Tác Giả: Phùng Nguyễn
Khi Đức và tôi chui vào chiếc xe cũ mèm của hắn, đêm sắp tàn. Thiện đứng dưới vòm cửa hình cung của khu chung cư, vẫy tay từ biệt. Chiều hôm qua, Thiện đi cùng Đức đến tìm tôi ở khách sạn. Mớ tóc dài quá vai của chàng trẻ tuổi này làm tôi hơi ớn. Nhưng cảm giác đó không ở lâu, Thiện lễ độ, hòa nhã, dễ thân cận. Và hơi mơ mộng, tôi nhận ra điều này sau đó. Chính là ở căn apartment của Thiện tôi đã nằm dài trên chiếc xô pha, đầu óc lang thang theo tiếng đàn giọng hát của người bạn mới quen vào lúc nửa đêm về sáng. Rồi bỗng dưng tôi chợt nhận ra những ý nghĩ vụn vặt, rời rạc lởn vởn trong đầu tưởng như không chút liên hệ gì với nhau thực ra có liên quan đến câu hỏi của Đức trước đó. Câu hỏi có vẻ như được đưa ra một cách tùy tiện theo giòng trôi của câu chuyện phía trên những ly bia sủi bọt và đĩa tiết canh màu đỏ bầm trong một quán ăn ở thành phố chúng tôi kéo đến tối hôm qua.
Đức và tôi gặp nhau nhiều lần ở một thành phố phía Nam, nơi không phải là chốn ngụ cư của cả hai. Tôi không chắc Đức đã từng ở một thành phố nào đủ lâu để có thể gọi là thị dân của nơi đó. Hắn sống một mình, không thực sự có trách nhiệm với ai, đi nhiều, và đi lúc nào cũng được. Chỉ riêng điều này cũng đủ làm tôi ganh tị quá đỗi. Đối lại, tôi lớn tuổi hơn Đức, đủ lớn để giết người và để bị người giết một cách hợp pháp trước khi Đức có cơ hội tham dự vào cái trò chơi lớn có tên gọi là chiến tranh. Ngoài ra, chỉ việc tôi sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo nàn và đầy dẫy những vết tích của đạn bom cũng đủ làm hắn xốn xang. Ở phía trong bức tường cao của căn biệt thự sang trọng và được tách ra khỏi những nỗi hiểm nghèo đang xảy ra bên ngoài, người ta có quyền có những nhu cầu tinh thần vô cùng xa xỉ. Chẳng hạn như những suy nghĩ phức tạp của mình về chiến tranh mà Đức đã mô tả trong bài tập làm văn ở năm cuối cùng của bậc tiểu học. Hoặc người ta thực sự sống với, hoặc người ta suy tưởng về một điều gì đó.
Bất kể những khác biệt lớn về tuổi thơ và kinh nghiệm chiến tranh, tôi cho rằng Đức và tôi cùng thuộc về nhóm những kẻ đứng chông chênh trên hai mảnh ván trôi ngược chiều nhau, cốâ giữ thăng bằng để không rơi vào cái vực đen ngòm của hoang mang bên dưới. Thực ra, cái mảnh ván cứ kéo giật tôi về quá khứ có nhiều cơ hội thành công hơn. Có những điều nằm ở đó sẽ đeo đuổi tôi cho đến hết đời. Trong nhiều năm, tôi cứ đi giật lùi nhiều hơn là đi tới. Những người ở lứa tuổi của Đức hoặc trẻ hơn, như những người bạn của hắn, luôn làm tôi ngạc nhiên về khả năng diễn tả những gì khác hơn phở, bún bò, và cơm tấm bằng tiếng Việt. Mãi về sau này khi nỗi ngạc nhiên qua đi, tôi cho rằng nếp nghĩ của mình có thể đã xuất phát từ nỗi sợ của người bị giật mất đi chiếc phao cuối cùng của lòng tự hào. Khi người ta không có nhiều thứ để bám vào, khả năng sử dụng nhuần nhuyễn tiếng mẹ đẻ trong một môi trường không thuận lợi có thể chứng minh được nhiều điều, kể cả việc biểu hiện một cách kín đáo, và trong cùng một lúc mong muốn người khác nhận ra, thẩm quyền về và lòng trung thành với chính cái quá khứ buồn tủi của mình. Về sau, khi tiếp xúc với nhóm bạn trẻ trung của Đức, tôi quả thực có chờ đợi ở họ cái khả năng diễn đạt những điều trừu tượng bằng tiếng Việt không chỉ trôi chảy mà còn uyên bác nữa. Cho nên tôi không hề ngạc nhiên khi nghe Thiện và Đức tranh cãi sôi nổi về những đề tài có dính líu đến một số phát kiến mới lạ trong cuốn sách vừa được xuất bản của một sử gia rất được giới trẻ quan tâm. Tất nhiên là bằng tiếng Việt. Và cũng không ngạc nhiên mảy may khi sau đó Thiện ôm đàn hát bản nhạc mới soạn của mình bằng tiếng Anh vào lúc nửa đêm về sáng trong căn apartment khá gọn gàng của hắn.
Đức, khi chiến tranh chấm dứt, đủ lớn để mang theo với mình tro than của quá khứ cho dù hắn còn quá trẻ để nâng niu chúng như là thứ tài sản duy nhất mà người ta có thể sở hữu. Có vẻ như mớ tro than này thỉnh thoảng lại bị ai đó hoặc điều gì đó khuấy động, bụi bặm ùn lên làm Đức sặc sụa. Không phải tình cờ mà hắn đã chọn cho tôi cuốn An Artist of the Floating World* khi chúng tôi ghé thăm tiệm sách ưa thích của hắn ở một góc phố nhỏ gần trung tâm thành phố San Francisco. Sau khi nghiền ngẫm một cách cực nhọc những điều chứa đựng trong đó với mớ tiếng Anh kém cỏi của mình, tôi đã cho rằng có ít nhất một vài điều đang và sẽ còn làm Đức bận tâm trong nhiều năm sắp tới. Tôi cũng cho rằng những mối bận tâm đó, nếu suy nghĩ của tôi không phải là vô căn cứ, đã từ lâu không còn làm phiền tôi nữa. Nếu phải tự mô tả mình và mối quan hệ với cuộc chiến tranh đã qua, tôi thường nghĩ đến một gã vừa thua cạn láng ở ván cờ cuối cùng, lúng túng không biết làm gì. Người thắng cuộc thì nhất định không chịu xóa bàn làm lại, có ngẩn ngơ đứng đó càu nhàu cũng chẳng ích gì. Thôi thì bỏ đi, tự an ủi mình dù sao thì cũng đã đánh xong ván cờ, cho dù một cách dở tệ. Lâu dần, cái ý nghĩ đánh-xong-ván-cờ trở thành một thứ thuốc an thần vô cùng công hiệu trong nhiều trường hợp. Nhưng không phải tất cả mọi trường hợp. Khi câu hỏi của Đức hướng về tôi được đẩy ra, trôi nổi lập lờ phía trên chiếc bàn đầy những vỏ bia và tàn thuốc lá, tôi tưởng như bắt gặp nỗi thiết tha trong ánh mắt của hắn. Vậy mà tôi đã lờ đi. Tôi không thích phải trả lời một câu hỏi như thế. Có khi đó cũng là câu hỏi của tôi. Mà tôi thì hỏi ai bây giờ. Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ mình nợ Đức câu trả lời, có lẽ bởi vì không chỉ cái ánh mắt.
Khi chiếc xe quẹo vào con đường dẫn tới xa lộ, Đức mồi điếu thuốc đầu tiên của chuyến đi. Hắn sẽ hút liên tục suốt cuộc hành trình, và thỉnh thoảng sẽ ho khằng khặc. San Francisco khoảng ba mươi phút trước mặt, và nếu tôi muốn câu chuyện chấm dứt trước khi trời sáng, tôi nên bắt đầu từ bây giờ.
*
Chuyện ông Thiệp tự treo cổ lên xà nhà vào một buổi chiều mùa Hè thì cả làng đều biết, kể cả một đứa con nít như tôi. Vì sao ông ấy làm như vậy thì họa chăng chỉ có một vài người trong số ngưới lớn mới biết. Nhưng thằng Kình thì chắc là không biết. Nó không biết rất nhiều thứ, kể cả việc nói một câu cho ra hồn. Thằng Kình là con một của ông Thiệp, lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi. Nếu tôi gọi một người nào khác trạc tuổi thằng Kình bằng thằng, mẹ tôi sẽ thẳng cánh quất vào mông tôi vài ba ngọn roi dâu đau điếng người cho chừa cái tật hỗn láo. Nhưng trong làng từ nhỏ chí lớn, kể cả mẹ tôi, chỉ gọi thằng Kình là thằng Kình hoặc nhiều lắm là thằng Kình khùng. Người ta nói nhà nó có máu điên, chính ông Thiệp cũng chẳng tỉnh táo gì mấy. Hôm đám ma, tôi cứ nhằm thằng Kình mà dòm trân trân. Nó mặc áo vải mùng, quấn khăn trắng, tay bưng bình nhang đi theo quan tài, mặt ngơ ngơ. Thỉnh thoảng cái môi trên dày mo của nó uốn éo táp lấy môi dưới lúc nào cũng nhễu nhão thứ nước miếng nhơn nhớt mà liếm qua liếm lại trông gớm chết. Con nít nhà quê đứa nào cũng dơ dáy bẩn thỉu, kể cả thằng lỏi tì mười tuổi là tôi, mà nhìn thằng Kình vào những lúc đó còn phải nổi da gà thì đủ biết. Đám ma nhà nghèo ở nhà quê chán ngấùy, chẳng có gì đáng xem. Nếu không có thằng Kình, đám ma ông Thiệp chắc còn chán hơn nữa.
Thằng Kình không đi học. Có ai khùng mà đi học đâu! Nó đi làm mướn cho người trong làng. Mẹ nó cũng đi làm mướn. Bà đi kéo tơ thuê cho nhàø cửu Nhì. Đất làng tôi là đất biền, pha nhiều cát, không trồng lúa được. Người ta trồng dưa gang, trồng đậu phộng, trồng đậu xanh đậu đỏ, trồng bắp, trồng thuốc lá, và trồng dâu lấy lá cho tằm. Đất biền khô queo, trồng cái gì cũng phải tưới nước. Thằng Kình sức trai, người ta mướn nó gánh nước tưới mấy khoảnh hoa màu. Cả chủ lẫn người làm thuê múc nước từ cái “bàu” nhỏ vào đôi gầu to tướng bằng tre đan trét dầu “rái” rồi cong lưng gánh về khoảnh đất đang thiếu nước, chiếc đòn gánh oằn xuống bật lên nhịp nhàng theo nhịp bước, những giọt nước nhảy sóng sánh trên miệng gầu trước khi rơi xuống đất. Cứ như vậy từ sáng đến trưa, rồi từ trưa đến tối.
Chừng hai năm sau ngày ông Thiệp tự vẫn, làng xóm trở nên chộn rộn. Phe Mặt trận kéo về vào lúc chạng vạng, chụp nguyên ổ hội đồng xã từ đại diện, ủy viên tư pháp, cho đến hộ tịch, thư ký xỏ thành một xâu ở cột cờ. Tối hôm đó, Mặt trận lùa dân cả năm thôn về trụ sở xã làm mít tinh. Mặt trận điểm mặt từng tên trong cái xâu người đó, chửi bới một hồi lâu, xong cuối buổi họp thả hết sau khi bắt họ thề thốt không làm tay sai cho Mỹ Diệm nữa. Thiệt là hú hồn hú vía cho mấy ông đó. Ba hôm sau lính quận kéo lên đi rần rần ngoài đường, chó sủa ỏm tỏi, thỉnh thoảng có tiếng súng trường “ga răng” kêu cắc cù cắc cù. Rồi lính quận rút về Vĩnh Điện, Mặt trận lại kéo ra mít tinh. Ai làm gì thì làm, dân làng mỗi ngày tiếp tục vác cuốc hoặc quang gánh ra biền làm cỏ, tưới nước.
Thằng Kình bây giờ chỉ làm mướn cho mỗi nhà chú Tám Thơm. Chú bị bịnh gì không biết, người xanh như tàu lá, nằm thu lu trên chiếc chõng tre một tháng hết hai mươi tám ngày. Mỗi sáng sớm thím Tám vác hai chiếc cuốc đi trước, chị Hạnh gánh đôi gầu trong đó có miếng mo cau đựng cơm trộn bắp đỏ au và một nồi rau dền luộc theo sau. Chị Hạnh năm đó mười tám tuổi, học hết tiểu học ở nhà phụ với mẹ trồng dâu nuôi tằm. Ngang nhà bà Thiệp, thím Tám chậm lại, cất tiếng kêu Kình ơi, đi mi xong tiếp tục đi thẳng. Lần nào cũng vậy, thằng Kình lùi lũi đi ra, trên vai là cái đòn gánh cột đôi gầu nước cũ mèm cộng thêm chiếc cuốc to bản, hả miệng ú ớ gì đó với chị Hạnh, vẻ mặt hớn hở.
Ba tháng sau ngày Mặt trận về hốt hội đồng xã, dưới quận đưa mấy người ở nơi khác về lo việc hành chánh. Nghe nói là dân Phú Bông Phú Bài gì đó. Ban ngày họ làm việc ở trụ sở hội đồng, ngoài cổng có mấy anh dân vệ đứng gác. Có khi họ kéo nhau đi thăm dân cho biết sự tình, cũng có mấy anh dân vệ vác súng đi theo. Ban đêm họ kéo nhau về nhà riêng gần quận lỵ cho có an ninh. Lâu lâu Mặt trận về mít tinh la rầy dân làng sao lại để mấy thằng ở đâu đâu tới đây leo lên đầu lên cổ mình mà ngồi. La rầy xong Mặt trận bỏ đi mất biệt, có khi cả tháng. Trong khi đó thì ông ủy viên hộ tịch Hồ Luyện cứ hay lại nhà thím tám Thơm mà thăm dân. Người ta không biết ổng thăm ai, chú Tám hay thím Tám. Chừng thêm mấy tháng nữa sau khi chú Tám lên cơn ho đàm nghe rồn rột ba bữa rồi ngã ra chết thì người ta không biết ông ủy viên hộ tịch thăm thím Tám hay thăm chị Hạnh.
Vào một buổi sáng, thím Tám quảy đôi gầu trong đựng mo cơm lổn nhổn những lát khoai lang khô xắt mỏng và nồi rau lang luộc đi ngang nhà bà Thiệp, dừng lại cất tiếng Kình ơi, đi mi rồi lủi thủi đi tiếp. Thằng Kình từ trong sân nhà lùi lũi bước ra, vai lỉnh kỉnh những gàu những cuốc, bậm môi lặng thinh. Không có chịï Hạnh cho nó hả họng ú ớ một cách hớn hở. Chị Hạnh bị bịnh gì đó không ai biết. Có thể thím Tám Thơm biết. Mà không chừng ông ủy viên hộ tịch Hồ Luyện cũng biết. Ổng tới lui nhà thím Tám cả sáu bảy tháng nay mà. Ngày hôm sau thím Tám lại quảy đôi gầøu đi ngang nhà bà Thiệp, lên tiếng Kình ơi, đi mi rồi quày quả bước đi. Được một quãng, thím dừng lại. Thằng Kình không có phía sau. Thằng Kình không có trong sân. Thằng Kình không có trong nhà. Thím quay tới, quay lui. Thím ngồi bệt xuống hè đường bụi bặm phủ đầy lá tre khô, khóc thút thít.