GIỮA HAI LẰN ĐẠN
Chương 4
Đồi TÀ BIÊN
Lúc gần năm giờ sáng, đoàn xe của phòng 5, có hai chiếc xe GMC, và một chiếc xe jeep, bon bon trực chỉ về hướng Quảng Ngãi. Dọc hai bờ quốc lộ, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt. Lá tre reo vui ca hát trong nắng sớm. Hàng tre lớp lớp nghiêng bóng sà xuống soi mình trên mặt nước ven sông.
Càng thúc giục lòng Trúc dạt dào niềm vui và nôn nóng xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm.
Xe lên hướng đồi Tà Biên gần huyện Minh Long nằm bên phía phải, nhìn từ xa đồi Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng. Con đường đất đỏ độc nhất ngoằn ngoèo nổi bật trên lưng đồi quanh co, như sợi gân xù xì dày cộm nhô cao, chia cả ngọn đồi ra làm hai phần.
Sau cơn mưa chiều hôm trước, con đường cái đã vạch hẳn ra hai lằn bánh xe in lún sâu xuống mặt đất nâu xám. Lổm chổm những mảng da đất khô ghồ ghề cạ quẹt trên lườn xe. Trông từ xa, lưng đồi kinh dị như những cục máu bầm, nức nẻ sau vết thương lở loét.
Dưới chân ngọn đồi, nhiều bãi cỏ hôi và bụi hoa mắc cỡ chằn chịt gai mọc lúp xúp, chung quanh là công sự phòng thủ có giao thông hào chu đáo. Hai cánh cửa cổng bằng gỗ khá lớn, sợi dây xích dài và to móc từ bên trạm gát ở phía vào, giăng qua tít bên trạm gát ở phía ra.
Sau sợi dây xích lại có thêm một vòng chắn bố phòng cẩn mât, là những con bọ ngựa gỗ. Nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn, lòng thòng những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại.
Tại cổng gát có hai anh lính đứng lúi húi làm việc trong trạm, và hai anh khác bồng súng gát bên ngoài cổng trạm. Trạm gát có hệ thống đường dây phone chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã chiến reo roóc roóc hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay liên tục trên máy truyền tin kêu tít tít tít, tè tè tè… hữu hiệu và nhanh chóng.
Đoàn xe của phòng 5 tạm ngừng bên hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên từng bậc thang lắt lẻo chênh vênh. Đoàn xe đậu lại gần vạt đất trống, chờ xin lệnh từ Bộ Tổng Chỉ Huy hành quân - Sư Đoàn 2, cho phép xe chở người vào khu phi quân sự.
Sau khi hai anh lính tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc xe đậu bên lề đường, trong đó có đoàn xe của phòng 5 (gồm ba chiếc) được phép vào vùng cấm địa khá rộng. Con đường nhỏ độc nhất chạy một chiều tấp nập đủ thứ loại xe chạy lên, chạy xuống ì ầm. Đường gò đất đỏ cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống, như con lươn đất uốn lượn nhô lên, giống đúc con đường cái dưới làng.
Dọc theo bốn phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng ba bốn hecta, có rào kẽm gai chằn chịt, và những giao thông hào cao lút đầu người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bằng bê tông chắn ghi sắt dày và to. Chung quanh gian hầm bao bọc thêm nhiều hàng bao cát, dường như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống đất sâu, chỉ nhô lên khỏi mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía.
Bên mé phải là nơi đặt bộ chỉ huy hành quân. Xạ trường của bộ chỉ huy hành quân nhìn xuống, là một vạt đồng trống, nên dễ nhìn thấy mọi thứ dưới xa. Trên ngọn đồi dựng đứng cao sừng sững, tứ phía làng mạc, là một vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và bố trí điều quân, thì không thể nào chê.
Bên mé trái ngọn đồi có cả bệnh viện dã chiến nằm lún vào lòng đất ở lưng chừng đồi. Gần bộ tổng hành dinh là một giàn trọng pháo, khi thì mấy anh lính đang nâng nòng súng lên, khi thì hạ nòng đại liên xuống. Có kho bom xăng, bom nổ, và bãi phi cơ dã chiến tốc hành. Có cả khu máy phát điện khổng lồ chạy ầm ỉ suốt ngày, đêm.
Những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo mùi mỡ khét, thịt cháy, bốc lên hừng hực, từ đám khói đen nghịt xa xa ùa theo gió ào ạt bay về. Khiến Trúc muốn lộn mửa.
Loạt đại bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, giận dữ gào thét ùm ùm uỳnh uỵch, trút cả khối hung tàn đến khu rừng già tận phía chân trời xa.
Nhiều loại súng ì oành ì ầm, pằng pằng pằng rít rít xiu xít trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn hầm chắn ghi sắt, cửa hầm phủ bạc, tủ sắt giật rung kêu ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, cả khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép của tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang, có lẽ do bị bắn trực xạ dữ dội và gần lắm. Rung rinh, nghe thật ớn lạnh.
Tiếng súng cối thị uy của phe ta bắn vào ngọn núi Ô Chai xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất từng hồi trầm thống gầm rú rền rền. Như những nhịp sấm dồn.
Phía chân trời, các đụn khói đen sì, cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng tỏa rộng ra. Đụn khói quyện lửa và khói đen giống một cây lọng che khổng lồ, đùn đùn nối tiếp nhau vọt lên lưng trời đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt, lại xoắn xuýt quấn lẫn vào nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới bình minh xiên xiên, mờ mờ sương lam muối vùng núi phủ chụp xuống ngọn đồi trọc, nom càng xơ xác hơn.
Chiếc bà già Morance 500 củ rích xập xệ, ì ạch bay giữa cơn lốc cuốn cao. Trúc sợ nó bị hụp xuống vùng trôn ốc, không qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng quá!
Phi cơ trinh sát luôn bay lượn trên đầu, vòng bay mỗi lúc một tỏa rộng trông thật ngoạn mục.
Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi. Phi cơ L 19 liên tục quầng thảo trên trời, tiếng súng phe ta lẫn bên địch nổ rang, rung động khung trời đỏ ầm ầm. Đạn 130 delay chui xuống "dưới đất hoả ngục trần thế" mới chịu nổ, kéo tung cào xới, xé toang hết mọi thứ. Rồi, cuồng bạo vất ngược lên cao, lại lả tả rơi xuống.
Chiếc phi cơ Skyraider thả napalm xuống mé núi hướng tây bắc, viên phi công bay lượn vài vòng chào đồng đội, chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, rồi vút bay đi mất dạng.
Ngoài bản doanh, một xe hồng thập tự vừa hú còi chạy xộc vào khu bệnh xá, để cấp cứu người ngoài ấp bị lạc đạn trọng thương. Ban y tế lo cấp tốc cúi gầm đầu cứu thương. Vài xác chết chưa biết là ai, chẳng rõ, sình thối căng phồng, do đoàn 5 vừa đi nhặt về. Anh Vị để họ nằm trong poncho, bên tr ên mé hầm khu bệnh xá, như con chó chết chưa kịp chôn, thúi hoắt.
Trúc vội chạy tới một hầm lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng để nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình nghi vừa tóm được). Ban đêm phòng nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Cánh tay bàn chân hắn ta tím bầm sưng húp, lở loét nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy. Một tên mặt mày xanh méc, (do mất máu), hắn lúi húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi, loang lỗ máu tươi.
Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm tiều tụy, dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa thô thiển, may vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, chân đất, Hai cánh tay hắn nổi ốc trâu xù xì, dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí. Tuổi đời mới độ mười bốn mười lăm, lớp ghéc bẫn thấm mồ hôi đen, vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn.
Khiến Trúc cảm thấy phiền phiền, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam, Trúc nẩy nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy lo sợ, nàng muốn đánh bài chuồn. Không dám chạm trán với các bác. Gặp bác kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa. Tàn phai nát đời.
Chứ không được hay ho, tuyệt vời như “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước.
_ * _