ trường của bộ chỉ huy hành quân nhìn xuống, là một vạt đồng trống, nên dễ nhìn thấy mọi thứ dưới xa. Trên ngọn đồi dựng đứng cao sừng sững, tứ phía làng mạc, là một vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và bố trí điều quân, thì không thể nào chê.
Bên mé trái ngọn đồi có cả bệnh viện dã chiến nằm lún vào lòng đất ở lưng chừng đồi. Gần bộ tổng hành dinh là một giàn trọng pháo, khi thì mấy anh lính đang nâng nòng súng lên, khi thì hạ nòng đại liên xuống. Có kho bom xăng, bom nổ, và bãi phi cơ dã chiến tốc hành. Có cả khu máy phát điện khổng lồ chạy ầm ỉ suốt ngày, đêm.
Những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo mùi mỡ khét, thịt cháy, bốc lên hừng hực, từ đám khói đen nghịt xa xa ùa theo gió ào ạt bay về. Khiến Trúc muốn lộn mửa.
Loạt đại bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, giận dữ gào thét ùm ùm uỳnh uỵch, trút cả khối hung tàn đến khu rừng già tận phía chân trời xa.
Nhiều loại súng ì oành ì ầm, pằng pằng pằng rít rít xiu xít trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn hầm chắn ghi sắt, cửa hầm phủ bạc, tủ sắt giật rung kêu ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, cả khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép của tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang, có lẽ do bị bắn trực xạ dữ dội và gần lắm. Rung rinh, nghe thật ớn lạnh.
Tiếng súng cối thị uy của phe ta bắn vào ngọn núi Ô Chai xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất từng hồi trầm thống gầm rú rền rền. Như những nhịp sấm dồn.
Phía chân trời, các đụn khói đen sì, cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng tỏa rộng ra. Đụn khói quyện lửa và khói đen giống một cây lọng che khổng lồ, đùn đùn nối tiếp nhau vọt lên lưng trời đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt, lại xoắn xuýt quấn lẫn vào nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới bình minh xiên xiên, mờ mờ sương lam muối vùng núi phủ chụp xuống ngọn đồi trọc, nom càng xơ xác hơn.
Chiếc bà già Morance 500 củ rích xập xệ, ì ạch bay giữa cơn lốc cuốn cao. Trúc sợ nó bị hụp xuống vùng trôn ốc, không qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng quá!
Phi cơ trinh sát luôn bay lượn trên đầu, vòng bay mỗi lúc một tỏa rộng trông thật ngoạn mục.
Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi. Phi cơ L 19 liên tục quầng thảo trên trời, tiếng súng phe ta lẫn bên địch nổ rang, rung động khung trời đỏ ầm ầm. Đạn 130 delay chui xuống "dưới đất hoả ngục trần thế" mới chịu nổ, kéo tung cào xới, xé toang hết mọi thứ. Rồi, cuồng bạo vất ngược lên cao, lại lả tả rơi xuống.
Chiếc phi cơ Skyraider thả napalm xuống mé núi hướng tây bắc, viên phi công bay lượn vài vòng chào đồng đội, chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, rồi vút bay đi mất dạng.
Ngoài bản doanh, một xe hồng thập tự vừa hú còi chạy xộc vào khu bệnh xá, để cấp cứu người ngoài ấp bị lạc đạn trọng thương. Ban y tế lo cấp tốc cúi gầm đầu cứu thương. Vài xác chết chưa biết là ai, chẳng rõ, sình thối căng phồng, do đoàn 5 vừa đi nhặt về. Anh Vị để họ nằm trong poncho, bên tr ên mé hầm khu bệnh xá, như con chó chết chưa kịp chôn, thúi hoắt.
Trúc vội chạy tới một hầm lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng để nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình nghi vừa tóm được). Ban đêm phòng nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Cánh tay bàn chân hắn ta tím bầm sưng húp, lở loét nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy. Một tên mặt mày xanh méc, (do mất máu), hắn lúi húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi, loang lỗ máu tươi.
Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm tiều tụy, dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa thô thiển, may vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, chân đất, Hai cánh tay hắn nổi ốc trâu xù xì, dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí. Tuổi đời mới độ mười bốn mười lăm, lớp ghéc bẫn thấm mồ hôi đen, vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn.
Khiến Trúc cảm thấy phiền phiền, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam, Trúc nẩy nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy lo sợ, nàng muốn đánh bài chuồn. Không dám chạm trán với các bác. Gặp bác kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa. Tàn phai nát đời.
Chứ không được hay ho, tuyệt vời như “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước.

_ * _
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Postby Ái Ưu Du » 19 Apr 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 5

Dưới Sức Nặng Kinh Khủng của - Gánh Đời
NGHIỆT NGÃ -


Đồi núi vùng Ba Tơ thâm u chập chùng nhấp nhô cao thấp tiếp tiếp. Rừng đầy lá khô cọ nhau kêu xào xạc. Gió thoang thoảng mùi hoa bưởi, hoa ngâu từ làng quê bay lên thơm thơm. Trong màn sương khói mờ mờ, nhìn cảnh vật và khu ấp chiến lược dưới chân đồi thật buồn bã, vô cùng đơn điệu khi nắng mới vừa ươm.
Lần đầu Hoài nghe và thấy địa pháo rót tới tấp xuống vùng giao tranh ác liệt, nghe đạn rít bên mang tai, tiếng đại bác rú rền trời long đất lở, mắt nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí, tiến nhanh vun vút về phía nội thù:
- Xi xi xì. Tạch tạch tạch… Pằng pằng pằng…. Uỳnh. Oằng. Ùm.
Có lẽ đang bắn nhau trực xạ, gần khu nầy lắm hay sao mà cả khu đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Trời gầm đất lở mất rồi!
Các cô gái chân ướt chân ráo, vừa đứng chưa vững trên sân của bộ chỉ huy hành quân, đã khiếp sợ tột cùng. Họ giật mình quýnh quáng hét to, đồng loạt cúi cong người, bịt hai tai vụt chạy vào căn hầm gần nhất. Họ chui tọt xuống hầm trú sâu lút đầu người, chui nhanh vào gầm bàn, gầm giường, gầm ghế. Hai tay bưng đầu, họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng không ngớt kêu gào, thảng thốt rên rỉ. Như ai vừa thọc con dao găm vô bụng.
Trái tim Hoài đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình bóp chặt trái tim, làm nghẹt thở, muốn bật máu đào. Mình tưởng đang mang trong người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm thân thể co siết, run lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ.
Họ chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp. Mặt đất rung rinh chuyển động u u u ục ục, ở trong cơn động thổ bảy tám chấm.
Sau loạt đạn xé gió cở mươi quả bay đi. Súng lớn giới hạn tầm bắn dường như bắn ngang đầu, xuyên qua tường sắt chắn bao cát nứt nẽ, gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ, cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt kêu lanh canh bị chạm điện, lửa vàng xẹt xẹt ra nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp, rơi loảng xoảng.
Họ la ó kêu gào từng hồi thất thanh. Căn phòng bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay cay khét lẹt mùi hỗn hợp cuốn thốc. Bụi đất lẫn lộn với tàn tro mù bay tứ tung.
Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, họ nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay. Xen lẫn chút hào khí, đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt nhau.
Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt, mấy cô nhổm lên khỏi miệng hầm, tính chạy đi tìm nơi an toàn khác, thì tràn đạn lại ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ thất thanh kêu rú, như con heo bị chọc tiết, họ lại vội vàng cúi hụp xuống hầm sâu. Giống con nhái bén lặn kỹ dưới đáy ao nước, mút mùa lệ thủy.
Cả khu đồi sục sôi kêu lục ục, lòng đất nhấp nhô. Nhà cửa động thổ rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì, bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều, đã bạc nhanh trong giờ phút đẫm máu, kinh hoàng nầy!
Sau cuộc bị pháo kích và quân ta đã phản pháo, Hoài leo lên mấy bậc cấp làm bằng bao cát, dòm ra lỗ châu mai, nàng thấy xa xa dưới chân hàng rào hầm lũy, chiến sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ, Bộ Binh phối hợp cùng Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân mặc áo giáp, mang giày Botte de saut, nai nịt gọn gàng. Thân họ dắt đầy lá cây xanh, đầu đội mũ lưới sắt, súng lăm le trong tay. Vài trái na dắt hai bên mạn sườn thò ra. Từng hàng nịt da đầy băng đạn.
Lưng chiến sĩ cong cong, ba lô nặng trĩu căng phồng hết cỡ. Một tuần lương khô, (cá nhân phải cõng một lít gạo mỗi ngày), một vài bộ quân phục, chiếu mền, vân vân... đạn dược, và khẩu súng cổ lỗ sĩ.
Thân hình họ cong còng xuống dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã. Bổn phận làm trai: Phải trả nợ non sông thật hết sẫy. Cho đến lúc tái người gây gây rét, từng cơn ớn lạnh luồn vào tủy sống. Chính nhân quân tử đi trên đường sạn đạo bao trùm cả... vùng chiến sử ca.
Trời luôn ầm ầm hú động quái dị điếc tai. Họ đi trên thảm khốc điêu tàn đổ nát. Đi trong tiếng hét kinh hoàng thống hận, sôi bỏng căm thù cảnh chinh chiến. Mắt bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa. Cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống, đâm vào cuống cổ, cho trợn trừng con mắt.
Hàm răng họ nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh, vững chải đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá. Cả nơi bì bõm đồng chua nước mặn, sình lầy. Họ đang tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn.
Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường diệu, thôi thúc họ từ bỏ tất cả xa hoa quyến rũ phù phiếm? Khi người lính xông vào vùng chiến đia tàn khốc điêu linh nầy! Không chút rụt rè, do dự? Như là nghề của chàng mà!
Thật cảm động đến bàng hoàng ngẩn ngơ. Nếu không phải vì họ thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình đến thế?
Vài giờ sau bình nguyên lắng dịu dần dần. Từng đợt xung kích ào ạt, xua quân thù cùng màu da vàng mũi tẹt, chạy bán sống bán chết, tan tác trong rừng sâu. Thỉnh thoảng dăm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ từ từ nhỏ dần, nhỏ dần, xa dần, xa dần và im bặt.
Khi tiếng súng hoàn toàn im bặt, không gian còn bao trùm mùi khét nồng oi ả. Khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu. Các cô mới lóp ngóp bò dậy. Từng người một rụt rè len lén bò lên khỏi miệng hầm, rồi ngồi phệt xuống đất, thừ người ngẩn ngơ ra. Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng nham nhở gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn.
Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ đã dâng đầy cổ họng khô bỏng. Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm. Mặc dù trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn thắt đáy lưng ong, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, dồi má hồng tuyệt đẹp, lông mày lá liễu, đôi mắt lá răm. Nụ cười rõ tươi làm mát lòng người.
Giờ phút thập tử nhất sinh, họ chà mặt xuống đất, trông lem luốt như con mèo vá. Mà, không ai thèm cười nhạo nhau nửa lời. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da của họ rồi.
Đại tá Phát cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng, đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Tuyết Ngọc Trúc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân vinh dự, đã theo học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.
Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao tranh không chợp mắt, trông ông có vẻ hơi mệt, do tấm bản đồ hành quân địa phương chằn chịt dấu mực khoanh tròn xanh đỏ ghi trục toạ độ và đóng quân. Màu nâu ghi vùng cao độ. Điểm chuẩn của trục trung độ và hoành độ được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái.
Ông vẫn ra khẩu lệnh gọn gàng. Tuy mệt thế, ông không mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, hồ ủi thẳng nếp. Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu, làm gậy chỉ huy.
Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ huy Sư Đoàn nầy. Ông đậu thủ khoa khoá Sĩ quan Đông Dương, mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng, như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Đại Tá Tư Lệnh khu Chỉ Huy Hành Quân, vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với ông Rufus Phillips, làm giám đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ).
Và ông Giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân...
Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh. "Du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ. Ắt hẳn "anh chàng" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy. Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng Hoà Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ.
Vả chăng "anh chàng Mẽo" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" Cộng Hoà Việt Nam "bắt tay với Mỹ Quốc viện trợ". Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao!?
Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: Việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ kia: Thực tế nhất là xin vật liệu làm nhà tiền chế, tráng những con đường nhựa. Xin cung cấp cho xi măng, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, v.v... Cùng các giao hảo tốt đẹp khác.
“Anh chàng ta” nói "Sure". Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OK!
Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các cô vội vàng đứng dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốt, đầu bù tóc rối, như người bệnh thần kinh nặng. Ông quay sang các sĩ quan thuộc quyền, nhích cặp lông mày lên một chút. Ông lừ mắt nhìn mấy cô lính non đời, hơi nhếch mép mỉm cười. Chao ôi! Thật thảm thương cho các "Nữ Tướng hào kiệt anh tài như Hoa Mộc Lan" thuở xưa, lo dông chạy tuốt về Tàu mất tiêu. Quê xệ hết sức ha.
Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh, bàng quang của thôn, xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ tai hoạ khác bất ngờ ập đến.
Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút. Nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các chàng quân nhân dạn dày sương gió, từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn chiến trường. Nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ. Nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải.
Các cô nhận biết, nghe quen tai, khi tiếng súng bắn đi và câu vào. Tuy đôi lúc bất thần họ còn run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì. Riết rồi điếc đặc không sợ súng.
Riêng Hoài điếc thật rồi nhưng mắt còn thấy đầu đạn bay vun vút. Nàng thập thò lấp ló đi ra, đi vào lều bạt, thấp thỏm run run nhìn về mấy ụ súng. Khi nòng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung. Ùm… Oằng… Pằng… Pằng… Pằng. Tạch Tạch Tạch… Bùm!
Hoài sợ hãi kinh khủng nấp vào góc nhà, rụt cổ co người, ngồi hụp xuống. Hai tay Hoài bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng đứt quãng như muốn hụt hơi.
Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của - Gánh Đời nghiệt ngã - năm 1962 - đón chào Hoài, bằng những "pha ngoạn mục" đến thế sao!?

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp... Chương 6
Trân trọng,
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Postby Ái Ưu Du » 22 Apr 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 6

KHÔNG . . . XA LẠ


Trực ghé đến nhà Hoài. Trực làm ở Quảng. Chàng có biệt danh là Trực Lai, hoặc Trực tóc vàng. Mà tóc chàng ta vàng thật, vàng cháy như râu ngô già.
Bỗng Hoài sực nhớ câu chuyện thật xảy ra thế nầy:
Hôm đó, đoàn xe ngừng lại bên chợ, để anh chị em đi mua thức ăn. Các bạn rủ nhau dạo chơi quanh phố chợ nhỏ. Riêng Hoài chán nãn, rầu rĩ ngồi một mình trước cabin xe. Nàng học lại quyển 350 bài giải đề thi Toán Tú Tài Toàn. Sắp đến ngày thi rồi, không lo gạo cho kỹ thì... rụng như chiếc lá vàng rơi trong gió.
Hoài giật mình nhìn lên, bên kia hông cửa xe tài xế, mặt mày Trực đỏ kè, lấm tấm nhiều tàn nhang. Mắt anh sắc như dao cau, món tóc vàng ngã xuống vầng trán cao, gợn nếp phong trần.
Giật mạnh cửa xe bung ra, anh đứng yên dưới đất, một tay vịn lên vô lăng, Trực nhìn Hoài, mỉm cười:
- Hoài! Cho phép tôi nói chuyện, trong tình thân ái. Được chứ em?
- Tôi không quen biết anh. Anh say rồi. Anh đi đi ...
- Hà hà! Say hả? Được lắm. Tôi là Trực tóc vàng. Còn em là Hương Hoài. Tôi biết em, từ ngày em đoạt ngôi vị cao sang “Hoa-hậu cây mùa Xuân Chiến Sĩ” đó. Phải không em?
- Phải hay không, anh biết rồi. Nhưng việc anh thình lình đến đây. Khiến tôi sợ quá. Anh đi đi, kẽo Đoàn-Trưởng thấy, lại khiển trách tôi trước buổi họp bi giờ.
- Tôi nói giữa ban ngày ban mặt, chứ có núp lén gì. Mà nó không chịu. Nó tức à? Nó muốn gì? Có phải nó ghen không thì bảo? Em là thứ xịn, thì sợ gì! Em không phải là loài gián sợ ánh sáng, sợ ban ngày, phải chui rúc, lẫn trốn vào khe vách, xó xỉnh. Cứ tự nhiên.
- Khỏi gay gắt như vậy. Nhưng anh hiểu cho, tôi không quen biết anh. Vả lại, tôi "xướng ca vô loài", anh không nên đứng ngoài đường, ngoài ngõ, nói chuyện.
- Em nói sao? Xướng ca vô loại, có nghiã là chả xếp với hàng phẩm trật nào? Ấy dá! Là siêu sao rồi. Em là hơi thở buông ra từ hai buồng phổi, đầy ắp ân tình trìu mến. Là tiếng hát thì thầm, vẫy gọi nhau nồng nhiệt. Là giọt mật ngọt ngào rót từ thinh không, xuống dòng thời gian miên viễn đỗ vào tim mọi người. Cớ sao em nói ca sĩ là vô loài? A phải! Em tránh né. Tôi thì hổng nói, làm sao em biết chứ. Tôi và em, chấp nhận đời sống nghệ sĩ, là chấp nhận buồn nhiều vui ít. Chấp nhận thương đau, hơn hạnh phúc. Chấp nhận “tình lính là tính liền liền”. Có gì mà em phải tránh né tôi. Tránh né tôi, thì làm sao tôi có dịp bày tỏ nỗi niềm của một người yêu... đơn phương.
- Đi chỗ khác đi!
Không đi đâu hết. Trực nhảy phóc lên xe, đóng mạnh cánh cửa đánh rầm một cái. Đầu chàng gục lên hai cánh tay khoanh tròn, đặt trước vô lăng, đôi vai rung lên theo từng tiếng nấc. Trực khóc. Khóc thật hay chàng chỉ đóng kịch, để Hoài ngây thơ tin vào mối tình nghệ sĩ sét đánh chớp nhoáng?
Hoài không thoả mãn lòng khao khát yêu thương của Trực. Không thể làm chàng vơi cạn “tình lính nghệ sĩ tính tiền liền”, như chàng đã nói. Nàng vội vàng mở cửa nhảy xuống đất, bực bội và run run đứng lấp ló bên hông xe.
Sau đó, Trực vẫn lai vãng đến gần, tìm dịp làm thân, bám riết, cho đến lúc rã rời. Hoài cay đắng với niềm cay đắng đã quá đột ngột, chua xót bẽ bàng. Nhưng nước mắt của chàng trai phong sương xa lạ nầy, không thể lay chuyển ý chí sắt đá, và cõi lòng tê tái của Hoài.
Bây giờ, không ngờ chàng thiếu úy đó xuất hiện. Hoài đứng chắn ngang ở bậc thềm nhà, cộc lốc hỏi:
- Anh có việc gì cần... đến đây vậy?
- Hoài còn giận tôi, về việc đường đột trước. Ha?
- Anh có biết là cô chủ café Nhạn Cúc rất đau khổ, khi bị anh phụ tình không?
- Tôi không hứa hẹn yêu đương gì, với Cúc cả.
- Sự thân mật, dễ tạo cho Cúc niềm tin yêu chân thật. Nay, anh muốn đến nhà anh chị của tôi, làm gì?
- Tôi không là kẻ thù của Hoài. Sao em như... muốn ăn tươi, nuốt sống tôi vậy?
- Tôi và anh, vốn không ân không oán. Xin lỗi, nếu tôi đã làm phật lòng anh.
- Không phải lỗi về phía em. Hôm nay tôi đến chào em. Tôi xin đổi đi Khe Sanh. Không muốn ở đây nữa.
- Anh có đủ sáng suốt quyết định... Chúng ta biết nhau như là chuyện bình thường. Chúc anh vui mạnh.
Trực quay gót với đôi mắt thấm buồn trũng xuống. Nói chuyện, mà đứng chấn ngang ngưỡng cửa, xẵng giọng. Thái độ của một cô gái con nhà đàng hoàng. Như thế là không gia giáo, thật lố bịch, bất lịch sự hết sức. Điều đó khiến lòng Hoài chùng hẳn lại.
Chị Huyền la, khi em vào hẳn trong nhà:
- Sao em ăn nói cộc lốc quá? Đừng gieo gió, có ngày sẽ gặt bão đó. Em ơi!
- Khổ quá! Em không hề biết anh ta, là ai. Sao anh ta làm phiền em quá vậy!
Chiều hôm sau, Thắng đến nhà ngồi chơi, nói chuyện phiếm. Hoài nói:
- Tuần tới Hoài lại đi Minh Long, Nghĩa Phú, Cộng Hoà một tháng. Anh à.
- Làm quái gì ở đấy mà... đi lâu thế?
- Suỵt! Bí mật quân sự, mà anh
- Đúng. Nhưng, đi lâu thế. Anh solo trên phố quá!
- Anh thiếu gì bạn gái, em gái mà... anh phải solo!
- Anh thiếu gì, chứ có... thừa gì đâu.
- Hoài làm sao biết. Nếu biết, chả nhằm nhò gì.
- Hoài có quyền biết, với tư cách là người thân. Không xa lạ.
- Cũng tùy.
Thắng cười rất xinh, nhìn Hoài trìu mến. Anh đá lông nheo mấy cái, nói:
- Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
- Ơ! Viết thư à?
- Phải! Làm gì mà ngạc nhiên khiếp thế ? Em chưa từng viết thư ? Hở?
- Thú thật Hoài không nghĩ... có ngày... mình sẽ viết thư cho anh kìa.
- Sao thế?
- Lại hỏi nữa rồi. Bây giờ thì... bí mật quốc phòng.
- Hậu sinh khả úy thật.
- Hôm nay, anh thua em hai không rồi. Nhé.
- Nguyễn Công Trứ nói câu nầy: "Tất do Thiên, âu phận ấy là thường. Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ" Thì, việc anh thua em hai ba không, là thường. Phải không Hoài?
- Anh nói tiếng Tàu, tiếng Miên hay Mã Lai, em cũng câm điếc. Huề cả làng thôi.
- Cô bé thế mà... khôn thật.
Hai người nhìn nhau vui vẻ, cười hồn nhiên. Thắng treo cây đàn trên tường, anh xuống nhà dưới chào chị Sáu Huyền, lên solex về nhà.
Nắng vàng hanh yếu dần bên ô cửa đã lên đèn, trộn lẫn màu hoàng hôn, và màu ven đêm quyện gió hiu hiu thổi. Làm ửng hồng đôi má người thiếu nữ, đứng dưới tàng lá me bay bay.

_ * _

Ưu Du
Kính mời qúy độc giả xem tiếp... Chương 7
Trân trọng,
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Muôn Điều Có Thật

Postby Ái Ưu Du » 24 Apr 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 7

MUÔN ĐIỀU CÓ THẬT



Vài ba lần ở Trà Phong, Trúc thích rủ Hoài đi tắm đêm ở sông Trà Khúc. Phía xa kia là núi Thiên Ấn ẩn hiện dưới vầng trăng lúc tỏ lúc mờ. Núi ở huyện Sơn Tịnh, từ chân núi có đường xoắn ốc lên trên tóp đỉnh rợp bóng thùy dương xanh mát. Đỉnh núi tà tà rộng rãi và bằng phẳng, nên ta có thể lên đó picnic.
Dọc ven những bờ sông có nhiều guồng xe nước quay bằng gỗ, hay làm bằng những bè tre già đan kín, trám trát lớp dầu ráy hay dầu hắc cẩn thận. Xe quay nước mang nghệ thuật độc đáo dẫn thủy nhập điền, từ dòng sông Trà Khúc chảy xuống các mương gỗ, rồi từ từ luồn lách chảy đi theo từng khe lạch, dẫn nước vào ruộng lúa xanh rì, phì nhiêu.
Chú tài xế mặc dù sợ trưởng phòng, nhất là lo sợ vùng tranh sáng tranh tối xôi đậu lộn xộn, nhưng chú phải lén chở hai cô đi. Mấy ngày tháng ở vùng hành quân, một bi đông nước cũng quý như vàng, lấy đâu ra nước tắm.
Hoài và Trúc đi tắm xong, lúc về còn mang theo cistern nước cho anh em, cũng là đi công tác cho sư đoàn 2 rồi. Chú tài xế sau khi lo chuyển nước nôi vào cistern đầy đủ, chú đứng gát trên góc kín, nơi xa xa. Chú lo lắng, thỉnh thoảng kêu nho nhỏ:
- Hai cô ơi! Lẹ lẹ lên, còn mau mau đi về, kẽo bị đóng cổng bi giờ. Chết đa. Trời à!
Bờ nầy và bờ kia, nhìn gần nhưng thấy xa, xa mờ xa nghìn trùng dưới ánh trăng bàng bạc lạnh lẽo, bao bọc bởi lớp sương mù, và lớp khói xám (do khói lửa chiến tranh), bốc cao ngùn ngụt ở góc trời không xa lắm đang lững lờ bay bay.
Từng cơn rung chuyển chạy rần rần, động trời động đất, động suốt dòng sông quê hương. Dưới bước chân run run, đau đau, buốt buốt tê tê, lạnh lạnh bên hai bờ thôn xóm.
Tiếng cá vẫy đuôi lên khỏi mặt sông, đùa giỡn dưới ánh trăng soi những lượn sóng bạc đầu cuồng nộ, khi trồi lên khi trụt xuống, nhấp nhô theo dòng nước; Làm vở nát ánh trăng rằm sáng vằng vặc, soi đôi thân hình trắng nõn ngâm trong nước.
Trăng rớt trên đầu, trên vai và xô sóng nơi bờ ngực trần, ẩn dưới nước nỗi hoang vu, sầu đắng. Trời se lạnh giữa lưng trời, gom từng phiến mây bạc phơi phới bay. Ánh trăng xanh xao chảy xuống thân thể, khiến Hoài càng buồn và thất vọng trước chút riêng tư, bỗng oà vỡ tan tành giữa lòng sông lụa trắng. Cuộc đời và cuộc tình, chắc rồi sẽ vỡ tan, như bong bóng nước trôi trên dòng sông.
Giống như khi cộng quân phóng pháo, độ rung kéo dài từng chuỗi rúng động, đảo điên cuồng sát. Thân hình của anh Ba, lính Bộ Binh Sư Đoàn 2, hất tung lên cao, thân xé ra từng mãnh nhỏ, xương thịt rơi phịch xuống đất như bịch gạo tung tóe ra. Anh Ba chết thảm trước ngưỡng đời vừa độ bừng chớm tuổi hai mươi. Anh chưa một lần yêu, chưa một lần hò hẹn, chưa nếm mùi chiến đấu giao tranh, và thổn thức với đời.
Giờ nầy ở xứ Lâm Viên ra sao? Hẳn là yên ổn! Cầu xin cho họ sống thái hòa, êm ấm. Dalat vẫn như một nơi chốn bình an đầy quyến rũ, mời gọi bước mình muốn quay về.
Đôi ba ngày sau, cuộc phóng pháo ngưng bặt, trả sự yên tĩnh đôi chút trên bình nguyên còn thao thức. Hoài nghĩ: Lính Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân, Dân Vệ là những tay súng kiên cố giữ lũy thành chắc chắn. Họ thông thạo từng bờ cây bụi cỏ, biết tường tận từng xóm, từng thôn, từng người, ít khi lầm lẫn.
Lại thêm hầm hào kiên cố, cộng với trường lũy Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) có điểm thành công. Vì nó kiểm soát giữ gìn non sông gấm vóc, do ông cha truyền lại từ ngàn xưa, khỏi cảnh "Người xâm lăng Ta" trên chính quê hương chung.
Họ đau khổ trong niềm đớn đau thiết thực, qua vết thương hoác miệng trầm thống, (của anh em ruột thịt), cảnh nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Trong cảnh Người lừa gạt Người. Người bội phản Người. Người thù hận Người. Và, Người thẳng tay chém giết, sát hại nhau như điên; Người bị chiến tranh hành hạ cưỡng bức tan hoang trên chính đất quê ta.
Tuy nhiên, từ chính vòng đai kiên cố nầy, là động cơ thúc đẩy người khác giật dây, rù quến, hò nhau đứng lên phản đối Chính Phủ >đã hạn chế quyền tự do đi lại, bị kiểm soát giấy tờ tùy thân chặt chẽ, bị kiểm soát từng Thôn Ấp, mất tự do<.
Có mất thì giờ thật, nhưng xôi đậu không lẫn lộn, an toàn, bảo đảm an ninh và giữ gìn sinh mạng muôn người. Ta tưởng cần nên có vòng đai Ấp Chiến Lược nầy lắm.
Bây giờ Hoài biết tin đích xác, Trưởng phòng thừa lệnh Đại Tá Phát ra chỉ thị mới:
- "Tất cả anh em phòng 5 phải trực tiến, không thể lùi, phụ giúp bên quân-y, khiêng người bị thương, nhặt xác chết phe ta, lẫn địch quân, cấp tốc chở về hậu cứ".
Trời ơi! Nghe tin đó, Hoài đứng xớ rớ đằng sau lưng anh Vũ, nàng sợ đến bải hoải chân tay. Căng thẳng trí óc, Hoài thút thít khóc, rụng rời lệ, giọt dài giọt ngắn, trên đường đến điểm làm việc.
Mấy anh chị tưởng cô em xúc động trước cảnh thương tâm, đã trào nước mắt. Chứ họ có ngờ đâu con bé chết nhát nầy, chả ra cái thể thống gì!
Trúc dám đến cúi sát xuống, lật khăn che mặt, tò mò xem từng người chết. Có người nhìn rất kinh dị. Có người như đang nằm ngủ yên, tay xuôi theo thân hình thẳng cứng hay co quắp. Có người giống thân cây chuối bị đốn ngã, róc hết lá vẫn nặng kinh khủng.
Những bàn tay tài hoa, khí phách nam nhi, bản lĩnh và dũng mãnh ấy, không rỏ dấu chỉ tận cùng bằng số ở đâu? Anh Sáu Dương bị thương khá nặng, mà vẫn ăn nói đàng hoàng, tỉnh táo nhếch mép, ngóng cổ lên nhìn vết thương trên bụng, trên đùi. Anh nhìn ngó lung tung, như không có việc gì quan trọng, trước khi anh bất thần "rệu" xuống. Hoài sợ e anh sẽ “đi đoong” luôn.
Cuối góc phòng vài xác chết đối phương chương phình, căng cứng như con vật kỳ lạ, mắt đứng tròng mở thao láo. Bụng căng phồng như chiếc bong bóng da heo.
Ngày xưa, mỗi khi làm thịt heo, ba thường lấy bóng da heo bơm đầy hơi, cột kỹ phơi ngoài nắng, cho anh em Hoài làm trái bóng đá nhăn nhúm chơi đùa.
Trúc còn cả gan dám đến bên một anh lính khác vén tóc, xem trái tai anh ta lớn hay nhỏ, yểu mệnh tới đâu. Trúc lại đi xuống cuối phòng cầm bàn tay người chết khác lên, nắn nắn bóp bóp, lật qua lật lại. Cô coi đường chỉ thọ của họ ghi đến chỗ nào. Hoài sợ kinh khủng, không dám nắm bàn tay Trúc cả tuần.
Những buổi cơm, nhìn miếng thịt heo, thịt bò, nhất là thịt ếch, con ếch khi lóc hết da, trông sao mà giống... con người! Thịt ếch bơi bơi trong tô. Hoài nghĩ đến vết thương lở loét, đỏ tím hoác miệng trên bụng người chết.
Tự dưng cồn ngực vun tròn nhấp nhô theo nhịp thở, Hoài chạy xộc ra cuối vườn, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Nàng sợ mâm cơm hơn bất cứ thấy gì. Nỗi u ám đã chín đen, như cơn giông sét đánh toé lửa, phủ chụp xuống đời.
Tưởng chừng một nửa thân Hoài đã móc nối sít sao với xác người xa lạ. Như nửa phần thân thể người chết trĩu nặng luôn dung dằng trì kéo lấy người nàng. Hoài không cựa quậy nhúc nhích nỗi. Lòng cô em rớt xuống trũng ưu phiền, hố thẳm tăm tối mù mịt phủ đầy lá non. Giống nõn trà hong phơi dưới lửa, bỗng tàn úa quá nhanh, khiến mình rũ liệt.
Nỗi đau khổ của con người trong cảnh cốt nhục tương tàn, tràn đầy trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật rồi. Tin tức nóng bỏng trên truyền thanh, báo chí mỗi ngày một nhiều. Cuộc chiến dần dần mở rộng ra như vết dầu loang, như vòi con bạch tuộc. Từ các nẽo miền quê xa xôi, loang nhanh ra đến ven biên thị thành, đè nặng lên đầu người.
Đến nỗi Hoài không dám ngẩng mặt nhìn lên, chỉ dám thập thò lấp ló nép bên vách hầm, hào chắn bao cát, Hoài mở to mắt nhìn dáo dác ra ngoài “khung cửa châu mai”.
Và, nàng không khỏi kinh ngạc, khi thấy mặt trời vẫn ưu ái, vui tươi hào phóng rót nắng vàng rực rỡ, từ thinh không chan hoà lên vạn vật, ve vuốt từng phiến lá. Chim chóc nhảy nhót, ríu rít hót líu lo, hoà ái trữ tình, lí lí lắc lắc, lảnh lót lơi lả trao duyên.
Chao ôi! Cảnh "huyết nhục tranh cường" nầy, chính là mảnh đời buồn bã, trong cuộc sống muôn điều có thật. Dù cho Thu Hoa, Lan Anh, Mai Hồng, Tuyết Ngọc Trúc xức nước hoa hiệu Charlie, Tabu, hay loại thượng hảo hạng J’adore, vẫn không khỏi ngửi mùi tử khí tanh nồng quanh quất đâu đây.
Cuộc đời thật chẳng có nghĩa lý gì, trước ngày chân không dài vô tận; Khi con người ra đi vào vùng tử biệt nhìn súng đạn vút bay trong đêm, tạo thành một đường sáng loáng vụt tới vụt lui; Khi khói lửa chiến tranh còn ở lại. Đói khát bệnh tật. Chết chóc. Tan nát. Đớn đau mãi cào xé, dày vò tận cùng huyết mạch con người.
Hằng ngày, cả nhóm tâm lý chiến đi ủy lạo, săn sóc đồng bào và chiến sĩ. Hướng dẫn, phân phát thuốc men, nhu yếu phẩm, quần áo chiếu chăn, phụ giúp đồng bào thu dọn nhà cửa, vườn tượt tan hoang hư nát. Phúng viếng tang gia bối rối, lo việc ma chay tươm tất, đàng hoàng.
Trước cảnh đau thương, dù các cô có quyên gom hết tất cả tiền tài, và lòng trắc ẩn trên quê hương. Hầu bù đắp lại muôn điều đau đớn, mất mác to lớn ở một góc dân nầy, tưởng vẫn không sao lấp đầy. Không thể xoa dịu nỗi khổ đau khốn cùng bi đát trong lòng họ.
Không hiểu sao bài lịch sử Hoài đã học: Từ trận quyết chiến quyết thắng của Đức Trần Hưng Đạo. Đến vụ Nhật bị trái bom nguyên tử đầu tiên, ném xuống thành phố Hiroshima ngày 06.8.45, tiêu diệt 66 ngàn người. Rồi trái thứ hai thả xuống Nagasaki 09.08.45 đầy kinh dị.
Tất cả bừng nhớ trước cảnh kinh thiên động điạ rùng rợn, quằn quại của con người không có tương lai. Trước chiến tranh giết hại lẫn nhau, và bom đạn, nguyên tử kia. Có lẽ chiến tranh Việt Nam chưa thua mấy!

_ * _

Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

8 * Cuộc Đời Phiền Toái

Postby Ái Ưu Du » 01 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 8

CUỘC ĐỜI PHIỀN TOÁI



Dòng sông Rê xanh biếc, có một khúc bên lỡ bên bồi, uốn mình lặng lờ trôi theo ven đường đất đỏ lởm chởm. Nắng dắt vàng trên mấy cù lao. Mặt trời thắm đỏ, lóng lánh to tròn. Như viên hồng ngọc khổng lồ, dần vươn lên cao, lên cao, lên cao. Hương vị hoa mùa thu êm đềm đâu đó trong ánh nắng ngọt ngào, tỏa ra dìu dịu thơm thơm.
Con đường nhỏ trong thôn được "toán lính viễn chinh, mũ mão cân đai, gươm giáo", tà tà đi tới đi lui, đi dài dài hoài. Khiến bà con hai bên đường biết mặt.
Dãy phố nhỏ, trừ mươi nhà mở rộng cửa, buôn bán chụp giựt thời cơ. Còn đa số nhà đóng cửa, cài then cẩn thận. Họ ra đồng làm việc. Hoặc sợ cảnh Làng, Thôn, bị lôi giật, dựng đứng dậy trong giấc ngủ muộn phiền, đinh tai nhức óc. Và, nhất là họ sợ mấy khẩu súng thần sầu bi tráng, lạnh tanh, vô tình cứ thích nhòm ngó lôi thôi đến đời dân dã muốn an phận.
Xe chở hành khách chạy ngược chiều vừa qua mặt, chật như nêm trong băng ghế. Nhát thấy “mấy hoa hồng biết nói”, các anh lính í dza hớn hở reo mừng, họ vẫy tay lia lịa, chào hỏi nhốn nháo. (Như bà con từ đời vua Tự Đức ha).
Các cô gái xuân thì ngồi bên xe kia e e ấp ấp, vẫy vẫy tay lại. Họ dấu mặt dưới vành nón lá, khúc khích cười. Trông thật dễ thương, ấm áp lòng anh lính chiến, “tình quân dân như cá với nước” biết bao!
Tất cả anh em đứng bên một nhịp cầu đã sập, đợi đò rước qua sông. Bao giờ cũng vậy, các anh khinh binh đi trước dò đường an toàn. Lúc đó, Phòng 5 sao y bản chính, lẽo đẽo theo sát đằng sau. Nhóm công tác phòng 5, đợi Trung Đoàn 25 Công-binh, đến khai thông hương lộ bên đầu dốc vào rừng, khá lâu.
Anh Trung nai nịt chỉnh tề, chiến sĩ ra trận có áo giáp, thì phần nào yên tâm. Phủ quyết bao lo sợ khi lâm chiến. Thị sát, vững tin trình báo về bộ Chỉ Huy kịp thời, hầu chận đứng con đường tiếp tế “từ làng ra bưng”.
Mấy "ông tướng con" lén lén lút lút, xầm xầm xì xì, to nhỏ, rù quến nhau, lũi đi tìm chút hương hoa phù dung cuộc đời, nơi “chị em ta”, cho đỡ ghiền.
Góc kia bốn anh trải poncho cạnh cây bần, ngồi giạng chân, với xị rượu và con cá mòi vừa nướng thơm phức. Thống khoái hơi men nếp cẩm xịn, mà "vô mỏ" mấy anh thì đã điếu hết sẫy, đưa họ ngoắt cần câu, lên cơn say trống dạ. Họ đang "du ca mùa xuân" làm bợm nhậu, chì nhất phố núi he.
Trong lều bạt, Sĩ gây sòng đen đỏ, Năm anh châu đầu vào con bài, mê đến nỗi nhịn cơm nhịn canh. Lên xe GMC cũng xòe, ngồi trên giường bố cũng đánh. Chỉ có khi đi làm việc mới yên. Túi tiền xẹp lép, nhường chỗ cho mấy cỗ bài dày cộm đút trong túi. Đa số người lính lúc nào cũng vui nhộn. Có chút men bia, là anh thấy đời tà tà lên hương ngát.
- Mấy anh ơi! Mấy anh ra chiến trận, sao thích la cà, linh tinh, xĩn xạc, tháu cáy nhau kinh vậy? Chắc vợ con ở nhà, lo lắng thất điên bát đảo đó. Mấy anh ơi! Ba trợn quá! Quỷ thiệt chớ. Coi chừng! Bọn em đi méc Trưởng-phòng. Các anh bị kỷ luật gấp đó!
Snack Bar dưới sự điều khiển của Nhạn Trang, cô gái tô son trét phấn rất diêm dúa, dáng đi nhảy nhót, khi thì tước bộ xà hành, (là một quán cà phê lậu kín đáo trá hình). Chỉ có khách quen say sưa bội tình hoan lạc, trong bầu không khí sặc sụa rượu nồng, và khói "bồ đà tàn dư" từ thời Pháp thuộc, cay xè khét lẹt.
Loại cây trồng ở vùng cao, hoa nhiều màu, lá so le có khía răng không đều, thân và quả chế ra codein, morphin, quyện lẫn mùi mồ hôi da thịt rịn ra ơn ớn nhơm nhớp. Bao phen bị cảnh sát ruồng bắt, cô ả trốn chui, trốn nhủi, vẫn không chừa cái mặt mo mụ tú bà trơ trẽn.
Tấm bảng tên dính một đinh khuy lủng lẳng, xệ xuống cửa sổ, vỗ lách cách, mỗi khi gió lùa. Anh Phước cấm ngặt, cấm chỉ anh em không được bén mảng đến gần. Phước ghê rợn gớm ghiết, "kỳ thị" với cả tấm bảng kinh khủng. Trông nó thật chướng tai gai mắt quá chừng.
Ai đã vào hang đó rồi, thì... khó tìm thấy lối ra. Bầu trời, sông dài, biển rộng, núi cao hồ thẳm, giờ chỉ thu hẹp gang tấc, trong vò rượu tăm sùi bọt, bên bàn đèn nâu. Dưới hai bàn chân phóng đãng, bước thấp bước cao, trôi theo con sóng xô giạt.
Thân hình nhấp nhô, nhẹ như bông gòn bay, đẩy đưa phiến lá tội tình. Lưng gù gù, đầu gật gưỡng, cúi cúi lắc lắc. Bước đi loạng choạng thểu não, hai chân bành giạng ra. Trông chẳng giống ai, chả giống con giáp nào! Tàn mớ đời trước khi vận nước điêu linh.
Vì thế, người ta mới đặt cho cái tên chết người là: Thuốc phiện. Kẻ ghiền rồi, không còn sinh khí hào hùng, sáng giá gót giày botte de saut đập mạnh vào nhau, kêu cái cộp. Thật kiêu! Thật hách! Thật oai hùng siêu đẳng! Sẽ không còn bàn tay anh tài, vững chắc đưa lên mũ, ngực ưỡn ra, mắt sáng quắt nhìn thẳng.
Sẽ tiêu tùng đời trai trẻ. Nếu vào... "cửa mả tam giác vàng tử vong" đó. Còn hơn khu tam giác vàng giáp giới Thái. Miến. Lào.
Được thượng cấp chỉ định làm trưởng ban nhạc, khi tuổi anh Cương đã xế chiều, ảnh gầy gò, trán hói, gương mặt nghiêm khắc. Tuyết Ngọc Trúc nghe Thu Hoa nói:
- Lâu lâu “ảnh” có cảm hứng dồi dào, đã “sáng tác chiều tác”, hoà âm hòa iếc gì đó.
Đối với Trúc, nghe ảnh đàn bùm búm bum, bòng bóng bong… như đàn gải tai trâu. Coi cũng ra trò dị biệt trong phòng văn nghệ sĩ miệt vườn nhà.
Ưu việt của ảnh chừng ấy, nhưng đối với đàn em, ảnh nổi tiếng hách xì xằng. Ảnh tỏ vẻ ta đây tài ba, hơn bất cứ loại kỳ nhông cắt kè nào trong phòng 5, hay cả trong sư đoàn nữa. Vài hạ cấp e ngại nâng bi, đánh bóng cuộc đời ảnh quá đáng. "Bơm" ảnh căng hơi. "Thổi" ảnh phồng to hơn quả khinh khí cầu. Ảnh càng nở mũi, dương dương hiu hiu tự đắt, muốn "nổ", muốn "vồ" người khác, một tí cho oai.
Ảnh giữ một "củ súng" mousqueton cổ lỗ sĩ, như vệt nhăn cày sâu trên trán khổ chủ. Súng bắn bụp bụp từng phát một, vô duyên òm, giống súng bắn lon trong hội chợ.
Sau trận chiến, trong tận cùng tan hoang đổ nát của quê hương đỏ lửa, Cương đi thu nhặt chiến lợi phẩm. Nào là lựu đạn nội hóa, mìn muỗi, súng AK, mũ nồi tai bèo, dép râu. Vân vân... Thành tích đó của mấy anh Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến, sau khi “phe Ta úynh Vici" chạy có cờ, bỏ lại.
Họ tặng cho Cương. Cương sai anh lính trơn tà lọt mới “nhập gia” mang những thứ đó về, kê khai làm thành tích riêng Cương. “Hù" anh em văn nghệ miệt vườn, ảnh khôn mà không ngoan, chỉ muốn ra oai "vồ" và xỉ vã tàn tệ kẻ khác đến khiếp vía.
Thái nghĩ mình không thua Cương, nhất là đờn ca hát xướng là "nghề của chàng mà". Thái vừa bị tội “sừng sỏ ba gai”, vì có một lần anh say rượu, Thái đã gọi cấp chỉ huy là:
- Con tắc kè bông không lông, không tóc.
Thái bị gián cấp nên anh càng bất mãn. Thái vốn không trọng tài năng Cương, anh thấy Cương "ngu ngu sao ấy". Nói nào ngay Thái nghĩ:
- “Anh thượng sĩ chỉ hơn anh trung sĩ nhất có một bậc, thì có cao cách gì, mà buộc người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu như ta nghe theo, hay các anh em khác phải khúm núm cung kính trình bẩm”.
Thái cay cú lật tẩy quân bài “ngu ngu kia”, làm anh Cương mất mặt. Thế là có vấn đề.
Anh Phước đi lên bộ Tổng Chỉ Huy Hành Quân họp, trao quyền cho Cương chỉ huy phòng 5. Không hiểu vì lý do gì Cương và Thái, đấu khẩu ác liệt, cãi lộn rần trời trong bàn cơm vừa dọn ra, chưa kịp ăn. Anh em không ai can gián nỗi.
Cương cậy ỷ quyền, lớn lối mạt sát hạ cấp Thái không tiếc lời. Ghét Cương từ lâu, nay anh càng tức giận và quê xệ với đàn em, khi Thái bị gián cấp. Thái phải tỏ ra ta đây đếch sợ chết, bất quá thì giống như “cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi” chứ sợ gì mà rét! Thái móc "trái na sắt" đáng ghét, dằn dộng nghe cái "cộp" trên bàn ăn. Tay anh lăm le chực mở chốt tự sát.
Cương cụt hứng, hết hăng tiết vịt, ảnh xanh mặt im re, xép ve! Ảnh không nói tiếng nào, y như con tuấn mã phi nước đại, bỗng dưng bị cây đao chặt cụt mất bờm và đuôi. Trông thật dị hợm thảm thương quá chừng.
Mấy cô lính “đơ dem cùi bắp” la hét rờn trời, lo chạy trốn tán loạn. Họ sợ “trái na” hơn sợ giặc đuổi bên đít. Các cô sợ quá hét tướng lên om sòm. Nghe điếc con ráy quá đi!
Long len lén đến bên Thái, ngọt ngào, năn nỉ anh bớt giận. Chuyện đâu còn có đó, anh sẽ được minh oan.
Sau đó, Trúc vừa khóc hu hu, từ trong xó góc hầm trú, cô chạy xộc ra vừa ôm Thái, dỗ dành. Khiến Thái càng khóc to hụ hụ hụ.
Mấy anh khác, mỗi người một câu phải trái, phân tích cho hai bên “bất phân thắng bại” nguôi ngoa. Vị “tà lọt” (anh chị em trong phòng thương mà gọi thân như thế, vì đối với ai ai, thì anh cũng chí tình giúp đỡ, ân cần dễ dãi), đến bên bạn gỡ tay Thái, lấy "trái na độc hại giết người", đem dấu vào xó xĩnh nào. Chả biết.
Anh Phước về, thấy bàn cơm nguội lạnh, ruồi bu kiến đậu ba lớp không nhúc nhích. Mặt mày ai nấy méo xẹo, ủ dột. Anh Phước khéo léo điều tra. Từ tâm và độ lượng anh khiển trách nhẹ nhàng “Huynh đệ chi binh như thủ túc”. Anh giản hòa hai người ấy rất hợp lý, mà không hề quở phạt ai.
Anh Phước đúng là một vị chỉ huy mẫn tuệ và mẫn tiệp. Phước có tinh thần cộng đồng tha nhân, có lòng hào hiệp, nặng trách nhiệm, yêu thương thuộc cấp, như em út. Nhưng, ở chiến trận anh cương quyết, nghiệt ngã với anh em sai trái, là điều chí phải. Anh cần bảo vệ sinh mạng, tài sản, cho đồng đội từng giây, từng phút.
Trúc lấy nón sắt, gỡ lớp mũ lót bên trong ra, múc nước sông. Cô vén tóc qua một bên, uống ừng ực, tỉnh bơ.
- Coi chừng bị sốt rét đó Trúc. Để Hoài lấy nước đun sôi, ở trên xe cho uống.
- Khát quá, lỡ uống rồi. Ớ! Ai vật nỗi mình, mà bệnh. Hoài ha.
Cái lớp nón sắt bên ngoài nầy, được múc thêm lần nước nữa, để làm cái nồi, nấu thịt bò kho gừng, sả, ớt, cà ri nị ngon tuyệt. "Nồi mũ sắt" treo trên cây sào gỗ, lửa đỏ trên đầu nón sắt lật ngửa ngộ ghê.
Ven bờ, rau muống phồn thịnh, hào phóng mọc từng bè chạy suốt con sông, ăn đọt thả gốc xuống nước có tí bùn đất, ít lâu sau chúng sinh sản ra “cả Làng, cả Tổng”. Ăn vào thấy ngon ngọt mùi vị Quê Hương.
Nó dễ ăn nhất, hái vào, rửa sạch ăn sống. Xào. Nấu canh. Trộn gỏi thịt heo thịt gà, thịt bò, tôm cua... Hoặc không cần pha trộn thịt thà, ăn nguyên chất, mà tươi ngon, đậm đà hương đồng vị nội.
Chợ xóm nhỏ họp thoáng chốc, khoảng vài ba giờ. Họ lo chụp giựt mua bán. Chị em Trúc lỡ đi chợ trễ, kể như không còn gì, ngoài mấy bó rau muống bầm dập. Thà có rau ăn, còn hơn ăn lương khô.
Mỗi người đi công tác đều phải cõng trên lưng một lít gạo một ngày, tha đi đây đi đó, cùng chia nhau nấu cơm ăn. Ban đầu được phát gạo sấy và đồ hộp, Trúc khoái chí ăn liền một tuần. Sau đó, thấy đồ hộp Ration C, nàng sợ, vì ngán lên tới cần cổ! Anh chị em hùn tiền, giao anh Minh đầu bếp của phòng 5 đi chợ mua rau cá tươi, anh về nấu cho cả phòng cùng ăn.
Trúc phụ anh bếp, lấy hộp quẹt Ronson, bật lò dầu nấu nước sôi. Chờ nước sôi, nàng lấy kéo cắt mấy bọc gạo, cạnh mấy keo ruốc sả xào khô. Có ngày ăn khô nướng, nấu nồi canh chua cá đồng. Món canh duy nhất, ăn với cơm gạo sấy, mà ngon miệng. Đôi khi chỉ có rau muống luộc, nước luộc rau dằm thêm trái cà chua, chút muối, bột ngọt. Thế mà họ ăn ngon hết sẫy.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp… Chương 9
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

Tiếng Hát Ru Đời Biến Loạn

Postby Ái Ưu Du » 03 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 9

TIẾNG HÁT RU ĐỜI BIẾN LOẠN



Đêm nay anh em trong đoàn Tâm-lý-chiến diễn xuất tại khu vực Chùa Ông, cho đồng bào cư ngụ ở vùng lân cận như Nghĩa Hoà, Nghĩa Hành, đến xem văn nghệ.
Chùa Ông nghi ngút khói hương trang nghiêm và uy linh, do người Hoa dày công xây dựng, được chạm trổ tinh vi từ lâu đời. Tường vách, câu đầu, xà ngang, đòn bẩy, đều chạm hình hoa lá, cây cỏ, hình người và muôn chim thật hài hoà tuyệt đẹp.
Đứng trên sân khấu nhìn xuống khán thính giả áo quần bạc phếch tơi tả, mặt mày hốc hác bơ phờ. Trông họ mỏi mệt già nua trước tuổi. Khuôn mặt lặng lẽ, ánh mắt xa xăm, đa số người già có đôi bàn tay gân guốc gầy trơ xương, nhăn nhúm nắm chặt vào nhau. Như bóp chết uẩn khúc hờn tủi, khổ đau từ kiếp người nghèo trong xã hội.
Những đứa trẻ đen đúa ở trần, hoặc mặc áo dài lụng thụng thay quần. Có đứa mặc chiếc quần cháo lòng vá chằn vá đụp. Có những đứa nhỏ trần truồng như nhộng, không manh vải che thân.
Tất cả ngồi bó gối dưới sân cỏ há hốc miệng nhìn lên. Khán giả đa số là ông bà già và trẻ em tồng ngồng. Hiếm thấy thanh niên nam, nữ, bốn mươi, năm mươi tuổi, ở trong làng.
Mỗi khi có trình diễn văn nghệ tại các khu công cộng, thì Dân Vệ, Nghĩa Quân, Công An, Cảnh Sát, An ninh Quân Đội, Quân Cảnh lo giữ an ninh trật tự, bảo đảm cho diễn viên cũng như cho đồng bào.
Quần chúng không ngừng đông lên, lớn rộng ra trong sân xem như nước tràn bờ. Họ bắt đầu leo lên chỗ cao, trên bờ tường, gò mối, ụ đất, cành cây. Giờ phút chờ đợi xem văn nghệ thật mệt mỏi, bực bội, ồn ào. Tiếng la ó chửi bới, vênh váo láu cá chửi rủa xô đẩy nhau, tranh giành chỗ ngồi, càng lúc càng kích động thêm nỗi bất bình, khi đôi cánh màn nhung đỏ chưa kịp kéo mở.
Một vài vụ đánh lộn, ẩu đả nhau đã xảy ra. Người Việt Nam vốn dĩ da vàng mũi tẹc, nhân cơ hội nầy, mũi sưng tấy lên cao (như vị cố vấn James Webb) Da vàng bủng, trở thành trắng nhợt như ma da. Hoặc đỏ gay (như ông da đỏ Joe, phụ tá cố vấn Mỹ). Người Việt mình bị "dộng cho lai căng" như rứa, trông thiệt khó chịu. Thật khó coi!
Người đàn bà hớt hãi, tất tả quảy quang gánh lên vai, vừa chạy vừa kêu to:
- Bà con ơi! Chờ tui đi coi văn nghệ với chớ.
Bà quảy "triêng gióng nợ đời", độc nhất vô nhị trên vai, lưng còng xuống những cố gắng vĩ đại. Phía trước triêng gióng, là thằng cháu đích tôn, mệt mỏi co mình ngủ gật trong thúng. Vòng tay bé vẫn ôm bức tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Chiếc nôi đời kẽo kẹt trên vai gầy bà đong đưa. Phía sau thúng kia là mớ gia tài lộn xộn, áo quần, tô chén, son nồi luộm thuộm. Hai bà cháu sống còn, dắt díu nhau, bò lê trên dòng đời đầy binh lửa.
Trăng chưa mọc nên trời tối đen. Bóng tối ghê rợn, buồn bã bao bọc làng quê, như có điều bí ẩn. Từng vết nhăn trên trán cụ già trầm tư, ngồi bó gối bên bậc thềm.
Đa số dân làng chân không nứt nẻ, sần sùi. Lớp da dày khô khan đầy đất bùn. Tơi rách trên quần áo vá chằn vá đụp. Thân hình gầy còm xanh xao, hốc hác. In dấu ấn khổ cực triền miên, lam lũ, đói lạnh, hằn trên vừng trán, dưới đuôi mắt mệt mỏi lờ đờ, nơi bao mái tóc ngã bạc trước thời gian.
Tuy vậy, họ hân hoan khi xem các đoạn hài kịch, và thích thú vỗ tay qua màn tân cổ nhạc giao duyên. Thế mới biết: Từ trong lớp vải sờn rách thô sơ, họ còn một trái tim nóng bỏng cuống quít gọi tình. Họ cưu mang tình tự quê nhà thắm thiết, dạt dào Tình Quê chân thật. Ngọt ngào, vời vợi như chất men nồng, keo thơm, toả nhựa mật từ hương hoa, khiến mình ngây ngây, say say.
Lũ trẻ con, đứa chạy, đứa bò, đứa lết đít, kéo theo những vệt bùn loang trên mặt đất ướt. Trừ đứa quá lớn, có quần đùi, đa số hầu như trần truồng. Đầu tóc bù xù, mặt mũi lem luốc như chú mèo vá. Tấm thân èo uột, bụng ỏng đít teo. Thật xấu hổ!
Ôi! Giữa cảnh khốn cùng, nghèo đói, chiến tranh liên miên, bệnh tật, thiên tai luôn bám sát người dân, dai hơn điả đói. Còn hay biết gì, mà xấu với hổ cơ chứ!
Đám trẻ thả diều, thấy Hoài ca trên sân khấu, chúng say sưa nhìn cô, liên tục vỗ tay hoan hô. Không vì Hoài hát hay, mà do các em mừng rỡ thấy người quen biết. Hoài rất thù ghét chuyện chiến tranh, nhưng nàng yêu các em thơ trẻ thật thà, mến từng vồng sắn nương khoai, nơi cư dân trong vùng nhọc nhằn vất vả lam lũ về nghề nông.
Mấy tuần nay, chiều chiều khi gió bắt đầu lên, hai “cô lính mới” thấy đôi cánh diều cao bay. Con màu trắng cụt đuôi, được nối một đoạn giấy hồng. Thêm một con diều mới, giấy bóng thân màu đỏ, đuôi khúc hồng khúc xanh. Diều sánh vai êm đềm bay lượn trên không, trông thật đẹp mắt, dưới dãi nắng vàng hanh, nhuộm đầy những mái tóc hoe hoe. Nhìn hai con diều, Hoài, Trúc, cảm thấy vui vẻ, len lõi chút hạnh phúc, ấm lòng yêu thương, nồng ngọt tình tự dân tộc dường bao!
Trúc mặc áo mini robe, bên trong có soutien nòng sắt độn khéo, nâng bộ ngực nở nang lên cao. Trúc cùng bạn biểu diễn các điệu Rumba, Bebop, Boston, Valse, Tango, Cha Cha Cha, Pasodoble. Thu Hoa ca bài: “Biệt Kinh Kỳ” của Lê Minh Bằng: “Bạn ơi. Quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...”
Phòng 5 mở đầu chương trình ca nhạc kịch bằng bản nhạc đồng ca “Vó Câu Muôn Dặm” của Văn Phụng. Một đoàn trai đi khi xuân tới. Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi. Non nước khi xa vời, ta đã yêu thương đời. Đừng e nắng gió sương bạn ơi!... (vân vân)
Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la. Ta vui câu ca, những đêm xa nhà, cùng ngồi bên đá… Mai vó câu lên đường. Đem chí trai can trường. Đời ta sống thác vì cố hương.

Đồng bào nồng nhiệt vỗ tay và reo hò “Bis” – “Bis” – “Bis”
Thế là các anh chị em đồng ca tiếp bản nhạc: “Bánh Xe Lãng Tử” của Trọng Khương. Bánh xe quay nhanh nhanh, chiếc thân xe rung rinh chìm trong làn cát trắng. Xe nhịp nhàng quay bánh lướt. Hình xe mớ khuất trong mênh mông. Ta luyến lưu một kiếp giang hồ, dù rằng cuộc sống vô bờ, tim nồng tràn máu vô tư. A ha ha! …
Tuyết Ngọc Trúc ca bản nhạc: “Gợi Giấc Mơ Xưa” của Lê Hoàng Long: Ngày mai lênh đênh trên sông Hương. Nghe gió mơ hô hồn về đâu. Sóng sầu dâng theo bao năm tháng. Ngóng về đường lối cũ tìm em…
Anh Thái Hùng đơn ca “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: Với bao tà áo xanh, đây mùa thu. Hoa lá tàn, hang cây đứng hững hờ. Lá vàng từng cánh rơi từng cánh. Rơi xuống âm thầm trên đất xưa…

Tiếp theo là đôi song ca Huy Tuấn và Lan Anh qua bản nhạc: “Gửi Người Em Gái” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng. Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng. Hà Nội chờ đón tết, hoa chen người đi, liễu rũ mà chi. Đêm tân xuân hồ Gươm như say mê. Chuông reo ngân Ngọc Sơn sao uy nghi…
Tuyết Ngọc Trúc, Hương Hoài và Thu Hoa trong tam ca: “Ngàn thu Áo Tím” của Hoàng trọng, Vĩnh Phúc: Ngày xưa xa xôi em rất yêu mầu tím. Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến. Chiều xuống áo tím thường thướt tha. Bước trên đường gấm hoa. Ngắm mây chiều thướt tha…
Tiếp theo là đồng ca bản nhạc “Huynh Đệ Chi Binh” của nhóm AVT - Lữ Liên– thì trong sân Chùa hầu như được bản nhạc vui tươi nầy làm cho kích động thêm, đồng bào hâm mộ nồng nhiệt vỗ tay hưởng ứng và hứng khởi hẳn lên.
Thế rồi vỡ bi kịch cũng không kém phần sống động, và gần cuối chương trình là hài kịch vui tươi lành mạnh, cười ra nước mắt, được xen kẽ trong những vũ khúc xuân tình lả lướt mời mọc, những điệu hò câu hát dân ca Nam-bộ. Hò Mái Nhì, hò dân ca Quan-họ thật ý nhị súc tích, trữ tình, được các anh chị em nhiệt tâm cung hiến cho qúy khán thính giả xem say mê.
Buổi công tác nầy, Trúc không đạt kết quả, bị phê kém nhất, kể từ khi đi làm. Làm sao được! Khi trong bất cứ hoàn cảnh nào, Trúc muốn vươn lên, cố gắng hết mình, dù thật khó khăn. Lòng dạ nào mà ca với múa, khi nhìn đồng bào cơ cực lầm than đến vậy?
Đêm trình diễn văn nghệ rất thành công, kết thúc tốt đẹp. Tấm màn nhung đỏ khép lại lúc gần một giờ sáng. Đồng bào vui vẻ ra về hết, chừa khoảnh sân chùa Ông trở lại vắng lặng, buồn bã như cũ.
Cả đoàn tâm lý chiến hì hục tháo gỡ rạp sân khấu, lụi hụi chất đầy cây gỗ nặng lên hai chiếc xe GMC. Anh Thái căn dặn đoàn đi công tác, phải hết sức dè dặt, cẩn thận:
- Đi đâu, các anh, các cô đi chung, không đi lẻ tẻ. Bị bắn tỉa, bắt cóc bịt mắt, dẫn vào "bưng". Chết đa.
- Mình đi làm chuyện giúp ích, hữu dụng cho mọi người mà. Anh nói gì, nghe ghê thấy mồ vậy? Anh Thái!
Đoàn công tác phòng 5, leo lên ba chiếc xe lính, chạy đến vùng Sơn Hà. Phòng 5 giữ một khẩu liên thanh nhẹ ba càng, đạn lên nòng, phòng hờ khi bất trắc. Thật ra, chưa bao giờ đoàn người nầy phải sử dụng nó.
Hoài sợ nhất là tiếng súng đại bác đặt phía chéo ngọn đồi, nghe chát chúa, lạnh lùng, khô khan, mãnh liệt, chính xác. Mặt đất rung chuyển, gầm rú vang động dữ dội, hung tàn, man rợ. Sức ép của nó khiến ta nghẹt thở, lồng ngực nóng ran cào xé đau buốt, nhức nhối vô cùng.
Sau bao ngày "ác ôn côn đồ" đó, đoàn được trở về hậu cứ. Việc đầu tiên, khi về đến thành phố. Hoài vội vàng thay bộ áo quần nặng nề khó chịu, (Thắng đã nói). Hoài đi tắm gội, kỳ cọ sạch sẽ. Sợ "hơi người chết" còn bám riết theo.
Sau đó, cùng Tuyết Ngọc Trúc dạo phố mùa xuân. Ăn phở và đi ciné phim "Hopy a Writ" do Robert Mitchum thủ vai chính. Hai cô hớn hở vui mừng, cười nói huyên thuyên. Y như họ bỏ thành phố nầy từ lâu lắm, nay vui mừng trở lại. Thế mới biết thương người lính quanh năm suốt tháng, trấn giữ nơi ngàn chốn bom đạn ở sơn khê.
Tan ciné, Trúc gặp bồ tèo, cô cậu năn nỉ Hoài cùng đi tắm biển Thanh Bình, hay Tiên Sa. Hoài không thích tham dự, bỏ về nhà ngủ li bì đến tận chiều.
Thức giấc, Hoài nằm vắt tay lên trán nhìn vu vơ ra ngoài khung cửa kính, gió chiều xô mạnh những cành cây me, là sà quật lui quật tới, cọ xát trên mái nhà nghe rào rào, lá me bay bay, rơi rụng hoặc dán chặt đầy ô cửa kính.
Nàng ngạc nhiên nhìn quanh, vì mùi hoa hồng thoang thoảng thơm. À thì ra... mấy nhung hồng đã đứng trên lọ sứ, mỉm cười khoe cánh. Hoài nghĩ "Hẳn là hoa của Thắng mang đến, anh biết Hoài thích hoa hồng mà".
Quả thực, khi xuống nhà rửa mặt, chị bếp vui vẻ nói:
- Cô ngủ say quá! Cậu ấy đến đây, ngồi ngoài phòng khách đánh đàn, như ong, như ó kêu. Vậy mà cô không nghe gì cả. Tôi nói để tôi vào kêu cô dậy, cậu ấy không cho, nói là cô đi làm rất khổ cực, mất ngủ luôn. Cậu Thắng ở Saigon về ba ngày rồi. À, cậu có gửi cho cô con mèo lông xù bằng gòn, hay bằng cái gì mà đẹp ghê. Hộp kẹo. Hai quyển sách gì đó.
Hoài cười thân ái, "mình mất bảy ngày thức trắng đêm, vì sợ ma, sợ xác chết kinh khủng. Bi giờ không ngủ li bì sao được".
Nàng ra phòng khách, lấy hai quyển Le Bossu de Notre Dame và Les Miserables của văn hào Victor Hugo. Nàng thích thú lật lật vài trang sách mới thơm mùi giấy.
Hoài ngồi xuống sofa, bắt đầu đọc Les miserables.

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp ... Chương 10
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

10 * Tuổi Xuân Hồng

Postby Ái Ưu Du » 07 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 10

TUỔI XUÂN HỒNG




Nhiều mái nhà tranh lẫn khuất dưới vòm cây màu lục, từng sợi khói lam nhạt, rụt rè vươn lên nền da trời xanh bát ngát. Trên đỉnh núi Thần Phong, tháng năm chất chồng, mưa gió xói mòn đục khoét, phơi bày các hốc đá mòn khuyết giữa kẽ nức rêu rong ẩm ướt.
Ngửa mặt đón gió lạnh lồng lộng thổi. Giơ tay ôm ngàn mây bay qua. Sờ cây rừng sần sùi trơ trụi, khẳng khiu, mọc rải rác còn đứng vững. Tuy vậy Trúc cảm thấy bình yên. Nó che đi dấu vết tháng ngày chinh chiến điêu linh cơ cực. Xoá bớt chứng tích hận thù, làm con người nghẹt thở, âu lo.
Chiều chiều mặt trời ngả mình trên triền dốc, chiếu tia nắng vàng thau giã từ vạn vật, bè mây lơ lửng trôi về mở hội ở phương Tây, sương ngập thung lung buồn. Thì Hoài thích rủ Trúc thở hềnh hệch leo trăm bậc thang, đi ngoằn ngoèo quanh những giao thông hào đào sâu dưới lòng đất, như con rắn uốn lượn trên sườn đồi, đi lên gần nóc chòi canh, cao chót vót, nhiều bụi cỏ hôi, cỏ mắc cỡ lá kép đầy gai mọc chằn chịt gần những ụ hầm đất cát. Nắng vẫn còn tươi như đổ thêm lửa hừng hực xuống nóc hầm.
Hai cô đứng lẻ loi, chơ vơ, u hoài nhìn xuống làng mạc, ruộng vườn ẩn hiện dưới áng mây bay qua ngang mặt. Giờ phút như thế, Trúc thấy Hoài có lý, hầu như nàng trút bỏ được cảnh đớn đau nơi chiến điạ. Ngỡ rằng dưới kia là một cảnh đời khác hẵn, toàn xa lạ, mà mình không hề nhập cuộc. Chối bỏ sau lưng, cuộc đời phiền toái, đang cố lãng quên.
Dưới thung lũng, nơi bãi cỏ lưa thưa vừa đủ rộng. Khói xanh bay lên, báo hiệu bãi đáp an toàn. Trực thăng đáp xuống, kêu ầm ầm, cánh quạt quay tít mù, tung đầy bụi đất, thành luồng gió lốc xoáy tròn, dâng tít lên cao, cuốn theo bao nhiêu giấy má rác rưởi.
Mấy quân nhân từ trong chân đồi chạy ra, cúi rạp người xuống, đầu ngả về phía trước, lom khom bước nhanh đi. Tay giữ chặt nón đội đầu. Có người bị hắt về phía sau theo chiều gió đẩy.
Bầy trẻ kêu réo nhau từ mọi ngỏ ngách trong thôn làng, ùa ra xem trực thăng đáp. Có một đứa trẻ ốm yếu, luống cuống trước sức gió xô, em không biết làm gì, loay hoay bò lui, bò tới, trên bãi cát. Bằng tất cả sức mạnh của hai bàn chân bé tí, em lẽo đẽo theo anh chị lớn, bò lết đến gần hàng concertina, sau lưng để lại vệt đất dài. Dấu chân bé in lên mặt cát ướt, tạo thành những lỗ trũng dồn dập ven bờ, phình to hơn bàn chân em vừa nhấc lên gấp bội.
Bầy trâu biết nhớ đường lững thững về chuồng, đứng lại ngóng cổ ngơ ngác nhìn lên í ọ. Vài con chó vá sủa vang, chạy một quãng, đến ngả ba, ngả tư, thì dừng lại, nó co chân sau nhỏ vài giọt nước đái vào thân cây.
Chiều chiều, có một đám trẻ thả diều, rong chơi dưới bãi cỏ hanh vàng. Con diều giấy tập học trò chao đảo trên không trung, xoáy tròn nhiều vòng, một bên đuôi rách toạt rời thân, bay lông lốc về cuối trời. Đầu diều xoáy tít trong không khí, vút lên cao rồi chao xuống thấp, uốn lượn trong không gian phất phới nắng vàng. Hai tai râu xoáy tít trên trời.
Các em bé đứng dưới chân đồi, ngửa mặt nhìn lên, dậm chân kêu la ơi ới. Gió bay phồng lưng áo trẻ, tóc các em rối tung giữa bầu trời thênh thang. Các em là con của các gia đình Nghĩa Quân, Dân Vệ, Trại Gia Binh, và thường dân di trú, trong khu dinh điền di cư, trong rào Ấp Chiến Lược ổn định kinh tế, sát vùng phi quân sự.
Các em ngửa mặt nhìn lên cao, nhiều bàn tay nho nhỏ cùng nhau giơ ra, cầm chặt sợi cước, cố lèo lái con diều.
Bỗng dưng, con diều lao mạnh xuống đồi, gần bên chân Trúc, bụng mang theo sợi cước trắng đục, cong queo dài lòng thòng. Một đuôi còn lại ngóng mình bay bay. Như cố vươn lên, tìm về cố chủ.
Hoài nhìn sững con diều giấy. Tần ngần giây lát, nàng nhặt lên, nhìn xuống chân đồi tìm kiếm. Đám trẻ con đứng dậm chân dậm cẳng, chỉ chỏ và “la ó” những gì. Hoài không nghe thấy. Bọn trẻ í dzà… tiu nghĩu buồn xo.
Hoài mỉm cười, nói với Trúc:
- Mình đem con diều xuống trả, chắc là các em mừng lắm. Trúc há.
- Ừ. Trúc kéo, Hoài cuộn sợi cước. Nghen.
Dáng chiều ập nhanh xuống, bao trùm mảnh đất hoàng hôn đau thương nầy, trong ghê rợn và cô tịch đáng sợ. Đom đóm bay chập chờn, nhiều vô số, lúc tắt lúc sáng. Ếch nhái uồm uộp kêu inh ỏi dưới ruộng. Dơi chao lượn vun vút, phát ra nhiều tiếng dzíu dzít khi bắt muỗi. Vài ba con chó tru hú từng đợt dài. Nghe thật ghê tai.
Không gian bỗng rào rạo tiếng đạn trái phá, tiến về hướng Đông ngọn đồi, như chấm sáng của vì sao băng. Lửa tóe ra từ đường đạn bay vút vút, kèm theo nhiều tiếng "xíu... xít" rít khô khan kéo dài.
Nếu không phải ở vùng giao tranh, Trúc tưởng như nhìn pháo bông, ngày Tết năm xưa thanh bình. Khi nỗi khiếp sợ tột cùng đã chứng thực len lấn vào lòng. Cô không biết gì ngoài sự sợ hãi kinh khủng, lên tột đỉnh. Trúc sợ toát mồ hôi hột, mặt mày xanh xám. Cô vội chạy xuống trăm bậc cấp, về với gia đình quân nhân và bạn bè. Cầu mong sự ân cần, an ủi và lân mẫn của con người.
Hoài lo sợ không kém vội vàng cầm con diều, nàng chạy ngang qua mấy quân nhân đang dùng dao găm lúi húi đào lỗ. Công việc thật nặng nhọc và nhiêu khê quá chừng.
Khả năng và kinh nghiệm quá hạn hẹp, nàng muốn làm một cái gì, dù bé nhỏ, âm thầm cho người khác vơi nỗi đau. Nàng thấy được yêu thương an thư nhiều, và nàng mong được bù đắp ngược lại.
Dưới chân đồi, trên bãi cỏ ươm vàng, vắng hoe không một bóng người. Đám trẻ chắc chắn đã dày dạn kinh nghiệm chiến tranh. Nên chỉ chớp mắt, chúng chạy thoát thân, lẫn trốn lúc nào, nhanh thật là nhanh.
Chiều hôm nay, sau khi làm xong công việc, Trúc lên đồi ngồi chờ đám trẻ. Đúng như hai cô dự đoán, đám trẻ tụ tập trên bãi cát, mấy đứa chơi rượt bắt cứu tù, nhảy dây, u mọi, đánh đáo. Có một tụm năm bảy em đang ngồi xếp vòng tròn trên bãi cỏ (mà hôm qua chiếc trực thăng đã đáp xuống). Các em cùng hát đồng giao, không chơi thả diều nữa.
Bọn con trai ba đứa leo lên cây sấu, quệt nhựa mít vào thân cây, bắt ve sầu. Vài đứa cỡi lưng trâu, hoặc đùa với bầy chó. Chúng lui cui đào khoét lỗ đất, múc nước đỗ đầy vào hang, bắt dế. Dế chưa chui ra, mấy đứa con trai, tự nhiên vạch quần đùi đái vào hang lỗ.
Trúc ra hiệu, Hoài đứng ở giữa sân Bộ Chỉ Huy biết, là bọn trẻ đã có mặt. Hoài giơ tay vẫy chào bạn, cầm con diều cụt đuôi, ba xấp giấy bóng màu đỏ, hồng và xanh lá cây, ba cuộn cước, hồ dán, xuống chân đồi, ra bãi cỏ pha cát.
Đám trẻ không ngờ Hoài đem trả con diều. Các em ngẩn ngơ phút chốc. Bỗng, ồ lên reo mừng hoan hỉ. Vài em giơ tay cầm. Cám ơn rối rít. Có đứa nói:
- Cô ơi! Tụi cháu tiếc con diều nầy lắm. Nó bay cao nhất Làng cháu đó. Tụi cháu bị mất con điều, thiệt buồn. Cô à.
- Ai ngờ được cô lượm, đem trả. Cám ơn cô.
- Cho các cháu thêm giấy làm diều. Đừng xé sách học nhe.
- Dạ. Trời ơi! Giấy đẹp quá! Tốt quá!
- Nhất Làng ta rồi.
- Nhất Xã, chớ nhất Làng gì mầy.
- Tụi mình sẽ lại có con diều quá đẹp, cầu cho nó bay thiệt cao.
- Con diều mới sẽ đẹp nhất Xã rồi. Tụi bay ha.
- Rứa thì tụi mình tới nhà thằng Tỵ, làm điều liền hè.
Một đứa bé vụt chạy về phiá hàng rào cây, chui tọt qua kẽ hở giây lát, rồi trở lại ngay, với chiếc rỗ con con. Bên trong đựng khoảng mười trái ổi xá lị, da vàng xanh bóng láng, thoảng mùi thơm thơm. Cô bé thở hổn hển, nói:
- Cái nầy cho cô.
- Không.
- Ủa! Sao cô không nhận?... Thì ...
Đám trẻ nhao nhao lên:
- Cô ơi! Nhà con Tằm có cả trăm cây ổi. Nhằm nhò chi mấy trái nầy. Mà cô lo hè.
- Lần sau cô, chú, muốn ăn ổi, thì tới nhà nó mà mua.
- Chớ cô lo gì... cha mạ hắn lỗ vốn hè.
Hoài bật cười, cầm chùm ổi, xoa đầu đám trẻ ngoan. Hoài cám ơn và quay gót. Nàng thấy tiếc cho những em nhỏ kinh khủng! Các em xinh đẹp, thông minh. Vâng lời, hiền lành lễ phép, có tình nghĩa xóm làng. Nhất là đa số qúy trọng thầy cô, có thể hơn trẻ em thành phố.
Sống nơi vùng xôi đậu, tranh tối tranh sáng, chiến tranh liên miên. Khổ cực. Nghèo nàn. Lo sợ. Rủi nhiều hơn may. Sự sống như chỉ mành treo chuông. Ôi! Hoài thương các em xiết bao!

_ * _




Kính mời qúy độc giả xem tiếp ... Chương 11
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

11* LÍNH, với NỖI YÊU THƯƠNG DÀY VÒ

Postby Ái Ưu Du » 15 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 11




Trên ngọn đồi, nhìn xuống thung lũng trước mặt, là cầu đúc mang tên Cộng Hoà, sơn trắng, dài ngót một cây số, cầu móc từ bờ nầy sang bờ kia. Bãi phù sa và cồn cát vàng mịn nổi lên mặt nước. Như cù lao rồng giữa dòng sông xanh mênh mông. Mặt sông bồng bềnh bèo và lá khô mỗi khi nước xuống, nước lên, nước đứng, nước rút.
Mang theo bao mộng ước thời Trọng mới lớn, thả mặc tình yêu đơn thuần giữa dòng thác lũ, như canh bạc về khuya. Anh xã láng cuộc đời trai trẻ, trên những mưu toan đen đỏ thời cuộc, và rủi may của số phận đẩy đưa.
Trúc suy nghĩ liên miên, khi nhìn xuống mái nhà Trọng, cô thầm nhớ ông Sáu, có tên là Linh ở trong Xã nầy. Trọng ghét ông chú kinh khủng, đến nỗi anh nhập tâm. Thấy ông và những trò hề ông làm, mà anh "giựt chắt". Anh khinh thường chú, không phải vì chú ruột, mặt mày bặm trợn, trông cô hồn, làm thầy cúng, thầy bói, huyện đề...
Ông vẫn cười gằn nói "Đa nghề thì dễ bề hoạt động". Câu nói ngụ ý chẳng lành, khiến Trọng điên tiết. Anh không láu cá hỗn láo, ngang tàng, hay ỷ mình có chút kiến thức đâu. Bởi, anh biết "cái tẩy" ác ôn, lưu manh gian trá. Nhưng miệng lưỡi chú ngọt như mía lùi.
Ông chú về Nam mượn cớ: đã "tu nghiệp đa nghề". Nay lân la đầu trên xóm dưới nghe ngóng, thu lượm tin tức. Ông giả vờ nhậu không say, không xĩn, không về. Từ kiến thức hẹp hòi, đến tâm tư nhỏ nhen, khả năng của ông tầm thường. Nhưng việc điềm chỉ thì ông rành mạch. Mà, bạn anh nói:
- Đó là thứ tà lọt chuyên tò le mách lẻo, đưa xóm làng đến tận cùng bằng số. Không có gì quý hơn chết chóc, điêu linh mút chỉ cà na.
Bề ngoài con người biểu kiến ấy, không ai đoán biết ông thực sự nghĩ gì. Ông ít nói việc "chính chị chính em", nhưng trong lòng ông ghim gút rất phức tạp, ích kỷ hại nhân, quá qủy sứ. Ông học chẳng biết “chữ cu chữ cò, mà chữ như rồng như rắn”. Ông qua mặt dân hiền "hoạ hổ hoạ bì, nan họa cốt. Tri nhân tri diện, bất tri tâm".
Thế nhưng, ông không thể qua mắt Trọng bất cứ điều gì. Trọng quyết liệt phản đối ông kịch liệt. Tội ông hãm hại đồng bào, không thể dung tha, dù hại người hay giết người, vì bất cứ lý do gì, trong vùng chiến tranh liên miên, cũng là sai. Sinh mạng con người bình đẳng, đầy nhân phẩm, tự do cao qúy trân trọng như nhau. Không ai có quyền hủy diệt, tước đoạt sự sống hay sự tự do tư tưởng cuả người khác. Dù bất đồng chính kiến, hay đổ lỗi do liên đới vì chiến tranh. Thế thôi.
Ông rỉ tai phao tin các vườn rau, bị ai đó rải chất hoá học cực độc, nên rau ở chợ ế ẩm không ai mua, sình thúi. Ông còn phao tin nước ven sông bị bỏ thuốc sát trùng, khiến lũ chuột chù, chuột chũi, chuột cống, chuột hôi, chuột đồng, chuột lang, chuột nhắt chết la liệt. Giếng tư nhân có nhà lại lén bị bỏ thuốc độc. Khiến bà con sợ hãi, không tin tưởng bất cứ kẽ lạ người thân, họ phải làm nắp giếng khoá chặt. Không cho người ngoài được xài chung.
Chó là điều ông đại kỵ, ông đi đến đâu, nó sủa đến đó. Hình như nó đánh hơi biết được lòng lang dạ thú, chó không tiếc "lời" gâu gâu tố giác. Tiếc thay! Ít ai hiểu chó muốn "nói" gì.
Ông sống sung túc, no đầy phủ phê, nhờ bà con làng nước nhẹ dạ, mê tín dị đoan, họ nghe giọng lưỡi ông ngọt xớt, như mía lùi. Ông trổ tài khuyển mã khá lưu loát. Nhặt ba thứ lá tầm phào đem về, ông cho tà lọt xắt nhỏ trộn lẫn, đem phơi vài ba nắng. Nếu ai cần, ông bán với giá cắt cổ.
Trọng nghĩ câu ca dao “Chổi cùn cắp nách khăng khăng. Hễ ai hỏi tới, thì văng nghìn vàng”. Thật đúng cho ông chú nhà mình.
Nắng gió trở trời, đau đầu đau bụng, hắt hơi nhảy mũi, họ lo chạy đến ông, nhờ coi mạch. Lúc đó "thầy nổ" lên mặt luyện phù chú. Chuyện nhỏ mà! Còn nhiều pha gay cấn, ghê hồn hơn. Ai đau ốm nặng nhẹ mặc lòng, ông bắt đàn bà thắt bín đuôi sam. Đàn ông húi cua, ông nói:
- Để tóc dài che mặt, thần linh không thấy, tóc "chọt" vô mắt, đỏ mắt, không còn “đôi mét là cửa lộ” của tâm hồn, cho thần linh rọi vào.
Bà con làng nước nghe “văn chương", của ông thật đúng là tóc chọt vô mắt, thì tất nhiên phải đỏ mắt, bùi tai sao mà ông thiệt hay đáo để! Có nhiều nông dân bị đau răng, ông xe sợi chỉ, quấn một đầu chỉ vào cây đinh mười, đóng trên cột nhà, đầu kia ông cột vào chiếc răng. Cứ thế, ông lôi họ ra bẻ răng. Mặc họ dùng cả sức mạnh hai bàn tay, đẫy cái cột nhà. Họ ré lên eng éc... é..ec..., như con heo bị thọc tiết, máu chảy có vòi.
- Bựt!
Ông tự hào vỗ ngực, xong rồi! Đồ iả cái rẹt! Sơn Đông Mãi Vỏ, nhổ răng còn thua ông!
Bị ngất xĩu, ông cho con Nụ gỉa tép sả, bắt thằng cu Út rặn ít nước tiểu, hoà tí muối, ông cho bệnh nhân uống. Bị chảy máu cam, ông nhét đầy cục tóc rụng vô hai mũi. Bà con muốn ngộp thở.
Không còn tóc rụng, ông thản nhiên kêu con Mót vô sau hè nhà, cắt túm tóc đuôi gà nhu nhú. Tóc con bé càng ngày càng sát da đầu. Nó tức mình, chột dạ nhảy đành đạch, khóc ngất... Vì mấy thằng con trai trong xóm cứ chọc quê nó là:
- Ê ! Cái đồ ái nam ái nữ.
Nó thiệt chịu thua ông thầy chạy! Bị ghẻ hờm do vắt, đỉa cắn, ký sinh trùng gây ra ngứa ngáy, đau nhức khó chịu, bưng mủ sưng tấy. "Thầy nổ":
- Rứa là, do ăn ở không có đức, gây ra.
Người ấy thẳng thắng lý sự lại:
- Ồ, rứa thì có bốn thứ: Lé, lùn, hô, sún, thầy chiếm hết ba rồi. E là do rứa?
Mắc cỡ và tức mình, không trả lời được, ông để bụng thâm thù. Ông qua mắt đa số dân quê chất phác, gạt họ tin ông như điếu đỗ. Ông nói voi, họ tin voi. Ông vẽ vượn họ tin vượn. Người giàu có hậu tạ xứng đáng, thôi cũng đành. Người nghèo khổ bần hàn, cố sức bán chát, moi móc chạy vạy, mua thức ngon vật lạ, kết cỏ ngậm vành, dâng biếu ông.
Dân nghèo cúng xôi chè, lương đăng trà quả. Nhà giàu thêm gà luộc, heo quay, bò tái, bê thui. Sau khi cúng, chủ nhà biếu thầy hậu hĩ.
Ông ngồi trong mát ăn bát vàng, moi tiền bạc của dân, bằng thích. Tiền họ đưa ông, làm ma chay đình đám, ông ngắt nhéo chỗ nầy một ít, chỗ nọ một ít, nhét đầy vào túi quần. Cất tiền trong bóp ông cứ nơm nớp lo sợ. Nằm ngũ trên võng, một mắt nhắm, một mắt mở, ông đề phòng mất cắp.
Có tật gian trá thì hay giật mình. Y như rằng, có một lần, ông mãi chen lấn vào đám Sơn Đông Mãi Võ “coi mê tơi”, coi say sưa. Coi khỉ cởi xe đạp. Khỉ ăn cắp bánh bao. Ông bị mất tiền thật, tiền bạc không cánh mà bay lúc nào, ở đâu chả rõ.
Ông lạch bạch đi quét dọn, moi móc khắp mọi xó xỉnh. Tiếc của ngẩn ngơ, ông đi kiểu tăng gô xì lô bộp nửa mùa, với cây chổi cùn luân vũ. Ông hùng hục vừa tìm, vừa chửi đổng. Nghe dễ mất lòng. Dễ đỗ quạu. Dễ xa nhau. Dễ giận nhau. Dễ ghét nhau. Dễ tức nhau. Dễ đánh nhau. Khổ ghê đi.
Ông khóc hụ hụ hụ hụ. Đàn chó trong vườn, nghe tiếng chủ la rống, chẳng những hôm đó chúng không sợ chủ đánh đập tàn nhẫn, như mọi ngày. Chúng bắt chước đàn chó hùa theo chủ, tru tréo hú họa từng hồi inh ỏi. Vang làng vang xóm. Thật kinh sợ hết biết, cái đời ông thầy dõm. Cái ông thầy cà chớn.
Ai khuyên lơn chi, ông cũng lì lợm, như đàn gải tai trâu, ông khoái chí biết danh ta, nổi như cồn ngoài nhà bà Ba Cu. Bà Ba chịu đèn mê ông tít thò lò. Bà có nuôi ba con cu, nên họ gọi bà là “bà Ba Cu”. Ừ, thì quả thật bà điệu nghệ có nuôi chim cu hưởng nhàn. Ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Tuần sau, có dịp "tạo vốn" khác, tiền lời to gấp ba lần số tiền đã mất. Sung sướng quá, lúc ăn cơm khề khà uống rượu, ông nói nhỏ với người nhà (Trọng ngồi ở trong phòng riêng , nghe:
- Mình lồm en với cái bợn đàn bòa, dưới đất chun ra, ngu như con bò tót ni, rứa mà khá dữ đa! Thật sướng rơn người. Nghe mậy! Tiền bạc nẫu lo tau đều chi. Không thiếu một hào, một trự. Đôi khi tau bốc phét lên, là việc ni thầy lo không xuễ. Phải lo cho cấp sư phụ của thầy. Nẫu tin như điếu đỗ, đưa tiền cho tau hậu hĩ. Rứa là mình giả đò mẹc áo, ra bà Cu ở lại mấy bữa. Lại ăn chặn bên ni bên tê, thêm một mớ. Thiệt sướng rơn người. Nghe mậy.
Trọng nghe ông nói, lòng bỗng dâng lên nỗi yêu thương ruột thịt và nỗi hận dày vò. Anh càng khinh ghét chú, Trọng muốn ra dộng vô mặt ông một cái thẳng cánh, chửi ông một trận. Tới đâu thì tới. Nhưng bứt dây động rừng, anh thương cha mẹ già quá.
Thượng cẵng tay, hạ cẵng chân, cứ thế ,ông vơ vét của dân làng hiền hậu ở nơi thâm u cùng cốc, kể cả bà con ruột thịt, không chừa một ai.
Trúc nghe Trọng than thở, nàng cảm thấy càng ghét ông thầy hơn Trọng nữa. Hai tâm hồn Trúc Trọng đồng điệu, thu hút quyện mắc vào nhau sít sao, như cục nam châm, trước bối cảnh lịch sử đối nghịch, bất đồng chính kiến trăm phần trăm. Làm sao họ yêu nhau, xe tơ kết tóc, xây dựng tình yêu trên hoang tàn rách nát tơi tả. Từ trong gia đình ra tới làng mạc, quê hương. Làm sao yêu nhau đến cuối cuộc đời? Cay đắng - đau xót dường bao!
Bỗng đâu, một con khỉ khá lớn, từ trên cây rừng nhảy xuống cái độp. Khiến Trúc giật bắn người. Cô chưa kịp hoàn hồn, con khỉ xô Trúc ngả lăn ra đất. Nó vội chộp cái nón sắt, thoăn thoắt leo lên cây cao. Nó chí choé khò khè gãi đầu gãy mông tứ tung. Đội mũ sắt vào, nó ngồi chồm hỗm trên cây, kêu chí choé, hi hoáy nhảy nhót chỉ chỏ xuống đất.
Trúc điên tiết, không có cách gì dụ nó quăng mũ xuống, dù cô đã mỏi nhừ hai tay, cô lui cui ném đá xuống đất. Nó chả thèm bắt chước. Ở trong vùng chiến tranh “nó ma lanh” còn thua ông chú. Khỉ ta đội nón biến mất tiêu trên những tàng cây rậm trong rừng sâu.
Ra chiến trường, Trúc không khôn ngoan, không có mũ sắt. Kể như thua.

_ * _



Kính mời qúy độc giả xem tiếp ... Chương 12
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

12 * Lính Trầm Tư

Postby Ái Ưu Du » 16 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 12

LÍNH TRẦM TƯ
(Kỷ niệm ngày Quân-lực . . .)




Hoài nhớ những chiều năm cũ, dọc theo bờ suối, nhớ tình yêu vô cớ tàn phai phi lý. Từ cánh bướm chập chờn do dự, dẫn Hoài về bao ngày hái hoa bắt bướm, ép khô trong trang sách học trò, nơi ngôi nhà xưa. Nàng thấy người thân trong gia đình, qua từng đoá hoa pensée, hoa violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng, tím, hồng, mãn đình hồng, sen địa v.v... Hoa bằng lăng màu tím luyến thương rộ nở, cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoài quay trở lại thuở nhỏ, cùng ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối.
Hoài ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long, xuôi về Bao Vinh, dẫn Hoài theo dòng lưu thủy, tan vào cuối nguồn. Nước từ dòng sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang, đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà, ưu ái hòa thông ngoài biển rộng bao la. Yêu thương luân lưu đến đầu non Minh Long, Tà Noát. Có thể lắm!?
Rồi cánh bướm vụt bay đi, không buồn quay lại bên đoá bằng lăng yêu kiều, để Hoài ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình trong ca bin xe. Hoài nghĩ đến Tình Quê. Nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ. Xóm, Làng nầy, gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng nỗi chiến tranh đau thương.
Hoài nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất, có dòng sông lặng lờ uốn khúc nhấp nhô cánh lục bình, bụi dừa nước, tàu lá xoè to đâm thẳng lên trời. Nhà nào cũng có bụi chuối lùm tre, gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau dây trầu óng ả, quyến luyến tình thân.
Trên đọt cây cau, dây trầu, dăm ba chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình, tán tỉnh cô nàng ve mái yêu kiều. "Chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh, đỏ rực màu lửa với "cô nàng" làm le, làm dóc, ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp nhất: "Em... ve ve ve! Em... ve ve ve”...
Trên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng, rơi rào rào trước sức gió nghiêng ngã, dồn dập xô về. Bất giác Hoài nhìn mãi lên bầu trời cao, thầm mong mình bắt gặp một trong đôi cánh diều thân thương, chao lượn trên không hết sức! Mong hết sức.
Đôi khi nàng mở to mắt, nhìn đăm đăm về phía trước, mong chờ những hình ảnh không hẹn. Lúc nào đi qua chốn cũ, thốt nhiên Hoài cũng có những cử chỉ dáo dác, kiếm tìm vài em bé miền quê vừa biết, nhưng chưa quen mặt.
Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế, không biết bao lâu, từ phía sau hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm tịch thu của Cộng quân.
Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt, quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, vui vẻ nói:
- Em xin giới thiệu: đây là Hương Hoài. Cô gái vừa rồi ngâm bài thơ “Tình Nhớ Tha phương”, mà anh Đan hỏi: "Ai rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hoài.
Hoài chào hai chàng trai, họ mặc áo trận, bạc màu nắng gió khói sương. Họ không mang phù hiệu, cấp bậc, huy hiệu. Ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch. Khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường trên bờ chiến tuyến, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa.
Họ hiên ngang đánh chiếm, giành lại, gìn giữ lại từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa, dân cư, quí từng mảnh đất thân yêu trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật.
QUÂN NHÂN CỘNG HOÀ VIỆT NAM anh dũng và lẫy lừng, qua chứng tích đã đạt được, những trận không tập, có cường độ oanh tạc tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị.
Không cần huân chương, mề đay, họ tặng lại cho Thu Hoa, đem về nộp chiến công đó, làm thành chiến công riêng mình.
Đan đứng chống tay ngang hông, trầm ngâm hút thuốc lá. Vầng trán cao rộng thiên tài, biểu lộ con người thông minh. Dáng hiên ngang oai dũng, dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước. Đôi mắt khá đẹp ẩn dưới hàng mi dày cong vút, anh nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý. Anh nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, rồi nhìn hoa bạch đàn nở vàng cây phía trước.
Thấy ngón tay tháp bút vàng khói thuốc nơi hai ngón tay, và, không đeo nhẫn của Đan, Hoài chợt thấy lòng vui vui, niềm vui lâng lâng khó tả.
Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay đón bắt. Sau đó Văn quay qua, vỗ vỗ vào vai bạn thân, trêu đùa:
- Thế nào? Anh bắt tôi cùng lội qua sông Nghĩa Phú, cho bằng được, để anh... có dịp làm quen, nói chuyện, với người em đồng hương của anh. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi. Sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh?
Đan ngẩng nhìn Hoài qua hàng mi cong, che nửa giếng mắt u buồn. Nét mặt anh trông nghiêng, như khắc trên tấm phù điêu, đầy vẻ kiên cường, bất khuất. Môi anh thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo mắt hữu tình. Phút định mệnh thật tình cờ đọng lại, qua nụ cười nhã nhặn quá đỗi:
- Ấy... đứng trước giai nhân thì... bao nhiêu dự tính tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông rồi, mới biết là sông sâu, nước lạnh. Khó dò.
Bỏ thói độc hành, để song hành cùng người mới gặp, Hoài nhẹ nhàng mỉm cười:
- Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, anh đã vượt thắng sông núi kia rồi. Vì, dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước đó. Anh đạt vài ý nguyện. Bằng cách, Hoài đối diện, và đối thoại với anh đây.
Văn ngửa người ra cười ha hả. Vỗ bôm bốp vào vai bạn mấy cái:
- Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
Thu Hoa reo lên như tiếng chim. Cô nói:
- Hoài là cô bé cưng dễ thương nè! Nhưng thương không dễ à nha. Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoài còn cô-đơn nhất..
- Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
- Ê! Bồ tèo. Trưa nay, tui cho bồ nhịn đói à.
Văn khoát tay lia liạ:
- Đừng lo Hoài. Anh hân hạnh mời em dùng cơm. Kể từ hôm nay.
Thu Hoa chúm hai môi, nguây nguẩy giây lát, nói:
- Hai anh không mời em há?
- Dĩ nhiên anh muốn mời em nữa. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, vì... cảm động nè.
Màn đấu hót tay đôi giữa, Văn và Hoa, nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít, cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
- Em ở Huế, đường nào vậy?
- Dạ, nay thì ba má em ở Mỹ Chánh. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm nhỉ?
- Rồi... quen thôi em. Lâu nay em có về Huế không?
- Không anh à. Em ở Đà Nẵng.
- Anh biết rồi.
Ngạc nhiên, Hoài tròn xoe đôi mắt nhìn anh, hỏi:
- Anh biết... Hoài?
- Có gì đâu. Ngày đầu tiên, anh thấy em leo lên đỉnh Núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh đễ ý dò hỏi, thì biết em là cô bé đồng hương. Là cánh hoa rừng biết nói. Một sơn ca. Một hoa hậu dễ bị ngất xĩu nhiều lần, vì... bệnh tim thời đại.
Thoáng mắt bất ngờ giao nhanh, cùng vui cười hồn nhiên, Hoài nói:
- Hẳn anh nhớ lắm người em áo trắng xa xưa, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón quai thao, tơ vàng óng ánh, xinh lịch, rồi há?
- Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây, anh chỉ là người lính độc hành, lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
- Sao vậy anh?
- Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình, trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý, thấu hiểu, khoan dung, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; duy muốn tìm người bạn đường, phù hợp đã khó. Anh muốn tìm một người bạn đời, càng khó hơn. Em ạ!
- À... ra thế.
Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh, bay cao vút trên trời. Bỗng ùm! ùm! ùm!!! Pháo binh nã đạn về cuối ghềnh. Nghe từ xa, giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm, nổ rầm rầm. Hoặc trận mưa giông sấm sét rất lớn. Hay như người ta giật mìn lấy đá trong hầm núi.
Chiếc máy bay cường kích vụt qua trên không trung, giây lát sau có những tiếng nổ lớn, làm rung chuyển cả bầu trời, nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, bạch đàn phía trước.
Hai người lính nghiễm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen mỉm cười, tiếp tục chuyện trò thân mật. Họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ.
Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy là chia tay. Đoàn xe lên đường trở về ngọn đồi T T 2. Đan cùng bạn lội qua sông rộng nước sâu, về với làng mạc quạnh hiu, ở cuối núi đầu đèo hoang dã.
Tiếng nói của Hoài, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vào tâm tư anh cô lẽ. Như những giọt mật tròn. Mật đắng.
Hạnh phúc bất chợt, bé nhỏ liu riu thoáng qua nhanh, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, giữa cơn gió xoáy rét mướt, nơi sơn khê ngút ngàn.
Biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực, đối với cô gái dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống? Anh mến Hoài, từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ.
Đan hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình. Sống giữa chốn núi rừng nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn dằn vặt, ưu phiền, buông thả, âu lo. Nhưng anh không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ trầm ngâm, lặng lẽ suy tư.
Đan đã đi Pháp từ lúc mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều về thăm quê nhà vào dịp hè, Tết. Sống ở xứ người qua nền giáo dục phương Tây, dạy cho anh tính sòng phẳng, công bằng, có óc tổ chức khoa học, phép lịch sự nhã nhặn tuyệt vời. Anh thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, tín. Ông bà mình rất thương con cháu, nhưng không chiều chuộng, không buông thả cho chúng tự do, theo ý muốn quá trớn.
Con cháu kính trọng nể sợ, thương yêu ông cha chúng một phép. Chứ có trân trân tráo tráo, láu cá như đám Tây Con đâu. Anh sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn, được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương của gia đình. Mặc dù sống trên xứ người, văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc vô cùng. Anh vẫn nhớ thương gia đình. Nhất là thương nhớ Me anh, và hoài hương xiết bao!
Sau bao năm thành đạt vinh hoa, anh vừa trở về quê nhà, mong đem kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu, ra giúp đời. Nhất là vì anh yêu binh nghiệp.
Tình yêu xưa đã đem lại ngọn lửa tình, vút lên từ đôi tay kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin. Rồi tình yêu từ đôi tay mọc cánh xa bay. Trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng. Mà thôi. Xin hãy qua đi! Xin hãy quên đi! Xin cho bình lặng tâm hồn. Anh không muốn nhắc đến tên ai, dù vô tình đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Vì, ...
Anh quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine, vào một chiều mưa tầm tả. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur", rồi trở thành đau buốt. Bởi, anh yêu Me của mình hơn bất cứ ai. Anh không muốn mẹ đau buồn, vì cô sinh viên đoan trang, và anh thư ấy là... đầm.
Anh bỗng nhớ ngôi biệt thự xinh xắn, ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu kilômét, về hướng Tây Nam. Từ nơi nầy, anh nhớ da diết đôi mắt xanh, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến thuở nào. Thân hình em rất hấp dẫn, quyến rũ, đã khắt sâu vào đời mình những vết dao đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến nhớ nhung.
Hai người thường hò hẹn nhau đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Nàng thích kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà hô hào cư dân Pháp đứng lên chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh, năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị Anh bắt bỏ tù và thiêu sống.
Anh cũng kể lại cho nàng nghe về oai danh Bà Triệu. Hai Bà Trưng nước Việt Nam. Vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi Tàu ra khỏi đất nước. Họ trị vì được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân sang Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua, nên hai bà nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử.
Cuối cùng... anh và nàng chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu, trong thành phố Lyon. Rồi có một ngày, ta sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm em nhe. Chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự. Sẽ tìm thấy nhau trong giấc ngủ muộn màng. Em ơi!
Ta có thể thay đổi tình yêu nầy, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu, nó sẽ có những dễ thương trùng hợp. Như thế, hoặc hơn thế nữa! Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi, quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?"
Thế rồi giờ đây ngày ngày Đan soi bóng mình bên dòng suối lờ lợ đục chao đảo, khi tỏ khi mờ. Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần, vắt qua sườn dốc, mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá. Nước chảy róc rách lưng đồi, suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa. Nghe tiếng súng đạn dày xéo suốt đêm ngày, trên quê hương điêu tàn, đổ nát. Là vết thương không trông thấy, nhói buốt đau đớn trong lòng anh.
Cuối tuần ở Minh Long. Cảnh vật nơi đây rất hoang vắng u buồn. Anh sống qua giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi. Như gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung. Buồn thương da diết, qua vệt nắng rải sau hè, rực nét tình xưa.

_ * _

Kính mời độc giả xem tiếp... Chương 13
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

13 * Kiều Nữ Quân Nhân

Postby Ái Ưu Du » 18 May 2007

Chương 13

KIỀU NỮ QUÂN NHÂN




Đoàn 5 đóng tại Thị-xã Quảng Ngãi, rồi sẽ phân phối đi quanh mấy vùng lân cận như: Sa Huỳnh, Mộ Đức, Tân Thạnh. Tư Nghĩa. Lao xá Phú Châu thuộc liên khu V thời xưa, về hướng Tây Quận Nghĩa Hành, cuối cùng đóng ở ven sông Trà Khúc. Không lên Minh Long.
Các cô có bạn ở chốn giang đầu, tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng nha. Buổi tối, tất cả vào ngủ trong tiểu khu cho an toàn. Giăng mùng xong, Trúc, Hoài, vừa chui vào giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đở chật, thì điện cúp.
Hội Trường có đòn dong, cột, kèo, đều làm bằng nhiều cây sắt to kinh khủng, rộng lớn. Tứ bề không có cửa, chỉ phủ kín những tấm bạt thay tường. Nóc nhà lợp tăn. Những đêm di hành, ăn bờ ngủ bụi luôn luôn. May mắn lắm, mới có chỗ ngã lưng, tốt thế nầy, thật qúy hiếm. Hội Trường chứa khoảng ngàn người, lính tráng ở đâu về tạm dừng chân qua đêm nay, đông kinh khủng.
Hoài từ nhỏ ngủ riêng quen rồi, nay nằm như vậy, mất ngủ luôn. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, chiếm cái bàn rộng, dùng làm giường ngủ thoải mái. Ba cô ấy mến thương, giận hờn, xoi tì xoi tướng nhau một cách thân ái. Như các chấp chính quan ở thời kỳ La Mã, hay triều đình vua Tự Đức vậy.
Đang nhắm mắt mơ màng dĩ tưởng về dĩ vãng, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên. Hoài ngỡ là cô bạn nào tìm chỗ ngủ, nên nói:
- Hết chỗ rồi, bạn ơi!
Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ lên hai đầu gối nàng thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ cuả anh Thái, nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi. Nàng lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô cứng, sần sùi chai cứng kia chộp lấy, cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần bên. Nghe rất dễ sợ. Hoài vùng mạnh tay ra, hét thất thanh:
- Trời ơi! Ai làm cái gì đây?
Cùng với tiếng kêu to, bóng đen giở tấm bạt, vụt chạy biến vào đêm tối mất dạng. Cả hội trường nhốn nháo vì tiếng la hét đột ngột, điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt nổi lên. Mấy cô gái sợ quá dồn nhau ngồi chung trên bàn Thu Hương đã chiếm, không dám hó hé.
Mặt Hoài, Trúc, tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng Ban không nhịn được cười. Quả thật, họ sợ kinh khủng bị “bắt vô bưng”! Ấn tượng về bàn tay lạnh ngắt kia vẫn còn nguyên. Trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện quỷ. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hoài sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu.
Sáng sớm hôm sau, đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Trúc, Hoài, gửi theo xe cho Đan, Trọng: Gói trà. Cà phê chồn. Đường cát. Hai cây thuốc lá Ruby Queen. Bịch khô nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi, viết chung trong tờ thư xinh xinh, họ gửi đến hai người anh ở chốn giang đầu.
Thứ bảy Trúc, Hoài, đi làm xa, chiều về nghe anh Lân nói: - Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm hai em đó.
Ban đầu Trúc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết của Trúc, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục chứ đâu có lè phè mặc đồ cevil?
Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó đang giao tranh dữ dội. Làm gì có người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường? Trúc chợt nhớ lạ lùng bài ca: Biệt Kinh Kỳ của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, họ có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa khuya sớm. Họ đi giữa hai lằn đạn, trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Nghĩa Phú, Tà Noát, Ba Tơ, đã có lần Trọng hát cho nàng nghe.
Phải không hở Trọng? Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên, ngồi trên mình con tuấn mã, ruỗi dong ngàn dặm, tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, quắc thước, tính tình cương trực, ông cưỡi con xích thố, sử dụng cây thanh long đao tuyệt hảo.
Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si, hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Anh không bắt chước Đan, lội qua sông đi tìm "cô gái Huế" ở bên kia bờ.
Mà, anh là Nguyễn văn Trọng, ở ngàn chốn sơn khê, cuối núi đầu ghềnh, xa tít tắp. Tay anh luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt, có mắt kính lồi bằng nhựa đục. Thì việc anh bắt chước Đan, lội rông rộng nước lớn đi tìm người em nhỏ bên tê song. Hay anh vượt biên thùy xa xôi ngàn dặm sơn hà về đây tìm gặp Trúc, là điều ở trong mơ. Nghĩ mà thêm trĩu nặng góc hồn.
Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi "pát phố", dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy, mặt hoa da phấn. Môi thắm má hồng. Áo quần xum xoe. Họ xức nước hoa thơm ngát, đi bên lề lòng phố thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công, giữa đám gà vịt bát nháo.
Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm với đồng áng ruộng vườn cằn cỗi. Chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Có đâu ra thì giờ nhởn nhơ tung tăng trên đường với quần là áo lụa.
Họ chống cuốc đứng nhìn. Cô thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, ngẩn ngơ kéo vành nón lá sờn rách che nghiêng. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào. Chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh gay gắt diễn ra, cách đó vài mươi cây số.
Họ lấy le ai đây? Sao mà lố bịch quá! Các cô vội vàng trở về phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt cư dân thị thành. Quảng Thành mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước. Các quán ăn, Snack bar, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động mọc lên như nấm.
Người Mỹ vừa đưa những tên cố vấn đến trên quê hương nghèo nàn, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp ở các bar náo nhiệt tưng bừng trong các thành phố đông vui.
Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng ran. Trên phố xuất hiện những chàng lính Mỹ trắng, Mỹ đen, đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy họ khá sợ Quân Cảnh Mỹ. Họ chấp hành luật pháp nghiêm minh. Ít khi thấy bạo động ở thời điểm nầy.
Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, mà tiếc chi tên cúng cơm, cha mẹ đặt cho quá khó nghe, quê mùa, khó chịu mỗi khi có người réo gọi. Thật mắc cỡ muốn độn thổ. Nên các cô làm cuộc cách mạng gia phong, cãi lời bố tổ. Thôi thì ta tự đặt cho mình những cái tên thật kêu, thật đẹp, thật mê ly, đầy hoa mỹ, êm ái ngọt ngào như mật rót vào tai. Gọi lên ngày đêm nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ... đến rụng rời.
Các bạn thả bước trên phố, ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần. Chợt có tiếng gọi:
- Hương Hoài! Tuyết Ngọc Trúc! Mai Hồng!
Mai Hồng reo lên:
- Aí chà chà. Anh Đan, anh Đan kìa!
Hoài nhận ra anh, thoáng nhìn giao nhanh reo vui bằng mắt. Thấy Hoài nhìn, khuôn mặt sạm nắng gió phong sương khuya chiều nhuốm vẻ ưu tư của anh, dịu hẳn đi trong nụ cười ấm nồng. Nàng nhìn anh đăm đăm, cảm thấy lòng thích thích, sợi tóc ương ngạnh, bỏ mái lòa xoà trên trán không đội chiếc nón sắt như mấy lần trước. Thương thương viền mi cong vút chơm chớp mắt nhìn trìu mến, nụ cười rộng mở. Thương từng khóa sol in rải rác trên áo sơ mi màu vàng nhạt. Cà vạt nâu lủng lẳng kẹp cài. Quần tây mầu biển đậm, và đôi giày da thời trang đen bóng.
Biết nói thế nào cho trung thực nhỉ! Lần đầu tiên, Hoài thấy Đan mặc thường phục; Dễ thương ư? Hoài không chối cãi điều đó, tuy nhiên anh mất đi một nửa, dáng dấp hùng tráng của chàng trai đượm phong trần. Điều đó cũng đúng thôi.
Nếu các anh ra trận, mà mặc áo sơ mi ca rô hoa hòe, quần nhung dạ hội. Có cầm “súng cối súng trường”, lưng nịt đầy đạn, mang giày nhung, đầu đội "nón bành nhung" như thời xưa chăng nữa. Vẫn yếu xìu... Còn đánh đấm gì ai cơ chứ. Hoài thấy phục người đầu tiên, đã sáng tạo ra loại quân phục cho Quân Nhân mặc. Sao mà hợp tình, hợp lý thế không biết!
Đan đến bên các cô, cười thân ái. Hỏi:
- Các em có bận đi đâu không hở?
Tuyết Ngọc, hay tên Ngọc Thanh Trúc (Trúc đặt đủ thứ biệt hiệu mà) nhanh miệng đáp:
- Không anh. Tụi em đi tà tà.
- Vậy thì tốt. Mời vào ăn tô bún, uống ly nước nhe.
Họ quay gót theo Đan vào tiệm. Bữa ăn dẫu tình cờ nhưng đầy đủ các món. Khung cảnh ấm cúng thanh lịch. Nhạc chọn lọc mở nhè nhẹ êm êm, với bình hoa lys cắm trên bàn phủ khăn trắng, thì còn gì bằng. Có các anh: Thọ, Văn, Quân, Bảy, Hộ, Tí, Hà, Đan.
Thiếu vắng Trọng.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp… Chương 14
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

14 * Súng Đạn Vô Tình?!

Postby Ái Ưu Du » 18 May 2007

Chương 14

:tức: SÚNG ĐẠN VÔ TÌNH ?!




Cuộc sống tao loạn bắt đầu rơi rải rác nơi chiến trường Việt Nam sôi sục, bùng nổ từ năm 1962. Nhiều vùng đất xôi thịt lẫn lộn, dọc miền Trung không phân chia ranh giới. Ngày đến. Ngày tàn. Rồi ngày lại ngày tiếp nối qua nhanh, lạnh lùng qua nhanh. Không đổi mới hơn.
Con đường cũ, mấy tháng trước đầy lá cây mượt mà tươi tốt xanh um, xôn xao gọi gió mát về rì rào bên bờ ruộng sóng lúa nhấp nhô. Cây đại thụ phủ bóng mát trên mái chùa cổ kính uy nghi con cong, vọng ra tiếng kinh mõ trầm trầm đều đều nhịp nhàng, lẫn khói hương nghi ngút hài hoà bay cao. Làng mạc nhà cửa êm đềm nép mình ven con sông xanh uốn lượn xuôi chảy. Hàng thùy liễu quyến luyến ôm cồn cát trắng, và từng làn gió nhẹ mơn man ru khúc đồi thưa. Bây giờ đã khác hẳn.
Nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, xe GMC, thiết giáp đi tảo trừ, cày xới, đất đỏ ngợp trời mù bay. Bụi cây bờ cỏ bị đốt trụi, đen thui. Bên sườn dốc hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi dẫn đến doanh trại, chưa chắc hứa hẹn yên ổn, bình an.
Bóng chòi canh gỗ, cao chót vót. Người lính phong sương trấn giữ biên phòng, trông vô cùng đơn điệu chơ vơ trên vọng gát nơi phòng tuyến. Anh quan sát một vòng cung trách nhiệm. Đầu đội nón sắt, súng cầm tay, anh luôn ghìm chặt bá súng, mắt chăm chú quan sát tứ phía.
Trận bão lửa. Đạn pháo tầm gần tầm xa, tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, xoáy bốc, hung hăng điên cuồng hung bạo. Đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Như màn nhện đỏ ngầu gớm ghiết trên đầu mọi người. Đêm đen ghê rợn nhờ ánh mắt hoả châu nở rộ trên đầu nhân thế, rọi chút ánh sáng hiu hắt rồi vội vàng tắt ngúm.
Hằng chục quả đại bác không giật 57ly, đại liên M 60, nổ ầm ầm ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao. Toé ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuộn phụt lên, bụi lửa mù trời hắc ám che khuất góc núi.
Sau vài giờ giao tranh cận chiến ác liệt, phe kia lùi lại dùng địa pháo rót bừa bãi vào chiến trường, bất kể hiểm nguy cho đồng bào cư dân ở vùng lân cận, hầu thanh toán chiến trường.
Theo đà lướt, từ chiếc phi cơ hai quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định, khá chính xác. Khiến địch im hơi lặng tiếng, nhiều ngày giờ. Nặng nề nhất vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ, bị phá, hủy diệt nơi thờ phượng. Làm bia đỡ đạn bị kích tan nát, tơi bời các hầm trú ẩn. Do súng đạn chiến tranh vô tình, hay do ai cố ý cấm đoán tự do tín ngưỡng?
Súng đạn làm người dân vô tội lo sợ kinh khủng và hớt hải quýnh quáng. Họ chạy thục mạng vào chùa chiền trú ẩn. Họ khẩn thiết cầu xin Trời Phật mở lòng từ bi độ lượng, ra tay cứu giúp con người đang sống trong cảnh chiến tranh lầm than, hãi hùng quái ác quá kinh dị.
Họ nhắm tít đôi mắt, bàn tay cầm chuỗi hạt, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Họ không dám nhìn cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc xám bầy nhầy, trộn với đất, cát và tro. Trong tro có chất khoáng mặn, làm cho bờ môi người dân thêm mặn giọt sầu trộn mồ hôi tang tóc điêu linh.
Khi chiến tranh dừng lại cúi nhìn: Bị bắn trực xạ, có lẽ là gần lắm, cả chục miểng nhỏ li ti ghim vào người. Đôi mắt anh Kim lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng anh Tam há hốc, nhăn răng, lưỡi dài thườn thượt. Thân hình anh Phan cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy, trước khi sụm xuống. Họ bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò tột độ.
Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối. Vẫn cung cách ấy, không khí ngột ngạt nặng nề, oi nồng khó thở. Khói lửa phủ chụp trên đầu. Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng. Khi chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, quay tròn vun vút. Sắt lạnh trên từng chặng đường giao tranh thảm khốc. Bi thương tột cùng. Hung hăng. Kinh hoàng nhất.
Bao giếng mắt đẫm lệ chia ly.
-"Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương" như Lamartine đã nói.
Dù nơi nầy, kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác. Dù cho Quê Hương Tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc. Người; Người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi, đi mãi... lúc tháng ngày lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha. Thản nhiên trôi trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn.
Con đường phiá trước trở thành đêm tối mịt mù. Phút chốc sau đuôi xe, mặt trời nhẹ nhàng rón rén vươn lên, tỏa màu hồng tươi chan hoà, xen lẫn màu đỏ thắm và màu vàng tía, như gom cả ánh sáng đầu ngày vừa hé.
Trúc nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực phập phồng, cho nỗi đau đớn thêm thấm đẫm vào từng chân tơ kẽ tóc.
Trúc tưởng lúc nầy là hoàng hôn dìu dịu, trộn lẫn bình minh tuyệt đẹp, ẩn trong các đài mây ngà ung dung trôi trôi trên đỉnh bình yên. Nào ngờ…

_ * _

Kính mời độc giả xem tiếp chương 15
Trân trọng,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

15 * Đời Lính Nhọc Nhằn

Postby Ái Ưu Du » 21 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 15

ĐỜI LÍNH NHỌC NHẰN




Dọn dẹp sân khấu, chất đầy lên xe GMC xong, đã hơn nửa đêm. Anh em chia nhau vào xóm, xin ngủ nhờ ở ngoài vỉa hè nhà đồng bào. Do quá mệt nhọc, vừa ngả lưng xuống chiếu, hầu hết đã ngủ say.
Bỗng loạt súng nhỏ nổ dòn bên rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) vang lên. Mọi người ú ớ choàng thức dậy. Vụt ngồi lên, thảng thốt nhìn ngó nghe ngóng đạn nổ từ hướng nào. Đạn bay vù vù trong không khí. Họ sợ hãi nằm bẹp xuống. Người nầy chồm trên người kia, kêu thất thanh, như con heo bị chọc tiết. Họ thì thào sờ soạn tìm nhau trong bóng tối.
Thời buổi nầy, thà chịu tối yên thân, hơn thắp đèn đóm làm gì. Có đèn chẳng khác nào "Lạy ông, tôi ở bụi nầy". Đi đâu mò mẫm sờ soạng như người mù, mà chắc ăn dưới ánh trăng mờ nhạt.
Trung úy Phước để ngón tay trỏ lên giữa môi, thì thầm rất khẽ. Anh có ý bảo im lặng, ra dấu cho anh em cấp tốc di chuyển đi chỗ khác. Đó là khuôn mặt của một người đã có vợ và bốn con, đầy tự tin. Anh cứng rắn và quyết tâm hướng dẫn anh em, trong giờ phút nguy hiểm nhất.
Anh ghi nhận nguồn tin cẩn thận, xem xét điạ đồ, địa hình chính xác, điều nghiên, thực hiện ở mứt tốt nhất, nào dám ẩu, liều lĩnh đưa Đoàn 5 vào chỗ thập tử nhất sinh. Là sĩ quan từng trải nơi chiến trường, anh hiểu rõ mưu lược, am tường về CS, anh không cầm con dao nhọn, xoáy vào tim đồng đội.
Rừng cây không tên, mọc đủ mọi thứ cây ba láp rậm rạp, chằn chịt um tùm, khó vạch lối đi. Hai tay họ luôn chuồi ra phía trước, giạt lối tìm đường. Cành cây xum xuê khô cứng cao tới ngực, tới đầu. Có cây trụi lá nhưng thân và cành đầy gai, cào xướt rách mặt, tay, chân, quất vào thân những lằn đỏ nhỏ, đau điếng. Người đi sau nối chân người đi trước thành hàng dọc. Họ lầm lũi bước đi êm ru, giữa chỗ lạ cái lạ nước.
Bất cứ đâu đâu, cũng có kẻ thù hiếu sát độc hại rình rập quanh ta, mình không có gì che chắn, dù đã co rúm người lại lũi nhanh. Vẫn như phơi mình lồ lộ giữa trời, làm mục tiêu cho địch nhắm vào.
Tìm ra chỗ đậu xe rồi. Mọi người hối hã leo lên. Hai xe GMC để đèn mắt mèo, chạy quá chậm trên đường gập ghềnh bờ mô ụ đất. Anh Phước ngồi ở chiếc xe jeep chạy tiên phong, đoàn 5 sẽ di chuyển lên vùng lân cận Tà Biên hay Minh Long gì đó. Sương muối rơi lốp đốp trên mui xe, giọt sương to tròn và nặng như hạt mưa. Kỳ thực đó là sương miền núi trắng xóa, làm nặng trĩu thêm bầu trời.
Xóm làng chìm ngập trong đêm sương ẩm ướt lạnh lẽo. Con đường cái quan nhòe đi, uốn lượn dưới ánh trăng rừng, giống con bạch xà khổng lồ nằm ngủ. Phút chốc vầng mây đen phủ trùm góc trời khuya. Cách nhau mươi bước, không ai nhìn thấy vật gì.
Cây cối đen nghịt chìm trong bóng tối thăm thẳm. Đom đóm chập chờn, lúc tắt lúc sáng trên những ụ mối to. Tiếng côn trùng rỉ rã. Quốc kêu hè về. Bầy dơi ăn đêm kêu chít chít, đập thân vào hông xe bồm bộp. Dế gáy ré ré. Muỗi vo ve nhiều vô số kể. Ếch nhái kêu uồm uộp. Thỉnh thoảng con cú nấc từng tiếng cụt lũn; Nghe ớn lạnh giữa khuya muôn trùng khổ ải, đơn điệu, hoang tàn, đầy kinh dị.
Đến một cánh đồng ruộng đã gặt, còn trơ cuống rạ. Tất cả xe tắt đèn, xe mò mẫm chạy chậm chạp, ì ì trong bóng đêm. Trăng lá mít, như con thuyền đơn độc méo mó, ẩn hiện bềnh bồng trôi đi trôi về, nhấp nhô trong vùng mây đục. Xe chạy trên đồng ruộng khô cuống rạ quá khó khăn, như con rùa bị thương bò trên đường nhựa nóng.
Đến tụ điểm của một biệt đội biên phòng trấn giữ, họ chia đều ra trực gát. Phòng 5 ở cạnh đơn vị Pháo Binh, có thiết xa M 41 trang bị đại bác, cùng máy chiếu hồng ngoại tuyến, đề phòng lúc giao tranh về đêm. "Phe ta" ra dấu tín hiệu cho nhau, bằng máy truyền tin PRC – 25.
Đơn vị bạn nhận ra bạn láng giềng, họ đồng ý cho ba chiếc xe của phòng 5 vào nghỉ trong cánh ruộng khô. Người ta trải poncho nằm chung dưới đất sình, mặc bầy giun, dế, rắn, rết, sâu, bọ hung xủi đất dưới lưng. Người mắc võng trên thân cây, gió lạnh lẽo xuyên qua lồng lộng dưới lưng. Người nằm trên đường cái. Người chui vào gầm cầu, hay leo lên các xe chất đầy đồ dùng. Đời lính đầy nhọc nhằn, gian khổ khốn khó vô cùng, mà sao quá bạc đãi!
Hoả châu đỏ như mắt hung thần luôn rơi xuống cuối bìa rừng, trông đơn điệu, kinh hoàng. Một tiếng động cơ rít xoáy, nghe khô khan. Pháo Binh cho dùng hoả tập TOT từ nhiều hướng, bắn cận phòng vào một mục tiêu nã đạn. Súng lớn bất ngờ nổ, làm mọi người quýnh quáng dáo dác lo sợ nhìn nhau. Đạn bay ngang đỉnh đầu, xẹt ra từng vệt lửa đỏ kéo dài, lướt gió vun vút bay đi. Vài giây sau, tiếng nổ ầm ầm, rền rĩ ngân vọng.
Phiá xa xa, từ nơi ấy hiện lên mấy cây nấm khổng lồ, khói xám xịt, lửa đỏ rực ở mặt đất đùn lên, đùn lên mãi, cuồn cuộn từng vòng nấm lửa quyện khói to thật kinh dị. Trông dễ sợ vô cùng trong bầu trời khuya u ám.
Mùi thuốc súng xông ra, hăng nồng, hôi không chịu thấu. Từ nắp đáy súng cối, vỏ đạn chạm vào nhau kêu lẻng kẻng, bốc khói khét lẹt. Như mùi lông da trâu bò thúi.
Bùm!!! Chỉ một tiếng nổ nghe rùng rợn, ớn lạnh giữa đêm trường hoang vu cô tịch. Là dường như tất cả mọi vật, đều trở thành tro bụi, đất cát, khói đen mù mịt, lửa đỏ rực. Mùi khét bay về không chịu nỗi. Đau buồn da diết!
Chuyến đi nầy ký ức Hoài ghi lại những thảm thiết mục kích được, giữa hai lằn đạn quầng xiết lấy nhau. Trúc và Hoài nằm ngược, nằm xuôi trong ca bin xe GMC. Mở cửa kính ra, thì muỗi ào vô như bầy ong, gió rừng ùa vào lạnh kinh khủng. Đóng cửa lại, thì nồng ngộp. Chịu không nỗi mùi xăng, nhức đầu lên tận óc..
Xoay qua trở về một hồi lâu, Trúc gát chân lên tay lái, đụng phải cái còi xe. Nó "tin, tin, tin" một hồi dài, nghe ghê rợn giữa cảnh trí không bình yên. Khiến mọi người run sợ toát mồ hôi. Họ sợ lộ mục tiêu. Các anh chửi thề nhoi trời đất:
- Đứa nào ngu quá vậy? Mất dạy thật. Ông đá cho một cú, bay đầu bi giờ.
- Ngu như con bò. Đi ra khỏi ca bin ngay đi à.
- Coi chừng tao vặn cổ tréo ngược ra sau, hết ngu si.
- Thôi. Trúc xin lỗi. Mắt cá chân Trúc nó mù, hổng thấy đường. Xin lỗi.
- Lỗi với phải gì! Coi chừng toi mạng cả đám nha.
Không hiểu Trúc có biết tên người vừa nói câu sau cùng đó không? Hoài thì tưởng anh ta là quen, hóa ra không phải. Tưởng vậy, nhưng nào phải người quen. Mặc các anh chửi thề, văng tục quá sá. Hai cô gái nằm im re trong ca bin xe, ôm nhau khúc khích cười.
Dù Trúc có là con cháu ông Tá ông Tướng, nếu lầm lỗi khi ra chiến trường, vẫn bị anh em chửi nhoi trời đất, chả kiên nễ nịnh nọt gì!
Trúc quay lại nằm cùng cùng hướng với bạn, hai đứa nằm co quắp chèo queo, nói chuyện rù rì một hồi, bỗng im bặt. Có lẽ không phải bước chân dừng lại gần cửa xe, chẳng qua hai cô say chuyện, nhầm lẫn đó thôi. Trúc ú ớ vài tiếng ngập ngừng, rồi thở đều và ngáy nhẹ, thả hồn vào giấc mộng khuya.
Trời tối và kinh dị quá! Nhất là khi ăn bờ ngủ bụi, nằm trơ trọi giữa cánh đồng vắng lặng, đầy mùi tử khí. Cảm giác ớn lạnh rờn rợn toát lên, từ đồng ruộng quạnh hiu càng tăng. Màu đen xám hoang vu dị thường.
Hoài trằn trọc mãi không sao chợp mắt, (dù trong giây lát). Nằm mà không sao chợp mắt phút nào, nên đêm hóa ra dài đằng đẵng. Từng tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên trong đêm trường, thay tiếng nấc âm thầm. Thay niềm đau thế sự, có tác dụng bền lâu, vang dội tận đáy lòng Hoài trăm ngàn ray rứt.
Bây giờ cách xa Đà Lạt cả ngàn dặm sơn khê, Hoài nhớ biết mấy giờ phút thoáng mát, êm ái, yên tĩnh và bình an. Nơi đó, mẹ đã từng ru con, qua bao câu ca dao ngọt ngào, tự thuở con còn nằm nôi, bên dòng đời chao đảo, đau vùi, trôi trôi.
Ngày bận rộn việc nầy việc nọ luôn luôn, khiến thể xác mệt mỏi, tinh thần căng thẳng hơn. Sự khó chịu buồn bực thường dõi theo, trong lúc mình làm sang việc khác. Hình ảnh người Trưởng Ấp bị bọn nằm vùng giết chết thê thảm, thân ông ta vắt trên cây cầu khỉ cheo leo. Cây cầu thân thương duyên dáng đong đưa nơi làng quê, móc từ bờ nầy sang rạch kia, qua hàng bao thế kỷ, vẫn không thay đổi hình dạng, tưởng đã êm đềm, ấm nồng duyên quê. Chứ ngờ đâu, đã in dấu sợ hãi kinh khủng!
Gió rít lộng qua cây cầu cheo leo lắc lư, kêu kẽo kẹt, chơ vơ, trơ trọi, mà không có vật gì cản lại. Gió lạnh lùa sương dày đặc, cuộn thành từng lọn, bồng bềnh trắng xoá, mù mịt, bất nhẫn, lồng lộng thổi qua dòng sông đau thương. Như đuổi theo cuộc trốn chạy miết mãi. Cuồng nộ. Không ngưng nghỉ. Không nương nhẹ.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 16
Trân trọng,
Ưu Du
Last edited by Ái Ưu Du on 30 May 2007, edited 1 time in total.
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

16 * Lính Biên Phòng

Postby Ái Ưu Du » 28 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 16

LÍNH BIÊN PHÒNG



Một buổi sáng, cuối mùa xuân dìu dịu, tiết trời êm ả dưới làn nước lấp lánh ngàn tia nắng mặt trời ấm áp. Chung quanh núi non hùng vĩ, con thác nho nhỏ len lỏi trên khe núi cao, chạy dài xuống triền dốc tắm nắng xa xa.
Lũy tre làng bao bọc vườn quê, lác đác giữa cánh đồng khô, mục đồng lững thững trên lưng trâu. Bầy cò trắng bay lên, đáp xuống bên bờ đê. Gà gáy te te sau bụi chuối, vườn môn. Chó buồn sủa gâu gâu rời rạc. Thôn xóm tiêu điều, vắng lặng và buồn tênh. Vài sợi khói lẻ loi uốn lượn trên mấy nóc nhà tranh, còn ướt đẫm sương mù.
Tiếng máy phát thanh ủy lạo đồng bào cùng chiến sĩ, được chị em trong Đoàn 5 cất lên từng hồi, theo đôi cánh bình minh run rẩy. Vang vọng lên tận đỉnh đèo, ngân nga đến ngàn non. Ngày thật sự rạng rồi, tách bóng đêm kinh hoảng u tối, đối lập với nền trời trong sáng chói nắng, thắm hồng trên đầu cây ngọn cỏ khắp nơi nơi.
Trong buổi họp, sau khi anh Vị đọc bản tin tức xong, anh Cương ra lệnh mỗi người, phải làm ít nhất vài bài văn, thơ, truyện ngắn, tùy bút, vui cười, quan điểm, nhận định, vân vân... Anh trưởng phòng Phước duyệt xong, sẽ in thành Báo, Nguyệt San, phát cho anh em chiến sĩ, gửi đồng bào. Và tự phát thanh trên haut parler, để ủy lạo tinh thần anh em, yểm trợ đồng bào, tỏ lòng biết ơn chiến sĩ tiền tuyến, đang xông pha ngoài trận điạ.
Ôi! Một con bé chết nhát còn thò lò mũi xanh, tóc thề thuở xưa xanh mướt, nay héo rụng hầu hết. Tuổi con bé chớm lớn nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Như cột thủy ngân tuột đáy chôn dưới tuyết. Một con bé run như cầy sấy giữa binh đao rổn rảng, điếc ù tai, nhức nhối thốn tim, óc luôn bị dày vò. Con bé thường bị Trúc lêu lêu vì kém sút hẳn đàn anh, đàn chị đầy dũng lược can trường. (Họ quyết liệt chiến đấu, rất tài hoa ở chiến địa đại loạn).
Con bé tép riu nầy làm tà lọt còn run run, thua sút hẳn họ về mọi phương diện. Mà, trưởng phòng bắt phải cầm cây bút, viết kịch đời thiên bẩm. Nặng hơn ngàn cân, để, ủy lạo, yểm trợ chiến sĩ! Thật là trò hề tháu cáy, lạnh buốt xương sống! Múa rìu qua mắt thợ. Quả là "nhố nhăng nố bịch"! Quê không chịu thấu.
Nàng nghĩ:
- “Mình chuyên báo hại, báo cô, báo đời, báo oán. Làm thinh, làm biếng, làm tàng, làm bộ, làm tịch, làm nũng, làm le, làm dóc, làm lơ. Chớ biết chi hơn mà “làm báo"!
Hoài bắt đầu viết nhật ký năm 1956, 1957. Kể từ nay, Hoài sẽ viết rất trung thực tất cả câu chuyện có thật, không thêm bớt, ghi lại rõ ràng, với lòng gắng bó keo sơn, từng chi tiết hiện hữu. Ghi về sự góp mặt từng người, từng nhân vật mình quen, biết, lẫn không quen, đưa vào đời sống. Không văn hoa bóng bẩy hay thêm thắt hoa hoè, để trân trọng nâng niu giữ gìn, làm báu vật, kỷ niệm duy nhất đời mình. Dù Hoài thật bối rối, lo âu khi anh Phước bảo viết bài, vì Hoài đã đặt nhiều câu hỏi với các anh chị trong buổi họp:
1.- Về việc hư cấu trong từng câu chuyện. Thì xin thú thật là em chịu thua. Không có khả năng đó. - Chuyện đời Lính- Có sống mới biết cuộc đời lính chiến ra sao. Không sống không biết, làm sao dám hư cấu?
2.- Theo thiển ý của em, thì có sao nói vậy, người ơi! Mình không biết cách hư cấu thiệt. Nên, những chuyện Hoài viết trong chiến tranh, ít nhiều gì cũng bị coi là... khung tả.
3.- Em muốn ghi lại sự kiện lịch sử chính xác. Bởi những điều đó không thể một mình ên tự ý ta thêm bớt hay hư cấu. Ta không thể tạo dựng nên dữ kiện, mà chỉ ghi lại đúng đắn những sự kiện mắt thấy tai nghe. Thế thôi.
4.- Cũng như tự mình không bao giờ có thể làm nên lịch sử. Vâng! Chỉ tường tận nắm rõ dăm bảy khía cạnh của vấn đề, hầu ghi lại diễn tiến nào đó.
5.- Trong từng câu chuyện của mình, hầu như 95% là ghi lại những huyện hoàn tòan có thật. Em cũng biết, làm như thế thì dễ mất lòng, dễ xa nhau. Dễ chửi nhau. Dễ thù nhau. Cho nên, chi bằng cứ lấy tên của mình ra mà viết, khỏi sợ ai buồn.
6.- Nếu như chuyện thật sờ sờ ra đó, mà mình viết lếu láo, coi như là bôi lọ nhau rồi, còn gì văn chương chữ với nghĩa ha. Nên em chỉ biết viết lại sự thực. Thấy thì viết là thấy. Nghe thì nói là nghe. Biết sao thì viết vậy.
7.- Chính vì thế mà đa số bạn trong phòng 5 ưa viết truyện tình, làm thơ tình. Chuyện tình dễ dàng tả ân tả oán hơn. Họ muốn cho nhân vật đó sống thì sống, mà không thích thì cho nó "ngũm", (hư cấu là thế đấy phải khg anh?) ít "đụng chạm" tới ai, cho dù ai đó khó tính nhất, cũng có thể có chút bao dung và thứ tha. Phải không nào? Thưa anh Phước!
8.- Hoài tài hèn sức mọn, không bao giờ dám mơ mình là nhà văn, nhà thơ cả. Càng không dám tự hào cầm cây bút chiến viết văn nghị luận - Vì; Rất cảm kích và chân thành cảm ơn anh chị em, qúy độc giả, bạn hữu, đã ưu ái nâng đỡ khích lệ em nên viết văn. - Dạ xin vâng! Hoài sẽ hết sức cố gắng. Nếu có sai sót, kính mong quý vị niệm tình dung thứ và chỉ giáo thêm. Hoài biết ơn.
Sau nhiều lần đoàn tâm lý chiến phát thanh và rải truyền đơn, dán bích chương. Ủy lạo chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam; Qua những bài ca mang đầy hương sắc ân tình hoài nhớ. Nhạc vui buồn tác động mạnh mẽ, gợi lên nỗi buồn bẩm sinh kỳ diệu trong lòng người lính cơ cực thời chinh chiến. Hoài lại đắm mình trong cô đơn. Vì sao? Có phải vì con thác nhỏ, len lỏi trên khe núi cao nầy, dội lại lòng mình, tiếng thác nước chảy muôn trùng, bên đồi thông xưa năm nào, xa cũ lắm?
Các cô rủ nhau vào chợ mua cái nầy, cái nọ. Bao mẹ già dày dạn nắng mưa khuya chiều. Mẹ có nhiều kinh nghiệm chiến tranh, xảy ra liên miên trong cuộc đời vũ bão. Họ chán ngán lắc đầu, tắc lưỡi ái ngại. Họ thương thương mấy cô lính mới tò te non đời nho nhỏ.
Những bà mẹ quê bàng hoàng, nhìn họ đầy kinh hãi. Như thấy kẻ lạ, từ hành tinh quái gở nào rơi xuống trần gian. Nơi khỉ ho cò gáy nầy, hầu như chưa xuất hiện "Lính Cái" non đời tung tăng sao?!
Ờ! Thời xưa "liền bà con cấy" họ ở trong phòng the trướng rũ, cửa kín song cài. Chứ có mô mà "xông pha" chi lạ rứa... Con gái thời buổi loạn ly chừ... Chi mà lạ!?
Ồ! Thế ra các cụ bà quên tiệt hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị lẫm liệt. Bà Triệu oai dũng khi: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh” rồi.
Các cụ vội gói ít xôi đậu, xôi bắp, đùm trong tàu lá khô. Gói cho bọn lính cái nải chuối, bọc kẹo. Có cụ cho củ khoai lang nóng, đùm trong tàu mo cau cứng. Họ dúi vào tay con bé Hoài nhỏ nhất đàn. Các cụ già đời, mỗi người một câu, họ ngập ngừng nói:
- “Dầu ai ỷ thế cậy tài. Con giữ lòng thục nữ, dùi mài trong gương”.
- Ăn đi con!
- Ăn kẽo đói.
- À không... mời con.
- Con gái, đi lính làm chi!
- À, à... ăn cho vui.
Họ e ngại cười cười ngỏn ngoẻn, móm mém hàm niếu ngậm trầu. Dường như họ bị lỡ lời, sợ làm đay nghiến, chột dạ đau lòng bọn trẻ:
- “Gái thì trinh trĩnh lòng son. Sớm hôm gìn giữ, kẽo còn chút sai”.
Bất ngờ và sửng sốt, Hoài cảm động, ngơ ngác e dè giơ hai bàn tay run run cầm những gói quà tình nghiã; Con bé nói câu cám ơn lí nhí trong họng. Khóe mắt bờ mi mọng mọng, nặng nặng, rưng rưng...
Ồ! Làm con gái... cái gì cũng cấm. Đi đứng phải uyển chuyển, nết na, thùy mị. Không leo trèo trên cây. Không chạy nhảy như ngưạ. Không ăn to nói lớn như hổ gầm cú kêu, không cười ha hả! Không xù mặt ra. Ngủ không nằm ngửa tênh hênh, không xoạt hai chân vô tư, không giăng hai tay ra giữa bộ ván. Dù trời nóng hầm hập, mồ hôi rịn ra dưới lưng, cũng cấm. Má nói:
- Con gái, không được nằm trơ ra vậy! Con không nằm cong queo như con tôm hùm. Chân không co lên tới ngực. Không nằm sấp tay ôm lấy đầu. Con chỉ nằm nghiêng, hai chân duỗi thẳng, trở bên nầy, qua bên kia thôi.
Nhất là “đại kỵ” như các cụ già vừa nói: “Làm con gái, không đi lính” được sao!?
Hoài dìm bộ óc xuống cơn mê, nhưng biết mình chìm đắm trong nỗi dày vò, phiền muộn có thật. Có nhiều dao đâm qua tim. Khi tự mình tìm cây đuốc thắp sáng ngọn nến riêng tư; Cho mình niềm an ủi, cố gắng vui vẻ, tăng hy vọng, dẫu quá lung linh và tê tái.
Hoài chán ngán ngồi trong cabin, dõi mắt nhìn theo đàn bươm bướm vàng, do dự trước giàn hoa thiên lý xanh xanh, bên phố nhỏ. Lòng Hoải buồn vời vợi.
Văn là thần tượng của Thu Hoa, Hoa thường nói với đám bạn gái:
- Đừng nghĩ tưởng Văn là một hạ sĩ quan, chắc là học hành chưa tới đâu. Mà coi thường anh. Là lầm đấy. Lắm người, chẳng có chức tước như anh, có đức tính tốt, kiến thức sâu rộng, chính xác, có trình độ hiểu biết, lịch lãm, tế nhị. Anh ấy chưa chắc đã thua giáo sư, thua triết gia nào. Cho nên, đừng ỉ ta có chút kiến thức, mà kiêu căng, coi trời bằng vung. Tâm tư nhỏ nhen, hẹp hòi, cư xử hèn hạ chẳng giống ai. Đừng vì mảnh bằng, và sự sang hèn bên ngoài, lại vơ đũa cả nắm, khinh miệt người khác.
Hoài nhìn Văn mang cặp kính sáng trong, (kỳ thật anh bị cận, chứ không phải anh mang kính để “dzợt le” ai) tăng thêm phần trí thức đạo mạo, mũi cao miệng rộng, khuôn mặt chữ điền, cằm đôi, ngực nở vai vuông tráng kiện. Anh đi chữ bát, cầm đũa tay trái, đánh đàn tay trái, khiến người ngồi bên cảm thấy vướng vít khó chịu đôi chút.
Văn và Hoa, tâm đầu ý hợp nhiều mặt, hứa hẹn yêu thương bền lâu. Họ thấu hiểu nhau, muốn xây dựng tình yêu trên nền tảng hôn nhân gia đình ràng buộc. Họ quen nhau từ lá thư “Em hậu phương”, thân gửi ra ngoài biên ải, cho anh lính sơn khê nơi “Tiền đồn biên phòng” heo hút.
Giấy mực học trò thuở đó, lao xao hình ảnh cô em lớp Đệ Nhị hiền hiền, cúi đầu mơ mơ, tô tô vẽ vẽ, chân dung anh lính miền Nam Việt Nam vui tính, hiền hoà, thanh lịch và tài hoa, trên từng nét chữ con con. Sao mà dễ thương lạ!
Văn hồi âm:
- "Em bé ơi! Những hình ảnh em tô son thiếp vàng đó. Dành riêng cho lính kiểng, lính kèn, lính văn nghệ tù-và. Thực chất các anh lính bêin phòng ở đây cay đắng, nhọc nhằn, tan nát trăm bề, từ thể xác đến tâm hồn. Tình cảm. Đời sống cộng khổ rơi rớt từng khúc, từng khúc một, trên suốt con đò. Dọc hai bờ quê hương binh biến rồi.
Còn gì nữa đâu em! Còn gì nữa đâu, mà hò hẹn trăng sao với đời. Buồn tủi, hờn đau biết bao nhiêu. Em bé ha!"
Thế là thư bay đi thân ái, thư bay về hân hoan, mỗi lần trao gửi. Văn vui vẻ mở lòng tan hoang ra, đón cô em nhỏ đầy chân thực và trìu mến.
Từ thành phố Đà Nẵng lên xe đi Quảng Ngãi. Rồi từ đó lần đầu tiên, Hoa cả gan đạp xe đạp, lần mò lặn lội tìm hỏi mọi cư dân, cô đến Nghĩa Hành thăm anh. Cô buồn buồn báo tin thi hỏng. Càng không quên báo thêm một tin giựt gân:
- Em sẽ đăng vào lính, để có dịp gần anh.
Hoa điệu nghệ đèo sau porte bagage quà thổ sản: Gà luộc. Cá trê nướng lá gừng ngon bá cháy. Đường phổi, đường mía, đường phèn. Ít cà phê. Hai lố thuốc Basto xanh. Một áo len màu rêu. Vài chiếc khăn mouchoir tự thêu, thoang thoảng mùi nước hoa dìu dịu.
Lần đầu tiên vừa gặp em, Văn sững sờ, cảm động đến nghẽn đường máu, run run bờ môi ấp úng. Anh vui mừng, cuống quít trào lên tim; Muốn bể óc, bể phổi. Không ngờ “em tôi” chí tình, nhân hậu. Và sao mà “nốp bần”, xinh xắn quá!
Văn ngây ngất hiu hiu với hạnh phúc bất ngờ, như ông Trời ưu ái, rót từ thinh không xuống đời lính trơn cơ cực, một giấc chiêm bao diễm ảo thiên đường.
Anh loay hoay, xách mấy món quà lỉnh kỉnh vào doanh trại, vui vui, mừng mừng, dậy hân hoan trên đôi má rám nắng. Miệng anh cười toe toét. Khi lính bạn cùng đơn vị búng tay, tróc lưỡi nhìn anh, đá lông nheo kịch kịch. Họ kêu nhỏ è è è... í í í...
Họ huýt gió, xuýt xoa tán thưởng, trầm trò khen mình xứng đôi. Họ tha hồ chọc ghẹo tơi bời hoa lá. Khi ảnh "cu, gù" được cô gái xinh đẹp ở thành phố, lên tận đỉnh đồi thần sầu tróc lỡ vết đạn bom. Dưới vừng mây trắng cỏ vàng héo uá chốn nầy.
Gai khô đâm vào hông, đâm vào lòng bàn tay anh kẹp cứng trái mít dừa. Ấy vậy anh không cảm thấy đau, không nặng. Lòng anh hẫng lên chín tầng mây, mà mơ mơ, vui vui, say say nồng độ dấu ái hoan ca.

_ * _

Kính mời độc giả xem tiếp… Chương 17
Trân trong,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

17 * Lính, Trên Quê Hương Điêu Tàn

Postby Ái Ưu Du » 31 May 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 17

LÍNH,
Trên QUÊ HƯƠNG ĐIÊU TÀN





Đoàn công tác phòng 5 về ngang cầu Trắng, trên nền trời xanh lơ, gom từng cụm mây bàng bạc, hồng thắm, vàng thau lênh đênh trôi. Màu vàng chói sáng của dáng hạ, làm rạng chân trời xám. Đường chân trời quang rạng tách bạch, mở tầm mắt con người, hướng về mọi niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai.
Dù tai nghe hoài tiếng đại bác gầm gừ, súng cối, đạn nhỏ xé lẻ. Bạo tàn sôi sục lòng hờn căm ngoài bãi chiến trường... Thì nơi đây, nhịp sinh hoạt một ngày, như mọi ngày, trở lại bàng quang đến lạnh lùng.
Xe qua cầu. Hoài tựa đầu vào khung xe, nhìn vu vơ ra ngoài. Bỗng nàng thấy một nhóm lính, đứng trên lề cầu vẫy tay chào. Các bạn trên xe cũng vẫy tay lia lịa, chào lại.
Xe ngừng ở khu chợ nhỏ, chờ xin giờ lên doanh trại bộ Tổng Chỉ Huy. Tất cả nhảy xuống xe, họ thả bộ đi lung tung.
Hoài ngồi buồn xo trên xe, chán nãn nhìn kẻ qua người lại. Lúc đó, Trực tìm đến gặp Hoài gợi chuyện làm quen. Anh quân nhân nầy, Hoài biết tiếng, mà chưa bao giờ thích làm quen.
Đến giờ lên đồi, các anh chị vội vàng leo trèo lên sau đuôi xe, bò từ từ trên mấy thùng gỗ, đựng dụng cụ văn nghệ. Trúc dẫm trên kèo cột, sàn, sân khấu, đã tháo rời bù lon, ốc vít, xếp rất ngăn nắp, thứ tự từng lớp.
Thân Trúc lắc lư nhún nhảy xóc mạnh theo từng ổ gà, ụ mối, bờ chông đã tháo. Bò đến bên Hoài, ngồi cheo leo trên thùng gỗ đựng kèn, đàn. Cô nói cười vui thích:
- Anh Đan hỏi thăm bồ quá sá. Ảnh gửi lời chào Hoài. Ah! Đan là bạn thân của Trung úy Trọng, Trọng bồ mí Trúc đấy.
- Trúc nhiều bồ quá. Nhưng ảnh là bồ ruột hay... là bồ da... của Trúc vậy?
Tuyết Ngọc Trúc véo vào má bạn, cười toe toét:
- Bồ da. Còn Hoài nghĩ sao về anh Đan?
- Mình mới gặp anh ấy chỉ một lần ngắn ngủi. Bồ hỏi câu nầy, vội rồi.
- Ô hay! Ảnh nói đúng về Hoài, nên mình ngỡ... cô cậu thân nhau lắm chứ.
- Một nhầm lẫn đáng tiếc.
- Hoài chê anh Đan điều gì thế?
- Chê gì đâu. Ảnh dễ thương, có vẻ buồn, và nhã nhặn quá đỗi.
- Thì ra... Sao lúc nãy không đến bên cầu, chuyện trò giây lát, với anh ấy nhỉ?
- Để làm gì?
- Đan ngỡ là ảnh vô duyên, không truyền cảm đến "ai". Dù ảnh chỉ ước mong làm một người anh, của Hoài đó.
- Anh Đan nói như vậy à?
- Ừa.
- Chao!
Phiá trời Tây mây giăng mờ mờ, là trại giam hình sự kiên cố, lao tù lạnh lẽo, trầm mặc, cô liêu và u ám nầy có từ thời Pháp thuộc lâu đời, nhìn như hoang phế. Gần đãy là trường sơn xa tít tắp, núi tiếp núi, trùng trùng điệp điệp chập chùng. Đồi tiếp đồi mù mịt sau những bè mây trắng bềnh bồng, chen cánh những đài mây ngà lướt thướt lả lơi bay bay về nơi vô định.
Quả đồi nầy cao rộng kinh khiếp! Rừng cây gỗ ngút ngàn cao lớn dị thường, vươn lên sừng sững. Dưới gốc đại thụ mọc đủ mọi thứ măng le, tre, nứa, giang, dây leo, không tên mọc um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có con đường mòn, láng trơn trũng xuống, cận dòng suối đỗ dồn. Hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ.
Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào, giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh, lắc lư gió táp mưa gào, càng xác xơ. Rừng sậy già rậm rịt um tùm lô xô, thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù, cong cong trong gió bay xào xạc. Giống cái đuôi con sóc leo trèo trên những cây sấu màu vàng ửng, dưới tàng lá tỏa rộng.
Ở đây toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo. Mịt mùng. Núi, rừng, đồi, suối, ao, đầm. Cỏ lướt cỏ. Cây đan cây, cành đan cành. Lá đan lá chằng chịt. Quấn quít.
Vượn hú dài kêu đàn, thảm thiết buồn bã. Những con quạ mình to đen bóng, xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu. Thỉnh thoảng chúng ngóng cổ lên cao, hoác miệng kêu "Quạ! Quạ!", nó lại gù gù lưng, cúi cổ nhảy từng bước cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò.
Không hiểu ở đâu, nước từ thượng nguồn, dội xuống khe suối rộng xuôi chảy. Ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Một phía bên kia suối nước, bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ, giống màu đỏ sông Hồng, trôi trên xứ Quảng. Thấy mà kinh hồn.
Khi mặt trời to như cái nia, đỏ rực nhưng không nóng gắt, dần dần êm ả lặn về phiá chân đồi, đêm văn nghệ bắt đầu.
Toàn ban tâm lý chiến đồng ca nhạc phẩm "Viễn Du" xong, Tuyết Ngọc Trúc đơn ca "Nhớ một chiều Xuân" và "Chiều mưa Biên Giới". Nhạc Nguyễn văn Đông mà ca ở địa đầu giới tuyến, thì “nhức nhối con tim”, còn sức lôi cuốn quyến rũ nào bằng.
Nhất là do giọng ca Ngọc Trúc điêu luyện cất lên, ngút ngàn run rẩy thở qua rừng hoa bằng lăng tím ven núi. Sau những dãy trường sơn tím thẫm nhấp nhô điệp trùng. Sau những tầng mây loáng bạc như một dãi lụa mềm, uốn quanh chân trời ngan ngát hương hoa bưởi trắng muốt, hoa ngâu thơm thơm dưới chân làng. Trên muôn vì sao lấp lánh, vần vũ dưới kẽ mây trắng bồng bềnh trôi; Thì ngọt ngào, trìu mến, vỗ về, cuốn hút người nghe xiết bao!
Hoài không nghĩ nhạc Nguyễn văn Đông bị cấm, vì khi ca lên "uể oải nhụt chí tang bồng nam chiến sĩ". Quân Nhân Cộng Hoà Việt Nam, có trình độ thưởng lãm và lòng yêu nước thiết tha; Dù đã nghe nhạc hay không có nhạc phản chiến, họ vẫn một lòng chung thủy, giữ gìn non sông gấm vóc. Đến giờ phút cuối đời. Vì đó là... "Nghề của chàng mà lị"
Sau đó Hoài ca bài "Nếu vắng anh" của Anh Bằng, Thu Hoa giao duyên bài thơ "Cần Thiết" của thi sĩ Nguyên Sa. Lời thơ ý nhạc súc tích, hòa hợp, dễ thương làm sao. Khi em gái ca ngâm cho những chàng trai ở chốn quan hà nghe. Thì thật là quyến luyến gợi tình và cảm động xiết đỗi!
Hoài độc vũ "Đường Lên Sơn Cước". Nửa số dân ở đây là người miền núi, mặc xà rông, đóng khố, cà răng căn lỗ tai, nên sự yêu thích hoan hô nồng nhiệt, len giữa họ rất nhanh. Do yêu cầu, Hoài vũ thêm bài "Dămbalada", để đáp lại tấm thịnh tình người dân mộc mạc đơn sơ chân chất. Hứng thú, Hoài múa khúc nghê thường sống động thực sự, chứ không phải chỉ xiêm y, nhạc cụ, như người đẹp trong tranh tĩnh vật.
Đeo gùi lên vai, tay cầm xà gạt, lưỡi bén ngọt, làm gậy tốt, vừa là vũ khí hộ thân. Ở đây, người Thượng vào rừng sâu lấy mật ong, bẻ măng tàu, măng núi, nấm, rau núi, hái hoa lan, cây quả. Họ chặt nứa, giang, mây và củi, là chuyện nhỏ.
Họ tập trung thành một đoàn theo hàng dọc, bước đi chậm rải, gùi mấy thứ kiếm được, họ xuống phố bán lấy tiền, đôi khi đổi gà vịt lấy chó. Trên môi họ ngậm điếu đóm, cần tẩu cong cong lả lơi như dấu ngã. Họ chuyền cho nhau từng hơi thuốc vặt. Tu rượu cần như điên, mím miệng nhổ bãi nước bọt văng ra xa gọn gàng, chưa từng thấy.
Thay đổi y phục xong, cất áo váy vào túi xách. Phiá sau hậu trường bên trái, dành riêng cho các cô, các anh không ai lạng quạng đến đó. Làm việc ngày đêm bên nhau, dù anh em một phòng, nhưng không ai được phép "tù ti tú tí, hú hí", là a lê hấp... ở tù cả đám.
Có luật lệ tuyệt đối nghiêm cấm chuyện "lăng nhăng quờ quạng" rõ ràng. Tưởng dzăn nghệ dzăn gừng thì... tình nghệ sĩ "cho pha" mấy cái “chiện” tình cảm lẻ tẻ. Ấy là nhầm to.
Ban đầu mới "nhập gia tuỳ tục" nghe sẽ đi công tác, Hoài lo sợ "cá mè một lứa". Nhưng khi ăn ở chung trại. Có quân kỷ đâu ra đó trên ra dưới hẳn hoi. Không loạn xà ngầu. Hoàn toàn không phải như vậy. Nếu có "phải lòng ai", thì hẹn hò nhau đi ra ngoài đường, ngoài ngỏ. Xa thật xa khuất dạng doanh trại, thì OK!

_ * _


Kính mời độc giả xem tiếp… Chương 18
Trân trong,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

18 * Tình Đồng Đội Giữa Khuya Muôn Trùng

Postby Ái Ưu Du » 02 Jun 2007

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 18

TÌNH ĐỒNG ĐỘI GIỮA KHUYA MUÔN TRÙNG





Hoài ôm túi vải ra phiá sau hậu trường thì gặp Trúc, Trọng và Đan. Sự có mặt bất ngờ của Đan, dần tan biến nỗi u hoài trên sóng mắt nàng, như rạng đông làm tan biến chân trời đêm.
Trong thánh thất tâm hồn hoang dại, Hoài vui mừng chào đón anh, bằng đuôi mắt nheo một đường dài thật lẵng, đẩy đưa nụ cười duyên mời gọi thân tình, làm xinh thêm khuôn mặt:
- Ô! Em không ngờ... gặp anh ở đây.
- Biết các em lên đây từ sáng. Anh cứ đi tìm, mà không thấy đâu.
Nhanh nhẹn ngắt lời Đan, bàn tay trái Trúc nắm chặt, có ngón tay trỏ giơ lên, xỉ xỉ về phiá Hoài, cô láu táu cười cười:
- Hoài trốn, khi khám phá ra ngọn suối Thần, ở bản doanh. Còn em hi hi... có hẹn.
Trúc nói và cười tít mắt. Cô đi xuống mấy bậc thang gỗ, phía sau sân khấu, đến câu lạc bộ với Trọng. Hoài ngồi lại trên góc cầu thang gỗ, choáng lối đi lên đi xuống.
Đan đứng kề bên, một chân gác lên bậc tam cấp, đôi giày botte de saut bóng láng. Áo quần treillis mầu xanh của lính phong sương, bỏ trong thùng nai nịt cẩn thận. Một tay anh ôm nón sắt, một tay chống lên sườn. Miệng anh phì phà điếu thuốc lá không đầu lọc. Ngoài ra, anh không mang huy hiệu cấp bậc gì.
Nhìn nhau giây lát, biểu lộ niềm khát vọng kỳ phùng, đơn sơ chân thật. Hoài mỉm cười, nheo nheo mắt ướt trêu ghẹo:
- Anh ở đây, coi chừng chết hết mấy đoá hoa rừng à nha. Đừng có léng phéng. Thần Núi, Thần Hồ, sẽ không buông tha anh đâu.
- Em muốn hỏi anh điều gì nào? Anh nghe mấy bạn nói: Em xinh đẹp. Ngoan, hiền. Và, sao mà... dễ thương vậy!
- Anh có cho em đi tàu bay giấy không. Hở Đan?
- Anh tin Hoài đủ thông minh, để lĩnh hội các khía cạnh khác.
Hai tâm hồn nhạy cảm đồng điệu, gặp nhau ở tần số cảm thông, thấu hiểu, dễ trở thành đôi bạn, hầu ngỏ lời tâm sự. Sau khi biết sơ lượt về Đan. Nhìn thân phận quần thô vải cứng, giày sờn, Hoài không hơn cô bé lọ lem là mấy. Ngạc nhiên ngẩng nhìn anh, giọng nói Hoài pha chút buồn rầu:
- Không ngờ anh là con nhà giàu có, ở Huế.
- Con của nhà giàu, chứ có phải tự anh giàu đâu.
- Lại không ngờ... anh là... sĩ quan thế nầy.
- Vậy, em ngỡ anh, là gì nào!
- Bởi vì, em thích người lính trẻ bình thường, có đôi mắt u sầu, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nọ. Trên cầu vai không đính cánh mai vàng, mai bạc nào.
- Đó là những danh xưng phù du...
- Em thích bình dị, khi nói chuyện với anh.
- Anh nói chuyện với em, không được bình dị sao?
- Em là lính mới tò te. Còn anh là sĩ quan đã từng trải. Con nhà giàu, lại ở Pháp mới về.
- Sĩ quan hay lính mới, dính dấp gì đến chuyện chúng mình quen nhau nào? Có quen biết nhau lâu ngày, em sẽ hiểu. Anh không thiết tha, trọng vọng điều đó. Một lần nữa, anh mời em, vào Câu Bộ gần đây. Ở đó, em có thể biết ít nhiều, về môi trường các anh đang sống.
Hoài rảo bước bên anh bạn tình cờ, dẫn đến cho mình niềm vui lâng lâng thú vị. Cố tránh trong lòng mọi huyễn tượng, như muốn bừng lên, theo ánh mắt ngời sáng của chàng trai phong sương và văn nhã nầy.
Một tình bạn dù chưa ủ đúng độ nồng, như hũ rượu qúy chôn bách niên. Nhưng đủ ấm áp nồng say, đủ đánh bóng tình tri kỷ nơi biên cương ngàn dặm quan hà.
Câu Lạc Bộ vừa đủ rộng, các bàn hầu như kín chỗ. Đan dẫn Hoài vào ngồi bên các bạn thân quen. Mấy cô nữ quân nhân lạ, liếc mắt trề môi, nét mặt hầm hầm, xù ra. Họ miễn cưỡng kéo chiếc ghế rột rột dịch xa xa, đi chỗ khác. Mấy cô quân nhân Huyền Nữ, Thúy, Vân, Liên, nhìn bọn xướng ca, với đôi mắt vô loại thị dân, miệt đời khi dể.
Hoài không hiểu, trong hoàn cảnh hiện tại giống nhau. Cùng một lý tưởng, hoài bão. Môi trường chung, quan điểm chung và lập trường cùng ý chí đó. Ta có khác gì nhau, mà "hách xì xằng" quá vậy?
Chưa chắc ai có tư cách, đạo đức, tế nhị, khôn ngoan, thấu hiểu. Ai hơn thua ai. Đừng vì cái lon mới cũ to nhỏ, mà nhìn đời bằng nửa con mắt! Bạn à!
Ngồi bên trưởng phòng 5, là bạn đồng môn của Đan, Đan gọi thêm ít món ăn nhẹ hợp khẩu vị, rồi nói với các bạn:
- Ưu Thiên đã nói câu nầy: "Ái ưu, cũng có khi nhàn. Thì tiêu khiển trong tiệc rượu, cung đàn, coi cũng nhã". Có phải không các cậu? Hôm nay, tôi hân hạnh mời cô cậu ngồi chung bàn ở đây, một phen. Gọi là có chút tình tri kỷ bạn bè. Các bạn đồng ý chứ!
- Có điên, mới không đồng ý.
- Gọi chị Sa tính tiền ghi sổ. Dứt điểm chỗ nầy cái đã.
- Ơ! Anh Đan mời bạn bên bàn đó. Chứ chúng tôi ngồi bên bàn nầy. Không phải là bạn của các anh sao? Nhất là có người đẹp Huyền Nữ, thân thương của ta đây nè.
- Phải quá đi chứ.
- Ây. Các anh chị ơi! Chúng mình tự động kéo cái bàn nầy, nhập chung với bàn bển đi. Bển "dzui góa" mà hổng nhập bọn. Thì... cù lần ơi là cù lần. Há.
- Mau lên, kẽo anh Đan đổi ý. Thì buồn năm phút.
- Hay quá. Nam vô tửu, như kỳ vô phong mà!
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm.
- Tửu nhập tâm, xuất khẩu thành thơ mà.
- Tửu nhập tâm, cữu cuồng tạ thị.
Họ tự nhiên ăn uống, nói cười vui vẻ. Như chưa có chuyện kéo mấy cái ghế sột soạt đich ra chỗ khác. Hoài nhìn Đan e dè hỏi:
- Ở đây không bị cấm uống rượu à! Anh?
- Không hạn chế, nhưng họ tự biết mình phải thế nào. Khí phách nam nhi, không cho phép "tửu nhập tâm, như cữu cuồng tạ thị". Em đừng lo! Trong hương hoa đôi khi cũng có chất làm cho mình say hơn rượu, đó em. Vài ly bia, thì đã sao!
Thế là, các cô và qúy anh bạn, vui đùa bên nhau, Đan quay qua Hoài, trìu mến mỉm cười. Giọng nói có ý thức sâu sắc, về nỗi khổ tâm của nàng:
- Theo anh nghĩ: Vì lý do đặc biệt nào đó, em phải lặn lội với cuộc sống, một cách miễn cưỡng. Lứa tuổi nầy, nhẽ ra, em là chim én, nếu không là con sáo lém lĩnh.
- Cám ơn anh. Ít ra, có anh nghĩ... đôi chút về em.
- Tình yêu và đời sống. Hai từ nầy khác biệt, nhưng ràng buộc mật thiết với nhau. Em à. Không nên thất vọng, có hy vọng mới nuôi sống mình, trên đường đời buồn ít hơn vui. Đó, Hoài thấy không? Anh lạc quan chứ! Anh muốn gửi đến em lời chúc thế nầy nhé: Dù trong thách đố, trở ngại nào. Em nhớ bình tĩnh, sáng suốt, có nghị lực để vượt qua. Anh ở phương nầy, sẽ cầu nguyện cho em mãi.
- Em không nói cảm ơn anh. Có lẽ khách sáo và dư thừa.
Hoài cúi đầu, nụ cười mỉm chi nở trên bờ môi vụng dại, khi Đan trìu mến trao cho nàng, đôi mắt mùa thu êm đềm.
Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia. Giờ rụng đi trong đôi mắt sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút, thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Đan đắm mình trong khí ấm mùa xuân thu hút vuốt ve. Có mật ngọt và hương hoa. Có tia vui của ánh hào quang dọi sáng. Có khúc nhạc nên thơ êm mát, do gió núi trong lành lao xao nét tình xanh thắm thoảng lại.
Tất cả rời khỏi Câu Lạc Bộ, khi kèn vang vọng báo hiệu nửa đêm. Trăng lá mít mảnh dẻ, nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục. Như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ. Trên không trung ướt át sa mù buông lã.
Mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch, đã bóng mướt dưới ánh trăng lung linh. Tiết trời mùa thu miền núi buốt giá, sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá ướt sũng ánh trăng. Ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, xuýt xoa chà đôi bàn tay vào nhau.
Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng. Đi một vòng thị sát đến từng điểm gát di động kép, cứ hai người đi lui đi tới gát chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gát đêm. Đan đưa quà tận tay mấy chú lính.
Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi. Đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gát cẩn mật, ít nhất là ba giờ. Cơm không kịp ăn, không nước uống. Ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ. Họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai. Từng giờ. Từng đêm. Khều nhau đổi phiên gát canh thâu.
Dẫu vậy, họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính Cộng Hòa Việt Nam. Thân thể rạo rực dưới sức lôi cuốn tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy, coi vô tư tươi trẻ như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang và đầy bụi đỏ.
Mỗi đêm Đan đến với họ, trong lúc người lính cô đơn ôm sung gát, giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo. Anh ân cần sẻ chia chút tình người. Không phải họ qúy mến anh vì khúc bánh mì, ca nước nóng, mà do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu anh từ tâm và độ lượng. Do anh chí tình thương cảm và xích lại thân thiết thuộc quyền, không phân biệt giai cấp. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, gần nhau hơn. Gắn bó và thắt chặt tình đồng đội.

_ * _




Kính mời độc giả xem tiếp… Chương 19
Trân trong,
Ưu Du
Tôi ước mong học hỏi cùng quý vị: *Trau dồi tư tưởng *Mở rộng kiến thức *Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD Cám ơn quý vị.
Ái Ưu Du
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $540
Posts: 237
Joined: 16 Jan 2007
Location: U S A
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 62 guests