24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Tác Giả: Stefan Zweig

Người Dịch: Lê Phát


<center>Image</center>
(Cuốn nầy có 2 truyện)

24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà

Tại ngôi nhà trọ ở Riviêra (Riviêra: vùng bờ biển đẹp, ăn chơi của Pháp bên bờ Địa Trung Hải, chạy dài từ cảng Mác-xây đến biên giới nước Ý, có những thành phố nghỉ mát nổi tiếng như Can, Nixơ, Môntê-Caclô), nơi tôi trú ngụ lúc đó (mười năm trước chiến tranh (tác giả chỉ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất)), một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra tại bàn chúng tôi, đe dọa trở thành một cuộc cãi lộn ác liệt, với những lời lẽ hằn học và nhục mạ. Trí tưởng tượng của nhiều người thường không sắc bén lắm. Chuyện gì không dính dáng đến mình thì có như đóng chốt vào đầu cũng không làm họ mảy may xúc động; chuyện không quan trọng lắm nhưng, xảy ra trước mắt, lại nằm trong tầm cảm xúc của họ thì họ sôi lên sùng sục. Thế là trong một chừng mực nào đó, để bù lại việc chỉ quan tâm đại khái đến những sự kiện bên ngoài, họ trở nên hùng hổ một cách vô lối và quá đáng.

Lần đó thì đúng như vậy, giữa những thực khách hoàn toàn là trưởng giả, ăn cùng một bàn, sau bữa cơm thường nói với nhau những câu chuyện phiếm (Nguyên văn tiếng Anh: Small talks) và những lời bông đùa nhẹ nhàng không sâu sắc, thông thường thì họ tản đi ngay: cặp vợ chồng người Đức thì dạo chơi và chụp ảnh, ông người Đan Mạch béo tròn, tiêu khiển bằng thú đi câu tẻ nhạt, bà mệnh phụ người Anh thanh lịch trở về với sách của bà, đôi vợ chồng người Ý rông đi Môntêcáclô chơi, còn tôi thì nhàn tản trên chiếc ghế ngoài vườn hoặc làm việc. Nhưng lần này chúng tôi đeo dính lấy nhau tranh cãi dai dẳng và nếu có ai trong chúng tôi bỗng đứng phắt dậy thì không phải để cáo lui một cách lễ độ như thường lệ, mà là trong cơn bực bội, nóng nảy đầy vẻ cáu kỉnh như tôi đã kể.

Thật ra, sự kiện khuấy động đến mức đó, những người ăn cùng bàn với nhau, kể cũng khá kỳ cục. Căn nhà trọ, nơi bảy chúng tôi ở, một biệt thự riêng biệt, vẻ ngoài thật đẹp (phong cảnh nhìn từ của sổ ra bờ biển, mép đá lô nhô, quả là tuyệt vời) đúng ra chỉ là một nhà phụ, rẻ tiền hơn, của đại khách sạn Palát, chỉ có cái vườn ngăn cách, nên lúc nào chúng tôi cũng có thể quan hệ được với những khách trọ trên Palát. Ngày hôm trước, tại khách sạn, đã xảy ra một vụ tai tiếng về đủ mọi mặt.

Số là, trong chuyến tàu trưa, đúng ra là mười hai giờ hai mươi phút (tôi phải chỉ giờ thật chính xác vì điều này quan trọng đối với việc đang xảy ra lẫn câu chuyện làm chúng tôi phải bàn cãi sôi nổi), một thanh niên người Pháp đã tới khách sạn và thuê một căn phòng trông ra biển: chỉ điều đó cũng cho thấy là chàng ta dư dả. Chàng được mọi người thích thú chú ý tới không chỉ ở phong độ thanh lịch kín đáo mà chính là ở vẻ đẹp cao quí, thật dễ thương; trên khuôn mặt nhỏ nhắn như thiếu nữ, là một bộ râu vàng óng như tơ, mượt mà trên môi, nồng nàn gợi cảm; trên vầng trán rất trắng là những gợn tóc nâu xoăn bồng bềnh; cái nhìn dịu dàng của chàng như mơn trớn, tất cả ở chàng tạo ra một vẻ êm êm đẹp đẽ, đáng yêu nhưng không có gì là giả tạo, điệu bộ. Nói cho đúng, thoạt tiên, trông chàng từ xa những ta thoáng nhớ tới những bộ mặt bằng sáp màu hồng, dáng điệu kiểu cách, tay cầm chiếc can lịch sự, tượng trưng cho cái đẹp của nam giới, được bày tại tủ kính các tiệm lớn, bán quần áo thời trang. Nhưng càng nhìn gần thì mọi cảm giác hợm hĩnh đều biến mất vì ở chàng, vẻ nhã nhặn là tự nhiên như thuộc bản chất con người (điều này thật hiếm). Đến đâu, chàng cũng khiêm tốn, thân mật chào tất cả mọi người và thật thích thú khi nhận thấy ở hoàn cảnh nào, sự ân cần của chàng cũng bộc lộ hoàn toàn thoải mái.

Một phu nhân đi ra nơi giữ quần áo, chàng sốt sắng đến lấy áo choàng giúp; với mỗi đứa trẻ, chàng đều có một ánh mắt thân mật, một lời nói vui: chàng vừa cởi mở lại vừa tế nhị; tóm lại, hình như chàng là một trong những con người được ưu đãi; và do đức tính làm vui lòng mọi người bằng bộ mặt tươi cười và vẻ duyên dáng trẻ trung nên chàng lại có một nét tao nhã mới. Sự hiện hữu của chàng có vẻ như một ân huệ đối với khách trọ tại Palát, phần đông đều có tuổi và sức khỏe kém; do dáng điệu hùng dũng của tuổi thanh niên, do bộ điệu nhanh nhẹn hoạt bát, do vẻ tươi tỉnh trong bản chất dễ thương làm một số người có cái vẻ uy nghi, chàng dễ dàng giành được tình cảm của mọi người. Hai giờ sau khi tới, chàng đã chơi quần vợt với hai cô con gái nhà kỹ nghệ béo mập và giàu sụ ở thành phố Lion (Lion: một thành phố công nghiệp lớn ở miền Nam nước Pháp) là Annét, mười hai tuổi, và Blăngsơ, mười sáu tuổi. Mẹ hai cô gái, bà Hăngriet, mảnh mai, dịu hiền và rất kín đáo, khẽ mỉm cười trông hai cô gái nhỏ, còn thật ngây thơ, làm dáng làm điệu một cách vô thức với chàng trai ngoại quốc. Buổi chiều, chàng vừa chơi cờ vua giải trí với chúng tôi, vừa kể vài giai thoại vui vui một cách tế nhị, chàng dạo chơi nhiều lần khá lâu trên sân với bà Hăngriet; chồng bà này, như thường lệ, chơi đôminô với một ông bạn kinh doanh; tôi còn thấy chàng chuyện tò rất muộn với vẻ mật thiết đáng ngờ, trong bóng tối của phòng giấy với cô thư ký của khách sạn.

Hôm sau, chàng theo ông bạn Đan Mạch của tôi đi câu cá và tỏ ra có những hiểu biết phi thường về môn này; sau đó chàng bàn luận về chính trị rất lâu với nhà kỹ nghệ ở Lyông; và chàng cũng tỏ ra là người nói chuyện có duyên vì người ta nghe thấy tiếng cười của ông mập át cả tiếng sóng. Sau bữa trưa, (để hiểu rỏ tình hình, tôi phải kể thật chính xác từng giai đoạn thời gian biểu của chàng) chàng đã cùng bà Hăngriet, chỉ có hai người, uống cà-phê ở ngoài vườn; chàng lại chơi quần vợt với các con gái của bà, rồi chuyện trò với hai vợ chồng người Đức ở phòng lớn. Hồi sáu giờ, khi đi bỏ thư, tôi gặp chàng ở ga. Chàng vội đến gần tôi, kể là chàng buộc phải cáo lỗi vì bị gọi về gấp nhưng sau hai ngày, chàng sẽ trở lại đây.

Thật vậy, chiều hôm đó, chàng không có mặt ở phòng ăn, nhưng có thiếu chăng chỉ là thiếu sự hiện diện của con người đó, vì ở tất cả mọi bàn, người ta chỉ nói về chàng, ca ngợi tính tình dễ thương và vui vẻ của chàng.

Ban đêm, tôi đang ngồi trong phòng, đọc cho xong một cuốn sách, lúc đó có lẽ đã mười một giờ, bỗng, qua cửa sổ mở, tôi nghe thấy những tiếng kêu, những tiếng gọi lo âu ở ngoài vườn; rõ ràng, bên khách sạn, có một sự náo động khác thường. Vì lo lắng hơn là vì tò mò, tôi xuống ngay năm mươi bậc thang; ở dưới, tôi thấy khách trọ và nhân viên khách sạn đang trong tình trạng hỗn độn và náo động. Bà Hăngriet sau khi đi dạo trên sân dọc bờ biển như các buổi chiều, đã không trở về, trong lúc ông chồng thì như thường lệ, vẫn chơi đôminô với ông bạn ở Namuya (tên một thành phố của Pháp (Namur)), mọi người lo là có tai nạn. Giống như một con bò rừng, con người ở thành phố Lyông, vốn nặng nề, mập mạp, lao dọc theo phía bờ biển và trong đêm tối, tiếng gào: “Hăngriet! Hăngriet!” của ông ta, do xúc cảm mà giọng lạc đi, âm thanh đó gợi lên một cảm giác rùng rợn như tiếng gầm rống của một con thú khổng lồ thời nguyên thủy, trước giờ chết. Nhân viên khách sạn, bồi phòng chạy đi chạy lại tấp nập, lên xuống thang gác, người ta đánh thức khách trọ, gọi điện đến sở cảnh sát. Nhưng giữa cảnh ồn ào đó, con người to lớn ấy áo gi-lê cởi phanh cứ đi qua lại, lảo đảo bước những bước dài, ông thổn thức kêu to trong đêm, một cách điên dại, chỉ một cái tên: “Hăngriet! Hăngriet!”. Ngay lúc ấy, những đứa nhỏ ở trên lầu, đã thức dậy và trong bộ quần áo ngủ, chúng đứng bên cửa sổ gọi mẹ, còn người cha chạy tới cho chúng yên lòng.

Rồi bỗng xảy ra một điều thật hãi hùng, không sao kể lại được vì tạo vật, khi bị căng mạnh trong những cơn khủng hoảng đặc biệt, thường làm cho thái độ của người ta có một vẻ bi thảm lạ thường, không một hình ảnh, lời lẽ nào có thể diễn tả nổi, kể cả cái sức mạnh sấm sét ở trong nó. Bỗng nhiên, con người nặng nề, to lớn bước xuống các bậc thang rin rít với bộ mặt đã thay đổi hẳn, đầy vẻ mệt mỏi, nhưng dữ tợn, ông ta cầm một lá thư trong tay: “Gọi tất cả mọi người về đi!”.

Ông ta nói với người quản lý bằng một giọng vừa đủ nghe: “Gọi tất cả mọi người về, không cần tìm nữa, vợ tôi đã bỏ tôi rồi”.

Trước những kẻ đứng xúm quanh ông, tò mò nhìn ông bỗng nhiên ngượng ngùng, bẽn lẽn và hãi hùng dãn ra, con người bị đánh đến tử thương này có một dáng điệu căng thẳng phi thường. Ông ta còn đủ sức bước lảo đảo qua mặt chúng tôi, không nhìn ai, để đi tắt đèn trong phòng đọc sách. Người ta nghe tiếng tấm thân nặng nề, đồ sộ của ông reo phịch xuống một chiếc ghế phô tơi, rồi một tiếng nấc man rợ, thú vật chỉ có ở những người chưa từng khóc bao giờ. Nỗi đau khổ thông thường ấy, gợi lên trong mỗi chúng tôi, ngay cả với người vô tình nhất, một tác động lạ kỳ. Không người bồi bàn nào của khách sạn, không một khách trọ nào, tò mò tới xem, dám hé môi cười, hoặc thốt ra một lời thương cảm. Câm nín, mỗi người chúng tôi, như cảm thấy hổ thẹn vì để bộc lộ tình cảm
mình một cách sôi sục, lặng lẽ trở về phòng. Khi chỉ còn một mình trong căn phòng tối tăm, cái sản phẩm của nhân loại bị vùi dập này đã thoi thóp, nức nở, quá cô đơn với chính mình, tại ngôi nhà mà ánh đèn đang tắt dần, chỉ còn lại những tiếng rì rào, những tiếng thì thầm, những tiếng động yếu ớt cứ tàn lụi dần.

Người ta phải thấy rằng một sự kiện như sét đánh ấy, diễn ra trọn vẹn trước mắt chúng tôi, đã gây xúc động mạnh đến những người quen với buồn chán và những trò giải trí vô tư. Nhưng cuộc tranh luận nổ ra sau đó tại bàn chúng tôi lại kịch liệt và suýt biến thành ẩu đả; dù cho nó bắt nguồn từ sự việc lạ lùng này, bản thân nó chỉ là những vấn đề những nguyên tắc đối chọi nhau, những quan điểm khác nhau về cuộc đời chống lại nhau một cách gay gắt. Thật vậy, do một cô hầu gái thóc mách đã đọc được bức thư (ông chồng gục xuống trong cơn phẫn nộ bất lực, đã vò nát và quẳng bức thư xuống sàn nhà) người ta sớm biết rằng bà Hăngriet bỏ đi không phải một mình mà với chàng trai người Pháp (cảm tình của nhiều người đối với chàng từ lúc đó, đã mất đi rất nhanh). Thoạt tiên, người ta thấy ngay là cái bà Bôvary (bà Bôvary: nhân vật trong một tác phẩm mang cùng tên của nhà văn Pháp Guxtavơ Flôbe tượng trưng cho người đàn bà ngoại tình) nhỏ nhắn này đã đổi ông chồng béo ị, dân tỉnh lẻ lấy một chàng trai trẻ, thanh lich, đẹp đẽ. Nhưng điều làm mọi người ngạc nhiên nữa là trong đó từ nhà kỹ nghệ, các con gái của ông đến cả bà Hăngriet đều chưa bao giờ gặp chàng Lôxơlêxơ (Lovelace: tên một nhân vật trong truyện Claisse Harlow của nhà văn Anh Richardson viết năm 1749. Theo nghĩa từng chữ Love: tình yêu, lace: giây rợ, cạm bẫy - Ở đây chỉ những người đàn ông chuyên quyến rũ đàn bà con gái, một thứ sở khanh hay Đon Juan) này; và như vậy là một cuộc trò chuyện ban đêm dài hơn hai giờ trên sân thượng, và một giờ uống cà-phê với nhau ở ngoài vườn đã đủ để xô đẩy một người đàn bà mẫu mực, chừng ba mươi tuổi, bỏ chồng và hai con gái để đi trong đêm, phiêu lưu theo một chàng trai thanh lịch, trước đó hoàn toàn xa lạ với bà.

Những người ăn cùng bàn với chúng tôi đều đồng tình rằng, sự việc, bề ngoài rõ ràng, thật ra chỉ là một sự lừa dối xảo trá và thủ đoạn quỉ quyệt của cặp tình nhân; chắc chắn bà Hăngriet đã có những quan hệ bí mật từ rất lâu với chàng trai này và gã đi “mò gái” đến đây chỉ quyết định những chi tiết cuối cùng của cuộc đào tẩu này, vì- người ta suy luận như vậy- hoàn toàn không thể có chuyện một người đàn bà nết na, chỉ sau hai giờ quen biết đã chuồn theo trai ngay khi nghe tiếng huýt sáo gọi đầu tiên. Ở đây, tôi thích có ý kiến khác; tôi kiên quyết bảo vệ rằng, một người đàn bà lấy chồng, qua nhiều năm chung sống với chồng, chỉ thấy thất vọng và buồn tẻ, cuộc chung sống như vậy đã ngấm ngầm chuẩn bị nội tâm người đàn bà đó trở thành cái mồi cho bất cứ người đàn ông táo bạo nào; điều như vậy không những có thể xảy ra mà chắc chắn là có nữa. Do sự phản đối bất ngờ của tôi, cuộc tranh luận đã mau chóng được tất cả bàn cãi, và điều nó trở nên sôi nổi là cả hai cặp vợ chồng người Đức lẫn Ý đều tỏ vẻ khinh miệt rất kênh kiệu, không chịu chấp nhận sự hiện hữu của tiếng sét ái tình, họ cho đó là một điều điên rồ và một sự tưởng tượng lãng mạn vô duyên.

Tóm lại, nhắc đi nhắc lại mãi những chi tiết của một cuộc cãi vả sôi nổi kéo dài từ đầu giờ dần đến cuối giờ dậu (Nguyên văn: từ khi ăn món súp đến lúc ăn món put-đinh (một món nho trộn bột)) chẳng ích lợi gì; chỉ những khách chuyên được mời ăn tiệc (Theo tục lệ châu Âu ở đây nói về những người có khoa ăn giỏi, tế nhị, lịch thiệp, ý tứ thường được chủ nhân những bữa tiệc quan trọng có đủ loại khách khác nhau về chính kiến, trình độ, quan niệm v.v.. có khi kình địch nhau mời dự nhằm giúp chủ nhân chuyện trò, tiếp các khách đó trong bữa ăn mà không làm mất lòng ai) nói chuyện mới sắc sảo, còn những luận điệu mà những người ngồi cùng bàn, khi ăn, ngẫu nhiên viện ra để tranh cãi giữa bầu không khí hăng say, thường chẳng có gì đặc sắc, có thể nói là vơ quàng vơ xiên nữa. Cũng khó có thể cắt nghĩa tại sao chúng tôi lại dễ xúc phạm nhau đến như vậy trong lúc tranh luận; tôi cho rằng hai ông chồng bực tức vì họ chỉ viện lẽ chính các bà vợ của họ không thể bị cám dỗ và sa ngã đến thế.

Đáng buồn là họ không có cái gì hay hơn để phản đối tôi và nói rằng chỉ ai phán xét tâm hồn phụ nữ căn cứ vào những cuộc chinh phục bất thần và dễ dãi của kẻ độc thân mới nói vậy. Điều đó bắt đầu làm tôi khó chịu và khi bà người Đức cho thêm thứ gia vị nghiêm chỉnh vào bài học này, nói rằng có những người phụ nữ đoan trang, lại có cả những đồ “đĩ thỏa” và theo bà ta, bà Hăngriet phải thuộc loại này, tôi hoàn toàn mất hết bình tĩnh. Đến lượt tôi, tôi tấn công lại. Tôi tuyên bố rằng, không thừa nhận sự việc này, chứng tỏ, một người đàn bà, nhiều lúc trong đời mình, có thể bị phó mặc cho những uy lực thần bí mạnh hơn cả ý chí của họ, rằng trí thông minh của họ chỉ che giấu nỗi lo sợ chính bản năng của con người, nỗi lo sợ cái bản tính tin thờ ma quỷ trong con người ta. Và nhiều người thích cho là mình rắn rỏi hơn, trong sạch hơn những kẻ “dễ bị chinh phục”.

Về phần tôi, tôi cho rằng một người đàn bà xử sự một cách tự do và đắm đuối, theo bản năng của mình còn thành thật hơn những người vẫn phản bội chồng ngay khi còn nằm trong tay chồng, mắt nhắm nghiền, như ta thường thấy. Đại khái, tôi nói như vậy; và khi cuộc đấu khẩu trở nên nảy lửa, mọi người càng công kích bà Hăngriet tội nghiệp kia, tôi càng say sưa bênh vực bà ta (thật ra, trong thâm tâm, tôi cũng thấy là tôi đã đi quá xa!). Sự nồng nhiệt ấy như khiêu khích hai cặp vợ chồng kia; và thành bộ tứ không hài hòa lắm, họ nhào vào tôi kịch liệt đến nỗi ông già Đan Mạch, vẻ hào hứng, tay cầm đồng hồ bấm giờ, như trọng tài một trận đá banh, thỉnh thoảng phải gõ những ngón tay xương xẩu xuống bàn, ra vẻ cảnh cáo và nói: “Xin các vị, hãy bình tĩnh nào!” (Nguyên văn tiếng Anh: “Gentlemen, please”.)

Nhưng làm như vậy cũng chỉ có tác dụng chốc lát. Đã ba lần, một đối thủ của tôi hùng hổ chồm lên và bà vợ ông ta vất vả lắm mới làm ông ta bớt nóng, tóm lại chỉ chừng mười phút nữa, là cuộc tranh luận giữa chúng tôi có thể kết thúc bằng đấm đá nhau nếu, bỗng nhiên bỗng nhiên bà C…, bà mệnh phụ già người Anh, tóc bạc trắng, đầy vẻ sang trọng, mặc nhiên đã trở thành người chủ tọa danh dự của bàn chúng tôi mà không phải bầu. Đối với ai, bà cũng tỏ ra nhã nhặn, bà ngồi thẳng trên ghế, nói ít nhưng đã nói thì cực kỳ thú vị và dễ nghe; chỉ nhìn vẻ ngoài của bà cũng thấy dịu dàng; ở con người quí phái, kín đáo này, tỏa ra một vẻ điềm đạm, thư thái tuyệt vời. Bà giữ một khoảng cách nhất định đối với tất cả; đối với từng người, bà lại có sự chú ý riêng biệt một cách tế nhị; bà thường hay ngồi ở ngoài vườn với sách vở; đôi lúc bà chơi dương cầm và rất ít khi người ta thấy bà ở giữa một đám đông hay bị cuốn hút vào một cuộc nói chuyện ồn ào. Người ta ít chú ý đến bà nhưng đối với chúng tôi, bà có một uy quyền khác lạ. Bởi vì, khi bà can thiệp lần đầu tiên vào câu chuyện của chúng tôi, tất cả chúng tôi có cái cảm giác nặng nề là đã quá lớn tiếng và không tự kiềm chế được bản thân mình.

Bà C… đã tranh thủ phút tạm ngưng bực tức khi ông người Đức chồm khỏi ghế, bị nhẹ nhàng kéo về chỗ cũ. Bà bất chợt ngước đôi mắt nâu và sáng, do dự nhìn tôi một lát để sau đó tự đặt vấn đề với sự chính xác của một nhà chuyên môn.

- Nếu tôi hiểu đúng ý ông, thì ông nghĩ rằng bà Hăngriet… rằng một người đàn bà, dù không muốn, cũng không có thể bị xô đẩy vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ? Ông nghĩ rằng có những hành động mà một người đàn bà như vậy cho là không thể nào tới với họ một giờ trước đó và bà ta không phải chịu trách nhiệm về hành động ấy.

- Thưa bà tôi đã nghĩ đúng như vậy.

- Vậy thì mọi sự phán xét về đạo đức sẽ hoàn toàn không có giá trị, mọi vi phạm những quy luật về luân lý sẽ được bảo vệ. Nếu ông thật sự chấp nhận, coi án mạng vì tình không phải là tội phạm như người Pháp vẫn nói, thì duy trì tòa án để làm gì? Cũng không cần nhiều thiện chí lắm (mà ông thì có quá nhiều thiện chí, bà mỉm cười nói thêm) để tìm thấy trong mỗi vụ trọng tội, một sự đam mê đó, tìm ra một lời biện bạch.

Giọng nói trong trẻo, hơi vui vẻ của những lời nói đã làm tôi thấy ấm lòng lạ thường; tự nhiên bắt chước thái độ khách quan của bà, tôi nửa đùa, nửa nghiêm trả lời:

- Chắc chắn là tòa án sẽ nghiêm khắc hơn tôi về những vấn đề này; họ có sứ mệnh phải bảo vệ đến cùng những phong tục và các điều quy ước chung; điều đó buộc họ phải kết án thay vì tha lỗi. Nhưng tôi, một người bình thường, tôi không hiểu tại sao tôi lại phải tự đảm nhận vai trò công tố viên. Tôi muốn làm người chuyên đi bảo vệ hơn. Bản thân tôi, tôi thích hiểu con người hơn xét xử họ.

Bà C… nhìn thẳng vào tôi một lát bằng cặp mắt sáng và nâu, rồi bà ngập ngừng. Tôi sợ bà không hiểu rõ tôi và tôi định nhắc lại bằng tiếng Anh điều tôi đã nói. Nhưng với vẻ nghiêm nghị đặc biệt và như trong một kỳ sát hạch, bà tiếp tục hỏi:

- Thế ông không thấy rằng, một người đàn bà, bỏ cả chồng con để đi theo một kẻ nào đó, chưa biết có xứng đáng với tình yêu của mình không, là đáng khinh và bỉ ổi ư? Ông có thể tha thứ một hành vi liều lĩnh và nhẹ dạ đến thế của một người đàn bà không còn trẻ nữa, lẽ ra bà ta phải biết học cách tự trọng lấy mình, dù chỉ vì các con?

- Thưa bà, tôi xin nhắc lại - tôi khăng khăng - là tôi từ chối không có một sự phán xét hay lên án ở trường hợp này. Nhưng trước mặt bà, tôi có thể bình thản thừa nhận rằng lúc nãy, tôi có hơi nói quá. Cái bà Hăngriet tội nghiệp kia, chắc chắn không phải là một nữ anh hùng; bà ta không có cả bản chất một con ngưòi phiêu lãng, bà ta còn kém một người đa tình nồng nhiệt. Theo tôi hiểu về bà ấy, bà ta chỉ là một người đàn bà yếu đuối, bình thường, mà tôi có đôi chút kính nể vì bà ta đã can đảm làm theo ý muốn của mình, nhưng tôi còn thương xót bà ta hơn vì ngày mai, nếu không phải là đã xảy ra hôm nay rồi, bà ta sẽ đau khổ một cách sâu sắc. Có thể bà ta đã hành động ngốc nghếch, dù sao bà ấy cũng quá hấp tấp nhưng tư cách của bà không có gì là hèn hạ, thấp kém và trước sau, tôi cũng không cho ai được quyền khinh rẻ người đàn bà đáng thương và đau khổ này.

- Thế ông, ông còn có đủ sự kính nể, lòng tôn trọng đối với bà ấy không? Ông có phân biệt người đàn bà nết na mới hôm trước ông còn gặp, với người hôm qua đã đi theo một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ không?

- Thưa không, tôi không có chút phân biệt nào dù là nhỏ nhất.

- Thật vậy sao? (Nguyên văn tiếng Anh: Is that so?)

Tự nhiên, bà nói bằng tiếng Anh, cuộc nói chuyện làm bà có vẻ thú vị lạ
thường. Sau một giây lát suy nghĩ, cái nhìn trong sáng của bà lại nhằm vào tôi.

- Nếu ngày mai, ông gặp bà Hăngriet ở Nixơ (Nice: một thành phố nghỉ mát có tiếng ở miền Nam nước Pháp bên bờ Địa Trung Hải.) chẳng hạn, khoác tay với chàng trai ấy, ông có chào bà ta không?

- Tất nhiên là có chứ.

- Ông có nói chuyện với bà ấy không?

- Tất nhiên là có!

- Nếu ông… nếu ông có vợ, ông có giới thiệu vợ ông với người đàn bà ấy, như không có gì xảy ra không?

- Tất nhiên là có.

- Ông sẽ làm như vậy thật ư? (Would you really?) - Bà lại nói với vẻ ngạc nhiên, hồ nghi và sửng sốt.

- Nhất định tôi sẽ làm như vậy? (Nguyên văn tiếng Anh: Surely I would.) - Tôi đáp lại bằng tiếng Anh mà không để ý thấy nữa.

Bà C… nín lặng. Bà vẫn chìm lắng trong suy nghĩ và đột nhiên nhìn vào tôi, bà nói, như ngạc nhiên về sự dũng cảm của chính mình:

- Tôi không biết tôi có làm như vậy không? Có lẽ tôi cũng phải làm như vậy (Nguyên văn tiếng Anh:I don’t know if I’would. Perhaps I might do it, also.)

Và với vẻ tự tin không sao mô tả nổi, mà chỉ người Anh mới biết dùng để chấm dứt cuộc nói chuyện một cách dứt khoát nhưng không đột ngột, thô lỗ, bà đứng dậy, thân mật chìa tay ra cho tôi. Nhờ có bà can thiệp, yên tĩnh đã trở lại, về phần chúng tôi, chúng tôi thầm biết ơn bà, vì dù còn là đối thủ của nhau, chúng tôi vẫn có thể chia tay nhau có lễ độ và không khí căng thẳng nguy hiểm cũng tan dần sau vài lời bông lơn vớ vẩn.

Mặc dù cuộc tranh cãi chấm dứt một cách lịch sự, giữa những địch thủ và tôi vẫn còn một chút lạnh nhạt do chỗ điều qua tiếng lại hằn học và sôi nổi. Cặp vợ chồng người Đức tỏ ra dè dặt, còn ông người Ý, những ngày sau đó, cứ luôn hỏi tôi với vẻ giễu cợt, xem tôi có tin tức gì về “cái bà Hăngriet không?”(Nguyên văn tiếng Ý: Cara sigora Henrietta) . Dù cho chúng tôi có giữ lễ độ đến chừng nào, đã có sự đổ vỡ không sao cứu vãn nổi trong quan hệ trung thực và thẳng thắn giữa chúng tôi. Vẻ lạnh lùng châm biếm của các đổi thủ cũ của tôi, lại càng nổi bật hơn sự nhã nhặn thật đặc biệt mà bà C… dành cho tôi sau cuộc tranh cãi đó. Bình thường bà ta cực kỳ dè dặt và ngoài bữa ăn, hầu như không bao giờ bà nói chuyện với những người ngồi cùng bàn, bây giờ, bà nhiều lần tìm cơ hội để trò chuyện với tôi, ở ngoài vườn; có thể nói bà đã tôn tôi lên bằng cách tách riêng tôi ra, bởi vì dáng điệu dè dặt, quí phái của bà làm cho cuộc nói chuyện riêng có tính chất như một đặc ân. Thật ra, tôi phải nói là bà đã tìm đến tôi, bà không bỏ qua cơ hội nào để bắt chuyện với tôi, điều đó rõ ràng đến nỗi, nếu đấy không phải là một bà già tóc bạc trắng, tôi có thể có những ý nghĩ kiêu căng và kỳ cục. Nhưng mỗi lần nói chuyện như vậy, câu chuyện của chúng tôi, không sao tránh khỏi là trở lại từ đầu, về bà Hăngriet. Bà C… có vẻ ngấm ngầm khoái trá buộc tội người đàn bà đã quên bổn phận của mình, là không đứng đắn, là vô luân. Nhưng đồng thời bà cũng có vẻ vui vì tôi, trước sau như một, vẫn dành cảm tình cho người đàn bà mảnh mai và dịu dàng đó, và không gì có thể làm tôi chối bỏ tình cảm ấy. Bà luôn lái câu chuyện về cái hướng đó. Cuối cùng, tôi không biết nghĩ ra sao về sự cố tình lạ lùng và hơi bệnh hoạn ấy.

Tình hình đó kéo dài độ năm hay sáu ngày, không có một lời nào của bà để lộ lý do cho thấy đề tài câu chuyện ấy quan trọng với bà đến như vậy. Nhưng rồi tôi cũng thấy rõ điều quan trọng đó, trong một cuộc đi dạo, khi tôi vô tình nói với bà rằng thời gian ở lại đây của tôi đã sắp chấm dứt và tôi dự tính sẽ rời khỏi đây vào ngày mốt. Thế là mặt bà, thường vẫn bình thản, bỗng có một vẻ căng thẳng khác lạ, như một bóng mây đi ngang qua cặp mắt nâu của bà:

- Đáng tiếc thật! Tôi còn biết bao nhiêu điều muốn bàn luận với ông, - bà nói.

Từ lúc đó, một vẻ bối rối, một vẻ xao xuyến cho thấy rằng, miệng nói, nhưng bà nghĩ tới một điều gì đã làm bà bận tâm nhiều, làm bà xao lãng trong câu chuyện với tôi. Rồi tình trạng lơ đãng cũng làm bà ngượng ngùng, vì sau một lát đột ngột lặng thinh, bà bất chợt đưa tay cho tôi và nói:

- Tôi thấy tôi không thể trình bày rõ ràng điều tôi định nói với ông. Tôi muốn viết cho ông hơn.

Rồi bà rảo bước nhanh hơn thường lệ, về phía khách sạn.

Quả nhiên, trước bữa ăn chiều một chút, tôi thấy trong phòng tôi, một lá thư viết bằng một thứ chữ rắn rỏi, và rõ ràng. Đáng buồn là tôi hay lơ là với những thư từ nhận được trong thời thanh niên, nên tôi không sao chép lại được nguyên văn lá thư đó, - tôi chỉ có thể ghi lại đại khái nội dung của nó – trong thư bà hỏi tôi xem tôi có cho phép bà kể cho tôi nghe một đoạn đời của bà.

Bà viết, sự kiện ấy lâu đến nỗi nó không còn thuộc về cuộc sống hiện tại của bà và do ngày mốt, tôi đã đi rồi, bà thấy dễ dàng nói về một việc đã hai mươi năm nay cứ luôn làm bà phải bận tâm và cắn rứt bà. Cho nên nếu một cuộc nói chuyện như vậy không làm phiền tôi, bà mong tôi đến tìm bà vào một giờ bà định.

Bức thư đó, tôi chỉ nói sơ qua nội dung, hấp dẫn lạ thường; riêng việc bà viết bằng tiếng Anh, đã cho thấy nó rất rõ ràng và đầy quả quyết. Tuy nhiên tôi trả lời cũng không dễ dàng, và tôi đã xé ba tờ nháp mới đạt tới hình thức cuối cùng.

“Tôi coi việc bà tin tôi đến như vậy là một vinh dự cho tôi và tôi xin hứa sẽ đáp lại một cách thành thật trường hợp bà yêu cầu tôi. Tất nhiên tôi xin bà hãy chỉ nói những điểm bà muốn bộc lộ với tôi, đúng với sự thật hoàn toàn. Tôi xin thưa với bà, tôi coi sự tin cậy của bà là một điều quí trọng đặc biệt”.

Ngay buổi chiều, lá thư nhỏ của tôi đã ở bên phòng bà và sáng hôm sau, tôi nhận được câu trả lời:

“Ông nói rất có lý: sự thật nửa vời không có giá trị gì bao giờ cũng là một sự thật hoàn toàn. Tôi sẽ cố nghiền ngẫm hết sức để không giấu giếm chút gì với bản thân tôi và với ông. Sau bữa ăn, ông hãy đến phòng tôi (với tuổi sáu mươi bảy, tôi không sợ bị hiểu lầm), vì ở ngoài vườn hay nơi nào có người, tôi không thể nào nói được. Ông hãy tin là tôi quyết định không phải dễ đâu”.

Chiều ngày đó, chúng tôi gặp nhau tại bàn và đã trò chuyện vui vẻ với nhau về những chuyện khác. Nhưng, ở ngoài vườn, bà đã tránh gặp tôi, với vẻ lúng túng rõ ràng; tôi vừa ái ngại vừa cảm động khi thấy bà già tóc bạc trắng này lướt vội dọc lối đi có trồng thông, e lệ như một thiếu nữ.

Buổi chiều, đúng giờ hẹn, tôi gõ cửa phòng bà, cửa mở ngay tức khắc. Gian phòng chìm trong bóng hoàng hôn, mờ mờ, chỉ có một cây đèn nhỏ đặt trên bàn, tỏa ra một chùm ánh sáng vàng. Bà C… mời tôi tới chiếc ghế phôtơi và không chút lúng túng, bà ngồi trước mặt tôi; tôi thấy mỗi cử chỉ của bà đều có tính toán; nhưng có một phút im lặng, rõ ràng là không định trước – phút im lặng trước một quyết định khó khăn, phút im lặng kéo dài rất lâu, và tôi không dám lên tiếng, sợ phá vỡ nó vì tôi cảm thấy lúc này đây, một ý chí mạnh mẽ đang đấu tranh kiên cường chống một sức đề kháng cũng mạnh mẽ. Tại phòng khách ở tầng dưới, thỉnh thoảng lại vọng lên, những âm thanh yếu ớt, rời rạc của bản luân vũ, tôi lắng nghe, tập trung đến căng thẳng để sự im lặng đó bớt nặng nề. Bà ta như cũng thấy khó chịu với sự yên tĩnh nhọc nhằn, trái với tự nhiên này, vì bỗng nhiên bà thu mình lại như để lao tới và bà bắt đầu:

- Chỉ câu đầu tiên là khó khăn. Đã hai hôm nay, tôi chuẩn bị để cho thật rõ ràng và chân thật; tôi hy vọng sẽ đạt được kết quả. Có lẽ ông chưa hiểu được vì sao tôi lại kể tất cả chuyện này cho ông là người xa lạ đối với tôi; nhưng không một ngày nào, không một giờ nào, tôi lại không nghĩ đến việc này; xin ông hãy tin ở tôi, một bà già, khi tôi nói với ông rằng việc cứ phải chăm chú suốt đời chỉ nhìn vòa một điểm, vào một ngày của đời mình, thật không sao chịu nổi. Vì tất cả những điều tôi sắp kể với ông chỉ chiếm thời gian hai mươi bốn giờ trong sáu mươi bảy năm, và tôi thường tự nhủ đến phát điên lên là: “Nếu trong khoảng thời gian dài đó, người ta có một lúc cuồng dại, chỉ một lần thôi, thì đã sao!”. Nhưng người ta không thể gạt bỏ cái mà chúng ta gọi bằng một từ ngữ rất mơ hồ là lương tâm; khi tôi nghe ông cân nhắc trường hợp Hăngriet một cách khách quan như vậy, tôi nghĩ rằng cái lối cứ luôn nhìn về dĩ vãng rồi không ngừng buộc tội mình, là vô lý, nó sẽ chấm dứt nếu tôi được nói chuyện thoải mái với một người khác về cái ngày duy nhất trong đời mình. Nếu tôi theo đạo Thiên Chúa thay vì theo đạo Anglican (Đạo Tin lành ở nước Anh), việc xưng tội đã từ lâu tạo cơ hội chuộc lại điều bí mật của tôi; nhưng điều an ủi đó tôi cũng không có được, cho nên hôm nay tôi thử làm cái việc kỳ quặc là tự giải tội cho mình bằng cách coi ông là người tâm phúc. Tôi hiểu rằng tất cả những cái đó thật lạ lùng, nhưng ông đã chấp nhận không do dự đề nghị của tôi và tôi xin cảm ơn ông.

Như tôi đã nói với ông, tôi chỉ đơn giản kể cho ông nghe một ngày trong cuộc đời tôi thôi; ngoài cái đó ra, không có gì là quan trọng mà còn nhàm chán đối với người khác, không phải là tôi. Cuộc đời tôi cho đến năm tôi bốn mươi hai tuổi hoàn toàn bình thường. Cha mẹ tôi là những nhà quí tộc giàu có, nhiều ruộng đất ở Êcốt (Ecosse: một vùng ở miền bắc nước Anh). Cha mẹ tôi có những nhà máy lớn và những trang trại lớn; chúng tôi sống lối sống của giới quí tộc địa phương - gần suốt năm, trên đất đai của mình, và ở London, trong Mùa ăn chơi (Nguyên văn tiếng Anh: Season, thường vào những ngày lễ cuối năm). Năm mười tám tuổi, tôi quen chồng tôi trong một cuộc giao tế; anh là con thứ hai của gia đình ông R… vốn có tiếng tăm và anh đã phục vụ mười năm ở Ấn Độ. Chúng tôi lấy ngay và sống cuộc đời vô tư của giai cấp chúng tôi: ba tháng ở Lơnđơn, ba tháng tại đất đai của chúng tôi; thời gian còn lại là từ khách sạn
này đến khách sạn khác ở Ý, Tây Ban Nha và Pháp. Không một gợn nhỏ nào khuấy động cuộc hôn nhân của chúng tôi; chúng tôi sinh được hai con trai, nay đã trưởng thành. Tôi được hơn bốn mươi tuổi thì chồng tôi chết hơi đột ngột. Qua những năm sống ở vùng nhiệt đới, anh ta đã mắc phải một chứng bệnh gan. Tôi đã mất anh sau hai tuần đau khổ ê chề. Con trai lớn của tôi đã đi làm, đứa nhỏ còn đi học. Thế là chỉ qua một đêm, tôi đã hoàn toàn cô đơn và cảnh cô độc ấy đối với tôi, vốn được mọi người thương mến là một nỗi đau khổ ghê gớm. Tôi tưởng không thể ở thêm một ngày trong căn nhà trống trải, mỗi đồ vật đều gợi cho tôi cái chết bi thảm của người chồng yêu dấu; cho nên tôi quyết định sẽ đi du lịch thật nhiều trong những năm tới, chừng nào các con tôi chưa cưới vợ.

Từ lúc đó, trong thâm tâm, tôi coi đời tôi không còn mục đích gì và hoàn toàn vô ích. Người đã chia sẻ từng giờ, từng ý nghĩ với tôi trong suốt hai mươi ba năm trời đã chết; các con tôi không cần đến tôi, tôi sợ làm xáo trộn tuổi trẻ của chúng do tính tình ủ rũ và nỗi buồn của tôi, bản thân tôi không ham muốn gì hết. Thoạt đầu tôi đến Pari, trong cảnh nhàn cư, đi lướt qua các cửa hàng và các nhà bảo tàng; nhưng thành phố và đồ vật đối với tôi thật là xa lạ, tôi tránh mọi người, vì bộ đồ tang của tôi chỉ đem lại cho tôi những cái nhìn thương hại, làm tôi chẳng thích thú gì. Giờ đây, tôi không thể nào kể lại được những tháng ngày lông bông buồn tẻ, u uất, đã trôi qua ra sao; tôi chỉ biết rằng ý nghĩ muốn được chết luôn ám ảnh tôi; nhưng tôi không đủ sức tự xô đẩy mình tới cái kết thúc mong mỏi đau khổ ấy.

Năm góa bụa thứ hai của tôi, nghĩa là năm tôi ở tuổi bốn mươi hai, trong cảnh lầm lũi lẩn trốn trước cuộc sống vô nghĩa đối với tôi, thời gian thì không biết làm gì cho hết, tôi đã đi Môngtơ Cáclô (Monte-Carlo: một thành phố nghỉ mát của Pháp trên bờ Địa Trung Hải, gần Nixơ, nổi tiếng vì có những sòng bạc lớn), hồi tháng ba. Thành thật mà nói, đó là do buồn chán, muốn thoát khỏi cảnh trống rỗng đang dày vò tâm hồn mình như một cơn ói mửa và muốn tìm ra ít nhất là sự khuây khỏa do những kích thích nhỏ bên ngoài đem lại. Tôi càng ít nhạy cảm bao nhiêu thì lại càng thấy cần lao vào nơi mà cuộc sống tỏ ra quay cuồng nhất; đối với người không còn quan tâm đến gì sâu sắc thì chỉ hoạt động say mê của những người khác, như sân khấu hay âm nhạc, mới tác động được tới trí não.

Do đó tôi thường đi đến Cadinô (Tên gọi sòng bạc lớn trong đó có đủ các món cờ bạc). Điều kích thích đối với tôi là được nhìn thấy hạnh phúc hay thất vọng hiện lên trên mặt người khác một cách cuồng nhiệt, còn tôi thì không một luồng sinh khí nào có thể lay động nổi. Ngoài ra, chồng tôi tuy không hời hợt nhưng cũng thích lui tới nơi đổ bác và tôi vẫn trung thành với những thói quen cũ của anh một cách kính tín vô thức. Ở đó bắt đầu cái thời gian hai mươi bốn tiếng hồi hộp hơn tất cả các trò bài bạc trên đời và làm số phận tôi bị đảo lộn tới hàng năm trời.

Buổi trưa, tôi dùng bữa với công tước M… một người bà con trong gia đình. Sau bữa chiều, tôi chưa mệt mỏi đến nổi phải đi ngủ. Thế là tôi vào sòng bạc, không đánh, mà tha thẩn từ bàn này đến bàn khác, chỉ nhìn một cách đặc biệt những con bạc tụ tập lộn xộn ở đó. Tôi nói “một cách đặc biệt” vì đó là cách mà người chồng quá cố của tôi đã bày cho tôi vào một ngày mà chán không muốn nhìn nữa, tôi phàn nàn về sự buồn nản vừa phải trông mãi, một cách ngớ ngẩn, vẫn những khuôn mặt ấy: những bà già nhăn nheo, ngồi lì hàng giờ ở đó, trước khi liều quăng ra một đồng giơ-tông, những con bạc xảo trá và những “ả điếm đàng” của trò bài lá - tất cả cái xã hội tứ chiếng từ khắp nơi kéo đến; và như ông cũng biết đấy, cái xã hội ấy không đẹp đẽ và lãng mạn như bức tranh thường mô tả họ trong các chuyện khốn khổ, trong đó họ được coi như bông hoa của sự hào hoa phong nhã, như giới quí tộc châu Âu. Và tôi nói với ông về lúc đó, là cách đây hai mươi năm, lúc mà tiền còn bằng vàng, bằng bạc, đủ trọng lượng, lăn được, lúc mà những tờ giấy bạc sột soạt, những đồng Napôlêông, những đồng năm phrăng to bự quay cuồng lộn xộn, lúc mà nhà Cadinô còn thú vị hơn bây giờ nhiều và ở cái thành trì tráng lệ của đổ bác, được xây lại theo thời trang, đám công chúng trưởng giả gồm các du khách du lịch của hãng Cúc (Một công ty du lịch nổi tiếng thời đó) đã uể oải vung phí những đồng giơtông vô tri vô giác. Nhưng trong thời kỳ ấy, tôi thấy vẻ đơn điệu của những bộ mặt dửng dưng đó không có gì hấp dẫn, cho đến một ngày, chồng tôi, vốn say mê đặc biệt việc coi tướng tay, đã chỉ cho tôi một cách nhìn mới, quả là thú vị, kích thích và cuốn hút hơn nhiều so với cách đứng uể oải tại chỗ mà xem, đó là cách không bao giờ nhìn vào mặt, mà chỉ nhìn vào cái khuôn vuông trên bàn, và ở chổ ấy, lại chỉ nhìn những bàn tay của con bạc, chỉ nhìn từng cử động của những bàn tay đó thôi.

Tôi không biết, có lúc nào ông vô tình ngắm những cái bàn màu xanh lá cây, riêng cái khoảng vuông màu xanh nhạt, trong cái khoảng đó, hòn bi tròn lảo đảo lăn từ số này sang số khác như một người say rượu và những tấm giấy xoay lộn, những đồng tiền tròn bằng vàng, bạc rơi như hạt giống xuống những ô vuông để sau đó, cái bàn cào của người hồ lỳ, y hệt một lưỡi liềm, hái tiền bằng một động tác sắc gọn, hoặc đẩy đi, như một bó lúa, về phái người được. Điều duy nhất, biến đổi trong cảnh này là những bàn tay, vô số những bàn tay, sáng sủa , sôi nổi, hoặc chờ đợi quanh chiếc bàn xanh, tất cả có vẻ đang rình rập, bên hang ổ, khác nhau ở nơi cổ tay áo, mỗi bàn tay đều giống một con thú sắp chồm lên, cái nào cũng có hình dáng, màu sắc của nó, có những cái trống trơn, có những cái đeo nhẫn và giây chuyền, kêu lanh canh, cái thì lông lá như thú dữ, cái khác mềm mại, và ẩm nhớp như con lươn, nhưng tất cả đều căng thẳng một cách thầm kín và rung lên, bồn chồn.

Mỗi lần thấy vậy, tôi tự nhiên nghĩ tới một trường đua ngựa, vào lúc bắt đầu cuộc đua, những con ngựa bị kích thích, khó khăn lắm mới kìm giữ được chúng, không cho chúng lao đi trước giờ đã định; những bàn tay của các con bạc cũng run lên, trỗi dậy và lồng lên đúng y như vậy. Qua cách chờ đợi, nắm giữ và ngưng lại, chúng bộc lộ cá tính người đánh bạc; có móng nhọn, chúng tố cáo con người gian tham; buông thả, con người hoang phí; bình thản, con người tính toán và run rẩy, con người tuyệt vọng. Hàng trăm đặc tính đã được lộ ra như vậy, trong nháy mắt, trong cử chỉ cầm tiền: có bàn tay vò tờ giấy bạc, có bàn tay vung tiền ra một cách nóng nảy, có con bạc, rã rời, mệt mỏi nắm tay lại, để tiền tự do lăn trên thảm.

Cờ bạc biểu lộ con người, đó là một từ sáo mòn, tôi biết vậy; nhưng ở đây, tôi nói: bàn tay của từng người trong canh bạc, còn biểu lộ con người đó rõ hơn nữa. Bởi vì tất cả, hoặc hầu hết tất cả những ai chơi trò đỏ đen đều sớm học được cách chế ngự nét mặt của mình: ở phía trên nơi cổ áo sơ mi, họ lạnh lùng đeo chiếc mặt nạ thản nhiên; họ buộc những nét hằn quanh miệng họ phải biến mất; họ đẩy lui cảm xúc của họ trong hàm răng nghiến chặt họ giấu nỗi lo âu đối với bản thân họ, họ làm giảm nét gân guốc của cơ bắp trên mặt họ bằng một vẻ thờ ơ giả tạo, làm như cao sang lắm. Nhưng chính vì họ tập trung chú ý che giấu những gì hiện lên rõ nhất trong con người, nghĩa là trên mặt, họ đã quên mất bàn tay, họ quên là có những người chỉ quan sát những bàn tay đó thôi và qua chúng đã đoán được những gì mà đôi môi cười tủm tỉm, cái nhìn giả bộ thờ ơ cố che giấu. Bàn tay để lộ trần trụi những điều bí ẩn nhất của con người. Bởi vì có một lúc, không sao tránh được, tất cả những ngón tay bị cầm giữ một cách khó nhọc, có vẻ như ngủ, đã không còn vẻ ung dung, thư thái nữa. Vào giây phút quyết định, khi hòn bi ở bàn ru-lét rơi vào hốc, và người ta rao số trúng lên, thì, ở giây phút đó, mỗi bàn tay trong số hàng trăm hay hàng năm trăm bàn tay này đã tự nhiên cử động một cách thật cá biệt, thật riêng tư, theo bản năng nguyên thủy của nó. Và khi người ta đã quen quan sát, như tôi, do sở thích của chồng mình truyền lại, loại đấu trường của những bàn tay, cách cử động đột ngột, luôn thay đổi, luôn bất ngờ, do những tâm tính luôn khác nhau để lọ ra thật say mê hơn cả sân khấu hay âm nhạc. Tôi không thể chỉ cho ông rõ từng chi tiết là trên bàn bạc có hàng ngàn dáng bộ của các bàn tay, cái thì như thú dữ, có những ngón tay lông lá, có móng vuốt, quắp tiền như kiểu con nhện, cái thì nóng nảy, run rẩy, móng tay nhợt nhạt, không dám sờ vào tiền; cao quý và bần tiện, tàn bạo và nhút nhát, xảo trá và gần như ngập ngừng; mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đó đều thể hiện một cuộc sống khác nhau; không kể tới năm hay sáu bàn tay của những người hồ-lỳ. Những bàn tay này thật sự là những cái máy; chúng hoạt động như những nhánh bằng thép kêu tanh tách của chiếc máy đếm có cánh quay chỉ để từng ngời một lọt qua, một cách khách quan, chuyên nghiệp, hoàn toàn vô tình, tương phản với cuộc sống cuồng nhiệt của những bàn tay trên. Nhưng chính những bàn tay lạnh lùng này, đến lượt chúng, lại tạo ra một tác động lạ thường bởi sự đối nghịch của chúng với những bàn tay chị em thèm khát và mê say kia, tôi dám nói là chúng mặc một bộ sắc phục riêng giống như các cảnh binh giữa biển người, trong không khí kích động của đám dân nổi loạn.

Thêm vào đó, còn cái thích thú riêng là chỉ qua vài buổi chiều, tôi đã thân quen được với vô số những thói lệ và nỗi say mê của vài bàn tay; chỉ cần ít ngày, là tôi đã quen những bàn tay mới và tôi xếp loại chúng, y như người, là có cảm tình hay khả ố. Nhiều bàn tay làm tôi thật khó chịu bởi sự thô tục và gian tham của chúng, mỗi khi thấy chúng là tôi nhìn ngay đi chỗ khác như đó là một vật dung tục. Mỗi khi có một bàn tay mới xuất hiện là tôi thấy đó là một sự kiện gợi trí tò mò của tôi làm tôi thường quên không nhìn đến bộ mặt tương ứng với nó, ở phía trên cổ áo, bất động, giống như chiếc mặt nạ lạnh lùng, lịch thiệp, trên chiếc sơ-mi dạ hội hay một cái cổ long lanh đồ trang sức.

Thế là chiều hôm ấy, tôi đến Cadinô; sau khi đi ngang qua han bàn quá đông, tôi sà vào bàn thứ ba, và đã chuẩn bị sẵn vài đồng lu-i vàng, tôi ngạc nhiên nghe thấy, trong giây phút tạm ngưng hoàn toàn yên ắng, đầy căng thẳng này, ngay cả sự im lặng như cũng rung lên, thường vẫn xảy ra khi hòn bi đang do dự, giữa hai con số, sắp dừng lại – tôi phải nói là nghe thấy, ngay trước mặt tôi một tiếng động khác thường, một tiếng răng rắc, một tiếng cắc như tiếng khớp xương bị gẫy phát ra. Tôi sửng sốt nhìn về phía bên kia tấm thảm. Và tôi thấy ở đó (thật là kinh hãi) hai bàn tay mà tôi chưa từng thấy bao giờ, một bàn tay phải và một bàn tay trái ngoắc vào nhau, như những con thú đang cắn nhau, siết chặt tay nhau, chống lại nhau một cách dữ tợn, phũ phàng, co quắp lại làm các đốt ngón tay kêu rắc gọn như tiếng một quả hạt dẻ bị bóp vỡ phát ra.

Đó là những bàn tay đẹp hiếm có, dài, mảnh dẻ lạ thường, nhưng lại có những cơ bắp rất rắn rỏi - những bàn tay trắng trẻo, phía đầu từ những móng tay nhàn nhạt, bóng như xà cừ, cắt tròn, - thanh nhã. Tôi ngắm chúng suốt buổi tối, đúng vậy, tôi đã ngắm chúng, những bàn tay kỳ lạ, độc nhất vô song này, mà cứ ngạc nhiên mãi; như thoạt đầu, điều làm tôi ngạc nhiên đến phát sợ là cơn sốt, là cái vẻ đam mê cuồng nhiệt, là cái cách chúng quắp lấy nhau, vật lộn với nhau. Lập tức tôi hiểu ngay đây là một con người tràn trề sức mạnh, đã tập trung tất cả sự đam mê của mình vào đầu các ngón tay, cho cơ thể không bùng nổ được. Và bây giờ đây… đúng cái giây phút đó, hai bàn tay bỗng rời nhau như hai con thú bị tử thương, bởi cùng một viên đạn.

Cả hai, chúng ngã xuống, chết thật sự chứ không phải chỉ là kiệt sức; chúng ngã xuống với một vẻ rỏ ràng là chán nản và vỡ mông, như bị sét đánh, cùng cực, và tôi cũng bất lực không sao tả lại được cảnh ấy. Vì trước đó cũng như sau này, không bao giờ còn được trông thấy những bàn tay có tinh thần đến như vậy, ở chúng, mổi cơ bắp là một cái miệng và sự đam mê toát ra rõ rệt từ các lỗ chân lông.

Cả hai, chúng năm sóng sượt một lát, trên tấm thảm xanh, như những con sứa bị dạt vào bờ, èo uột chết hẳn. Rồi một trong hai bàn tay, bàn tay phải, nhọc nhằn nhấc những đầu ngón lên, nó run rẩy, gập lại, xoay một vòng quanh mình nó, ngập ngừng và sau cùng nó nóng nảy nhặt một đòng giơ-tông lên, lưỡng lự lăn trên đầu ngón cái và ngón trỏ như lăn một bánh xe nhỏ. Đột nhiên bàn tay uốn mình lại như một con báo mềm mại cong lưng và nó ném, đúng hơn là nó khạc mạnh đồng giơ-tông một trăm phrăng đang ở trong tay nó vào giữa ô vuông đen. Ngay tức khắc, như theo tín hiệu, bàn tay trái vẫn nằm lỳ cũng dao động trỗi dậy, lướt đi, nói cho đúng là lết tới bàn tay anh em kia đang run lên mệt mỏi vì vừa làm cái việc tung tiền ra, bây giờ thì cả hai đang ở bên nhau, run rẩy; giống những hàm răng va nhẹ lập cập vào nhau trong cơn sốt rùng mình, cả hai bàn tay gõ nhẹ xuống bàn, không gây ra tiếng động. Chưa bao giờ, chưa bao giờ tôi lại thấy những bàn tay có tinh thần kỳ lạ đến như vậy, có cái cách chuyển động và chăm chú vất vả đến như vậy. Tất cả những gì khác đang diễn ra dưới cái vòm lớn này: tiếng rì rào ở các phòng khách, tiếng rao ầm ĩ của những người hồ-lỳ, tiếng người đi lại và tiếng của chính những hòn bi bây giờ được tung từ trên cao, nhảy nhót như điên trong cái lồng tròn, sàn bóng loáng -, vô vàn những cảm xúc đó xáo trộn lẫn lộn, nối tiếp nhau đập vào trí não, tất cả những cái đó đối với tôi bỗng như đã chết và bất động bên cạnh hai bàn tay run rẩy, hổn hển như hết hơi, khắc khoải đợi chờ, đang lập cập, rung lên, hai bàn tay quái lạ đã mê hoặc, chiếm đoạt tâm hồn tôi.

Sau cùng, tôi không cưỡng lại được, tôi thấy cần phải trông thấy người, trông thấy bộ mặt, chủ của những bàn tay huyền ảo này; và với nỗi lo âu (phải, với nỗi lo âu thật sự vì những bàn tay ấy làm tôi phát sợ) mắt tôi lướt chầm chậm dọc cánh tay áo lên tận đôi vai nhỏ hẹp. Một lần nữa tôi giật mình, kinh hãi vì bộ mặt cũng như những bàn tay ấy, nói cùng một thứ ngôn ngữ, phóng khoáng, cùng bị kích thích quá độ một cách quái dị như nhau, bộ mặt ấy có cái vẻ hăm hở ghê ghớm bên vẻ đẹp thanh nhã, mềm yếu gần như của phụ nữ. Chưa bao giờ tôi thấy bộ mặt như vậy, có thể nói, xứng với con người ấy, lại tách biệt với nó, để sống một cuộc sống riêng, để tự buông thả hoàn toàn vô hạn độ. Tôi đã có cơ hội thật tốt để quan sát bộ mặt này, như xem một chiếc mặt nạ, một thứ tác phẩm tạo hình không thần sắc; con mắt đó, cái con mắt điên loạn không liếc sang phải hay sang trái lấy một giây: con người cứng đơ và đen giống như một hòn bi bằng thủy tinh, không hồn, dưới đôi mắt mở to - như phản ánh long lanh cái hòn bi bằng gỗ đào hoa tâm đang lăn, nhảy điên cuồng, ngạo nghễ, trong cái vòng tròn nhỏ của bàn ru-let.

Tôi cứ phải nhắc lại là tôi chưa hề thấy một bộ mặt cuồng nhiệt và hấp dẫn
đến thế.

Đó là bộ mặt của một thanh niên chừng hai mươi bốn tuổi, mặt anh ta gầy, thanh mảnh, hơi dài trông thật ý nhị. Cũng như những bàn tay, mặt anh không cường tráng, mà giống như mặt một đứa trẻ mãi chơi thì đúng hơn; nhưng mãi sau này tôi mới nhận ra tất cả những cái ấy, bởi vì lúc đó, bộ mặt ấy, đã biến hẳn dưới cái vẻ thèm khát, sôi sục, rõ rệt. Cặp môi mỏng hé to, nóng nảy, để lộ gần nửa hàm răng va lập cập vào nhau, cuồng nhiệt còn miệng thì đơ ra, mở rộng. Một mớ tóc, sáng màu bạch kim, dính chặt vào trán ướt đẫm mồ hôi, nó rũ về trước như người bị ngã và hai cánh mũi cứ rung lên liên tục, như có một lớp sóng nhỏ vô hình dưới lớp da. Và cái đầu vô tình cứ mỗi lúc ngã về trước một nhiều, gợi lên cái cảm giác là nó bị cơn xoáy của hòn bi nhỏ hút theo; lúc đó tôi nới hiểu vì sao hai bàn tay lại nắm chặt lấy nhau co quắp như vậy; chính là do cái lực - chống phản ứng, do sự co thắt đó mà thân người đã rời khỏi trung tâm điểm của nó mà vẫn giữ được thăng bằng.

Chưa bao giờ (tôi cứ phải nhắc đi nhắc lại mãi điều này) tôi lại thấy một bộ mặt mà sự đam mê vọt tung ra trần trụi, trơ trẽn, thô tục và tôi ở đó mê mẩn, nhìn chòng chọc vào nó, vào bộ mặt ấy… tôi cũng bị mê hoặc, cũng bị thôi miên bởi bộ mặt điên dại ấy, như cặp mắt của nó bị viên bi đang quay lộn, nhảy nhót làm hồi hộp, mê hoặc và thôi miên. Từ giây phút ấy, tôi không để ý gì đến trong gian phòng; tất cả đối với tôi như có vẻ mờ nhạt, ảm đạm và bị xóa nhòa, tất cả như tối lại so với ánh lửa phát ra từ bộ mặt đó, và tôi không để ý tới ai, tôi quan sát có lẽ đến một giờ chỉ con người này và từng cử chỉ của anh ta… Một tia sáng lóe trong mắt anh, hai bàn tay anh run rẩy, nắm chặt lấy nhau giống như một cuộn len, bỗng nhiên bung ra do một tiếng nổ lớn và những ngón tay xòe mạnh, run rẩy thèm khát nắm lấy hai mươi đồng tiền vàng khi người hồ-lỳ đẩy tiền tới. Trong giây lát ấy,bộ mặt bỗng rạng rỡ lên, trẻ hẳn ra, những nét nhăn giãn dần, mềm mại, thân người anh đang cúi về trước, ưỡn thẳng lên, vẻ minh mẫn, nhẹ nhõm, anh ta lại mềm dẻo như người kỵ sĩ được tinh thần chiến thắng nâng lên; những ngón tay cọ các đồng tiền vào nhau một cách hãnh diện và trìu mến, tung chúng lên cho chúng va vào nhau như một trò chơi.

Rồi anh ta lại lo sợ quay đầu, nhìn lướt trên tấm thảm xanh, như một con chó săn còn non đánh hơi tìm dấu vết và bất thần, bằng một cử chỉ nhanh, gọn, vội vã, anh ta đổ cả đống tiền vàng xuống một ô vuông.

Ngay lập tức, vẻ rình mò, sự căng thẳng cao độ lại xuất hiện. Cặp môi anh lại toát ra những hơi thở hổn hển như những lớp sóng điện, nhưng bàn tay anh lại co quắp lại, bộ mặt trẻ thơ lại biến đi để lộ ra vẻ lo âu của sự mê say, cho đến khi, như một phát mìn nổ, nỗi tuyệt vọng làm tan biến vẻ cứng đờ căng thẳng, bộ mặt vừa một lát trước đây, còn ra vẻ một đứa trẻ nhỏ, đã héo hắt lại, xỉn đi và già cằn, đôi mắt trở nên lờ đờ, không thần sắc, tất cả chỉ trong một giây, khi hòn bi nằm lại ở một số không phải do anh ta chọn. Anh ta đã thua: trong giây lát, anh nhìn chừng chừng, ngây dại, như không hiểu gì, nhưng khi người hồ-lỳ vừa hối, ngay lập tức như có đòn roi kích thích, tay anh ta lại chộp lấy vài đồng tiền vàng. Nhưng anh ta không còn tự tin nữa, thoạt tiên anh đặt tiền vào một ô, sau anh thay đổi ý định, lại đặt vào một ô khác và khi hòn bi đã lăn theo vòng tròn, đột nhiên trong một cơn ngẫu hứng, anh ta lại run rẩy ném thêm hai tờ giấy bạc nhầu nát vào ô vuông đó.

Sự luân phiên thua được hồi hộp đó, kéo dài liên tục chừng một giờ, và trong hai giờ đồng hồ ấy, mắt tôi bị thu hút, không rời khỏi bộ mặt biến đổi này, nơi nỗi đam mê hiện lên rồi lại rút đi như sóng. Mắt tôi không rời khỏi đôi tay huyền ảo này, mỗi cơ bắp đều thể hiện như trên tranh vẽ, cả một lớp biểu đồ tình cảm, vụt phóng lên cao rồi rớt xuống như một tia nước.

Chưa bao giờ, tại rạp hát, tôi lại chú ý nhiều, đến bộ mặt một diễn viên, như tôi ngắm bộ mặt này; trên bộ mặt đó, các giai điệu biến đổi của màu sắc và cảm giác, không ngừng hiện lên, từng đợt một, như ánh sáng và bóng tối chiếu trên phông cảnh.

Chưa bao giờ tôi tập trung toàn bộ sự chú ý vào việc quan sát các biểu hiện của nỗi đam mê lạ lùng này như bây giờ. Nếu có ai quan sát tôi, chắc chắn là trông cặp mắt lạnh lùng, cứng đờ và mê mẩn của tôi, họ sẽ cho là tôi đang bị thôi miên, và tình trạng tê cứng hoàn toàn của tôi thật ra cũng giống một sự thôi miên, tôi không thể cưỡng lại, không nhìn cái dáng vẻ đó; và tất cả cái mớ lộn xộn ánh sáng, tiếng cười, con người và những cặp mắt, bập bềnh quanh tôi như một vật vô hình, như một màu khói vàng, ở giữa là bộ mặt đó - một ngọn lửa giữa các ngọn lửa. Tôi không nghe thấy gì, không cảm thấy gì, không nhìn thấy những người đang chen quanh tôi, tôi không trông thấy những bàn tay khác bỗng chìa ra, như những giây ăng-ten, để ném tiền vào bàn bạc hay để vơ lấy từng ôm bạc, tôi không nhìn thấy những hòn bi, cũng không nghe thấy tiếng nói của người hồ-lỳ, thế mà tôi vẫn trông thấy, như trong giấc mơ, những gì đang diễn ra, trong đôi bàn tay này, mà hồi hộp, phấn hứng làm to hơn, phóng đại lên như trong tấm gương lõm. Bởi vì muốn biết hòn bi rơi vào ô đỏ hay đen, nó đang lăn hay đã dừng, tôi không cần phải nhìn bàn ru-let: mỗi giai đoạn, thua hay được, chờ đợi hay thất vọng, đều đọc được như bằng những nét lửa trên những đường gân và những cử chỉ của bộ mặt mê mải say đắm này.
Last edited by Mười Đậu on 12 Aug 2006, edited 4 times in total.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Nhưng rồi đến một lúc khủng khiếp, cái lúc mà tôi nơm nớp lo sợ suốt thời gian này, cái khoảnh khắc treo lơ lửng như một cơn giông tố trên các giây thần kinh bị kích thích, quá độ của tôi, bỗng bùng nổ và cuốn bốc tất cả theo nó. Hòn bi trong vòng quay đã chạy châm lại với những tiếng lạch cạch nhỏ lại tới giây phút hồi hộp làm hai trăm đôi môi mím chặt, cho tới lúc người hồ-lỳ lần này xướng số “không” và cái bàn cào lanh lẹn của y vét từ mọi phía những đồng tiên kêu lanh canh và những tờ giấy bạc sột soạt.

Lúc đó, hai bàn tay vẫn quắp chặt lại, có một cử chỉ đặc biệt hãi hùng, chúng như chồm lên để vồ lấy một cái gì không còn, sau đó, chúng rớt xuống bàn, như sắp chết, hoàn toàn bị chi phối theo quán tính của qui luật trọng lực. Nhưng sau đó, chúng bỗng hồi tỉnh lại một lần nữa; chúng cuống cuồng chạy từ bàn tới thân người chủ chúng, leo như những con mèo hoang dọc thân thể, vội vã moi tất cả các túi, trên dưới phải trái để xem ở nơi nào đó, có còn sót một đồng tiền như một mẩu bánh vụn bị bỏ quên chăng. Nhưng lần nào chúng cũng trở ra không; chúng cứ sôi nổi tìm kiếm một cách vô ích hão huyền như vậy, trong khi bàn ru-lét lại bắt đầu quay, những người khác lại tiếp tục chơi, những đồng tiên lại va cham, lanh canh vào nhau, những chiếc ghế bị xô đẩy và hàng ngàn tiếng động lại làm xáo động gian phòng. Tôi run lên, rùng mình kinh hãi: tôi thấy như
bị miễn cưỡng phải xúc động theo những tình cảm đó, như chính những ngón tay của tôi đang tuyệt vọng lục lọi tìm một đồng bạc cắc nào đó trong túi, trong các nếp của bộ quần áo đã nhàu nát! Đột nhiên anh ta đứng phắt dậy trước mắt tôi, như một người bỗng thấy khó chịu, phải đứng lên cho khỏi bị ngợp thở; sau lưng anh, chiếc ghế đổ lăn ra đất, gây một tiếng động gọn. Nhưng anh ta đã nặng nề rời khỏi bàn không chú ý tới chiếc ghế, không để tâm tới những người ngồi kế bên đang ngạc nhiên và e ngại nhìn con người khật khưỡng này.

Trước cảnh ấy, tôi sững người lại. Vì tôi hiểu ngay là người đó sẽ đi đâu: tới cái chết. Ở bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, một con người đứng lên như vậy, chắc chắn là không phải để tới một khách sạn, một quán rượu, để tìm một người đàn bà, đến một toa tàu, mà người đó sẽ lao thẳng vào khoảng không. Người vô tình nhất trong gian phòng địa ngục này cũng phải nhận thấy là, chắc chắn con người này không còn một chổ tựa nào ở ngay tại nhà mình, một ở ngân hàng nào hay ở nhà cha mẹ mình; rằng anh ta đã chơi ở đây đến đồng bạc cuối cùng, tới cả cuộc đời mình và bây giờ, anh sẽ bước chệnh choạng ra ngoài, đi bất cứ đâu, nhưng nhất định là sẽ ra khỏi cuộc sống.

Tôi vẫn lo (ngay từ đầu, tôi đã tiên đoán điều này) là ở đây, có một cái gì lớn hơn chuyện được – thua, vậy mà tôi vẫn thấy như có một tiếng sét thê thảm nổ ra ở trong tôi khi tôi nhận được là cuộc sống bỗng rời khỏi đôi mắt người này và cái chết đã nhuộm màu xanh ngắt lên bộ mặt đầy sinh khí này.

Vô tình (vì những cử chỉ mềm mại của anh đã thấm quá chừng vào tôi) tôi phải nắm chặt tay bám cho vững trong lúc anh ta lảo đảo đứng lên khỏi chỗ ngồi một cách khó nhọc, bởi vì dáng đi thất thểu của anh ta bây giờ đã chuyền sang tôi như trước đó nỗi kích thích của anh đã thấm vào mạch máu, vào gân não của tôi.Tiếp theo đấy, điều này mạnh hơn cả tôi, tôi buộc phải đi theo anh ta, dù tôi không muốn, chân tôi cũng tự cử động. Điều nay xảy ra hoàn toàn vô ý thức, không phải tôi hành động mà sự thật là, không chú ý tới ai, không ý thức về những cử động của mình, tôi chạy về phía hành lang để đi ra ngoài.

Người đó đã ở chỗ gửi quần áo, người hầu đã mang áo khoác cho anh ta. Nhưng anh ta đã không điều khiển được cánh tay mình nữa, người hầu vội giúp anh xỏ tay áo một cách khó khăn như giúp người tàn tật. Tôi thấy anh ta máy móc cho tay vào túi áo gilê để lấy tiền puôc-boa ra cho, nhưng sau khi dò dẫm tận đáy túi, chúng lại trở ra không. Lúc ấy, anh ta như sực nhớ tất cả những gì vừa xảy ra, anh ta lúng túng lẩm bẩm nói gì với người hầu và như vừa qua, anh ngã mạnh người về phía trước, lảo đảo bước xuống bậc thang nhà Cadinô giống một kẻ say rượu, người hầu còn nhìn theo anh một lát với nụ cười thoạt đầu khinh bỉ sau cùng thông cảm.

Cảnh đó làm xúc động đến nỗi tôi cảm thấy xấu hổ về mình đã có mặt tại đấy. Vô tình, tôi quay đi, ngượng ngùng vì được chứng kiến như từ lan can rạp hát, tấn thảm kịch của sự tuyệt vọng này ở một người tôi không quen biết, nhưng nỗi lo âu không sao hiểu nổi đó, đang ở trong tôi, đã đẩy tôi đi theo anh ta. Tôi mau mau lấy đồ đạc của mình và không suy nghĩ rõ rệt về điều gì, hoàn toàn như máy, hoàn toàn theo bản năng,tôi lao vào bóng tối, theo gót người đàn ông đó.

Bà C. ngừng kể một lát. Suốt thời gian ấy, bà ngồi yên trên ghế, trước mặt tôi, không nhúc nhích, bà nói một hơi với vẻ điềm tĩnh, mạch lạc, đặc biệt của bà, mà chỉ người nào đã chuẩn bị, đã sắp xếp kỹ thứ tự các sự kiện mới làm nổi. Đây là lần đầu tiên bà dừng lại, bà ngập ngừng rồi đột nhiên bỏ ngang câu chuyện, bà nói thẳng với tôi:

- Tôi đã hứa với ông và với chính tôi - bắt đầu, vẻ hơi e ngại, - là sẽ kể cho ông nghe một cách hoàn toàn thành thật, tất cả những gì đã xảy ra. Nhưng đến lượt tôi, tôi cũng đòi hỏi ông phải hoàn toàn tin vào sự thành thật của tôi; ông đừng gán cho cách xử thế của tôi những động cơ thầm kín, giờ đây có thể làm tôi phải xấu hổ, đỏ mặt; trường hợp đó, là một giả thiết hoàn toàn sai cho nên tôi phải nhấn mạnh rằng khi tôi vội vã chạy theo ra đường, kẻ đánh bạc đã gục xuống, tôi không hề mê chàng trai đó; tôi không nghĩ tới anh ta như một người đàn bà thường nghĩ về một người đàn ông, và sự thật lúc đó, tôi đã trên bốn mươi tuổi; sau khi chồng chết, tôi không để ý tới người đàn ông nào, đối với tôi đây là một việc dứt khoát đã được xếp vào dĩ vãng; tôi nhấn mạnh rõ ràng với ông điều này và phải nói như vậy nếu không, ông sẽ không hiểu rành mạch tất cả những gì đã xảy ra sau này với nỗi kinh hoàng của nó.

Sự thật, về một mặt khác, rất khó gọi cho chính xác, tình cảm lúc đó đã lôi cuốn tôi đi theo con người khốn khổ này mà không cưỡng lại được: có sự tò mò, nhưng cái chính là nỗi sợ khủng khiếp, hay nói cho đúng hơn, là sự sợ hãi một cái gì khủng khiếp mà ngay từ phút đầu, tôi cảm thấy, lơ lửng quanh người trai này như một đám mây. Nhưng không thể phân tích hay mổ xẻ những cảm giác như thế được, trước hết vì chúng diễn ra, xoắn xuýt lấy nhau, quá mạnh, quá nhanh và quá ngẫu nhiên; chắc chắn là ở đây, tôi chỉ làm cái việc đơn thuần thuộc về bản năng như người ta làm để cứu giữ để ngăn chặn một đứa trẻ, ở ngoài phố, đang sắp lao vào bánh xe hơi. Nếu không, làm sao có thể giải thích được việc những người không biết bơi lại lao từ trên cầu xuống cứu một người đang chết đuối? Đó chỉ là cái sức mạnh huyền diệu đã lôi cuốn họ, cái ý chí đã thúc đẩy họ lao xuống nước trước khi họ có thì giờ để nghĩ đến sự táo bạo điên rồ của việc làm ấy; Đúng như vậy, không nghĩ ngợi, không suy tưởng, hoàn toàn không có chút ý thức nào, lúc đó, tôi đã đi theo con người khốn khổ ấy từ phòng đánh bạc ra cửa và từ cửa tới thềm trước nhà Cadinô. Và tôi đoán chắc là ông, hay bất cứ ai có mắt để nhìn đều không thể nào dứt khỏi cái kỳ vật biết lo âu này, vì không gì thê thảm bằng tưởng tượng thấy chàng trai nhiều nhất là hai mươi bốn tuổi này, lê lết một cách khó nhọc, như một ông lão, từ cầu thang ra ngoài sân, loạng choạng như người say rượu, các khớp xương mềm nhũn và gẫy gập. Anh ta nặng nề gieo mình xuống một chiếc ghế dài, như một cái bị. Cử chỉ đó làm tôi rùng mình và cảm thấy là người ấy đã đi đến chỗ tận cùng của sự vật. Chỉ người đã chết hay người không một cơ bắp còn sống trong cơ thể mới ngã
xuống như vậy. Cái đầu gục ngoẹo sang bên, thả xuống lưng ghế, hai cánh tay thõng xuống đất, mềm oặt, không ra hình dáng gì, trong bóng tối lờ mờ, dưới ngọn lửa chập chờn của các cây đèn đường, ai đi qua chắc cũng phải cho đó là một xác chết. Vậy là (tôi không thể nào cắt nghĩa nổi, vì sao ảo tưởng đó bỗng hình thành trong tôi, nhưng đột nhiên nó ở đó, rành rành như vẽ, một hiện thực ghê gớm và khủng khiếp), dưới hình thức một xác chết mà anh ta hiện lên với tôi, trong giây phút đó, tôi tin chắc một cách mù quáng rằng anh ta có một khẩu súng ngắn trong túi, ngày mai, người ta sẽ thấy cái thân thể không hồn, đẫm máu này nằm sóng sượt trên cái ghế này hay một cái khác. Vì cái cách buông thả của anh là một hòn đá rơi xuống vực thẳm, nó không dừng lại chừng nào chưa chạm tới đáy: chưa bao giờ tôi thấy một cử chỉ về hình thể biểu lộ sự mệt mỏi và tuyệt vọng nhiều đến như vậy.

Còn bây giờ, ông hãy tưởng tượng địa vị của tôi: tôi đứng cách chừng hai ba chục bước sau chiếc ghế dài người đàn ông đó đang ngồi im lặng, tàn tạ. Tôi không biết mình phải làm gì, phần thì bị thôi thúc bởi ý muốn cứu giúp anh ta, phần thì sợ, không dám ngỏ lời, với một người lạ ở ngoài đường, nỗi sợ do sự giáo dục và tính di truyền mà có. Những ngọn lửa mờ đục của những ngọn đèn ga chập chờn trên nền trời đầy mây, người đi đường rất thưa thớt, đều vội vã; vì sắp tới nửa đêm mà chỉ còn một mình tôi ở ngoài vườn với con người giống một kẻ tự vẫn.

Năm lần, mười lần, tôi đã tập trung tất cả nghị lực của tôi và tôi tiến tới phía anh ta, nhưng luôn luôn, sự ngượng ngùng nếu tôi lại, hay có lẽ đó là cái bản năng, cái linh cảm sâu sắc chỉ cho ta thấy rằng những người bị ngã thường kéo những người đến cứu họ ngã theo; giữa cảnh ngập ngừng ấy, bản thân tôi thấy rõ ràng sự điên rồ, sự lố lăng của tình hình. Nhưng tôi cũng không thể nói, không thể bỏ đi - không thể làm bất cứ điều gì, cũng không thể rời anh ta được. Tôi hy vọng là ông tin tôi khi tôi nói với ông rằng tôi ở lại trên sân, đi đi lại lại không biết nên quyết định ra sao, có lẽ đến một giờ, một giờ dài vô tận, trong khi những làn sóng của biển cả, không nhìn thấy được, cứ gậm nhấm thời gian bằng hàng ngàn hàng ngàn tiếng đập nhỏ, hình ảnh của sự hủy diệt hoàn toàn một con người làm tôi bị xáo trộn và thấm sâu vào trong tôi đến thế.

Mặc dù vậy, tôi vẫn không đủ can đảm để nói và làm gì; có thể tôi còn ở đó suốt nửa đêm để chờ đợi hay có lẽ tính ích kỷ khôn ngoan hơn, cuối cùng sẽ dẫn tôi trở về nhà, phải, tôi như sắp quyết định bỏ mặc cái đụn đau khổ này với số phận của nó thì một sức mạnh cao siêu đã thắng sự do dự của tôi. Phải, trời bắt đầu đổ mưa, suốt buổi chiều, giờ đã quần tụ lại trên biển những đám mây lớn của mùa xuân, nặng trĩu hơi nước; với lồng ngực và với trái tim, người ta cảm thấy bầu trời đè nặng xuống trái đất. Đột nhiên, một giọt nước mưa rơi độp xuống đất và ngay lập tức một trận hồng thủy đổ ập xuống với những cuốn nước nặng nề bị gió đuổi đi. Tôi buộc phải ép mình dưới mái một quán hàng và tuy tôi đã mở dù, những đợt nước mưa vẫn bắn tung lên hắt những bó nước xuống
áo tôi. Tôi cảm thấy những hạt bụi lành mạnh của nước rơi xuống đất tanh tách, bắn lên tận mặt và tay tôi.

Nhưng (thật ghê sợ khi thấy rằng đến bây giờ, đã hai mươi năm sau, chỉ nghĩ đến việc này cổ họng tôi vẫn như thắt lại) mặc cho mưa như thác đổ, con người khốn khổ ấy vẫn ngồi lỳ trên ghế bất động, không nhúc nhích. Nước chảy ào ào, xối xả từ tất cả các ống máng; từ phía thành phố, tiếng xe hơi nổ ầm ầm; bên phải, bên trái, người ta chạy vội vàng, cởi áo măng-tô kéo cao, tất cả những gì sống động đều thu mình lại, sợ hãi trốn chạy, tìm nơi trú ẩn; ở khắp mọi nơi, người và vật đều cảm thấy nỗi khiếp sợ trời đất nổi cơn thịnh nộ - chỉ riêng cái đống thân thể đen đúa co tròn này vẫn ở đó, trên ghế, không động đậy.

Tôi vẫn nói với ông là con người này co phép màu diễn tả tình cảm cả mình một cách uyển chuyển bằng cử động và dáng điệu; nhưng không có gì, không một thứ gì trên trái đất này có thể diễn tả sự tuyệt vọng, sự buông thả hoàn toàn bản thân mình, cái chết còn sống động một cách thấm thía, bằng sự bất động, bằng cái cách ngồi lì, trơ trơ dưới trời mưa tầm tã, bằng vẻ mệt mỏi quá mức đến nỗi không thể đứng dậy đi vài bước cần thiết đến một nơi trú mưa nào đó, bằng sự lạnh lùng cao nhất đối với chính mình. Không nhà điêu khắc, không nhà thơ nào, kể cả Miken Angiơ, lẫn Đăngtê (Michel-Ange nhà điêu khắc, Đante, nhà thơ lớn đều là người Ý, nổi tiếng thế giới từ thời kỳ phục hưng) làm cho tôi hiểu được cái động tác của sự tuyệt vòng cùng cực, sự khốn khổ cùng cực trên trái đất một cách xúc động và mạnh mẽ bằng con người sống nhưng lại quá nhu nhược, quá mệt mỏi đến nỗi không tự che chở lấy mình bằng một cử động thôi - và cứ để cơn giông bão xối nước lên người.

Thật là mạnh hơn mình, tôi không thể làm khác được. Tôi nhảy một bước dưới hàng nước mưa xối xả quất mạnh và lay cái khối thịt ướt lướt thướt ngồi trên ghế này.

- Lại đây nào! – Tôi nắm cánh tay anh ta và nói.

Một vật không biết định nghĩa là gì nhìn tôi chòng chọc, vẻ khổ sở. Anh ta hơi nhúc nhích như có vẻ cử động nhưng anh vẫn không biết gì.

- Lại đây nào! – Tôi nói và lại kéo cánh tay áo đẫm nước, lần này tôi đã hơi bực rồi.

Thế là anh ta từ từ đứng dây, lảo đảo, không có ý chí.

- Bà muốn gì? – Anh ta hỏi.

Tôi không thể trả lời được vì chính tôi cũng không biết đi đâu với anh ta; điều tôi muốn, chỉ là kéo anh ta ra khỏi trận mưa lạnh giá này, khỏi sự dửng dưng điên dại giống như tự vẫn này làm ta cứ ngồi như vậy trong cảnh tuyệt vọng cùng cực. Tôi không buông cánh tay anh ra, tôi tiếp tục kéo anh, cái thân tàn ma dại này, tới tận quầy bán hoa, có mái nhô ra một chút, ít ra cũng che chở anh ta được phần nào chống những đợt mưa dữ dội bị gió quất phũ phàng.

Ngoài điều đó ra, tôi không biết gì, tôi không muốn gì hết. Thoạt tiên, tôi chỉ nghĩ tới một việc: đưa người này đến một chỗ trú, một nơi khô ráo.

Thế là cả hai chúng tôi, đứng bên nhau, núp trong một khoảng nhỏ, phía sau chúng tôi là cái quầy, vách đóng kín, trên đầu chúng tôi chỉ có cái mái che, quá nhỏ; dưới mai, nước mứa không ngừng lọt ngấm ngầm qua, quất từng đợt những mảng nước lạnh vào quần áo, vào mặt chúng tôi, tình hình trở nên không sao chịu đựng nổi. Dù sao tôi cũng không thể ở lại lâu hơn nữa, bên cạnh người lạ lướt thướt này. Mặt khác, sau khi kéo anh ta đi theo tôi, cũng không thể bỏ mặc anh ta ngay mà không có một lời nào. Nhất thiết phải làm gì; dần dần, một ý nghĩ rỏ ràng, sáng sủa, hình thành trong đầu tôi. Tốt nhất là đưa anh ta về nhà anh bằng xe rồi trở về lại nhà mình ngày mai, anh ta sẽ biết tự lo liệu. Và thế là tôi hỏi con người đứng lặng bên tôi, mắt nhìn đăm đăm vào đêm tối giận dữ:

- Anh ở đâu?

- Tôi không có chỗ ở… Tôi vừa từ Nixơ đến chiều nay… Không thể về nhà tôi được.

Tôi không hiểu ngay câu sau cùng. Mãi sau này, tôi mới hiểu là người tưởng tôi là…là… là một trong số đông những người đàn bà đêm đêm lẩn quất quanh Cadinô, với hy vọng kiếm được một món tiền nào đó của những con bạc gặp vận may hay của những kẻ say rượu. Thật ra anh ta có thể nào nghĩ khác được vì giờ đây, kể cho ông nghe việc này, tôi cũng cảm thấy tình hình của tôi lúc đó thật là vô lý và kỳ quặc. Anh ta có thể có ý nghĩ gì về tôi khi cách tôi kéo anh ta ra khỏi ghế và lôi anh ta đi rõ ràng không phải là phong cách của một bà mệnh phụ? Nhưng ý nghĩa đó không đến với tôi ngay lúc bấy giờ. Mãi sau này, khi đã quá muộn, tôi dần dà mới thấy được sự hiểu lầm ghê gớm của anh ta về tôi. Bởi vì nếu không, tôi đã không bao giờ nói những lời sau đây chỉ làm anh ta hiểu lầm thêm nữa. Quả vậy, tôi đã nói:

- Vậy thì ta kiếm một phòng ở khách sạn. Anh không thể ở đây, anh phải tìm ngay một chỗ nghỉ ở đâu chứ.

Nhưng lập tức, tôi lại nhận thấy sự hiểu lầm đau đớn của anh ta vì không buồn quay lại với tôi, anh ta chỉ nói, vẻ hơi mỉa mai:

- Không, tôi không cần phòng. Tôi không cần gì hết. Cô đừng bận tâm, tôi không có gì để cô moi được đâu. Cô kiếm không đúng chỗ rồi, tôi không có tiền.

Điều đó còn được nói ra với một giọng nghe ghê sợ, với một vẻ lạnh lùng gây nhiều ấn tượng và điệu bộ của anh – Cái kiểu ẻo lả tựa vào vách quầy hàng, của con người ướt sũng, nước thấu tận xương, tâm hồn mệt lả - đã tác động đến tôi đến mức tôi không kịp nhận ra là mình đã bị xúc phạm một cách ti tiện và ngớ ngẩn. Khi anh ta vừa lảo đảo ra khỏi phòng đánh bạc, và suốt tiếng đồng hồ vừa qua, không sao tưởng tượng nổi đó, điều duy nhất tôi luôn luôn thấy là: ở đây, một con người còn trẻ, đầy sức sống, đầy sinh khí, sắp đến lúc chết và bổn phận của tôi là cứu anh ta. Tôi tới gần anh và nói:

- Đừng lo chuyện tiền bạc, cứ đi với tôi! Anh không thể ở lại đây được, tôi sẽ kiếm ra chỗ nghỉ cho anh. Đừng lo nghĩ gì, cứ đi đi.

Anh ta hất đầu và trong khi mưa vẫn rơi lộp bộp quanh chúng tôi, cơn giông vẫn xối nước rào rào dưới chân chúng tôi, tôi cảm thấy là lần đầu tiên, anh cố nhìn vào mặt tôi trong bóng tối. Thân thể anh cũng dần dần thoát khỏi cơn mê.

- Thôi được, tùy cô, - anh ta nhận lời và nói – tôi cũng chẳng thiết… Sao không thế được nhỉ? Chúng ta đi thôi.

Tôi mở dù, anh ta đến bên tôi và khoác tay tôi. Cái cách đột nhiên tỏ ra thân mật như vậy làm tôi rất khó chịu. Phải, nó làm tôi khiếp sợ, tôi thấy hoảng hốt đến tận đáy lòng. Nhưng tôi không có can đảm cấm anh ta làm như vậy, vì nếu giờ đây, tôi gạt tay anh ta ra, anh lại rơi xuống vực thẳm và những gì tôi đã làm cho đến lúc này sẽ trở nên vô ích. Chúng tôi đi vài bước về phía nhà Cadinô.

Đến lúc đó, tôi mới thấy là không biết nên làm gì với anh ta. Sau khi suy nghĩ thật mau, tôi nghĩ đến điều tốt nhất dẫn anh ta đến một khách sạn, dúi vào tay anh ta một số tiền để anh ta có thể trả tiền phòng và ngày mai, trở về Nixơ được; tôi không nghĩ đến việc gì khác. Lúc này các xe cộ đi nhanh ngang qua nhà Cadinô, tôi gọi một chiếc và chúng tôi lên xe đó. Khi người đánh xe hỏi chúng tôi muốn đi đâu, thoạt tiên tôi không biết trả lời ra sao. Chợt nghĩ rằng, con người sũng nước từ đầu đến chân này đang ở bên tôi sẽ không được chấp nhận vào bất cứ một khách sạn sang nào. Mặt khác, do tôi là đàn bà không có kinh nghiệm, không hề nghĩ đến việc có thể bị hiểu lầm, tôi chỉ nói với người đánh xe:

- Đến một khách sạn nhỏ nào cũng được!

Người đánh xe, vẻ khắc khổ, ướt đẩm nước mưa, cho ngựa cất bước. Người lạ, ngồi bên tôi, nín lặng; tiếng bánh xe lõng bõng, nước mưa đập vào kính: trong cái khoảng vuông tối tăm, không ánh sáng, như trong một chiếc quan tài, tôi cảm thấy như đi theo một xác chết. Tôi cố suy nghĩ, cố tìm một lời để làm nhẹ bớt vẻ kỳ quặc và kinh hãi của việc lầm lì ngồi bên nhau như thế này, nhưng tôi không làm nổi. Sau vài phút, xe dừng lại. Tôi xuống trước, trả tiền xe trong khi người kia, nửa thức nửa ngủ, đóng cửa xe lại. Bây giờ chúng tôi đang ở trước một khách sạn nhỏ mà tôi không biết nữa, phía trên là một mái hiên bằng kính chìa cái vòm tròn nhỏ ra che chở chúng tôi chống cơn mưa vẫn đều đều tí tách đến rợn người, xé rách bức màn đêm lạnh lùng.

Người lạ này, không đỡ nổi sức nặng của thân mình, buộc phải tựa vào tường; từ chiếc mũ ướt lướt thướt, từ bộ quần áo nhầu nát của anh ta, nước rỏ xuống như từ một ống máng. Anh ta ở đó như người bị chết đuối vừa được vớt lên, tinh thần còn tê cóng và ở chỗ anh ta tựa, nước chảy thành một vũng nhỏ. Nhưng anh ta cũng không làm gì để rũ hết nước, để nhấc chiếc mũ, nước cứ chảy không ngừng xuống trán, xuống mặt anh. Anh ta cứ đứng đó, trơ trơ và tôi không sao có thể nói để ông rõ là tôi bị xúc động bởi sự suy sụp ấy đến chừng nào.

Nhưng giờ đây, phải làm gì đã. Tôi cho tay vào túi:

- Đây là một trăm phrăng, - tôi nói, - anh sẽ thuê phòng và sáng mai anh trở về Nixơ.

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi.

- Tôi đã để ý quan sát anh từ trong sòng bạc - sau khi thấy anh ta do dự, tôi nói tiếp và nhấn mạnh - Tôi biết anh đã thua cháy túi rồi và tôi lo anh sắp làm điều dại dột. Nhận sự giúp đỡ không có gì xấu cả… Thôi, cầm lấy đi.

Nhưng anh ta gạt tay tôi ra, mạnh không ngờ.

- Cô là gái tốt đấy, - anh nói, - nhưng đừng vung phí tiền như vậy. Không làm gì được cho tôi đâu. Đêm nay, ngủ hay không, tôi cũng chẳng thiết. Mai là hết. Không còn làm gì được nữa đâu.

- Không, anh phải cầm lấy số tiền này, - tôi năn nỉ, - mai anh sẽ nghĩ khác. Bây giờ anh hãy vào khách sạn đi và ngủ cho yên: ban đêm giúp ta suy nghĩ chín chắn hơn; mọi việc sẽ khác, không giống ban ngày.

Nhưng khi tôi đưa tiền cho anh ta, một lần nữa, anh ta gạt phắt đi, vẻ dữ tợn.

- Vô ích, - anh ta nhắc lại với giọng trầm, - tiền không dùng làm gì hết. Tốt hơn là để việc này xảy ra ở ngoài hơn là để phòng của người ta dậy máu. Một trăm phrăng, chứ đến một ngàn phrăng cũng không giúp được gì cho tôi. Ngày mai tôi sẽ trở lại Cadinô với vài phrăng còn lại và khi nào cháy túi, tôi mới đi. Bắt đầu lại làm gì? Tôi chán lắm rồi!

Ông không thể tưởng tượng được giọng nói âm âm đó đã đem lại cái cảm giác gì, tận nơi sâu thẳm của tâm hồn tôi; ông hãy hình dung hoàn cảnh của tôi; hai bước trước mặt mình là một người trai trẻ sáng sủa, đầy sức sông, khỏe mạnh và ta biết rằng, nếu ta không ráng hết sức mình, thì chỉ trong hai giờ nữa, cái tuổi hoa xuân này, đang suy nghĩ, nói năng và hô hấp kia sẽ chỉ còn là một xác chết. Thế là tôi có ước vọng mãnh liệt phải thắng sự chống cự điên dại này. Tôi nắm cánh tay anh ta và nói:

- Điên khùng thế là đủ rồi! Anh sẽ vào khách sạn thuê một phòng; sáng mai tôi sẽ đến kiếm anh và đưa anh ra ga. Anh phải ra khỏi nơi đây trong ngày mai, anh phải trở về nhà và tôi sẽ không để anh yên trước khi thấy anh mua vé và lên tàu. Khi còn trẻ, thì không ai chỉ vì thua một vài trăm hay vài ngàn phrăng mà lại đi kết liễu đời mình. Thế là hèn nhát, là nổi cơn nóng giận, điên khùng một cách ngớ ngẩn. Ngày mai anh sẽ cho tôi là có lý.

- Ngày mai ư? – Anh ta nhắc lại với giọng chua chát mỉa mai lạ lùng. – Ngày mai! Nếu cô biết ngày mai tôi sẽ ở đâu! Nói thật, tôi thấy vấn đề nay hơi kỳ cục đấy. Thôi, cô em, cô đi về nhà đi, đừng mất công và đừng phí tiền nữa.

Nhưng tôi không nhượng bộ. Ở trong tôi, hình như có một sự mê say, một cơn phẫn nộ. Tôi nắm mạnh bàn tay anh ta và nhét tờ giấy bạc vào tay anh:

- Cầm lấy tiền và vào ngay đi.

Nói rồi, tôi kiên quyết đến kéo mạnh giây chuông.

- Đấy, bây giờ tôi đã kéo chuông rồi, người gác sắp ra, anh lên phòng và ngủ đi. Chín giờ sáng mai, tôi sẽ chờ anh ở trước nhà này và tôi sẽ đưa anh ra ga ngay. Anh không phải lo gì cả, tôi sẽ làm mọi việc cần thiết để anh có thể trở về nhà được. Bây giờ thì đi nằm đi ngủ cho ngon và đừng nghĩ ngợi gì hết.

Lúc đó, ở phía trong, có tiếng khóa và người làm của khách sạn ra mở cửa.

- Vào đây! - Người trai đó bỗng nói bằng một giọng cứng rắn, quả quyết và bực tức.

Và tôi thấy những ngón tay của anh ta xiết chặt như sắt lấy cổ tay tôi. Tôi khinh hãi, tê cứng đến mức như bị sét đánh và không còn đầu óc để nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn chống cự, muốn vùng thoát… nhưng ý chí của tôi đã mềm nhũn ra… và tôi… xin ông hiểu cho… tôi thấy xấu hổ vì phải chống cự với một người lạ trước người gác - vẫn đứng đó vẻ sốt ruột. Và như vậy… như vậy là tôi bỗng thấy mìn đã ở bên trong khách sạn. Tôi muốn nói, muốn bày tỏ một điều gì nhưng tiếng nói cứ bị nghẹn trong cổ họng… Bàn tay anh ta vẫn nắm cánh tôi, chặt cứng và phũ phàng… Tôi lơ mơ cảm thấy mình bị kéo đi, lên thang gác mà không ý thức được việc mình làm… Khóa mở.

Và bổng nhiên tôi thấy một mình tôi trong gian phòng xa lạ tại một khách sạn tới nay tôi cũng không biết tên, với một người đàn ông không biết là ai nữa.

Bà C… lại ngưng và đột nhiên bà đứng dậy; bà nói không nên lời nữa. Bà tới cửa sổ, lặng lẽ nhìn vài phút ra ngoài; hay có thể bà chỉ tựa trán vào tấm kính lạnh; tôi không có can đảm để thấy rỏ được điều đó, vì quan sát bà mệnh phụ già này trong cơn xúc động thật là cực khổ. Cho nên tôi cứ ngồi lặng thinh, không nói gì, không gây tiếng động, và tôi đợi cho đến khi bà quay lại, bình tĩnh bước tới ngồi trước mặt tôi.

- Bây giờ điều khó khăn nhất đã được nói ra. Và bây giờ tôi hy vọng ông sẽ tin tôi nếu tôi khẳng định một lần nữa với ông, nếu tôi thề với ông trước tất cả những gì thiêng liêng nhất đối với tôi, trước danh dự tôi và trước sinh mạng của các con tôi rằng, trước giây phút đó, không hề có một chút ý nghĩ nào về một cuộc… một cuộc chung chạ với con người xa lạ này đến trong tâm trí tôi, rằng thật sự tôi không còn ý chí nữa, không còn ý thức nữa, tôi bỗng rơi, như bị bẫy, từ con đường quang đãng của đời mình vào hoàn cảnh này. Tôi đã hứa với ông và với tôi, tôi nhắc lại một lần nữa với ông là chỉ duy nhất do ý chí gần như cuồng nhiệt muốn giúp người trai trẻ này chứ không phải do một tình cảm nào khác, một tình cảm cá nhân nào đó, nghĩa là không có một chút ham muốn, một ý nghĩ nào về việc gì sẽ tới mà tôi bị xô đẩy vào câu chuyện bi thảm này.

Ông miễn cho tôi khỏi phải kể cho ông nghe những gì đã xảy ra trong gian phòng ấy, tôi không bao giờ quên và sẽ không quên một giây phút nào của cái đêm đó. Bởi vì ở đấy, tôi đã đấu tranh với một con người, để cứu sống anh ta, phải, tôi nhắc lại, trong cuộc đấu tranh này, chủ yếu là cuộc sống, hay cái chết của một con người.

Mỗi sợi thần kinh của tôi đều cảm thấy không sai chút nào rằng người lạ, người đàn ông này, lúc sắp chết, đã bám lấy tấm ván cứu mạng với tất cả sự sôi nổi, sự đam mê của một người bị đe dọa đến tính mạng. Anh ta bám lấy tôi như một người đã cảm thấy vực thẳm ở dưới chân mình. Còn tôi, tôi ráng dùng hết mọi phương cách, tất cả những gì tôi có thể để cứu anh ta.

Trong đời mình, người ta chỉ sống một giờ như vậy có một lần và điều đó cũng chỉ đến với một người trong số hàng triệu người; không có cái sự kiện khủng khiếp này, tôi không bao giờ ngờ được là với sức mạnh của tuyệt vọng, với sự phẫn nộ được buông lỏng, một con người bị bỏ rơi, một con người bị thất vọng vẫn cầu mong một lần cuối, đến giọt máu thắm cuối cùng của đời mình; bản thân tôi, đã xa lánh trong hai mươi năm, những sự cám dỗ ma quỷ của cuộc sống, tôi không hiểu được cái cách vĩ đại và kỳ quái mà đôi khi thiên nhiên cô lại trong vài hơi thở gấp gáp tất cả những gì là nồng nhiệt và băng giá, là sự sống và cái chết, là say đắm và tuyệt vọng. Cái đêm đó chứa chất đầy những đấu tranh và lời lẽ, đam mê, giận dữ và oán hờn, những giọt lệ van nài, say sưa đến nỗi tôi tưởng nó kéo dài tới một ngàn năm và chúng tôi – hai con người thất thểu ràng buộc lấy nhau cùng lăn xuống đáy vực thẳm, một người mang trong mình sự điện dại của cái chết, còn người kia, sự linh cảm của cái chết đó – chúng tôi thoát ra khỏi cuộc đấu tranh sinh tử này, hoàn toàn biến hóa, toàn bộ đổi thay, với một tinh thần và một cảm giác khác.

Nhưng tôi không nói về điều ấy. Tôi không thể và không muốn biết điều ấy. Tuy vậy tôi lại phải nói với ông về cái phút kỳ lạ khi tôi tỉnh giấc sáng hôm sau. Tôi thức dậy sau một giấc ngủ nặng như chì, từ một vực sâu thăm thẳm, mà tôi chưa bao giờ biết đến. Mãi một lúc lâu, tôi mở mắt ra được và vật đầu tiên tôi trông thấy ở phía trên, là trần một gian phòng lạ; tôi sờ soạng thêm một chút nữa, thì thấy đây là một nơi khác lạ, ghê tởm, tôi chưa hề biết tới, không hiểu sao tôi lại có thể rơi vào đây được. Thoạt tiên, tôi cố cho đay chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ rỏ rệt và trong suốt, đã dẫn tới giấc ngủ nặng nề và lộn xộn này; nhưng trước cửa là ánh sáng ban mai, ánh sáng trong vắt và thật, không sao chối cãi được của vầng dương đã lóe lên; đã có những tiếng động của đường phố vang lên, tiếng xe lăn, tiếng chuông tàu điện, tiếng người ồn ào, bây giờ tôi biết là tôi không mơ mà tôi tỉnh. Tôi miễn cưỡng nhỏm dậy, để lấy tinh thần và… nhìn sang bên…kìa, tôi trông thấy (không bao giờ tôi có thể tả cho ông thấy hết nỗi kinh hoàng của tôi) một người đàn ông lạ ngủ bên tôi trên cái giường rộng… nhưng đó là một người lạ, một người xa lạ hoàn toàn tôi không quen biết, ở trần…

Không, tôi hiểu là nổi kinh hoàng không sao kể ra được ấy, nó ập tới mạnh đến nỗi tôi lại nằm vật xuống, bất động. Nhưng đây không phải là ngất xỉu thật sự, không còn ý thức được gì, trái lại, trong khoảnh khắc một ánh chớp, tất cả mọi việc đối với tôi, trở nên vừa rõ ràng vừa không sao giải thích được, và tôi chỉ ước ao được chết vì chán chường, vì tủi hổ vì thấy mình bỗng nhiên, nằm cùng một người hoàn toàn không quen biết, trên một cái giường lạ, tại một hắc điếm, rõ ràng là đáng nghi ngờ. Tôi còn nhớ rất rõ là tim tôi đã ngừng đập; tôi nín thở như để bằng cách đó, có thể chấm dứt được đời mình, trước hết là lương tâm mình, cái lương tâm trong sáng, một sự trong sáng quái đản, cảm thấy được tất cả nhưng không hiểu được gì hết.

Tôi không biết tôi nằm sóng sượt, toàn thân lạnh toát được bao nhiêu lâu: những người chết nằm trong quan tài cũng cứng đờ như vậy. Tôi chỉ biết là tôi đã nhắm mắt lại và tôi cầu khẩn tất cả sức mạnh của trời đất, dù là gì đi nữa, hãy làm cho những điều đó không phải là thật, không phải đúng như vậy. Nhưng các giác quan nhạy bén của tôi đã cho thấy là tôi không mơ hồ chút nào: tôi nghe thấy tiếng người nói ở phòng bên, tiếng nước chảy; bên ngoài, những tiếng chân lướt ở hành lang và mỗi bằng chứng đó đã xác nhận một cách tàn nhẫn rằng tôi vẫn tỉnh táo.

Tôi không nói được là tình hình đau đớn như vậy kéo dài bao nhiêu lâu;
những giây phút đó không đo được bằng những giây phút của cuộc đời. Bỗng nhiên một nổi lo sợ khác xâm chiếm lấy tôi, nổi lo sợ khủng khiếp và man dại là người lạ này tên là gi tôi cũng không biết, sẽ thức dậy và hỏi tôi. Tôi thấy rõ là tôi chỉ còn cách duy nhất: mặc quần áo, bỏ đi để tìm lại, bằng cách nào cũng được, cuộc sống thật của mình, trở về khách sạn và ngay lập tức, bằng chuyến tàu đầu tiên, rời khỏi cái nơi đáng nguyền rủa này, rời đất nước này để không bao giờ gặp người đàn ông này nữa, không nhìn thấy mặt anh ta, không có nhân chứng, người buộc tội và kẻ đồng lõa nữa. Ý nghĩ đó đã thắng được cơn ngất xỉu của tôi: rất thận trọng, với những cử chỉ vụng trộm của một tên kẻ cắp, tôi ra khỏi giường, lần mò lấy quần áo, rón rén đưa tay lấy từng tí một (để khỏi gây ra tiếng động).

Tôi mặc quần áo, vô cùng thận trọng, chỉ sợ anh ta thức giấc và sau cùng tôi cũng đã sẵn sàng, tôi đã đạt tới mục đích của mình. Chỉ còn cái mũ của tôi ở đầu giường phía bên kia, và trong khi nhón gót, mò mẫm đi lấy mũ, ở giây phút này, tôi không thể làm khác: tôi cứ phải nhìn lần nữa bộ mặt của con người đã rơi vào đời tôi như một viên gạch rớt từ mái nhà xuống. Tôi chỉ muốn nhìn anh ta thôi nhưng… điều kỳ diệu là người trẻ lạ đang nằm ngủ nơi đây hoàn toàn xa lạ với tôi, thoạt tiên tôi không nhận ra bộ mặt ngày hôm qua. Thật vậy, những nét căng thẳng do đam mê làm nhăn nhó, với vẻ hốt hoảng, căng thẳng của con người bị kích thích đến cùng cực này như đã bị xóa nhòa; người nằm trước mặt tôi có một bộ mặt khác, thơ trẻ, bộ mặt của một đứa con trai, và thật tình mà nói, nó rạng rỡ, trong sáng và chân thành. Đôi môi hôm qua còn mím lại, răng nghiến chặt, đang mơ màng, hé mở, dịu dàng và hơi phác một nụ cười; mớ tóc bạch kim trải những lọn tròn trên vầng trán không một nếp nhăn và cái thân thể đang nghỉ ngơi này thở nhè nhẹ như một lớp sóng điện êm dịu toát từ lồng ngực ra.

Chắc ông còn nhớ, trước đây tôi đã nói với ông, chưa bao giờ tôi quan sát thấy một cách tập trung, sâu sắc và ở mức độ say sưa mãnh liệt đến như vậy, vẻ thèm khát dữ dằn và sự đam mê ở trong con người như tôi đã quan sát người lạ này trước bàn bạc. Và bây giờ tôi lại nói với ông rằng chưa bao giờ, ngay cả ở những trẻ nít, trong giấc ngủ buổi sơ sinh, thường tỏa ra quanh chúng vẻ êm đềm của thiên thần, tôi cũng chưa bao giờ thấy một biểu hiện thanh khiết, trong sáng của giấc ngủ thực sự là sung sướng. Trên bộ mặt này, tất cả tình cảm đã được ghi lại như một bức họa vô song, và bây giờ đây là một sự tĩnh dưỡng, như ở nơi cực lạc, một sự giải thoát việc trút bỏ mọi u uất trong lòng, một sự giải phóng.

Trước cảnh tượng kỳ lạ này, mọi lo âu, sợ hãi đã rời khỏi tôi như một chiếc áo khoác ngoài đen tối; tôi không thấy xấu hổ, không, tôi cảm thấy sung sướng nữa là khác. Sự kiện ghê gớm và khó hiểu này, bỗng có ý nghĩa đối với tôi; tôi thấy vui mừng, tự hào với ý nghĩ là người trai thanh lịch và đẹp này đang nằm tại đây, bình thản, điềm tĩnh như một bông hoa, nếu không có sự tận tình của tôi, sẽ được người ta thấy ở một nơi nào đó, bên một tảng đá, người gẫy gập, đẫm máu, mặt vỡ nát, không hồn, mắt mở to chừng chừng; tôi đã cứu sống anh ta, anh ta đã được cứu sống. Và bây giờ với cặp mắt của người mẹ (tôi không tìm ra được từ nào khác), tôi nhìn người trẻ tuổi đang ngủ ở đây, được tôi đưa trở lại cuộc sống, đau đớn còn hơn khi tôi sinh các con ruột của tôi. Và trong gian phòng cáu bẩn, đồ đạc cổ lỗ, trong cái khách sạn tạm bợ, gớm ghiếc và nhơ nhớp này, tôi bỗng có cảm giác như khi tôi đang ở một nhà thờ, một cảm giác sung sướng tuyệt vời, huyền diệu và thánh thiện (tôi nghĩ vậy dù ông có cho những lời này là lố bịch). Từ giây phút rùng rợn nhất trong suốt cuộc đời tôi, đã nảy sinh trong tôi, như chị em ruột thịt, cái giây phút kỳ lạ, mạnh mẽ nhất có thể có được.

Tôi đã gây ra tiếng động hay tôi đã vô tình nói gì chăng? Tôi không biết nữa. Người đng ngủ bổng mở trừng mắt. Tôi hoảng sợ, vội lùi bước. Anh ta ngạc nhiên nhìn chung quanh, như tôi vừa làm trước đó, và anh ta như khó nhọc lắm mới vượt khỏi cảnh hổn độn và sâu thẳm vô biên. Anh cố gắng lắm mới nhìn một lượt được hết gian phòng lạ này và khi nhìn đến tôi, anh ngừng lại, vẻ kinh hoàng. Nhưng trước khi anh ta nói hay tỉnh hẳn, tôi cũng đã lấy lại được bình tĩnh. Không thể để anh nói câu nào, hỏi gì, có một cử chỉ thân mật nào; không thể để bất cứ việc gì đã xảy ra hôm qua và đêm nay, được nhắc lại, được giải thích và được bàn cãi.

- Tôi phải đi đây, - tôi vội nói với anh ta. – Còn anh, anh ở lại đây và mặc quần áo vào. Đến trưa, tôi sẽ gặp anh ở lại đây và mặc quần áo vào. Đến trưa, tôi sẽ gặp anh ở cửa Cadinô. Ở đó, tôi sẽ lo liệu cho đủ những thứ anh cần.

Và trước khi anh ta có thể nói được một câu, tôi đã bỏ đi để khỏi phải trông thấy gian phòng này, tôi chạy và không quay lại khỏi căn nhà, đến tên nhà cũng như tên người lạ đã qua đêm với tôi, tôi cũng không biết.
Last edited by Mười Đậu on 25 Jun 2005, edited 1 time in total.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Bà C… ngừng kể để trấn tĩnh lại. Nhưng vẻ căng thẳng và day dứt đã không còn trong giọng nói của bà. Như một chiếc xe, thoạt đầu leo dốc khó nhọc bao nhiêu, sau khi lên đến đỉnh, lại xuống dốc nhẹ nhàng, mau lẹ bấy nhiêu, câu chuyện của bà như được chắp cánh và bà kể tiếp, phơi phới:

- Thế là tôi chạy về nơi tôi ở, qua những đường phố sáng rực ánh ban mai, cơn giông đã xua tan khỏi bầu trời mọi đám mây, như lúc này đây, mọi cảm giác đâu đớn đã tiêu tan trong tôi. Tuy vậy, ông đừng quên điều tôi đã kể cho ông nghe qua rồi nhé, từ ngày chồng tôi chết, tôi hoàn toàn từ bỏ cuộc sống. Các con tôi không cần đến, tôi không lo cho bản thân tôi nữa, mà cuộc sống không mục đích rõ rệt quả là một sai lầm. Và đây là lần đầu tiên, thật bất ngờ, tôi đã có một sứ mạng, tôi đã cứu được một người, tôi đã tận dụng tất cả sức lực của tôi để giành giật anh ta ra khỏi sự tự hủy hoại mình. Bây giờ chỉ còn phải chiến thắng một chướng ngại vật nhỏ để hoàn thành sứ mạng đó.

Tôi về đến khách sạn của tôi; người gác ngạc nhiên nhận thấy tận chín giờ sáng tôi mới về; cái nhìn của người đó không làm tôi bận tâm; nỗi hổ thẹn hay sự buồn phiền cũng không còn ở tôi nữa; mà ý muốn được sống đột ngột trở lại với tôi; ý thức mới về cuộc đời mình đã trở nên hữu ích, làm máu trong người tôi chảy dồi dào và nồng nàn hơn. Về đến phòng, tôi vội vàng thay quần áo tang mà không biết (mãi sau này, tôi mới để ý) để mặc bộ khác sáng sủa hơn; tôi ra ngân hàng lãnh tiền, tôi vội ra ga hỏi giờ tàu chạy với một quyết tâm làm bản thân tôi cũng phải ngạc nhiên; ngoài ra tôi còn giải quyết một vài vịêc khác và vài cuộc hẹn hò. Tôi chỉ còn phải bảo đảm cho vịêc trở về nước và cứu sống hoàn toàn một con người mà số mệnh đã trao cho tôi.

Thật ra bây giờ tôi cần phải có nghị lực để gặp lại anh ta. Bởi vì hôm qua, tất cả đã xảy ra trong bóng tối, trong một cơn lốc, như khi hai hòn đá bị cuốn theo dòng thác bỗng va pải nhau, chúng tôi chỉ thoáng quen, mới nhìn qua mặt nhau, và tôi cũng không dám chắc là người lạ kia có thể nhận ra được tôi. Hôm trước còn là một sự tình cờ, một cơn say, một sự điên rồ ma quái của hai kẻ lạc lõng, còn hôm nay tôi phải tìm đến anh ta một cách cởi mở hơn, bởi vì hôm nay, dưới ánh sáng khắc nghiệt của ban ngày, tôi bắt buộc phải sáp lại gần anh ta với thân thể, với bộ mặt của tôi, với tư cách là một con người.

Nhưng tất cả những điều đó đã xảy ra dễ dàng hơn tôi tưởng. Đúng giờ hẹn, tôi vừa tới Cadinô, thì một người trẻ tuổi, từ một chiếc ghế dài đã đứng dậy và chạy tới trước tôi. Có một cái gì tự nhiên, thơ trẻ, chất phác, sung sướng trong vẻ ngạc nhiên cũng như trong mỗi cử chỉ thật ý nhị của anh ta, anh như bay lại với tôi, trong ánh mắt anh, có một tia vui với vẻ biết ơn và kính trọng và khi mắt anh cảm thấy mắt tôi bối rối trước sự hiện diện của anh, chúng khiêm nhường
cúi xuống. Chao! Lòng biết ơn, thật hiếm thấy bộc lộ ở đàn ông! Và chính những người chịu ơn nhiều nhất lại không tìn ra cái vẻ cần phải có; họ nín lặng, lúng túng; họ xấu hổ và ra vẻ bối rối để che giấu tình cảm của họ. Nhưng ở đây, trong con người này, mà Chúa, như một nhà điêu khắc bí mật, đã tạo ra những cử chỉ có khả năng thể hiện mọi tình cảm một cách nhạy bén, đẹp đẽ, uyển chuyển, dáng điệu biết ơn sáng toả như vẻ nhiệt tình ánh lên qua cơ thể.

Anh ta cúi xuống hôn tay tôi, cái đầu trẻ thơ kéo thành một đường thẳng với thân người, sùng kính. Anh cứ ở yên như vậy tới một phút, kính cẩn hôn những ngón tay tôi mà chỉ dám khẽ chạm vào chúng, rồi anh lùi lại, hỏi thăm sức khoẻ tôi, nhìn tôi với vẻ cảm kích, lời nào của anh ta cũng lễ độ đến nỗi chỉ vài phút sau, tôi không còn e ngại gì nữa.

Và như do nơi tinh thần tôi được nhẹ nhõm, cảnh vật quanh chúng tôi cũng sáng lên, hoàn toàn êm dịu, lặng lẽ và trong trẻo đến mức, từ chỗ chúng tôi đứng, chúng tôi thấy rõ màu trong sáng của từng viên sỏi dưới những làn sóng nhỏ viền ven bờ; nhà Cadinô, cái vực thẳm độc địa, sừng sững hiện lên với vẻ rực rõ chói chang trên bầu trời trong trẻo tươi mát, cái quán hôm qua chúng tôi còn nép sát vào nhau dưới mái hiên để tránh cơn mưa tầm tã đã trở thành một quầy bán hoa rực rỡ, ở đó có hằng hà sa số những bó lớn hoa và lá đủ màu sắc sặc sỡ, trắng, đỏ, xanh, do một cô hàng hoa mặc áo blu màu tươi sáng đứng bán. Tôi mời người lạ đó ăn trưa ở một quán nhỏ tại đây, chàng trai kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc phiêu lưu bi thảm của anh ta. Đó là sự xác nhận hoàn toàn linh cảm đầu tiên của tôi khi tôi trông thấy trên tấm thảm xanh, những bàn tay run rẩy và sôi nổi một cách nóng nảy của anh. Anh ta thuộc dòng dõi một gia đình quí tộc lâu đời của một gia đình quí tộc lâu đời của Ba Lan thuộc Áo; anh ta theo đuổi sự nghiệp ngoại giao, anh học ở Viên (Thủ đô nước Áo) và một tháng trước đây, anh đã thi kỳ sát hạch đầu tiên với kết quả đặc biệt rực rỡ. Để ăn mừng ngày này, bác anh, một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ Tổng tham mưu, người đã cho anh trọ học tại nhà ông, đưa anh đi xe ngựa đến công viên Prater
(Một công viên lớn, nổi tiếng đẹp, tại thủ đô Viên bên bờ sông Danuýp ở Viên) rồi cả hai bác cháu cùng đến trường đua ngựa. Ông bác đánh bạc gặp vận đỏ, ông được ba lần liền, sau đó túi đầy một mớ giấy bạc kiếm được như vậy, cả hai đã ăn tối tại một nhà hàng sang trọng. Hôm sau, phần thưởng về thành công trong kỳ sát hạch đối với nhà ngoại giao tương lai là một món tiền bằng một tháng lương, do ông bố thưởng. Hai ngày trước, món tiền này đối với anh ta là rất lớn; giờ đây, với cách kiếm tiền dễ dàng, nó trở thành vô nghĩa và nhỏ. Cho nên sau bữa ăn trưa, anh quay lại trường đua, đánh cá một cách say mê và cuồng nhiêt, và thật hạnh phúc cho anh (nói bất hạnh cho anh thì đúng hơn) là sau cuộc đua chót, anh rời khỏi Prater với số tiền nhân lên gấp ba.

Từ đó, nỗi đam mê cờ bạc đến điên dại, lúc thì ở trường đua ngựa, lúc ở các quán cà phê hay ở các câu lạc bộ, đã xâm chiếm anh, làm tiêu tan thời gian, việc học hành, tâm thần và nhất là các nguồn thu nhập của anh. Anh còn suy nghĩ,
ngủ yên được, lại càng không tự chủ được mình; có một lần, vào ban đêm, sau khi đã thua cháy túi, anh từ câu lạc bộ trở về nhà, khi cởi quần áo, anh thấy một tờ giấy bạc nhàu nát còn sót ở áo gilê của mình, thế là, không kìm giữ được mình nữa, anh lại mặc quần áo đi mò mẫm khắp nơi, cho đến khi gặp tại một quán cà phê nào đó những người chơi bài đô-mi-nô và anh ngồi luôn với họ cho đến tảng sáng.

Một hôm, chị anh, đã có gia đình, giúp anh trả những món nợ vay của những kẻ chuyên cho vay lấy lời, lúc nào cũng sẵn sàng ứng tiền trước cho người kế thừa một dòng họ có tiếng tăm lớn. Một thời gian, vận đỏ đã đến với anh, nhưng sau đó là vận đen liên tục, và anh càng thua thì những cam kết không giữ đúng, lời hứa danh dự không đảm bảo được, đòi hỏi những món tiền lớn để tự cứu lâys mình. Trước đó, từ lâu, anh đã cầm đồng hồ, quần áo của mình và cuối cùng hành động đáng sợ đã xảy ra: anh ăn cắp của bà bác già của anh, hai chiếc nút áo lớn có nạm kim cương mà bà ít dùng tới, ở trong tủ của bà. Anh cầm một chiếc lấy một số tiền lớn, ngay tối hôm đó, nhờ đánh bạc, đã được nhân lên gấp bốn. Nhưng đáng lẽ phải rút lui, anh liều đánh tất cả số tiền đó và anh đã thua.

Khi anh ra đi, vụ đánh cắp chưa ai biết; thế là anh cầm món đồ châu báu thứ hai và ngẫu hứng anh được một mạch tới Môngtơ Cáclô, mong giành được tại bàn rulét một món tiền lớn hằng mơ ước. Anh đã bán cái rương, quần áo, cái dù của anh; bây giờ anh chỉ còn cây súng ngắn với bốn viên đạn và một cây thập tự nhỏ gắn kim cương của bà mẹ đỡ đầu anh, công chúa X…, đã cho anh, mà anh không muốn rời. Rồi buổi trưa, anh cũng bán cây thập tự đó lấy năm mươi phrăng chỉ để ngay chiều ấy thưởng thức niềm vui run rẩy của bài bạc, của cái sống hay cái chết.

Anh kể tất cả những điều đó với vẻ duyên dáng quyến rũ của anh, vốn biết làm cho mọi vật trở nên linh hoạt. Và tôi nghe, chăm chú, bùi ngùi, rung động và nghẹn ngào, nhưng không một lúc nào, tôi có ý nghĩ khinh thường con người đang ngồi cùng bàn với tôi, chẳng qua cũng chỉ là một tên kẻ cắp. Nếu hôm trước, có ai chỉ bóng gió nói rằng tôi, một người đàn bà có quá khứ không chê trách được, vẫn đòi hỏi ở những ai quan hệ với mình, phải có tư cách đàng hoàng, nề nếp, lại có ngày ngồi thân mật bên một chàng trai trẻ, hoàn toàn xa lạ, chỉ hơn tuổi con mình một chút, lại là kẻ đã đánh cắp kim cương, tôi sẽ cho người đó là điên.

Và không một lúc nào, tôi thấy có cảm giác kinh sợ khi nghe chuyện anh ta kể, anh ta kể tất cả, tự nhiên và say sưa đến mức hình như hành động của anh có vẻ là hậu quả của một cơn sốt, một cơn bệnh hơn là một việc phạm pháp xấu xa. Sau đó, đối với một người như tôi, trong đêm qua đã trải qua những sự kiện quá bất ngờ, dồn dập như thác đổ, cái từ “không thể có được” bỗng mất hết ý nghĩa. Trong mười giờ ấy, kinh nghiệm tôi học được từ thực tế lớn hơn nhiều so với kinh nghiệm mà bốn mươi năm cuộc đời trưởng giả đã dạy cho tôi.

Nhưng có một điều làm tôi thấy kinh sợ trong cuộc thú tội này, đó là cái ánh bừng bừng trong cặp mắt anh, đã làm rung động tấ cả các cơ bắp trên mặt anh, khi anh nói về nỗi mê say cờ bạc. Chỉ việc kể chuyện một cách tự nhiên cũng kích thích anh rồi và bộ mặt sinh động của anh mô tả rất rõ ràng những giai đoạn căng thẳng diễn ra lần lượt trong anh, bằng những nét vui mừng hay đau khổ. Vô tình, bàn tay anh, những bàn tay đẹp tuyệt vời, nóng nảy, khớp ngón mềm mại, đã trở lại với bản chất của nó, như tại bàn bạc, thành những sinh vật tham lam, dữ tợn và lén lút; trong khi anh ta kể, tôi thấy những khớp đốt của chúng bỗng rung lên, cong vội lại và co quắp nắm chặt lấy nhau rồi lại duỗi ra để cuối cùng ấp lấy nhau.

Và tới lúc anh thú nhận ăn cắp những chiếc khuy, chúng làm điệu bộ kẻ căp, nhảy nhót, nhanh như chớp, (vô tình tôi đã rùng mình); tôi thấy rõ ràng những ngón tay lao như điên vào món đồ trang sức, giấu vội nó vào lòng bàn tay. Và tôi thấy hãi hùng không sao kể xiết là con người này đã bị nỗi đam mê cờ bạc đầu độc cho đến giọt máu cuối cùng.

Trong câu chuyện, điều làm tôi xúc động và khiếp đảm quá chừng, đó chỉ là sự lệ thuộc của một người trẻ, bản chất vô tư vào một nỗi đam mê điên dại. Cho nên tôi thấy bổn phận đầu tiên là thân mật khuyên nhủ con người tạm thời chịu ơn tôi này, hãy rời ngay tức khăc Môngtơ Cáclô, nơi mà sự cám dỗ còn rất nguy hiểm, anh ta cần phải về với gia đình, ngay trong ngày nay, trước khi việc đánh cắp các khuy áo bị lộ và tương lai anh sẽ vĩnh viễn bị tan nát. Tôi hứa sẽ cho anh tiền đi đường và tiền chuộc lại món đồ trang sức, nhưng với điều kiện, anh phải lên tàu ngay trong hôm nay và anh phải thề danh dự với tôi là anh sẽ không bao giờ sờ tới một lá bài hay chơi bất cứ một trò đỏ đen nào.

Tôi sẽ không bao giờ quên sự biết ơn nồng nhiệt thoạt đầu khiêm tốn, sau đó rạng rỡ, của người lạ này, con người đã tuyệt vọng, khi nghe tôi nói; tôi sẽ không bao giờ quên vẻ anh ta như uống từng lời của tôi khi tôi hứa sẽ giúp anh; và bỗng nhiên anh đưa hai bàn tay anh lên bàn để nắm lấy tay tôi trong một cử chỉ vừa là quí mến, vừa là chịu ơn một cách thiêng liêng. Trong đôi mắt sáng của anh, tới lúc đó còn mơ hồ, thấy long lanh những giọt lệ; toàn thân anh run lên mạnh mẽ, cảm động vì sung sướng.

Tôi đã nhiều lần cố gắng mô tả cách biểu thị duy nhất của sắc mặt và dáng điệu của anh; nhưng cử chỉ ấy, tôi không sao miêu tả nổi, vì đây là một vẻ sung sướng ngây ngất, siêu phàm chưa từng thấy được trên mặt người, chỉ có thể so sánh với cái bóng trắng mà người ta tưởng nhìn thấy lúc tỉnh mộng, khi nghĩ rằng trước mặt ta là một thiên thần vừa biến mất.

Tại sao tôi lại che dấu điều này nhỉ? Tôi không thể cưỡng lại sự kích động của cảnh đó. Lòng biết ơn làm người ta sung sướng, vì ít khi nó hiện lên cho ta thấy được; sự thanh lịch tạo ra điều tốt lành và với tôi, vốn là một người lạnh lùng, mực thước, vẻ phấn khởi đến như vậy là một điều mới mẻ, tốt lành và thú
vị. Giống như con người bị dao động và rã rời này, cảnh vật sau trận mưa hôm qua, cũng hoan hỉ một cách diệu kỳ.

Khi chúng tôi ra khỏi khách sạn, biển hoàn toàn lắng dịu, long lanh, tuyệt đẹp, xanh vút lên tận chân trời. Chỉ có những điểm trắng ở những chỗ chim hải âu bay trên một màu xanh khác, màu xanh của bầu trời. Ông biết phong cảnh ở Riviêna rồi nhỉ? Nó luôn gợi lên một cảm giác đẹp đẽ nhưng tẻ nhạt, giống như một bưu thiếp in phong cảnh, nó phơi bày trước mắt ta một cách mềm mại những màu sắc luôn gay gắt, kiểu một người đẹp mơ màng, uể oải, gần giống tính cách của phương Đông để cho mọi người ngắm nhìn mà vẫn dửng dưng.

Nhưng thỉnh thoảng có những ngày, rất hiếm, vẻ đẹp đó bừng lên, hiện ra lộng lẫy, với những màu sắc rực rỡ, chói ngời, cuồng nhiệt, và người ta phải choáng ngợp trước vẻ sang giàu của những bông hoa, loè loẹt, nổ bung ra, nồng nàn, đầy gợi cảm. Một ngày hưng phấn như vậy đã tiếp theo cảnh hỗn loạn không sao kiềm chế được của đêm giông tố, đường phố được cọ rửa như mới, bóng lên, sáng lạn, bầu trời màu xanh lam và trong khóm lá xanh, nhựa tràn trề, những chùm hoa rực lên nhưng những ngọn đuốc. Núi bỗng như rõ nét và sát lại nhau hơn trong bầu không khí em dịu tràn ngập ánh nắng, chúng tụ lại thật gần cái thành phố sáng láng được rửa chùi kỹ càng; trong mỗi ánh mắt, người ta cảm thấy lời chào mời sôi nổi, và những khích lệ của tạo vật làm tự nhiên lòng người thấy hồi hộp:

- Chúng ta lên xe đi một vòng quanh đường núi đi (Nguyên vă Corniche: Tên một con đường đẹp ven theo vách núi để đi xem phong cảnh), tôi nói.

Anh ta gật đầu, hân hoan; hình như từ khi tới đây, lần đầu tiên, chàng trai mới nhìn và để ý đến phong cảnh. Cho tới lúc này, anh ta chỉ biết gian phòng ngột ngạt của Cadinô, với mùi nước hoa lẫn mùi mồ hôi, với cảnh ồn ào của những con người xấu xí, nét mặt nhăm nhúm, và chỉ chỉ biết một đại dương rầu rĩ, xám xịt và hỗn độn. Nhưng giờ đây, bờ biển mênh mông xoè ra hình rẻ quạt, tràn ngập ánh nắng, trải trước mắt chúng tôi và chúng tôi nhìn cảnh bao la với niềm hạnh phúc. Chúng tôi cho xe đi chầm chậm (lúc đó chưa có ô tô) trên con đường lộng lẫy, ngang qua vô số những biệt thự, núp dưới bóng lá xanh của những cây thông, xòe tán, người ta luôn có ham muốn thầm kín: được sống tại đây, an nhàn, thỏa mãn, xa lánh nơi trần tục, thích biết bao!

Trong cuộc đời, tôi đã có lúc nào sung sướng hơn lúc này không? Bên cạnh tôi, trong xe, chàng trai này, hôm qua còn bị định mệnh và cái chết siết chặt, bây giờ được những tia nắng sáng của mặt trời tạo cho một ánh hào quang, như trẻ hơn đến vài tuổi. Anh như trở lại thành đứa trẻ nhỏ, một đứa bé xinh xắn, mê chơi, có đôi mắt nồng nàn đồng thời đầy vẻ lễ độ; điều làm cho tôi thấy vui thích hơn cả là sự ân cần tinh tế, linh hoạt của anh ta: đường đi qua dốc, ngựa kéo xe lên một cách khó nhọc, anh nhanh nhẹn nhảy xuống đẩy phía sau. Tôi nói tên một bông hoa dọc đường đi, anh chạy ngay hái bông hoa đó. Anh ta nhấc và đặt cẩn thận trên thảm cỏ xanh một con cóc nhỏ do theo trận mưa hôm
qua, đang khó nhọc lê lết trên đường để nó khỏi bị xe cán; trong lúc ấy, anh kể những chuyện vui, có duyên nhất, đầy vẻ hào hứng; tôi tưởng như cách cười của anh ta cũng là một hành động chuyển hoán bởi vì không cười, anh sẽ buộc phải hát, phải nhảy hay phải làm trò hề vì trong thái độ đột nhiên phấn khởi của anh, có không biết bao nhiêu hạnh phúc và cảm hứng.

Khi lên tới đỉnh dốc, chúng tôi từ từ đi ngang qua một thôn nhỏ, anh bất thần kính cẩn bỏ mũ. Tôi ngạc nhiên: anh ta là người ngoại quốc, giữa những người xa lạ, anh chào ai vậy? Anh hơi đỏ mặt khi tôi hỏi và anh nói, gần như có vẻ tạ lỗi, rằng chúng tôi vừa đi qua một nhà thờ, và ở Ba lan, quê hương anh, cũng như ở tất cả các nước sùng đạo, ngay từ nhỏ, người ta đã có thói quen ngả mũ trước nhà thờ và nơi chính diện.

Sự tôn kính trước những nơi thờ phụng ấy làm tôi xúc động sâu sắc; cùng lúc đó, tôi cũng nhớ tới cây thập tự mà anh ta đã nói với tôi, và tôi hỏi anh ta có phải là người mộ đạo không; khi anh ta khiêm nhường nhận là anh hy vọng được cứu rỗi tâm hồn, một ý nghĩ bỗng vụt đến với tôi:

- Dừng lại, - tôi kêu người đánh xe và tôi vội vã xuống xe. Anh ta theo tôi, ngạc nhiên và hỏi:
- Chúng ta đi đâu vậy? Tôi chỉ nói:

- Cứ theo tôi.

Tôi đi trở lại, anh ta theo tôi, về phía nhà thờ, một giáo đường nhỏ nơi thôn dã, xây bằng gạch. Trong bóng tối mờ mờ, những bức tường ở phía trong được quét với màu xám, mộc mạc, cửa để mở và một luồng ánh sáng vàng, tròn, nổi bật lên, rõ ràng, trong bóng tối; ở đó hiện lên đường viền xanh mờ của một bàn thờ nhỏ. Hai cây nến như hai con mắt mờ mờ, trong ánh chiều tà, nồng lên một mùi nhang, thơm nóng. Chúng tôi đi vào trong, anh bỏ mũ nhúng tay vào bình nước phép, làm dấu và quỳ gối. Anh ta vừa đứng lên là tôi nắm lấy cánh tay anh.

- Lại đây, - tôi nói một cách cương quyết - tới chỗ bàn thờ này hay tới một bức tranh đối với anh là thiêng liêng này, anh sẽ thề những lời mà tôi đọc cho anh.

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi gần như khiếp sợ nhưng anh ta hiểu ra ngay và anh đến gần một cái khám xây trong đó có một pho tượng, làm dấu và ngoan ngoãn quỳ gối.

- Hãy nhắc lại theo tôi – tôi nói mà chính mình cũng hồi hộ run lên - nhắc lại theo tôi “Tôi xin thề (anh ta nhắc lại “tôi xin thề” và tôi nói tiếp) “từ nay tôi sẽ không bao giờ chơi cờ bạc nữa, bất kể môn bài gì và tôi cũng không bao giờ liều cuộc sống và danh dự của mình trước nguy cơ của nỗi đam mê đó”.

Anh ta run run nhắc lại những lời ấy; âm thanh của tiếng nói vang lên một cách mạnh mẽ và rành mạch trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối này. Rồi có một lúc im lặng, đến nỗi có thể nghe thấy tiếng lá cây rì rào khi gió thoảng qua. Bỗng anh ta quỳ gối như một kẻ ăn năn sám hối và anh nói bằng tiếng Ba Lan, với một vẻ ngây ngất tôi chưa từng thấy ở anh, những lời vội vã, nối tiếp nhau, mà tôi không hiểu gì. Nhưng chắc đây là một lời nguyện mến Chúa, một lời nguyện tạ ơn, ăn năn vì cuộc xưng tội giông bão này làm anh cứ khúm núm gục mãi xuống nhắc lại mỗi lúc một say sưa, mỗi lúc một sôi nổi, vẫn một câu nói đó cứ được thốt ra với một lòng nhiệt thành vô hạn. Từ trước đến nay cũng như từ đó về sau, tôi chưa bao giờ được nghe ai cầu nguyện như vậy, ở bất cứ nhà thờ nào trên trái đất này. Bàn tay anh nắm cứng lấy chiếc ghế quỳ bằng gỗ, một cơn bão lòng làm toàn thân anh rung lên, có lúc làm anh đứng phắt dậy, có lúc đẩy anh quỳ sụp xuống. Anh ta không nhìn thấy, không cảm thấy gì hết; hình như tất cả những gì ở trong anh đang diễn ra tại một thế giới khác, tại nơi luyện ngục, cho tinh khiết, hoặc trong một nỗi hăm hở hướng về một thiên cầu trong sáng hơn.

Sau cùng anh từ từ đứng dậy, làm dấu một lần nữa và quay lại một cách khó nhoc, đầu gối anh rung lên, mặt anh tái nhợt như một người kiệt sức. Nhưng khi trông thấy tôi, mắt anh sáng lên, một nụ cười trong sạch, thật sự thành kính làm bộ mặt anh đang cúi xuống rạng rỡ lên, anh lại gần tôi, cúi rất thấp, theo kiểu Sla-vơ, và nắm lấy hai bàn tay tôi, kính cẩn đặt nhẹ môi lên đó.

- Chúa đã phái bà đến với tôi. Tôi vừa tạ ơn Người.

Tôi không biết nói gì. Nhưng tôi cầu mong từ trên chiếc bục nhỏ, tiếng đàn ông bỗng vang lên vì tôi cảm thấy đã thành công hoàn toàn: con người này đã được vĩnh viễn cứu sống.

Chúng tôi ra khỏi nhà thờ để trở lại với ánh sáng chói chang và sáng lạn của tháng năm này; chưa bao giờ tôi thấy thế giới lại đẹp như hôm nay. Chúng tôi còn đi xe trong hai giờ nữa, chầm chậm, lên tận đỉnh núi, theo con đường dài ngoạn cảnh, mỗi đoạn ngoặt lại phơi bày một phong cảnh mới. Nhưng chúng tôi không nói gì nữa. Sau khi tìnhcảm đã được khích lệ như vậy, lời lẽ nào cũng yếu ớt, vô ích. Và khi mắt tôi vô tình gặp mắt anh, tôi phải quay đi, ngượng ngùng; được nhìn thấy phép màu của mình làm cho tôi quá xúc động.

Khoảng năm giờ chiều, chúng tôi trở về Môngtơ Cáclô. Lúc đó, tôi hẹn gặp những người họ hàng thân thuộc không thể bỏ lỡ được. Thật tình, tôi cũng muôns có một lúc tạm nghỉ, một sự hưu dưỡng sau khi tình cảm bị kích thích mạnh mẽ. Vì đó là quá nhiều hạnh phúc. Tôi cảm thấy cần phải có một sự khuây khỏa cho tình trạng ngất ngây sôi nổi phi thưòng như tôi chưa từng biết trong cuộc đời mình. Vì vậy, tôi yêu cầu người đang chịu ơn tôi tới khách sạn nơi tôi ở, chỉ một lát thôi. Và tại đấy, trong phòng của tôi, tôi đưa cho anh ta số bạc cần thiết để đi đường và để chuộc lại món đồ trang sức. Chúng tôi đồng ý với nhau là trong khi tôi đến chỗ hẹn của tôi, anh ta sẽ đi lấy vé xe lửa rồi buổi tối, hồi bảy giờ, chúng tôi sẽ gặp nhau tại sân ga, nữa giờ trước trước giờ khởi hành của
chuyến tàu sẽ đi qua Giên (Một thành phố lớn ở miền bắc nước Ý) rồi đưa anh về nhà. Khi tôi đưa ra cho anh năm tờ giấy bạc, môi anh ta tái nhợt một cách lạ kỳ:

- Không… không đưa tiền… Tôi xin bà… Không đưa tiền! – Anh ta nói qua hai hàm răng mím lại, còn những ngón tay run rẩy của anh rụt lại vẻ hoảng hốt, lập cập.

- Không đưa tiền… Không đưa tiền. Tôi không thể trông thấy tiền được – anh nhắc lại một lần nữa, như bị sợ hãi và ghê tởm và hoảng hốt. Nhưng tôi đã xoa dịu sự lo ngại của anh, nói rằng đây chỉ là tiền cho mượn và nếu anh thấy bứt rứt, anh chỉ cần làm giấy biên nhận cho tôi.

- Phải… Phải… một giấy biên nhận – Anh ta quay mặt đi, lẩm bẩm nói; anh vò nhàu những tờ giấy bạc như một vật gì nhầy nhụa, làm bẩn những ngón tay anh rồi bỏ tiền vào túi mà không thèm nhìn và anh viết vài chữ, bàng những nét vội vã trên một tờ giấy. Khi anh ngước mắt lên, trán anh lấm tấm mồ hôi: có cái gì đang đấu tranh mãnh liệt ở trong anh để toát ra ngoài cơ thể; anh vừa đưa vội cho tôi mảnh giấy thì toàn thân anh run lên mạn mẽ, đột nhiên anh quỳ xuống hôn gấu áo tôi (làm tôi hoảng hốt lùi lại). Cử chỉ không sao kể lại được: sự sôi nổi chưa từng thấy trong anh ta làm tôi run lên. Một cơn rùng mình kỳ lạ chạy suốt cơ thể tôi, tôi thấy bối rối và chỉ ấp úng nói được:

- Tôi cảm ơn anh đã tỏ ra biết ơn đến như vậy, nhưng xin anh hãy đi ngay
đi. Tối nay, bảy giờ, tại sân ga, chúng ta sẽ tạm biệt nhau.

Anh ta nhìn tôi, một ánh dịu dàng làm ướt mắt anh; tôi tưởng như anh muốn nói điều gì trong giây lát, anh có vẻ muốn lại gần tôi. Nhưng sau đó, anh chỉ cúi gập người một lần nữa, thật thấp, rất thấp và anh rời khỏi phòng.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Bà C… lại ngưng kể một lần nữa. Bà đứng dậy đi ra cửa sổ, bà nhìn ra ngoài và đứng thật lâu, không nhúc nhích. Trông từ phía sau, tôi thấy lưng bà như hơi rung lên nhè nhẹ. Bỗng nhiên bà quay lại, vẻ quả quyết, bàn tay bà, cho đến lúc này bình thản và lạnh lùng, bỗng phác một cử động mạnh mẽ, một cử động gay gắt như muốn xé một vật gì. Rồi bà nhìn tôi, vẻ gay gắt, gần như táo bạo và nói tiếp ngay:

- Tôi đã hứa với ông là sẽ hoàn toàn thành thật. Và tôi nhận thấy lời hứa đó cần thiết đến chừng nào vì bây giờ đây, trong khi cố gắng thuật lại, lần đầu tiên, mạch lạc, tất cả những gì đã xảy ra trong giờ phút ấy và tìm những lời lẽ chính xác để thể hiện một tình cảm lúc ấy còn bí ẩn và mơ hồ, đến nay, tôi mới hiểu rõ những điều mà tôi không biết hoặc không muốn biết, nên tôi muốn nói với nghị lực và quyết tâm, sự thật do bản thân tôi và cho ông; thế là vào lúc đó, khi người con trai rời khỏi phòng và chỉ còn lại mình tôi, tôi có cảm giác (như một cơn ngất xỉu mạnh đã ập đến với tôi) như tim tôi đã bị vật rắn đập mạnh. Một cái gì đó làm tôi đau đến chết, và tôi không biết (hoặc tôi từ chối không chịu biết) tại sao thái độ dịu dàng kính nể như vậy của người chịu ơn tôi lại làm tôi đau đớn như vậy.

Nhưng giờ đây, khi tôi cố làm cho quá khứ hiện lên tự đáy lòng mình, có thứ tự và có nghị lực, và việc ông có mặt tại đây không dung thứ một sự che giấu, một sự trốn tránh hèn nhát nào của nỗi hổ thẹn; giờ đây tôi mới hiểu rỏ ràng điều làm tôi đau đớn lúc đó là sự thất vọng… sự thất vọng thấy… chàng trai đó đã bỏ đi quá ngoan ngoãn… không có một cố gắng nào đễ giữ lấy tôi, để ở lại gần tôi… thấy anh ta phục tùng một cách khiêm tốn và kính cẩn, tuân theo yêu cầu của tôi mời anh đi, thay vì… thay vì thử kéo mạn tôi sát gần anh… thấy rằng anh ta tôn sùng tôi chỉ như một vị thánh xuất hiện trên đường của mình… và anh ta.. anh ta không cảm thấy rằng tôi là một người đàn bà.

Đối với tôi, đó là một thất vọng… một thất vọng mà tôi không tự thú nhận với mình ngay lúc bấy giờ cũng như sau này, nhưng tâm trạng của người đàn bà cảm thấy điều đó không cần lời lẽ, không cần ý thức rõ rệt. Bởi vì… bây giờ, tôi không tự huyễn hoặc mình nữa… Nếu lúc đó, người đàn ông ấy ôm lấy tôi, nếu anh ta yêu cầu tôi đi theo anh, tôi sẽ đi với anh tới cùng trời cuối đất, tôi sẽ làm nhục tên tuổi của tôi và của các con tôi. Tôi sẽ bỏ ngoài tai những lời thuyết phục của mọi người và của lý trí trong tôi, tôi sẽ trốn đi với anh ta, như cái bà Hăngriét đã bỏ trốn theo chàng trai người Pháp mà mới hôm trước bà ta còn chưa quen… Tôi sẽ không hỏi là đi đâu, đi bao nhiêu lâu, tôi sẽ không đoái nhìn lấy một lần, về phía sau, về cuộc đời đã qua của tôi… tôi sẽ hy sinh cho người
đàn ông này tiền bạc, tên tuổi, tài sản, danh dự của tôi… Tôi có thể đi ăn xin và chắc chắn không có điều gì hèn hạ ở trên đời này mà tôi không dám chấp nhận; vì anh, tôi có thể vứt bỏ tất cả những gì mà người ta gọi là liêm sỉ và giữ gìn; nếu anh ta chỉ tiến thêm một bước về phía tôi và nói một lời, nếu anh ta tìm cách chiếm lấy tôi, trong giây phút ấy, tối sẽ sa ngã và tôi sẽ ràng buộc mãi với anh ta.

Nhưng tôi đã nói với ông rồi…con người lạ lùng này không nhìn thấy tôi lấy một lần, nhìn vào người đàn bà ở trong tôi… Còn tôi thì nóng lòng muốn tự buông thả mình biết chừng nào, tự buông thả mình hoàn toàn; tôi cảm thấy điều đó khi chỉ còn lại với chính mình, khi nỗi đam mê mới giây lát qua; còn kích thích bộ mặt rạng rỡ, giống như thiên thần của anh ta, đã truyền sang tôi và nó thổn thức trong cảnh trống vắng của tôi một cõi lòng bị ruồng bỏ. Tôi đứng lên một cách khó nhọc, cuộc hẹn hò càng làm tôi khó chịu thêm. Hình như trên đầu tôi là một cái mũ sắt nặng và chật, sức nặng của nó làm tôi loạng choạng, ý nghĩ của tôi cũng rời rạc và lảo đảo như bước chân tôi, khi tôi gặp bà con họ hàng của tôi tại một khách sạn khác.

Ở đó, tôi ngồi yên, ủ rũ, trong lúc mọi người chuyện trò sôi nổi, tôi thấy sợ hãi mỗi lần vô tình, ngước mắt lên, tôi bắt gặp những bộ mặt thẫn thờ, giá lạnh hoặc như mang mặt nạ (tôi so sánh những bộ mặt đó với bộ mặt của chàng trai, hình như được bóng tối và ánh sáng của một đám mây làm linh hoạt hẳn lên). Tôi cảm thấy như mình đang ở giữa một đám người đã chết, cuộc họp thiếu sinh khí vô cùng; khi tôi bỏ đường vào tachs cả tôi và nói vài câu, tâm trí tôi để tận đâu đâu, và ở trong tôi luôn luôn xuất hiên, như do máu huyết sục sôi đẩy lên cái khuôn mặt mà việc ngắm nó, đã mang lại cho tôi niềm vui mãnh liệt và tôi sẽ hỉ còn được nhìn thấy một lần cuối, trong một hay hai giờ nữa (ý nghĩ này thật khủng khiếp). Có lẽ vô tình, tôi đã thở dài hay rên rỉ vì chị họ chồng tôi bỗng cúi xuống hỏi tôi làm sao, có phải tôi khó ở không, vì trông tôi tái ngắt, vẻ tư lự. Câu hỏi bất ngờ này đã được tôi chộp lấy, coi đó là cơ hội để nói ngay rằng, quả thật tôi bị nhức đầu, vì vậy tôi xin phép được lặng lẽ cáo lui.

Được tự do, toi vội quay ngay về khách sạn. Vừa tới phòng, và chỉ còn một mình, tôi cảm thấy trống rỗng, bị bỏ rơi và ý muốn được gần chàng trai, từ nay tôi phải xa lìa mãi mãi, lại xiết chặt lấy tôi, cuồng nhiệt. Tôi đi lại trong phòng, vô cớ mở các hộc tủ, tôi thay quần áo, ru-băng và đứng trước gương, tôi tự hỏi mình, với con mắt dò xét xem trang điểm như vậy, tôi có thể làm anh ta phải chú ý đến tôi không. Đột nhiên tôi hiểu mình muốn gì: tôi phải làm gì để không phải xa anh ta nữa! Và trong một giây mãnh liệt, ý muốn đó trở thành quyết tâm.

Tôi chạy tìm người gác của khách sạn, báo cho người đó biết là tôi sẽ đi ngay hôm nay bằng chuyến tàu tối. Và bây giờ, cần phải làm gấp: tôi kéo chuông gọi chị hầu phòng để chị ấy giúp tôi sửa soạn hành lý, vì thời gian cấp bách; trong khi chúng tôi cùng vội vã lèn quần áo và đồ dùng hằng ngày của tôi
vào rương, tôi mường tượng trước sự bất ngờ này sẽ diễn ra sao: tôi sẽ theo anh ta ra tàu như thế nào và tới phút cuối cùng, phút chót khi anh ta đưa tay ra cho tôi chào vĩnh biệt lần cuối, tôi bỗng theo chàng trai còn ngạc nhiên này lên tàu ra sao, để ở bên anh ta đêm nay, đêm mai, đến bao giờ tùy ở anh.

Một nỗi mê say sung sướng và hoan hỉ cuồn cuộn trong tôi, thỉnh thoảng tôi phá lên cười, ném quần áo vào rương, làm chị hầu phòng vô cùng ngạc nhiên, tôi thấy là tinh thần tôi không được ổn định; khi người chở đồ đưa hành lý đi, thoạt tiên tôi nhìn người đó với vẻ ngạc nhiên, tôi khó mà nghĩ đến những việc thiết thực khi sự hưng phấn tràn trề trong tâm hồn tôi.

Thời gian hối thúc, có thể đã hơn bảy giờ, chỉ còn chừng hai mươi phút là đến giờ tàu chạy. Tôi tự an ủi mình và nghĩ rằng đây không phải là một cuộc chia tay hay vĩnh biệt vì tôi đã quyết định sẽ theo anh trong chuyến đi chừng nào anh còn cho phép tôi theo. Người chở đồ đem hành lý của tôi đi, tôi vội đến văn phòng khách sạn để thanh toán tiền. Người quản lý đã trả lại tiền lẻ cho tôi và tôi sẵn sàng ra đi, thì một bàn tay vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi giật mình. Đó là bà chị họ chồng tôi, bà đến thăm tôi vì lo ngại về cơn đau giả bộ của tôi. Mắt tôi tối sầm lại. Tôi không biết làm gì với bà ta nữa, mỗi giây trì hoãn là một sự chậm trễ tai hại, nhưng phép lịch sự buộc tôi phải nghe bà nói và trả lời bà, ít nhất trong một thời gian.

- Cô phải đi nằm đi, - bà ta nói khẩn khoản, - rõ ràng là cô bị cảm rồi.

Rất có thể là như vậy, vì tôi thấy thái dương của tôi đập cực kỳ mạnh, đôi lúc thoáng qua mắt tôi những bóng mờ báo trước cơn ngất xỉu. Nhưng tôi phản đối, tôi có làm ra vẻ biết ơn, trong lúc mỗi lời nói lại làm tôi như bị lửa đốt, tôi muốn đá phăng sự chăm sóc không thích hợp này. Nhưng con người vô duyên cứ ở lại, ở lại hoài, ở lại mãi. Bà ta đưa dầu Côlônhơ cho tôi xức, còn muốn tự tay xoa lên thái dương tôi, trong khi tôi đếm từng phút, trong đầu, tôi chỉ thấy hình ảnh chàng trai và tôi đang nghĩ một cớ nào đó để thoát khỏi sự chăm sóc đau khổ này. Càng bồn chồn, tôi lại càng tỏ ra khỉ nghi với bà ta, cuối cùng, với vẻ cứng rắn, bà ta định buộc tôi phải trở về phòng và nằm nghỉ.

Thế là trong lúc đang bị khuyên giục như vậy, tôi chợt nhìn đồng hồ ở giữa phòng lớn: đã bảy giờ hai mươi tám phút mà tàu chạy lúc bảy giờ ba mươi lăm. Bỗng nhiên, bằng một cử chỉ mạnh, với sự lạnh lùng tàn nhẫn của một kẻ tuyệt vọng, tôi chìa tay ra cho bà chị họ và không một lời giải thích, tôi nói:

- Xin từ biệt, em phải đi đây.

Rồi không buồn để ý đến cái nhìn sửng sốt của bà, cũng không quay lại, tôi vội vã rảo bước ra đường, trước con mắt ngạc nhiên của những người làm, rồi tôi chạy ra phố, về phía nhà ga.

Trông thấy người chở đồ chờ ở đó với hành lý đang giơ tay thúc giục, từ xa, tôi hiểu là đã đến giờ rồi. Lòng giận dữ một cách mù quáng, tôi lao tới cửa sắt ra sân ga, nhưng người nhân viên ở đó đã ngăn tôi lại. Tôi đã quên mua vé. Trong
khi tôi làm dữ cố buộc bằng được người đó phải để cho tôi ra tận đường sắt, tàu bắt đầu chuyển bánh; tôi nhìn đăm đăm, chân tay run rẩy, cố tìm ít nhất một cái nhìn từ cửa sổ toa tàu, ít nhất một cử chỉ từ biệt, một cái chào. Nhưng do tàu chạy nhanh tôi không còn có thể trông thấy mặt anh ta được nữa. Những toa tàu lăn mỗi lúc một nhanh và sau một phút, chỉ còn lại trước đôi mắt đã mờ đi của tôi, một đám mây đen u ám khói.

Không biết tôi đứng sững ở đó bao nhiêu lâu, vì người mang đồ cho tôi ngỏ lời với tôi nhiều lần vẫn vô ích, mãi sau người đó mới dám chạm vào cánh tay tôi. Cử chỉ sau cùng làm tôi giật mình kinh sợ. Anh ta hỏi tôi có phải đem hành lý trở lại khách sạn không. Phải mất vài phút, tôi mới trấn tĩnh trở lại, không thể làm như vậy được, sau cuộc ra đi lố bịch, quá vội vã đó, tôi không thể quay trở lại đó (ý tôi cũng muốn như vậy) bao giờ được nữa. cho nên, sốt ruôt muốn được ở một mình, tôi ra lệnh cho anh ta đưa hành lý của tôi tới phòng gửi đồ.

Sau đó, giữa cảnh hỗn độn, xáo trộn của đám người ầm ĩ chen chúc nhau tại phòng lớn ở ga, cứ thưa dần, tôi cố suy nghĩ, suy nghĩ một cách tỉnh táo, tìm cách thoát khỏi nỗi ám ảnh đau đớn, ê chề của sự giận dữ, luyến tiếc và tuyệt vọng, bởi vì (sao lại không tự thú nhận?) ý nghĩ đã bỏ lỡ cuộc gặp gỡ cực kỳ quan trọng này, do tôi gây ra, để làm tôi não lòng một cách cay cực, gay gắt và tàn nhẫn. Tôi muốn thét lên vì lưỡi dao thép được nung đỏ ấy, thọc sâu vào trong tôi không lúc nào nguôi, làm tôi đau đớn không sao chịu nổi.

Có lẽ chỉ những người hoàn toàn xa lạ với sự mê say mới biết đến, trong những giai đoạn thật đặc biệt, sự bùng nổ đột ngột như núi lở, như giông bão của nỗi mê say đó; thế là những sức lực được chứa chấp hàng năm trời đã ập xuống, cuồn cuộn trong vực sâu thăm thẳm của trái tim con người. Trước kia, chưa bao giờ tôi cảm thấy ngạc nhiên và nôn nóng, bất lực như ở giây phút này; lúc mà, sẵn sàng hành động điên cuồng (sẵn sàng vứt ngay xuống vực thẳmchỉ một lần thôi những tiếng tăm của cuộc đời ổn định, những nghị lực được chứa chấp và dồn nén cho tới lúc đó), tôi bỗng thấy ở trước mắt mình, một bức tường ngu độn mà nỗi mê say của tôi vấp phải một cách vô ích.

Những gì tôi làm sau đó cũng ngu ngốc như vậy; đó là một sự điên rồ, một điều dại dột, tôi gần như hổ thẹn mà kể lại như vậy, (nhưng tôi đã hứa với tôi và với ông là không giấu ông điều gì) tôi.. đã tìm gặp lại anh ta, có nghĩa là tôi cố gợi lại từng thời gian tôi đã trải qua với anh ta… Tôi bị lôi cuốn tới những nơi mà, mới hôm qua, chúng tôi đã ở cùng nhau, tới chiếc ghế dài ở công viên mà tôi đã lôi kéo anh ta, tới phòng đánh bạc mà tôi đã thấy anh ta lần đầu tien, và tới cả cái khách sạn rẻ tiền, chỉ để sống lại với quá khứ, một lần, một lần nữa thôi. Và ngày mai, tôi muốn dùng xe ngựa đi dọc con đường ven núi để cho từng lời nói, từng cử chỉ được sống lại trong tôi, một lần nữa. Tâm trí hỗn loạn của tôi thật điên rồ, thơ dại biết chừng nào! Nhưng ông hãy nghĩ rằng các ự việc đó đã ập xuống tôi như sét đánh: tôi không cảm thấy gì ngoài đòn đột ngột, đòn duy nhất đã làm tôi ngất đi. Giờ đây, thoát khỏi nơi hỗn loạn đó một cách phũ
phàng, tôi muốn sống lại một lần nữa để được cảm thụ những cảm xúc thoáng qua đó, cho đúng tới từng chi tiết nhỏ, bằng cách lùi về quá khứ, nhờ sự tự lừa dối mình một cách tuyệt diệu mà ta gọi là hồi ức… Sự thật ấy là những điều mà người ta chỉ có hiểu hay không mà thôi. Có lẽ phải có một trái tim nóng bỏng mới lý giải được những điều ấy.

Như vậy là thoạt tiên tôi đến phòng đánh bạc để tìm cái bàn anh ta đã ngồi, để thấy lại, bằng tưởng tượng, bàn tay anh ta giữa những bàn tay khác. Tôi bước vào phòng: tôi nhớ rõ, cái bàn mà tôi thấy anh ta lần đầu tiên, là bàn bên trái, ở phòng thứ hai. Từng cử chỉ của anh đều ở trong trí óc tôi, rõ ràng; dù nhắm mắt, đưa thẳng tay ra phía trước, như người mộng du, tôi cũng tìm được chỗ anh ta đứng. Thế là tôi bước vào và đi ngang qua phòng. Và kìa… sau khi đi qua cửa, mắt tôi nhìn về phía đám đông ồn ào, kìa… một điều gì khác lạ đã xảy ra… Kìa, đúng ở chỗ mà tôi nghĩ tới, ở đấy anh ta đang ngồi (ảo giác do cơn sốt mà có chăng!) đúng là anh, chính anh… Anh… nhưng hệt như tôi vừa thấy anh trong mơ… y hệt như anh ta mới ngày hôm qua, mắt chăm chú nhìn hòn bi, nhợt nhạt như bóng ma… nhưng anh ta… anh ta đấy… không sao chối cãi được.

Tôi muốn thét lên, vì nỗi kinh hoàng của tôi lớn quá. Nhưng tôi nén được sự
kinh hãi trước hình ảnh vô lý này và tôi nhắm mắt lại.

- Mình điên rồi… mình mê hoảng… mình bị sốt, - tôi tự nhủ, - nhất định không thể thế này được, mình có ảo tưởng rồi… anh ấy đã đi xe lửa, cách đây nửa giờ rồi.

Và tôi lại mở mắt ra. Nhưng thật là hãi hùng, y hệt như trước, anh ta ngồi đó, bằng xương, bằng thịt, không sao chối cãi lại được. Tôi nhận ra những bàn tay này, trong hàng triệu bàn tay khác… Không, tôi không mơ, đúng là anh ta. Anh ta không đi như anh ta đã hứa với tôi. Con người điên rồ này đã ở lại, anh ta đã đêm tới đây, trên tấm thảm xanh, số tiền tôi đã cho anh để trở về nhà, và quên cả mình, trong cơn mê say, anh ta đã đến đánh bạc tại bàn này, trong khi tim tôi tan nát, tuyệt vọng cố tìm anh.

Tôi giật mình, xô tới. Cơn phẫn nộ trào lên mắt, một cơn phẫn nộ điên dại làm tôi không sao chịu nổi, tôi sôi lên muốn tóm cổ con người bội ước này đã hèn hạ lừa dối lòng tin, tình cảm, sự tận tuỵ của tôi. Nhưng tôi còn tự kiềm chế được. Tôi tiến tới bàn anh, ngay trước mặt anh, thật từ từ, có tính toán (phải mất không biết bao nhiêu nghị lực, tôi mới làm được như vậy); một ông khách đánh bạc lễ phép nhường chỗ cho tôi. Hai mét thảm xanh ngăn cách chúng tôi và tôi có thể, như trên ban-công nhà hát, quan sát thoải mái bộ mặt anh, vẫn bộ mặt mà hai giờ trước đây, tôi còn thấy rạng rỡ lòng biết ơn, sáng lên trong ánh hào quang của ơn trời, còn bây giờ thì đã lại trở thành con mồi run rẩy của ngọn lửa tàn khốc của sự đam mê. Đôi bàn tay, những bàn tay mà mới trưa nay tôi còn thấy ghì chặt lấy chiếc ghế quỳ để thốt lên lời thề thiêng liêng nhất, thì giờ đây như nhưng con dơi mê say hút máu nó lại nắm chặt, co quắp số bạc ở quanh nó. Vì anh đang được, anh ta phải được một số tiền lớn, rất lớn: trước mặt anh, là
một mớ hỗn độn những đồng giơ-tông, những đồng lu-i vàng, giấy bạc, một đống lộn xôn những thứ khác nữa quăng ra đấy để những ngón tay tất bật, run rẩy của anh ngập vào trong đó, một cách khoái lạc. Tôi thấy những ngón tay đó cầm lên rồi gấp lại, vuốt ve những tờ giấy bạc một cách âu yếm rồi đột nhiên, sau đấy, vơ một nắm, ném chúng một cách âu yếm rồi đột nhiên, sau đấy, vơ một nắm, ném chúng vào một ô vuông. Ngay lập tức, những cánh mũi lại phập phồng từng đợt một, tiếng rao của người hồ-lỳ, làm mắt anh sáng rực vẻ tham lam, rời khỏi đống bạc để theo dõi sự chuyển động cuồng nhiệt của hòn bi, và tôi tưởng như tâm hồn anh trào ra ngoài, khuỷu tay anh như bị đóng đinh vào tấm thảm xanh. Trạng thái con người hoàn toàn bị cờ bạc làm điên cuồng đắm đuối đối với tôi còn ghê tởm hơn, đáng sợ hơn ngày hôm qua, vì mỗi cử chỉ của anh đã giết chết trong tôi hình ảnh sáng lạng, trên nền vàng mà tôi vẫn nhẹ dạ ôm ấp trong mình.

Chúng tôi cứ ngồi như vậy, cách nhau có hai mét. Tôi chăm chú nhìn anh ta, anh cũng không để ý thấy tôi. Anh không nhìn tôi hay bất cứ ai, mắt anh chỉ liếc trên đống tiền và nó do dự lo lắng nhìn theo hai hòn bi đang lăn: cái vòng tròn màu xanh điên loạn ấy đã độc chiếm mọi cảm xúc của anh ta, đang cứ hỗn hển theo dõi ván chơi. Với anh ta, toàn thế giới, cả nhân loại hòa nhập vào ô vuông có trải dạ này. Và tôi biết rằng, tôi có thể ngồi ròng rã hàng giờ ở đây, anh ta vẫn không ngờ là có tôi.

Nhưng tôi không thể kéo dài hơn nữa; tôi quyết định thật nhanh và tôi đi một vòng quanh bàn, tôi đến sau lưng anh, tay tôi nắm chặt lấy vai anh, cái nhìn của anh chao đi trong một giây, anh nhìn thẳng vào tôi, tròng mắt đục mờ như nhìn người xa lạ, y hệt người say bị lôi ra khỏi cơn mê ngủ, mắt còn bị hơi men tối tăm và u ám làm mù quáng. Rồi anh ta cũng nhận ra tôi; miệng anh run rẩy mở ra; anh ta nhìn tôi với vẻ sung sướng, lẩm bẩm nói khẽ một cách thân mật vừa mê mẩn vừa bí ẩn:

- Đang tốt lắm… Tôi cảm thấy ngay điều đó khi tôi vừa tới, khi thấy ông ta
đã ở đây rồi… Tôi thấy ngay mà…

Tôi không hiểu anh ta định nói gì, tôi chỉ để ý thấy ván bạc làm anh say sưa, làm con người điên rồ này quên cả lời thề thốt, nơi hẹn hò, vũ trụ và tôi. Nhưng ngay trong trạng thái bị ma ám này, ánh mắt ngây ngất của anh ta nhìn tôi, vẫn dễ thương đến nỗi tôi miễn cưỡng phải chú ý lời anh nói và chăm chú hỏi anh ta định nói ai:

- Nói cái ông tướng già người Nga chỉ còn một cánh tay kia, - anh ta thì thầm, ghé sát vào tôi để không ai nghe được điều bí mật kỳ diệu ấy, - người mặc áo có vạch trắng bên sườn, có người hầu đứng sau lưng đó. Tối hôm qua, tôi đã để ý, ông ta chỉ có được. Chắc ông ta có cách đánh và tôi chỉ hơi theo ông… Hôm qua, ông ta chỉ có được, có điều hôm qua, tôi đã sai lầm, là cứ tiếp tục chơi khi ông ấy đi rồi: đó là lỗi của tôi… Hôm qua, ông ta có lẽ được tới hai
chục ngàn phrăng và hôm nay cũng vậy, lần nào đánh, ông cũng được… bây giờ
tôi chỉ đặt tiền theo ông… bây giờ…

Nói được nửa chừng, anh ta bỗng ngưng lời vì người hồ-lỳ đã xướng to:
“Đặt tiền đi!” – Chàng trai quay nhìn sang bên một cách khó nhọc, chú ý tới ông già người Nga ngồi, nghiêm trang và bình thản, râu bạc trắng - đang thận trọng đặt một đồng tiền vàng, rồi sau một lát do dự, lại đặt một đồng thứ hai vào ô thứ tư. Lập tức hai bàn tay nóng hổi ở trước tôi, nhào vào đống tiền và ném một mớ tiền vàng cũng vào chỗ đó. Và một phút sau, khi người hồ-lỳ kêu to: “Số không”, còn bàn cào của người đó quét cả bàn bạc bằng một động tác tròn trịa, chàng trai nhìn sửng sốt cả đống tiền biến đi như có phép màu. Ông nghĩ rằng có lẽ anh ta sẽ quay lại nhìn tôi chăng; không, anh ta đã quên hẳn tôi; tôi đã biến mất không còn nữa, đã bị xóa nhòa khỏi cuộc sống của anh; tất cả các giác quan căng thẳng của anh đều tập trung vào vị tướng người Nga ông này hoàn toàn lạnh lùng, cầm trong tay hai đồng tiền vàng mới, hãy còn do dự không biết nên đặt vào số nào.

Tôi không thể tả lại với ông nỗi cay đắng, sự tuyệt vọng của tôi. Nhưng ông cũng có thể tưởng tượng được điều tôi cảm thấy đối với người mình đã hiến cả cuộc đời mà lại coi không bằng con muỗi, bị một bàn tay uể oải, xua đuổi với vẻ thờ ơ. Một lần nữa, cơn thịnh nộ điên rồ lại trào lên trong tôi. Tôi bóp mạnh cánh tay anh ta, làm anh phải đứng phắt dậy:

- Anh phải ra khỏi đây! - Tôi nói thầm, thật nhỏ, nhưng với giọng ra lệnh. – Anh hãy nhớ lời anh thề tại nhà thờ, anh là kẻ bội ước đáng khinh.

Anh ta nhìn tôi, mặt tái nhợt, động lòng vì những lời của tôi. Mắt anh bỗng có vẻ như mắt chó bị đòn, môi anh run lên. Anh như sực nhớ lại quá khứ và có vẻ ghê tởm với chính mình…

- Vâng… vâng… - anh nói lắp bắp. - Trời … trời đất ơi!... tôi xin đi đây, xin tha lỗi cho tôi.

Và tay anh, đã gom cả đống tiền, thoạt đầu mau lẹ với những cử chỉ khoáng đạt và dứt khoát, sau uể oải dần như rõ ràng có một lực tương phản níu lại. Anh lại nhìn viên tướng Nga đúng lúc ông ta đặt tiền.

- Một chút nữa thôi… - anh nói và ném năm đồng tiền vàng vào cùng một ô vuông. - Chỉ một ván này nữa thôi… Tôi xin thề với bà là sau đây, tôi sẽ đi… chỉ một ván này nữa thôi… chỉ một…

Rồi giọng nói của anh ta tắt dần. Hòn bi lại bắt đầu lăn, lôi anh theo vòng quay của nó. Một lần nữa con người bị ma ám này lại tuột khỏi tay tôi, anh đã thoát ra khỏi bản thân anh ta, bị cuốn theo viên bi tròn nhỏ xíu cứ nhảy tưng tưng trong cái lòng chảo nhẵn lì.

Người hồ-lỳ xướng số lên, cái bàn cào chộp lấy năm đồng tiền vàng ở trước mặt anh, anh đã thua. Nhưng anh không quay lại. Anh đã quên tôi, lẫn lời thề,
cùng lời anh vừa hứa với tôi chừng mười phút trước. Bàn tay thèm khát của anh lại co quắp thọc vào đống bạc đã vơi dần và cái nhìn say mê của anh hoàn toàn bị chi phối bởi người đối diện - mang phước đến cho anh, đã hấp dẫn ý chí của anh một cách huyền bí.

Tôi không thể kiên nhẫn được thêm. Tôi lay anh một lần nữa, mạnh hơn trước:
- Đứng dậy ngay đi! Ngay lập tức… anh đã nói đây là ván cuối cùng mà… Thế là điều bất ngờ đã xảy ra. Anh ta quay phắt lại; bộ mặt đang nhìn vào tôi
không phải là của một người khiêm nhường và e thẹn mà là của một kẻ điên dại, một kẻ đang lên cơn nóng giận, mắt long lên, môi run run, dữ tợn.

- Để yên cho tôi nhờ! - Anh ta nóng nảy thét lên. - Hãy cút đi! Bà chỉ đem vận xui đến cho tôi. Bao giờ cũng vậy, cứ có bà là tôi thua! Hôm qua đã thế, lại hôm nay nữa! Bà xéo đi!

Tôi choáng người một lát. Nhưng sau đó, trước cơn điên của anh ta, nổi giận của tôi nổi lên đùng đùng.

- Tôi đem vận xui đến cho anh hả? - Tôi la mắng anh. - Đồ nói dối, đồ ăn cắp, anh đã thề với tôi rồi mà!...

Nhưng tôi đã ngừng nói ở đó, vì anh chàng rồ dại đã nhảy chồm lên, đẩy lùi tôi lại, không cần để ý tiếng ồn ào đang lớn dần.

- Để yên cho tao nhờ! - Hắn lớn tiếng thét lên không giữ ý chút nào nữa. - Mày không phải là quản lý tiền nong của tao. Đây… đây… đây… tiền của mày đây! - Và hắn ném cho tôi vài tờ giấy bạc một trăm phrăng… - Còn bây giờ, hãy để cho tao được yên thân.

Hắn la hét, y như một người điên, không để ý gì đến sự có mặt của hàng trăm con người xung quanh. Tất cả nhìn, xì xào, nói bóng gió đủ điều, cười cợt và từ phòng bên, nhiều người tò mò cũng kéo tới. Tôi tưởng như mình bị lột hết quần áo và đang đứng trần truồng trước những kẻ hết sức tò mò này.

- Xin bà yên lặng cho, thưa bà! - Người hồ-lỳ vừa hách dịch nói lớn vừa gõ bàn cào xuống bàn. Những lời của tên khốn kiếp đó là nói với tôi. Bị mất thể diện, bị sỉ nhục, tôi cứ đứng đấy trân trân trước sự tò mò râm ran, rì rào như một con điếm vừa mới được người ta cho tiền. Hai, ba trăm con mắt xấc xược cứ ở đó nhìn thẳng vào mặt tôi. Và… trong khi tránh né, cúi gập người lại trước sự sỉ nhục và hổ thẹn nhơ nhớp, tôi nhìn sang bên, thì kìa, trước mắt tôi, tôi đã trông thấy đôi mắt gần như lơ láo vì kinh ngạc. Đó là bà chị họ tôi đang ngơ ngác nhìn tôi, miệng há hốc, tay giơ lên, như sợ hãi khủng khiếp. Tôi như bị đòn roi quất mạnh; trước khi bà ta làm được gì, bình tĩnh lại được, tôi đã lao ra khỏi phòng, tôi còn đủ sức để đến thẳng chiếc ghế dài, nơi hôm qua con người bị quỷ ám này đã gục tại đấy và tôi cũng yếu đuối, mệt lả và rã rời như hắn, tôi buông mình nằm xuống tấm gỗ cứng đờ và khắc nghiệt.

Giờ đây, hai mươi bốn năm trời đã trôi qua, nhưng nghĩ đến lúc tôi đứng ở đó, bị lăng nhục bởi những lời sỉ vả của hắn, dưới con mắt của hàng ngàn người lạ, máu tôi như bị đóng băng lại trong huyết quản. Và tôi lại khiếp sợ nghĩ rằng cái mà chúng ta gọi một cách hoa mỹ là linh hồn, tinh thần, tình cảm, đau khổ, đều là chất mềm yếu, khốn nạn và nhu nhược vì tất cả những cái đó, ngay trong phút bộc phát đến cao độ cũng đủ sức đập tan cái thân thể đang đau đớn, cái thể xác bị dày vò - vì, dù sao, máu vẫn tiếp tục chảy và người ta vẫn còn sống được sau những giờ phút ấy, thay vì phải chết, phải gục xuống như cái cây bị sét đánh.

Đau khổ chỉ làm chân tay tôi rã rời trong một thời gian, thời gian chịu đựng đòn đó, tôi rơi xuống chiếc ghế dài, không thở được nữa, hết hơi sức, và có thể nói tôi như tiền vị đê mê của cái chết không sao tránh được. Nhưng như tôi vừa nói, mọi đau khổ đều hèn nhát, nó lùi bước trước sức mạnh của ý chí muốn sống, vốn được cột chặt vào xác thịt của chúng ta, mạnh hơn nỗi ham muốn được chết bị ràng buộc trong tâm trí chúng ta.

Điều không sao giải thích được đối với bản thân tôi la sau khi tình cảm bị nghiền nát như vậy, dù sao tôi cũng trỗi dậy được, tuy rằng không biết để làm gì. Tôi chợt nhớ là hành lý của tôi còn để ở ga, từ lúc đó, tôi chỉ còn một ý nghĩ: là đi, đi khỏi nơi đây, chỉ cần đi xa tòa nhà đáng nguyền rủa này, tòa nhà độc địa này. Tôi chạy ra ga mà không để ý tới ai hết; tôi hỏi giờ chuyến tàu đầu tiên đi Pari, nhân viên nhà ga nói: mười giờ, và tôi đã đăng ký ngay hành lý của tôi.

Tôi qua đêm trên tàu, tôi tới Pari, từ đó tôi chuyển từ ga này, qua ga khác, và tôi đến thẳng Bulônhơ(Một cảng của Pháp, bên bờ Đại Tây Dương, có thể từ đó sang Anh) rồi từ Bulônhơ đến Đuvrơ (Một cảng của Anh, đối diện với Bulônhơ của Pháp), từ Đuvrơ đến Lơnđơn (Thủ đô nước Anh) và từ Lơnđơn về nhà con trai tôi, tất cả với tốc độ một cuộc bay không nghĩ ngơi, không suy tưởng đến gì, trong bốn mươi tám giờ không ngủ, không nói, không ăn: bốn mươi tám tiếng trong lúc đó những bánh xe chỉ kèn kẹt nhắc đi nhắc lại: đi! đi! đi!

Sau cùng, khi tôi bước vào viên trang của con trai tôi, không ai chờ đón tôi hết, tất cả mọi người đều kinh hãi: hình như trong con người, trong đôi mắt tôi, có cái gì đang phản lại tôi. Con trai tôi bước tới để hôn tôi, tôi giật mình lùi lại - ý nghĩ để nó đụng vào đôi môi mà tôi cho là ô uế, làm tôi không sao chịu nổi. Tôi gạt mọi câu hỏi, tôi chỉ đòi được đi tắm, vì đối với tôi đó là một nhu cầu cần thiết để tẩy sạch thân xác tôi (không kể tới bụi bặm của chuyến đi) cho hết những gì còn bám dính tới nỗi đam mê của tên điên khùng, của con người tồi tệ đó. Rồi tôi lê bước về phòng, và tôi ngủ suốt mười hai hay hai mươi bốn giờ, một giấc ngủ của thú vật, nặng như chì, như trước đó hay sau này, chưa bao giờ, tôi ngủ như vậy, một giấc ngủ đã làm cho tôi hiểu thế nào là nằm trong quan tài và chết. Những người thân của tôi lo cho tôi như lo cho người bệnh. Những sự âu yếm của họ chỉ làm tôi đau đớn thêm, tôi thấy nhục nhã, tôi thấy xấu hổ đối với sự kính trọng, sự ân cần của họ, tôi phải luôn tự kiểm soát mình để khỏi
bỗng nhiên kêu lên là tôi đã lừa gạt, quên lãng, gần như bỏ rơi tất cả mọi người do một cơn đam mê điên dại và vô nghĩa.

Sau đó, tôi ngẫu hứng đến một thành phố nhỏ ở Pháp. Ở đây tôi không quen biết ai, vì tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ: tất cả mọi người cứ thoáng trông vẻ ngoài của tôi, ngay từ cái liếc mắt đầu tiên, là đã thấy ngay nỗi tủi nhục và sự thay đổi của tôi, do chỗ tôi cảm thấy bị phản bội, bị bôi nhọ tới tận nơi sâu kín nhất của tâm hồn. Đôi lúc khi thức dậy, buối sáng, ở trên giường, tôi sợ mở mắt đến kinh hãi. Kỷ niệm về cái đêm mà chợt tỉnh giấc, tôi thấy mình bên cạnh một người lạ, một người đàn ông ở trần, bỗng nhiên ám ảnh tôi và thế là, như lần đầu tiên, tôi chỉ mong muốn có một điều: được chết ngay tức khắc.

Dù sao thời gian cũng có một uy lực rất lớn và tuổi tác đã làm lắng dịu một cách kỳ lạ tất cả mọi tình cảm. Người ta cảm thấy gần với cái chết hơn, bóng của nó làm đường đi tối lại, mọi việc có vẻ không còn tươi sáng nữa, chúng không tác động bao nhiêu đến những nơi thầm kín của con người như trước kia và cũng mất đi nhiều uy lực hiểm nghèo. Dần dà, tôi cũng hồi phục lại khỏi cơn choáng đã thử thách tôi, và nhiều năm sau, có lần, trong một buổi họp mặt, tôi gặp một người tùy viên phái đoàn Áo, một người Ba Lan trẻ, và khi tôi hỏi về gia đình con người đã cùng nằm một giường với tôi trong một đêm, anh ta trả lời rằng một nhân viên phái đoàn, lại chính là anh em họ với anh ta, đã tự tử mười năm trước đây tại Môngtơ Cáclô, tôi cũng không chau mày. Điều đó không làm tôi đau đớn chút nào: có lẽ đó còn là điều tốt với tôi (chối cãi tính ích kỷ của mình làm gì) bởi vì như vậy nguy cơ có thể gặp lại người ấy một lần nữa đã tan biến: bằng chứng chống lại tôi chỉ còn là ký ức của bản thân tôi. Từ đó, tôi trở nên thanh thản hơn. Nói cho cùng thì già đi chẳng qua chỉ là không còn sợ quá khứ của mình nữa.

Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hăngriét và ông say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đá đè nặng lên tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ.

Đối với tôi, được kể lại cho ông nghe chuyện này, thật là hạnh phúc. Bây giờ, tôi thấy nhẹ nhõm, gần như vui vẻ… Tôi xin cảm ơn ông.

Nghe tới đó, thấy bà đã nói xong, tôi đứng ngay dậy. Vẻ hơi lúng túng, tôi muốn nói một điều gì, nhưng có lẽ bà tôi đã biết ý tôi, bà cắt ngang:

- Không, tôi xin ông, ông đừng nói gì… Tôi không muốn ông trả lời tôi hay nói điều gì… Xin cảm ơn ông đã nghe tôi nói và chúc ông lên đường bình an.

Bà đứng trước mặt tôi và bà chìa tay từ biệt tôi. Không chủ tâm, tôi nhìn mặt bà và thật là một điều cảm động khác thường khi thấy bà già này đứng trước tôi, nhã nhặn đồng thời lại hơi bối rối. Có phải đấy là sự phản ánh nỗi đam mê đã nguội lạnh rồi chăng? Có phải đó là vẻ thẹn thùng cứ tăng dần, bỗng nhiên cứ làm má bà cứ ửng hồng mãi đến tận chân tóc bạc trắng không? Chỉ biết rằng bà vẫn ở đó, như một thiếu nữ nết na bị ký ức làm xáo động và hổ thẹn với chính lời thú tội của mình. Tự nhiên, tôi thấy cảm động và muốn được bày tỏ sự kính trọng của tôi bằng một lời nói. Nhưng tôi cứ nghẹn lại. Tôi chỉ có thể cúi thấp xuống, kính cẩn hôn bàn tay héo hắt của bà cứ run lên nhè nhẹ như là mùa thu.

Hết!
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Tác Giả: Stefan Zweig
Người Dịch: : Dương Tường

Bứ Thư Của Người Đàn Bà Không Quen


R… nhà viết tiểu thuyết thời thượng, trở về Viên từ sáng sớm, sau ba ngày đi chơi núi. Ông ta mua một tờ báo ở nhà ga; ông ta chợt nhìn thấy ngày tháng ghi trên báo và bèn nhớ ra rằng hôm nay là sinh nhật mình. Bốn mươi mốt tuổi, ông nghĩ thầm, và ông thấy không vui mà cũng chẳng buồn. Ông giở liên tục những trang báo sột soạt rồi thuê tắc-xi về nhà.

Người hầu, sau khi thưa lại rằng trong khi ông vắng nhà, có hai vị khách đến thăm và mấy người gọi dây nói, mang thư từ giấy má trình ông trên một cái khay. Nhà văn uể oải nhìn những bức thư và bóc mấy cái phong bì mang tên những người ông quan tâm. Mới đầu ông gạt sang bên một bức thư có vẻ quá dầy và nét chữ lạ đối với ông. Trà dọn ra, ông chễm chệ tỳ tay ngồi trong ghế bành, lướt qua tờ báo một lần nữa cùng vài tài liệu in; cuối cùng ông châm một điếu thuốc lá và cầm lấy bức thư đã gạt sang bên.

Tất cả vào khoảng trên hai mươi trang giấy, viết vội vàng bằng nét chữ xao xuyến của đàn bà, một bản thảo thì đúng hơn là một bức thư. Bất giác ông nắn thử phong bì một lần nữa xem có sót chiếc phiếu gửi nào trong đó không. Nhưng phong bì rỗng không và cũng như những tờ thư, nó không có địa chỉ người gửi hoặc chữ ký nào hết. Thật kỳ lạ, ông ta nghĩ bụng, và lại cầm những tờ giấy lên. Như một tiêu đề, trên đầu trang một, có dòng chữ sau đây: “Gửi anh, người chưa hề bao giờ quen em”. Ông ta dừng lại kinh ngạc. Có phải thư viết cho ông không nhỉ? Hay là cho một người tưởng tượng nào đó? Trí tò mò bừng dậy và ông bắt đầu đọc.


“Con em chết hôm qua; ba ngày ba đêm ròng rã em đã vật lộn với cái chết để cứu lấy cuộc sống bé bỏng non tơ ấy, suốt bốn mươi tiếng liền, em cứ ngồi ở đầu giường nó, trong khi cơn ốm làm cái thân hình tội nghiệp sốt hầm hập của nó run bắn lên. Em rấp lên trán nó bỏng giãy, cả ngày đêm, em nắm lấy đôi bàn tay nhỏ xíu run rẩy của nó. Đến tối hôm thứ ba thì em kiệt sức. Mắt em không cưỡng nổi, cứ díp lại lúc nào không biết. Thành thử em ngủ thiếp đi trên ghế ba, bốn tiếng đồng hồ và trong thời gian đó, thần chết đã cướp con em đi mất. Bây giờ, nó nằm đây, thằng bé tội nghiệp thân yêu, trong cái giường con nít chật hẹp, y nguyên như lúc nó chết; có điều là người ta đã vuốt mắt cho nó, đôi mắt đen sẫm tối và thông minh của nó; người ta đã đặt hai tay nó chắp lên trên chiếc áo sơ mi trắng bốn ngọn bạch lạp đang cháy le lói ở bốn gốc giường.

“Em không dám nhìn, em không dám đụng đậy bởi vì hễ ánh sáng lúng liến đi thì những vệt bóng lại lướt trên mặt nó và em tưởng như nét mặt nó hoạt động và em có thể ngờ rằng nó không chết, rằng nó sắp sửa thức dậy, cất cái giọng trong trẻo nói với em lời âu yếm trẻ thơ. Nhưng em biết, nó chết rồi, và em không muốn nhìn để khỏi tiếp tục nuôi hy vọng và để khỏi thất vọng một lần nữa. Em biết, em biết lắm, con em đã chết hôm qua; bây giờ em chỉ còn có mình anh trên đời, chỉ còn mình anh mà anh thì không biết gì về em và có lẽ giờ đây đang vui chơi không hay biết gì hết, hoặc đang tiêu khiển với mọi người, mọi vật. Em chỉ có mình anh, anh, người chưa từng bao giờ biết đến em, người mà em yêu suốt cả cuộc đời.

“Em lấy cây nến thứ năm và em đặt nó lên bàn nơi em ngồi viết cho anh. Bởi vì em không thể ngồi một mình với đứa con chết mà không kêu lên bằng tất cả tâm hồn, và, vào cái giờ khủng khiếp này, em còn biết nói với ai, nếu không phải là anh, người đã từng là tất thảy đối với em và hiện vẫn là tất thảy đối với em?

“Em không hiểu em nói thế có rõ không, có thể anh không hiểu em chăng? Đầu em nặng trịch; hai thái dương em đập dồn và ong ong; chân tay em ê ẩm. Em cho là em bị sốt; và có lẽ bị cúm cũng nên, bệnh cúm hiện đang lảng vảng từ cửa nhà này sang cửa nhà nọ, và nếu thế thì càng hay, vì em sẽ đi với con em và không bắt buộc phải cố gắng tự chủ nữa. Luôn luôn có một tấm màn sẫm tối lướt qua trước mắt em, có lẽ em sẽ không đủ sức để viết hết bức thư này đâu; nhưng em muốn thu thập hết sức lực của mình lại để nói chuyện với anh một lần, chỉ một lần này thôi, anh vô vàn thương yêu, người chưa từng bao giờ biết đến em.

“Em chỉ muốn nói với riêng mình anh thôi; chính anh là người mà lần đầu tiên em sẽ tâm sự hết mọi chuyện; anh sẽ biết hết cuộc đời em, cái cuộc đời xưa nay vẫn là của anh mà anh chẳng hay biết một tí gì cả. Nhưng điều bí mật của em, anh sẽ chỉ biết khi nào em chết rồi, khi nào anh sẽ không còn phải trả lời em, khi nào mà cái đang làm cho chân tay em vừa lạnh giá vừa nóng hừng hực, sẽ dứt khoát mang em đi vĩnh viễn. Nếu em sống sót, em sẽ xé bức thư này đi và em sẽ tiếp tục im lặng như xưa nay em vẫn im lặng. Nhưng nếu thư này đến tay anh, thì anh sẽ biết rằng đó là một người đàn bà đã chết kể chuyện đời mình với anh, cái cuộc đời vốn là của anh từ giờ đầu tiên cho đến giờ chót còn tỉnh táo của cô ta. Anh đừng có sợ những lời em nói: một người đàn bà đã chết không còn đòi hỏi gì nữa hết; cô ta không đòi hỏi tình yêu, không đòi hỏi thương hại, cũng không đòi hỏi an ủi. Điều duy nhất em xin anh, là anh hãy quên tất cả những gì mà nỗi đau em đang tìm phương ẩn náu nơi anh, sắp bộc lộ ra đây. Hãy tin tất cả những lời em nói, đó là lời cầu xin duy nhất đối với anh; người ta không nói dối vào cái giờ đứa con độc nhất của mình chết.

“Em muốn bộc bạch với anh về cả cuộc đời của em, cái cuộc đời chỉ thực sự bắt đầu từ ngày em biết anh. Trước đó, nó chỉ là cái gì mập mờ và hỗn độn mà ký ức của em không bao giờ quay trở lại; nó giống như một cái hầm tối trong đó bụi và mạng nhện phủ đầy lên những đồ vật và những con người đường nét mờ ảo không còn để lại chút gì trong trái tim em nữa. Khi biết anh, em mới mười ba tuổi và ở cùng ngôi nhà hiện anh đang ở, ngôi nhà trong đó anh đang cầm trên tay lá thư này, chút hơi thở cuối cùng của đời em; em ở cùng một tầng gác, ngay trước cửa phòng anh đó. Chắc chắn anh chẳng còn nhớ gì về gia đình em nữa, về người vợ góa tội nghiệp của một công chức Sở tài chính (bao giờ bà cũng mặc đồ tang) và đứa con gái gầy gò thân hình chưa phát triển là em hồi bấy giờ; mẹ con em sống ru rú trong cái xoàng xĩnh của loại người nghèo hèn. Có lẽ anh chẳng bao giờ biết họ tên mẹ con em bởi vì trên cửa nhà em không hề có bản đề tên, chẳng có ai đến chơi nhà em, chẳng có ai đến hỏi mẹ con em. Thuở đó, xa xăm lắm, mười lăm mười sáu năm rồi. Chắc chắn anh chẳng còn nhớ nữa, anh yêu thương của em, nhưng em thì chao ôi! Em nhớ anh đến mê cuồng từng chi tiết nhỏ nhất; em vẫn còn như đinh ninh, như mới hôm qua, cái ngày thậm chí cả giờ phút mà em được nghe anh nói lần đầu, được trông thấy anh lần đầu và làm sao có thể khác được hở anh bởi vì đó chính là lúc mà cả vũ trụ mở ra đối với em? Anh yêu, cho phép em kể lại với anh tất cả, phải, tất cả từ đầu đến cuối; em van anh, hãy rũ lòng đừng mệt mỏi vì phải nghe kể về em trong mười lăm phút đồng hồ, em, người đã suốt một đời yêu anh không biết mệt mỏi.

Trước khi anh đến ngôi nhà này, đằng sau cánh cửa phòng anh là những con người độc ác, đáng ghét và hay cãi lộn. Vốn nghèo khổ, điều họ ghét nhất là những người hàng xóm bần hàn, là chính mẹ con em đây, bởi lẽ mẹ con em không muốn có gì giống với sự thô tục kiểu người nghèo vô tư cách của họ. Người chồng là một người nghiện rượu hay đánh vợ; mẹ con em đang đêm cứ thức giấc luôn vì tiếng ghế quăng mạnh trên sàn, tiếng đĩa bị đập vỡ loảng xoảng; có lần, người vợ bị đánh máu me đầm đìa, đầu tóc rũ rượi, chạy xuống cầu thang; gã say cứ hò hét đằng sau cho đến khi hàng xóm phải dọa đi gọi cảnh sát mới thôi. Thoạt đầu, mẹ em tránh mọi quan hệ với họ và cấm em không được chuyện trò với con cái họ, bọn này tìm cơ hội để trả thù em. Khi gặp em ngoài phố, chúng đi theo văng ra những lời tục tĩu và một hôm, chúng lấy những nắm tuyết to tướng đánh em chảy máu trán. Cả nhà theo bản năng, đều ghét bọn người đó và cho đến một hôm có chuyện không hay xảy đến với họ - hình như người chồng bị bỏ tù vì tội ăn cắp - và họ phải cuốn gói thì chúng em đều thở phào. Trong một vài ngày, tấm biển yết cho thuê được treo trước cửa nhà rồi được cất đi và chẳng mấy chốc bác gác cửa cho biết là một nhà văn, một quý ông điềm đạm và có một mình, đã thuê căn phòng đó. Chính đó là lúc em được nghe nhắc đến tên anh lần đầu.

“Được mấy ngày sau, thợ sơn, thợ vữa, thợ trang trí, phủ tường, kéo đến tu sửa căn phòng vừa thoát khỏi đám chủ cũ bẩn thỉu; chỉ toàn thấy tiếng búa, tiếng dụng cụ, tiếng cọ rửa; nhưng mẹ em chẳng hề lấy thế làm phiền vì mẹ em bảo thế là cuối cùng, những cảnh vợ chồng cãi lộn om xòm đã chấm dứt hẳn. Bản thân anh thì trong suốt thời gian dọn nhà, em chẳng hề thấy đâu: mọi công việc do người hầu của anh trông nom, cái bác người hầu thấp bé rất nền nã, nghiêm nghị, tóc hoa râm, đường hoàng bảo ban mọi sự với phong thái đĩnh đạc và tự tin. Bác ta gây ấn tượng rất mạnh đối với tất cả bọn em, trước hết bởi vì trong cái ngôi nhà ngoại ô này của chúng em, một người hầu đường bệ mang hơi hướng xã hội thượng lưu, quả là một cái gì hoàn toàn mới mẻ. Thứ nữa, bởi vì bác ta hết sức lễ độ với mọi người mà vẫn không cá mè một lứa với đám đầy tớ. Ngay từ hôm đầu, bác đã kính cẩn chào mẹ em như một phu nhân và ngay cả đối với em lúc đó chỉ là một con bé con, bao giờ bác cũng tỏ ra hoà nhã và rất lịch sự. Khi bác nhắc đến tên anh, bao giờ cũng là với một vẻ hơi cung kính, một sự trân trọng đặc biệt: Người ta thấy ngay rằng bác ta gắn bó với anh hơi nhiều so với quan hệ chủ, tớ thông thường. Ôi! Vì điểm đó mà em yêu bác biết bao, bác Jăng đôn hậu, mặc dầu em vẫn ghen với bác luôn luôn được ở bên anh, hầu hạ anh!

“Em kể cho anh tất cả những cái đó, anh thương yêu, tất cả những điều vặt vãnh đó, gần như là kỳ cục, để anh làm sao ngay từ đầu anh đã có một uy lực đến thế đối với con bé rụt rè là em bấy giờ, ngay cả trước khi anh bước vào cuộc đời em, xung quanh anh như toả ra một vòng hào quang, một vòng hào quang phú quý, dị thường và huyền bí; tất cả mọi người trong ngôi nhà ngoại ô này
(những người sống một cuộc sống chật hẹp bao giờ cũng tò mò muốn biết mọi cái mới mẻ qua trước cửa nhà họ) đều nóng lòng nóng ruột chờ anh tới. Và sự tò mò anh đánh thức dậy trong em mới tăng lên biết nhường nào, khi một buổi chiều đi học về, nhìn thấy trước cửa nhà cỗ xe chở đồ đạc! Phần lớn những bàn ghế giường tủ, những thứ nặng nề nhất đã được khuân vào phòng và lúc bấy giờ người ta đang chuyển những thứ nhẹ hơn. Em cứ đứng ngây ở bậc cửa để ngắm nghía được hết mọi thứ vì tất cả đồ đạc của anh đối với em đều lạ lẫm quá, em chưa từng thấy gì tương tự như thế bao giờ; nào hình thánh Ấn Độ, nào tượng Ý Đại Lợi, nào những bức tranh lớn lộng lẫy, rồi cuối cùng cơ man là sách, nhiều quá, đẹp quá đến mức em không sao tưởng tượng nổi cái gì giống như vậy được. Người ta chất đống tất cả lên bậc cửa và bác hầu phòng lần lượt cầm lấy từng quyển một, thận trọng phủi bụi bằng một cái phất trần. Em tò mò lượn quanh chồng sách cứ cao dần lên; bác hầu phòng không xua em, nhưng cũng không khuyến khích em, thành thử em không dám sờ đến quyển nào cả, mặc dù em rất muốn vuốt ve những tấm bìa da mềm mại của nhiều cuốn trong số đó. Em chỉ nghiêng nghé nhìn được tên sách, một cách sợ sệt; trong đống ấy có những sách tiếng Anh, tiếng Pháp và những thứ tiếng em không biết. Em có thể đứng ngắm hàng giờ nhưng mẹ em gọi về.

“Cả buổi tối em bắt buộc phải nghĩ đến anh, tuy nhiên em chưa hề trông thấy anh. Em chỉ có mươi mười lăm cuốn sách rẻ tiền đóng bìa các-tông đã mòn xơ mà em quý hơn mọi thứ và đọc đi đọc lại không ngừng; từ lúc đó trở đi, một ý nghĩ ám ảnh em là làm sao biết được con người có trong tay và đọc hàng ngàn cuốn sách đẹp như thế, con người biết tất cả các thứ tiếng ấy, con người vừa giàu có vừa uyên bác ấy. Đối với em, một sự kính trọng siêu phàm gắn liền với cái ý nghĩ về vô vàn cuốn sách đó. Em tưởng tượng anh là một người có tuổi, đeo kính, râu dài bạc trắng, giống như giáo sư địa lý của chúng em, có điều là đáng yêu hơn, đẹp và hiền dịu hơn; em không hiểu tại sao ngay bấy giờ em đã tin chắc là thế, nhưng nhất định anh phải đẹp, cho dù em có tưởng tượng anh là một ông già chăng nữa. Đêm hôm ấy, chưa biết anh mà em đã mơ đến anh lần đầu.

“Ngày hôm sau, anh đến ở hẳn căn phòng, nhưng mặc dù cố công rình ngóng, em vẫn không trông thấy anh; nỗi tò mò của em lại tăng gấp bội. Cuối cùng, ngày thứ ba, em thấy anh và nỗi ngạc nhiên của em mới sâu sắc biết bao khi nhận thấy anh hoàn toàn khác với tưởng tượng của em, không có gì giống với hình ảnh Đức Chúa Cha mà em đã hình dung ra một cách trẻ con! Em đã mơ đến một ông già đôn hậu đeo kính, vậy mà anh lại thế này, vẫn hệt như anh bây giờ; anh, con người bất biến mà năm tháng cứ trượt đi không sao phạm tới được! Anh mặc một bộ quần áo thể thao đẹp mê hồn, màu nâu nhạt, và anh chạy thoăn thoắt lên cầu thang, nhanh nhẹn như trẻ con, bao giờ cũng nhảy hai bậc một. Anh cầm mũ trong tay và như thế, với một nỗi kinh ngạc khôn xiết tả, em ngắm bộ mặt đầy sức sống, ngời ngời của anh với mái tóc thanh xuân; quả thực em giật thót người vì kinh ngạc khi thấy anh trẻ biết bao, đẹp biết bao, mềm mại, thon thả và tao nhã biết bao. Mà cái đó chẳng có gì là lạ: ngay từ giây phút đầu tiên, em đã cảm thấy rất rõ ràng điều mà mọi người cũng cảm thấy như em khi thấy dáng anh, điều mà người ta hơi ngỡ ngàng cảm thấy theo một cách duy nhất: ở anh, có hai con người, một chàng trai trẻ nồng nhiệt, vui tươi, lao hết mình vào vui chơi và phiêu lưu, và đồng thời, trong nghệ thuật, lại là một tính cách nghiêm túc triệt để, trung thành với phận sự: học rộng và tinh tế vô cùng. Em linh cảm thấy cái mà mọi người đoán ra trước khi biết anh: là anh sống một cuộc sống lưỡng diện, một cuộc sống mà mặt sáng quay thẳng về phía thế gian trong khi mặt kia chìm trong bóng tối, chỉ có riêng mình anh biết mà thôi. Cái tính chất lưỡng diện sâu sắc ấy, điều bí mật của cuộc đời anh, con bé mười ba tuổi là em lúc bấy giờ, bị anh thu mất hồn, đã cảm thấy ngay cái nhìn đầu tiên.

“Anh yêu của em, thế là anh đã biết hồi ấy anh là điều kỳ diệu như thế nào, một bí ẩn hấp dẫn thế nào đối với em - phải , đối với em, một con bé con. Một con người được kính trọng vì biết sách, vì nổi tiếng rộng rãi trong thế gian - thế mà đột nhiên hiển hiện ra trong dáng nét của một chàng trai trẻ hai mươi lăm tuổi tao nhã và vui tươi như một chú bé! Em còn phải nói thêm với anh rằng từ hôm đó trở đi, trong ngôi nhà của chúng mình, trong cái thế giới trẻ con của em, không còn có gì làm em quan tâm nữa ngoài anh ra, rằng, với tất cả cái bướng bỉnh và cái dai dẳng thường xuyên ám ảnh của một con bé mười ba tuổi, em chỉ còn có một điều lo toan quý nhất: xoay quanh cuộc sống và cuộc đời anh! Em quan sát anh, em quan sát những thói quen của anh, em quan sát những người đến nhà anh, và tất cả những cái đó đáng lẽ làm giảm bớt nỗi tò mò anh đã khơi lên trong em thì lại chỉ càng làm cho nó tăng thêm, bởi vì tính chất lưỡng diện của con người anh hoàn toàn biểu hiện trong đa dạng những cuộc thăm viếng đó. Có những thanh niên, bạn anh, anh cùng họ cười nói rất hoạt bát, những sinh viên ăn vận giản dị, rồi lại có những bà đi xe hơi tới, thậm chí một lần có cả ông giám đốc Nhà hát ca kịch - nhà nhạc trưởng lớn mà em thường trông thấy từ đằng xa, ở giá nhạc của ông ta, mà chỉ nhì, em cũng thấy lòng tràn đầy kính phục - rồi lại có cả những cô bé còn đi học trường thương mại, luýnh quýnh lướt qua cửa phòng: tóm lại, rất nhiều phụ nữ. Đối với em cái đó không có ý nghĩa gì đặc biệt, thậm chí một buổi sáng, khi đi học, em thấy một bà đeo mạng kín mít ra khỏi phòng anh cũng thế thôi: lúc bấy giờ em mới mười ba tuổi đầu và chưa hiểu rằng nỗi tò mò say sưa trong việc rình ngóng anh đã là tình yêu rồi, vì em còn bé quá.

“Nhưng anh yêu của em, cho đến hôm nay em vẫn còn nhớ đích xác cái ngày, giờ em hoàn toàn và vĩnh viễn gắn bó với anh. Bữa ấy em vừa đi chơi với một con bạn cùng trường về và chúng em đang đứng nói chuyện với nhau trước cửa nhà. Một chiếc xe hơi phóng hết tốc lực đến, xe dừng lại và với dáng vẻ nôn nóng, như nhún nhảy đến bây giờ vẫn làm em mê say rạo rực, anh nhảy từ bậc cửa xuống và đi về phía cửa nhà. Không biết một sức mạnh vô thức nào đã xui khiến em chạy đến mở cửa cho anh, em giao bước anh và chúng mình gần như va phải nhau. Anh nhìn em bằng cái nhìn ấm áp, dịu dàng và bao bọc như một niềm âu yếm; anh mỉm cười với em bằng một nụ cười không thể gọi là gì khác ngoài chữ êm ái và anh nói với em bằng một giọng nói thanh thanh, gần như thân mật: “Rất cảm ơn cô”.

“Chỉ có chừng ấy thôi, anh rất yêu thương. Nhưng từ giây phút ấy trở đi, từ khi em cảm thấy cái nhìn dịu dàng và êm ái ấy, em đã hoàn toàn thuộc về anh. Về sau em hiểu ra - hẳn là em cũng sớm hiểu ra điều đó thôi - rằng cái nhìn rạng rỡ ấy, cái nhìn như tạo một luồng nam châm quanh anh đó, cái nhìn vừa như bao bọc lại vừa như lột trần người ta ra, cái nhìn của kẻ quyến rũ bẩm sinh ấy, anh đem phân phát một cách hào phóng cho mọi phụ nữ đi qua gần anh, cho mọi cô làm công ở cửa hàng tạp hóa bán cho anh một vật gì, cho mọi cô hầu gái mở cửa cho anh: em đã hiểu ra rằng ở anh cái nhìn đó không có chút gì là ý thức cả, trong đó không có ý chí mà cũng chẳng có quyến luyến, nhưng sự âu yếm của anh đối với nữ giới đã hoàn toàn vô hình chung đem lại cho cái nhìn của anh một vẻ dịu dàng, ấm áp mỗi khi hướng mắt về phía họ. Nhưng em - một con bé mười ba tuổi - em không hay biết tí gì về nét cá tính đó của anh: em như bị chìm vào một con sông lửa. Em ngỡ là niềm âu yếm đó chỉ dành cho em, cho riêng một mình em thôi, cái giây phút độc nhất ấy cũng đủ biến con bé chưa mãn khai là em lúc đó thành một người đàn bà và người đàn bà ấy đã vĩnh viễn là của anh.

“- Ai đấy?” Con bạn em hỏi. Em không trả lời nó ngay được. Em không thể nói tên anh ra. Từ cái giây phút đầu tiên, cái giây phút duy nhất ấy, tên anh đã trở thành điều bí mật của em.


“- Chậc! Một ông cùng ở trong nhà này”, sau đó em ấp úng trả lời một cách vụng về. “- Vậy sao cậu lại đỏ rừ mặt lên khi ông ta nhìn cậu thế?”. Con bạn em trêu với tất cả cái ranh ma của một đứa bé tò mò. Và chính vì em cảm thấy sự chọc ghẹo của nó nhằm vào điều bí mật của mình, máu em lại càng dồn lên mặt, nóng bừng bừng. Ngượng quá hóa thô tục, em hét rầm lên một cách man rợ:
“Đồ gà mái tây ranh con!” em những muốn bóp cho nó chết ngạt. Nhưng nó lại càng cười già với một vẻ giễu cợt hơn; em tức ứa nước mắt mà không làm gì được. Em bỏ mặc nó đứng đấy và chạy lên nhà mình.

“Chính từ giây phút đó, em đã yêu anh. Em biết rằng các bà, các cô vẫn thường nói với anh chữ đó, anh, chú bé cưng của họ. Nhưng hãy tin em, chưa ai từng yêu anh mãnh liệt - như một con nô lệ, như một con chó - và tận tâm bằng cái con người lúc đó là em và đến bây giờ, đối với anh, em vẫn nguyên vẹn như thế. Trên đời này, không có cái gì so được với mảnh tình không ai thấy được của một con bé thu mình lại trong bóng tối; tình yêu đó rất đỗi vô tư, nhẫn nhục, phục tòng, chăm chút và say mê đến đỗi không bao giờ cái tình yêu bằng dục vọng và dù sao cũng nhiều đòi hỏi, của người đàn bà đến độ mãn khai, có thể sánh kịp. Chỉ có những đứa trẻ cô đơn mới có thể giữ gìn cho mình tất cả niềm say mê: những đứa khác phân tán tình cảm vào những câu chuyện phiếm và làm nó mòn đi trong những cuộc tâm sự; chúng nghe nói nhiều về tình yêu, thấy điều đó trong sách vở và biết rằng đó là một quy luật chung. Chúng chơi đùa với tình yêu như với cái xủng xoẻng; chúng lấy thế làm hãnh diện như một chú bé hãnh diện với điếu thuốc lá đầu tiên. Nhưng em thì chả có ai mà tâm sự, em chả có ai bảo ban, dạy dỗ dè chừng, em chưa từng trải và ngu dốt; em lao đầu vào số mạng mình như lao xuống một vực thẳm.

“Tất cả những gì trào lên và nở rộ trong em chỉ còn biết có anh, chỉ còn mơ đến anh và lấy anh làm người tâm sự. Ba em mất đã lâu; mẹ em thì xa lạ đối với em, mẹ lúc nào cũng rầu rĩ, trĩu xuống với những lo âu của người quả phụ chỉ có số tiền tuất để sinh sống, bọn con gái ở trường, đã gần như sa đọa, làm em ghê tởm, vì chúng nó thường nhởn nhơ đùa giỡn với cái là niềm say mê tối thượng đối với em. Cho nên tất cả những gì ở chỗ khác xé lẻ ra, phân chia ra, thì ở nơi em chỉ họp thành một khối, và cả con người em, kết đọng lại trong bản thân nó, luôn luôn sôi sục một nỗi cuồng nhiệt xao xuyến, hướng về anh. Đối với em, anh là - em biết nói thế nào đây? Mọi sự so sánh đều quá yếu - anh là… chính thế… là tất cả đối với em, là cả cuộc đời em. Không còn có cái gì tồn tại đối với em nếu nó không dính líu đến anh; không có gì trong cuộc sống của em còn có ý nghĩa nếu nó không đưa em xích lại gần anh. Anh đã làm thay đổi đến gốc rễ cách sống của em. Từ trước đến giờ, vốn hững hờ và thuộc loại học xoàng ở trường, em bỗng trở thành học sinh đứng đầu lớp; em đọc hàng trăm cuốn sách, đọc rất khuya, bởi vì em biết anh yêu thích sách; đùng một cái, em bắt đầu lao vào tập piano với một sự kiên trì hầu như không tưởng tượng nổi khiến mẹ em rất ngạc nhiên chỉ vì em nghĩ là anh yêu âm nhạc. Em vá víu lại quần áo, em chăm chút bộ cánh chỉ cốt để có vẻ sạch sẽ và ưa nhìn trước mắt anh; và cứ nghĩ
đến chiếc áo “blu” đi trường (đó là một cái áo mặc trong nhà của mẹ em chữa lại) có một miếng vá vuông vuông ở bên trái, em lại thấy thật bỉ ổi. Nhỡ ra tình cờ anh nhìn thấy mụn vá ấy, anh khinh em thì sao! Chính vì thế mà bao giờ em cũng khư khư ôm chặt lấy cặp sách khi chạy lên cầu thang gác, run lên vì sợ. Nỗi sợ ấy thật vô nghĩa lý vì chẳng bao giờ, gần như chẳng bao giờ anh còn nhìn đến em nữa!

“Và mặc dầu vậy, nói tình thật, suốt ngày, em chỉ chờ anh, rình ngóng anh. Ở cửa phòng nhà em có một lỗ cửa nhỏ bằng đồng màu vàng, có thể ghé mắt qua cái ô kính tròn tròn của nó nhìn thấy mọi sự diễn ra trên sàn cầu thang, cho đến tận cửa phòng anh. Cái ô cửa đó - không, anh yêu của em, anh đừng cười; đến tận hôm nay em vẫn chẳng thấy xấu hổ gì về những giờ đó cả! - Cái ô cửa ấy đối với em chính là con mắt em dùng để khám phá vũ trụ: nơi đó, ròng rã hàng tháng, hàng năm trời, trong căn phòng chờ lạnh giá, lúc nào em cũng sợ mẹ em sinh nghi, em ngồi rình suốt chiều này chiều khác, một cuốn sách trên tay, căng thẳng như một sợi dây vĩ cầm và cũng ngân rung như một sợi dây vĩ cầm khi được sự hiện của anh chạm đến. Luôn luôn em bận bịu vì anh, luôn luôn chờ đợi và ngồi đứng không yên; nhưng nào anh có biết, cũng như anh chẳng hề biết đến cái lò căng thẳng của chiếc đồng hồ anh mang trong túi, trong bóng tối nó kiên nhẫn đo, đếm những giờ khắc của anh và điểm theo bước chân anh bằng một nhịp tim đập thầm thì trong khi con mắt nhìn vội vã của anh chỉ lơ đãng lướt qua nó có một lần duy nhất trong số hàng triệu tích tắc thao thức hoài không ngơi. Em biết mọi thứ về anh, em thuộc từng thói quen của anh; từng chiếc ca-vát của anh, từng bộ quần áo của anh, em biết và mau chóng phân biệt được mỗi người khách đến thăm anh và em chia họ ra làm hai loại: những người em có thiện cảm và những người em có ác cảm; từ năm mười ba đến năm mười sáu tuổi, không có một giờ nào em không sống trong anh. Ôi! Hồi đó còn có cái trò rồ dại nào mà em không làm nữa! Em hôn cái quả đấm cửa anh đã chạm tay vào, em nhặt trộm một mẫu xì gà anh vứt đi trước khi vào nhà, nó rất thiêng liêng đối với em vì anh đã đặt môi lên đó. Tới tối, em viện mọi cớ xuống dưới đường tới hàng trăm lượt để xem gian buồng nào của anh được thắp sáng và do đó, cảm thấy cụ thể hơn sự có mặt của anh, sự có mặt vô hình của anh. Và trong những tuần lễ anh đi xa - cứ thấy bác Jăng phúc hậu mang cái túi du lịch màu vàng của anh xuống là tim em ngừng đập vì sợ hãi - trong những tuần đó cuộc đời em như chết rồi, không còn mục tiêu gì cả. Em đi đi lại lại, cáu kỉnh, phiền muộn, dữ tợn mà lúc nào cũng phải đề phòng sao cho mẹ em đừng để ý thấy nỗi tuyệt vọng trong đôi mắt ướt lệ của em.

“Em biết rằng những điều em kể với anh đây chỉ là những phấn khích lố bịch và những trò rồ dại của con nít. Đáng lẽ em phải lấy làm xấu hổ, nhưng em không hề xấu hổ, bởi vì không lúc nào tình yêu của em đối với anh lại trong trắng và say mê hơn những cơn thái quá trẻ con ấy. Em có thể kể cho anh nghe hàng giờ, hàng ngày liền là hồi ấy em đã sống với anh như thế nào, với anh, người hầu như chưa biết mặt em, bởi vì những lúc gặp anh trên cầu thang không
có cách nào tránh được, do sợ cái nhìn cháy bỏng của anh, em thường cắm đầu chạy vụt qua như người sắp lao xuống nước, tất cả chỉ là để anh khỏi thấy má em đỏ bừng lên. Em có thể kể cho anh nghe hàng giờ, hàng ngày liền về những năm tháng ấy mà anh đã quên từ lâu; em có thể giở từng cuốn lịch đời anh; nhưng em không muốn làm anh phiền lòng, em không muốn dày vò anh. Em chỉ muốn thổ lộ thêm với anh về cái sự kiện tốt đẹp nhất thời trẻ thơ của em và em xin anh đừng có chế giễu sự vô nghĩa lý của nó, bởi vì đối với em lúc đó hãy còn bé, nó lại là một cõi vô cùng vô tận. Đó là ngày chủ nhật, anh đang đi xa, và người lão bộc của anh kéo những tấm thảm nặng vừa rũ bụi xong qua cửa phòng anh. Ông lão phúc hậu khuân ì ạch một cách vất vả, em đánh bạo lại gần xin giúp một tay. Bác ấy ngạc nhiên nhưng rồi đồng ý để em làm và do đó, em được thấy - ôi! Em muốn nói với anh rằng em đã chiêm ngưỡng với biết bao thành kính và tôn sùng - em được thấy bên trong phòng anh, thế giới của anh, cái bàn anh ngồi viết, trên đó có vài bông hoa cắm trên một bình pha lê xanh lơ, đồ đạc của anh, những bức tranh, sách vở của anh. Đó chỉ là một cái nhìn lén thoáng qua vào cuộc đời anh. Bởi vì chắc chắn bác Jăng trung thành của anh sẽ cấm nếu em định đi sâu vào nữa; nhưng chỉ thế thôi cũng đủ cho em hấp thụ hết cái không khí đó và cung cấp đủ dự trữ cho em mơ hoài mơ hủy vô cùng tận đến anh trong giờ thao thức và trong giấc ngủ triền miên.

“Cái phút ngắn ngủi đó là phút hạnh phúc nhất trong thời thơ trẻ của em. Em muốn kể lại cho anh để anh, người không hề biết đến em, bắt đầu hiểu một cuộc đời đã gắn bó với anh đến mức tiêu tan trong anh như thế nào.

“Em muốn kể lại giờ phút đó cùng với một giờ phút nữa, rất gần kề mà than ôi! Xiết bao khủng khiếp. Như em đã nói với anh, em đã quên mọi thứ vì anh; em không nhòm ngó đến mẹ em và chẳng quan tâm đến ai. Em không nhận thấy rằng một ông lớn tuổi, một thương gia ở Inxpruck, họ xa về đằng bố em, dạo đó thường đến thăm mẹ em luôn và thường ở lại chơi lâu; trái lại, em lại thích thế vì ông ta hay đưa mẹ đi xem hát, do đó em có thể một mình ngồi nghĩ đến anh và rình ngóng anh, điều diễm phúc lớn nhất và duy nhất của em. Thế rồi một hôm, mẹ gọi em vào phòng, vẻ khá trịnh trọng, bảo có chuyện cần nói với em một cách nghiêm túc. Em tái mặt đi và tim bắt đầu đập như trống làng: mẹ ngờ ngợ điều gì chăng, mẹ đoán ra rồi chăng? Ý nghĩ đầu tiên của em là về anh, cái bí mật nhờ đó mà em tiếp xúc được với thế giới. Nhưng chính mẹ em cũng bối rối: mẹ ôm hôn em, điều mà mẹ chưa từng làm - hôn đằm thắm, một lần, hai lần; mẹ kéo em lại ngồi cạnh mẹ trên ghế xô-pha rồi bắt đầu ngập ngừng và rụt rè kể rằng ông bác họ kia của em vốn góa vợ, đã ngỏ lời cầu hôn với mẹ và mẹ đã quyết định nhận lời, chủ yếu là vì lợi ích của em. Máu em dồn về tim mạnh hơn; một ý nghĩ duy nhất dội lại trong thâm tâm em, hoàn toàn hướng về anh.

“- Nhưng mẹ con ta vẫn ở lại đây chứ? – Em khó nhọc lắm mới ấp úng hỏi
được như thế.”

“- Không, chúng ta sẽ về Inxpruch; ở đó, Ferđinăng có một tòa biệt thự rất đẹp”. Em không nghe thấy gì thêm nữa; mắt em tối sầm lại. Về sau, em được biết là em đã ngất đi; em nghe thấy mẹ em kể với ông chồng tương lai, lúc đó đứng chờ đằng sau cửa, rằng em đã lùi lại bất thình lình, hai tay dang ra rồi để xuống như một khối chì. Những điều xảy ra trong những ngày tiếp theo và em, một con bé yếu đuối, em đã vùng vẫy chống lại ý chí áp đảo của họ như thế nào, em không thể kể cho anh nghe được; chỉ nghĩ đến những cái đó, tay em vẫn còn run lên khi viết cho anh đây. Vì không nói ra được điều bí mật thật sự của mình, sự kháng cự của em có vẻ chỉ là tính ương bướng, độc ác và thách thức; không ai nói gì với em nữa; mọi sự cứ tiến hành sau lưng em. Người ta lợi dụng những giờ em đi học để thu xếp việc dọn nhà: mỗi lần em ở trường về, đều thấy có cái gì mang đi rồi hoặc đem bán. Thành thử em thấy căn phòng tan đi từng mảnh một, đồng thời cuộc đời em cũng vậy; cuối cùng một hôm khi về ăn trưa, em thấy những người gói đồ đã đến và khuân hết đi. Trong những căn buồng trống rỗng là những cái hòm sẵn sàng khởi hành cùng hai cái cặp cho mẹ em và em; hai mẹ con còn phải ngủ ở đó một đêm nữa, đêm cuối cùng và hôm sau sẽ lên đường về Inxpruck.

“Trong cái ngày cuối cùng đó, em cảm thấy với một niềm quả quyết đột ngột, rằng em không thể sống xa anh được. Em không thấy cứu tinh nào khác ngoài anh. Em không thể giải thích được làm sao ý nghĩ đó lại đến trong đầu em và đúng ra liệu em có khả năng suy nghĩ tinh tường trong những giờ tuyệt vọng đó hay không; nhưng đột nhiên - lúc ấy mẹ em vắng nhà - em đứng dậy và cứ mặc nguyên quần áo học sinh như thế, chữ “đi” không chính xác đúng hơn, một sức mạnh nam châm hút em về phía cửa phòng anh, hai chân cứng đờ các khớp xương run rẩy. Em vừa nói với anh rằng em không biết rõ em muốn gì nữa; phủ phục xuống chân anh và xin anh giữ em lại làm con hầu, làm nữ tỳ; và em rất sợ là anh cái cuồng tín ngây thơ của một con bé mười lăm; nhưng anh yêu của em, hẳn anh sẽ không cười nếu anh biết lúc bấy giờ em ở tình trạng như thế nào, đứng ngoài hành lang lạnh giá, sợ cứng người, và mặc dầu thế vẫn bị một sức mạnh không tưởng tượng nổi thúc đẩy về phía trước, nếu anh biết em đã rứt cánh tay run rẩy ra khỏi mình thế nào để giơ nó lên và - đây là một cuộc đấu tranh kéo dài trong những giây kinh khủng tưởng như đằng đẳng một thiên thu - ấn vào cái nút trên cánh cửa. Đến tận ngày hôm nay em vẫn thấy vẳng trong tai tiếng chuông rền rồi phút im lặng tiếp theo, trong khi tim em chững lại, máu em thôi không tuần hoàn nữa và em chỉ còn ngong ngóng xem anh có ra không.

“Nhưng anh không ra. Không có ai ra cả. Hẳn là chiều hôm ấy anh đi chơi và bác Jăng cũng chạy quanh có việc; và thế là em loạng choạng trở về - với đôi tai ong ong, tiếng chuông rền - quay vào căn phòng đảo lộn và trống tuếch, em kiệt sức gieo mình xuống một tấm chăn du lịch, đi có mấy bước ấy thôi mà mệt như vừa lặn lội hàng giờ qua một lớp tuyết dầy. Nhưng bên dưới cơn mệt ấy, cháy bỏng cái quyết tâm vẫn còn cuồng nhiệt là phải gặp anh và nói chuyện với anh trước khi bị giằng đi khỏi nơi này. Em thề với anh rằng trong đó không hề có
mảy may ý nghĩ nhục dục nào; dạo ấy em còn chưa biết gì chính bởi em không nghĩ đến gì khác ngoài anh ra; em chỉ muốn trông thấy anh, trông thấy anh lần nữa, níu chặt lấy anh. Suốt đêm, suốt cái đêm dài khủng khiếp ấy, anh yêu thương của em ạ, em đã chờ anh. Mẹ em vừa nằm vào giường và ngủ thiếp đi là em lẻn ngay ra phòng chờ để ngóng tiếng anh trở về. Em đợi suốt đêm và đó là một đêm tháng giêng giá buốt. Em mệt nhoài, chân tay đau như dần, không có cái ghế nào mà ngồi: em bèn nằm luôn ra sàn lạnh có gió lùa từ cửa ra vào. Em cứ nằm như thế, rét cóng, thân mình ê ẩm, trên người chỉ có bộ quần áo mỏng vì em không mang chăn ra theo; em không muốn ấm quá sợ ngủ quên mất, không nghe thấy tiếng chân anh. Ôi! Cái nỗi đau đớn em cảm thấy! Em co ro ép hai bàn chân vào nhau, hai cánh tay em run lên và em bắt buộc phải đứng dậy luôn luôn vì quá lạnh trong cái bóng tối gớm ghiếc này. Nhưng em vẫn đợi anh, em đợi anh, em đợi anh như đợi số mệnh mình.

“Cuối cùng - lúc ấy hẳn đã hai, ba giờ sáng - em nghe thấy tiếng cánh cửa dưới nhà mở ra rồi tiếng chân bước lên cầu thang. Cái rét đột nhiên biến mất, một hơi ấm mãnh liệt tràn vào người em và em nhẹ nhàng mở cửa để chạy bổ tới phủ phục dưới chân anh… Ôi! Quả thật em không biết là con bé điên là em bấy giờ, có thể làm những gì nữa! Tiếng chân lại gần, ánh một ngọn nến lay động trên tường. Em run run nắm lấy chiếc then cửa: có phải đúng anh đang đến đấy không?

“Phải, chính là anh, anh yêu của em, nhưng anh không phải chỉ có một mình. Em nghe thấy một tiếng cười nhẹ lâng và vui tươi, tiếng sột soạt một tà áo lụa và giọng anh thì thầm. Anh trở về phòng anh với một người đàn bà…

“Làm thế nào em có thể sống sót nổi sau cái đêm đó, em cũng không biết nữa. Tám giờ sáng ngày hôm sau, người ta đem em đi Inxpruck; em chẳng còn hơi sức nào mà kháng cự.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

“Con em chết đêm hôm qua - từ nay em lại chỉ có một mình, nếu như em còn có thể tiếp tục sống. Ngày mai, những người đàn ông không quen biết, thô lỗ, mặc đồ đen, sẽ đến, họ sẽ mang theo một cái quan tài và họ sẽ bỏ đứa con tội nghiệp, đứa con độc nhất của em vào đó. Có thể bạn bè cũng sẽ đến, mang theo những vòng hoa, nhưng hoa thì làm gì được trên một cỗ quan tài? Họ sẽ an ủi em, họ sẽ nói với em lời này, lẽ khác, nhưng tất cả những cái đó thì có ích gì cho em? Em biết vậy, và thế là em lại trở nên cô đơn. Và không có gì đáng sợ hơn là cô đơn giữa những con người. Điều đó, em đã hiểu ra trong hai mươi bốn tháng đằng đẳng dài bất tận ở Inxpruck, cái thời gian giữa tuổi mười lăm và tuổi mười tám, trong đó em sống như một tù nhân, một kẻ bị ruồng rẫy trong gia đình em. Bố dượng em người rất trầm tĩnh, ít nói, đối với em rất tốt như để sửa chữa một bất công ngoài ý muốn, mẹ em tỏ ra ngoan ngoãn làm theo mọi mong muốn của em, những chàng thanh niên xoắn xuýt quanh em nhưng em một mực lồng lộn cự tuyệt tất cả. Em không muốn sống sung sướng, thỏa mãn xa anh và em ngụp vào một thế giới u tối tạo nên bởi cô đơn và bởi những dằn vặt mà em tự chuốc lấy. Người ta mua cho em những áo mới, đẹp, em không mặc; em từ chối không đi nghe hòa nhạc, xem hát hoặc tham gia vào các cuộc vui chơi đông đúc, vui vẻ. Họa hoằn lắm em mới ra khỏi nhà: anh yêu, anh có tin rằng trong cái thành phố nhỏ này, nơi em đã sống hai năm trời, em không biết tới mười phố? Em rầu rĩ và em muốn rầu rĩ như thế; em say sưa với mỗi một mất mát mà em cộng thêm vào cái mất mát không được thấy anh. Tóm lại em không muốn để mình lãng khỏi nỗi mê cuồng lớn ấy, em chỉ muốn sống trong anh mà thôi. Em cứ ngồi ở nhà hàng giờ liền, hàng ngày liền không làm gì cả ngoài việc nghĩ đến anh, ôn đi ôn lại hoài hàng trăm kỷ niệm em còn được giữ về anh, mỗi một lần gặp, mỗi một lần chờ đợi - và bao giờ cũng mường tượng ra những hồi ngắn ngủi ấy như trên sân khấu. Và chính vì gợi lại không biết bao nhiêu lần mỗi giây phút của quá khứ mà tất cả thời thơ trẻ của em vẫn còn nóng hổi trong trí nhớ, đến nỗi tận hôm nay, mỗi phút của những năm đó vẫn còn sinh động trong em, với tất cả cái cuồng nhiệt và xúc động như thể nó mới chỉ làm máu em giần giật hôm qua thôi.

“Dạo ấy em chỉ duy nhất sống trong anh. Em mua tất cả những sách anh viết: khi thấy báo chí nhắc đến tên anh, đó là một ngày hội đối với em. Anh có tin rằng em đọc đi đọc lại hàng bao nhiêu lần những sách của anh đến nỗi thuộc lòng từng dòng không? Ngay hôm nay, ngay bây giờ đây sau mười ba năm, nếu có ai nữa đêm đánh thức em dậy, đọc trước mặt em một dòng giữa quảng trong bất kỳ cuốn sách nào của anh, em vẫn có thể đọc tiếp luôn được như trong một giấc mơ; bởi vì, mỗi lời, mỗi chữ của anh, đối với em, là một thứ kinh phúc âm và một lời cầu nguyện. Tất cả thế gian chỉ tồn tại đối với em trong chừng mực nó liên quan đến anh: em theo dõi mục thông báo các cuộc hòa nhạc và những buổi công diễn đầu tiên đăng trên báo chí thành Viên chỉ cốt để xem anh thích cuộc nào trong số đó, và tối đến, từ xa thẳm, em đi theo anh từng bước, lòng nhủ lòng: bây giờ anh ấy vào trong rạp, bây giờ anh ấy ngồi xuống ghế. Em mơ thế hàng ngàn lần, bởi đã có lần em trông thấy anh trong một buổi hòa nhạc.

“Nhưng tại sao em lại kể cho anh nghe những cái đó, cái cuồng tín dữ dội lồng lộn chống lại cả bản thân em, cái cuồng tín tuyệt vọng một cách bi thảm đến thế của một con bé bị bỏ rơi? Tại sao lại đi kể cho một người chưa hề mảy may ngờ đến chuyện đó, chưa hề biết đến chuyện đó? Mà bấy giờ, em có còn là một con bé nữa không? Em đã đến tuổi mười bảy, mười tám, các chàng trai đã bắt đầu ngoảnh lại nhìn em ngoài phố; nhưng họ chỉ làm em bực mình. Bở lẽ tình yêu, thậm chí chỉ một trò chơi tình yêu đơn thuần, hoàn toàn tưởng tượng, với một người nào khác phải không anh, cái đó đối với em là một điều không thể quan niệm nổi và em không sao chấp nhận được ý nghĩ đó; chỉ riêng sự cám dỗ đã là một trọng tội, dưới mắt em. Lòng em say mê anh vẫn nguyên vẹn như cũ: có điều, nó biến chuyển cùng với thân hình em; chừng nào những giác quan của em thức dậy, thì nó lại càng nồng nhiệt hơn, cụ thể hơn, đàn bà hơn. Và cái hành động mà con bé chưa biết gì không thể ý thức nổi trong cái ý lực mập mờ hỗn độn khi giật chuông cửa phòng anh, giờ đây đã thành ý nghĩ duy nhất của em: trao thân cho anh, hiến trọn cuộc đời cho anh.

“Những người ở quanh em nghĩ rằng em rụt rè và bảo là em nhút nhát (em không hề hé răng lộ ra điều bí mật của mình). Nhưng trong em đã hình thành một ý chí sắt đá. Tất cả ý nghĩ và cố gắng của em vươn về một mục đích duy nhất: trở về Viên, trở về bên anh. Và em đã thành công trong việc cưỡng đặt ý chí của mình, mặc dầu nó thật rồ dại, khó hiểu đối với những người khác. Bố dượng em giàu, coi em như con đẻ. Nhưng với một sự bướng bỉnh hung dữ, em khăng khăng đòi đi làm để tự nuôi thân; và cuối cùng, em cũng được trở về Viên ở nhà một người bà con và làm công cho một hãng may lớn.

“Có cần phải nói với anh là em đến đâu trước tiên không, khi - cuối cùng! Cuối cùng! - Em về tới Viên vào buổi chiều thu đầy sương mù ấy? Em để chiếc hòm lại ở nhà ga, em nhảy tót lên một chiếc xe điện - sao mà em thấy nó chạy chậm thế! Mỗi chỗ đỗ làm em điên đầu lên - và em chạy đến trước cửa nhà anh. Cửa sổ phòng anh sáng đèn, tim em đập rộn cả lên. Chỉ đến lúc bấy giờ em mới tìm lại được cuộc sống trong thành phố này mà trước đó, tất cả sự huyên náo của nó sao mà xa lạ, sao mà trống rỗng, vô nghĩa đối với em! Chỉ đến lúc đó em mới lại tiếp tục sống, khi cảm thấy ở gần bên anh - cái ước mơ muôn thuở của em. Em có ngờ đâu rằng ngay cả khi giữa chúng ta là trăm núi ngàn sông, em cũng không xa vời tư tưởng anh lúc đó là mấy, khi mà giữa anh và cái nhìn long lanh của em chỉ có tấm kính sáng đèn của cửa sổ phòng anh. Em nhìn lên trên ấy, bao giờ cũng hướng về trên ấy, nơi đó có ánh lửa, nơi đó là nhà, nơi đó có anh, anh, vũ trụ của em. Hai năm ròng, em đã mơ đến cái giờ phút đó; bây giờ em được sống với nó. Và suốt buổi tối mùa thu sương phủ, một buổi tối dài, êm dịu, em cứ đứng trước cửa sổ phòng anh cho đến khi đèn tắt. Mãi sau đó, em mới bắt đầu đi tìm ngôi nhà em ở.

“Tối nào, em cũng quay trở lại trước cửa nhà anh. Em làm việc ở cửa hàng đến tận sáu giờ; đó là một công việc nặng nhọc và bận bịu, nhưng em thích nó vì sự náo động ấy khiến cho em cảm thấy cái náo động nội tâm bớt đau đớn. Và, tấm rèm sắt vừa khép xuống đằng sau lưng là em chạy thẳng một mạch đến nơi hẹn hò thân thiết của em. Nhìn thấy anh dù chỉ một lần, gặp anh dù chỉ một lần, đó là mong muốn duy nhất của em; một lần nữa lại có thể đứng từ xa hôn lên mặt anh bằng cái nhìn. Được một tuần lễ thì em gặp anh vào cái lúc em không ngờ nhất; trong khi em ngắm cửa sổ phòng anh trên kia thì anh đi ngang qua đường về phía em đứng. Và bỗng nhiên em lại trở thành con bé mười ba tuổi năm xưa; em cảm thấy máu dồn lên cả hai má; mặc dầu lòng thầm mong được nhìn thấy mắt anh, bất giác em cúi đầu xuống và chạy vụt qua trước mặt anh như một con thú bị săn đuổi.

“Sau đó em xấu hổ vì nỗi đã sợ hãi chạy trốn như cô bé học sinh, bởi lẽ giờ đây ý chí của em đã rõ ràng: em muốn gặp anh, em tìm kiếm anh, em muốn anh nhận ra em sau bao nhiêu năm chìm đắm chờ đợi trong bóng tối; em muốn được anh trân trọng, em muốn được anh yêu.

“Trong một thời gian dài, anh không để ý đến em, mặc dầu tối nào cũng vậy, cả trong tuyết xoáy lộn dưới làn gió phủ phàng như dao cắt thịt của thành Viên em vẫn đứng rình ngoài phố. Nhiều khi em đợi hàng giờ vô ích; nhiều khi, cuối cùng anh ra khỏi nhà với các khách khứa; lần khác nữa, em thấy anh đi cùng với bạn nữ và từ đó em hiểu rằng em đã lớn, em cảm thấy tính chất mới mẻ và khác hẳn trong tình cảm của em đối với anh bằng cái giật thót nơi tim làm tan nát tâm hồn em khi em trông thấy một người đàn bà xa lạ khoác tay anh đi sóng đôi đường hoàng đến thế. Em không ngạc nhiên, bởi vì từ những ngày còn nhỏ, em đã biết anh luôn luôn có khách nữ, nhưng giờ đây, đột nhiên, trong em cuộn lên như một nỗi đau thể xác và một cái gì căng ra trong em, vừa hằn học vừa thèm muốn, trước sự thân mật công khai và vật dục ấy với một người đàn bà khác. Dạo ấy, em vốn kiêu kỳ một cách trẻ con và có lẽ bây giờ em cũng vẫn thế, em lánh hẳn đi một ngày; nhưng cái buổi tối tự ái, làm mình làm mẩy không đến nhà anh đó, sao mà nó kinh khủng đối với em! Chiều hôm sau, em đã lại cung cúc trở về vị trí; em đợi anh, em đợi anh hoài, như trong suốt cả số phận, em đã đợi trước cửa đời anh khép chặt không một lối cho em vào.

“Và cuối cùng, một chiều, anh đã để ý tới em. Em trông thấy anh đi tới từ đằng xa và em tập trung hết ý chí không né ra khỏi đường anh đi. Tình cờ có một chiếc xe đang dỡ hàng chắn ngang phố, thành thử anh bắt buộc phải đi sát vào gần em. Bất giác, cái nhìn của anh đặt lên em, lơ đãng để rồi, ngay sau đó, khi bắt gặp đôi mắt chăm chú của em, - Ôi! Lúc đó, nhớ lại mà em rùng cả mình! - liền biến thành cái nhìn anh vẫn dành cho phái nữ, cái nhìn âu yếm, vuốt ve và đồng thời thấu suốt tận da thịt, cái nhìn bao quát và chinh phục ngay lần đầu đã biến em từ một đứa bé trở thành đàn bà, trở thành một cô gái đang yêu. Trong một vài giây đồng hồ, cái nhìn ấy làm mắt em đê mê, không thể và không muốn rời khỏi sức hút của nó, thế rồi anh đi qua. Tim em đập thình lình; bất đắc dĩ em phải chậm bước lại và khi quay lại với một nỗi tò mò không kiềm chế nổi, em trông thấy anh dừng lại và ngó nhìn đằng sau em. Và, qua cái cách anh quan sát em với một vẻ tò mò thích thú, em hiểu ngay là anh không nhận ra em.

“Anh không nhận ra em, lúc đó cũng như mãi mãi chẳng bao giờ anh nhận ra em cả. Làm sao em có thể, ôi anh yêu thương, làm sao em có thể tả cho anh nghe nỗi thất vọng trong giây phút đó? Đó là lần đầu tiên em phải chịu nỗi đau oan nghiệt là không được anh nhận ra, cái nỗi đau oan nghiệt đã theo em suốt đời cho đến khi chết cùng với nó: vẫn là kẻ xa lạ, vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ đối với anh. Làm sao em có thể mô tả được nỗi tuyệt vọng đó với anh? Bởi vì, anh thấy không, trong hai năm trời ở Inxpruck, hai năm không ngừng nghĩ tới anh và chỉ mơ tưởng hoài cuộc gặp gỡ đầu tiên khi em trở lại Viên sẽ ra sao - trong hai năm đó, tùy theo tâm trạng, em đã tính đến những triển vọng buồn tủi nhất cũng như vui tươi nhất. Có thể nói em đã dự liệu mọi khả năng: trong những lúc bi quan, em đã tưởng tượng rằng anh sẽ xua đẩy em, anh sẽ không đoái hoài đến em, vì em chẳng ra sao, em xấu quá, rầy rà quá. Tất cả các dạng của sự rẻ rúng, lạnh lùng, dửng dưng có thể thấy ở anh, em đều đã hình dung đầy đủ, nhưng ngay cả trong những giờ đen tối nhất, trong những lúc em ý thức sâu sắc nhất sự tầm thường xoàng xĩnh của mình, em cũng không hề tính đến cái khả năng này, cái khả năng khủng khiếp hơn tất cả, là thậm chí anh không chú ý mảy may đến sự tồn tại của em. Bây giờ thì em hiểu rõ rồi - Ôi! anh đã dạy cho em hiểu ra biết bao nhiêu điều! - Bộ mặt của một cô gái, của một người đàn bà, đối với một người đàn ông, thể tất phải là một vật hay biến đổi hết sức: phần lớn các trường hợp, nó chỉ là một tấm gương phản ánh lúc thì một niềm say mê, lúc thì một thói trẻ con, lúc thì một nỗi mệt mỏi, và nó biến đổi rất dễ dàng, như một hình ảnh trong gương, cho nên người đàn ông dễ dàng quên cá tính riêng của nó, càng dễ quên hơn khi tuổi tác điểm những vệt bóng tối xen vào khi nó được đóng khung khác đi trong những bộ y phục mới. Những người phụ nữ nhẫn nhục, đó chính là những người nắm bắt khoa học của cuộc sống. Nhưng em, cái cô gái là em lúc bấy giờ, em chưa thể hiểu được làm sao anh đã quên em; em không biết làm sao mà, vì quá bận tâm đến anh, không ngừng và vượt mọi giới hạn một ảo tưởng đã hình thành trong em: em cảm thấy hình như cả anh nữa, tất yếu anh cũng phải nghĩ đến em luôn và cũng đợi chờ em; làm sao em có thể tiếp tục thở nếu em biết chắc rằng em chẳng là cái gì đối với anh, rằng chẳng bao giờ có thể có một kỷ niệm nào về em lướt nhẹ vào tâm trí anh? Sự tỉnh mộng đau đớn ấy trước cái nhìn của anh, nó chứng tỏ anh không hề biết em và chẳng có sợi dây kỷ niệm nào nối liền đời anh vào đời em, sự tỉnh giấc đó đối với em là một cái ngã nhào đầu tiên trở về thực tại, cái dự cảm đầu tiên về số phận mình.

“Vậy là anh không nhận ra em và hai ngày sau, trong một cuộc gặp khác, khi cái nhìn của anh bao bọc lấy em với một vẻ tương đối thân quen, thì anh không nhận ra em là đứa đã yêu anh và được anh khơi dậy đời sống của con tim, mà chỉ đơn thuần nhận ra em là cô gái mười tám xinh đẹp, hai hôm trước đây đã chạm trán với anh, cũng ở quãng này. Anh nhìn em với một vẻ ngạc nhiên đáng yêu; một nụ cười thoảng qua trên môi anh. Một lần nữa, anh lại đi ngang qua gần em và anh lập tức chậm bước lại. Em bắt đầu run lên, một niềm vui câm lặng làm em rùng mình… Anh ấy sắp nói với mình đây! Em cảm thấy lần đầu tiên anh nhận ra sự tồn tại của em; em cũng chậm bước lại và chờ anh. Và đột nhiên, không cần quay lại, em cảm thấy anh đang ở đằng sau em; em biết rằng giờ đây em sắp được nghe cái giọng thân yêu của anh nói với em lần đầu. Sự chờ đợi làm em như tê liệt đi và em sợ mình bắt buộc phải dừng lại vì tim đập dữ quá. Anh đã đến bên cạnh em. Anh nói với em bằng cái phong thái vui tươi nhẹ nhàng của anh như thể chúng mình là bạn thân của nhau từ lâu. Ôi! Anh không hề có một ý niệm nhỏ nào về con người em! Không bao giờ anh biết mảy may về đời em! Anh nói với em thoải mái diệu kỳ, khiến em luống cuống không trả lời được. Hai chúng mình cùng đi suốt dọc phố. Rồi anh hỏi em có bằng lòng ăn bữa chiều với anh không, em nhận lời. Còn có điều gì em dám từ chối anh?

“Chúng mình cùng ăn chiều trong một tiệm ăn nhỏ. Anh có biết chỗ nào không? Chắc chắn là không: nếu anh có nhớ đi nữa thì anh cũng chỉ xem buổi tối hôm đó cũng là một cuộc giăng gió giống như biết bao cuộc giăng gió khác, bởi vì em là cái gì đối với anh kia chứ? Một người đàn bà trong hàng trăm đàn bà, một cuộc giăng hoa trong một chuỗi giăng hoa dài bất tận. Vả lại làm sao anh có thể nhớ được gì về em? Em nói rất ít, bởi vì đối với em, được ở bên anh và nghe anh nói, là một hạnh phúc lớn vô cùng rồi. Em không muốn làm phí phạm phút nào trong câu chuyện của anh, bằng một câu hỏi bâng quơ hay một lời ngu ngốc. Chẳng bao giờ lòng biết ơn của em quên được giờ này. Anh đáp ứng rất đúng với điều mà lòng sùng kính say mê của em chờ đợi ở anh, anh âu yếm dịu dàng và đầy ý tứ, không chút đường đột sổ sàng, tránh những cái mơn trớn vuốt ve mà những người khác thường tự cho phép mình làm quá sớm; từ phút đầu, thái độ của anh đã rất thân ái và tự tin; thái độ ấy thật đáng tin cậy đến nỗi, ví dù em trước đó còn chưa thuộc về anh trọn vẹn với tất cả ý chí mình, thì chỉ riêng lần này, anh cũng đủ chinh phục em hoàn toàn. Ôi! Anh không hề biết là chiều hôm đó anh đã hoàn thành một việc tuyệt diệu như thế nào, bằng cách không làm thất vọng năm năm chờ đợi trong cô gái là em thuở bấy giờ.

“Trời về khuya, chúng mình ra về. Ra đến cửa tiệm ăn, anh hỏi em có vội gì hay còn có thì giờ. Làm sao em có thể dấu anh là em sẵn sàng làm theo mọi ý muốn của anh? Em trả lời là em rỗi. Rồi anh cố dẹp một chút lưỡng lự, hỏi em có muốn ghé qua nhà anh nói chuyện một lát không. “Rất vui lòng”, em nói với tất cả tấm lòng, cho điều đó là hoàn toàn tự nhiên. Em nhìn thấy ngay là anh rất ngạc nhiên trước sự nhận lời vội vã của em - nó làm anh phiền lòng hay làm anh vui, em cũng không phân biệt nổi - nhưng rõ ràng là anh lấy thế làm kinh ngạc.

Bây giờ em hiểu tại sao anh ngạc nhiên; em biết rằng, theo thói thường, những người đàn bà, kể cả khi cảm thấy khát khao cháy bỏng muốn trao thân gửi phận cho ai, vẫn cứ phải chối không dám thú thật, giả vờ sợ hãi, bất bình, đòi hỏi trước hết phải được vỗ về bằng những lời cầu xin xoắn xuýt, những lời dối trá, những lời hứa hẹn, thề thốt. Em đã biết rằng có lẽ chỉ có những gái làng chơi chuyên nghiệp, những gái điếm mới đáp lại những lời mời như vậy bằng một ưng thuận nhanh chóng, vui vẻ và hoàn toàn đến thế - hoặc là những thiếu nữ rất trẻ dại, rất ngây thơ. Nhưng ở em - làm sao anh có thể nghĩ đến điều ấy được? – đó chỉ là sự thú nhận ý muốn của mình, nỗi mong ước nồng nàn, cố nén lại trong hàng nghìn ngày, giờ đây đột nhiên bộc lộ ra. Anh hết sức ngạc nhiên, và em bắt đầu khiến anh quan tâm. Em cảm thấy là trong khi vừa đi vừa nói chuyện, anh cứ liếc mắt quan sát em với vẻ hơi ngỡ ngàng. Cảm quan của anh, cái cảm quan chính xác một cách thần diệu về mặt tâm lý con người, đánh hơi thấy một cái gì khác thường, đoán là có một điều bí ẩn ở cô gái dễ thương và ân cần này. Đột nhiên anh muốn tìm hiểu và, qua cách hỏi han tế nhị và bao hàm ẩn ý của anh, em nhận thấy là anh muốn nắm cái điều bí mật ấy. Nhưng em đã đề phòng sẵn. Em thà để cho anh tưởng em điên, chứ nhất định không lộ cho anh biết điều bí mật của em.

“Chúng mình lên phòng anh. Anh yêu của em, hãy tha lỗi cho em nếu em nói rằng anh không thể hiểu nổi việc đi lên cầu thang ấy là như thế nào đối với em, em đã cảm thấy say sưa, bối rối như thế nào, em đã ngập chìm trong một niềm hạnh phúc, điên cuồng, day dứt như thế nào đến mức gần như có thể chết đi được. Ngay cả bây giờ em vẫn khó lòng nghĩ tới lúc đó mà không rơi nước mắt, mặc dầu em đã khô nước mắt rồi. Nhưng chỉ xin anh hãy tưởng tượng rằng mỗi một đồ vật đều là một biểu tượng của thời thơ trẻ, của nỗi niềm mong ước đã được thắp lên trong em từ bao lâu: cánh cửa em thường đứng chờ đợi anh kể có hàng nghìn lần, cái cầu thang nơi em rình ngóng, đoán tiếng chân anh và cũng là nơi em trông thấy anh lần đầu, cái lỗ cửa tròn nơi em tập dò xuống tận đáy tâm hồn, tấm thảm trước cửa phòng, một hôm em đã quỳ lên, tiếng chìa khóa kèn kẹt bao giờ cũng làm em giật nảy mình rời khỏi vị trí nghe trộm. Tất cả tuổi thơ của em, tất cả mối tình em lấy nơi đây là tổ, trong một khoảng rộng vài thước; cả cuộc đời em ở đó. Và đây một thứ giông bão sập xuống đầu em, trong khi mọi sự mọi sự, hoàn thành và cùng với anh - em với anh! - em bước vào nhà anh, nhà chúng mình. Anh thử nghĩ coi, cho đến lúc tới cửa phòng anh - tất nhiên chữ nghĩa của em hẳn có vẻ tẻ nhạt, nhưng em không biết nói thế nào khác cả - tất cả trong cuộc đời em vẫn chỉ là thực tại buồn bã, em chỉ thấy trước mắt mình một thế giới thường nhật xám xỉn, vậy mà giờ đây mở ra cái xứ sở huyền diệu của ước mơ con trẻ, vương quốc của Alađanh. Hãy nghĩ rằng hàng nghìn lần cặp mắt em sôi nổi dán vào cánh cửa này, giờ đây em loạng choạng bước qua nó, và anh sẽ cảm thấy - phải chỉ cảm thấy thôi, anh thương yêu ạ, bởi vì chẳng bao giờ anh biết được hoàn toàn đâu - là biết bao nhiêu giờ của đời em đã kết đọng lại trong giây phút choáng váng này.

“Em ở lại phòng anh suốt đêm ấy. Anh không ngờ rằng trước anh, chưa có một người đàn ông nào đụng vào người em, thậm chí chưa ai từng chạm khẽ hoặc trông thấy thân thể em. Anh yêu, làm sao anh có thể ngờ được điều đó, bởi lẽ em chẳng hề kháng cự anh mảy may, bởi lẽ em cố dẹp đi mọi ngần ngại do thẹn thùng, chỉ cốt để anh khỏi đoán ra điều bí mật của mối tình em, nó ắt sẽ làm anh thất kinh lên - vì đối với anh, tình yêu chỉ có thể là một cái gì nhẹ nhàng, khoác cái hình thức của một trò chơi và chẳng có gì là quan trọng; anh sợ dính líu sâu vào một số phận. Anh muốn nếm vô độ, vô chừng mực mọi thú vị trên đời, nhưng anh không muốn hy sinh điều gì. Anh yêu thương của em, nếu giờ đây em nói với anh khi trao thân cho anh, em vẫn còn trinh, thì em van anh, anh đừng có hiểu lầm ý nghĩa những lời em nói! Em không kết tội anh đâu, anh không lôi kéo em, không lừa em, cũng chẳng cám dỗ em; chính em, chính bản thân em đã đi đến với anh, thúc đẩy bởi niềm khát khao của chính mình, chính em đã ôm chầm lấy cổ anh, đã lao vào số phận mình. Không, không, em sẽ chẳng bao giờ kết tội anh đâu; mà trái lại, bao giờ em cũng cảm ơn anh, bởi vì cái đêm hôm ấy, đối với em, thật phong phú, thật rực rỡ lạc thú, thật tràn trề hạnh phúc! Khi mở mắt ra trong bóng tối và cảm thấy anh bên cạnh, em lấy làm ngạc nhiên không thấy sao ở trên đầu, bởi chừng em cứ ngỡ trời đang ở gần kề. Không, anh yêu ạ, em không bao giờ, không bao giờ tiếc bất cứ một cái gì về giờ phút đó. Em vẫn còn nhớ, khi anh ngủ, khi em thấy hơi thở của anh, khi em sờ vào người anh và cảm thấy gần anh xiết bao, - em đã khóc vì sung sướng trong bóng tối.

“Sáng dậy, em vội vã ra đi rất sớm. Em phải đến cửa hàng và em cũng muốn đi khỏi trước khi bác người hầu đến, không nên để cho bác ấy trông thấy em. Khi em mặc quần áo đứng trước mặt anh, anh ôm lấy em trong tay và nhìn em hồi lâu. Phải chăng một hồi ức xa xăm và mơ hồ đang xao động trong anh, hay chỉ vì anh cảm thấy em xinh đẹp và sung sướng như em quả có xinh đẹp và sung sướng thật? Anh hôn lên miệng em một cái. Em nhẹ nhàng gỡ để đi. Bấy giờ, anh bèn hỏi: “Em có muốn mang theo vài bông hoa không?” Em trả lời là có. Anh lấy bốn bông hoa hồng bạch trong cái bình pha lê xanh trên bàn viết (ôi! cái bình ấy em biết nó lắm kể từ cái nhìn thầm lén duy nhất, ném vào buồng anh khi em còn nhỏ) và tặng em. Trong hàng ngày liền, em đã đưa những bông hoa ấy lên môi.

Trước khi chia tay, chúng mình đã hẹn gặp nhau vào một tối khác. Em đến nơi hẹn và lại một đêm kỳ diệu. Anh còn cho em một đêm thứ ba nữa. Rồi anh bảo em rằng anh phải đi xa - ôi! Những chuyến đi xa ấy, sao mà em thấy ghét chúng thế, kể từ hồi còn nhỏ! - và anh hứa là ngay sau khi trở về sẽ báo cho em biết. Em cho anh số hòm thư lưu, vì em không muốn nói cho anh biết tên em. Em vẫn giữ điều bí mật của mình. Một lần nữa khi chia tay, anh lại tặng em mấy bông hồng - những bông hồng thay lời chào ly biệt.

“Trong hai tháng trời, ngày nào em cũng đến lục hòm thư lưu… nhưng mà thôi, tại sao lại mô tả cho anh nghe những đau đớn dày vò, những cực hình hỏa ngục của chờ mong và thất vọng làm gì? Em không kết tội anh, em yêu anh đúng như con người thật của anh, sôi nổi và chóng quên, tận tâm và phụ bạc; em yêu anh, con người như thế, nguyên như thế thôi, như xưa nay và đến bây giờ anh vẫn thế! Anh trở về đã lâu, những khung cửa sổ sáng đèn ở phòng anh cho em biết thế, mà anh không viết cho em một dòng. Em không được một dòng nào của anh, giờ đây, đến phút cuối của đời em, không được lấy một dòng của anh, anh, con người mà em đã trao cho anh trọn vẹn cả cuộc đời. Em đã chờ đợi, chờ đợi như một kẻ chết đuối. Nhưng anh không gọi em, anh không viết cho em lấy một dòng… không được lấy một dòng nhỏ nào.

“Con em chết hôm qua - đó cũng là con anh. Phải, anh yêu của em ơi, đó cũng là con anh, đứa con của một trong ba đêm ấy, em thề với anh như thế và người ta không thể núp dưới bóng của cái chết mà nói dối, phải không anh. Đó là con chúng ta, em thề với anh như vậy, bởi từ cái lúc em trao thân cho anh đến khi em quằn quại trong cơn đau đẻ, không hề có một người đàn ông nào chạm đến người em. Sự giao tiếp với anh đã làm cho thân thể em trở nên thiêng liêng trước mắt em; làm sao em có thể chia xẻ thân em giữa anh vốn là tất cả đối với em và những kẻ khác chỉ lướt qua đời em? Đó là con chúng ta, anh thương yêu ạ, đứa con của mối tình em ý thức rõ ràng và của sự âu yếm vô tư, hào phóng, hầu như tự động của anh, con của chúng ta, con trai của chúng ta, đứa con độc nhất của chúng ta. - Nhưng bây giờ anh có muốn biết - có lẽ anh hoảng sợ, cũng có thể anh chỉ ngạc nhiên mà thôi - giờ đây, anh có muốn biết chăng, anh yêu thương của em ơi, tại sao trong suốt những năm dài ấy, em đã giấu không cho anh biết là đứa con ấy, và tại sao đến hôm nay em mới nói với anh về nó, khi nó đang nằm kia, ngủ yên trong bóng tối, ngủ yên mãi mãi, đã sẵn sàng ra đi và không bao giờ, không bao giờ trở lại nữa? Trước đây, làm sao em dám nói với anh điều đó kia chứ? Anh sẽ không khi nào tin em, người con gái xa lạ quá dễ dàng ưng thuận chiều anh ba đêm ấy, sẵn sàng trao thân không chút do dự, thậm chí còn cuồng nhiệt nữa, ắt hẳn anh không khi nào tin được rằng người đàn bà vô danh gặp gỡ thoáng qua lại có thể giữ lòng chung thủy với anh, phải, với anh con người bạc bội - anh chẳng đời nào chịu nhận đứa bé ấy là con anh mà không nghi hoặc. Ngay cả nếu anh cho những lời em nói có lý, anh cũng không đời nào gạt bỏ được mối nghi ngờ là em định tìm cách gán cho anh cái ngôi cha của một đứa trẻ xa lạ, bởi vì anh giàu có. Anh hẳn sẽ ngờ vực em, giữa anh và em sẽ có một cái bóng nhập nhoạng và vật vờ của hoài nghi. Em không muốn thế. Vả lại, em hiểu anh; em hiểu đến mức chính anh cũng khó lòng tự hiểu mình như thế; em biết rằng, bản tính vốn thích sự vô tư, nông nổi và vui chơi trong tình yêu, anh sẽ khổ tâm khi thấy mình đột nhiên trở thành bố, đột nhiên phải chịu trách nhiệm về một số phận. Anh, con người vốn chỉ có thể thở hít trong sự tự do, anh cảm thấy bị cột chặt vào đời em một cách nào đó. Anh sẽ căm ghét em một cách lờ mờ, ngược với ý muốn của anh - Vì sự ràng buộc ấy anh sẽ thấy… em thật bỉ ổi, anh sẽ ghét em, có thể chỉ trong vài giờ, có thể chỉ trong khoảng ngắn ngủi một vài phút - nhưng lòng tự ái của em thì em chỉ muốn suốt đời, anh nghĩ đến em không gợn một vẩn mây. Em thà hứng lấy tất cả chứ không chịu trở thành gánh nặng cho anh, em muốn là người duy nhất trong số những người phụ nữ đã đi qua đời anh, được anh nghĩ đến với tình cảm yêu đương và biết ơn. Nhưng thực ra có bao giờ anh nghĩ đến em, anh đã quên em rồi!

Em không kết tội anh đâu, anh yêu thương, không, em chẳng hề kết tội anh. Hãy tha thứ cho em nếu đôi khi có một giọt đắng cay chua chát chảy trong ngòi bút của em, hãy tha thứ cho em - bởi vì chẳng phải là con em, con chúng ta nằm kia dưới ánh sáng lay lắt của ngọn nến đó sao? Em đã giơ nắm tay về phía Thượng đế và em đã gọi Người là kẻ tội phạm, lòng em, giác quan em mung lung và rối bời. Hãy tha thứ cho em về sự than vãn này, tha thứ cho em. Em biết trong thâm tâm anh rất tốt và hay cứu độ, anh sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến anh, thậm chí giúp cả người xa lạ nhất. Nhưng lòng tốt của anh thật kỳ lạ, đó là một lòng tốt rộng mở với tất cả mọi người, ai cũng có thể vục vào lấy đầy tay được; nó rất lớn, lớn mênh mang, vô cùng tận, nhưng tha lỗi cho em, nó thật ơ hờ. Nó muốn người ta phải bao vây nó, bức bách nó. Sự giúp đỡ của anh, anh chìa ra khi nào người ta kêu gọi, khi nào người ta cầu xin; anh thuận tình ủng hộ vì thẹn thùng, vì yếu đuối chứ không lấy đó làm vui thích. Cho phép em nói thẳng ra: tình yêu của anh thường thiên về anh em bạn bè đang sung sướng, chứ không phải về người đang trong cảnh khốn khó. Và những người như anh… ngay cả những người tốt nhất trong số đó, thật khó mà mở miệng ra cầu xin họ một điều gì. Một hôm, hồi còn nhỏ, qua lỗ cửa tròn em đã thấy anh bố thí cho một người ăn mày gõ cửa nhà anh như thế nào. Anh cho lão ngay lập tức, thậm chí cho khá nhiều, không cần phải để van nài, nhưng anh đã chìa của bố thí ra với một chút lo ngại, có phần hơi hấp tấp, tỏ rõ anh muốn lão ta mau mau đi khỏi cho rảnh mắt. Dường như anh sợ nhìn vào mắt lão. Cái cách cho vội cho vàng ấy, ánh lo ngại ấy, nỗi sợ phải nghe người ta cảm ơn ấy, em không bao giờ quên được. Và chính vì thế mà em không bao giờ ngỏ lời với anh. Chắc chắn là anh sẽ cứu giúp em, em biết, thậm chí không cần biết đích xác có đúng con mình không, chắc chắn là anh sẽ an ủi em, cho em tiền, thật nhiều tiền, nhưng bao giờ cũng với cái nôn nóng và ngấm ngầm mong muốn rũ bỏ những điều khó chịu. Phải, thậm chí, em cho rằng anh có thể dụ em phá thai đi nữa kia. Và đó là điều em sợ hơn hết thảy, bởi vì khi mà anh đã yêu cầu thì còn có gì mà em không làm nữa, làm sao em có thể từ chối anh điều gì! Nhưng, đứa con ấy là tất cả đối với em; nó từ anh mà ra; đó cũng là anh, không phải đích thị con người sung sướng và vô tư mà em không giữ được, mà là anh mãi mãi của em, em nghĩ thế, mãi mãi phải thuộc về em, bị cầm tù trong cơ thể em, buộc chặt vào đời em. Giờ đây, cuối cùng em đã nắm được anh; em có thể cảm thấy anh sống
và lớn lên trong huyết quản em; em được nuôi anh; cho anh bú, và, khi nỗi khát khao bùng cháy tâm hồn, phủ kín người anh những cái hôn, những vuốt ve mơn trớn. Anh yêu, anh thấy đó, chính vì vậy mà em sung sướng biết bao khi mình mang trong bụng một đứa con của anh; và chính vì vậy mà em giữ kín không nói với anh điều đó, bởi lẽ giờ đây anh không thể thoát được em nữa rồi.

“Anh yêu thương, đành rằng không phải chỉ có những ngày tháng hạnh phúc như em đã vội mừng trước trong tư tưởng. Cũng có những tháng đầy kinh khủng và day dứt, đầy ghê tởm trước sự hèn hạ của con người, tình cảnh em không phải dễ dàng. Trong những tháng cuối sắp đến kỳ sinh nở, em không thể đi làm được nữa vì sợ chủ phát hiện ra và báo cho bố mẹ em biết. Em không muốn xin tiền mẹ, cho nên, trong thời gian đó và từ lúc ở cữ, em sống bằng tiền bán một số đồ trang sức mà em có. Một tuần lễ trước khi đẻ, một mụ thợ giặt đánh cắp của em một số tiền ít ỏi còn lại trong tủ, thành thử em phải đến nhà hộ sinh làm phúc. Chính ở đó, ở cái nơi mà chỉ những người đàn bà nghèo khổ nhất, những người bị xua đẩy, những người bị quên lãng mới tới nương náo trong cơn cùng quẫn, ở đó, giữa sự lầm than gớm guốc nhất, chính ở đó, con anh đã ra đời.

“Cái nhà thương đó thật đáng sợ, ở đó tất thảy đều xa lạ, xa lạ, xa lạ; và chúng em nhìn nhau như những kẻ xa lạ, chúng em nằm sóng sượt đấy, cô đơn và lòng thù ghét lẫn nhau, không hề có một quan hệ nào khác ngoài việc cùng chung cái cảnh ngộ lầm than, đau đớn nó buộc chúng em phải kiếm một chỗ trong căn phòng này với không khí ung độc đầy thuốc mê và máu, đầy tiếng kêu khóc và rên rỉ. Tất cả những gì là nhục nhằn, là xúc phạm về tinh thần và thể xác mà sự nghèo nàn phải chịu đựng, em đã nếm đủ trong sự ăn chung ở lộn với đám gái mãi dâm và những người bệnh, vì họ mà sự cộng đồng số phận của chúng em trở thành một mối ô nhục chung. Em đã chịu đựng những cái đó dưới sự trắng trợn của những viên y sĩ trẻ, miệng nhếch cười mỉa mai, tay nhấc mền trải giường sờ soạng những thân hình đàn bà không gì che chở, viện cớ sằng bậy và lợi ích khoa học. Em đã chịu đựng những cái đó trước con mắt hau háu của những y tá. Ôi! Ở trong cái phòng này, sự e thẹn con người chỉ gặp toàn những cái nhìn như đóng đinh câu rút và những lời như roi quất. Tất cả chỉ còn là một cái tên ghi trên một tấm bảng, bởi vì cái nhìn nằm ở trong giường chỉ là một khối thịt phập phồng cho những kẻ hiếu kỳ sờ mó và chỉ còn có một vật để triển lãm và nghiên cứu. Ôi! Những người đàn bà đẻ con cho chồng ngay tại nhà mình trong sự nâng giấc trìu mến của chồng, họ không biết thế nào là sinh nở khi chỉ có một thân một mình không ai che chở, tênh hênh như một cái bàn thí nghiệm y học. Đến tận bây giờ, mỗi khi gặp chữ “địa ngục” trong một cuốn sách nào đó, bất giác em lại nghĩ ngay đến căn phòng đó, nơi em đã trải qua đau đớn ê chề, giữa những mùi hôi thối, những tiếng rên rẩm, những tiếng cười và tiếng kêu nồng nặc máu của những người đàn bà chồng chất lên nhau - căn phòng mà, đối với cái giới tính e thẹn của chúng em quả là một lò sát sinh thực sự.

“Hãy tha thứ cho em, tha thứ cho em vì đã kể những điều đó với anh. Nhưng chỉ có độc một lần này thôi, em sẽ không bao giờ nói với anh về chuyện đó nữa - không bao giờ nữa. Trong mười một năm trường, em đã không hé răng nói nửa lời, và chẳng bao lâu nữa em sẽ vĩnh viễn câm lặng. Em phải kêu to lên một lần cái giá em đã phải trả để có đứa con ấy, đứa con từng là hạnh phúc tuyệt vời của em và, giờ đây, đang nằm kia, bất động. Em đã quên những giờ ấy, đã quên từ lâu trong nụ cười trong giọng nói của thằng bé, trong niềm hạnh phúc của em; nhưng bây giờ nó chết rồi, nỗi cực hình của em sống lại, và em cần làm nhẹ bớt nỗi lòng bằng cách kêu to cái đau ấy lên một lần, chỉ một lần thôi.

“Nhưng không phải em kết tội anh đâu; em chỉ kết tội Thượng đế, kết tội riêng Thượng đế đã muốn gây ra cái cực hình vô lối ấy. Em không kết tội anh, em thề là như vậy, và trong cơn phẫn nộ, không bao giờ em chống lại anh. Ngay cả trong giờ phút đau đẻ quằn quại, ngay cả khi thân thể em nóng ran vì xấu hổ trước những sinh viên ngoại trú trẻ tuổi nhìn em, ngay cả trong giây phút tâm hồn em tan nát vì đau đớn, cũng không bao giờ em kết tội anh trước Chúa, không bao giờ em hối tiếc chút gì về những đêm chung sống với anh; không bao giờ mối tình của em đối với anh lại gợn lên một lời trách móc; bao giờ em cũng yêu anh, bao giờ em cũng cầu phước lành cho cái giờ đã run rủi cho em gặp anh. Và ví bằng có phải trả lại cái địa ngục của những giờ đau khổ ấy, dù có biết trước những điều chờ đợi mình thì anh yêu ơi, em vẫn làm lại đúng những điều mà em đã làm một lần nữa, ngàn lần nữa.
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn

Postby Mười Đậu » 25 Jun 2005

Con chúng ta chết rồi. Anh chưa hề biết nó. Chưa bao giờ, ngay cả trong một cuộc gặp mặt tình cờ thoáng qua, cái nụ hoa bé bỏng từ anh sinh ra ấy được luồng mắt anh chạm tới. Từ khi có đứa con ấy, em lánh mặt anh một thời gian dài. Mối tình sôi nổi của em đối vói anh bớt đau đớn hơn; thậm chí em còn tưởng là em không yêu anh say mê như trước nữa; ít ra thì mối tình đó cũng không hành hạ em khổ sở đến như thế nữa; cho nên em hiến tất cả sức lực không phải cho anh vốn đang sung sướng và sống bên ngoài em mà cho đứa bé đang cần em, mà em phải nuôi, mà em có thể bồng tren tay và hôn khắp mình mẩy. Em như được giải thoát khỏi nỗi bối rối anh đã gieo vào tâm hồn em như rứt ra khỏi cái số mệnh khốn khổ của mình rút cục lại được cứu vớt bởi bản thân anh dưới hình thức dạng khác nhưng thực sự thuộc về em; và họa hoằn, phải họa hoằn lắm em mới lại cung cúc mang khối tình em đến chực trước nhà anh. Em chỉ duy trì có một điều: cứ đến sinh nhật anh em lại gửi đến anh một bó hoa hồng trắng giống hệt như những bông anh đã tặng em sau đêm ân ái đầu tiên của chúng ta. Có bao giờ, trong suốt mười, mười một năm ấy anh tự hỏi là ai đã gửi hoa đến cho mình không? Liệu anh có nhớ cô gái mà một hôm anh đã cho những bông hồng giống như thế không? Em chả biết nữa và em sẽ không bao giờ biết câu trả lời của anh. Về phần em, em chỉ cần bí mật tặng anh những bông hồng đó và mỗi năm một lần làm nở lại kỷ niệm về giờ phút ấy.

“Anh chưa hề biết nó, đứa con tội nghiệp của chúng ta. Giờ đây, em thấy giận mình là đã giấu biệt nó khuất mắt anh, nếu không, chắc hẳn anh phải yêu nó. Anh chưa hề biết nó, thằng bé tội nghiệp, anh chưa hề bao giờ được thấy nó mỉm cười khi nó khẽ hé hàng mi ngước đôi mắt đen, thông minh – đúng là mắt anh - rọi ánh sáng tươi trong và vui vẻ vào em, vào cả thế gian. Ôi! Nó thật nhộn, thật đáng yêu, tất cả cái duyên dáng của con người anh lặp lại trong nó một cách thở trẻ, em thấy lại ở nơi đó trí tưởng tượng mãnh liệt và sôi động của anh; trong hàng giờ liền, nó có thể nô giỡn với một đồ vật, như anh thích đùa vui với cuộc đời; rồi nó trở lại nghiêm chỉnh ngồi trước chồng sách, lông mày nhíu lại, càng ngày nó càng giống anh. Thậm chí ở nó, đã bắt đầu phát triển khá rõ cái lưỡng tính vừa nghiêm nghị vừa hồ hởi vốn là đặc điểm của anh; và nó càng giống anh, em càng yêu nó. Nó học tiếng Pháp khá, và nói như một con khướu con: vở nó sạch nhất lớp; thêm vào đó, sao mà nó xinh xẻo, trang nhã trong bộ quần áo nhung đen hoặc bộ lính thuỷ trắng! Đi đâu nó cũng nỗi bật nhất; khi hai mẹ con em đi trên bãi tắm Građô, nhiều bà cứ dừng lại vuôt ve mớ tóc dài vàng óng của nó; nó đi xe trượt, ai cũng phải quay lại nhìn thán phục. Nó xinh đẹp biết bao, tế nhị biết bao, ân cần biết bao! Năm ngoái, khi nó vào nội trú ở trường Mari-Têrezơ, nom cái dáng nó cầm cái kiếm nhỏ, vận bộ đồng phục, cứ như là một kiếm đồng thế kỷ 18 ấy. Giờ đây, tội nghiệp thằng bé, nó nằm đó, trên mình chỉ có chiếc sơ mi ngắn tay, đôi môi nhợt nhạt, hai bàn tay chắp lại.

“Nhưng có lẽ anh cũng muốn biết làm thế nào để nuôi con như vậy trong sự xa hoa, em làm thế nào để nó sống cuộc đời rực rỡ, vui tươi của những đứa trẻ trong giới thượng lưu? Anh thương yêu, em nói với anh giữa trùng trùng bóng tối. Em không xấu hổ, em sẽ nói cho ra cho anh biết đây, nhưng anh đừng sợ; anh yêu của em, em đã bán mình. Em không phải chính cống là một gái làng chơi đón khách ngoài phố, một gái điếm, nhưng em đã bán mình. Em có những người bạn giàu, những người yêu có của; thoạt đầu em tìm họ, sau rồi chính họ lại tìm em, bởi vì – không biết anh có bao giờ nhận thấy thế không? – Em rất xinh. Người đàn ông nào được cùng em chăn gối cũng đều thương mến em; tất cả đều biết ơn em, tất cả đều tha thiết với em, tất cả đều yêu em - tất cả trừ anh, phải, chỉ trừ có mình anh, ôi anh yêu của em!

“Giờ đây, em đã bộc lộ với anh là em đã từng bán mình, anh có khinh em không? Không, em biết, anh không hề khinh em; em biết anh hiểu hết tất cả và anh cũng nên hiểu là sở dĩ em hành động như vậy, đó hoàn toàn chỉ vì cái “tôi” khác của anh, vì con anh. Trong cái phòng ở nhà hộ sinh làm phúc kia, một hôm em đã tiếp xúc với những gì là kinh khủng của sự nghèo hèn; em biết rằng trên đời này, người nghèo bao giờ cũng là nạn nhân, là kẻ bị người ta dúi xuống, chà đạp dày xéo lên và bằng bất cứ giá nào, em cũng không muốn cho con anh, đứa con đẹp rờ rỡ của anh, lớn lên ở nơi bùn lầy nước đọng dưới đáy xã hội, hư hỏng đi trong sự tiếp xúc thô lỗ với bọn đầu đường xó chợ, héo hắt trong không khí xú uế của một cái sân sau. Không thể để cho cái miệng thanh tao của nó biết cái ngôn ngữ yêu tà cũng như không thể để thân hình trong ngọc trắng ngà của nó biết đến thứ vải thô, mốc meo sần sùi của người nghèo. Con anh phải được hưởng mọi thứ, tất cả sự giàu sang và tất cả tiện nghi trên trái đất: nó phải đạt đến mức sống của anh.

“Đó là lý do duy nhất khiến em bán mình. Đối với em, đó không phải là một sự hy sinh; bởi vì, cái mà người ta thường gọi là danh dự hay điếm nhục, đều không có dưới mắt em. Khi mà người làm chủ cuộc đời em lại không yêu em thì cái thân thể em nó muốn làm gì, em cũng dửng dưng. Những vuốt ve của đàn ông, thậm chí cả mối tình sâu sắc nhất của họ, không hề làm trái tim em rung động, mặc dầu em rất trân trọng nhiều người trong số đó và nhiều lần cảm thấy xao xuyến thương hại trước tình yêu không được đền đáp của họ, nó gợi nhớ đến số phận của chính em. Tất cả những người em quen đều tốt với em, tất cả đều chiều em, tất cả đều trọng em. Nhất là một vị bá tước góa vợ và có tuổi, chính ông đã chồn chân đạp cửa trường Mari Têrêgiơ để buộc họ phải nhận đứa bé không cha là con anh vào học. Ông yêu em như tình cha con. Ba bốn lần ông đã ngỏ lời cầu hôn. Lẽ ra, ngày nay em đã là nữ bá tước, chủ nhân một lâu đài thần tiên ở vùng Tyrol; đáng lẽ em không phải lo lắng gì, bởi vì thằng bé sẽ có một người cha dịu dàng yêu nó đến mức tôn sùng và em thì có một người chồng quý phái tốt và hiền hậu. Nhưng em đã không nhận lời mặc dù ông luôn luôn gặng hỏi, rất khẩn khoản, mặc dầu sự từ chối của em làm ông đau đớn, có lẽ em đã phạm một điều điên rồ, bởi vì nếu em nhận lời thì bây giờ em đã yên ổn ở một nơi nào đó cùng với đứa con trai. Nhưng tại sao lại không thú thật luôn với anh? Em không muốn ràng buộc mình: em muốn lúc nào cũng thuộc quyền anh sử dụng. Ở nơi sâu thẳm nhất của trái tim, trong tiềm thức của em vẫn còn sống một mơ ước trẻ con ấp ủ từ lâu là biết đâu anh chả gọi đến cho em một lần nữa, dù chỉ là một tiếng đồng hồ. Và chờ đợi khả năng ấy, em đã cự tuyệt tất cả, bởi vì em muốn ngay tiếng gọi đầu tiên của anh, em đã sẵn sàng. Cuộc đời em, kể từ khi em bước ra khỏi thời thơ ấu có bao giờ là cái gì khác ngoài sự chờ đợi, chờ đợi ý muốn của anh?

“Cái giờ ấy đã đến thật. Nhưng anh không biết nó đến vào lúc nào đâu. Anh chả ngờ là thế, anh yêu của em. Cả lúc ấy nữa, anh cũng không nhận ra em – không bao giờ, không bao giờ anh nhận ra em cả! Phải, đã nhiều lần em gặp anh ở nhà hát, ở những buổi hoà nhạc, ở Prater, ở ngoài phố - lần nào tim em cũng giật thót lên nhưng anh đều đi qua không nhìn em. Tất nhiên bề ngoài em đã khác hẳn: đứa bé nhút nhát đã trở thành một người đàn bà, một người đàn bà đẹp, như người ta thường bảo, áo quần lộng lẫy và đầy những kẻ ái mộ xung quanh. Làm sao anh có thể ngờ em là cô gái rụt rè mà anh chỉ nhìn thấy dưới ánh đèn khuya trong phòng ngủ của anh! Đôi khi, một tình nhân cùng đi với em chào anh: anh đáp lễ và ngước mắt nhìn em; nhưng cái nhìn của anh lịch sự và xa lạ: nó chỉ thán phục em thôi chứ không nhận ra em; nó xa vời đối với em, xa vời một cách khủng khiếp. Em vẫn còn nhớ một hôm, sự quên lãng đó, mà em đã gần quen, trở thành một cực hình. Em ngồi ở một khoang trong nhà hát ôpêra cùng với một người bạn trai và anh ngồi khoang bên cạnh. Lúc mở màn, đèn tắt; em không nhìn thấy mặt anh, nhưng em cảm thấy hơi thở của anh rất gần như trong cái đêm ân ái nọ, và tay anh, bàn tay thanh tú nhỏ nhắn của anh đặt trên thành gỗ bọc nhung ngăn giữa hai khoang của chúng ta. Một nỗi khát khao không bờ xâm chiếm em: em muốn cúi xuống và kính cẩn đặt một cái hôn lên bàn tay xa lạ đó, bàn tay thân yêu đó mà một hôm em đã cảm thấy sự ôm ấp nồng nàn của nó.Quanh em, nhạc toả lan những đợt sóng thấm sâu vào lòng: ước muốn của em mỗi lúc một sôi nổi. Em bắt buộc phải tự chủ lại, đứng phắt dậy, bởi chưng cái sức mạnh lôi kéo đôi môi em về phía bàn tay anh thân yêu, thật quá mãnh liệt. Cuối hồi một, em đề nghị người bạn em cùng ra về. Em không thể chịu đựng được cái nỗi có anh bên cạnh trong bóng tối xa lạ thế mà gần gũi thế.

“Nhưng dù sao cái giờ xiết bao mong đợi cũng đã đến, nó đã đến một lần nữa; nó đến một lần nữa trong đời em mịt mùng định mệnh. Dạo đó, cách đây vừa đúng một năm, sau hôm sinh nhật anh. Lạ thay em không ngừng nghĩ tới anh, bởi vì bao giờ em cũng mừng dịp đó như một ngày hội. Em đã ra phố từ sáng sớm tinh mơ và em đã gửi đến anh để kỷ niệm một giờ phút anh đã quên hẳn. Buổi chiều, em đưa con đi chơi, dẫn nó đến hiệu bánh ngọt Đêmel và đến tối, em cho con đi xem hát. Em muốn cả nó nữa, ngay từ hồi còn bé bằng một cách nào đó, nó cũng coi cái ngày này như một ngày hội huyền bí mà nó không cần phải hiểu hết ý nghĩa. Và rồi ngày hôm sau, em với người bạn em hồi đó, một kỹ nghệ gia trẻ và giàu ở Bruna đã sống với em được hai năm, rất chiều chuộng và thờ phụng em. Cả anh ta cũng muốn lấy em, nhưng cũng như với những người khác, em đã từ chối, bề ngoài tưởng như không có lý do gì, mặc dầu anh ta chồng chất lên hai mẹ con em đủ các thứ quà tằng và thậm chí anh ta còn đáng được yêu nữa với cái hồn hậu hơi nặng nề và quị lụy của anh ta. Chúng em cùng đi nghe hoà nhạc, gặp đông đúc bạn bè vui vẻ ở đó; chúng em ăn tối trong một tiệm ở phố Rinhxtrax và tại đó, giữa những tiếng cười nói, em đề nghị đến một tiệm khiêu vũ ỏ Tabarin. Thông thường, em vốn không ưa cái loại hàng quán ấy với không khí vui vẻ giả tạo, sặc sụa hơi men, cũng như mọi thứ mà người ta gọi là “liên hoan” và bao giờ những người đề ra những loại giải trí ấy cũng bị em từ chối. Nhưng lần này, em như cảm thấy một yêu lực huyền bí nó khiến em bất giác đưa ra đề nghị ấy một cách đột ngột và ai nấy đều sôi nổi hưởng ứng một cách vui vẻ - bỗng nhiên em cảm thấy một niềm mong muốn không sao cắt nghĩa nổi, như thể có một cái gì đặc biệt đang chờ em ở nơi đó. Quen chiều em, tất cả đứng dậy và bọn em đi đến Tabarin. Ở đó, bọn em uống sâm-banh và đột nhiên một nỗi vui điên dại xâm chiếm em, một nỗi vui gần như phát đau em chưa từng thấy bao giờ. Em uống hết chén này sang chén khác, cũng hát những bài nhả nhớt như những người khác và cảm thấy hết sức cần thiết phải nhảy múa và thét lên những tiếng kêu la vui sướng. Bất thình lình - tưởng như có một cái gì giá băng hoặc nóng bỏng đặt lên tim em vậy – em giật bắn người: anh đang ngồi với các bạn ở bàn bên cạnh và anh hướng về em một cái nhìn thán phục và thèm muốn, cái nhìn mà bao giờ cũng làm em xao xuyến tận đáy tâm hồn. Lần đầu tiên sau mười năm, đôi mắt anh lại dán chặt vào em với tất cả sức mạnh vô thức và cuồng nhiệt của con người anh. Em run lên. Ly rượu em đang giơ lên suýt tuột xuống. May thay những người bạn cùng bàn không nhận thấy ự bối rối của em, nó bị lấp trong tiếng cười và tiếng nhạc.

“Cái nhìn của anh mỗi lúc một thêm cháy bỏng và làm toàn thân em như bị ném vào một lò lửa. Em không biết có phải cuối cùng, cuối cùng anh đã nhận ra em không, hay anh chỉ khao khát em như khao khát một người đàn bà khác, như một người xa lạ. Má em bừng bừng và em lơ đãng trả lời những người ngồi cùng với em. Hẳn anh đã nhận thấy cái nhìn của anh làm em luống cuống đến thế nào. Anh khẽ gật đầu không để ai thấy, mời em ra phòng chờ một lát. Rồi anh đường hoàng gọi tính tiền: anh cáo từ các bạn và đi ra, trước đó không quên ra hiệu cho em một lần nữa là anh chờ em ngoài ấy. Em run lên như một cơn sốt rét. Em không thể trả lời được những câu người ta hỏi em: em không thể gìm được máu em đang sôi sục. Tình cờ, đúng lúc ấy, một cặp da đen bắt đầu một điệu nhảy mới, kỳ lạ, vừa dận gót vừa thốt ra những tiếng kêu the thé. Mọi người dồn cả mắt vào họ. Em bèn thừa cơ đứng dậy, bảo người tình của em là mình sẽ trở lại ngay và thế là em đi theo anh.

“Bên ngoài, anh đợi em ở phòng chờ. Mắt anh sáng lên khi thấy em đến. Anh tươi cười chạy lại đón em. Em lập tức thấy anh không nhận ra em, anh không nhận ra cả con bé con lẫn cô gái dạo xưa. Một lần nữa, bàn tay chìa ra đón lấy em là bàn tay chìa cho một người đàn bà gặp gỡ lần đầu, một người đàn bà không quen.- “Một ngày nào đó liệu cô có thể dành cho tôi một giờ không?” Anh xuề xoà hỏi em. Anh tưởng em là một gái làm tiền ban đêm, - “Vâng” em đáp. Vẫn là cái tiếng “vâng” run run, mặc dù thế vẫn tự nhiên và ưng thuận, tiếng “vâng” mà cô gái là em mười năm trước đã trả lời anh trong đường phố hoàng hôn. – “Thế bao giờ chúng ta gặp nhau được?” – “Lúc nào ông muốn”. Trước mắt anh, em không chút xấu hổ. Anh nhìn em hơi ngạc nhiên, vẫn cái ngạc nhiên do nghi ngại và tò mò mà ngày xưa anh đã tỏ ra trước sự đồng ý mau lẹ của em – “Bây giờ cô có rỗi không?” Anh hỏi em với đôi chút do dự - “Rỗi ạ”, em trả lời, “ta đi thôi”.

“Em định quay lại lấy áo măng tô ở phòng gửi quần áo. Bấy giờ, em chợt nớ ra rằng áo của em và của người bạn trai gửi chung một vé. Quay lại hỏi vé anh ta mà không có có gì rõ rệt thì không thể được: mặt khác, bỏ qua cái giờ được ở bên anh, cái giờ mong muốn thiết tha từ bao lâu nay, thì em không muốn. Cho nên em không do dự một giây; em chỉ cần choàng chiếc khăn san lên áo dạ hội và bước ra trong đêm mờ sương và ẩm ướt, không bận tâm đến chiếc áo măng tô, không cần biết đến con người tốt và ưu ái đã nuôi em sống mấy năm nay, con người mà em biến thành trò hề lố bịch trước mặt bàn bè bằng cách bỏ rơi anh ta như vậy để đi theo một kẻ xa lạ ngay cái nháy mắt đầu tiên, sau khi đã là tình nhân của anh ta mấy năm trời. Ồ! Trong thâm tâm, em hoàn toàn ý thức được sự đê tiện, sự vô ơn, sự bỉ ổi mà em đã phạm đối với một người bạn chân thành; em cảm thấy em hành động một cách kỳ cục và bằng sự rồ dại đó, em đã xúc phạm mãi mãi, làm tổn thương đến chết một con người đầy lòng tốt đối với em; em biết rằng, em đã làm tan nát đời em, nhưng tình bạn đối với em có nghĩa gì, cuộc sống đối với em có nghĩa gì so với lòng em đang nôn nóng muốn được cảm thấy một lần nữa sự tiếp xúc của đôi môi anh, được nghe thấy những lời âu yếm của anh? Vậy đó, em yêu anh như thế đó; bây giờ mọi chuyện đã qua, mọi chuyện đã xong rồi, em có thể nói rõ điều ấy với anh và em tin rằng, nếu như trên giường lâm chung của em, anh gọi em thì em vẫn đủ sức vùng dậy để đi đến với anh.

“Ở trước cửa tiệm khiêu vũ, có một chiếc xe, chúng mình đáp luôn về nhà anh, em tận hưởng cái êm ái được bên anh, em cũng say sưa, tràn ngập niềm hạnh phúc trẻ thơ và bối rối, đúng hệt như dạo xưa. Em lại leo lên những bậc cầu thang, lần đầu tiên, sau hơn mười năm, với tâm trạng rạo rực thế nào, em không thể, phải, em không thể nào nói cho anh hay được; em không thể mô tả cho anh nghe trong vài giây đó, một tình cảm hai chiều đã xáo trộn quá khứ và hiện tại trong em như thế nào, cũng như trong tất cả những cái đó, làm sao em vẫn lại chỉ thấy riêng mình anh mà thôi. Phòng ngủ của anh không thay đổi mấy tí. Thêm một vài bức tranh, nhiều sách hơn, đây đó vài thứ đồ đạc của nước ngoài. Tuy nhiên, tất cả đều chào đón em một cách thân thuộc. Và trên bàn anh là cái bình và những bông hồng, những bông hồng của em, những bông hồng em gửi tới anh hôm trước nhân dịp sinh nhật anh, đồng thời để kỷ niệm một người đàn bà mà anh không còn nhớ đến nữa, mà anh không nhận ra kể cả trong lúc này đay khi có cô ta ở kề bên anh, tay trong tay anh, môi xiết chặt môi anh. Tuy nhiên em sung sướng thấy là anh đã chăm chút những bông hồng của em; thành thử, dù sao, xung quanh anh cũng thoang thoảng chút hơi thở của bản thân em, chút hương của tình em.

“Anh ôm em trong tay. Em lại qua một đêm lạc thú với anh. Nhưng ngay cả khi em không có gì bên người, anh cũng vẫn không nhận ra em. Sung sướng em để mặc cho anh ve vuốt một cách lọc lõi và em thấy sự cuồng nhiệt ái ân của anh chẳng hề phân biệt một người yêu với một gái làm tiền, anh hoàn toàn tự buông thả theo dục vọng của mình với tất cả sự nông nổi và hào phóng vốn là đặc tính của anh. Anh rất dịu dàng âu yếm đối với em, đối với một người gặp trong quán rượu đêm, anh rất quý phái, rất thân tình, rất ân cần, vậy mà đồng thời anh lại tỏ ra say mê đến điều trong việc hưởng thụ đàn bà. Một lần nữa, em lại thấy cái lưỡng tính có một không hai của con người anh; em lại thấy trong tính nhục cảm của anh cái lý tính sáng suốt đã từng biến con bé là em thành nô lệ của anh. Chưa bao giờ em nhận thấy một người đàn ông nào trong khi ân ái lại bỏ lãng hiện tại một cách tuyệt đối như thế, dào dạt như thế và lan toả đến những đáy sâu ản thể như thế - nói cho đúng ra, để rồi sau đó tắt đi trong một lan toả không cùng và gần như siêu phàm.

“Nhưng cả em nữa, em cũng quên hẳn bản thân mình; giờ đây, em là cái gì trong đêm tối, bên cạnh anh? Con bé sôi nổi ngày xưa, mẹ của con trai anh hay một người đàn bà xa lạ? Ôi! sao mà tất cả đều quen thuộc đều gần gũi đối với em, vậy mà tất cả đều phập phồng một cuộc sống mới trong cái đêm mê cuồng này! Và em cầu cho nó đừng bao giờ chấm dứt!

“Nhưng rồi cũng đến sáng. Hai chúng mình dậy muộn. Anh mời em ăn sáng với anh. Chúng mình uống trà do một người hầu vô hình kín đáo dọn ở buồng ăn và chúng mình chuyện gẫu. Một lần nữa anh lại nói với em với tất cả sự xuề xoà thẳng thắn và thân mật riêng biệt của anh, và lần này cũng không hề hỏi em những câu đường đột, không tỏ chút tò mò gì về con người em.

Anh không hỏi tên em, cũng không hỏi địa chỉ em. Một lần nữa, đối với anh, em chỉ là chuyện giăng hoa, là người đàn bà không tên, là giờ ái ân sẽ bay hơi đi trong làn khói của quên lãng, không để lại mảy may dấu vết. Anh kể là anh sắp làm một chuyến viễn du khoãng hai, ba tháng sang Bắc Phi. Giữa lúc đang hạnh phúc, em bỗng run lên vì bên tai em đã lại gằn lên những chữ này: thế là hết! Thế là hết và lại chìm vào quên lãng! Em sẵn sàng phục xuống chân anh mà kêu lên – “Hãy mang em đi để cuối cùng, anh có thể nhận ra em, sau bao năm đằng đẵng”. Nhưng em rụt rè quá và hèn nhát quá, yếu đuối quá và quị lụy quá trước
mặt anh. Em chỉ đủ sức nói như thế này: - “Tiếc thật!”. Anh mỉm cười nhìn em và hỏi: “Em có buồn thực sự vì anh đi không?”

“Lúc ấy, bỗng nhiên em cảm thấy như tức giận. Em nhìn anh hồi lâu một cách rắn rỏi. Rồi em nói: “Người yêu em cũng thế, cứ đi xa hoài”. Rồi em nhìn thẳng vào đồng tử của anh. “Bây giờ, anh ấy sắp nhận ra mình đây”, em tự nhủ, toàn thân run lên và căng thẳng. Nhưng anh chỉ mỉm cười đáp lại và nói để an ủi em “Người ta đi rồi người ta lại trở về” - Phải, em trả lời, khi trở về thì người ta đã quên”.

“Chắc là trong cái cách em nói câu ấy, có một cái gì kỳ lạ, một cái gì cuồng nhiệt, bởi vì anh đứng dậy nhìn em rất ngạc nhiên, rất âu yếm. Anh nắm lấy vai em: “ - Những cái tốt đẹp làm sao mà quên được, anh sẽ không quên em”, anh bảo thế. Đồng thời cái nhìn của anh xoáy vào tận đáy tâm hồn em, như muôn nhuốm dấu vết của hình ảnh em. Và trong khi cảm thấy cái nhìn đó thấm sâu vào mình, lục lọi, tìm kiếm, em những tưởng cái bùa yểm che mắt anh đã mất linh. “Anh ấy sắp nhận ra mình rồi”. Cả tâm hồn em run lên khi nghĩ như vậy.

“Nhưng anh không nhận ra em. Không, anh không hề nhận ra em, và không lúc nào em xa lạ với anh hơn lúc này, bởi vì nếu không thế thì anh đã chẳng làm cái việc xảy ra trong mấy phút sau. Anh đã hôn em, hôn nữa, hôn say đắm. Em phải sửa lại mái tóc bị anh làm bù rối. Trong khi em đứng trước gương – ôi em tưởng đến ngất đi vì hổ thẹn và kinh hãi! Em thấy anh đang kín đáo nhét vào cái bao tay của em mấy tờ bạc lớn. Làm sao mà lúc ấy em lại có đủ sức để kìm lại không kêu lên, không tát vào mặt anh, em, người đã từng yêu anh từ thuở còn thơ, em, mẹ của con trai anh, mà anh lại đi trả tiền em về cái đêm ân ái này: Trước mắt anh em chỉ là một con đượi ở đường phó Tabảin, không hơn không kém – và anh đã trả tiền em, phải trả tiền em! Anh quên em chưa đủ sao mà anh còn phải làm nhục em thế này nữa.

“Em vội vã vơ quần áo, em muốn đi, đi ngay. Em đau đớn quá rồi. Em giơ tay với chiếc mũ: nó ở trên bàn viết bên cạnh bình hoa hồng, những bông hồng bạch của em. Bấy giờ, em chợt cảm thấy một đòi hỏi mãnh liệt không sao cưỡng nổi: em phải thử một lần nữa đánh thức những kỷ niệm của anh dậy: “- Anh có thể cho em một bông hồng bạch được không?” em nói. “- Rất vui lòng!” anh trả lời. Và anh lập tức cầm lấy một bông” “- Nhưng có lẽ hoa này là của một người đàn bà nào tặng anh, một người đàn bà yêu anh?”, em hỏi “- Có thể, anh nói, nhưng anh không biết. Những bông hoa đó, anh không rõ ai cho mình, cho nên anh thích chúng”. Em nhìn anh. “Cũng có thể có là của một người đàn bà mà anh đã quên chăng?”.

“Anh ngước mắt lên về phía em, ngạc nhiên. Em nhìn anh chằm chằm. Hãy nhận ra em, hãy nhận ra em đi, cuối cùng, anh hãy nhận ra em đi nào, cái nhìn của em gào lên với anh như vậy! Nhưng đôi mắt anh chỉ cười thân ái, không hiểu. Anh lại hôn em lần nữa những anh không nhận ra em.

Em đi thật nhanh ra cửa, bởi vì em cảm thấy nước mắt trào lên và không thể để anh thấy thế được. Quá hấp tấp, suýt nữa em đâm sầm vào bác Jăng, người lão bộc của anh, ở phòng chờ. Bác hoảng hốt nhảy vội sang một bên và mở phắt cửa cho em qua. Và trong khi em nhìn bác lúc ấy – anh có nghe em đấy không?
– trong cái giây đồng hồ duy nhất ấy, khi nước mắt lưng tròng, em nhìn ông lão, em thấy mắt bác lóe lên một ánh đột ngột. Trong có một giây thôi, anh nghe thấy không? Trong cái giây đồng hồ duy nhất ấy, người lão bộc của anh, đã nhận ra em, vậy mà kể từ sau hồi niên thiếu, bác ta không hề gặp lại em!

“Em những muốn quỳ thụp xuống hôn tay bác! Em giằng vội từ chiếc bao tay ra mấy tờ giấy bạc mà anh đã thí cho em và dúi vào tay bác. Bác run lên, nhìn em sợ hãi: trong cái giây đồng hồ ấy, có lẽ bác đã hiểu em hơn anh trong cả cuộc đời anh. Tất cả những người đàn ông, phải, tất cả đều chiều chuộng em, tất cả đều tốt với em. Riêng anh, chỉ có riêng anh là quên em, riêng anh, chỉ có riêng anh là không nhận ra em.

“Con em, con chúng ta, đã chết. Bây giờ em chẳng còn ai, chẳng còn ai để yêu, ngoài anh, ở trên đời. Nhưng anh là gì đối với em, anh, người đã đi qua bên em như đi qua bên bờ nước, anh, người đã giẫm lên em như giẫm lên một hòn đá, anh, người luôn luôn đi luôn luôn theo đuổi con đường của mình và để em ở lại trong vĩnh viễn đợi chờ. Một hôm, em đã tưởng nắm được anh, nắm được con luôn lẩn trốn em, qua đứa bé này. Nhưng quả nó là con anh; đang đêm, nó nhẫn tâm bỏ em đi xa; nó quên em rồi và chẳng bao giờ trở lại nữa. Một lần nữa, em lại trơ trọi cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết; em chẳng còn gì của anh, chẳng còn gì hết – con thì mất rồi, không có một dòng, một chữ, không một kỷ niệm, và nếu có ý nghĩa gì đối với anh. Tại sao em không sẵn sàng chết đi, một khi đối với anh em không hề tồn tại? Tại sao không từ bỏ cõi đời này một khi anh đã từ bỏ em? Không, anh vô vàn yêu thương, em xin nói với anh một lần nữa, em không hề kết tội anh; em không muốn những lời than khóc của em khuấy đục niềm vui trong nhà anh, đừng sợ rằng em sẽ ám ảnh anh lần nữa, tha thứ cho em, em cần phải kêu lên một lần bằng tất cả sức lực tâm hồn, vào cái giờ này khi con em nằm kia im lìm, không ai nhòm ngó. Em phải nói với anh một lần và chỉ một lần thôi. Sau đó, em lại quay về với bóng tối và em lại trở nên câm lặng, câm lặng như xưa nay em từng câm lặng bên cạnh anh. Nhưng tiếng kêu này chừng nào em còn sống, sẽ không đến tai anh đâu. Chỉ khi nào em chết, anh mới nhận được di chúc này, di chúc của một người đàn bà yêu anh hơn tất cả những người đàn bà khác, mà anh không bao giờ nhận ra, di chúc của một người đàn bà không ngừng đợi chờ anh mà anh không bao giờ gọi đến. Có thể lúc đó, anh sẽ gọi em và lần đầu tiên, em sẽ phụ anh, bởi vì ở dưới mộ, em sẽ không nghe thấy anh gọi. Em không để lại cho anh tấm hình nào, không một dấu vết nhận dạng cũng như anh, anh chẳng để lại gì cho em; anh sẽ chẳng bao giờ nhận ra em, chẳng bao giờ! Đó là mệnh của em trong cuộc sống; cầu cho trong cõi chết cũng như thế. Em không muốn gọi anh vào cái giờ cuối cùng này của em, em ra đi không để anh biết tên biết mặt em. Em không hối tiếc vì, vốn xa vời với em, em sẽ không đau đớn gì cả. Nếu anh đau khổ vì cái chết của em, em sẽ không thể chết được.

“Em không đủ sức viết tiếp nữa… đầu em nặng trịch… chân tay em ê ẩm, em lên cơn sốt… em cho rằng em sắp sửa phải nằm luôn lên chiếc giường chết của mình. Có lẽ sắp sửa chấm dứt… có thể số mệnh sẽ độ lượng với em một lần, không để em phải nhìn thấy những người vận đồ đen mang con em đi… Em không viết được nữa rồi. Vĩnh biệt! Anh yêu của em, vĩnh biệt! Cảm ơn anh. Dù sao, những gì đã xảy ra cũng là tốt… Em sẽ cảm ơn anh cho đến hơi thở cuối cùng… Em thấy nhẹ hẳn người: em đã nói hết với anh, bây giờ anh đã biết – không, anh chỉ đoán phỏng được thôi – là em yêu anh biết nhường nào, vậy mà tình yêu đó không làm cho anh vướng víu gì. Anh sẽ không nhớ thương em - điều đó là một an ủi cho em. Sẽ chẳng có gì thay đổi trong cuộc sống rực rỡ của anh… Cái chết của em sẽ không gây phiền toái gì cho anh… Điều đó an ủi em nhiều lắm, anh vô vàn yêu thương!

“Nhưng rồi ai… từ nay hàng năm, ai sẽ gửi hoa hồng bạch đến anh vào dịp sinh nhật? Ôi! Bình hoa sẽ trống không và cả cái hơi thở yếu ớt của bản thân em mỗi năm một lần đến bồng bềnh quanh anh, thế là cũng tắt luôn! Anh yêu của em, em xin anh hãy lắng nghe… đây là lời cầu xin đầu tiên và cuối cùng của em với anh… vì lòng yêu thương em, hãy làm điều em yêu cầu: Mỗi lần sinh nhật anh - tất nhiên ngày nào thì anh phải nhớ chứ - anh hãy kiếm hoa hồng cắm vào bình. Hãy làm thế, hãy làm như thế, như mỗi năm một lần, người ta thường cầu hồn cho một người đàn bà quá cố thân yêu. Em không tin anh, em chỉ yêu anh và chỉ có thể còn sống trong anh…

“Ôi! Chỉ mỗi năm một lần thôi và hoàn toàn, hoàn toàn lặng lẽ, như em đã từng lặng lẽ sống bên anh. Em xin anh, hãy làm điều em yêu cầu, ôi anh vô vàn yêu thương… Đó là lời cầu xin đầu tiên của em với anh, đó cũng là lời cuối cùng…Cảm ơn anh… em yêu anh… em yêu anh… vĩnh biệt…”

Đôi bàn tay run run của nhà văn buông rơi bức thư. Ông ngồi nghĩ ngợi hồi lâu. Trong ông hỗn độn dâng lên cái ký ức lơ mơ về một cô bé hàng xóm, rồi một thiếu nữ, rồi một phụ nữ gặp trong một tiệm khiêu vũ ban đêm, nhưng cái ký ức ấy vẫn mơ hồ, không rõ nét, như một hòn đá lấp lánh, rung rinh dưới đáy nước không thể phân biệt được hình dáng nó ra sao. Trong trí ông, những cái bóng tiến tiến, lui lui nhưng không lúc nào tạo thành một hình ảnh rành rọt.

Ông khuấy động trong lòng những kỷ niệm êm đềm, nhưng không có gì rõ ràng cả. Ông bỗng thấy hình như đã mơ thấy tất cả những khuôn mặt ấy, mơ thấy luôn luôn và sâu sắc, nhưng chỉ là mơ thôi. Bấy giờ, ông mới để mắt tới chiếc bình hoa trên bàn làm việc trước mắt ông. Bình trống không, lần đầu tiên trống không vào dịp sinh nhật ông. Ông rùng mình sợ hãi. Ông thấy đột nhiên một cái cửa vô hình mở ra và một luồng gió lạnh giá từ thế giới bên kia lùa vào cái yên tĩnh của phòng ông. Ông có cảm giác là một người vừa chết và trong đó có một tình yêu bất tử, tận đáy sâu của tâm hồn ông, một cái gì mở ra và ông nghĩ đến người yêu vô hình ấy một cách cũng hư linh và say đắm như nghĩ tới một tiếng nhạc xa vời.

Hết Luôn! :D
Dziệc dzì để được ngày mai, thì không nên làm bửa nay!
User avatar
Mười Đậu
Nhựa Mít
Nhựa Mít
 
Tiền: $1,353,160
Posts: 21904
Joined: 15 Mar 2005
Location: Đằng Kia
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng Mười Đậu từ: msn


Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 74 guests