Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 04 Oct 2022

4



B
ây giờ, ngoài những giờ đi nghe giảng và những giờ thực tập ở bệnh viện, Michel làm phụ tá cho ông giáo sư già Norf.
Phòng thí nghiệm của Norf gồm một dãy phòng bụi bặm, bề bộn ngăn kệ với những hàng chai lọ đựng formol trong đó ngâm nào ruột, nào bao tử, nào bàn tay bị lở loét. Trong những cái chậu nhỏ là các lá gan bị ung thư, những lá phổi, những bộ ruột được ướp muối. Trên các vách tường, người ta thấy hình những con chuột ốm trơ xương mang cái bướu khổng lồ dưới bụng hay trên lưng với hàng chữ:

Ung nhọt nơi một con chuột ba tuổi.
Giáo sư Norf, 16/11/27. Số 199 B-8.


Những tấm hình này làm cho Norf hãnh diện không kém gì những bức tranh của các danh họa.
Norf sống ba phần tư cuộc đời mình trong phòng thí nghiệm, cùng với Vanneau, ông già phụ việc có bộ ria mép rậm rạp. Ông đã có vợ và ba đứa con, nhưng với ông, cuộc sống gia đình không có gì quan trọng. Ông chỉ sống cho một thứ, một cụm từ rất ngắn gọn: Bệnh ung thư.

Image


Mỗi sáng, Norf là người đầu tiên đến bệnh viện, trước tất cả các giáo sư và sinh viên. Michel và Vanneau đợi ông ở đó. Tay ôm một cái giỏ lớn như thứ giỏ của người hàng thịt, ông đi một vòng, hỏi thăm các bệnh nhân, các nữ y tá, rồi đi xuống nhà xác. Đến đó, ông lấy trong giỏ ra một chiếc tạp dề rộng bằng vải xanh lam, một đôi guốc, rồi xắn hai cánh tay áo sơ mi lên và bắt đầu làm việc.
Michel đã từng chứng kiến hàng ngàn vụ mổ tử thi, nhưng công việc của Norf hoàn toàn mới lạ đối với anh. Đó là một công việc chậm chạp tỉ mỉ và trọn vẹn. Norf làm việc với một lương tâm chức nghiệp lạ thường. Ông đặt con dao lên trán thi thể, dùng búa gõ vào con dao để rạch một đường xung quanh sọ. Sau đó, ông lấy cái vòm xương ra, để lộ bộ óc. Rồi ông luồn bàn tay dưới bán cầu não và nhẹ nhàng đưa bộ óc vào một cái đĩa. Kế đó ông tấn công vào thân. Trước tiên, ông mổ banh lồng ngực, lấy quả tim và hai buồng phổi ra để quan sát. Sau đó, ông mổ bụng tử thi, xem xét tình trạng bao tử, lấy bộ ruột đem đến trước cửa sổ để quan sát kỹ từng chi tiết. Nếu có chi tiết nào khả nghi, ông liền cắt ra để quan sát bên trong. Sau đó, ông đặt lá gan, lá lách, tuyến tụy lên bàn, tách các quả thận, đem cân mỗi bộ phận và ghi trọng lượng của chúng. Sau cùng, ông cắt ngang tất cả những bộ phận đó, lấy của mỗi bộ phận vài miếng: tim, phổi, bao tử, gan, óc. Ông bỏ chúng trong các bình đựng đầy formol. Nếu chúng quá lớn, ông cho chúng vào giỏ và mang về phòng thí nghiệm.
- Anh không bao giờ biết được anh sẽ tìm thấy những gì, - ông nói. - Anh chỉ có thể thấy được những chi tiết mà những kẻ khác không thấy, nếu anh chịu khó mở to mắt và đi thật chậm.
Nhiều bạn đồng nghiệp chế giễu ông một chút về việc mổ tử thi tỉ mi vô tận. Ông già Norf không biết chuyện ấy, nhưng nếu biết ông cũng chẳng bận lòng.
- Cần phải xem xét tất cả, - ông nói. - Một chứng bệnh thận cũng ảnh hưởng đến quả tim, lá gan và bộ óc. Không có một chứng bệnh nào bị hạn chế ở một cơ quan duy nhất! Và sự thật, không có bệnh tật gì hết, chỉ có những người bệnh thôi. Những bộ sách y khoa liệt kê cho anh những triệu chứng của mỗi bệnh: Đó chỉ là một sự láo khoét. Người ta không bao giờ tìm được hết tất cả mọi triệu chứng, và lúc nào người ta cũng tìm thấy triệu chứng khác lạ ở đó. Kinh nghiệm sẽ cho anh thấy, Doutreval ạ. Và đó là lý do vì sao có rất nhiều bác sĩ tồi: họ tin tưởng hoàn toàn vào sách giáo khoa. Tôi chủ trương rằng mỗi sinh viên y khoa cần phải trải qua ít nhất một thời gian nội trú ở bệnh viện. Sinh viên nội trú tiếp xúc thường xuyên với các bệnh nhân của mình. Chính anh ta lãnh trách nhiệm chăm sóc họ trong thời gian dài một cách kỹ lưỡng và thoải mái, không phải nơm nớp lo sợ sự chứng kiến, theo dõi của giáo sư cũng như của bạn bè sau lưng anh ta. Điều này làm cho anh ta có thể chăm chú vào việc chữa bệnh, tập cho anh ta “hành nghề” thật sự. Với những phương pháp đào tạo ngày nay, có quá nhiều sinh viên y khoa trở thành bác sĩ mà không hề tiếp xúc với bệnh nhân một lần nào. Rất ít, phải nói là rất hiếm sinh viên có khả năng trải qua thời gian dài tập sự trong các bệnh viện, nghiên cứu những trường hợp bệnh nhân của họ…
Sau khi khám nghiệm tử thi xong, Norf đứng lặng trong một phút ngắm nhìn cái giỏ. Với những vết máu bị bết trên đôi tay, những mảng thịt thối còn dính ở mấy đầu ngón tay, ông đứng lặng, chìm đắm trong suy tư, điếu thuốc lá trên môi đã tắt từ lúc nào, và gương mặt thỏa mãn nở một nụ cười mơ hồ. Lấy trong túi ra một hộp thuốc lá, bằng những ngón tay còn dính đầy mỡ, ông vẫn cuộn cho mình một điếu và đưa lên lưỡi liếm cho nó dính lại rồi châm lửa. Và, chân mang guốc, mình khoác tạp dề xanh, tay ôm một giỏ nặng trĩu, ông bước ra, băng ngang qua một khu phố Paris để trở về phòng thí nghiệm. Trông ông giống như một đồ tể với cái giỏ bê bết máu và chiếc áo tạp dề dính đầy những vết đỏ, khách đi đường ngoái cổ lại nhìn theo ông. Về đến phòng thí nghiệm, ông trao cho Michel và Vanneau những bộ phận cơ thể không quan trọng, để dành những bộ phận khác cho ông nghiên cứu, rồi lên lớp giảng bài. Bài giảng của Norf, được chỉnh sửa và bổ sung hàng tháng, luôn luôn phù hợp với những công trình nghiên cứu mới nhất, là một tác phẩm tuyệt diệu.
Sau giờ dạy, Norf lên phòng thí nghiệm chuẩn bị những bộ phận mà ông để dành. Một miếng phổi, một miếng gan hay lá lách không thể để nguyên như vậy dưới kính hiển vi. Cần phải nhuộm màu các tế bào rồi bỏ cả khối thịt chết đó vào chất paraffin để giữ nó bền lâu, cuối cùng cắt thành từng miếng vô cùng mỏng, chỉ dày vài phần ngàn mi-li-mét. Trong những trường hợp quan trọng, Norf tự mình làm hết mọi việc, ông sẵn sàng làm mười lần một công việc nếu cần, để cho nó được hoàn hảo. Và nếu đó là một bệnh nhân còn sống, nếu cuộc quan sát khoa học của ông ảnh hưởng trực tiếp đến mạng sống con người, Norf đôi khi quên cả bản thân mình và thức đến nửa đêm với Michel. Nhưng ông cũng có khả năng hoàn thành công việc một cách mau lẹ. Điều này ai cũng biết. Có những lúc, các đồng nghiệp của ông thuộc khoa phẫu thuật tổng quát đang phẫu thuật, nửa chừng gặp phải một khối khả nghi trong ruột, trong tử cung, trong tĩnh mạch chủ. Ung thư ư? Nếu Norf đang ở phòng thí nghiệm thì người ta liền đến gọi ông. Ông bèn chạy tới lấy một chút xíu thịt, trở về phòng thí nghiệm. Và một lúc sau câu trả lời đến, ngắn gọn, trên một tờ giấy dơ bẩn:
- Ung thư. Cần phải cắt bỏ.
Suốt năm đó, Michel làm việc cho giáo sư Norf. Tính tình lầm lì xa cách, Norf chỉ nói chuyện về công việc. Ông không bao giờ nói chuyện riêng tư với anh, không một lần bắt tay anh.
- Đối với tôi, - Vanneau nói - ông ấy chỉ bắt tay tôi có bốn lần trong bốn mươi năm.
Norf sống mà tâm trí ở ngoài thế giới, bên ngoài thực tại. Vũ trụ của ông chỉ bao gồm vỏn vẹn cái phòng thí nghiệm của mình. Ông đi đi lại lại, mặc áo sơ mi, thân hình cao lớn, vẻ mặt suy tư, vầng trán nhăn nheo, với điếu thuốc tắt ngấm luôn luôn vắt vẻo trên môi, ông làm tàn thuốc rơi khắp nơi, cổ tay áo chà lết trên tất cả mọi cái bàn và thấm bết đủ loại thuốc nhuộm màu. Ông tiến đến bên cạnh lúc bạn đang làm việc trước kính hiển vi, đẩy bạn ra để ngồi vào chỗ của bạn, và quan sát dưới ống kính suốt hai giờ liền một tế bào ung thư, thỉnh thoảng đưa lên môi điếu thuốc lá bạn bỏ quên trên bàn, quên luôn cả sự hiện diện của bạn bên cạnh. Sự đãng trí của ông thật không có giới hạn. Sau khi mổ xong các tử thi, để tránh không mang về nhà những mầm vi khuẩn nguy hiểm cho bà vợ, ông cởi hết y phục của mình. Và trần truồng ngay giữa phòng, ông phết lên khắp người chất thuốc tím khiến da ông có màu ghê rợn nửa đỏ, nửa đen. Trông ông lúc đó giống như một người da đỏ châu Mỹ. Rồi, để lấy lại màu da bình thường, ông phết lên người chất bisulfit làm tan màu chất thuốc tím. Nhưng chỉ một lát sau ông đã quên khuấy đi mất, và khi Vanneau mang đến cho ông một cái bình đựng bộ ruột người, ông mở nắp ra, tay cầm những khúc ruột và bắt đầu tháo gỡ chúng với vẻ háo hức. Ngay trước mặt khách, ông thản nhiên tiểu tiện vào trong các chai lọ và ống nghiệm; Khi có khách đến, ông vừa đứng tiểu vừa chìa tay còn lại ra bắt tay khách. Ông chẳng màng để tâm đến một điều gì của cuộc sống hàng ngày. Có hôm, trong thời gian vợ và các con đi nghỉ hè, ông bị một chiếc taxi đụng phải và được đưa vào bệnh viện. Vài ngày sau, lành bệnh, ông cảm thấy rất sung sướng nếu được ở luôn trong bệnh viện, không phải lết bộ đến phòng thí nghiệm, không phải lo nghĩ đến mấy bữa ăn, đến người đàn bà giúp việc nội trợ, người giặt ủi, người cung cấp thực phẩm. Nhất là ông cảm thấy rất tiện lợi được ở ngay tại đây để có thể lấy ngay những bộ phận phẫu thuật còn tươi. Độ hai tháng sau khi bà Louise Norf trở về, Norf rời bỏ bệnh viện với một sự lưu luyến không giấu giếm.
Những lo âu của Norf không giống như những lo âu của người khác. Ông chỉ chú ý đến bọn vi khuẩn, những chiếc máy dùng để cắt thịt thành những lát thật mỏng, những kính hiển vi và những lưỡi dao cạo cần thiết cho việc sử dụng kính hiển vi. Ông dùng tất cả thời giờ để mài giũa chúng, làm cho chúng bén nhọn hơn. Hoặc ông tìm cách phát minh ra những con dao dùng riêng cho kính hiển vi, và những con dao do ông chế tạo không bao giờ sử dụng được. Những lưỡi dao chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong cuộc đời của Norf. Có lần ông bị bệnh trong hai tuần lễ, ông viết thư cho Michel và Vanneau để chỉ cho họ những cách thức chăm sóc các lưỡi dao.
Norf làm một bản kế toán tỉ mỉ về các chi phí của phòng thí nghiệm. Ông sống trong sự lo âu bị tố cáo lạm tiêu công quỹ.
Thỉnh thoảng òng vác trên vai một mớ ván thông đến phòng thí nghiệm. Vanneau liền bào láng, làm thành các ngăn để đựng vô số những cuốn sách quý được viết bằng nhiều thứ tiếng. Căn phòng nhỏ hẹp, thiếu chỗ, nên các ca phẫu thuật được thực hiện giữa cái máy hấp và tủ lạnh. Chính tại đó, trong một khung cảnh nghèo khó và bề bộn, Norf tiếp đón những nhà y học nổi danh, những nhà khoa học lừng lẫy, đến từ Washington, Rome, Moscow và Tokyo, bao nhiêu chiếc giày của họ đã giẫm lên những đống dơ bẩn trong sân, và họ lễ độ che giấu sự ghê tởm khi ngửi phải mùi hôi thối bốc ra từ những cũi chó và lồng chuột.
Norf lãnh năm mươi ngàn franc mỗi năm, vì ông không mở phòng khám riêng mà chỉ thích cống hiến tất cả thời gian của mình cho Nhà nước. Trái lại, đa số các đồng nghiệp của ông mở phòng khám tư và lãnh của Nhà nước số thù lao ít hơn ông năm ngàn franc.
- Cái tai hại là ở chỗ đó, thưa cậu Michel, - Vanneau nói. - Nếu Norf chịu nhận khám bệnh cho các khách hàng, ông ấy sẽ kiếm được ba trăm ngàn franc mỗi năm. Tốt hơn là nên trả lương giáo sư thật hậu để họ không cần phải tìm khách hàng nữa. Tất cả tình trạng tồi tệ đều do việc này mà ra! Chỉ vì cần có nhiều khách hàng mà một bộ phận sinh viên ao ước cái chức giáo sư y khoa. Chỉ vì cần có nhiều khách hàng mà đôi khi các “ông thầy” ủng hộ những cậu học trò thiếu khả năng và chấm cho họ đậu. Sau này khi ra mở phòng mạch, họ sẽ giới thiệu bệnh nhân cho ông thầy chữa trị. Do đó, một số người muốn trở thành giáo sư y khoa không phải vì lòng yêu nghề, hoặc yêu sinh viên mà chỉ vì để có những mối liên hệ mật thiết với nhiều bác sĩ tương lai sẽ quảng cáo cho họ. Hẳn cậu cũng thấy một số giáo sư không đích thân giảng dạy mà giao trách nhiệm này cho một phụ tá. Họ chỉ cần lãnh năm mươi ngàn franc và dùng tất cả thời gian rảnh của mình để khám tư. Trong sáu tháng giảng dạy của niên học, họ chỉ đến trưởng khoảng ba mươi lần, hai mươi lần, hay mười lần. Và có thể còn ít hơn nữa! Cần phải có những kỳ thi thật sự đúng đắn và những giáo sư dành trọn thời gian cho việc giảng dạy. Nếu không, trong ban giảng huấn của chúng ta, một thành phần rất ưu tú sẽ tiếp tục bị mang tiếng xấu do lỗi của một nhóm nhỏ ham lợi.
Ông già Vanneau làm tất cả mọi việc trong phòng thí nghiệm: quét dọn, chùi rửa, giặt giũ. Ông vừa làm thợ mộc vừa làm thợ sửa cửa kính, thợ máy, thợ sửa dụng cụ quang học, thợ điện. Ông sửa chữa cân tiểu ly, dao mổ và kính hiển vi, rồi leo lên mái nhà để nạo sạch ống khói. Ông chăm sóc các con vật, cho những con chuột bị bệnh ung thư ăn uống, giúp Norf giải phẫu. Mỗi tháng, Vanneau lãnh gần một ngàn franc, và cứ ba năm lại được thêm một bộ quần áo mới. Nhưng những người quét đường nhận lương còn nhiều hơn ông bởi vì họ ở trong nghiệp đoàn. Còn Vanneau chỉ trơ trọi một mình.
Để cải thiện phần nào cuộc sống của mình, ông phải sử dụng đến một số kiến thức về y khoa đã thu lượm được trong bốn mươi năm sống bên cạnh Norf. Vì quá bận rộn, Norf đã huấn luyện và dào tạo Vanneau để sử dụng ông như một người phụ tá. Giờ đây, sau Norf, ông già lao công phòng thí nghiệm là người có khả năng vững chắc nhất ở Pháp để tìm ra bệnh ung thư dưới ống kính hiển vi. Các sinh viên y khoa đều biết rõ khả năng của ông. Vào những ngày thi, Vanneau phân phát cho các sinh viên những tấm kính trên đó có những lát thịt ung thư thật mỏng mà họ phải phân biệt đó là gan, phổi hay ruột. Norf làm giám thị. Nhưng nếu tình cờ trông thấy một miếng kính đáng chú ý, ông bèn ngồi ngay vào chỗ của sinh viên đó, trước sự mừng rỡ hoàn toàn của anh ta, và quan sát một cách say mê, quên cả kỳ thi và giờ giấc. Và, thế là từ khắp nơi trong phòng thi vang lên những tiếng kêu cứu S.O.S. Những tiếng gọi thì thầm:
- Ông Vanneau! Hãy đến đây!
Vanneau tiến đến, liếc nhìn một cái, nói nhỏ vài tiếng:
- Sarcoma gan… u não…
Và ông được mỗi sinh viên trả cho hai mươi franc khi họ ra khỏi phòng thi. Ngay cả những bác sĩ cũng nhờ đến ông. Riêng đối với Michel, ông có lòng tốt, giúp không cho anh vì ông biết anh nghèo. Nhiều bác sĩ thường đến phòng thí nghiệm của Norf để tìm Vanneau, mang theo một miếng thịt nhỏ xíu:
- Này Vanneau, ông hãy cho tôi biết có tế bào ung thư trong miếng thịt này không?
Vanneau kiếm được năm mươi franc cho mỗi câu trả lời. Và người bác sĩ cũng được lợi, bởi vì các phòng thí nghiệm khác đòi đến một trăm năm mươi franc. Tillery thỉnh thoảng cũng đến nhờ Michel làm vài công việc thuộc loại này. Hơn nữa, khi cảm thấy không hoàn toàn tin chắc vào chẩn đoán của mình, Michel thẳng thắn mời Vanneau đến và nói với ông:
- Này Vanneau, ông có ý kiến gì về cái này?
Vanneau cúi xuống, nhìn vào ống kính hiển vi quan sát trong năm phút rồi đứng thẳng người lên:
- Thưa cậu Michel, tôi nhớ hôm trước, trong trường hợp tương tự như vậy, ông Norf bảo đó là chứng ung thư…
Như thế không phải Vanneau mà là Norf đã giảng giải cho Michel. Ông già lao công thật tế nhị biết bao. Norf cũng biết khả năng của Vanneau. Trong những trường hợp khó, và khi đôi mắt bị mệt mỏi, Norf bỏ đi, để nguyên chiếc kính hiển vi tại chỗ. Và Vanneau lảng vảng xung quanh đó, ghé mắt nhìn vào ống thị kính, bỏ đi quét nhà, rồi quay lại bên chiếc kính hiển vi… Sau đó Norf gọi ông lao công già của mình đến, đọc cho ông viết bản thuyết trinh:
- Hãy viết đi, Vanneau!

“Vì không tìm thấy một dấu hiệu chắc chắn nào vì sự hiện diện của một khối u…”

Vanneau ngừng viết, giả vờ như bị ngứa ngáy bất thình lình ở bắp chân:
- Thưa ông, - Vanneau vừa nói vừa gãi bắp chân - ông có nhìn vào góc trái không… Dường như có một cái gì ở đó… Tôi không hiểu gì cả!
Norf tiến đến kính hiển vi, điều chỉnh máy để quan sát được ở góc phía bên trái. Ông nói thì thầm:
- Phải, phải… có lẽ đúng.
Và đứng thẳng người lên, ông nói một cách giản dị:
- Hãy viết đi, Vanneau!

“Trong trường hợp hiện tại, đó là một khối u được cấu tạo như sau…”

Phòng thí nghiệm giải phẫu bệnh lý, cũng như tất cả những phòng thí nghiệm khác ở Pháp, được Nhà nước trợ cấp hai mươi ngàn franc mỗi năm. Với số tiền đó, Norf phải thanh toán các hóa đơn điện, gas, than và điện thoại. Như vậy, ông chỉ còn lại mười ngàn franc để mua sắm dụng cụ làm việc: hóa chất, những con vật thí nghiệm và thức ăn cho chúng. Một con chuột giá năm franc! Norf không có đủ chuột để thí nghiệm, buổi tối ông phải giăng bẫy bắt chuột. Tuy nhiên, ông không bao giờ than phiền. Ông thuộc thế hệ của những nhà bác học xưa đã quen cảnh nghèo khó. Vanneau chỉ kể cho Michel vài trường hợp của giáo sư Gley, chủ tịch Viện Hàn lâm Y học, vào khoảng năm 1910 đã tìm ra insuline, một loại thuốc hiệu quả để trị bệnh đái tháo đường. Cần phải có ba mươi con chó để tiếp tục thí nghiệm, nhưng ông chỉ có ba con thôi. Thế là ông phải bỏ dỡ công việc. Và hai mươi năm sau, khi hàng chục ngàn người mắc bệnh đái tháo đường đã chết, chất insuline mới được đem bán cho chúng ta như một phát minh của châu Mỹ. Trường đại học Toronto của Canada đã nghĩ rằng những đòi hỏi của các nhà bác học của họ rất chính đáng, và đã cung cấp ba mươi con chó cần thiết.
Norf thiếu nhân viên, ông đã đào tạo được Vanneau, và Michel cũng phụ giúp ông. Nhưng khi Michel đậu bằng bác sỉ, anh sẽ ra đi. Norf sẽ chỉ còn một mình, và buộc phải bằng lòng với sự giúp đỡ của những người phụ tá tình nguyện. Có lẽ ông có thể xin được những ngân khoản cần thiết để kiếm được một phụ tá thường xuyên. Nhưng một trưởng phòng thí nghiệm lương hai mươi ngàn franc mỗi năm, một phụ tá chính thức mười bốn ngàn franc, và một phụ tá tập sự chỉ có chín ngàn franc, nghĩa là ít hơn lương của một lao công ba ngàn franc. Những đồng lương này làm cho những người trẻ phải rút lui. Người ta cũng có đặt ra một số học bỗng, nhưng không có thí sinh. Và các quốc gia khác đã thu hút hết giới trẻ của chúng ta. Khắp mọi nơi, những phòng thí nghiệm, những nhà máy, những trung tâm nghiên cứu được trang bị đầy đủ và trả lương cho các nhà bác học thật hậu hĩnh. Điều này khiến cho một phần tinh hoa ưu tú của đất nước ra đi tìm công danh sự nghiệp ở nước ngoài, nơi mà họ được hậu đãi hơn.
Norf không hề than phiền về cảnh nghèo khó. Khi nhìn vào ống kính hiển vi, ông quên hết mọi chuyện. Nhưng bà Norf, khi Michel và Évelyne thỉnh thoảng đến thăm, thốt ra những lời đầy thất vọng. Chính bởi trông coi ngân sách, bà thấy trước rằng tương lai của họ sẽ rất đen tối. Chẳng bao lâu nữa, Norf sẽ phải về hưu. Bị xem là đã quá già, ông sẽ không có quyền đặt chân đến phòng thí nghiệm nữa. Người ta sẽ không cần đến những công việc mà ông đang làm, những công trình nghiên cứu mà ông đã theo đuổi trong ba mươi năm qua và sắp sửa hoàn thành. Điều này Norf tránh không nghĩ đến. Nếu không, ông sẽ phát điên lên mất. Điều tệ nhất là lúc ấy ông chỉ còn lãnh được có hai mươi lăm ngàn franc tiền lương hưu. Với số tiền đó làm sao sống được ở Paris? Ông sẽ phải rời khỏi ngôi nhà cũ, bán hết sách vỡ và lui về chôn cuộc đời mình trong một góc ở đồng quê, để trí tuệ chết dần chết mòn vì thiếu hoạt động. Ở nhiều đất nước khác, các giáo sư vẫn được trả trọn vẹn số tiền lương của mình cho đến khi chết, và nếu ai được phong là “giáo sư xuất sắc” thì vẫn được giữ phòng thí nghiệm để sử dụng. Ở xứ sở của chúng ta không có gì cả. Dường như vì chúng ta quá nghèo, không thể trọng đãi giới trí thức một cách “xa xỉ” như thế được.
Cái tương lai đen tối đó, những nỗi lo âu về một cuộc sống bị bóp nghẹt đó, bà Louise Norf, người vợ già của ông thầy già, chỉ kể cho một mình Michel nghe thôi, khi bà đến phòng thí nghiệm để tìm ông chồng hiền lành và đãng trí như một đứa trẻ. Trước mặt Norf, bà làm thinh. Bà giữ kín những lo âu cho riêng mình, bà tằn tiện, giữ gìn quần áo của bà để mặc cho được lâu, giảm bớt giờ mướn người giúp việc nội trợ. Và đột nhiên vào một hôm nào đó, bà đem đến cho Norf hai ngàn franc.
- Này, ông cầm lấy để mua cái máy chụp vi ảnh…
Với vẻ háo hức và vô tâm hơi tàn nhẫn của một đứa bé, Norf vồ lấy số tiền, cảm ơn qua loa rồi vội vàng bay đến cửa tiệm cung cấp các y cụ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 04 Oct 2022

5



Chủ nhật nào Michel cũng đến thăm Évelyne. Cô mỗi ngày một khỏe hơn. Phổi đã bớt tiếng khò khè, ít ho và ít đờm. Michel không hiểu nổi sự cải thiện này, căn bệnh của cô - mà sự áp dụng các phương pháp phẫu thuật phổi, những chất muối màu vàng, và sự ăn uống tẩm bổ tối đa vẫn không chữa trị được - đã từ từ thuyên giảm nhờ cách ăn uống thật đạm bạc, gần như là ăn chay: một ít thịt, bánh mì, khoai tây, rau sống, xà lách, trứng, trái cây, một chút pho mát và đường.
Bác sĩ Domberlé, người từng mắc bệnh lao trước kia, cũng sống bằng một cách ăn uống còn đạm bạc hơn nữa.

Image


Khi Michel bàn với ông về vấn đề này, ông mỉm cười rút các bản ghi chép ra cho Michel đọc, hoặc dẫn Michel đi một vòng quanh trại để tận mắt nhìn thấy những người bị bệnh lao đã thuyên giảm hoặc khỏi hẳn: Mỗi bữa, họ chỉ ăn một quả trứng, hai trăm năm mươi gam bánh mì, ba trăm gam khoai tây, ba trăm gam trái cây và năm trăm gam rau tươi, gần như không có thịt, không có rượu nho, không có đường nguyên chất, cũng không có sữa.
Évelyne không mập phì ra, nhưng dưới cánh tay, các khối hạch đã xẹp, cô cũng không còn sốt và mất ngủ nữa. Nhờ cách ăn uống? Hay chỉ là sự ngẫu nhiên? Michel không dám tin rằng cả một nguyên tắc của nền y khoa chính thống lại có thể bị sụp đổ như thế được.
Đây chỉ là sự tình cờ. Trong y khoa, cái gì cũng có thể xảy ra… Anh nghĩ.
Tuy nhiên, anh chứng kiến những sự việc thật kỳ lạ. Chỉ một bữa ăn hơi quá nhiều thịt hay đường, một buổi tập thể dục quá sơ sài hay quá mệt mỏi, thế là trong những giờ tiếp theo, Évelyne ho trở lại, lại cảm thấy đau nhói dưới nách, các hạch sưng phồng lên: sự phản ứng của cơ thể gần như ngay lập tức.
Sau vài tháng, cô bắt đầu tăng cân một chút. Khi nghe phổi của cô, Michel chỉ còn nhận ra vài tiếng kêu rất nhỏ ở phía ngoài. Hình chiếu điện cho thấy một lỗ hổng lớn ở đầu phổi đã xẹp xuống, những lỗ nhỏ nhất chỉ còn là những vết sẹo.
Các thực đơn của Domberlé không bao giờ giống hệt nhau. Chúng thay đổi tùy theo tình trạng của bệnh nhân. Và trái hẳn với những phương pháp cổ điển, người bệnh càng yếu chừng nào thì các thức ăn được chỉ định càng nhẹ và càng đơn giản, không phải về lượng mà về chất. Trong những trường hợp đặc biệt - nhưng khá hiếm - Michel thấy những người bệnh lao cầm cự được và dần dần lấy lại sức khỏe nhờ những liều lượng chất đạm rất ít: một phần mười quả trứng trong ngày, một tí xíu bơ, năm gam pho mát. Để bù lại, họ được ăn nhiều rau sống, khoai tây và bột. Khi Michel nói điều này với các bác sĩ khác trong viện điều dưỡng, họ đều nhún vai. Tuy nhiên, chỉ trong hai ngày với phương pháp này, anh đã thấy nhưng ổ vi khuẩn trong phổi một nữ bệnh nhân sụt giảm rõ rệt, những tiếng khò khè và những hơi thở mệt nhọc không còn nữa. Nhưng nếu bệnh nhân trở lại phương pháp ăn uống tẩm bổ tối đa, chỉ trong ba ngày lại xuất hiện những cơn sốt, những hơi thở khò khè nặng nề…

- Bằng cách nào tôi đã khám phá ra phương pháp đó ư? - Domberlé nói vào một buổi chiều Chủ nhật, khi Michel hỏi ông một lần nữa. - Để trả lời, tôi phải kể cho cậu nghe tất cả về cuộc đời tôi.
Tôi mồ côi cha mẹ từ nhỏ, bị chứng đau khớp xương di truyền, và được một người chú nuôi nấng một cách lơ là. Tôi học y khoa ở Paris, ăn uống ở hàng quán, chạy theo các khách hàng… Tóm lại, vừa mới ra hành nghề, tôi nhận thấy phổi bên phải của tôi bị vi khuẩn xâm nhập.
Tôi tự chữa bệnh cho mình theo phương pháp cổ điển: tẩm bổ tối đa bằng thịt tươi, trứng, sữa… Đi nghỉ dưỡng sức ở Thụy Sĩ, ở viện điều dưỡng… Tôi xin miễn bắt cậu phải nghe hết các chi tiết… Nói tóm lại, cuộc đời tôi sắp sửa tiêu tan…
Đúng lúc đó, một sự tình cờ đã xảy ra.
Một buổi sáng, y tá mang nước cam đến cho tôi đã đưa nhầm ly. Và tôi uống ly nước chanh để xổ, vốn dành cho một bệnh nhân nằm gần bên. Tôi tự bảo: “Thôi! Thế là đời mình sắp chấm dứt.” Tôi trải qua một ngày và một đêm kinh khủng, rã rời, kiệt sức. Tôi chỉ ngủ thiếp đi vào đầu giờ sáng. Và thức dậy với một cảm giác khỏe khoắn kỳ diệu… Hơi thở dễ dàng, cơn sốt hạ xuống, một cảm giác dễ chịu và khoan khoái toàn diện, mạch chỉ còn có 80. Hai bàn tay hết sưng phù và bớt xanh rất nhiều… Nhưng sự khỏe khoắn chỉ kéo dài được hai ngày. Rồi cơn sốt lại xuất hiện.
Hiện tượng khó hiểu này khiến tôi suy nghĩ. Tôi đánh liều uống ly nước chanh để xổ nữa và tình trạng cải thiện khả quan lại diễn ra y như lần trước. Và cứ ba hay bốn ngày tôi làm lại một lần như thế, nhưng giảm dần liều lượng.
Với phương pháp vừa xổ vừa nhịn ăn, tôi sụt sáu kí lô trong hai tháng, nhưng tôi có đủ sức đi ra khỏi phòng!
Thế là tôi lao mình vào một con đường mà tôi thấy chỉ đưa mình đến sự gầy yếu, nhưng tôi không thể nào quay trở lại được. Tôi có cảm giác rất rõ rệt mình đang sống bằng những chất dự trữ của cơ thể, đang trả một giá rất đắt cho sự kéo dài ngắn ngủi. Tuy nhiên, tôi tự bảo: “Dường như có một sự liên hệ giữa tình trạng tiêu hóa với cơn sốt, sự tăng mạch, tình trạng ứ huyết và sự xâm nhập của vi khuẩn trong phổi.”
Sau đó tôi loại bỏ những thức ăn có nhiều độc tố nhất: thịt, cá, rượu nho, đường. Sau một bữa ăn hơi thịnh soạn, tôi thấy bị đau xóc ở ngực, ở vai, hai bàn tay bị sưng phù và xanh mét, tim đập yếu. Tại sao? Chúng ta đừng vội tìm hiểu.
Tôi tiếp tục chữa trị bệnh lao phổi của mình bằng đường bao tử và đường ruột. Cứ ba ngày tôi lại uống dầu thầu dầu một lần, và tôi ăn nhiều rau nấu chín và rau sống. Từ bảy mươi ký xuống chỉ còn có sáu mươi mốt ký. Tôi kinh hãi. Tuy nhiên phổi lại khả quan hơn!
Tôi đang đi đến đâu? Tôi sẽ kéo dài như thế này trong bao lâu? Tôi cảm thấy trong người dễ chịu hơn, nhưng tôi sợ sức khỏe của mình bị suy sụp. Tình trạng sụt cân của tôi làm cho cả bệnh viện ngơ ngác: Năm mươi bảy kí lô. Mạch 60. Nhưng bất cứ một toan tính nào để thử làm cho lên cân cũng khiến làm tăng mạch, cũng làm tái xuất hiện tất cả những triệu chứng khó chịu. Nhất định không thể thụt lùi được. Tuy nhiên, thuốc xổ làm hại ruột, gây trở ngại cho sự tiêu hóa và đặt tôi trong tình trạng thiếu chất kiềm dự trữ với chứng phù thũng toàn diện. Một y tá nảy ra ý nghĩ cho tôi ăn nhiều ô mai mận… Tình trạng của tôi khá lên thấy rõ, rồi tôi lành bệnh.
Lúc rời bệnh viện, tôi chỉ nặng bốn mươi chín kí lô. Tôi trở về Paris, thuê một căn phòng. Tôi đã bán hết đồ đạc, chỉ còn lại một cái giường, một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ trắng… Tôi rất ít khi ra ngoài. Chỉ đi một trăm mét trên lề đường là kiệt sức, không thể đi nổi nữa, phải gọi taxi… Tôi đang đi về đâu? Ngày mai tôi sẽ ra sao? Tôi không còn tiền bạc nữa, trước mắt tôi là tương lai mù mịt, và không có ai dẫn đường. Giữa tình trạng hỗn độn khó hiểu, tôi chỉ nắm được một vài điều: Tôi phải nghỉ ngơi, nuôi dưỡng bản thân bằng rau đậu, kiêng thịt, đôi khi kiêng luôn cả trứng và sữa. Đó là tất cả những gì tôi biết chính xác để tự chữa lành bệnh. Cơ thể tôi chịu đựng một chế độ ăn uống gần như ăn chay trong một khoảng thời gian dài.
Trong thời kỳ này, có những lúc tôi mất kiên nhẫn, phẫn nộ và nổi loạn. Rồi tôi cảm thấy rõ là sự nổi loạn này có thể đưa mình đến cái chết. Dần dần tôi hiểu ra rằng, đằng sau những sự kiện rời rạc hỗn độn này phải có một nguyên tắc nào đó mà tôi đã vi phạm. Và tôi tìm trở lại, dưới sự hướng dẫn của những đau đớn và thử thách. Tôi cúi đầu vâng lời, chấp nhận đi theo một cách kiên nhẫn, lê lết từng bước, ngã té và lại trỗi dậy như một con vật kiệt sức nhưng kiên cường. Và thử thách mới lại đem đến cho tôi một chân lý nữa. Tôi bắt đầu nhận ra vai trò giáo dục của sự đau khổ.
Vài người bạn, vài bác sĩ hoảng sợ giùm cho tôi:
“Mày điên rồi sao?”
“Mày như thế mà còn ăn chay à!”
“Mày muốn cân được hai mươi kí lô thôi hả?”
“Mày nên ăn một chút thịt tươi, uống dầu gan cá tuyết!”
“Nếu một bác sĩ chữa cho một bệnh nhân theo phương pháp của mày, người ta sẽ ném anh ta vào tù đấy!”
Tôi đi theo một con đường chưa hề có ai theo. Không thầy giáo. Không sách vở. Tôi kinh hãi muốn thụt lùi. Nhưng không thể được, chỉ một chút thụt lùi là cơn sốt lại tái phát.
Sáu tháng sau khi rời khỏi viện điều dưỡng, tôi quay trở lại đó, nhưng lần này với tư cách là bác sĩ phụ tá. Sự thật lúc đầu ở trong trại, người ta tưởng tôi là bệnh nhân, và tôi phải làm cho họ nhận thấy sự lầm lẫn đó. Nhưng cũng chẳng hề gì, đối với tôi đó là một cuộc tái sinh.
Tôi sống trong ngôi nhà nhỏ lụp xụp, cũ kỹ ở trong làng. Tôi lãnh ba trăm bảy mươi lăm franc mỗi tháng. Thật là tuyệt diệu! Và có một trăm mười bệnh nhân trong trại để tôi trông coi. “Ông thầy” của tôi chỉ đến hai lần mỗi tháng…
Tôi khám bệnh, hỏi han, tìm kiếm. Tôi nhận thấy hầu như tất cả các bệnh nhân của tôi đều đã trải qua một thời gian dài ăn uống tẩm bổ quá mức. Với những rối loạn của bộ máy tiêu hóa, một sự ngộ độc kéo dài và những phương pháp điều trị cổ điển khiến bệnh càng thêm trầm trọng. Như thế, bệnh lao phổi có thể chỉ là một tình trạng phụ thuộc, kết quả của sự làm việc quá sức của bộ máy tiêu hóa trong thời gian dài.
Một số bệnh nhân trong số ít các khách hàng của tôi rất tò mò. Khi tôi cấm không cho họ dùng thịt, họ hỏi: “Tại sao?”
Tôi cấm họ dùng quá nhiều đường nguyên chất, bánh mì nguyên cám, các loại đậu khô. Họ hỏi: “Tại sao? Tại sao?”
Tôi bảo họ: “Làm sao tôi biết tại sao? Tôi chỉ nhận ra điều này dựa theo kinh nghiệm của bản thân tôi, thế thôi!”
Dù sao, tôi cũng tức điên lên vì không thể trả lời được. Tôi lục lọi tra cứu một cách vô ích trong các cuốn sách, tôi nghiên cứu lại môn hóa học, làm những bài tính calorie, liều lượng đạm hoặc đường. Nhưng không tìm ra được cái gì hết! Rồi vào buổi sáng đẹp trời, một ánh sáng bất ngờ đã đến:
Đây chỉ là vấn đề nồng độ!
Phải, đúng rồi! Các tác giả cổ điển lúc nào cũng kê toa cho các bệnh nhân bao nhiêu gam chất đạm, bao nhiêu calorie cho mỗi kí lô trọng lượng của cơ thể. Đối với họ, người bệnh là một cái nồi để nấu những chất hóa học, hay đúng hơn, cái máy thiêu đốt mọi thứ nhiên liệu. Thế nhưng người bệnh là một cái máy đã bị yếu đi, không còn hoạt động bình thường được. Vậy, thay vì cho họ những thức ăn nồng độ mạnh như thịt, đường, rượu nho, các chất bổ kích thích sức lực, ta chỉ nên cho họ một thức ăn có nồng độ nhẹ. Một người bệnh lao phổi là một người đã bị suy yếu, cơ thể anh ta sẽ bị kiệt sức nếu phải tiêu hóa những trứng, nước thịt ép và các thứ rau khô. Đây là lý do vì sao cơ thể anh ta chỉ chịu được loại bánh mì trắng, những thứ thịt nhẹ, pho mát nhẹ, khoai tây, rau tươi và trái cây không có chất chua. Tất cả những thức ăn này đều có nồng độ nhẹ về chất đạm, chất đường, chất béo hay khoáng chất. Và tất cả nghệ thuật là biết điều chỉnh nồng độ của thức ăn thích ứng với khả năng tiêu hóa của người bệnh: thức ăn mạnh cho người khỏe, thức ăn nhẹ cho người yếu.
Thế rồi một tai nạn lại xảy ra: Uống nước chanh quá nhiều làm cho tôi bị mất khoáng chất, đến độ sau khi bị đứt ngón tay, tôi thấy những hạch dưới nách nổi lên và mưng mủ. Một lần nữa, tôi phẫn nộ. Phẫu thuật ư? Không thể được, lá gan của tôi không chịu đựng nổi chất thuốc mê chloroform. Đành phải đút vào trong vết thương một ống dẫn lưu để hút mủ ra, và cứ sống như thế, cố gắng không nghĩ đến nó nữa. Nhưng nó làm cho tôi đau nhức, nó phù lên, nó rỉ mủ ra. Tôi không thể nào không nghĩ đến nó được. Thế nhưng sự ra mủ, sự ứ huyết và những cơn đau nhói gia tăng hay chấm dứt tùy theo chất và lượng của các thức ăn, của việc tập thể dục, nghỉ ngơi. Tôi không còn nguyền rủa các hạch và lá gan bị nhiễm bệnh của mình nữa. Nếu không có thử thách này, tôi học được những gì? Tới sẽ còn tiếp tục gây biết bao lỗi lầm nữa! Và những lỗi lầm này sẽ kéo theo bao tai họa khác còn nguy hiểm hơn.
Thế là tôi đã nắm trong tay chìa khóa của câu trả lời. Tất cả đều là vấn đề nồng độ và khối lượng thức ăn. Ăn những thức ăn có chất acid là cho vào trong máu những chất acid không được oxit hóa. Thế là cơ thể sẽ phải cố gắng để làm trung hòa nó bằng cách lấy ra một số chất vôi cần thiết ở xương, ở răng, hay ở bất cứ nơi nào có thể lấy được. Do đó xảy ra tình trạng mất khoáng chất, cơ thể kiệt quệ. Ở viện điều dưỡng, tôi cấm bệnh nhân ăn uống quá độ. Họ hơi càu nhàu nhưng rồi vài ngày đã hết bệnh. Và số người này càng ngày càng tăng. Chẳng bao lâu, những người khác ngạc nhiên khi thấy các chứng ho ra máu, các cơn sốt ở trong trại của tôi giảm đi rất nhiều.
Về sau, bằng cách đó tôi đã tìm ra phương pháp điều trị mới mẻ nói trên. Từ sau Pasteur, nền y học cổ điển bị ám ảnh bởi con vi khuẩn. Theo quan niệm của y học, bạn bị bệnh lao bởi vì con vi khuẩn lao đã xâm nhập vào cơ thể bạn, và cơ thể bạn tự bảo vệ bằng cách tận dụng tối đa tất cả những sức lực dự trữ của nó, hậu quả là cơ thể bị gầy đi và mất khoáng chất. Và những phương thuốc do nền y học cổ điển đề nghị là: Tiêu diệt những con vi khuẩn bằng các loại thuốc sát trùng, những món ăn bổ nhất, mạnh nhất như trứng, đường, thịt sống, sữa, và những mũi thuốc tiêm thạch tín, huyết thanh, gan bò tươi…
Dưới cú roi quất dữ dội này, người ta được lành bệnh tạm thời, nhưng căn bệnh lại tái phát khi cơ thể bị kiệt sức vì đã tiêu xài hết năng lượng trong những cố gắng quá độ. Do đó những trường hợp bệnh tái phát xảy ra rất thường xuyên ở những người mắc bệnh lao đã được chữa lành.
Ngoài ra, trong rất nhiều trường hợp, các phương pháp này chỉ đem đến tình trạng nhiễm bệnh của bộ máy tiêu hóa, chứng đau khớp xương.
Sự thật là trong tình trạng bình thường, cơ thể của chúng ta sẽ kháng cự một cách hữu hiệu trước những con vi khuẩn. Phải có sự kiệt sức, sự suy yếu của người bệnh, con vi khuẩn mới có thể hoành hành trong cơ thể của chúng ta.
Đối với một người bị suy yếu như người mắc bệnh lao, dĩ nhiên cần phải có một chế độ dinh dưỡng thật đầy đủ và thật tổng hợp, nhưng không được dùng món ăn nào có nồng độ cao, quá nhiều và quá mạnh. Duy nhất thích hợp với anh ta là các thức ăn nhẹ được pha loãng, tỉ lệ với khả năng tiêu hóa bị suy giảm. Bởi vì chế độ dinh dưỡng là một cuộc chiến đấu. Người bệnh kiệt sức vì phải phân giải và hấp thụ những thức ăn có nồng độ quá cao. Phải làm việc quá độ, cơ thể của anh ta chỉ lành bệnh nếu cho nó làm việc “chậm lại”, phục hồi những khả năng miễn dịch tự nhiên.
Vậy, các món ăn có chất chua, chất sát trùng, các loại thuốc công phạt, và tất cả những thứ tác động hung bạo lên cơ thể khiến nó kiệt sức đều là độc dược cho người mắc bệnh lao. Những phương pháp điều trị hiện đại chỉ chủ trương ăn uống tẩm bổ tối đa là những phương pháp bất hợp lý và nguy hiểm. Thật đáng phàn nàn biết bao khi phải phung phí hàng tỉ bạc cho những phương pháp điều trị vô lý được áp dụng hiện nay để chống lại bệnh lao và tất cả những tình trạng suy yếu cơ thể. Bởi vì những nguyên tắc mà tôi nêu ra, những quy luật của sự sống lành mạnh, có giá trị không những đối với bệnh lao mà còn đối với tất cả những chứng bệnh khác nữa. Mối nguy lớn lao không phải là con vi khuẩn Koch hay các thứ vi khuẩn gây ra các bệnh khác, mà chính là những nguyên nhân gây ra bệnh. Và để chống lại những nguyên nhân đó, người ta không làm gì cả: Đó là sự tự sát của dân da trắng khi họ từ bỏ những loại ngũ cốc, trái cây, rau củ, để tiêu thụ càng ngày càng nhiều thịt, đường, rượu và thức ăn hóa học, những thứ này sẽ thiêu đốt họ chỉ trong khoảng vài thế hệ!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 04 Oct 2022

6


Fabienne vào làm việc ở bệnh viện Bình Đẳng năm 1931 dưới sự quản lý của Bourland đậu bằng thạc sĩ gần mười năm nay. Anh là nhà phẫu thuật khá xuất sắc nhưng lại bị Vallorge hất cẳng, vì vậy ban đầu anh tiếp đón thực tập sinh mới không được nhiệt tình. Đó là một người đàn ông ba mươi chín tuổi, cao lớn lực lưỡng, râu đen rậm. Anh góa vợ từ năm năm nay, và có hai con gái nhỏ mà Fabienne nhận thấy rất dễ thương, và tỏ ra rất có cảm tình với chúng khi thỉnh thoảng chúng đến đón cha ở bệnh viện. Điều này khiến Bourland thay đổi thái độ và tỏ ra có thiện cảm với cô.
Chẳng bao lâu cô cũng có thêm người bạn gái mới là Madeleine Daele. Chán ngấy những lời nói ác ý của vài ba nữ đồng nghiệp kể từ lúc Seteuil bỏ đi, Madeleine xin chuyển chỗ làm và được chuyển đến đây. Chính Madeleine chăm lo cho Fabienne và đảm nhận việc huấn luyện nghề y tá cho cô.
Ngày đầu tiên đến bệnh viện, Fabienne được chứng kiến cảnh phẫu thuật một cái bướu cho một anh thợ trẻ. Bourland tỏ ra rất vắn tắt. Vừa bước vào phòng phẫu thuật, cô đã nghe anh bảo:

- Cô hãy đứng vào chỗ này, chắp hai tay ra sau và nhìn tất cả. Nhưng đừng sờ vào cái gì hết. Nếu muốn ngất xỉu, hãy đi ra. Bởi vì không ai có thì giờ chăm sóc cô.

Image


Thế là Fabienne đến đứng tựa lưng vào vách tường, không quá gần bàn mổ mà bệnh nhân đang nằm. Cảnh tượng trước mắt không gây cho cô một cảm giác gì đáng kể. Cô chỉ thấy những tấm vải trắng được trải ra, ở khoảng giữa là một khối thịt trần trụi, trong đó Bourland thọc những dụng cụ mạ kền vào. Không khí thật nóng bức. Mọi người đều im lặng. Chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng nói của Bourland, ngắn gọn:
- Cô Daele, kìm.
- Cô Daele, chỉ ruột mèo… Cảm ơn.
Và cô Daele, liền ngay đó, đưa những cây kìm được bày ra trên một nắp hộp, và sợi chỉ khâu vết mổ cuộn tròn trong một cái ống nhỏ đầy cồn.

Nàng mặc áo dài ca rô
Ló ra ngoài chiếc áo măng tô,
Tóc nàng bện tươm tất…


Người bị phẫu thuật cất giọng hát, giọng xa xôi kỳ dị của một người đang trong cơn mơ.
- Ôi không! Tôi hát lộn rồi! Phải hát lại!

Ló ra ngoài chiếc áo măng tô,
Mũi hếch lên, tóc nàng cắt ngắn…

Khi ca phẫu thuật kết thúc, chính Fabienne đẩy chiếc xe chở người bệnh ra ngoài, và lãnh trách nhiệm trông chừng cho đến khi anh ta tỉnh lại. Anh ta ngủ một giấc thật ngon và thật êm. Nhưng nửa giờ sau, khi Madeleine đến, anh ta đang nuốt lưỡi và “trợn mắt”. Fabienne không trông thấy gì hết nhưng Madeleine nhanh nhẹn nắm lấy cái lưỡi kéo nó ra ngoài miệng. Bệnh nhân thức dậy bình an một giờ sau đó.
Ngày hôm sau có ca phẫu thuật một em bé năm tuổi bị viêm hai tai. Fabienne được giao nhiệm vụ trông chừng đứa bé. Khi thức dậy, nó khóc. Nó có một cái đầu rất to được những miếng vải băng bọc kín. Fabienne hoảng hốt, bèn nói chuyện với nó, hát cho nó những bài hát xưa, kể cho nó hàng tá câu chuyện. Nó lấy lại vẻ bình tĩnh và ngoan ngoãn ngắm nhìn cô. Bourland đi ngang qua và hỏi cô đang làm gì ở đó. Đầy hãnh diện, Fabienne giải thích rằng cô đang dỗ dành đứa bé để nó được vui và tin là mình đã thành công.
Bourland mỉm cười u buồn:
- Cô bé đáng thương của tôi, nó không nghe được nữa đâu! Nó không còn màng nhĩ nữa. Hết rồi! Nó điếc rồi!
Fabienne bật khóc.
Vài ngày sau, Bourland có người bệnh đầu tiên qua đời trong năm: một người đàn ông hai mươi tư tuổi có vợ, ba đứa con còn bé, chết liền ngay khi ca phẫu thuật kết thúc. Hôm đó Madeleine nghỉ phép. Bourland cho đẩy chiếc xe chở người chết vào căn phòng bên cạnh, gọi Fabienne và bảo cô:
- Vợ anh ta đang chờ ở ngoài hành lang. Cô hãy đi báo cho chị ấy biết. Hãy lựa lời nói cho khéo léo nhé.
Fabienne đứng suốt hai mươi phút đằng sau cánh cửa lớn, chờ đợi, cố gắng tập trung hết sự can đảm yếu ớt của mình, không dám quả quyết bước ra khỏi phòng. Thế nhưng cô vẫn phải đi ra, phải đi báo cái tin đau đớn như một nhát dao găm.
Nhưng thê thảm nhất là trường hợp của những người nghiện rượu. Trong số các công nhân đến bệnh viện để phẫu thuật, số người nghiện rượu chiếm một phần lớn. Nằm dài trên bàn mổ, chiếc mặt nạ thuốc mê chụp lên mặt, họ hít khí ê-te, máu ứ dồn lên, vặn vẹo mình mẩy. Nam y tá gây mê dùng tay ghì chặt đầu người bệnh lại.
Madeleine nắm lấy chiếc mặt nạ và mở hết khóa vòi. Nhưng người nghiện rượu, trong cơn chập chờn nửa mê nửa tỉnh, chống cự lại, làm đứt những sợi dây da trói hai tay và hai chân của anh ta. Hai nam y tá lực lưỡng phải vật lộn, đè anh ta nằm xuống. Và Bourland phải hấp tấp rạch cái bụng đang bị co giật dữ dội: mở, cắt, thấm cho khô những chỗ máu chảy, khâu lại, có khi vì quá vội vã, anh cắt phạm vào những chỗ khác của bệnh nhân và vào cả tay mình. Rất nhiều khi, người bệnh chết ngay trong ngày.
- Có lẽ người ta nên cho những đứa trẻ ở các trường học nhìn thấy cảnh này! Có như thế mới làm cho chúng ghê sợ dù chỉ một giọt rượu nhỏ! - Bourland nói.
Mới buổi sáng, Fabienne đổ những cái bình dành cho các bệnh nhân sử dụng trong đêm, rửa ráy cho họ, sửa lại giường nệm mà không bắt họ phải ngồi dậy, lắng nghe và nhìn thấy tất cả với một nụ cười luôn nở trên môi, nhanh nhẹn đi ra ngoài một cách tự nhiên khi cảm thấy buồn nôn để nôn trong phòng vệ sinh với tất cả sự kín đáo tối đa. Cần phải tỏ ra vững vàng, bình tĩnh, già dặn kinh nghiệm, quen chịu đựng tất cả. Việc lấy nhiệt độ của những nam bệnh nhân vào buổi sáng có những vấn đề tế nhị. Lúc đầu, bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa, Fabienne lặng lẽ trao nhiệt kế cho bệnh nhân. Nhưng một số lớn ngắm nhìn cái dụng cụ nhỏ bé đó với một vẻ thỏa mãn lễ phép, vừa tự hỏi rằng họ sẽ sử dụng nó như thế nào?
- Hãy lấy nhiệt độ của anh đi, - Fabienne giải thích.
- À! Phải, đúng rồi.
Và tùy theo mình bị áp-xe ở chân hay tay, anh chàng khốn khổ bèn áp ống nhiệt kế lên ống quyển hay lên bắp thịt cánh tay, gần chỗ bị đau nhất.
- Không không, - Fabienne nhỏ giọng nói và đỏ mặt vì ngượng ngùng. - Ở hậu môn… hậu môn kia…
- Ở đâu? - Anh ta hỏi với một vẻ ngốc nghếch.
Lại phải giải thích cho anh ta biết hậu môn ở đâu.
Khi chợt hiểu ra, mặt anh ta đỏ hơn cả mặt của Fabienne nữa. Nhưng, có những lúc khó khăn nhất là khi chính cô phải đặt nhiệt kế vào đúng chỗ cho bệnh nhân, hoặc phải chờ đợi mẫu nước tiểu mà một anh chàng vì quá mắc cỡ trước thiếu nữ này nên không thể nào tiểu nổi.
- Nào! Nào! Tôi chỉ là một nữ y tá. Tôi không phải là người đàn bà! Một nữ y tá không phải là người đàn bà… - Fabienne khuyến khích.
Và nếu cái lập luận khó đứng vững này không đủ sức thuyết phục anh ta, cô bèn sử dụng mánh khóe mà Madeleine đã chỉ cho cô:
- Anh hãy nuốt đi! Phải, hãy nuốt đi, làm như thể anh đang nuốt nước miếng vậy…
Với vẻ sửng sốt, anh chàng bèn nuốt ngụm nước miếng tưởng tượng và đột nhiên được giải tỏa, một tia nước tiểu bắn vèo vào trong chai.
- Khiếp thật! - Anh ta kêu lên với một vẻ vừa thán phục vừa thỏa mãn. - Ở các cô có đủ thứ mánh khóe!
Rồi Bourland gọi Fabienne:
- Này cô, bệnh nhân số 88 sắp ra trại. Chỗ gãy xương đã lành, hoặc gần như thế. Nhưng cô Madeleine nhận thấy anh ta bị bệnh lao. Anh ta không muốn vào viện điều dưỡng. Anh ta cần trở về làm việc nuôi gia đình. Cô sè báo cho anh ta biết. Cô sẽ bảo anh ta phải sống cách xa con trai nhỏ của mình, để tránh lây bệnh cho nó, nhất là anh ta không được ngủ với vợ nữa.
Fabienne phải cân nhắc lời nói để giải thích cho anh ta hiểu - với vẻ mặt nghiêm trọng, già dặn, và một chút mồ hôi ở thái dương - rằng, tốt hơn anh ta không nên ngủ với vợ nữa…
Rất nhanh chóng, cô chiếm được cảm tình của tất cả những kẻ khốn khổ mà cô thương mến đó. Cô sợ làm cho họ đau, hai bàn tay cô run run khi chuẩn bị chích mũi kim tiêm vào gần cánh tay của một người đàn bà. Chính bà ta phải khuyến khích cô, chìa cánh tay ra, mỉm cười với cô:
- Cứ chích đi cô! Đừng sợ!
Người đàn ông mà Fabienne đã cầm hai bàn tay trong khi người ta đưa mũi kim vào ống tủy sống của anh ta sẽ không bao giờ quên được cô, có một cái gì đó như sự trìu mến trong cách anh ta nhìn theo cô khi cô đi ngang qua, như một con chó nhìn theo một người vừa mới vuốt ve nó.
Những giáo sư y khoa, những bác sĩ điều trị lúc nào cũng bận rộn, ít khi đoán biết được những điều nhỏ nhặt này. Đối với những bệnh nhân không thể chữa lành được, chỉ còn biết chờ tử thần tới, “ông thầy” đi ngang qua trước mặt họ nhưng không dừng lại ở giường họ nữa. Để làm gì? Ông không còn ích lợi gì nữa đối với họ. Bổn phận của ông là dành thời giờ lo cho những bệnh nhân khác. Nhưng khi ông đã ra khỏi phòng, Fabienne nhìn thấy rõ nỗi lo sợ và tuyệt vọng trong đôi mắt của người bệnh bị bỏ rơi. Cô bèn đi tới bên cạnh anh ta.
- Cô ơi! Cô ơi! “Ông ấy” không nhìn đến tôi! Tại sao vậy? Điều này có nghĩa là bệnh của tôi hết hy vọng rồi, phải không?
Phải tìm cách an ủi anh ta, làm cho anh ta lấy lại tinh thần. Phải nói dối. Madeleine rất thành công trong công việc này. Lúc nào cô cũng tìm được những lý do để giải thích tất cả, những lời xin lỗi, những duyên cớ. Cô biết rõ rằng, người bệnh cần phải giữ vững niềm tin cho tới cùng vào người chữa bệnh cho mình.
- Thằng heo! Thằng ác ôn! Thằng dơ bẩn! - Những người đàn bà đang oằn oại trong cơn đau đã mắng nhiếc và nguyền rủa chồng của họ. - Không bao giờ nữa! Tôi sẽ không bao giờ cho nó đụng vào người tôi nữa! Ôi! Cô ơi, cô đừng bao giờ lấy chồng!
Và nửa giờ sau, khi Fabienne đưa đứa con của họ đến, họ quên hết tất cả.
- Này! Nó đẹp đấy chứ? Nó bụ bẫm đấy chứ? Cô ơi, trẻ đẹp như cô phải nhanh lấy chồng để có một tá con như thằng bé này!
Tầng trệt là nơi dành cho các sản phụ. Sinh xong họ được chuyển lên lầu. Madeleine nhận đứa bé vừa chào đời trên một tấm vải gấp làm tư, đưa nó đi tắm rửa, rồi Fabienne lần lượt ẩm đến chở mẹ của chúng. Năm, sáu, bảy đứa bé như thế. Các bà mẹ nằm trên giường, mặt mũi còn đỏ tía, nhổm người dậy mệt nhọc, đưa mắt tìm kiếm cô từ xa, để xem có phải đứa bé cô ẵm đến là con của mình không. Thỉnh thoảng, một chị nhìn thấy tất cả những đứa bé khác được cô ẩm đi qua, nhưng không thấy con của mình. Chị đưa mắt nhìn cô đăm đăm. Fabienne không thể không nhìn lại chị. Và trông thấy ánh mắt của cô, chị đoán biết con mình đã chết, bèn òa khóc.
Cũng có vô số cô gái bỏ đứa con mới sinh lại khi ra khỏi bệnh viện, để nó lại cho sở Cứu tế xã hội. Người ta đã phải làm đủ mọi cách để họ chịu nhìn đứa bé, chăm sóc nó, lau rửa nó, ẵm nó trong tay. Nếu họ chịu cho đứa bé bú - chỉ một lần thôi - thì họ sẽ không bao giờ có đủ can đảm bỏ nó lại nữa. Nhưng các cô gái ấy biết điều đó, họ sợ bị yếu lòng, sợ bị cái bản năng làm mẹ lôi cuốn, và họ xua đuổi đứa bé quyết liệt, từ chối không chịu nhìn nó.
Ở bệnh viện cũng có vô số những vụ phá thai bị hư, những người đàn bà bị băng huyết nặng vì họ đã tự đâm thủng bào thai và tử cung bằng một cây kim đan. Người ta không hỏi gì họ hết. Để làm gì? Và họ cũng không nói gì cả, họ câm lặng, vẻ nghi kỵ. Chỉ một mình Bourland la hét, mắng nhiếc họ là hạng đàn bà bẩn thỉu, và anh nạo tử cung của họ mà không cần thuốc mê, để làm cho họ không dám phá thai một lần nào nữa. Họ thốt lên những tiếng thét đau đớn khủng khiếp.
- Để cho mấy người nhớ mãi cơn đau này, - Bourland la lớn. - Đó là lỗi của các người.
Sự phá thai luôn luôn làm cho Bourland giận dữ. Phương pháp của anh tỏ ra có kết quả tốt. Trước hết, vì tránh được sự nhiễm bệnh do thuốc mê, nhưng người đàn bà đó lành bệnh rất nhanh. Và sự đau đớn kinh khủng đã gây cho họ một ấn tượng sợ hãi sâu xa, khiến đa số họ không dám tái diễn nữa. Thỉnh thoảng, anh gặp lại họ ở phòng khám thai.
- Kìa, chị đó à? Thế nào, lần này chị chịu mang thai rồi phải không?
- Dạ, thưa bác sĩ, - người đàn bà thú nhận - tôi thà chịu đau sinh con còn hơn là bị nạo tử cung!
Fabienne chăm sóc những đứa bé sơ sinh bị bỏ rơi. Bao giờ cũng có trên một trăm em được giữ lại bệnh viện cho đến khi chúng tròn một tuổi. Rồi sở Cứu tế xã hội giao chúng cho các bà * nuôi. Có từ mười lăm đến hai mươi em ở chung một phòng, trong bản hòa tấu ầm ĩ gồm những tiếng hét và tiếng khóc. Những nữ y tá phải hét lên mới nghe được tiếng của nhau. Trên cái bàn dài ở giữa phòng, họ tắm rửa cho chúng, ném tã bẩn vào cái giỏ lớn. Mùi nước tiểu làm người ta nghẹt thở. Khi tháo tã cho chúng, Fabienne phải nín thở. Sau cuộc đi thăm phòng hậu sản, cô lo chuẩn bị bình sữa, cho chúng bú. Rồi tiếp tục rửa ráy cho chúng. Có nhiều em bị bệnh, tật nguyền. Những đứa khác gầy yếu, co quắp, nằm im lìm bất động triền miên đang theo đuổi một giấc mơ nào đó. Và để trả giá cho những tội lỗi của người mẹ, sáng ra, chúng lặng lẽ từ giã cõi đời mà chẳng ai hay biết. Chúng ốm như những con cò ma, và người ta không biết phải tiêm thuốc vào chỗ nào nữa. Người ta xoay chúng ra mọi phía, vô ích, không sao tìm được một chỗ để đâm mũi kim vào mà không đụng phải xương. Nhất là đối với những em bé bị bệnh giang mai di truyền, người ta tiêm vào gân chúng một loạt những mũi thuốc mạnh. Fabienne cảm thấy có một cái gì khủng khiếp trong việc bắt những em bé mới sáu tháng tuổi phải chịu những liệu trình điều trị bệnh giang mai, trong khi những kẻ có tội thật sự chắc hẳn vẫn đang tiếp tục truyền bệnh cho những người khác và tạo ra những nạn nhân tương lai. Đối với những em bé khốn khổ này, người ta vẫn phải đề phòng. Từ mắt và mũi của chúng liên tục chảy ra một chất lỏng dơ bẩn hoặc vết lở ở rốn của chúng lan rộng ra, không ngừng rỉ mủ. Và nếu không thận trọng khi lau chúng, người ta có thể bị nhiễm trùng.

Image


Nhưng cũng có những em bé hiền lành, dễ thương. Chúng đứng chơi một mình trong cũi, hai bàn tay nhỏ nhắn bám chặt vào thanh ngang. Chúng nhìn bạn đi ngang qua với vẻ bình thản, gần như nghiêm trang lặng lẽ. Cổ chúng đeo một chuỗi hạt trai màu xanh của sở Cứu tế xã hội, một chiếc mề đay tròn có khắc chữ “Cộng hòa Pháp”. Trong số đó, có những em bé thật dễ thương, và khi chúng được chuyển đến sở Cứu tế xã hội, bạn không khỏi cảm thấy lòng mình se lại, như trường hợp của một bé gái rất dịu dàng, dễ thương mà một nữ lao công rửa bát đĩa ở bệnh viện đã bỏ rơi. Tất cả các cô y tá đều quyến luyến nó. Fabienne khá xúc động khi nhìn gương mặt nhỏ nhắn luôn đượm vẻ sợ sệt của nó, như thể nó đã linh cảm được điều gì chẳng lành. Đến cuối tuần, nó sẽ rồi bệnh viện, trở về Sở Cứu tế, nhưng đột nhiên Madeleine Daele cho biết cô sẽ nhận nó làm con nuôi.
Và vào tháng Tám năm 1932, trước lúc Fabienne rời đi, một tin tức được loan ra: Bourland sẽ cưới Madeleine. Cô đem đứa con nuôi về sống cùng anh. Thế là hai người đã lập nên một gia đình đông đảo ngay trước khi về ở chung với nhau. Người ta cũng biết rằng Bourland sẽ rời bỏ trường đại học. Anh đã chán sự chờ đợi, những cuộc vận động, những mánh khóe nham hiểm, những cuộc chạy đua điên cuồng để tranh giành ghế giáo sư bỏ trống. Anh đã chán nhìn thấy những loại “con ông cháu cha”, không học hành gì, chỉ dựa vào thế lực của cha mình để qua mặt anh. Một xứ ở Nam Mỹ mời anh sang nhận một chức vụ, Bourland từ biệt nước Pháp, mang theo gia đình, tài năng và kiến thức của mình sang bên đó phục vụ. Sau mười năm, anh sẽ trở về, nổi tiếng, sau khi tạo dựng tên tuổi ở đó. Và nước Pháp sẽ tiếp đón anh một cách nồng nhiệt, sẽ trọng đãi anh - kẻ mà trước kia ở Pháp chẳng ai thèm ngó đến - như một bậc nhân tài.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

7


Một buổi chiều, khi từ phòng thí nghiệm của Norf trở về, Michel bỗng thấy Seteuil, Santhanas và vợ chồng Tillery đang ở trong phòng mình. Seteuil từ miền Bắc đến để mua sắm dụng cụ máy chiếu điện; Santhanas từ Normandie trở về, đang thất nghiệp.
Ở Normandie, Santhanas có một địa vị tuyệt hảo nhưng anh ta đã làm cho hư hỏng. Thằng heo này - kẻ có thể làm cho một pho tượng phải chảy mủ, như lời của Géraudin nói về Santhanas - bắt đầu phẫu thuật tại gia và đã gặp vài chuyện rắc rối: Các xương cánh tay và xương chân bị gãy do anh ta ghép lại đều sai khớp cả, phải đập bể chúng một lần nữa để ghép lại. Điều này làm nản lòng các khách hàng. Sau cùng, một hôm, trong khi phẫu thuật cho một em bé, Santhanas nhận ra là nó đã chết, một tai nạn mà không một bác sĩ nào phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Nhưng vì trong phòng chỉ có một mình Santhanas với người giúp việc, anh ta bèn làm thinh, ẵm đứa bé đặt trên giường, đi ra và căn dặn cha mẹ nó:
- Nó đang ngủ. Hai giờ nữa, nó sẽ tỉnh dậy. Cần phải giữ yên tĩnh tuyệt đối. Và nhất là không được vào. Tiền thù lao là sáu trăm franc.
Anh ta nhận tiền và bỏ đi.
Hai giờ sau, cha mẹ đứa bé bước vào phòng thì thấy thi thể của nó đã lạnh ngắt, họ bèn hỏi người giúp việc, và đoán ra sự tình. Thế là cả làng, vũ trang bằng những cào và chĩa, xông đến tấn công nhà Santhanas. Nhờ cảnh sát can thiệp, Santhanas mới thoát được.
- Thật là rắc rối, - anh ta nói với ba người bạn. - Nhưng mặc kệ! Tao sẽ xoay xở được. Tao bất cần!
Riêng Seteuil, anh ta kiếm được rất nhiều tiền ở miền Bắc.
- Nó đào trúng cái mỏ vàng! - Tillery nói một cách hoa mỹ.
Tillery bây giờ đã có vẻ đạo mạo của một người chủ gia đình. Cậu con trai mà anh ta chờ đợi và dành sẵn cho nó một cái tên là Charles đã quyết định hoãn sự ra đời, để nhường chỗ cho hai bé gái thật xinh có cái mũi nhỏ nhắn và đôi mắt ranh mãnh giống hệt cha của chúng. Thoạt đầu Tillery hơi sửng sốt, cho đó là “một sự giao hàng lầm lẫn” nhưng rồi anh ta cũng vui vẻ chấp nhận.
- Chúng ta sẽ làm lại lần nữa, thế thôi, - anh ta nói với một vẻ triết lý - phải không Choute?
- Anh thật không biết xấu hổ! - Vợ Tillery đáp, gương mặt đỏ như gấc vì ngượng ngùng.
Ngoài ra, gia đình nhỏ của họ bắt đầu khá giả hơn.
Khách hàng của Tillery ngày càng nhiều, và nhất là họ đã bắt đầu trả tiền cho anh ta. Bây giờ, mỗi khi Choute cùng với anh ta về nhà bà mẹ chủ tiệm để ăn tối, Tillery đều mang theo một cái bánh nhân kem, một chai rượu vang.
- Đấy là những món quà vụ lợi! - Tillery nói với các bạn. - Choute rất thích bánh nhân kem, còn tao thì khoái rượu vang. Trái tim con người là cả một vực thẳm ích kỷ.
Anh ta còn khoe rằng mình sắp sửa mua một chiếc xe hơi.
- Một chiếc 201, dĩ nhiên!
- Tại sao lại là dĩ nhiên? - Michel và vợ Tillery cùng hỏi một lúc.
- Tao vẫn luôn luôn bảo rằng mày thiếu chất phốt pho trong não! Thế này nhé, bởi vì vợ chồng tao đi đâu cũng có đôi, không bao giờ chỉ có một mình. Vậy là “hai không một” chứ còn gì nữa.
Michel hơi lấy làm ngạc nhiên. Tillery không có dáng dấp và vẻ trang nghiêm đạo mạo của một bác sĩ. Trang thiết bị của anh ta nghèo nàn. Vả lại, những kiến thức về lý thuyết của anh ta không phong phú lắm. Anh ta chỉ có sự khéo léo, một khả năng nào đó mang tính trực giác; một óc quan sát rất nhạy bén, một tính cẩn trọng rất lớn. Và nhất là lòng yêu nghề và tình thương đối với các bệnh nhân nghèo khó. Sự thành công ở trong ngành y là một cái gì không phải lúc nào cũng gắn liền với học hành hay kiến thức lý thuyết, và khó mà giải thích được.
Évelyne đã khỏe hơn nhiều. Mỗi Chủ nhật, Michel đến viện điều dưỡng thăm cô và nhận thấy sức khỏe của cô tốt hơn lần thăm trước một chút.
Anh đem điều này nói với Domberlé vào một buổi chiều.
- Tôi không hiểu vì sao tên tuổi của ông không được mọi người biết đến nhiều hơn? Vì sao bộ sách của ông không được phổ biến khắp nơi? Điều gì ngăn cản giới y học chính thức áp dụng phương pháp của ông?
- Cần phải chờ đợi. Thật vậy, phương pháp này đòi hỏi những thay đổi lớn lao trong các quan niệm của nền y học cổ điển, cậu Doutreval à. Tính chất đồng nhất của tất cả mọi căn bệnh, cậu hãy nghĩ xem, ý tưởng đó hãy còn xa lạ biết bao đối với giới bác sĩ. Thế nhưng, tất cả mọi bệnh tật, trong bản chất của chúng, chỉ là một. Bằng những món ăn có nhiều hóa chất với nồng độ quá mạnh được sản xuất theo một phương pháp kỹ nghệ hóa, bằng sự lạm dụng những món thịt, đường nguyên chất, cà phê, rượu, những món tăng cường sức khỏe có tính kích thích, những loại thuốc uống hay tiêm để diệt khuẩn, con người tự thiêu đốt cơ thể, làm cho nó chất chứa những cặn bã độc hại. Và khi cơ thể có những phản ứng thanh lọc, chúng ta bèn hoảng hốt la lên:
- Tôi bị bệnh rồi!
- Nhận xét của ông cũng khá đúng, - Michel nói.
- Khá đúng ư? Phải nói là đúng toàn diện ấy chứ!
Anh bạn trẻ đáng thương của tôi, cậu nên nhớ rằng những gì chúng ta gọi là bệnh chỉ là những cố gắng làm cho cơ thể ta trở nên trong sạch. Cơn đau đớn, sự sưng phù, cơn sốt, sự tiêu chảy, sự ói mửa, khạc ra máu… tất cả đều là những phản ứng tự vệ của cơ thể, những cố gắng để tống ra ngoài các cặn bã độc hại, làm cho cơ thể được trong sạch. Tùy theo từng bộ phận, hoặc vì sự suy nhược di truyền, hoặc vì một nguyên nhân tình cờ nào đó, đã được dùng làm con đường bài tiết những chất độc hại ra ngoài: ruột, phổi, da, bàng quang, mắt, tai… mà các y sĩ gọi những tình trạng trên là chứng sưng ruột, sưng cuống phổi, lở loét, sưng bọng đái, đau mắt đỏ, sưng tai… Và các bác sĩ càng dễ bị mù quáng hơn nữa khi thấy những cơ quan đó - kiệt sức vì phải cố gắng quá độ để tống các độc tố ra ngoài - bị vi khuẩn xâm nhập gây ra chứng lao phổi, sưng phổi hay chứng đau bụng, tiêu chảy hay bất cứ chứng bệnh nào khác. Nhiều bác sĩ quên mất rằng nếu có thể có một cơ thể khỏe mạnh, được nuôi dưỡng một cách trong sạch và tự nhiên, con vi khuẩn sẽ không bao giờ hoành hành được.
- Và do đó, ta giúp cơ thể mình đánh đuổi được vi khuẩn, - Michel kết luận.
- Cậu đã thấy điều này qua trường hợp của vợ cậu. Tất cả chúng ta đều mang trên người hàng tỉ con vi khuẩn, vi khuẩn bệnh lao, bệnh yết hầu, bệnh viêm phổi… Nhưng chúng không thể hại được chúng ta nếu chúng ta thật mạnh khỏe. Tại sao bỗng nhiên chúng trở thành độc hại? Đó là vì cơ thể chúng ta bị suy yếu. Một cơ thể yếu là môi trường thuận lợi cho chúng. Chính môi trường mới là yếu tố quan trọng chứ không phải là con vi khuẩn. Bằng chứng rõ rệt nhất là những loại vi khuẩn khác nhau lại có thể gây ra cùng một chứng bệnh cho một người bệnh. Và ngược lại, tùy theo tình trạng cơ thể của những người mang chúng, những con vi khuẩn cùng loại sẽ gây ra nhiều chứng bệnh khác nhau: cùng một liên cầu khuẩn sẽ gây ra cho người này chứng viêm họng, người kia chứng viêm da chứng sốt đỏ da, hoặc chứng nhiễm trùng huyết… Cùng một con vi khuẩn có thể gây ra chứng mụn rộp, chứng viêm phổi hay viêm màng não.
- Tôi vẫn thường tự hỏi, - Michel nói - vì sao loài người bị bao vây bởi vô số vi khuẩn mà vẫn không bị tiêu diệt.
- Đúng thế! Điều này sẽ không thể giải thích được nếu lý thuyết cổ điển có lý.
Ông lắc đầu nói tiếp:
- Điều tai hại, ấy là nền y học lại dựa vào cái lý thuyết này. Nó quan niệm rằng có rất nhiều chứng bệnh khác nhau tác hại ở những nơi khác nhau trên cơ thể và cần phải chữa trị tại nơi chúng hoành hành, mà không chú ý đến tình trạng tổng quát của cơ thể. Đối với nền y học đó, căn bệnh là chứng tiêu chảy, chứng xuất huyết, cơn sốt… Nó lầm lẫn triệu chứng với căn bệnh. Và nó tấn công vào triệu chứng. Để làm việc này, người ta có cả một kho vũ khí. Một chứng tiêu chảy sẽ bị chặn đứng bằng chất á phiện và bismuth, những loại thuốc giảm nhiệt sẽ làm hạ sốt, thuốc terpine làm tiêu đờm, sự tăng huyết áp hay giảm huyết áp sẽ biến mất dưới tác dụng của chất adrenaline. Và để tiêu diệt vi khuẩn, người ta có những loại thuốc sát trùng, huyết thanh và vắc-xin.
Cơ thể của tôi quá nóng ư? Nhiệt độ trên nhiệt kế tăng cao ư? Tôi chế nước lạnh vào máy của tôi cho mát trở lại và tiếp tục cho nó chạy. Cậu sẽ nghĩ sao nếu người chủ ga-ra chăm sóc chiếc xe của cậu theo cách đó?
- Ờ… - Michel mỉm cười.
- Sự thật là đúng như vậy đó, anh bạn trẻ thân mến.
- Có rất nhiều phương pháp…
- Tôi biết. Nhưng quá nhiều bác sĩ vẫn còn bỡ ngỡ trong cách vận dụng chúng. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đổ lỗi cho họ: Nền y học nhà trưởng đã dạy sai. Và vì chính bản thân họ không phải chịu những cơn bệnh ngặt nghèo như tôi, làm sao họ có thể biết được những gì họ không bao giờ được học ở nhà trưởng? Làm sao họ có thể đoán biết được rằng những quả chanh, quả cam và nhiều loại trái cây có chất chua gây tàn phá ở những cơ thể suy nhược? Rằng bánh mì hầm, các loại mứt, vài món ăn nồng độ mạnh mà những cơ thể mạnh khỏe tiêu hóa dễ dàng có thể gây hại cho những cơ thể suy nhược? Người bác sĩ áp dụng điều mình đã được học và quên mất những vấn đề chính: Trước hết là nguồn gốc hóa học và tính chất hao sinh khí của vài loại thức ăn, kế đó là “mật độ phân tử”, nồng độ của vài món ăn khác. Đổi với người bệnh, nồng độ phải luôn được giảm thiểu. Một phương pháp dinh dưỡng không thích hợp khó chữa lành được bệnh, đến độ người bác sĩ chán nản, không còn tin vào nó nữa mà chỉ thích sử dụng thuốc men, nhanh chóng hơn và dễ dàng hơn. Nhưng thuốc men không thật sự chữa lành căn bệnh, nó chỉ che đậy các triệu chứng trong một thời gian nào đó.
- Đôi khi thuốc men cũng rất cần thiết, - Michel nói.
- Dĩ nhiên, nó ngăn chặn những phản ứng quá độ gây rối loạn cho cơ thể. Một món thuốc, một chai huyết thanh, một loại vắc-xin có vẻ rất có hiệu quả trong trường hợp cấp tính, khi cơn bệnh bộc phát dữ dội. Nhưng bạn chỉ nên dùng chúng sau khi đã thử tất cả những phương pháp khác và trong khi dùng chúng, bạn nên nhớ rằng bạn đẩy lùi những bộc phát bên ngoài của căn bệnh chứ không phải chữa lành nó. Căn bệnh bị đẩy lùi tất sẽ dồn sức phá hoại vào một cơ quan khác, trong những điều kiện nghiêm trọng hơn, bởi vì việc dùng thuốc công phạt đã làm gia tăng tình trạng nhiễm bệnh do hóa chất hay do vi khuẩn trong cơ thể. Khi sử dụng thuốc trong một trường hợp khẩn cấp, bạn nên luôn luôn nhớ rằng đây chỉ là một phương tiện chống đỡ nhất thời mà thôi. Và sau đó, còn phải áp dụng cho bệnh nhân một phương pháp điều trị lâu dài bằng sự tẩy độc và xem xét tổng quát cả cách sinh sống lẫn ăn uống của người bệnh.
- Tôi công nhận rằng người bác sĩ thường hay quên mất điều này, - Michel nói. - Khi thuốc phát huy tác dụng, ta thường nghĩ rằng bệnh nhân đã được chữa khỏi bệnh…
- Phải, đó là một sai lầm lớn. Nói chung, đa số những trường hợp chữa bệnh chỉ là sự điều trị khẩn cấp. Người ta có thói quen đàn áp mạnh mẽ, đôi khi còn thô bạo nữa, những phản ứng cơ thể vốn chẳng đe dọa gì: một cơn sốt, tiêu chảy, một chứng ho lành tính. Và khi triệu chứng bên ngoài của căn bệnh biến mất, người ta thỏa mãn dừng lại. Anh ta không còn đau đớn, khó chịu nữa, và có thể sinh hoạt bình thường trở lại. Nhưng không bao lâu, cơn bệnh cũ tái phát. Tình trạng này dần dần làm hao mòn sinh lực của con bệnh và nòi giống. Những viện điều dưỡng, những dưỡng trí viện của chúng ta chật ních bệnh nhân. Bệnh lao phổi, bệnh đái đường, bệnh ung thư tràn lan. Người ta phải xây thêm nhiều trại điên, nhiều dưỡng đường, người ta ra sức tìm kiếm những loại vắc-xin mới, những loại huyết thanh, người ta tiêu xài hàng đống tiền trong những viện nghiên cứu bào chế. Và người ta quên không chữa trị tận gốc căn bệnh: Sự hao mòn sinh lực gây ra bởi việc dùng quá độ những thức ăn kích thích, những dược phẩm và các loại vắc-xin có nhiều độc tố. Tất cả mọi cố gắng nói trên, tất cả những hy sinh cao thượng của biết bao nhà khoa học đều thất bại. Bởi vì, dẫu ngày mai người ta có chữa lành được bệnh lao và bệnh ung thư đi nữa thì sẽ có những bệnh khác dữ dội hơn, mạnh mẽ hơn đến thay thế chúng.
- Chúng ta đang chứng kiến hiện tượng này ngay trong hiện tại, - Michel nói. - Quả thật có nhiều căn bệnh đang bị đẩy lùi. Nhưng khắp nơi người ta báo động trước việc phát hiện một số căn bệnh khác. Bệnh phong thấp, bệnh đau tim có trước mặt chúng một tương lai huy hoàng. Tôi vừa mới đọc trong tạp chí rằng: Ở Mỹ, số người mắc bệnh phong thấp nhiều bằng số người mắc bệnh lao, bệnh giang mai và bệnh ung thư gộp lại.
- Điều này không làm tôi ngạc nhiên, ở Pháp, bệnh phong thấp vừa được tuyên bố là một “bệnh xã hội”. Và như thế, nó sẽ được chữa trị trong những y viện tốn kém, bằng vô số những mũi thuốc salicylate rất nguy hiểm. Còn những nguyên nhân gây ra bệnh phong thấp, có mấy ai lo lắng đến? Những nguyên nhân này, cậu Doutreval à, là sự tiêu hao sinh lực bởi những thức ăn thức uống thiêu đốt cơ thể, những loại thuốc công phạt và một cuộc sống thiếu lành mạnh.
Cậu đã thấy phương pháp mà tôi chữa trị cho những người mắc bệnh lao. Cậu đã và sẽ thấy tôi áp dụng cùng một phương pháp đó để điều trị cho tất cả những bệnh nhân khác: Chế độ dinh dưỡng, luyện tập thể dục, cách vệ sinh tổng quát thích nghi với những khả năng của cơ thể. Cậu hãy nhớ lại những bệnh xá trẻ em của tôi, những chứng viêm họng, viêm a-mi-đan, viêm xoang mũi, viêm tai, chứng ho gà, viêm tủy xương, những áp-xe da, những bướu thịt đều biến mất cùng với sự tiêu diệt các nguyên nhân của chúng; những thức ăn có nồng độ quá mạnh và để lại trong cơ thể quá nhiều cặn bã, sự mệt nhọc…

Image


- Và khi tôi khẳng định với một sinh viên y khoa - Michel nói - rằng một chứng viêm a-mi-đan hay những bướu thịt có thể được chữa khỏi bằng chế độ dinh dưỡng lành mạnh, anh ta chỉ cười!
- Đa số mọi người có lẽ sẽ cười. Nhưng nếu họ có thể hiểu được rằng mọi căn bệnh dù nhẹ đến mấy, dù chỉ phát ra bên ngoài, ở một nơi nhất định - ví như một mụn nhọt, sổ mũi, cho đến một bướu thịt, một chứng sâu răng - đều do một rối loạn trong tình trạng sức khỏe tổng quát gây ra, và rằng bác sĩ không nên hạn chế sự điều trị tại một nơi duy nhất với một phương thuốc duy nhất. Họ không biết rằng một người bệnh chỉ có thể coi là lành bệnh khi nào anh ta đã được soi sáng về những khả năng của bộ máy trong cơ thể, về những nguyên nhân của căn bệnh; khi nào anh ta nhận thức được vai trò ích lợi của bênh tật như một sự cảnh cáo, một cái phanh mỗi khi anh ta phạm lỗi lầm.
Bởi vì sự đau đớn là bậc thầy tài giỏi nhất của con người, Doutreval à. Nền y học cổ điển không biết điều này quan trọng đến mức nào. Nó dạy chúng ta thù ghét bệnh tật, thế nhưng bệnh tật cũng có vai trò có ích: Nó soi sáng, nó cảnh cáo, nó là biểu hiện sự cố gắng của cơ thể để tự thanh lọc.
Và bây giờ, hãy đi thăm bệnh nhân của chúng ta, cậu Doutreval.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

8


Buổi sáng hôm đó, Guerran thức dậy thật sớm sau một đêm mất ngủ.
Từ tuần lễ này, ông ở lại Paris. Một cuộc tranh luận gay go sắp diễn ra ở Quốc hội. Guerran cùng với những nghị sĩ thuộc nhóm trung lập đang sắp đặt kế hoạch để lật đổ chính phủ trước kỹ nghỉ hè. Ông có cuộc họp với người trưởng nhóm lúc mười giờ, để xem xét hồ sơ.
Cũng như mọi lần, Guerran để vợ và các con ở lại Angers. Ông thuê một ngôi nhà tại bến Hàng Hoa. Từ cửa sổ nhìn ra, người ta thấy phong cảnh tuyệt đẹp trên sông Seine.
Sáu giờ sáng hôm đó, Guerran đứng cạo râu trước gương trong khi bà giúp việc chuẩn bị bữa điểm tâm trong phòng bếp nhỏ.
Guerran cảm thấy rất mệt mỏi. Đã nhiều ngày rồi, ông bị đau nhói ở bụng. Ngày hôm qua, tình trạng càng trầm trọng hơn. Cùng với một phái đoàn của nhóm, ông đã đến đặt vòng hoa ở Đài kỷ niệm chiến thắng. Buổi lễ kéo dài quá lâu. Trời thật lạnh. Hai bàn chân tê cóng. Đến trưa, ông dùng bữa tại nhà của người lãnh đạo đảng của ông. Sò, gà lôi, tôm hùm. Guerran cố gắng ăn thật nhiều để chống lại cái mà ông cho là khởi đầu của bệnh cúm. Hai, ba lần, vào buổi chiều, ông có những cơn đau ngắn nhưng dữ dội ở phía bên phải bụng, gần hông.
Cạo râu và mặc quần áo xong, Guerran đi vào phòng bếp. Buổi sáng, ông dùng điểm tâm ngay tại đó, để giảm thiểu việc phục vụ. Ngày hôm nay, ông cảm thấy bánh mì phết bơ và cà phê chẳng có mùi vị gì hết. Ông nuốt vội vài ngụm cà phê nóng, rồi đứng dậy đi ra phòng ngoài lấy áo măng tô khoác lên người. Ông lái xe hơi đi về hướng cửa ô Orléans. Trái với thói quen thường ngày, hôm nay ông lái rất chậm. Ông cảm thấy mệt nhọc, đau nhói ở bụng. Răng va vào nhau lập cập vì lạnh. Sương mù ẩm ướt bao phủ Paris. Trên tấm kính có một lớp sương mỏng, cần gạt nước lắc qua lắc lại tạo thành một hình bán nguyệt nhỏ. Mặc dù có chiếc áo măng tô dày cộm, đôi găng tay và khăn choàng cổ, Guerran vẫn thấy hơi lạnh xuyên qua da thịt.
Thình lình, tới trước cửa một quán cà phê bên trong có ánh đèn, ông cho xe dừng lại, đi xuống, bước vào gọi một cốc cà phê phin và một ly rượu thượng hạng.
- Những món này sẽ làm cho mình ấm lại, - ông nghĩ thầm - mình sẽ giao tập hồ sơ, xin lỗi và cho xe chạy thẳng về nhà… Thật lạ lùng cho cái bụng, da thịt nóng hừng hực nhưng bên trong lại thấy lạnh ngắt.
Ông không uống hết cốc cà phê. Mùi cà phê làm cho ông buồn nôn. Ông chỉ uống một ly rượu. Nhưng nó không làm cho ông ấm áp hơn. Càng lúc ông càng cảm thấy lạnh. Ông bắt đầu run. Ông buồn nôn, đồng thời một cơn đau bụng dữ dội như muốn xé ruột ông thành từng mảnh. Ông gọi người hầu bàn đến để trả tiền.
Bằng một cố gắng lớn lao, ông đứng lên. Hơi khom người về phía trước, còn cẩn thận ôm theo chiếc cặp, ông tiến về phía phòng vệ sinh. Ông phải tự kiềm chế để không nhăn nhó vì đau đớn. Vào phòng vệ sinh, ông chốt cửa lại, đặt chiếc cặp xuống sàn gạch. Đột nhiên đầu óc quay cuồng, ông bắt đầu nôn, người gập làm đôi. Ông nôn rất nhiều và rất lạ, dầu từ sáng đến giờ ông không ăn gì. Cơn đau làm ông toát mồ hôi, phải dựa vào vách tường cho khỏi ngã. Nôn xong, ông ngồi tại chờ một lúc, kiệt sức.
- Bệnh cúm! - Ông nghĩ. - Đúng là mình bị cúm! Phải nhanh trở về nhà… Mặc kệ!
Ông bước ra ngoài, quên mất chiếc cặp. Ông không dám băng qua quán cà phê đông nghẹt khách hàng. Ông đi theo một lối đi riêng, chậm chạp, bàn tay phải ôm lấy phía bụng phải, nơi gây cho ông một cơn đau không thể chịu nổi. Ông leo lên xe, buông người ngồi phịch vào tay lái, thở hổn hển trong một phút rồi mổ máy chạy. Ông cho xe chạy trở về hướng bến Hàng Hoa. Ông cảm thấy cơ thể rã rời. Chỉ cầm tay lái thôi cũng làm cho ông kiệt sức. Những cơn đau nhói hoành hành trong bụng. Hai mắt ông mờ đi, không còn thấy rõ gì cả.
- Nhanh lên! Phải nhanh trở về phòng mình, - ông nghĩ.
Một cơn choáng váng làm mắt ông tối sầm lại trong vài giây. Rồi ông tỉnh lại. Ông cho xe chạy thật chậm, thật là chậm.
- Mình sẽ không bao giờ về đến nhà được!
Đến ngã tư, một nhân viên cảnh sát ra hiệu cho ông dừng lại. Guerran phải mệt nhọc vô cùng mới điều khiển được cái thắng xe. Người cảnh sát hạ cây gậy của anh ta xuống. Guerran rồ máy chậm chạp đến nỗi viên cảnh sát mất kiên nhẫn giơ cả hai tay lên để hối thúc ông.
- Nhanh lên! Nhanh lên!
Guerran chạy thêm được một trăm mét nữa. Xung quanh ông, tất cả trở nên càng lúc càng tối đen, như thể màn đêm đột nhiên buông xuống. Ông không còn thấy đau đớn nữa. Ông thấy nhạt miệng. Hai cánh tay ông trở nên mềm nhũn. Ông cho xe đậu vào lề bên phải và buông mình sõng soài trên nệm xe. Và ông bất tỉnh. Trước khi ngất đi, bằng một cố gắng lớn lao cuối cùng, ông đạp vào cửa xe cho nó mở rộng ra để được ứng cứu.
Vài phút sau, ông tỉnh lại. Ông vẫn còn nằm trên ghế, hai mắt nhìn lên trần xe, hai chân co quắp lại. Đám đông vây quanh ông. Ông nói thì thào:
- Hãy đưa tôi về nhà… Về nhà tôi… Ngay bây giờ…
Ông nghe những tiếng nói xa xôi, như trong mơ:
- Một bác sĩ? Bệnh viện…
Ông hiểu người ta đang bàn về trường hợp của ông. Ông lại nói thì thào:
- Không, không… Về nhà tôi…
- Một xe cứu thương! Phải có một nhân viên cảnh sát!…
- Không… Một tài xế… Tôi muốn về nhà tôi. Một tài xế taxi…
- Tôi, - một người đàn ông nói - tôi là tài xế…
- Vậy, anh hãy đưa tôi về… Bến Hàng Hoa, số 22… Bằng xe của tôi…
- Nhưng còn giờ làm việc của tôi? Ông sẽ trả tiền cho tôi chứ?
- Phải… Phải… trả rất hậu… Nhanh lên…
Người đàn ông lập tức ngồi vào tay lái. Người ta đóng cửa xe lại. Chiếc xe nổ máy.
- Chầm chậm… chầm chậm một chút, - Guerran rên rỉ trên băng ghế sau.
Bụng ông như bị một bàn tay sắt sờ nắn, bóp nát ruột già và ruột non. Tình trạng này kéo dài trong một phút rồi dịu xuống một lúc. Guerran vẫn nằm trong tư thế co quắp như một cây súng, hai tay và hai chân lạnh giá, hai hàm răng va vào nhau lập cập, không biết mình đang ở đâu nữa. Rồi cơn đau trở lại. Thỉnh thoảng, chiếc xe bị xóc làm ông nảy cả người lên:
- Chạy chậm lại một chút, - Guerran rên rỉ.
Chiếc xe dừng lại. Ông được khiêng vào trong phòng và đặt nằm lên giường với nguyên bộ đồ trên người.
- Hãy lấy ví tiền của tôi, - ông thì thào với anh tài xế… Một trăm franc cho anh… Hãy gọi giúp tôi một bác sĩ.
Ông mệt nhọc kéo chiếc chăn đắp lên người, nhắm nghiền đôi mắt lại, chìm sâu trong một giấc ngủ bị quấy rối bởi những cơn đau dữ dội và ngắn. Một bác sĩ trẻ tuổi được gọi đến vào nửa giờ sau. Với sự trợ giúp của bà gác cổng và bà giúp việc, bác sĩ cởi bớt quần áo của Guerran, thuyết phục ông nằm dài xuống, duỗi thẳng hai chân, buông những bắp thịt cho chúng được thoải mái. Anh khám bệnh cho Guerran một cách khó khăn. Bụng của ông phản ứng lại mỗi lần bị đè xuống. Và khi gõ vào, nó phát ra một tiếng vang khô cứng như một cái bụng bằng gỗ.
- Ông bị đau từ nhiều ngày nay rồi phải không? - Bác sĩ hỏi. - Ở đâu? À… chỗ này phải không, trong hố chậu? Ngay chờ đó, phải… Ông có bị nôn không? Có à? Nhiều không? Phải… phải, tôi hiểu rồi. Này, thưa ông, tình trạng của ông rất nghiêm trọng. Cần phải phẫu thuật ngay lập tức.
- Phẫu thuật ư? - Guerran nói thều thào.
- Ông bị viêm ruột thừa cấp tính. Và, ở vào địa vị của ông, tôi sẽ không chậm trễ. Trong trường hợp này, mỗi một phút đều rất quan trọng.
- Có thể phẫu thuật ngay tại đây không?
- Không thể được, tình trạng của ông nghiêm trọng lắm. Nếu ông đồng ý, chúng ta sẽ gọi một bệnh viện cho xe cứu thương đến.
- Tôi sẽ nằm ở đó lâu không?
- Khoảng mười ngày.
- Ấy là vì tôi cần phải lành bệnh ngay để kịp tham dự khóa họp quốc hội.
Bác sĩ nén một cử chỉ nóng nảy.
- Từ bây giờ đến lúc đó, chúng ta sẽ có thì giờ để xem xét. Trong lúc này, ông hãy nghe tôi, hãy dẹp những điều lo âu qua một bên.
Guerran đã hiểu.
- À, phải, - ông nói thều thào. - Thôi cũng được. Ông khuyên tôi nên đến đâu?
- Tùy ông lựa chọn… Dưỡng đường Ambroise-Paré, Berthelot, Épidauria, và Claude-Bernard ở gần đây.
- Dưỡng đường Épidauria, - Guerran nói thì thầm. - Tôi biết nơi đó… Có những người bạn của Géraudin ở đó… Ôi! Cơn đau trở lại… Bác sĩ!
- Tôi gọi Épidauria nhé?
- Phải, gọi xe cứu thương… Nhanh lên! Để người ta cho tôi thuốc mê… Làm sao để tôi không còn đau nữa… Ông sẽ nói… Ông hãy cho họ biết… Tôi muốn được Géraudin phẫu thuật… Géraudin ở Angers… Tôi muốn Géraudin… Đừng quên nhé. Tôi muốn Géraudin…
Géraudin nhận được bức điện tín lúc mười giờ rưỡi.

“… Yêu cầu đến phẫu thuật cho ông Guerran, dưỡng đường Épidauria. Rất khẩn cấp. Sẽ đợi ông đến hai giờ. Nếu không đến, chúng tôi buộc lòng phải phẫu thuật. Kính chào thân mến.
Các bác sĩ
Godefrin, Hoỵer, Colligny.”


Không có chuyến bay thường xuyên giữa Angers và Paris, nhưng Flégier gọi điện thoại đến Nantes tìm một chiếc “máy bay taxi”. Đúng mười một giờ bốn mươi, Géraudin leo lên máy bay. Cùng đi với ông có Flégier, bác sĩ phụ tá của ông, và anh tài xế Louis, người gây mê trong tất cả những ca phẫu thuật của Géraudin. Giáo sư Géraudin quen làm việc với Louis, và trong một trường hợp quan trọng như thế này, ông càng cần đến anh.
Máy bay cất cánh ngược với cơn gió hưởng tây, bay là là một lúc trên cánh đồng bao la, chong chóng quay tít làm dợn sóng những đám cỏ. Nó lấy cao độ, lâu đài vua René lùi dần về phía chân trời mù sương. Qua các cửa kính, Géraudin nhìn mặt đất lùi dần về đằng sau, những ngọn đồi còn trơ mấy gốc cây nho trụi lá, bao mái nhà cổ kính lộp bằng đá đen, những đám mây bị cánh máy bay xé rách. Một bánh máy bay quay chậm một cách êm ái trong khoảng không. Một tiếng sét làm Géraudin ù cả hai tai. Thỉnh thoảng, máy bay bị chúi mũi xuống: một “ổ gà không khí” sâu đến năm mươi mét.
- Đường bay không được “lát gạch bằng phẳng”! - Người phi công nói với giọng đùa cợt đặc biệt của dân Belleville, Paris.
Anh ta kéo cần lái. Louis nhìn anh ta điều khiển một cách thích thú. Flégier, ngồi sau Géraudin, tống ra ngoài trọn cả bữa điểm tâm với tất cả sự kín đáo, vào một cái bao nhỏ bằng giấy có in mấy chữ tiếng Anh: AIR SICKNESS.
Géraudin lấy ra một điếu xì gà. Trí óc ông đang lo lắng. Lúc này ông thèm muốn địa vị của Louis, thèm sự vô tư, bình thản của một kẻ nghèo khổ không danh tiếng, không có cái gì cần phải bảo vệ. Louis nói phét và cười đùa với người phi công. Anh không phải lo nghĩ đến những cuộc chiến đấu chống lại tử thần, những cuộc chiến mà Géraudin liều lĩnh đặt tất cả danh dự và uy tín của mình vào. Giờ đây, trước những thử thách trọng đại này, Géraudin càng cảm thấy lo sợ, mất tự tin. Không ai biết được điều này, ngoại trừ Belladan. Vì mệt nhọc, nóng nảy hay vì sức khỏe giảm sút? Dù sao, khi thấy đứa bé ngất xỉu, Géraudin đã mất bình tĩnh, dẫu chỉ trong mười giây. Nhưng về sau, sự kiện này tái diễn thêm hai lần. Một lần vào buổi chiều, khi ông khẩn cấp khoan xương sọ của một cảnh sát bị một kẻ vô lại đập mạnh vào đầu, và lần khác khi ông phẫu thuật một người mắc bệnh ung thư, một ca phẫu thuật thật lâu và mệt nhọc. Những cú đau nhói ở sau gáy như bị kim đâm, hai mắt mờ đi như có một màn sương mù che phủ, cảm giác như có một sự trống rỗng bất thình lình trong đầu, chẳng còn suy nghĩ được gì, và hai bàn tay run rẩy không chịu vâng theo ý muốn của ông.
Bây giờ, trước khi bắt đầu một ca phẫu thuật, Géraudin thường tự hỏi:
- Tình trạng tồi tệ này sẽ trở lại chăng? Tôi có hoàn thành mỹ mãn ca phẫu thuật không?
Những lần đầu, ông có thể lấy được bình tĩnh. Ông bất động chờ đợi trước vết mổ đã được banh rộng ra, đầu cúi xuống, mắt nhắm nghiền, tựa hồ như đang suy nghĩ. Ông lầm bầm đếm đến hai mươi thì tất cả những khó chịu mệt mỏi biến mất, và ông có thể bắt đầu ca phẫu thuật một cách tốt đẹp. Sau đó cơn khủng hoảng kéo dài hơn. Ông phải sử dụng hết cả nghị lực để kết thúc công việc, tuy hơi lúng túng khiến cho ca phẫu thuật chậm lại. Một hôm, Louis đã phải ngước mắt lên, ngạc nhiên nhìn ông.
- Và ngày hôm nay sẽ thế nào? - Géraudin tự hỏi. - Tuần lễ vừa qua mình đã làm việc quá nhiều. Mới hôm qua, buổi dạ hội ngu xuẩn mà Valérie đã kéo mình tham dự cho bằng được… Và giờ đây, bệnh nhân lại là Guerran. Sẽ có vô số người vây quanh theo dõi ca phẫu thuật. Nếu có thể được, mình sẽ từ chối. Nhưng Guerran tin tưởng mình. Ông ấy sẽ không hiểu lý do của sự từ chối. Dẫu sao, mình cũng không thể thú thật cho ông ấy biết được! Ước gì mình vẫn giữ được phong độ trong ca phẫu thuật sắp tới! Trước sự hiện diện của Godeirin và Colligny! Họ sẽ dò xét mình, không một động tác nào của mình thoát khỏi mắt họ. Nhất là bác sĩ Hoyer! Anh ta thường tự hào có tài phẫu thuật nhanh gọn chẳng kém gì mình! Nếu mình tỏ ra chậm chạp, trễ nải, mọi người sẽ nhận ra ngay.
“Géraudin đã già rồi!… Ông ta trở nên chậm chạp…”
Những nhận xét này làm Géraudin đau khổ tột cùng. Trong nỗi đau khổ cô đơn của mình, ông đâm ra giận Guerran đã gọi ông vào lúc này, đã tin tưởng ông. Một người bạn mà Géraudin thương mến. Và sau cùng, trách nhiệm cũng thật nặng nề. Tất cả báo chí sẽ tường thuật ca phẫu thuật này. Géraudin nhớ lại lời nói của giáo sư Gosset, người đã nhiều lần phẫu thuật cho Clémenceau. Sau một ca phẫu thuật, Clémenceau nói với vị giáo sư nổi tiếng:
- Suy cho cùng, việc phẫu thuật của tôi chỉ đem đến những thiệt thòi mà thôi. Nếu tôi lành bệnh, không ai còn nhớ rằng đó là nhờ tài năng của ông; nếu tôi chết, tất cả mọi người sẽ đổ lỗi rằng ông đã giết chết tôi!
Mọi người tựa hồ đang ở yên một chỗ trên không. Chiếc máy bay dường như bị treo bất động ở ba ngàn năm trăm mét trên một bình nguyên bao la. Nhìn từ độ cao như thế, những con đường, những khu rừng cũng có vẻ đứng nguyên tại chỗ. Géraudin ngạc nhiên khi nghe tiếng hét của Louis, gần như bị chìm trong tiếng gầm của động cơ:
- Thưa giáo sư, tháp Eiffel đây rồi!
Nó vươn lên từ chân trời, trong màn sương mù. Xung quanh nó, một vòm khí quyển độc hại, nóng và màu vàng, từ thành phố tỏa lên, bao phủ cả Paris. Trong bán kính ba mươi cây số, vòm không khí độc hại đó làm cả thủ đô bị nghẹt thở. Ngày hôm đó, hiện tượng càng rõ rệt hơn dưới một bầu trời ảm đạm với thời tiết ẩm thấp và không có lấy một cơn gió.
Máy bay lượn một vòng trên không phận Paris. Nó bay trong một phút hướng về phi trường Bourget ở phía tây, với những căn nhà bằng bê tông giống như những cái hộp. Đó đáy, trên màu xanh của thảm cỏ, những chiếc máy bay đang đậu, trông như mấy con ruồi sẵn sàng cất cánh. Động cơ ngừng gầm thét khi máy bay hạ xuống thấp và lướt dài làm cho mọi người cảm thấy buồn nôn. Thình lình, khi xuống sát mặt đất, động cơ lại gầm lên trong vài giây. Đột nhiên máy bay hạ cánh, chạy trên một mặt đất lồi lõm và dừng lại.
- Đúng một giờ mười lăm phút, thưa giáo sư! - Louis nói một cách hãnh diện.
Hai phút sau, Géraudin, Louis và Flégier lên taxi chạy thẳng về Paris. Đúng hai giờ kém hai mươi phút, Géraudin bước vào dưỡng đường Épidauria. Godefrin, Hoyer và Colligny đang đợi để dẫn ông vào phòng phẫu thuật. Guerran đã được đặt nằm sẵn trên bàn mổ.

Guerran đang đi dạo trong một khu vươn đẹp đẽ. Cây nào cây nấy đều sai quả, những quả lê màu vàng sáng lóng lánh khiến ông lóa mắt. Ông hái một quả và cắn mạnh. Ông cảm thấy nó có mùi vị kỳ lạ, như mùi khó chịu của chất ê-te. Ông bèn ném nó đi, rồi leo lên một bức tường thấp để hái mấy quả khác, nhưng ông bị ngã xuống đất.
- Chắc mình bị gãy một cái xương nào đó, - ông nghĩ thầm. - Mình không thể cử động được nữa. Chuyện gì đã xảy ra?
Ông cố gắng hết sức để đứng dậy, nhưng không được.
- Hãy giữ chặt cái đầu của ông ấy! - Một người nói.
Ông thấy vợ và hai con đang đứng kề bên. Giọng nói vừa rồi là của Julienne.
- Hãy buông ra, cho tôi đứng dậy! - Ông la lên.
- Ông không được ăn những quả lê đó! Cái bụng của ông…
- Sao! Cái bụng của tôi thì sao? Tôi nói với bà là tôi muốn đứng dậy. - Ông phản đối, đẩy Micheline và Charles ra.
Ông đứng nhỏm dậy, Julienne lao vào, ông xô mạnh bà ra, tiến về phía bức tường.
- Kìm! - Charles kêu lên.
Và Julienne cúi xuống lượm một cây kìm lớn rơi trên mặt đất, dùng hết sức ném nó vào người Guerran, ngay giữa bụng, khiến ông phải ngồi xuống. Òng cảm thấy một cơn đau xuyên thấu da thịt.
- Ôi, tôi đau quá! - Ông rên rỉ.
Ông đặt bàn tay lên chỗ vết thương. Cơn đau đớn tiếp tục kéo dài vô tận. Đột nhiên, ông nghe thấy giọng của Géraudin vang lên:
- Vải băng… Louis, xong rồi chứ?
Guerran nhớ ra.
- Người ta đang phẫu thuật cho tôi. Người ta đang mổ bụng tôi… và tôi không còn mê man nữa!
Ông bỗng cảm thấy sợ hãi. Ông vội ngẩng đầu lên, hít thật mạnh vài hơi ê-te, để ngủ trở lại… Rồi ông lại bất tỉnh…
Géraudin ra khỏi phòng phẫu thuật. Ông đã bỏ chiếc mũ, găng tay và khẩu trang. Mồ hôi ướt đẫm. Ca phẫu thuật kéo dài rất lâu, rất khó khăn. Một khúc ruột thừa bị chứng hoại thư vỡ ra như một trái cây thối. Mủ tràn ra đầy cả bụng. Trước mặt ba người bạn đồng nghiệp, Géraudin đã trổ hết tài năng vượt bậc. Về phần ông, ông cảm thấy thỏa mãn. Dù kết quả ra sao, người ta có thể nói là ông đã cố gắng hết sức. Danh dự của ông được bảo toàn. Riêng về phần Guerran, giờ đây sự lành bệnh không còn tùy thuộc vào con người nữa, mà tùy thuộc vào trận chiến bí mật và nhanh chóng sắp diễn ra giữa vài tỉ bạch cầu và vài tỉ vi khuẩn xâm nhập. Tuy nhiên, Géraudin rất lo ngại về kết quả của trận chiến này. Trường hợp của Guerran rất nặng. Rung nhĩ, mặt tím tái, cơ thể suy nhược…
Trong hành lang bệnh viện, các phóng viên hay tin đã kéo đến đông nghẹt làm tắc nghẽn cả các lối ra. Họ đổ xô về phía Géraudin. Trước những câu hỏi của họ, ông chỉ trả lời một cách mơ hồ:
- Chưa thể nào chắc chắn được. Ca phẫu thuật đã thành công hoàn toàn. Bây giờ phải chờ đợi kết quả.
Ông cùng với Colligny và Hoyer đi vào văn phòng để thảo một bản thông cáo gửi cho các nhật báo.

“Ca phẫu thuật đã được thực hiện thành công. Nhưng những nguy cơ bị nhiễm trùng vẫn còn đáng lo ngại, chưa thể chắc chắn được kết quả.
Giáo sư Géraudin,
Bác sĩ Godéyrin,
Các bác sĩ Hoyer và Colligny, phụ tá.”


Géraudin cho Flégier trở về Angers để trông nom bệnh viện và dưỡng đường, ông ở lại Paris vài ngày cùng với Louis. Ông sẽ thường xuyên theo dõi diễn tiến bệnh tình của Guerran, nếu cần, ông có thể phẫu thuật lại lần nữa. Dĩ nhiên, người ta đã tiêm huyết thanh chống chứng hoại thư và chống vi khuẩn bệnh tả cho Guerran. Và có lẽ cả những chất kháng sinh nữa. Godefrin dành riêng cho Géraudin một căn phòng tại dưỡng đường. Khi ông sửa soạn đi lên phòng, có người gọi ông:
- Ông Géraudin! Ông Géraudin!
Ông quay đầu lại. Dưới chiếc mũ bon-nê trắng của y tá, ông nhận ra Fabienne Doutreval.
- A! Cô Fabienne đấy à! Tôi biết cô làm việc ở đây, nhưng tôi chưa kịp hỏi thăm cô. Thế nào? Công việc ra sao?
- Rồi cũng quen thôi ạ, - Fabienne đáp.
- Tốt lắm! Này, cô hãy đưa tôi lên phòng của tôi. Ngày hôm qua, tôi có nói chuyện với cha cô về cô.
- Còn bệnh nhân của ông sao rồi?
- Guerran hả? Ồ… Đáng lo ngại… Nhưng cô phải giữ im lặng, đừng cho ai biết nhé?
- Ông ấy tỉnh chưa?
- Tôi chắc là chưa. Tuy nhiên, lúc này chưa có gì phải lo sợ. Những ngày sắp tới mới là những ngày cần phải chiến đấu quyết liệt. Thật là đau lòng cho tôi, nếu tôi không cứu được Guerran. Một người bạn… Một người bạn trung thành… Tôi đã từng cứu biết bao người lạ, biết bao người không thân thuộc, sao lại để cho một người bạn như Guerran phải chết?
- Chúng ta sẽ cố gắng hết sức, thưa giáo sư, - Fabienne nói, xúc động trước nỗi buồn của ông. - Tôi sẽ đến ngồi gần bên ông ấy để trông chừng. Và khi nào ông ấy tỉnh dậy, tôi sẽ chạy đi báo cho ông biết ngay. Hãy tin tưởng ở tôi.
Fabienne khởi đầu việc tập sự y tá ở dưỡng đường Épidauria kể từ tháng Mười một.
Đó là một trong những cao ốc hiện đại ở Paris, được tổ chức một cách khoa học dưới sự quản lý của một hội đồng quản trị và hoạt động gần giống như những nhà máy. Bệnh nhân vừa mới vào liền được tiêm ngay một loạt thứ thuốc ngừa, được lấy mẫu bệnh phẩm và nước tiểu để xét nghiệm, được hết chuyên viên nọ đến chuyên viên khác khám bệnh. Người ta kê cho anh ta một toa thuốc kèm giá cả như một bảng liệt kê những bộ phận cho một chiếc xe hơi bị hư hỏng vậy. Những “nhà máy sức khỏe” này đang nhanh chóng thay thế những dưỡng đường cũ kỹ của chúng ta, trong đó một bác sĩ chăm sóc các bệnh nhân với sự tin tưởng và cảm thông lẫn nhau. Dưỡng dường Épidauria là nơi chữa bệnh cho các Bộ trưởng, các nhà tài phiệt, các minh tinh màn bạc, các nhân vật nổi tiếng trên văn đàn. Tất cả những người thuộc giai cấp được gọi là “thượng lưu” ở Paris, quanh năm suốt tháng sống trong xa hoa, phè phỡn, thường đến đây chữa bệnh. Thỉnh thoảng người ta đến đây để mổ một mụn nhọt, chữa cái xương bị gãy trong một tai nạn trượt tuyết, cắt bỏ một khúc ruột thừa, một túi mật, một khối u bao tử hay một quả thận…
Sau thời gian làm việc ở bệnh viện Bình Đẳng, tại Angers, sau khi tiếp xúc với những kẻ nghèo khổ dân đã, Fabienne tưởng rằng khi đến Épidauria, cô sẽ rất bỡ ngỡ. Nhưng trái lại, cô nhận thấy ngay là nhân loại bất cứ ở đâu cũng giống nhau, và lớp sơn bóng loáng bên ngoài của sự giàu sang, quý phái gần như bị tróc ngay ra thành từng mảnh vụn sau cú sốc của sự đau đớn: Lúc đó con người để lộ ra sự thô lỗ sâu kín trong tâm hồn mình. Đó là lúc mà dưới ảnh hưởng của thuốc mê, người bệnh ngủ thiếp đi và rơi vào tình trạng vô ý thức. Fabienne có nhiệm vụ gây mê trong tất cả các ca phẫu thuật của Colligny, cô kinh hãi khi nghe một người đàn ông thuộc giới thượng lưu buông ra những lời thô tục, bẩn thỉu mà cô không hiểu hết được. Những đứa bé mà cô tưởng là trong sạch, không một chút dơ bẩn trong xã hội sang trọng đã thốt ra những lời chửi thề tục tĩu, những tiếng lóng dơ bẩn. Nhất là những người đàn bà đã có chồng, họ gọi tên tình nhân, họ lớn tiếng thú tội - trong khi đang ngấm thuốc mê - lúc người ta nạo tử cung của họ:
- Đồ ngu! Tôi đã bảo anh phải cẩn thận! Đây là lần đầu tôi lừa dối chồng tôi!
Hơn nữa, Colligny tỏ ra rất thận trọng. Ông không bao giờ cho phép người chồng chứng kiến ca phẫu thuật. Người ta cẩn thận bảo anh ta chờ ngoài hành lang.
Sau khi tỉnh dậy, họ hãy còn mơ hồ nhớ lại những lời bậy bạ mà mình đã nói. Họ lo lắng hỏi Fabienne:
- Tôi có nói trong khi mê man, phải không cô? Chắc tôi đã nói nhiều điều…
- Không, không, - Fabienne dáp. - Chỉ vài tiếng kêu không rõ ràng, như tất cả những người được phẫu thuật. Chúng tôi không hề chú ý đến điều đó.
Tất cả những chuyện bê bối hầu như xảy ra hằng ngày, khiến Fabienne dần dần không còn cảm thấy bất bình, phẫn nộ như trước nữa, cái phẫn nộ của tính lương thiện bị tổn thương. Một điều không bình thường, nhưng nếu cứ lặp đi lặp lại mãi, cuối cùng rồi cũng được xem như bình thường. Đôi khi Fabienne lo lắng cảm thấy mình trở nên khoan dung hơn, dễ tha thứ cho những hành vi trái với các nguyên tắc của nền giáo dục cô nhận được từ nhỏ. Người ta không thể thở mãi bầu không khí phi luân lý của giai cấp thượng lưu mà không bị ảnh hưởng.
Vào tháng Hai, Doutreval lên Paris thăm con gái. Ông thấy cô có vẻ thay đổi, hơi buồn và lo âu. Về phương diện y khoa, dĩ nhiên cô đã tiến bộ, và học hỏi được rất nhiều. Tuy vậy, cô muốn được trở về bên Mariette và cha. Cô không dám giải thích nhưng vẫn cố nài nỉ. Doutreval không hiểu sự hoang mang sâu xa của con gái mình. Ông không thấy cô đang trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần trầm trọng, nó de dọa lật ngược những nguyên tắc luân lý cô đã được học. Ông trách mắng cô một cách dịu dàng, bảo cô phải tỏ ra khôn ngoan hơn. Ông sắp sửa cần đến cô, ông hy vọng chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ cấp cho ông một cơ sở để mở chẩn y viện. Con gái út của ông sẽ là cánh tay đắc lực của ông. Ông tin tưởng nơi cô. Cô cần phải tỏ ra can đảm và kiên nhẫn hơn, Fabienne lặng thinh, không nói gì nữa.

Guerran ra khỏi giấc ngủ nặng nề. Ông đưa cặp mắt đờ đẫn nhìn xung quanh, và thấy một gương mặt xanh xao, mảnh mai dưới chiếc mũ y tá màu trắng đang nghiêng đầu xuống nhìn ông với vẻ lo lắng. Đôi mắt màu nâu, chiếc mũi thanh tú, hơi dài một chút, hai hàng lông mày đen hình vòng cung nhắc ông nhớ đến một gương mặt quen thuộc. Phải khó khăn lắm ông mới nhớ lại được và nói bằng giọng thều thào:
- Cô là… Cô là cô bé Fabienne…
- Vâng, thưa ông Guerran, tôi là con gái của giáo sư Doutreval, ông hãy yên tâm, đừng nói nữa.
- Tôi mệt… mệt lắm… - Guerran thều thào. - Tất cả đều quay mòng mòng…
Ông muốn chống tay để nhỏm người lên. Và ông nghiêng đầu ra khỏi giường như muốn nôn ra. Nhưng ông chỉ nôn được một chút nước bọt và bụng ông đau như xé.
Khoảng chín giờ, ông thấy khỏe hơn một chút thì vợ ông, nhận được một bức điện tín báo tin, đã bắt xe lửa tốc hành từ Angers đến. Cao lớn, tóc nâu, da màu ô liu, lông mày và lông mi được nhuộm đen tím, khoác măng tô bằng lụa đen làm nổi bật vẻ thanh lịch, bà ta lặng lẽ đến hôn ông không nói một lời.
- Micheline đâu? - Guerran thều thào hỏi.
- Tôi đã để nó ở lại Angers, tại nhà của Charles. Ngày mai nó sẽ lên đây.
- Ngày mai à? - Guerran nói trong một hơi thở.
- Phải, sáng mai.
- Lâu quá…
Fabienne đã đi ra ngoài. Tiếng chuông trong phòng gọi cô trở vào. Guerran cảm thấy lạnh, xin một túi chườm nóng.
- Vậy là ông đã được đưa thẳng đến đây? - Bà Julienne hỏi, trong khi Fabienne bọc hai bàn chân lạnh giá của Guerran trong một lớp bông lót.
- Phải, đưa thẳng đến đây, - Guerran đáp, giọng yếu ớt.
- Ông có mang tiền theo không?
- Không.
- Ông biết rằng tôi gần như không còn đồng nào ở nhà chứ?
Guerran quay người lại, rên rỉ:
- Tôi đau quá.
- Ít nhất ông có tiên lượng…?
- Tôi không biết, Julienne… À, tốt lắm, cô Fabienne… tốt lắm… Cảm ơn cô. Cảm ơn cô.
Julienne Guerran, dưới chiếc mũ phớt màu lông chuột chũi, liếc mắt nhìn về phía Fabienne bằng một cái nhìn nhanh và sắc sảo.
- Đây là cô Fabienne, - Guerran nói nhỏ.
- Fabienne?
- Fabienne Doutreval…
- Tôi là con gái của giáo sư Doutreval ở Angers, thưa bà, - Fabienne giải thích.
Cái nhìn dữ dội của Julienne Guerran liền dịu xuống.
- A! Phải rồi… Bây giờ tôi nhớ ra rồi… Lúc nãy tôi nghĩ thầm: Dường như tôi biết có gái này… Chúng ta đã gặp nhau tại nhà của ông Heubel, phải không cô?
- Thưa bà, quả đúng như vậy.
- Đúng như thế, phải rồi. Thật là một sự ngẫu nhiên, một may mắn cho ông chồng đáng thương của tôi!
Với tính ghen tuông dữ dội của một người đàn bà xấu tính và đang già đi, thoạt đầu bà ta đã nghi ngờ cô y tá trẻ mà chồng mình thân mật gọi là “cô Fabienne” có thể là một địch thủ của bà ta. Nhận ra hiểu lầm của mình, bà ta yên tâm và tươi cười. Fabienne muốn đi ra ngoài.
- Để tôi cùng đi với cô, - bà ta nói.
- Bà có cần một cái giường nhỏ ở đây không, thưa bà?
- Không. - Géraudin không đồng ý. - Tôi đang bị cúm nặng. - Ông ấy lo cho bệnh nhân của chúng ta… - Đôi khi chứng sung huyết phổi có thể xảy ra phải không?…
- Đúng vậy.
- Tôi đã giữ một phòng ở khách sạn Saint-James, phố Saint-Honoré. Sáng mai tôi sẽ có mặt tại đây vào đầu giờ sáng, cũng vậy cả. Để tôi đi cùng cô. Tạm biệt Olivier. Ông cố gắng suy nghĩ một chút về điều tôi đã nói hồi nãy nhé? Can đảm lên.
Bà ta theo Fabienne đi ra ngoài.
Guerran trải qua một đêm rất nguy kịch. Fabienne đã dặn nữ y tá trực gọi cô ngay nếu tình trạng bệnh nhân không được tốt. Vào khoảng nửa đêm, chuông điện thoại reo, Fabienne đi xuống.
- Gay go lắm, - nữ đồng nghiệp của cô nói. - Ông ấy sốt 40 độ và đang mê sảng.
Guerran nằm sõng soài trên tấm nệm bị võng xuống, người ông co giật, miệng không ngớt thốt ra những câu ngắn, ngắt quãng:
“Tôi nói với bà là không. Bà sẽ không có số tiền đó! Mười tám ngàn franc! Không! Và không!”
“Mấy người tưởng rằng số tiền đó là ăn cắp được sao?” - Ông nói tiếp sau một lúc im lặng.
“Không! Julienne! Không một xu nào nữa! Trước hết, bà cứ mở tủ ra mà xem! Bà sẽ thấy! Bà sẽ thấy rõ…”
- Giáo sư Géraudin đã dặn như thế nào? - Nữ y tá hỏi.
- Cho uống hai viên thuốc, trong trường hợp cần thiết, - Fabienne nói. - Chúng ta hãy bắt đầu bằng một viên… Tôi mong sao trời mau sáng.
Tới sáng, nhiệt độ cơ thể Guerran hơi giảm xuống, nhưng vẻ mặt ông trông rất tiều tụy. Géraudin đích thân thay băng cho ông, không nói một tiếng nào. Fabienne nhận thấy vết mổ không có vẻ khả quan. Không có chảy mủ, không có dấu hiệu nào chứng tỏ sự tự vệ của cơ thể: Bên trong đang bị nhiễm trùng một cách trầm trọng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

Lúc chín giờ rưỡi, Julienne Guerran đến bằng xe taxi cùng Micheline và vị hôn phu của cô. Fabienne đợi họ ở dưới để báo cho họ biết là đêm qua tình trạng của Guerran đã trở nặng, và người bệnh cần yên tĩnh. Julienne Guerran vẫn thản nhiên như không. Robert Bussy, một thanh niên cao lớn, vẻ hơi mực thước và lạnh lùng, nói là cậu sẽ ở lại đợi ở tầng dưới. Micheline kinh hãi lắng nghe, đôi mắt to màu xanh của cô mở lớn. Fabienne đưa hai mẹ con bà ta đến tận giường của Guerran. Thấy cha mình vẫn còn sống, vẫn còn nói chuyện một cách sáng suốt, Micheline thấy yên tâm hơn.
- Ông có khỏe không? - Julienne hỏi.
- Khỏe một chút.
- Ngủ được không?
- Tôi đã nằm mơ. Nằm mơ rất nhiều. Hãy lại đây hôn ba đi, Micheline.
Micheline rời khỏi khung cửa sổ mà cô đã vén rèm, đứng phất tay chào Robert Bussy đi dạo dưới sân. Cô đến hôn cha. Fabienne đi ra ngoài, chỉ trở lại mười lăm phút sau để đưa hai người phụ nữ đi ra. Trong khi đi ra, một lần nữa, Julienne lại nhắc nhở chồng mình:
- Olivier, ông đã nghĩ đến vụ tiền nong chưa?
- Xem nào, tôi đã đưa cho bà số tiền thường lệ vào đầu tháng rồi.
- Ông biết rõ là tôi có nhiều thứ phải chi tiêu.
Guerran kìm hãm một cử chỉ giận dữ:
- Bà muốn tôi làm gì bây giờ! Tôi không thể nào đứng dậy để biện hộ được. Phải chờ thôi!
- Charles có thể yêu cầu các thân chủ trả tiền trước được không?
- Được… Nhưng không… Hồ sơ của những vụ lớn đều ở trong tủ sắt của tôi… Nó không biết gì về mấy vụ đó.
- Còn ở ngân hàng?
- Trong tủ sắt của ngân hàng à? Ừ… Còn một ít… Các tờ chứng khoán… Nhưng không thể bán được. Hơn nữa, chỉ mình tôi có thể đến đó thôi.
- Ông thấy hậu quả sự nghi kỵ của ông chưa?
- Được rồi! Được rồi! - Guerran la lên. - Dù sao tôi cũng không chết đâu! Tôi sẽ ra khỏi đây! Chỉ mười ngày nữa thời.
- Mười ngày cơ à?
- Phải, bác sĩ đã bảo như thế.
- Lâu quá! Người ta đã mang hóa đơn áo lông đến hai lần rồi, ông biết không? Và còn tiền mua xe hơi cho thằng Charles nữa…
- Tôi không thể làm được gì! - Guerran giận dữ. - Tôi phải nằm ở đây đã bực bội quá rồi! Phải, phải. Chào tất cả. Hãy hôn ba đi nào, con gái nhỏ bé của ba…

- Không có mủ! - Géraudin nói vào ngày hôm sau trong hành lang, sau khi thay băng xong. Không có dấu hiệu về sức đề kháng của cơ thể. Bụng đầy hơi không thoát ra được. Một tình trạng đáng lo ngại. Tôi tự hỏi có nên mổ lại một lần nữa không?
Guerran nằm sõng soài trên giường, chập chờn trong giấc ngủ đầy ác mộng. Đêm hôm đó, đến lượt Fabienne canh chừng ông. Cô không ngủ được một phút nào, luôn luôn bị đánh thức bởi những tiếng la ú ớ, những lời thóa mạ được thốt lên khò khè, những tiếng rên rỉ. Cô đứng dậy từ chiếc ghế bành, tiến đến nhìn gương mặt đáng thương, hóp sâu và vàng bệch trên gối với một hàm râu lởm chởm đã ba ngày không cạo. Thỉnh thoảng, ông nói nhỏ và không rõ ràng:
- Không một đồng xu nào nữa… Bà không được đụng vào của hồi môn của nó! Không phải là con tôi ư? Micheline không phải là con tôi ư? Ôi! Đồ đĩ thỏa!
Những lời cuối cùng kết thúc bằng một tiếng rên. Ông mở mắt ra:
- Tôi khát nước!
Đêm đó thật là một đêm mệt nhọc. Vào khoảng sáu giờ sáng, một nữ đồng nghiệp đến thay thế cho Fabienne. Bệnh nhân, đã thức dậy, tỉnh táo nhưng kiệt sức. Fabienne lên phòng nghỉ một chút.
Khi trở xuống, cô gặp bà Guerran và Charles đang đi tới…
- Thế nào cô? Đêm qua thế nào?
- Không được tốt lắm, thưa bà.
- Ông ấy thức dậy chưa?
- Từ lâu rồi.
- Rất tốt! Tôi có chuyện quan trọng phải nói với ông ấy.
- Và tôi, tôi muốn cho ông ấy xem vài hồ sơ… những vụ phải biện hộ trong tuần này…
- Không nên! - Fabienne nói.
- Tại sao?
- Ông ấy đã kiệt sức. Chỉ nên nói chuyện với ông ấy càng ít càng tốt.
- À! - Charles đáp, vẻ thất vọng.
- Thế này, thưa cô, - Julienne nói. - Cô có vui lòng nói với ông ấy không, nếu có dịp? Cô hãy hỏi ông ấy cách mở khóa két sắt… Tôi đã thử tất cả mọi chữ cái đầu của những cái tên trong gia đình mà vẫn không mở được! Và cũng nhờ cô hỏi ông ấy, khi nào cô thấy ông ấy khỏe hơn một chút, xem Charles có thể hỏi một số tiền trả trước ở những thân chủ nào…? Xin cô đừng quên.
- Được rồi. Xin ông hãy để chiếc cặp của ông ở tủ đựng đồ…
- Không, biết đâu chúng tôi có thể hỏi được ông ấy vài câu.
Hai mẹ con đi vào phòng của Guerran. Họ chỉ đi ra một giờ sau đó, để lại Guerran hoàn toàn bị kiệt quệ như sau một trận đánh tơi bời.
- Này cô, - giáo sư Géraudin giận dữ nói với Fabienne. - Cô sẽ không rời khỏi phòng này khi những người đó đến thăm bệnh nhân. Họ sẽ giết ông ấy mất!
- Tình trạng của ông ấy nguy kịch lắm ư?
- Tôi sẽ mổ lại.
Ông mổ lại vết thương vào lúc ba giờ, trước sự hiện diện của tất cả các bác sĩ phẫu thuật trong dưỡng đường. Godefrin, Hoyer, Colligny nhăn mặt trước vết thương màu hồng lợt không làm da non, không có mủ, không có phản ứng tự vệ của cơ thể. Một chất nước vàng chảy từ từ.
- Một chất nước độc, - Hoyer nói.
- Phải, một chất nước tai hại! - Colligny nói.
Géraudin lấy một ít nước ấy đem đi phân tích.
Lúc bốn giờ, phòng thí nghiệm đưa đến lời phán quyết ghê gớm. Liền trong phút sau đó, cả dưỡng đường đều biết bản án tử hình: Có liên cầu khuẩn.
- Guerran hết hy vọng thoát chết, - Hoyer nói.
- Phải chiến đấu, - Géraudin dáp. - Tiêm vắc-xin chống liên cầu khuẩn, truyền máu… Chúng ta vẫn còn nhiều “vũ khí”.
- Ông có thấy sắc mặt của ông ấy không?
- Tôi đã từng chữa lành cho những người còn bị nặng hơn ông ấy. Hãy gọi những người cho máu của ông ấy đến.
Trong buổi chiều hôm đó, người ta tiêm một loạt những thứ vắc-xin, và sáng hôm sau, người ta truyền máu cho Guerran.
Chính Géraudin đích thân báo trước cho Julienne và Charles biết về tình trạng của Guerran.
- Tôi không giấu bà, rằng trong những ngày sắp tới, một kết quả thảm khốc có thể xảy ra. Bà hãy có những biện pháp thận trọng. Nhất là tránh làm cho ông nhà bị mệt. Chỉ ở bên cạnh ông ấy hai phút thôi, không được lâu hơn.
Và sau lưng họ, ông gọi Fabienne đến dặn:
- Tôi biết người đàn bà ấy… Cô hãy ở lại đó. Tôi ra lệnh cho cô ném họ ra ngoài, nếu…
Guerran vẫn còn nhận ra vợ và con trai. Ông hỏi, giọng rất yếu:
- Micheline đâu?
- Ngày mai…
- Tôi muốn gặp Micheline, - Guerran lặp lại, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Ông cảm thấy bệnh nặng hơn à?
- Phải…
- Ông có ước muốn gì không?
- Gặp Micheline.
- Ông không có biện pháp nào à? Ông không muốn…
Guerran hiểu lời nói bóng gió. Ông mở mắt ra.
- Những biện pháp gì?
- Tôi đâu biết… Vì thận trọng… Ông sẽ cảm thấy thanh thản hơn… Số tiền gửi ngân hàng của ông? Ông có thể viết một tấm séc.
Guerran không trả lời. Một khoảng im lặng, rồi Julienne nói thì thầm với Charles:
- Chúng ta có thể lấy tiền ra được không? Nếu… nếu trường hợp…
- Không. Tài khoản sẽ bị phong tỏa, - Charles đáp.


Image


Một nét tức giận thoáng hiện trên gương mặt tối sầm của Julienne. Bà ta quay về phía người bệnh sắp chết, nói một cách giận dữ:
- Này, Olivier! Thật là vô lý! Ông đâu phải là một đứa trẻ nữa! Giả dụ ông có mệnh hệ nào, tôi sẽ ra sao?
- Tôi không đến nỗi nào đâu, - Guerran nói lắp bắp.
- Ông có nghĩ tới trường hợp tôi không có một đồng xu? Không vốn liếng! Không có gì hết! Hoàn toàn phụ thuộc vào hai đứa con.
- Phân nửa tài sản thuộc về mẹ, - Charles cãi lại.
- Như vậy, hai đứa mày sẽ cho bán hết, hai đứa mày sẽ cho tao ra dường! Tao sẽ phụ thuộc vào chúng mày! Olivier! Ông có nghe tôi nói không? Ông hãy mở mắt ra. Tôi sẽ gọi một ông chưởng khế đến. Tôi cần một di chúc, một chứng thư cho tôi quyền hưởng dụng tài sản.
Bà ta quên mất sự hiện diện của Fabienne đang đứng ở cửa sổ. Bà ta nắm vai chồng, lay mạnh.
- Ông đồng ý chứ?
- Bà hãy để tôi yên, - người bệnh thở gấp gáp. - Tôi van bà…
Fabienne tiến đến gần bên giường.
- Nhưng mẹ, một quyền hưởng dụng sẽ làm cho chúng con không còn gì cả, - Charles nói.
- Quyền hưởng dụng hay một cái gì khác cũng được, tao cóc cần. Nhưng tao biết rằng ở gia đình Heubel, họ đã làm một cái gì tương tự như thế…
Bà ta rút trong túi ra một tờ giấy, đọc một cách khó khăn:
- “Trong hai vợ chồng, người còn sống sau cùng sẽ hưởng dụng tất cả tài sản…” Tôi đã ghi đây. Thế nào, Olivier? Olivier? Ông nghĩ sao về điều này? Hãy trả lời đi!
Guerran cử động, cố gắng nhỏm người dậy.
- Vậy ba muốn để Micheline và con không còn một đồng xu hay sao? - Charles phản đối. - Thưa ba, hãy suy nghĩ kỹ…
- Tao không cho tụi bây một món nào cả, - Julienne la lên. - Nhưng ông phải để cho tôi làm chủ tiền bạc. Olivier! Chúng phải phụ thuộc vào tôi! Tôi gọi ông chưởng khế, nhé?
- Ngày mai, - Guerran nói nhỏ.
- Ngày mai ư? Có lẽ sẽ quá…
- Thưa bà! - Fabienne kêu lên.
- Ngày mai, - Guerran lặp lại. - Từ hôm nay đến mai, tôi sẽ lành bệnh. Và thằng heo Rebat sẽ không thắng được tôi đâu! Hắn mà làm thủ lĩnh luật sư đoàn à? Không! Không bao giờ! Tôi sẽ đi ngay lập tức, đến đập cho nó vỡ mặt ra.
- Ông nói gì? Ông nói gì thế? - Julienne kinh hãi nói lắp bắp.
- Ông hãy nằm yên, - Fabienne kêu lên, và nhấn mạnh chuông gọi. - Ông Guerran!
Cô đẩy bệnh nhân nằm xuống giường, nhấn chuông lần nữa và lôi cánh tay của Julienne ra.
- Đủ rồi, thưa bà! Bà đã thấy rồi đó! Nếu tôi là bà, tôi sẽ xấu hổ biết bao!
Các nữ y tá chạy đến. Julienne giận như điên, nhưng không dám gây ra một vụ tai tiếng. Bà ta đi ra với Charles bằng những bước chân giận dữ.
- Chắc chắn bà ta sẽ đi thưa chuyện với Godefrin, - Fabienne nghĩ thầm.
Nhưng không có ai đi thưa chuyện cả. Khi bà ta trở lại, Guerran đang hôn mê. Julienne, Micheline và Charles bèn ăn ở luôn tại dưỡng đường.
Truyền máu, tiêm vắc-xin. Đến lần truyền máu thứ ba, lúc mà tất cả mọi người đều ngỡ rằng Guerran đã chết, thì ông ta tỉnh lại. Người ta không hiểu tại sao. Trong nhiều tuần lễ, ông nằm trên giường, thân thể ướt đẫm mồ hôi, như một con vật vô ý thức và luôn luôn rên rỉ, than thở đau đớn. Ông nhấn chuông gọi Fabienne, đòi thay quần áo, đòi đỡ ông dậy, sửa lại gối nằm, cho uống nước, lau trán, đắp chăn, kéo chăn lên, cho hít khí ê-te, mở cửa sổ ra rồi kéo lại, rồi tắt đèn… Một khối thịt khốn khổ đau nhức. Nhưng ông đã thoát chết. Và Géraudin đã rời Paris, trở về Angers.
Dưới đôi mắt của ông, Fabienne là hiện thân của một thiên thần từ thiện, một lòng bác ái sống động. Ông không tưởng tượng nổi người ta có thể dịu dàng, kiên nhẫn và khoan dung đến mức độ như thế đối với những đòi hỏi của một kẻ bị kiệt sức và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông xấu hổ với chính mình khi ông đã gọi cô đến lần thứ bốn mươi và vẫn thấy cần phải gọi thêm một lần nữa. Thấy cô đến, nụ cười trên môi, ông cảm thấy xúc động và biết ơn đến rơm rớm nước mắt. Sự thật, Fabienne thương ông và chăm sóc ông với nhiều tình cảm hơn với bất kỳ ai khác. Bởi vì cô đã đoán được đằng sau những thành công và vẻ hạnh phúc bên ngoài đó là một nỗi cô đơn bao la và khốn khổ.
Julienne và Micheline đã rời dưỡng đường. Bà ta ngụ ở khách sạn, và đến thăm ông vào mỗi buổi sáng. Charles đã về Angers, nhưng cứ ba ngày lại đến dưỡng đường, trình bày các hồ sơ cho Guerran xem, nhờ ông chỉ dẫn. Cậu ta thiếu kinh nghiệm. Nhất là lúc ảnh hưởng cá nhân của Guerran không còn tác dụng nữa. Ông không còn ở đó để đi đến Bộ, giải quyết vấn đề thuế, dàn xếp về một tồ khai thuế sai sót.
- Ba phải đi mới được. Chừng nào ba sẽ đi biện hộ? Con đã nộp những kết luận của ba về vụ ly dị của Planquin và Berthiel rồi, Rebat đã gửi cho con những kết luận của ông ấy. Ngoài ra còn vụ thuế nữa. Con có mang theo hồ sơ đây. Ba xem qua một chút. Dĩ nhiên, nếu ba có thể đi đến Bộ thì sẽ giải quyết được rất nhiều việc.
- Và ông đừng quên vấn đề tiền bạc, - Julienne nói chen vào. - Tôi đã đặt may một số quần áo mùa hè…
Chỉ có Micheline là an ủi được Guerran. Cô quá vui vẻ, quá ồn ào một chút. Trong những lời nói líu lo và trong những tiếng cười của cô có một chút ích kỷ của một cô gái trẻ sung sướng và không hiểu gì cả. Nhưng Guerran không nhận thấy điều đó.
Một hôm, cô đến cùng với Robert Bussy. Người con trai của ông chưởng khế chắc đã phải kinh ngạc trước vẻ suy yếu tàn tạ của ông bố vợ tương lai, mặc dù ông đã qua cơn nguy hiểm. Bởi người ta cảm thấy có một sự thay đổi nơi Micheline. Robert Bussy chắc hẳn đã nói với cô về biện pháp đề phòng, về một tai họa lúc nào cũng có thể xảy ra… Bây giờ, cô cũng bắt đầu nói về tiền bạc. Cô hỏi:
- Nếu không may có chuyện xảy ra với ba thì sao, thưa ba? Trong trường hợp đó, con vẫn có thể kết hôn, phải không? Ba đã có biện pháp để bảo đảm số tiền hồi môn cho con chưa?
Có những ngày mà quá bực bội, mệt mỏi và yếu sức, Guerran kinh hãi khi thấy những người thân của mình đến thăm. Ông năn nỉ:
- Cô Fabienne ơi, xin cô đừng để tôi một mình quá lâu. Cô hãy trở lại. Hãy tống họ ra cửa… Họ sẽ ngăn cản không cho tôi sống! Nếu tôi chết, họ sẽ không có gì hết! Đã đến lúc họ phải nghĩ đến điều đó chứ!
Và Fabienne rút ngắn thời gian thăm hỏi lại. Mười lăm phút sau, khi Julienne hay Charles đến, cô quay vào phòng và xin lỗi, lấy cớ cần phải thay băng cho bệnh nhân.
- Cô thật tốt bụng. Tôi chưa bao giờ gặp được ai tốt như cô, cô Fabienne ạ. Phải. Tôi làm cho cô bực bội. Tôi khó chịu, đòi hỏi nhiều. Tôi quấy rầy cô vì những chuyện nhỏ nhặt. Và cô không bao giờ càu nhàu. Tuy nhiên, cô không thể nào đoán được rằng lúc nào tôi cũng cảm thấy đau đớn, lúc nào tôi cũng cần được người ta đỡ tôi dậy, sửa lại chiếc gối, kéo tấm chăn cho thẳng, lật tôi qua bên này, bên kia. Tôi không bao giờ ngờ được rằng một người vừa mới bị phẫu thuật, một người bị bệnh lại có những tính nhạy cảm, những sự yếu đuối mong manh đến như vậy. Điều này khiến cho tôi xấu hổ. Cô… cô có trực giác về điều đó, mà bản thân cô không phải trải qua…
- Tất cả những người đàn bà…
- Không. Vợ tôi, bà ấy không hiểu đâu. Và cả Micheline cũng không hiểu. Cô không để ý nó đến thăm tôi như thế nào à?
- Không.
- Nó đánh phấn!
- Ồ! Nếu chỉ có thế thôi…! - Fabienne mỉm cười.
- Đối với tôi, điều đó có vẻ kỳ lạ! Nó đã thay đổi lối trang điểm thông thường của mình cách đây tám ngày. Cô có thấy điều đó không? Son môi của nó quá đỏ. Nó đã nhuộm đen lông mày. Một cô gái tóc vàng! Nó xinh đẹp biết bao với mái tóc vàng và đôi mắt trong xanh của nó. Con bé dại dột! Vả lại thấy nó nghĩ đến mấy thứ đó trong khi tôi nằm chết gí ở đây, tôi không khỏi không khó chịu. Đối với Julienne, tôi chẳng cần quan tâm. Mỗi khi bà ấy đến đây, mùi nước hoa của bà ấy làm tôi buồn nôn. Bà ấy có thể tha hồ đánh phấn tô son. Chúng tôi đã biết nhau quá nhiều! Nhưng với Micheline, điều đó khiến tôi đau lòng.
- Ở vào lứa tuổi của cô ấy thì phải như thế, thưa ông. Hơn nữa, ông đã thoát khỏi nguy hiểm. Lẽ tất nhiên cô ấy cảm thấy thoải mái sau những lo âu vừa qua.
- Phải, có lẽ đúng… Tôi không nói như vậy nữa. Nhưng dẫu sao tôi vẫn cảm thấy khó chịu. Người ta có những tính nhạy cảm khác thường, cô thấy không, khi người ta bệnh tật… Và xem cô kìa, cô đâu có đánh phấn. Phải tin rằng cô… cô cũng cảm thấy điều đó.
- Người ta có thể tô son lên đôi môi mình mà vẫn là một nữ y tá tốt, thưa ông.
- Chỉ một chút thôi. Không quá nhiều. Phải tôn trọng nỗi đau khổ của kẻ khác. Trước kia, tôi chưa bao giờ biết điều đó.
- Tôi cam đoan với ông là tôi không bao giờ suy nghĩ sâu xa như thế, - Fabienne cười nói.
- Tôi biết. Đó là một điều tự nhiên nới cô. Ước gì tôi có được một cô con gái như cô, cô Fabienne.
- Ông đã có một cô con gái tốt nhất.
- Phải, phải! Micheline rất tốt. Nhưng chỉ trong sự vui sướng, trong hạnh phúc. Nhưng cô, cô mới là người mà người ta muốn được ở bên cạnh khi đau khổ.
Ông giữ cô ở lại rất lâu, để nói chuyện với cô và nghe cô nói. Cô kể cho ông nghe kinh nghiệm của mình về bệnh viện, về dưỡng đường, nguyên nhân nào đã khiến cô phải từ bỏ những ảo tưởng của thời thơ ấu, mở mắt ra trước những cái xấu xa của cuộc sống. Cô nói với ông về những mối lo cùng những niềm vui trong nghề, về những bệnh nhân mà cô quan tâm đến. Nhờ có cô, ông nằm liệt giường mà vẫn biết được tình trạng của các bệnh nhân xung quanh.
Tất cả những chuyện đó làm cho Guerran thích thú, không còn cảm thấy những giờ nằm dưỡng bệnh dài dằng dặc nữa. Chẳng bao lâu, ông bắt đầu nói đến việc rời khỏi dưỡng đường. Những hồ sơ chồng chất càng ngày càng cao trong văn phòng đang kêu gọi ông. Ở Quốc hội, kỳ nghỉ lễ Phục sinh đã chấm dứt.
- Dù sao, ông cũng phải tĩnh dưỡng trong vài tháng nữa. Trong lúc đến Savoie, ông nên ở lại đó cho đến cuối mùa thu…
- Được rồi, tôi xin hứa. Tôi sẽ cố gắng ở đó. Và cũng là nhờ cô đó, cô Fabienne! Quả thực tất cả sự hồi sinh của tôi đều là nhờ cô.
Fabienne cười đi ra. Guerran rồi dưỡng đường vào đầu tháng Năm. Ông xuất hiện chớp nhoáng ở Quốc hội, rồi trở về Angers trong năm ngày để giải quyết những hồ sơ gay go và khẩn cấp nhất. Và một tuần lễ sau khi rời Paris, ông đi nghỉ mát ở Aix-les-Bains cùng Micheline và Julienne. Một căn phòng đang chờ đợi ông ở khách sạn Continental, với một lá cờ tam tài lớn được trang trí để vinh danh vị chính trị gia hạnh phúc và quyền lực.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

9


Một buổi sáng, chiếc xe hơi của Doutreval dừng lại trước dưỡng đường Épidauria. Doutreval cùng với Vallorge đến đón Fabienne đi nghỉ hè trong vài tuần lễ. Tháp tùng theo hai người còn có Regnoult, lúc nào cũng thanh lịch chải chuốt, từ mái tóc xoăn đến chiếc cà vạt và cả mười móng tay được cắt thật kỹ. Trước đó tám ngày, Guerran đã rời dưỡng đường. Vì thế Doutreval không được gặp và lấy làm tiếc. Guerran và ông đã có cảm tình với nhau, nhân những cuộc viếng thăm của Doutreval ở Épidauria. Trong những lần gặp gỡ đó, người bệnh đã không tiếc lời khen ngợi cô y tá xinh đẹp. Và Doutreval không khỏi không hài lòng trước mối cảm tình của một chính khách nhiều thế lực có thể có ích cho ông.
Groix với mái tóc vàng, vết sẹo trên mặt và tính cao hứng nồng nhiệt, sẽ chờ đón họ ở viện Bicêtre, nơi Doutreval sẽ nói về phương pháp trị bệnh điên. Buổi xế trưa, ông cùng Fabienne và hai phụ tá trở về Angers. Fabienne lơ đãng nghe những lời bông đùa của Groix và những lời tán tỉnh của Regnoult. Cô cảm thấy sung sướng được trở về nhà nghỉ ngơi giữa bầu không khí ấm cúng của gia đình.
Dạo này, Doutreval hay đến Paris. Ông đi rất nhiều, người ta cần ông ở khắp nơi, ở các đô thị lớn của nước Pháp, ở các thủ đô của nước ngoài. Ông bận tâm thực hiện những buổi nói chuyện, những buổi diễn thuyết. Mọi người đều biết ông, danh tiếng của ông đã lấn át cả danh tiếng của những giáo sư y khoa lỗi lạc nhất. Ông cảm nhận được điều này qua thái độ kính trọng của các sinh viên mỗi tháng càng đông hơn. Sự vinh quang ngày càng gia tăng làm ông quên đi phần nào nỗi cô đơn trong ngôi nhà lớn đã trở nên trống vắng, sự đoạn tuyệt với con trai và sự vắng mặt của Fabienne, một sự vắng mặt mà may mắn thay không còn kéo dài bao lâu nữa. Fabienne đã hoàn tất thời gian tập sự, cô đã học được những kinh nghiệm nghề nghiệp cần thiết, bây giờ cô sẽ là một phụ tá quý giá vô cùng. Giờ đây, ông chỉ cần có - càng nhanh càng tốt - một cơ sở và những khoản tiền trợ cấp để chữa bệnh miễn phí cho các bệnh nhân nghèo, xây dựng tại Angers một trung tâm trị liệu quan trọng. Việc hoàn thành trung tâm này là giai đoạn cuối trong chương trình của ông. Thỉnh thoảng ông tâm sự với Géraudin về giấc mộng lớn này.
Ông hiểu mình sẽ gặp vô số khó khăn về vật chất, sẽ phải xoa dịu hàng nghìn kẻ ghen tị. Géraudin đồng ý với ông.
- Anh hãy chờ Nội các này sụp đổ, hãy kiên nhẫn, chẳng bao lâu đâu! Guerran chắc chắn sẽ là thành viên của Nội các mới. Thế của ông ta đang lên với tư cách là “chuyên viên kỹ thuật về nông nghiệp”. Và với một Guerran Bộ trưởng, kế hoạch của anh chắc chắn sẽ hoàn thành, tôi bảo đảm với anh.
Trong khi chờ đợi, Doutreval thiết lập chương trình cho những công việc và những chuyến đi của mình… Đến cuối tháng, ông sẽ đi Hòa Lan. Sau kỳ thi đại học vào tháng Sáu, ông sẽ đi Na Uy. Tháng Mười, ông sang Đức. Sau thời gian tựu trường, ông sẽ đi Ý. Từ khắp nơi, người ta viết thư mời ông đến trình bày phương pháp của ông.
Nhưng có điều những cuộc di chuyển đó gây trở ngại cho việc đào sâu công trình nghiên cứu như ông vẫn mong muốn. Còn có nhiều ẩn số chưa được giải đáp. Tác dụng của chất curare thay đổi tùy theo mỗi bệnh nhân. Tại sao vậy? Nhiều bệnh nhân đã được chữa lành và có thể làm công việc nhẹ đến tìm ông, phàn nàn về chứng đau lưng dữ dội. Tại sao vậy? Muốn tìm ra lý do, cần phải có thời gian nghiên cứu, Doutreval bắt tay vào việc trong vài ngày, rồi lại bị ngăn trở vì phải chuẩn bị cho một buổi diễn thuyết, một bản tường trình… Ông cũng gặp phải trường hợp một bệnh nhân chết vì phương pháp của ông. Tuy đây là một tai nạn không thể tránh khỏi, nhưng nó cũng gây cho ông một cảm giác khó chịu. Groix và Regnoult tiêm chất gây kích động vào tĩnh mạch một thanh niên hai mươi sáu tuổi, đúng sáu cen-ti-mét khối dung dịch 10%. Cơn động kinh xảy ra như một tiếng sét, sau thời gian chờ đợi khá lâu. Gương mặt của người bệnh trắng bệch rồi biến thành màu xanh lá cây. Đầu anh ta quay sang phải mạnh đến độ tưởng chừng như gáy của anh ta bị gãy ngay lập tức. Bệnh nhân thét lên một tiếng dữ dội, ngồi xuống, ngã ngửa, hai chân đạp trong không khí một cách kỳ dị như đang đạp xe, hai bàn tay quơ quơ trong khoảng không, miệng mở ra rồi khép lại trong một tiếng kêu dữ dội tưởng chừng như cả hàm răng đều bay ra. Thình lình, giữa cơn giật khủng khiếp đó, một tiếng kêu vang khô khan và rõ rệt, tiếng kêu của một cái gì vừa bị gãy trong cột sống của người điên. Khi cơn động kinh chấm dứt, Doutreval cho đem người bất tỉnh đi chụp hình: Đốt sống đầu tiên, ở trên cùng của lưng, đã bị gãy, giập nát dưới lực kéo của các cơ cột sống cực mạnh. Tủy sống bị tổn thương nghiêm trọng, bệnh nhân chết vào tối hôm sau.
Trong nhiều ngày, Doutreval tranh cãi về vấn đề này với Regnoult và Groix. Theo Doutreval, nguyên nhân của tai nạn là khuynh hướng dễ gãy xương sinh ra từ tình trạng cơ thể gầy yếu và thiếu khoáng chất trầm trọng của bệnh nhân. Tóm lại đây chỉ là trường hợp đặc biệt, không cần quan tâm. Theo Groix, đây không phải là sự kiện riêng rẽ, mà có liên hệ chặt chê với một số sự kiện khác tương tự: những cơn đau của cột sống thường được nhận thấy trong các trường hợp động kinh, những bệnh nhân đã được chữa lành than phiền về chứng đau cột sống. Và Groix bảo vệ ý kiến của mình. Cuối cùng, Doutreval phải tuyên bố một cách khô khan rằng cuộc thảo luận đã chấm dứt.
Fabienne trở về Angers với bao niềm xúc động. Trước tiên là phòng thí nghiệm của cha cô, nơi cô đã trải qua thời thơ ấu. Groix và Regnoult vẫn có mặt ở đây. Groix vẫn luôn luôn có tính hay trêu ghẹo, ồn ào như một đứa bé dù anh ta sắp lấy bằng thạc sĩ, anh ta làm cho Fabienne thích thú với những câu chuyện tiếu. Regnoult thì ngược lại, lúc nào cũng đứng đắn, đạo mạo, tỏ ra chăm sóc và ân cần với Fabienne, tán tỉnh cô một cách kín đáo, đôi khi tâm sự với cô về tương lai của mình, về những dự định của anh ta gắn với các dự định của “ông thầy”, lúc nào cũng cố gắng làm cho cô chú ý. Đối với Regnoult, cô chỉ có tình cảm bạn bè. Nhưng cô biết việc kết hôn của cô với Regnoult sẽ làm cho cha cô vui lòng. Và riêng cô, cô không từ chối điều đó. Cô nghĩ rằng mình rất khôn ngoan, nhưng sự thật là cô thiếu kinh nghiệm về vấn đề tình cảm.
- Để xem sao đã! - Cô nghĩ như thế.
Mariette đã sửa soạn một phòng dành riêng cho Fabienne, bởi vì cô biết căn nhà của cha mình không có phụ nữ, không có niềm vui, càng ngày càng giống như một phòng thí nghiệm, một nơi chỉ để làm việc, tiếp khách. Riêng Doutreval, ông cũng sống bên nhà Mariette, gần sát nhà ông. Còn Mariette đã mang thai được bảy tháng rồi. Cô luôn luôn vui tươi, nói với mọi người về cái thai, cô muốn có một đứa con trai trong khi chờ đợi một đứa con gái. Cô đã tưởng tượng mình có một bầy con nít, trét bơ vào bánh mì, dẫn đến trường học cả một tiểu đội phá phách ồn ào làm thỏa mãn bản năng làm mẹ của cô. Fabienne chín chắn hơn - cuộc sống ở dưỡng đường Épidauria đã cho cô thấy một khía cạnh xấu xa của cuộc đời - bỗng cảm thấy tâm hồn trẻ trung trở lại bên cạnh người chị đầy tươi trẻ, đầy lạc quan. Cô bắt đầu quen trở lại với những tràng cười, những nụ hôn đầy tình phụ tử buổi sáng và buổi tối, những bản tình ca được hát om sòm trên cầu thang của một Mariette đầy bụi bặm, đầu vấn chiếc khăn cũ và quét sạch các mạng nhện bằng những nhát chổi mạnh mẽ:

Nếu bảo như thế là yêu thương
Thì đúng vậy, tôi yêu, tôi đang yêu!


Cô gặp lại những con chim bồ câu, con gà trống già Titi, bầy gà mái mà con nào cũng có tên riêng, những con chim cu gáy vẫn được Mariette móm cho uống. Fabienne cùng đi dạo với Mariette trên những con đường xinh xắn xanh màu lá cây của xứ Anjou, hai bên bờ có những bụi rậm dày. Hoa đậu chổi đã nở vàng. Những cây thạch thảo lá gầy guộc và xù xì nở những bông hoa tím pha đỏ. Và hai chị em hái vô số hoa, đủ để tô điểm cho cả căn nhà.
Buổi tối, khi trở về, mệt mỏi, đôi mắt mờ đi vì liên tục nhìn kính hiển vi, tâm trí nặng nề, Doutreval sung sướng khi thấy hoa nở khắp nhà. Ông nhận thấy, mặc dù ông không hiểu tại sao.
- Nhà của con vui tươi một cách kỳ lạ, Mariette!
Cô nháy mắt về phía Fabienne. Doutreval ngắm nhìn cô con gái lớn của ông, người đã thay thế người mẹ trong gia đình. Khi đi ngang sau lưng cô, ông nghiêng đầu ngửi mùi hoa oải hương tươi, thứ hoa mà cô thường tẩm hương vào áo quần và các ngăn tủ, và ông dịu dàng đặt một cái hôn biết ơn lên mái tóc lòa xòa màu vàng tươi của cô. Cô làm cho ông cảm thấy trẻ trung trở lại. Ông cảm động nhìn ngắm thân hình đã nặng nề của cô. Đến phiên cô sắp làm mẹ. Ông tưởng tượng mình sắp sửa đặt những đứa bé của Mariette lên đầu gối mình. Có những lúc ông cảm thấy trẻ hơn cả những cặp vợ chồng mới cưới. Ông say mê lo đến cái nôi, chiếc xe đẩy và những thứ cần mua sắm cho đứa bé. Trong khi đó, Vallorge chỉ mỉm cười, anh ta cho những thứ đó là nhỏ nhặt, không đáng để ý tới.
Cả nhà đoán chừng đứa bé sẽ chào đời vào giữa tháng sau. Thạc sĩ Van der Blieck, chuyên viên về phụ sản, theo dõi Mariette và lãnh phần đảm trách việc sinh nở của cô. “Tất cả đều sẽ tốt đẹp”, anh hy vọng như thế. Mariette có một cơ thể khỏe mạnh, không bệnh tật. Không có một chứng bệnh di truyền nào. Một tình trạng vệ sinh tuyệt hảo. Hông của cô hơi nhỏ một chút. Đó là điểm duy nhất đáng lo ngại. Nhưng sự sinh đẻ vuông tròn không bao giờ chỉ đòi hỏi một điều kiện. Và trong y khoa không bao giờ có một trường hợp lý tưởng.

Một buổi sáng, khi đến bệnh viện, Vallorge thấy một người đàn bà và đưa bé trai đang chờ đợi mình trong văn phòng. Giờ đây Vallorge là giáo sư của khoa Phẫu thuật nhi, anh ta rất thành thạo nhưng lại ghê tởm việc này. Nó làm cho anh ta đau khổ mà không dám nói với ai, anh ta không thích hợp với công việc đầy máu me, mà chỉ quen với công việc nghiên cứu lặng lẽ và yên tĩnh của phòng thí nghiệm. Anh ta muốn thay đổi chức vụ, ao ước ghế giáo sư y khoa tổng quát. Nhưng phải chờ một chỗ trống. Thạc sĩ Van der Blieck đã có một ghế giáo sư phụ sản, nhưng Vallorge hãy còn một địch thủ: Huot. Nhưng Huot cũng không thích khoa phẫu thuật và cũng mong muốn được một ghế giáo sư thực thụ như anh ta, với tất cả sự hào hứng của mười năm chờ đợi. Đó là chưa kể đến Flégier mà Géraudin vừa mới cho đậu thạc sĩ năm trước. Flégier cũng nhắm cùng mục đích như Vallorge.
- Chào bác sĩ, - người đàn bà nói.
Vallorge tiến đến gần. Vài sinh viên nội trú đến.
- Có chuyện gì thế? - Vallorge hỏi.
- Thằng con trai của tôi… Là về cái lông mày của nó.
- Bà này làm việc suốt cả tuần, - một sinh viên nội trú giải thích. - Bà không có thì giờ để đến chẩn y viện. Chúng tôi đã bảo bà hãy đến đây vào buổi sáng nào mà bà rảnh…
- Thế là tôi đến đây vì hôm nay tôi được nghỉ, - người đàn bà giải thích.
- Em bé bị bệnh như thế nào? - Vallorge hỏi. - Xin mời bà vào văn phòng. Nào, cậu bé hãy cho tôi xem… A, phải rồi, ở phía trên mắt… Tốt! Đó chỉ là một mụn nhọt ở đuôi lông mày. Các anh có thấy không? Đôi khi, một phần nào đó của cái phôi thai còn sót lại khi đứa bé chào đời. Tôi xin nhắc các anh nhớ, người ta thường cho rằng chứng ung thư chỉ là sự phát triển của một phần cái phôi còn sót lại, nó bắt đầu phát triển… Trong trường hợp này, việc cắt bỏ rất đơn giản: người ta xẻ da và lấy cái nhọt ra. Này thưa bà, phải cắt bỏ cái nhọt đó cho cậu bé.
- Bà ấy không muốn, bà ấy sợ, - sinh viên nội trú Fleurioux nói.
- Thưa bà, bà thấy rằng chúng tôi có lý chứ! - Sinh viên Cassaing nói thêm.
- Không phải là tôi sợ, - người đàn bà nói. - Nhưng tôi muốn bàn trước với chồng tôi, xem ông ấy có đồng ý cho phẫu thuật không.
Các sinh viên nội trú cười.
- Nhưng ca phẫu thuật chỉ cần ba mươi giây là xong!
- Chỉ cần đủ thời gian để hỉ mũi cho nó thôi!
- Chúng ta sẽ dành cho ông ấy một sự ngạc nhiên! Chúng ta sẽ cắt bỏ ngay cái nhọt đó, ngay lập tức. Và chỉ trong một khắc đồng hồ, bà sẽ mang cậu bé về cho chồng bà.
- Ông tin chắc như thế chứ? - Người mẹ hỏi.
- Nào, và hãy giao cậu bé cho tôi, - Vallorge nói. - Bà chỉ chờ đợi trong hai phút thôi, thời gian đủ để đếm đến một trăm. Nào, Fleurioux và Cassaing, hãy đưa cho tôi mấy miếng gạc. Với vài giọt chloroform.
Anh ta mang đứa bé vào phòng phẫu thuật ở bên cạnh.
- Cho thuốc tê vào chỗ đau không đủ sao? - Fleurioux hỏi.
- Điều này không thích hợp với những đứa bé. Chúng vẫn tỉnh táo và chúng sợ…
- Chúng la hét lên, - Cassaing nói tiếp. - Nào, các bạn, hãy ngả bàn mổ xuống.
Khi bàn mổ đã chuẩn bị sẵn sàng, người ta đặt đứa bé nằm xuống. Các sinh viên vây quanh. Cassaing lấy một tấm gạc, Fleurioux lấy một chai thuốc mê chloroform. Đứa bé, hai mắt mở to, nhìn mọi người với vẻ kinh hãi. Cassaing đặt một tấm gạc lên mũi của nó. Fleurioux nhỏ vài giọt chloroform lên, Vallorge mang đôi găng tay vào. Khi những giọt chloroform đầu tiên rơi xuống tấm gạc, gương mặt của đứa bé xanh mét. Cassaing nhìn thấy đôi con người của nó nở to.
- Ê, xem kìa!
Anh ta quăng tấm gạc đi. Vallorge chạy vội tới.
- Đứa bé đã chết rồi! Đã chết thật sự rồi!
Cassaing kéo lưỡi của đứa bé ra. Hai sinh viên khác giơ những cánh tay của nó lên. Một sinh viên thứ ba nhấn mạnh vào xương sườn nó để làm hô hấp nhân tạo. Riêng Fleurioux bơm đầy một ống tiêm adrenaline, Vallorge cuống quít, gương mặt nhợt nhạt và đẫm mồ hôi, tiêm ngay vào tim nó một ống adrenaline đầy. Nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô ích.
Họ nhìn nhau hoang mang. Đột nhiên họ nhận ra cánh cửa lớn vẫn mở rộng. Và người mẹ đang ngồi đợi đứa con. Fleurioux phóng tới đóng sầm cửa lại. Họ thì thầm với nhau như những kẻ phạm tội. Và họ bị vây hãm trong căn phòng đó, không có một lối thoát nào. Và không một ai - ngay cả Vallorge, vị thầy của cả nhóm - dám đi ra theo cửa chính.
Fleurioux bỗng mở cánh cửa sổ và thì thầm với mọi người:
- Chuồn theo lối này!
Rồi tất cả leo lên bờ cửa sổ, để cái xác nhỏ bé ở lại, như những kẻ gian sau khi đã phạm một trọng tội. Cassaing lên lầu tìm dì Angéhque để nhờ dì báo tin cho bà mẹ và giải quyết vấn đề.
Tinh thần của Vallorge vốn đã lung lay, bị tai nạn này làm sụp đổ hoàn toàn. Mặc dù anh ta không có lỗi trong việc này. Nhiều bác sĩ phẫu thuật thường gặp các tai nạn như thế. Nhưng trong trường hợp này, anh ta đã gần như cưỡng bách người đàn bà phải giao con cho anh ta. Anh ta cực kỳ xúc động, nhất là vào lúc mà vợ anh ta sắp sinh cho anh ta một đứa con, vào lúc mà tất cả những gì thuộc về trẻ con đều làm trái tim anh ta rung động.
Anh ta quyết định nói ngay với cha vợ về điều này, yêu cầu ông xin Géraudin cho mình một ghế giáo sư y khoa tổng quát hay một chức vụ nào đó ở phòng thí nghiệm. Doutreval hứa sẽ cố gắng làm những gì ông có thể làm được. Tuy nhiên vẫn có vài khó khăn. Từ mấy tháng nay, Géraudin tỏ ra lạnh nhạt với Vallorge: anh ta bị một cái nhọt ở môi trên cần phải phẫu thuật, và anh ta đã không nhờ đến Géraudin, vì anh ta có nghe vài tin đồn nói về một sự suy yếu nào đó của Géraudin trong khi ông đang phẫu thuật. Về sự suy yếu này, không ai biết rõ, không ai thấy gì cả, tuyệt đối không có một chi tiết chính xác nào… Tuy thế, những lời thì thầm mơ hồ trong các hành lang của trường đại học đã làm cho Vallorge lo ngại và do dự. Nếu đó là môi dưới, anh ta có thể nhờ đến Géraudin. Nhưng ở môi trên có những dây thần kinh rất quan trọng. Và được sự khuyên bảo của Groix, Vallorge quyết định chọn Heubel. Một sai lầm mà Vallorge không thể sửa chữa dễ dàng được.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

Vào cuối tháng Năm này, Doutreval chuẩn bị xuất ngoại. Người ta mời ông thuyết trình ở các thành phố lớn của Hòa Lan. Ông quyết định cho Vallorge cùng đi với mình, để lái xe cho ông, bởi vì ông không chịu đi thi lấy bằng lái xe, cho là nhục nhã. Còn Regnoult và Groix lúc nào cũng đi theo ông thầy. Và Fabienne cũng đi cùng xe lên Paris, trở lại dưỡng đường Épidauria.
Mariette, lại một lần nữa, chuẩn bị hành lý cho chồng và cha mình, cài lại những sợi dây cột va li. Vallorge lái chiếc Renault đến ga-ra, đặt làm một bộ vỏ xe mới. Buổi sáng ngày ba mươi tháng Năm, Doutreval hôn Mariette lần cuối trước khi lên đường. Cô cảm thấy xúc động. Đây là chuyến đi cuối cùng của cha cô trước khi cô sinh em bé.
- Con hãy chăm sóc sức khỏe thật kỹ lưỡng, con đã có địa chỉ của ba ở bên đó. Khách sạn Regina. Con đừng ra ngoài đường, đừng làm việc nhiều, đừng lên xuống cầu thang nữa. Con biết rằng bắt đầu từ tháng thứ bảy…
- Dạ, dạ, ba đừng lo! - Mariette nói và cười. - Con xin nhớ. Con sẽ để mặc bầy nhện được yên tĩnh. Ba đừng quên chiếc cặp da màu đen. Dao cạo và xà bông ở trong hộp nhỏ… Có một cây nến và bao diêm trong cái túi nhỏ của va li. Đó là những món sẽ có ích cho ba! Biết đâu khách sạn sẽ bị mất điện… Có nước tía tô và vài miếng đường giúp cho sự tiêu hóa của ba được dễ dàng, tất cả đều được để trong cái hộp đựng những món đồ dùng… Lúc nào ba cũng cười! Một buổi tối nào đó, ba sẽ thấy rằng ba không tiêu hóa nổi món ra-gu của khách sạn… Nào, tạm biệt Fabienne. Em hãy tỏ ra khôn ngoan ở dưỡng đường, hãy viết thư cho chị vào ngày mai… Tạm biệt ba…
Doutreval lại hôn lên chiếc má tươi mát của cô một lần nữa, ngửi mùi hoa cải hương dịu dàng và một mùi thơm lành mạnh tỏa ra từ người cô.
- Tạm biệt con gái cưng của ba! - Ông kêu to rồi nhảy lên xe.
Qua cửa xe, cô hãy còn hôn chồng, dùng hai bàn tay gửi những nụ hôn gió cho mọi người, kể cả Groix. Anh ta đáp lại cô bằng những cử chỉ nồng nhiệt chẳng kém gì những cử chỉ của một diễn viên. Xe chạy đến đầu đường mà anh ta hãy còn đáp lại cử chỉ thân thiện của cô bằng cách chồm cả nửa người ra ngoài xe, khiến cho người qua đường dừng lại ngạc nhiên nhìn, và Fabienne bật cười muốn chảy nước mắt. Từ vài ngày nay, Groix không cạo râu, hai má anh ta mọc rậm rạp một thứ râu màu đỏ hoe khiến cho đầu anh ta trông giống đầu của một kẻ hành khất. “Một lời nguyền”, anh ta bảo thế. Sự thật, đấy là do anh ta đánh cược với Cassaing. Nếu trong sáu tuần lễ mà Groix không cạo râu, Cassaing sẽ đãi anh ta một chầu rượu mạnh sau kỳ nghỉ hè.
Chiếc xe Renault rất lớn và Vallorge là một tài xế giỏi. Doutreval ngồi bên cạnh con rể, lặng thinh không nói một lời, ông đang ôn lại bài thuyết trình. Đằng sau xe, Groix ngồi hút thuốc lá, trong khi Regnoult tán chuyện với Fabienne. Họ đến Paris lúc bốn giờ sáng. Chiếc xe dừng lại để Fabienne xuống, Doutreval lặng lẽ chú ý đến việc tạm biệt giữa Regnoult và Fabienne. Hai người bắt tay nhau hơi lâu và trao nhau một cái nhìn đầy ý nghĩa. Ông suy nghĩ đến một cuộc hôn nhân rất có thể xảy ra giữa hai người, Regnoult là một thanh niên say mê làm việc và thông minh. Anh ta là một người ham địa vị, dĩ nhiên. Nhưng ai lại không muốn thế? Anh ta sẽ gắn bó với Doutreval, sẽ tiếp tục hợp tác với ông. Doutreval rất cần đến sự phụ tá của anh. Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, có lẽ ông thích có một người con rể như Groix hơn. Groix ngay thẳng, đôi khi hơi thô bạo một chút, nhưng vui vẻ và khí khái, trung thành, làm cho ông tin tưởng nhiều hơn vẻ kính trọng hơi lạnh lùng của Regnoult. Tuy nhiên, Groix không phải là một người dễ bảo. Có những lúc anh ta cãi lại ông. Mới hôm trước, anh ta tranh cãi với Doutreval về một bệnh nhân. Và Doutreval đã phải lớn tiếng áp đảo, sử dụng đến uy quyền của một giáo sư. Ngoài ra, Groix là một người không mê danh vọng. Anh ta sẵn sàng bỏ rơi tất cả để ra làm một bác sĩ làng, bởi vì anh ta không bao giờ chịu cầu khẩn uốn mình trước mặt ai. Anh ta quá ngay thẳng nên khó thành công. Hơn nữa, đây là những vấn đề tình cảm mà ông không thể ra lệnh được, và dường như Fabienne thích Regnoult hơn.
Trong bữa ăn sáng, thầy trò bàn với nhau về chuyến đi, về các trường hợp phải trình bày, những kết quả phải nêu lên. Và lại có sự bất đồng ý kiến với Groix, khiến Doutreval thấy rõ những suy nghĩ của ông lúc nãy về Groix là đúng. Khi Doutreval nói về những điều mà người ta có thể chỉ trích phương pháp của ông, Groix nhắc đến tai nạn của một bệnh nhân bị gãy xương sống và chết liền sau đó.
- Thưa ông, ông sẽ nói đến điều đó chứ? - Groix hỏi.
- Tôi không cho điều đó là cần thiết, - Doutreval đáp.
- Theo tôi, ông nên nêu lên trường hợp ấy. Đó là một trường hợp gắn liền với những biểu hiện tương tự khác. Đó là một bóng mờ, một khía cạnh tiêu cực mà theo tôi, chúng ta không có quyền bỏ qua.
Họ lại tranh cãi lần nữa. Cả ba người Regnoult, Doutreval và Vallorge đều cho rằng trường hợp này không cần phải nói đến. Chỉ một mình Groix khăng khăng rằng đức tính chính trực khoa học đòi hỏi một bản tường trình đầy đủ, không bỏ qua một chi tiết bất lợi nào, nếu có. Anh ta một mực bảo vệ lập trường của mình, đưa ra nhiều lý lẽ vững chắc, khiến cho Doutreval phải buộc anh ta im lặng bằng cách nhắc lại một số những sai lầm mà chính anh ta đã phạm phải sau một đêm nhậu nhẹt: Anh ta đã phân chất sai và ông đã kịp thời sửa chữa. Cuối cùng, bị nhục nhã, Groix làm thinh, không nói gì nữa.
Chiếc xe chạy suốt. Tới chiều, họ đến biên giới Hòa Lan. Họ nghỉ đêm tại một khách sạn nhỏ, lịch sự, được sơn màu trắng, Doutreval đổi tiền Pháp để lấy tiền florin Hòa Lan. Buổi chiều ngày hôm sau, phái đoàn đến gần Amsterdam. Những chuyến đi vượt qua các vùng đất bị con sông Rhin chia cắt vô cùng chậm chạp. Không có cây cầu nào cả. Chỗ nào cũng dùng phà, phải kiên nhẫn chờ đợi hàng giờ. Sau đó dù có chạy nhanh đến mấy trên những con đường tráng nhựa ngoằn ngoèo và phẳng phiu, chiếc xe cũng không thể nào lấy lại được thời gian đã mất. Đến Amsterdam, chỉ vừa kịp thay áo và giày trong khách sạn, người ta đã đưa xe hơi đến rước ông đi.


Image


Đêm đầu tiên được dành cho những cuộc tiếp tân chính thức, và bữa tiệc kết thúc rất khuya. Doutreval muốn đi bộ về khách sạn. Dưới những ánh sao, thành phố Amsterdam trải dài những đại lộ rộng lớn với những dãy nhà cao tầng, những biệt thự theo lối Mỹ. Và đột nhiên bạn thấy mình đang đứng trước một tấm gương bằng nước rộng lớn, một trong vô số những con kênh đào khiến thành phố Amsterdam trở thành một Venise của Bắc Âu. Mặt nước phẳng lì và đen ngòm phản chiếu ánh sáng của những ngọn đèn. Những cây bồ đề cao lay động nhẹ nhàng trước cơn gió mặn từ biển thổi vào. Trên mặt nước đang ngủ say, những con thuyền nặng nề, những chiếc sà lan, những chiếc phà dài với mấy ánh đèn leo lét. Rải rác trên các mái nhà, ánh sáng của thành phố tỏa lên như một buổi bình minh. Doutreval hít thở bầu không khí yên tĩnh đó, trao đổi vài lời với Regnoult và Vallorge, cảm thấy hài lòng. Tất cả đều diễn tiến một cách tốt đẹp. Đối với ông, đây là một trong những giây phút ngắn ngủi và hiếm hoi của cuộc đời mà một con người có thể tự nói với mình: “Tôi sung sướng!” Một câu mà ít khi con người dám nói, bởi vì nó gợi cho con người ta nghĩ đến sự mong manh của thân phận cũng như của mọi sự thành công trong đời. Vả chăng, liền ngay đó, ông lại nghĩ đến con trai mình, chỉ một thoáng suy nghĩ, thật nhanh và cũng thật đau đớn. Nhưng Doutreval xua tan ngay ý nghĩ đó. Đằng sau ba người, Groix vừa bước đi vừa huýt sáo, có vẻ vẫn còn hơi hờn dỗi.
Họ rời khỏi khu phố yên tĩnh, tiến vào khu trung tâm thành phố, và đột nhiên họ thấy mình đang ở giữa ánh sáng chói lòa, đầy sống động, với những cửa hàng rực rỡ, những bảng hiệu sáng choang, những con đường nhỏ hẹp đông người. Đêm đã khuya nhưng người ta vẫn tưởng mình đang sống giữa ban ngày. Sau cùng, họ tiến đến khách sạn và bước vào trong một cách gần như vẫn còn tiếc rẻ.
Trọn ngày hôm sau được dành để diễn thuyết và thăm các bệnh viện. Regnoult đã phải vội vã gửi vài bưu thiếp cho Mariette và Fabienne. Chỉ ngày hôm sau đó, vào lúc năm giờ chiều, sau khi đi thăm các bệnh viện ở ngoại ô, Doutreval và con rể mới có được một buổi tối thảnh thơi.
- Chúng ta sẽ tận dụng mấy giờ rảnh rỗi này, - Doutreval nói khi họ về đến khách sạn. - Con xuống hỏi điện thoại viên xem mình phải tốn bao nhiêu thời gian để gọi điện thoại về Angers. Ba muốn dành cho Mariette một ngạc nhiên thích thú!
- Đó là một ý kiến hay! - Vallorge nói. - Con đi ngay đây!
Hai phút sau, trong căn phòng của Doutreval, chuông điện thoại reo vang. Doutreval nhấc ống nghe lên. Đó là Vallorge.
- A lô? Phải, con đây. Chúng ta sẽ gọi được khá nhanh với giá phân nửa vào khoảng gần mười giờ tối. Vào giờ đó, Mariette chưa đi ngủ.
- Con xin kết nối ngay với Angers đi, điều này sẽ làm cho cả nhà vui thích.
- Chắc chắn như thế! - Vallorge nói và gác máy.
Trong khi chờ đợi đến chín giờ, họ đi dạo một vòng trong thành phố, cùng với Regnoult và Groix. Họ mua những điếu xì gà đặc biệt, dài đến nửa thước, to hơn một cái cán chổi. Mỗi điếu được đặt trong một hộp dài, trông giống như những xác ướp nằm trong đáy một chiếc quan tài. Vallorge chọn cho vợ một gối dựa có ren. Doutreval mua cho Fabienne một tượng người lùn bằng gỗ mun, chân vòng kiềng, mang trên người một cái chuông đồng với những con rồng có cánh. Ông cũng mua cho Mariette một cây kẹp tóc bằng vàng chạm trổ rất khéo, toàn bằng những sợi chỉ vàng đan chéo vào nhau và ở giữa là một hạt kim cương.
Về phần Groix và Regnoult, hai người nếm thử tất cả mọi loại kẹo và bánh ngọt đủ để lãnh một chứng khó tiêu “rất có màu sắc địa phương”.
Vô số thực phẩm, nữ trang, hàng tơ lụa, hương liệu, thảm, trái cây lạ, hàng kim hoàn và mỹ phẩm được bày bán trên những quầy hàng rộng và thấp. Một đám người đông đúc, vui vẻ và hạnh phúc chen chúc trên những con đường chật hẹp cấm xe cộ, họ kéo nhau đi ngay giữa lòng đường bằng đá mềm và đen, cười nói ồn ào như trong một ngày hội bất tận. Người ta thấy các thanh niên mặc quần đùi, đi chân trần, những thiếu nữ tóc vàng mặc áo may ô ngắn của những người đi xe đạp, chân mang giày ống có đinh, một cái túi đựng đồ đeo trên vai, hoặc những người đàn bà vẫn giữ bộ y phục cổ truyền, với chiếc váy dài rất rộng, tóc vấn cao. Tất cả những con người mạnh khỏe, hồng hào này, lớn lên trong gió biển phơi phới, mang đến một ấn tượng về tuổi trẻ và sức khỏe.
Lúc tám giờ rưỡi, Doutreval trở về khách sạn. Cả bốn người đều ngồi vào bàn để ăn nhanh trước khi đi chờ chuông điện thoại. Bỗng một nhân viên của khách sạn biết nói chút ít tiếng Pháp chạy đến bảo Vallorge:
- Thưa ông, có điện thoại… ở Pháp… Người ta hỏi ông…
- Đã có rồi à?
- Con hãy đi xem sao. Ba cũng sẽ đến đó, - Doutreval nói, ông vừa ăn xong món canh.
Vallorge đặt khăn ăn xuống ghế và đi ra.
- Từ Angers phải không? - Anh ta hỏi cô điện thoại viên.
- Perhaps (có lẽ), người thiếu nữ đáp bằng thứ tiếng ngoại quốc duy nhất mà cô biết. - It comes from France. (Từ Pháp gọi đến). A lô, A lô… A lô, ja, Amsterdam. Khách sạn Regina… Ông Vallorge, ja, ja…
Cô quay về phía Vallorge.
- A call from France, Sir. (Thưa ông, điện thoại từ Pháp gọi đến). Will you go to the box number 7, please? (Xin ông vui lòng đến phòng số 7).
Vallorge tiến vào phòng số 7.
- A lô, - một giọng nói rất xa và rất rõ, - có phải giáo sư Vallorge không?
- Phải, có phải em đó không, Mariette?
- Không, - giọng nói đáp. - Xin lỗi anh bạn. Là tôi, Van der Blieck đang nói chuyện…
- Van der Blieck à?
- Tôi nghĩ nên gọi để cho anh biết, xin anh thứ lỗi…
- Chính tôi đã xin gọi điện thoại…
- A? Một sự trùng hợp… Những cuộc gọi của chúng ta đã gặp nhau. Thật kỳ lạ. Bạn à, một số sự kiện đã xảy đến dồn dập…
- Anh muốn nói về vợ tôi?
- Phải, nhưng anh đừng lo, tất cả đều tốt… Tất cả đều tốt.
- A, tốt! - Vallorge nói trong một hơi thở nhẹ nhõm.
- Sáng nay, tôi đã được gọi đến nhà bạn. Vợ bạn chắc đã bị mệt. Những cơn đau đã xuất hiện, hơi sớm một chút, theo ý tôi là thế.
- Dù sao cũng được tám tháng rồi, - Vallorge nói, như để tự trấn an mình.
- Phải, phải, sự việc không có gì đáng lo ngại. Điều trở ngại duy nhất, ấy là đứa bé không ra được do cửa mình quá hẹp. Nên tôi đã hỏi ý kiến của Huot. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Nhưng cuối cùng, nếu trong vài giờ nữa mà sự việc không tốt hơn, tôi sẽ…
- Phẫu thuật để lấy đứa bé ra à?
- Một ca phẫu thuật không có gì đáng lo cả, bạn à. Và có lẽ đó là cách tốt hơn cả.
Vallorge đổ mồ hôi trán. Anh ta lặp lại, lớn tiếng:
- Dĩ nhiên… dĩ nhiên… Việc này không có gì đáng lo cả.
Anh ta cố gắng nhỏ lại vô số những ca phẫu thuật để lấy thai nhi ra, những ca phẫu thuật mà trong thời gian còn là sinh viên, anh ta đã chứng kiến một cách bình thản. Tất cả mọi bà mẹ được Géraudin phẫu thuật để lấy đứa bé ra đã trở về nhà sau ba tuần lễ. Phẫu thuật để lấy đứa bé ra! Một sự việc bình thường… Không có lý do gì để nhìn sự việc đó một cách khác hơn, dù đó là vợ của anh ta…
- Được rồi, bạn hãy đồng ý với Huot đi. Và nếu cần, bạn cứ tiến hành. Tôi giao phó công việc đó cho bạn, Van der Blieck.
Giọng nói của anh ta hơi run một chút. Lần đầu tiên trong đời, anh ta cảm thấy giao sinh mạng của người mình thương yêu vào tay một người khác là một điều trọng đại và ghê gớm vô cùng.
- Cảm ơn bạn, - giọng nói xa xôi đáp trong ống nghe. - Và bạn muốn chọn ai?
- Ai ư?
- Phải, bạn chọn ai phẫu thuật? Heubel hay Géraudin? Còn có những người khác nữa…
- Tôi không biết… Tôi không biết… - Vallorge đáp nhỏ.
- Bạn phải cho tôi biết bạn muốn ai đứng ra phẫu thuật.
- Ờ…
- Còn bố vợ của bạn? Ông ấy nghĩ thế nào?
- Ông ấy không có ở đây, ông ấy chưa biết gì…
- Bạn hãy hỏi ý kiến ông ấy đi. Ông ấy có quyền có ý kiến.
- Đúng vậy…
- A lô, ông vẫn đang nói chuyện phải không? - Một giọng nói cắt ngang.
- A lô, thưa cô! Xin cho chúng tôi nói tiếp. Chúng tôi đã nói được ba phút rồi phải không? Này, bạn hãy suy nghĩ kỹ, gọi lại cho tôi vào khoảng nửa đêm và cho tôi biết sự lựa chọn của bạn. Về phần tôi, tôi sẽ hỏi xem ai rảnh. Vả chăng, từ giờ cho tới nửa đêm, có lẽ mọi việc sẽ xong xuôi. Tôi gần như chắc chắn như vậy. Tôi chỉ tìm cách báo cho bạn biết trước như thế, để tránh không phải lãnh hết trách nhiệm về mình, nếu có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng… Huot và tôi, chúng tôi sẽ thành công!
Vallorge trở về phòng ăn, gương mặt hơi nhợt nhạt. Trong phòng ngoài, anh ta gặp Doutreval đang chạy đến.
- Xong rồi à? Con đã nói chuyện với…
- Đó không phải là Mariette.
- Thế không phải từ Angers gọi đến à?
- Phải. Nhưng không phải Mariette gọi, mà là Van der Blieck.
Đến lượt Doutreval hơi tái mặt:
- Mọi chuyện không được tốt à?
- Tốt. Nhưng hồi sáng nay, Mariette đã bị những cơn đau đầu tiên, hơi nhanh một chút…
- Con bé khờ dại! Chắc nó lại quét dọn trong nhà! Nó thích quét dọn quá! Và rồi sao nữa?
- Sự việc không tệ lắm. Nhưng Van der Blieck muốn hỏi ý kiến của Huot.
- Anh ta hãy gọi cả trường đại học, nếu cần.
- Chính con đã nói với anh ta như thế. Nhưng anh ta muốn có ý kiến của ba nếu gặp trường hợp cần phải phẫu thuật.
- À? Anh ta đã nói đến chuyện phẫu thuật à?
- Anh ta bảo rằng nếu không dùng đến phương pháp đó thì không chắc sẽ thành công.
- Thật là rắc rối! - Doutreval nói nhỏ. - Phải… Điều đó thật là rắc rối.
- Nhưng chưa chắc đã phải dùng đến phương pháp đó.
- Không. Nếu có thì anh ta đã nói với con rồi.
- Vẫn còn hy vọng… Con bảo đảm với ba là anh ta có vẻ rất lạc quan.
- Mariette rất mạnh khỏe… Nó sẽ chịu đựng được… Nhưng dẫu sao đây cũng là một ca phẫu thuật rất quan trọng, - Doutreval nói lớn những ý nghĩ của mình. - Hơn nữa, không ai chết vì một ca phẫu thuật như thế cả! Nhưng chúng ta thật giống như bao nhiêu người khác. Chúng ta, những bác sĩ… khi gặp vấn đề liên quan đến những người mà chúng ta thương yêu! Ba không ngờ ba lại yếu đuối đến như thế!
Ông đến ngồi trên một chiếc ghế nhỏ, vẻ mặt hoàn toàn u ám. Cùng lúc đó, Regnoult và Groix lo lắng vì không thấy ông trở lại, chạy đến tìm ông. Vallorge nói cho họ biết.
- Ối dào, - Regnoult đáp. - Ở bệnh viện Bình Đẳng đã diễn ra hàng trăm vụ mổ lấy thai nhi ra, mà chẳng có ai bị làm sao cả!
- Thật vậy, - Groix nói tiếp - gần như không đau hơn sinh thường đâu. Tôi biết nhiều người thích đẻ mổ hơn đẻ thường.
- Đúng thế, - Doutreval thừa nhận. - Hơn nữa sự việc này chưa có gì chắc chắn cả.
Họ trở lại bàn ăn, Groix và Regnoult ăn chả trứng với măng tây. Vallorge và Doutreval nhấm nháp, gần như chẳng muốn ăn nữa…
- Và chúng ta sẽ chọn ai để phẫu thuật? - Vallorge hỏi.
- Để phẫu thuật à?
- Phải, nếu gặp trường hợp mà…
Groix dừng chiếc nĩa lại giữa không khí, một tay vuốt vuốt hàm râu kinh khủng của mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

- Ba không biết, - Doutreval đáp. - Ba không biết…
Hai người nhìn nhau. Groix cũng nhìn họ, bàn tay vẫn vuốt vuốt hàm râu. Regnoult vẫn tiếp tục ăn.
- Theo ý con, con sẽ chọn ai? - Doutreval hỏi.
- Theo ý con à?
- Xem nào, - Doutreval nói - có… có Heubel.
- Phải.
- Flégier…
- Và Géraudin, - Groix kết thúc.
Regnoult đã ăn xong miếng chả trứng. Giờ đây đến lượt anh ta lắng nghe với vẻ mặt lạnh lùng.
- Tôi, nếu là sinh mạng của tôi, tôi sẽ giao nó cho Flégier, - Groix nói.
- Flégier không phải là giáo sư thực thụ, - Regnoult đáp.
- Tôi chẳng cần! - Groix nói.
- Có thể. Nhưng dẫu sao, một chức tước cũng có giá trị. Rồi sau đó cần xem đến những thứ khác, - Regnoult nói tiếp.
- Thật là khó, Groix ạ, làm như thế là hạ nhục hai người bạn đồng nghiệp tốt nhất của tôi, - Doutreval đồng ý với Regnoult. - Ai lại bỏ qua Géraudin và Heubel để chọn một người trẻ hãy còn dưới quyền kiểm soát của họ và chưa có uy tín như họ!
- Dĩ nhiên! - Vallorge đáp.
Groix làm một cử chỉ, như để nói: “Nếu thế thì tôi xin miễn bàn!” Và trong khi chờ đợi món pho mát, anh ta đốt một điếu thuốc, lặng lẽ nghe, không nói gì nữa, và hút thuốc với một vẻ xa vắng.
- Vậy thì sao? Chọn ai? - Doutreval lặp lại.
- Chúng ta có thể chọn giữa Heubel hay Géraudin. Họ giỏi ngang nhau, - Vallorge nói.
- Con hãy tự chọn đi.
- Không, thưa ba, con không dám đâu. Con để cho ba được tự do lựa chọn.
Doutreval, sau một lúc im lặng suy tư, quay về phía Regnoult và Groix.
- Này, Groix, Regnoult, giữa Heubel và Géraudin, các cậu chọn ai?
- Heubel, - Groix đáp.
- Géraudin, - Regnoult nói.
- Géraudin đã già rồi! - Groix nói một cách phũ phàng.
- Ồ! - Regnoult đáp.
- Tôi biết rõ những gì tôi nói. Đã có những tai nạn nhỏ bất ngờ xảy ra.
- Thôi nào! Géraudin vừa mới thành công một cách kỳ diệu khi cứu sống Guerran! - Doutreval nói.
- Thật vậy, - Vallorge nói.
- Đúng thế, - Groix cũng nói.
- Và rồi, thưa ông, - Regnoult nói với Doutreval - tôi thật sự không nghĩ rằng ông sẽ đem một điều gì nhục nhã đến cho Géraudin, kẻ sẽ làm hết thảy mọi điều cho chúng ta. Đừng quên rằng còn vấn đề Trung tâm trị liệu của chúng ta nữa! Nhờ Guerran, Géraudin có thể làm được tất cả những gì ông ta muốn! Hơn nữa, Groix, bạn đã sai lầm rồi, khi bạn tranh luận về thiên tài phẫu thuật của Géraudin!
Trong một thoáng, Vallorge nghĩ thật nhanh đến chiếc ghế giáo sư y khoa tổng quát mà anh ta đang mơ ước mà Géraudin có thể giúp anh ta có được… Bằng một cử chỉ vô ý thức, anh ta đưa tay sờ vết sẹo của cái nhọt ở môi trên. Chính Heubel đã phẫu thuật nó cho anh ta… Và điều này đã làm cho Géraudin bị chạm tự ái. Doutreval nhìn anh ta, và bắt gặp cái cử chỉ máy móc của anh ta. Ánh mắt của hai người gặp nhau và cả hai hơi lúng túng.
- Xin ba hãy lựa chọn, - anh ta lại nói nhỏ.
Doutreval đưa mắt lần lượt nhìn hai người phụ tá của ông.
- Heubel! - Groix nói.
- Phải, - Doutreval nghĩ thầm. - Nhưng cậu, cậu vẫn còn nhớ cuộc tranh cãi giữa cậu và tôi ngày hôm trước, nỗi nhục nhã mà tôi đã gây ra cho cậu. Cậu sẽ thích thú khi được chơi lại tôi một vố đau!
- Géraudin, Géraudin! - Regnoult nói.
- Và còn cậu, - Doutreval nghĩ - cậu chỉ thấy một điều: Cái tương lai của cậu, cái chẩn y viện, các cách vận động ngầm ở trường đại học… Cậu tránh không làm cho ai bất bình, tránh không làm cho ai bị chạm tự ái. Phải tin ai, giữa hai cậu? Giữa hai cậu, ai là người thành thật?
Ông đứng dậy một cách đột ngột, nói với con rể:
- Con hãy đến chỗ máy điện thoại, xin gặp Angers ngay lập tức. Chúng ta sẽ được nói chuyện vào khoảng nửa đêm. Từ giờ đến lúc đó, chúng ta sẽ suy nghĩ và có quyết định.
- Vả chăng, - Groix nói thêm. - Không nên quan trọng hóa câu chuyện. Về việc phẫu thuật để lấy em bé ra, có những y sĩ làng thực hiện trên một cái bàn trong nhà bếp, dưới ánh sáng của một ngọn đèn cầy… Thật vậy, đó không phải là một chuyện quan trọng!
- Đúng thế! - Doutreval nói.
Câu nói của Groix làm cho ông cảm thấy nhẹ cả người, đem sự việc trở về đúng tầm của nó.
- Hơn nữa, tôi luôn luôn tin tưởng, - Vallorge nói. - Chưa có gì chắc chắn cả! Van der Blieck rất lạc quan. Có lẽ vào nửa đêm, người ta sẽ báo cho chúng ta biết có em bé vừa chào đời.
- Thật vậy! Thật vậy!
Cảm thấy yên tâm, Doutreval mỉm cười, uống cạn ly rượu chát rồi để ba người ở lại trong phòng lớn của khách sạn, ông trở về phòng mình.
Tuy nhiên, ông vẫn lo âu suốt buổi tối. Ngồi một mình trên ghế bành, gần cửa sổ được mở rộng, tai lắng nghe tiếng ồn ào vui vẻ của thành phố ban đêm, ông nghĩ đến Mariette đang chịu đau đớn một mình ở Angers, cách xa ông một ngàn cây số. Tấm lòng của người cha rướm máu vì thương cảm. Ông muốn gọi điện ngay lập tức, nhảy lên xe đi về Pháp. Nhưng không thể được, ở đây còn có công việc, những buổi thuyết trình, những cuộc thảo luận. Vallorge vào phòng ông, hai người ngồi đối diện với nhau, cố gắng đọc các cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Pháp mà Vallorge vừa mới mua, nhưng không ai tập trung tư tưởng được.
Vào khoảng mười một giờ rưỡi, có tiếng gõ cửa. Regnoult và Groix trở về sau chuyến đi dạo ngắn trong thành phố. Regnoult kể lại câu chuyện xảy đến cho Groix. Cái hàm râu gớm ghiếc đã làm xôn xao khắp thành phố Amsterdam. Một anh chàng to lớn người Hòa Lan, khi trông thấy Groix với hàm râu rậm rạp, liền nhớ ngay đến kẻ sát nhân chuyên giết người và đốt xác đàn bà. Và anh ta vừa cười vừa chế nhạo, lớn tiếng gọi Groix:
- Landru 1!

1. Henri Désiré Landru: một kẻ giết người hàng loạt người Pháp.

Groix liền đáp lại bằng một cú đấm thẳng vào mắt của anh ta khiến anh ta ngã thẳng cẳng. Liền đó, hai người phải bỏ chạy hết tốc lực, vì bạn bè của nạn nhân và cảnh sát đã đổ xô đến.
Nghe kể chuyện, Doutreval và Vallorge quên nỗi lo âu của mình và mỉm cười. Đúng lúc đó, chuông điện thoại vang lên.
- Từ Angers gọi đến, - Regnoult nói khi cầm ống nghe lên.
Doutreval và Vallorge chạy xuống cầu thang bốn bậc một, không chờ đợi thang máy. Đến tổng đài, nữ điện thoại viên chỉ cho họ phòng số 3. Họ lao vào trong đó.
- A lô?
- A lô, a lô, đây là Van der Blieck… Thưa giáo sư, Huot có mặt ở đây… Chúng tôi đã cố gắng hết sức… Nhưng không làm gì được. Sản phụ bị mất sức… Cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng phương pháp đơn giản nhất, nhanh nhất và ít mệt sức nhất cho bà Vallorge là nên nhờ đến một chuyên gia phẫu thuật…
Doutreval nhìn Vallorge đang cầm ống nghe phụ. Vallorge dùng tay làm một cử chỉ như để nói: “Đành thế!”
- Huot có mặt ở đây, bên cạnh tôi. Giáo sư có muốn anh ta nói chuyện với giáo sư không?
- Anh ấy có gì cần nói thêm không? Một điều cần giải thích? Anh có nghe tôi không, Huot?
Ở phía bên kia đầu dây, có một cuộc thảo luận ngắn. Rồi giọng nói lại tiếp tục:
- Không… không có gì khác cả, - giọng nói xa xôi của Van der Blieck đáp lại.
- Vậy, các anh cứ tiến hành, - Doutreval nói.
- Giáo sư đã chọn ai để phẫu thuật?
Vallorge làm một cử chỉ.
- Heubel! - Doutreval la lên, như thể không kiềm chế được. - Không! Không! Géraudin! Tôi muốn Géraudin!
- Géraudin à? Được rồi. Ông ấy đã trở về tối hôm qua. Được rồi. Chúng tôi sẽ cho giáo sư biết tình hình thường xuyên. Hãy tin tưởng chúng tôi.
- Cảm ơn!
- Và xin giáo sư hãy yên tâm. Tất cả sẽ tốt đẹp. Sẽ có những tin tức tốt. Xin giáo sư đừng sợ!
Doutreval bỏ ống nghe điện thoại xuống.
Rất sớm, từ tờ mờ sáng, xe cứu thương của bệnh viện Bình Đẳng chạy đến trước nhà Vallorge rồi dừng lại. Louis đi theo các y tá. Người ta nhẹ nhàng đặt Mariette lên cáng, khiêng cô xuống dưới nhà và đưa vào xe cứu thương. Chiếc xe chạy chậm trở về dưỡng đường của Géraudin. Mệt mỏi, mình đầy máu me, Huot và Van der Blieck rửa tay, mặt mũi và uống vội một tách cà phê nóng. Sau đó, họ nhảy lên xe của Huot và chạy xe về dưỡng đường. Huot rồ máy chạy nhanh về phía ngã tư có một quán cà phê nhỏ.
Khi đến gần đó, cửa quán bỗng mở toang. Một người đàn ông bước ra khỏi quán, đầu cúi xuống, say khướt. Anh ta loạng choạng đi ra giữa đường. Và vừa đúng lúc chiếc xe quẹo rất gắt và rất nhanh để rồi đại lộ, anh ta chạy thẳng qua phía vệ đường và đâm đầu vào xe. Một tiếng động khô khốc vang lên, tiếng động của hộp sọ va mạnh vào đống sắt. Anh ta ngã lăn xuống đất.
Huot đạp phanh mạnh hết sức, đến độ Van der Blieck bất ngờ bị lao về phía trước. Mặt anh va mạnh vào miếng kính chắn gió. Anh ngã xuống, bất tỉnh, mặt đầy máu.
- Chúa ơi! - Huot la lên, mở cửa xe lao ra ngoài tìm người tiếp ứng.
Vài người đi đường chạy đến, đỡ người say rượu dậy. Anh ta bị bể sọ. Những mảnh sọ dính vào đầu xe hơi. Những người khác phải khó nhọc lắm mới đem được Van der Blieck ra khỏi xe. Anh vẫn còn bất tỉnh, mặt bị rách một đường dài từ trán xuống đến môi. Cảnh sát chạy đến. Huot nhờ họ gọi điện thoại cho bệnh viện Bình Đẳng và cho Géraudin biết tin, trong khi anh chăm sóc Van der Blieck, người vừa mở được mắt.

Như Regnoult và Groix đã nói, không có một ca phẫu thuật nào ít nguy hiểm hơn một ca phẫu thuật lấy hài nhi ra. Rất nhiều sản phụ bảo rằng họ thích đẻ mổ hơn là đẻ theo lối bình thường. Quả vậy, đẻ mổ ít đau đớn hơn rất nhiều, nhờ có thuốc mê, và thời gian hồi phục rất nhanh.
Lại nữa, Mariette có một sức khỏe tốt. Như thế, tất cả mọi việc sẽ diễn tiến êm đẹp.
Tuy nhiên, Géraudin cảm thấy mình rất mệt mỏi. Ông vừa trở về ngày hôm trước với Valérie. Bà đã muốn đi hành hương ở Lisieux, đem đứa con thiểu năng đến đó, hy vọng có một phép màu và một sự lành bệnh bất ngờ. Chuyến đi vô cùng khó chịu với chàng trai quái dị đó trong ô tô. Xong rồi, lại phải đưa nó trở lại La Baule. Họ mệt mỏi về nhà đúng vào lúc người ta đưa hai công nhân đến cấp cứu: một xương chậu bị gãy và một lồng ngực bị đè giập do thùng đựng quặng rơi xuống đáy một chiếc sà lan. Ca phẫu thuật kéo dài rất lâu. Sau đó, bà Claim đã giữ Géraudin lại để than phiền vì bà Géraudin, trước khi đi Lisieux, đã đến hốt hết tiền trong két và lấy các hóa đơn để lĩnh tiền. Thế là buổi tối hôm đó, một màn cãi vã dữ dội đã diễn ra ở nhà, giữa Géraudin và vợ ông. Géraudin đi ngủ rất khuya. Ông ngủ chập chờn, thức dậy vào nửa đêm, và từ đó luôn luôn chờ đợi cú điện thoại của Van der Blieck. Và khi nhận được điện thoại, ông đến dưỡng đường, trông thấy phòng phẫu thuật hãy còn dơ bẩn vì các ca phẫu thuật ngày hôm trước và chưa được quét dọn. Ông trách móc bà Claim dữ dội, đúng lúc đó chiếc xe cứu thương đến cùng với tin báo tai nạn xảy ra với Huot và Van der Blieck.
- Tốt! Tốt lắm! - Géraudin chua chát nói. - Khởi đầu như thế quả là tốt!
Rất may là ông nhận được sự giúp đỡ bất ngờ: dì Angélique được Huot báo trước, đã chạy đến dưỡng đường phụ giúp.
- Phải! Phải! Dì thật là tử tế! - Géraudin hài lòng nói. - Dì sẽ phụ giúp tôi với bà Claim và Louis. Dì hãy ra xem. Dường như họ đang dùng thang máy đưa bà Vallorge lên.
Ông tiến vào phòng phẫu thuật được lát từ dưới đất lên đến trần nhà bằng những miếng gạch vuông tráng men xanh và chìm trong ánh sáng màu xanh da trời. Tất cả tạo ra một bầu không khí màu xanh, lạnh lẽo, kỳ dị, dưới chiếc đèn pha khổng lồ thả từ trần nhà xuống. Bàn phẫu thuật trắng tinh và trần trụi với những bàn đạp, chân nâng, những cái đai da, tựa như một cái máy hành hình phức tạp đang chờ đợi.
Bà Claim, Louis, dì Angélique và cô y tá Rose-Marie tiến vào, đẩy một chiếc xe. Mariette nằm trên đó, gương mặt trắng nhợt, đôi mắt nhắm nghiền, mái tóc xòa rối, vẻ mặt căng thẳng vì hai mươi bốn giờ đau đớn.
- Hãy can đảm, Mariette! - Géraudin dịu dàng nói. - Chỉ trong vài phút nữa sẽ xong, cô sẽ hết đau đớn. Người ta đang đem sự dễ chịu đến cho cô.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

- Hãy làm nhanh lên, bác sĩ! - Mariette đáp trong hơi thở.
Géraudin, dì Angélique rửa tay bằng cồn trong mấy cái thau nhỏ. Bà Claim chuẩn bị dụng cụ. Còn Géraudin với hai bàn tay đã được khử trùng, đích thân cầm lấy chiếc áo blouse trắng trao cho dì Angélique. Dì đưa hai tay cầm lấy nó, khoác nó lên người ông, rồi cột dây. Dì lấy chiếc mũ chỏm màu trắng, đặt nó lên đầu ông, ấn xuống tận trán. Géraudin mang giày ống lớn bằng vải trắng tinh. Ông cũng đích thân cầm lấy chiếc khẩu trang lớn đeo lên như chiếc mặt nạ che kín cằm, miệng và mũi. Bà Claim trao cho ông một hộp mạ kền trong đó có các găng tay bằng cao su mỏng. Géraudin mang chúng vào tay. Xong rồi, người ta chỉ còn trông thấy ánh mắt của ông, giữa màu trắng của cái mũ và tấm khẩu trang. Dưới ánh sáng chói lọi của ngọn đèn pha, người đàn bà đang nằm chờ đợi… Tất cả những thứ đó có cái gì như huyễn hoặc, hư ảo.
Géraudin tiến tới chiếc bàn kính nhỏ. Bà Claim mở mấy hộp mạ kền. Géraudin lục lọi tìm những dụng cụ nhỏ nhắn, sáng lấp lánh: những cây kẹp, dao mổ, panh, những cây kim ghim vào một mảnh vải, những sợi dây thép, những cuộn chỉ Catgut… Bà Claim mở tiếp các hộp khác chứa đầy những miếng vải xanh vuông vức. Géraudin tiến đến gần Mariette.
Cô được đặt nằm dài trên bàn mổ, trần truồng, hai cánh tay được đưa lên đầu, hai cổ tay được cột chặt. Louis buộc chặt hai cánh tay và hai đùi của cô. Hai cái vai giả kìm chặt hai vai cô. Cô nằm đó, bụng phình to, gương mặt xanh xao, đôi mắt nhắm nghiền, lồng ngực phập phồng. Cô lặng thinh, khép đôi mi lại. Người ta thấy tim cô đập mạnh dưới những xương sườn. Louis cầm lấy chiếc mặt nạ thuốc mê.
Ở góc bàn mổ có một chai nhỏ đựng đầy thuốc sát trùng, trong đó có một miếng bông. Géraudin dùng cây kẹp gắp miếng bông phết một lớp thuốc sát trùng màu thổ hoàng lên da bụng cô. Mùi i-ốt bay lên hòa lẫn với mùi ê-te. Louis đã đặt chiếc mặt nạ lên mặt Mariette và khóa chặt nó lại. Géraudin đưa mắt hỏi dì Angélique. Dì dùng ngón tay vạch mí mắt của Mariette ra, đặt ngón tay lên tròng trắng của mắt Mariette. Cô không động đậy. Dì bèn gật đầu. Dì đã bao phủ lên khắp nơi trên da bụng cô những miếng vải nhỏ màu xanh. Géraudin cầm lấy một con dao mổ, và bằng một nhát dao dài và thẳng, ông rạch da bụng ra.
Gần như không có máu. Da được rạch ra cho thấy một lớp mỡ cũng bị rạch, và dưới lớp mỡ hiện ra màng cân màu xà cừ. Một nhát dao nữa xẻ màng cân ra.
- Kéo.
Trên nắp hộp lật ngửa mà dì Angélique vừa đưa ra, Géraudin chọn một cây kéo. Bằng hai nhát kéo, một về phía vùng mu, một về phía trên, ông phanh rộng vết cắt làm hiện ra một phần của lớp màng mỏng và hơi vàng của mạc nối, che phủ khối ruột màu hồng. Phía dưới, một khối có hình cầu tròn lên. Đó là tử cung.
Máu trào ra. Với các cây kẹp, Géraudin kẹp chặt những mép dày của vết mổ, rồi kẹp những miếng vải vuông vào chung với da bụng. Rải rác đó đây, một tiểu động mạch rỉ máu ra. Ông cũng kẹp nó lại và để luôn ở đó, trông như một con vật bấu vào da thịt.
Vào lúc đó, Mariette, chưa hoàn toàn bị mê man, buông một tiếng thở dài. Và tất cả đều lòi ra ngoài: lớp màng bụng và một khối ruột lớn. Géraudin giữ lại, ép lại băng hai bàn tay to lớn của mình. Ông ra dấu! Louis liền làm chuyển động một cái đòn bẩy. Cái bàn mổ liền chúc nghiêng xuống, đầu Mariette ở dưới thấp, hai chân trên cao. Mái tóc bị xõa ra lòng thòng. Khối ruột lọt trở vào trong bụng, về phía ngực.
Géraudin hít một hơi dài và sâu như một lời than thở. Ông lại bắt tay vào việc, gương mặt đanh lại. Bằng những cú kẹp rất thận trọng, ông đánh dấu mép của phúc mạc. Mariette buồn nôn. Bộ ruột lại lòi ra ngoài một lần nữa.
- Thật xui xẻo! - Géraudin càu nhàu giữa hai hàm răng nghiến chặt.
Hàng mày nhíu lại, ông lấy một miếng vải vuông nhỏ đã khử trùng đặt lên bộ ruột, và những ngón tay ông xòe ra mạnh bạo đẩy lùi bộ ruột cùng với những miếng vải vào trong, ấn sâu vào giữa thành vết mổ một cái panh để giữ nó mở ra và kìm chặt cái bọng đái. Ở tận cùng của vết mổ rộng toang này, hiện ra một khối lớn màu hồng chát, căng phồng, tụ huyết: cái tử cung, và đứa bé ở bên trong. Và xung quanh, những cái kẹp đủ loại, như vô số những con cua cắn vào thịt, ánh màu kền bóng loáng và lạnh lẽo giữa những miếng vải màu xanh lốm đốm những vết nhỏ màu đỏ. Géraudin dừng lại trong một giây, thở thật sâu một lần nữa, hơi thở của một lực sĩ mệt mỏi. Ông hơi đổ mồ hôi.
- Thở tốt chứ? - Géraudin hỏi.
- Tốt, - Louis đáp.
Giọng nói của họ vang lên một cách khác thường, trong cái im lặng dày đặc này.
Louis nhấc chiếc mặt nạ lên một chút, bởi vì cái bóng bóp cấp cứu được gắn liền với mặt nạ thở, vốn phải phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở, đã không còn phồng lên nữa. Mariette thở không được tốt, rất yếu và rất chậm. Louis cầm một cái kẹp đưa vào trong miệng cô, kẹp lấy cái lưỡi, kéo nó ra và để nó thõng bên ngoài cùng với cây kẹp. Rồi anh lại đặt mặt nạ lên. Dì Angélique nghiêng người trông chừng gương mặt Mariette. Bà Claim theo dõi mạch.
- Tất cả đều tốt chứ?
- Đều tốt.
Thế là Géraudin mổ tử cung. Đứa bé xuất hiện với cái đầu tròn đen ướt đẫm. Người ta thấy hai bàn tay lớn mang găng cao su tiến tới sâu trong vết mổ, nắm cần cổ đứa bé một cách cẩn thận và mạnh mẽ, nhấc nó lên và kéo ra. Với một tiếng “phụt”, đứa bé được lấy ra khỏi tử cung. Máu bắt đầu chảy ra trong bụng.
Đứa bé không thở. Mặt mũi tím ngắt và nhăn nhó. Géraudin, đẫm mồ hôi, cầm nó ở đầu tay, siết cái cuống rốn trong hai chiếc kẹp và đưa cho dì Angélique cắt bằng một nhát kéo. Ông trao đứa bé cho dì. Mồ hôi trán rời xuống lông mày ông.
- Một đứa con trai! - Louis kêu lên.
Dì Angélique nện vào cái mông nhỏ nhắn của nó hai phát thật mạnh. Một tiếng khóc yếu ớt vang lên trong bầu không khí im lặng của căn phòng. Đứa bé đã thở.
- Nó sống!
Một niềm vui lan tỏa trong căn phòng, bên cái thể xác đang đau đớn này, một con người mới đã chào đời. Sau khi cột cuống rốn lại, người ta nhanh chóng đặt đứa bé trong tấm khăn lớn mà Marie-Rose mở rộng ra, rồi cô mang đứa bé sang phòng bên.
Dì Angélique đã quan sát nó bằng một cái nhìn nhanh:
- Tôi nghĩ rằng nó sẽ không sống được.
Géraudin không trả lời. Ông đang bận rộn với cái bụng bị mổ. Máu chảy rất nhiều, Géraudin dùng đầu những ngón tay lục lọi trong cái bụng, tìm kiếm xem máu chảy ra từ chờ nào. Càng lúc ông càng cảm thấy nóng. Dì Angélique liên tục lau mồ hôi trán, mồ hôi mặt cho ông trong khi ông làm việc. Đột nhiên, ông cảm thấy rất khó chịu trong người. Ông cảm thấy như bị những mũi kim đâm vào gáy, mắt ông như bị che bởi một màn sương mù, ông có cảm giác khó chịu như đang ở trong một giấc mơ. Ông nghĩ:
Thôi rồi! Tôi sắp sửa mất hết tinh thần làm việc rồi.
Ông cố xua đuổi cái ám ảnh đó, xua đuổi sự sợ hãi với tất cả sức mạnh tinh thần để tập trung toàn bộ trí óc vào cái vết mổ rộng đang tiếp tục chảy rất nhiều máu, quá nhiều, nhiều tới mức ông chưa từng thấy bao giờ! Bình thường một ca phẫu thuật để lấy thai nhi không ra nhiều máu đến thế! Có một cái gì bất thường trong chuyện này. Một sự lỡ tay? Một nhát dao tai hại? Một chỗ nào đó bị cắt phạm?
Ông muốn khâu hai bên tử cung thành một khối, bằng cách ráp chúng với nhau, để chặn đứng sự băng huyết. Nhưng ông không còn trông thấy rõ được nữa. Trước mắt ông, mọi vật nhảy múa. Và máu cứ tràn ngập cái bụng…
- Đưa kìm đây.
Ông lục lọi, sờ soạng, mò mẫm trong những khối thịt, không còn phân biệt được gì trong đám màu đỏ. Trước hết phải thấm cho khô tất cả… Cố gắng thấy rõ được một cái gì…
- Gạc, gạc…
Ông thấm. Chùi. Bít lại. Máu vẫn chảy. Càng lúc càng nhiều.
- Gạc, gạc…
Ông cầm máu lại với những miếng gạc. Những miếng vải màu xanh chuyển sang màu đỏ lần lượt được chất thành đống. Với tất cả nghị lực, ông xua đuổi sự sợ hãi đến điên người, nhưng chính sự sợ hãi này lại trở thành nỗi ám ảnh nơi ông. Ông chỉ còn nghĩ đến nó, ông không còn biết mình đang làm gì nữa. Không thấy rõ được cái gì nữa, hai bàn tay ông dường như đang mò mẫm một cách vụng về trong một công việc hoàn toàn xa lạ đối với ông. Ông không thể nào suy nghĩ được điều gì, không thể nối liền hai ý tưởng với nhau cho mạch lạc, không thể nghĩ ra ngay lập tức những gì cần phải làm. Ông cảm thấy hoảng sợ, trí óc trống rỗng như đang bị treo trên một vực thẳm, chẳng khác gì một diễn giả đang thao thao bất tuyệt bỗng quên mất bài diễn văn của mình. Trông ông chẳng khác nào một sinh viên y khoa năm thứ nhất, một người chưa bao giờ đặt bàn tay lên một cái bụng bị mở ra. Ông không còn biết gì nữa, trong ông chỉ còn lại một cố gắng tuyệt vọng và bất lực để thoát ra khỏi cái bóng tối đang bao phủ trí óc ông. Một ý nghĩ, một ý nghĩ duy nhất.
Nghỉ ngơi, dừng lại để thở, để tỉnh táo trở lại.
Nhưng không thể được! Mỗi một giây đồng hồ rất quý báu, sự băng huyết gia tăng. Máu tiếp tục chảy, càng lúc càng nhiều hơn, những miếng vải xanh trở thành đỏ, máu rịn ra từ khắp mọi nơi. Những cử động của Géraudin trở nên hối hả.
- Gạc! Gạc! Nhanh lên!
Ông không sao thấm xuể được. Máu ùa ra như một cơn thủy triều, dâng lên khắp nơi, tràn ngập khắp nơi. Géraudin đổ mồ hôi dầm dề, thở hổn hển. Hai bàn tay ông run lên thấy rõ. Nóng nảy. Những cử chỉ cuống quýt. Chùi máu. Ném xuống đất những miếng vải đẫm máu và máu không ngừng chảy, càng lúc càng nhanh hơn. Géraudin không còn là bác sĩ nữa, ông chỉ còn là một người đàn ông đáng thương đang hoảng hốt, kinh hãi với một gánh nặng quằn quại. Giờ đây, cả cái bụng đầy máu. Và vì cái đầu của Mariette chúc xuống dưới thấp nên máu đã tràn ra khỏi bụng, chảy xuống ngực, giữa hai v_ú, đọng lại ở hai nách, chạy dọc theo cuống họng và sau gáy, tràn ngập những sợi tóc vàng và bắt đầu nhỏ ròng ròng xuống đất, nhanh, nhanh, càng lúc càng nhanh, với những tiếng động nhỏ rất mau, và vũng máu càng lúc càng lan rộng. Mọi người giẫm lên nó, để lại khắp nơi những dấu chân đỏ. Géraudin vứt bỏ găng tay, mò mẫm trong bụng với hai bàn tay trần. Mariette cất lên một tiếng khò khè. Géraudin lo lắng liếc nhanh về phía gương mặt xanh mét.
- Thở tốt không? Tốt không? - Ông hỏi Louis.
- Không còn tốt nữa, - Louis đáp.
Anh lấy chiếc mặt nạ ra. Mariette không còn thở nữa. Trong đôi mắt hé mở của cô, con ngươi mở lớn. Géraudin như điên như dại, lục lọi trong cái bụng, tìm kiếm, sờ mó, mò mẫm. Máu chảy lên hai bàn tay ông, dính đến tận cổ tay. Ông nghẹt thở. Một cách giận dữ, ông vứt bỏ miếng vải bịt mũi và miệng, làm máu dính bê bết khắp mặt mũi, dính lên cả chiếc mũ trắng tinh của ông.
- Cô ấy tỉnh chưa? Tỉnh lại chưa?
- Chưa.
- Tiêm thuốc!
Dì Angélique lấy ống tiêm, tiêm một mũi vào ngay giữa đùi Mariette.
- Thêm một mũi nữa.
Giờ đây người ta không còn trông thấy được gì nữa trong cái bụng của cô. Chỉ thấy máu và máu, máu chảy khắp nơi, máu rịn ra, máu chảy ròng ròng, thấm đỏ tất cả, tràn ngập tất cả. Cả bốn người cúi đầu nhìn xuống cái bụng. Géraudin lục lọi lung tung, với hai bàn tay run rẩy và cuống cuồng… Mariette tỉnh lại. Cô thở khò khè, rất nhỏ, rất chậm, cố gắng cất tiếng nói, nhưng chỉ thốt ra được những tiếng thều thào không rõ:
- Hơ… hơ… hơ…
Trong một giầy, Géraudin cuống quýt nghĩ đến việc cắt bỏ tử cung. Ông sẽ viện ra bất cứ lý do gì sau đó còn hơn là để sự băng huyết kéo dài. Ông tìm những dây chằng, để kẹp các động mạch lại. Nhưng ông không thể tìm ra chúng, ông không còn thấy gì nữa hết, mắt hoa lên, lòng hoang mang, đầu óc trống rỗng.
- Cô ấy chết mất! - Dì Angélique nói.
Ông nắm lấy cổ tay cứng đơ của người đàn bà đang nằm đó. Mạch không còn đập nữa. Ông nghĩ:
Truyền máu… truyền máu…
- Truyền máu? - Bà Claim hỏi.
- Một người cho máu? Tôi gọi những người lính cứu hỏa nhé? - Louis hỏi.
- Phải, - Géraudin nói lắp bắp. - Phải… Nhưng không! Không! Không! Không kịp! Cô ấy sẽ mất hết máu trước khi họ đến! Cho gạc! Cây kẹp!
Ông lục lọi trong những chiếc hộp một cách giận dữ, làm máu văng khắp nơi. Giờ đây, cả bốn người họ đều dính máu, từ hai bàn tay đến hai vai, đến cả trên mặt.
- Hơ… hơ… - Mariette kêu khò khè.
Như phát điên, Géraudin đi tìm những đồ vật, xô đẩy tất cả mọi người, vứt bỏ chiếc mũ chỏm của ông, rồi trở lại với cái bụng bị mổ. Dì Angélique chuẩn bị một mũi tiêm cafein, Louis bắt mạch một cách vô ích, bà Claim tiếp tục lau máu và máu vẫn tiếp tục chảy ròng ròng.
- Cô ấy chết rồi! - Louis kêu lên.
Géraudin buông chiếc kẹp ra, nghiêng đầu nhìn gương mặt của Mariette. Cô đang đi vào cõi chết.
Cô đã tỉnh lại lần cuối, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, mở to đôi mắt đờ đẫn nhìn cái khung cảnh rùng rợn nơi cô sắp từ giã cõi đời, cách xa tất cả những người thương yêu. Gương mặt đáng thương, với mái tóc xòa rối, tái nhợt đi như mang màu sáp. Đôi mắt trợn ngược, trắng bệch. Hai hay ba lần, cô rên lên một tiếng rên không rõ:
- Ba… Ba…
Và gương mặt cô càng nhợt nhạt hơn nữa. Từ từ miệng cô mở lớn ra, thở hơi thở cuối cùng. Géraudin lao tới, nắm lấy bàn tay buông thõng của cô, siết chặt nó.
- Cô ấy đã chết. Cô ấy đã chết!
Cả bốn người đều đứng đó, sững sờ, từ chân lên đầu dính đầy máu, trông giống như những tên đồ tể. Họ nhìn nhau một cách kinh hãi, như chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra. Họ không thể rời bỏ chiếc bàn phẫu thuật, họ trở lại nắm lấy bàn tay đong đưa của người chết, hoặc sờ vào ngực cô, nhìn vào đôi mắt cô. Họ không thể chấp nhận sự việc lại kết thúc như thế, kết thúc một cách ngu ngốc, khó hiểu, chỉ trong vòng có hai phút. Và đó là một tai họa không thể cứu vãn được.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

Image


Géraudin đi đi lại lại trong phòng, gương mặt tái mét như một bóng ma trong ánh sáng màu xanh, vẻ mặt ngơ ngác. Ông đi loanh quanh trong phòng tựa như một kẻ sát nhân vừa mới phạm phải một tội ác. Ông đến ngồi trên một chiếc ghế đẩu bằng sắt, hai bàn tay đầy máu ôm lấy đầu. Ông không nói một tiếng nào. Trong căn phòng kế bên, người ta nghe thấy những tiếng bước chân, tiếng nói cùng tiếng khóc của đứa bé.
- Thưa ông, - Louis nói nhỏ. - Thưa ông…
- Cái gì? - Ông hỏi trong một hơi thở, giọng khàn khàn.
- Phải “kết thúc” cô ấy…
- “Kết thúc” cô ấy? A, phải… phải…
Ông mệt nhọc đứng lên, ném ra xung quanh cái nhìn của một người vừa mới ngủ dậy, ý thức lại được một tai họa khủng khiếp. Ông thở ra:
- Đúng thế… đúng vậy… Anh có lý…
Thật vậy, phải “kết thúc” cái tử thi đó, khâu nó lại, làm thành một cái gì chuyển đi được, một cái gì đó có vẻ đàng hoàng một chút. Géraudin trở lại bàn mổ đưa thi thể trở về vị trí nằm ngang. Dì Angélique chuẩn bị kim, chỉ. Géraudin khâu lại cái tử thi. Những mũi khâu lớn, xuyên qua tất cả, đâm vào da thịt, luồn một sợi chỉ ở chỗ này, một sợi chỉ ở chỗ kia, một cách hối hả, thô sơ, y như người ta khâu một cái nệm rơm cũ bị thủng. Đó là công việc của một người đã mệt lử, trống rỗng, không còn chút sức lực, một công việc làm cho lòng ông xót xa. cô gái dễ thương bây giờ trông giống như xác một con vật bị mổ bụng, bị người ta khâu lại để mang đi… Nhưng cần gì phải khâu lại cho tử tế? Hết rồi. Cô đã chết. Một sự thô bạo đột ngột thay thế cho những chăm sóc tỉ mỉ, những cẩn thận tột cùng, sự khử trùng kỹ lưỡng lúc nãy. Sự tuyệt vọng và nỗi tức giận được biểu lộ trong công việc đầy tàn bạo và hối hả này. Tức giận vì bao nhiêu chăm sóc, bao nhiêu khéo léo, bao nhiêu khổ công đã đưa đến một kết quả thảm khốc như thế! Với sự im lặng, sự sạch sẽ gần như đầy vẻ tôn nghiêm của lúc đầu cuộc giải phẫu, việc làm cẩu thả này cho thấy một tương phản nổi bật. Ở phòng bên kia, tiếng khóc đã im bặt. Đưa bé cũng đã chết.
Họ lau rửa cho người xấu số. Louis đã đem đứa bé lên xe, chở nó về nhà của nạn nhân, báo trước một cách kín đáo rằng người mẹ đang ở trong tình trạng rất nguy kịch, sợ có thể nguy hiểm đến tính mạng… Rồi anh trở về dưỡng đường. Người ta đã đỡ Mariette ngồi dậy trên bàn mổ, mở một tấm chăn len ra, khoác lên người cô và bao bọc lấy cô. Louis bế cô, mang cô xuống xe hơi. Những sợi tóc vàng mịn cọ nhẹ vào mặt anh đến nhột, len cả vào trong miệng anh. Anh cảm thấy khổ sở khi phải sinh nhai bằng một cái nghề như thế. Anh nghĩ đến vợ anh, đến ba đứa con anh, đến đứa bé nhất đang đau ốm liên miên, và anh nguyền rủa cuộc đời.
Anh đặt Mariette ngồi ở ghế trước, đẩy cô sát vào cửa xe để khỏi ngã ở các khúc quẹo, cho đầu cô ngả ra phía sau, trên lưng ghế, kéo tấm chăn phủ kín thân thể cô như để tránh cái lạnh. Chiếc xe êm ái lăn bánh, Louis chỉ cầm lái có một tay. Với tay kia, thỉnh thoảng anh đẩy thi thể của Mariette ra, bởi vì nó ngã về phía anh. Đến trạm thuế, anh phải dừng lại. Người lính đoan tiến đến gần. Louis nháy mắt với anh ta, làm mặt vui vẻ:
- Một cô gái bị bệnh… Tôi đưa cô ta về nhà.
- À, thế à! - Người lính đáp.
Chắc anh ta nghĩ đây là một cô gái đi phá thai và người ta kín đáo mang cô ta về nhà. Người lính cũng nháy mắt lại, kèm theo một nụ cười ranh mãnh. Và anh ta tránh ra để cho xe chạy.
Đến trước nhà của nạn nhân, anh dừng lại, xuống xe, chạy đến nhấn chuông, trở lại mở cửa xe và cái tử thi ngã vào anh, anh ôm nó trong hai tay mang đi thật nhanh, bởi vì những người láng giềng tò mò đã kéo tới.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

10


Doutreval đang ở tại Viện Dự phòng Amsterdam cùng với Vallorge và Groix. Ông sắp sửa kết thúc bản tường trình thì Regnoult, được giao nhiệm vụ ở lại khách sạn chờ tin, vội vã đến bằng xe taxi. Anh ta mang theo một bức điện từ Pháp. Doutreval bèn cáo lỗi, lui vào một căn phòng nhỏ tiếp giáp với Đại giảng đường, vừa mở phong bì vừa cố giữ cho hai tay đừng run. Bức điện tín do Huot gửi. Vỏn vẹn chỉ có mấy chũ:
“Hãy về ngay!”
Doutreval buông một tiếng thở dài kỳ lạ, tựa như tiếng thở ra của một con vật bị người ta hạ gục. Ông trao bức điện cho Vallorge, và mắt ông hoa lên, mồ hôi đổ ra. Ông chậm chạp đi đến chỗ ngồi. Tất cả mọi vật xung quanh ông đều tối sầm lại. Nhưng ông có cảm giác người ta đang chăm sóc ông, Regnoult muốn nối cổ áo cho ông. Một sức mạnh của lòng kiêu hãnh khiến ông đẩy người học trò ra. Ông nói:
- Không!
Ông đứng bật dậy trong một cố gắng tột cùng. Ông đứng tựa vào bàn, cố chế ngự cơn xúc động và nhìn Vallorge đang ngồi khóc thổn thức, mặt giấu trong chiếc khăn tay.
- Phải đi ngay, - Regnoult nói nhỏ.
- Phải… Phải.
- Chiếc xe hơi…
- Ludovic…
Vallorge ngẩng đầu lên, gương mặt đầm đìa nước mắt.
- Con đi nhanh lên… Chiếc xe hơi… Đổ đầy xăng vào!
- Nhưng còn các vị kia?
- Đúng thế… - Doutreval nói, với một vẻ mệt mỏi vô biên. - Bài thuyết trình chưa xong…
Ông thở mạnh, đứng thẳng người lên.
- Được rồi, ba sẽ kết thúc bài thuyết trình.
- Kết thúc?
- Phải, kết thúc. Con đi đi, Ludovic! Hãy sẵn sàng trong nửa tiếng đồng hồ. Và trở lại đây đón ba, ba sẽ xong vào lúc đó.
Ông nhìn đăm đăm ra cửa trong một giây. Ong do dự. Regnoult cảm thương cho nỗi khốn khổ của ông.
- Thưa ông, ông hãy xin cáo lỗi…
- Và tôi sẽ làm gì trong nửa tiếng đồng hồ ấy? - Doutreval đáp. - Không!
Vẻ mặt xanh mét, ông khập khiễng tiến về phía cửa nhỏ. Ông bước vào Đại giảng đường, nói lời xin lỗi, rồi tiếp tục đọc nốt bản thuyết trình. Ông nghe tiếng ông nói, như thể đó là tiếng của một người nào khác. Ông có cảm giác như say rượu, như đang sống trong một cơn mê. Một tràng pháo tay hoan nghênh vang lên khi ông vừa chấm dứt. Lúc đó ông đưa tay lên, và bằng một cử chỉ sầu thảm, ông trở vào bức điện tín từ Pháp gửi đến:
- Thưa quý vị… Xin quý vị tha lỗi… Con gái tôi đã chết… Con gái tôi…
Tiếng nói ông nghẹn lại, cảm thấy nước mắt sắp tuôn trào. Một cách thô bạo, ông quay phắt người đi, và bước ra, để lại một cử tọa bàng hoàng kinh hãi đến lặng cả người.
Chiếc Renault phóng với tốc độ một trăm ba mươi cây số một giờ trên những con đường dài ngoằn ngoèo, bóng loáng, băng qua những cánh đồng cỏ xanh mướt có những rãnh nước cắt ngang, những nhà máy có cối xay gió cách nhau từng khoảng đều, với rải rác đó đây những con bò cái màu trắng và màu đỏ hung đang lim dim ngủ, đầu gối khuỵu xuống, những cô gái quê vắt sữa bò xong đang trở về, mỗi tay xách một thùng đầy sữa trắng. Vallorge đạp ga điên cuồng. Ở mỗi khúc quẹo vang lên tiếng rít chói tai của bánh xe. Tiếng động cơ ầm ầm, liên tục, mạnh mẽ dội vào những hàng cây, những vách tường cúa các ngôi nhà thấp, làm cho lũ gà mái hoảng sợ và bầy ngựa con kinh hãi chạy tán loạn. Chiếc xe bắt buộc phải dừng lại nhiều lần trước những cây cầu bị nâng lên, những hàng rào thu thuế khiến cho Doutreval phát cáu. Phải đóng tiền mới được qua đường. Rồi chiếc xe lại chồm lên, lao về phía trước, tiếng ầm ầm của động cơ lại vang lên. Nhưng mới chạy thêm được mươi cây số thì con đường chấm dứt tại một bến phà. Phải dừng xe lại, chờ đợi những giây phứt vô tận, đôi khi đến nửa giờ; phải nhìn dòng nước sông Rhin lững lờ trôi, chậm chạp giữa những đầm lầy, những cồn cỏ, những cù lao mọc đầy loại cây sống dưới nước, trải dài vô tận tựa như một người khổng lồ râu tóc rậm rạp đang uể oải nằm dài trên mặt đất. Một chiếc phà cũ kỹ qua bến. Những động tác long trọng để cập bến được chỉ huy bởi một thuyền trưởng đội mũ cát-két trắng, vẻ mặt nghiêm nghị hơn cả một ông phó đô đốc. Rồi chiếc phà già nua chạy bằng bánh xe nước rời bến với một hồi chuông u buồn, giữa khung cảnh bao la của sông nước, của cánh đồng và đầm lầy, nó vừa thở hổn hển vừa băng qua con sông, đi vòng theo các hòn đảo, các cồn lau sậy, lạc lõng giữa các nhánh sông nhỏ chi chít, khúc khuỷu. Không ai biết chắc được dải đất thấp mà chiếc phà đang tiến đến lần này là bờ sông hay lại là một hòn đảo nữa. Sau cùng, xa xa trông thấy một sàn ván nhỏ nổi lên ở chân trời: một bến phà màu trắng, một hồi chuông vang lên trong gió lộng. Phà cập bến, họ cho xe ra khỏi phà, và tiếp tục chạy. Rồi một bánh xe bị nổ. Rồi họ gặp một đoạn đường đang sửa chữa mà Vallorge cho xe chạy bừa qua rào cản. Họ bị chặn lại, và suýt phải đánh nhau với những người thợ lát đường không hiểu tiếng Pháp muốn họ phải cho xe lùi lại. Họ cứ cho xe chạy qua lớp cát của con đường bị đào xới. Sau cùng, bị kiệt sức, bị một cơn suy nhược thần kinh, một cơn choáng váng, Vallorge chỉ kịp hãm thắng lại, cho xe đậu sát lề bên phải. Họ đi vào một quán hàng nhỏ lẻ loi còn sáng đèn, hỏi mua rượu. Bà chủ quán biết chút ít tiếng Pháp, giải thích:
- Không có rượu… Ở Bỉ, cấm…
Nhưng khi nhìn thấy gương mặt tái nhợt của Vallorge, bà ta bèn đưa bốn người vào nhà bếp, rót đầy tô một thứ rượu trắng rẻ tiền và ra hiệu:
- Nhanh lên! Nhanh lên!
Họ nốc cạn một hơi loại rượu xấu làm quặn cả ruột gan. Vallorge tiếp tục lái xe cho đến đồn quan thuế biên giới Pháp. Tại đó, Groix hỏi những người lính đoan, họ chỉ cho anh ta nhà của một tài xế xe tải đang thất nghiệp. Họ còn xách cả đèn lồng dẫn Groix đến tận cửa. Đã khuya rồi. Người tài xế đang ngủ say, Groix đập cửa ầm ầm.
- Angers à? Chỗ đó ở đâu? - Anh ta hỏi.
- Anh đừng lo! Một ngàn franc nếu anh đưa chúng tôi đến đó. Chiếc xe rất tốt.
- Tôi có trở về kịp vào sáng mai không? Tôi phải đi ghi tên vào sổ thất nghiệp lúc mười một giờ.
- Dư sức mà! - Groix quả quyết.
Người lính đang cười nhạo bỗng hét lên. Chiếc giày của Groix đã giẫm lên một mụn cóc trên bàn chân anh ta.
- Ô! Xin lỗi. Nào, anh bạn, hãy nhanh lên! Này! Một ngàn năm trăm franc nếu anh lên đường ngay trong ba phút.
Anh ta lái xe rất giỏi. Chiếc xe lao mình vào bóng đêm. Tiếng ầm ầm của động cơ làm khuấy động cả không gian. Ở ghế sau, Vallorge ngả người giữa Groix và Regnoult, ngủ thiếp đi. Doutreval ngồi ở ghế trước, nhìn màn đêm chạy ùa về phía ông, một thứ vực thẳm vô tận, từ trong đó thỉnh thoảng nổi lên một bóng trắng, vách tường của một nông trại, một quán ăn. Đến ba giờ sáng, họ lao mình băng qua những khu rừng hướng về phía những vùng đất cao thuộc tả ngạn sông Seine. Chỉ còn phải chạy ba trăm cây số nữa. Anh tài xế lặng lẽ phóng một trăm ba mươi cây số một giờ với vẻ bình thản của một người máy. Chắc anh ta đã quên hết tất cả, không còn nghĩ đến điều gì nữa, cả đến thời gian, cả đến sự thất nghiệp của mình: Tiếng ầm ầm của động cơ, sự rung chuyển đều đều của chiếc xe như đã gây ra cho anh ta một tình trạng thôi miên mơ hồ. Ánh đèn nhỏ trên trần xe rọi xuống hai bàn tay công nhân của anh ta, hai bàn tay to, thô kệch, với những vết trầy xước, đang đè lên cái vô lăng, điều khiển chiếc xe bằng những động tác rất thành thạo. Lát sau anh ta chạy chậm lại, rút trong túi ra một lát bánh mì phết bơ bọc trong tờ giấy, cắn miếng bánh và vẫn giữ nó trong tờ giấy để nó khỏi bị bẩn vì hai bàn tay dính dầu mổ của mình. Rồi anh ta lại chạy với tốc độ một trăm ba mươi cây số một giờ. Doutreval thở dài. Tốc độ, tiếng nổ đều đều của động cơ, tiếng gió rít bên cửa xe cũng làm cho trí óc ông tê dại, không suy nghĩ gì được.
- Rẽ trái. Rẽ trái nữa. Còn một trăm mét nữa. Dừng lại. Tới rồi! Dừng lại!
- Bảy giờ rồi, - anh tài xế nói, như thể anh ta đã lấy lại ý thức. - Hỏng rồi! Tôi không còn về kịp để ghi tên vào sổ thất nghiệp nữa!
Chiếc xe dừng lại trước nhà, Doutreval bước xuống. Cửa ra vào được mở hé. Một người đàn ông mang một bó hoa hồng trắng đến. Không nhấn chuông, anh ta tiến vào hành lang. Đằng sau anh ta, Doutreval và Vallorge đi vào ngôi nhà của Mariette. Một người đàn bà mà ông chưa bao giờ trông thấy đón tiếp ông nghiêm trang và lặng lẽ, đưa ông vào phòng khách như thể người ta đón một người xa lạ. Doutreval đứng trước chiếc giường, cảm nhận được nỗi đau xé lòng ghê gớm nhất của cuộc đời mình, khi nhìn thấy cái đầu của Mariette và đầu của đưa bé nằm kề bên nhau trên chiếc gối bọc ren trắng.

Ông thức canh hai ngày hai đêm. Chỉ trong đêm đầu, ông chấp nhận cho Fabienne thức cùng với ông. Đêm thứ hai, vào khoảng mười một giờ, ông cảm thấy lão đảo vì mệt mỏi. Groix và Regnoult đề nghị ông lên lầu nằm nghỉ một lát. Họ thức canh đến nửa đêm. Rồi Fleurioux và Cassaing, hai sinh viên nội trú của Vallorge, sẽ đến thay thế họ. Ông bằng lòng, đi lên phòng, để nguyên quần áo, giày tất, ngả mình xuống giường với ý định chỉ nằm một chút thôi. Nhưng cơn buồn ngủ thình lình kéo đến. Ông ngủ say trong vài giờ. Ông nằm mơ thấy mình đang ở trong một thành phố lớn, tại một khách sạn rộng thê lương, trong một phòng ngủ u buồn với ánh sáng lờ mờ. Có chuông điện thoại gọi ông, và một giọng nói rất rõ ràng nói với ông:
- Ông Doutreval, xin ông hãy can đảm… Một tai nạn xe hơi khủng khiếp… Con gái ông, Fabienne, đã chết…
- Hả! - Doutreval hét lên.
Ông nhảy xuống giường, trong bóng tối. Ông bật đèn lên, hãy còn sợ hãi vì cơn ác mộng. Ông nhìn đồng hồ. Hai giờ sáng. Tai ông hãy còn nghe văng vẳng câu nói: “Con gái ông, Fabienne, đã chết… “ Câu nói rõ ràng, mạnh mẽ, nghe như thật, khiến ông không thể không đi đến tận phòng của Fabienne, đẩy hé cánh cửa ra để nghe hơi thở của cô. Cô đang ngủ.
Giờ đây ông chỉ còn có một mình Fabienne, bất cứ tai họa nào xảy đến với cô cũng đều làm cho ông cảm thấy đau đớn ghê gớm. Ông tự hỏi trong mỗi con người có một cái tôi nào đó, một tiềm thức bí mật và tàn nhẫn nào đó, nó cứ tưởng tượng ra những cơn ác mộng như thế để giày vò, hành hạ chính mình!
Lần mò từng bước trong bóng đêm, ông đi theo dãy hành lang đến cầu thang. Sự mệt mỏi, nỗi đau khổ tuyệt vọng làm cho tâm trí ông như ngây dại. Một con người tàn tạ. Ông cảm thấy mi mắt mình sưng húp, lớp da dưới mắt phù lên. Chiếc cầu thang dường như đưa qua đưa lại dưới chân ông, giống như một chiếc thang dây trên tàu. Đến nửa cầu thang, cái đầu gối bị thương của ông thình lình khuỵu xuống, ông bước hụt một nấc thang và ngã lăn xuống chân cầu thang, không làm sao giữ mình lại được. Tiếng động ầm ầm làm Fleurioux và Cassaing chạy đến. Họ trông thấy ông nằm dưới đất, vẻ ngơ ngác. Họ lao tới đỡ ông dậy, mỗi người nắm lấy một cánh tay. Nhưng ông đứng dậy một mình, đẩy họ ra bằng một cử chỉ thô bạo, loạng choạng tiến đến căn phòng của người chết. Cassaing và Fleurioux đi theo ông, vẻ lo lắng, sẵn sàng đỡ ông nếu ông ngã. Nhưng ông không chịu, mặc dù ông đi như một người say rượu. Ông kéo một chiếc ghế bành đến ngồi ở đầu giường của Mariette, trong vùng sáng của hai cây nến, nhắm mắt lại, chìm trong một giấc ngủ chập chờn đầy những ý tưởng hỗn loạn. Fleurioux và Cassaing ngồi bên cửa sổ, chơi bài Tây dưới vòng tròn ánh sáng kín đáo của một bóng đèn nhỏ. Thỉnh thoảng những tiếng thì thầm của họ vẳng đến tai ông một cách rời rạc, khó hiểu, những tiếng thật nhỏ và ngắn…
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 08 Oct 2022

Bên ngoài, bão đã nổi lên, gió Tây rên xiết trong ống khói. Người ta nghe nó thổi luồn qua những dãy hành lang như tiếng rên rỉ của một con chó lớn u buồn. Tiếng gió mỗi lúc mỗi cao, nghe như tiếng than thở của một con người, khi chỗ này, khi chỗ kia, ở cuối dãy hành lang, ở trên gác mái, ở dưới nóc nhà. Thỉnh thoảng tiếng gió nghe như một hơi thở mạnh, hơi thở của một con chó hoang đang tìm kiếm, đánh hơi những ngạch cửa, thổi luồn dưới cánh cửa ra vào, làm chập chờn ánh sáng của hai ngọn nến.
Fleurioux và Cassaing quay đầu lại, liếc nhìn về phía Doutreval, thấy ông có vẻ đang ngủ, và họ tiếp tục chơi bài. Rồi tiếng thở than buồn bã của gió bão lại nổi lên, đem đến cho Doutreval một sự xoa dịu mơ hồ và kỳ lạ, như thể tiếng rên xiết của gió mang đi nỗi xót thương đầy u uất tuyệt vọng.
Fleurioux vươn vai duỗi mình, khiến cái ghế kêu rắc rắc, đứng dậy đi đến nhìn đồng hồ treo bên trên lò sưởi.
- Gần ba giờ rồi!
Anh rón rén đến bên Doutreval, nhìn vào gương mặt mệt mỏi với đôi mắt nhắm nghiền của ông.
- Ông ấy ngủ.
Anh trở lại ghế ngồi.
- Ông ấy đã kiệt sức, - Cassaing nói.
- Thật thế, một nỗi đau khổ tột cùng!
- Thật đáng thương cho ông ấy…
Anh rót cho mình một tách trà nguội.
- Này, - Cassaing nói tiếp - mày có biết điều gì đã xảy ra với Géraudin không?
- Có phải về… về chuyện đó không? - Fleurioux hỏi, vừa hất đầu chỉ về phía chiếc giường.
- Ừ…
- Chết vì không chịu nổi thuốc gây mê… Người ta bảo thế.
- Không, - Cassaing hạ thấp giọng nói. - Tao có thể nói cho mày biết. Không phải như vậy.
- Mày biết à?
- Tao biết. Bởi vì Groix và tao đã nhìn thấy.
- Nhìn thấy ư?
- Phải.
Cassaing liếc mắt nhìn về phía Doutreval đang ngủ, rồi bằng một cái hất đầu chỉ về phía chiếc giường một lần nữa:
- Người ta đã mổ lại.
- Hồi nào?
- Đêm hôm qua.
- Thật thế à!
- Ừ. Bụng đầy máu mày ơi! Những cục máu đã đóng lại, chứng tỏ cô ấy bị băng huyết ghê gớm! Groix đã chỉ cho tao thấy.
- Géraudin xuống dốc một cách thảm hại!
- Đây không phải là lần đầu. Người ta đã bắt đầu thấy rõ ông ấy như thế từ nhiều tháng qua. Nếu là tao, tao sẽ chọn Flégier…
- Im đi! Ông ấy đang cựa mình, - Fleurioux nói.
Hai người cùng nhìn Doutreval trong một lúc.
- Gió đấy mà. Gió làm rung rinh ánh nến khiến cho bóng mờ trên gương mặt ông ấy lay động, - Cassaing nói.
Đến lượt anh cầm lấy bình trà, khẽ rót cho mình một tách trà nguội. Bên ngoài, tiếng gió thổi qua sân nghe như một lời than thở, làm lay động thật lâu những cánh cửa sổ. Và tiếng rít u buồn của nó xa dần, nhỏ dần xuống, để rồi thình lình nổi lẻn ở một nơi khác, ở góc một con đường, như thể xung quanh ngôi nhà có một linh hồn đau khổ trở về lần cuối để khóc than…
Rồi đến việc tẩm liệm, vô số những tràng hoa phúng viếng, lễ mai táng, chiếc xe tang chậm chạp đi qua các đường phố. Người ta lặng lẽ không ai nói với ai một lời nào, và chiếc quan tài bằng gỗ sồi nặng nề được đưa xuống dưới đáy huyệt với những cái lắc lư nhẹ. Những bước chân giậm trên mặt đất hãy còn trơn trượt vì nước mưa, mọi người nghiêng mình nhìn theo dưới đáy huyệt chiếc quan tài mà Mariette đang nằm trong đó. Rồi vô số người diễu qua trước mặt đến bắt tay bạn, như trong một giấc mộng. Chỉ thấy những gương mặt, những gương mặt và những gương mặt, đến độ không còn nhận ra được họ là ai nữa, lần lượt hết gương mặt này đến gương mặt khác, mãi mãi vô tận, khiến bạn choáng váng. Rồi đến chuyến đi trở về nhà, trong nỗi cô đơn. Vallorge ở lại thành phố để mời những người thân từ xa đến ăn trưa.
Đến góc quảng trường Quân đội, Doutreval nhận thấy từ xa một chiếc xe Panhard lớn màu đen chạy về phía ông. Ông vội vã bước vào một cửa tiệm, náu mình. Chiếc xe chạy qua rất nhanh. Doutreval trở về nhà một mình. Trong một lúc, ông toan chạy đến nhà người bạn gái, để ở bên cạnh Jeanne cho trôi qua cái ngày ghê gớm này, bên cạnh một người dù sao cũng thương ông và có lẽ sẽ tìm được những lời để xoa dịu nỗi đau khổ của ông trong một lúc… Nhưng rồi ông cảm thấy điều đó thật vô ích, Jeanne có thể nói được gì? Bà sẽ không hiểu được ông, bà không đau khổ, bà không có con gái bị chết, Mariette không phải là con của bà. Một người tình bao giờ cũng chỉ là một người tình… Doutreval đi thẳng về nhà. Ông bước vào phòng ngoài. Nó trống trơn, hãy còn ngổn ngang những bó hoa như sau một buổi lễ lớn. Căn nhà cực kỳ hoang vắng. Không một người hầu gái, không có ai cả. Tất cả đều đi ăn. Mười một giờ rưỡi, còn phải trải qua biết bao nhiêu phút cô đơn nữa, trước khi đêm xuống, trước khi có thể quên đi tất cả trong giấc ngủ.
Ông đi ra khu vườn. Mấy con gà mái, bầy bồ câu ùa đến bên hàng rào lưới sắt. Chúng đói, người ta quên mất chúng, giờ đây không còn Mariette chăm sóc chúng nữa. Ông đi vào nhà bếp, trở ra với một đĩa bắp, tiến vào sân gia cầm. Lũ bồ câu bay đến đậu trên vai, trên cánh tay ông, chúng mổ vào đĩa bắp. Ông vuốt ve chúng. Chúng vẫn mải mê ăn. Chúng không còn nhớ đến Mariette nữa. Hết rồi! Miễn là có một bàn tay mang thức ăn đến cho chúng, trí nhớ nhỏ nhoi của chúng sẽ không bao giờ nhớ đến kẻ đã biến mất nữa. Chúng không biết đau khổ là gì. Chúng sẽ tiếp tục sống y hệt như trong quá khứ, mà không hề cảm thấy thiếu thốn một cái gì hết… Một cơn giận dữ bỗng xâm chiếm lấy ông mà ông không thể giải thích được. Ông ném cái đĩa xuống đất một cách thô bạo, xua đuổi những con vật không xứng đáng được thương yêu này, những con vật không hề biết nhớ thương là gì. Ông buồn bã bước ra, trở vào nhà.
Ông muốn bỏ đi ra ngoài. Ông sợ đến cả mỗi bước chân của ông trong ngôi nhà có quá nhiều kỷ niệm của đứa con gái đầu lòng. Và ông cũng sợ cả con đường, sợ cái trống vắng ghê gớm của con đường. Ông luộc cho mình một quả trứng, rồi bỏ quên nó trên bếp gas cho đến khi ông thấy mùi khét… Vả lại, ông không thấy đói. Sau cùng, dưới sự thúc đẩy của một nhu cầu tự giày vò mình, ông nặng nề leo lên lầu để nhìn lại căn phòng của Mariette. Ông đứng ở đó thật lâu, đưa mắt nhìn xung quanh, không sờ mó vào một vật gì hết. Tất cả đều được sắp xếp có thứ tự, ngăn nắp. Một căn phòng đúng theo ý muốn của Mariette. Một cách chậm chạp, ông tiến đến bàn trang điểm nhỏ kiểu Louis XVI, có tấm gương lớn hình vuông hơi xiên một chút, nơi cô thường ngồi chải tóc mỗi buổi sáng.
Ông quỳ xuống trên tấm thảm. Bằng một cử chỉ máy móc, ông mở một trong những ngăn kéo ra. Một mùi thơm dịu nhẹ của bột phấn và hoa oải hương tỏa ra, làm tim ông chới với chìm đắm trong muôn ngàn kỷ niệm. Trong ngăn kéo, những đồ vật nhỏ của Mariette được sắp xếp tỉ mỉ trong các tờ giấy mỏng: một cái ví, một cái xắc bằng da cá sấu, vài cổ áo bằng ren, một bó hoa giả màu trắng. Có cả những vật kỷ niệm nữa: một lọn tóc đen của Fabienne, chiếc nhẫn cưới của người mẹ, băng tay hiệp thông 1 của Michel, trong một chiếc hộp các-tông…

1. Dải băng đeo trên tay áo khi làm lễ hiệp thông ở nhà thờ.


Doutreval hít mùi thơm dịu dàng của hoa oải hương. Từ đây về sau, mãi mãi ông sẽ không còn bao giờ được ngửi trên làn da tươi mát của Mariette cái mùi thơm dịu dàng, kín đáo này, hòa lẫn với mùi xà bông và mùi vải tinh khiết… Mãi mãi ông sẽ không còn được trông thấy cô đứng trên ghế, mái tóc buộc chặt trong một cái khăn, và gương mặt lấm lem bụi, quét sạch các mạng nhện trên cầu thang… Mãi mãi ông sẽ không còn được nghe chất giọng trẻ trung, đầy ánh mặt trời và sức sống của cô hát lên những bản tình ca.

Nếu bảo như thế là yêu thương
Thì đúng vậy, tôi yêu, tôi đang yêu…


Ông tiếp tục mở những ngăn kéo khác ra. Các bánh xà bông có mùi hoa oải hương… Một cuốn tạp chí dạy nấu ăn, được chép lại bằng tay cách đây rất lâu, lâu lắm rồi… Chữ viết hãy còn nguệch ngoạc như của một cô bé. Lúc ấy Mariette chưa quá mười bốn tuổi. Đó là lúc mẹ cô vừa mới qua đời. Cô đã nhận gánh nặng gia đình từ rất sớm… Sự thật, cô đã không được sung sướng gì cho lắm, Mariette còn quá trẻ mà đã phải quán xuyến công việc nội trợ. Vào mỗi thứ Bảy, cô đã run sợ biết bao khi đem cuốn sổ chi tiêu đến cho ông kiểm soát. Và ông, ông đã mang một vẻ mặt nghiêm khắc. Ôi! Ngu quá! Bây giờ thì cô đã chết! Đột nhiên ông nhớ đến món nữ trang, một cây kẹp tóc bằng vàng ông đã mua ở Hòa Lan cho con gái. Cô sẽ không có nó nữa, không bao giờ có nó nữa, ông sẽ không bao giờ có thể tặng cho con gái mình một niềm vui sướng nào nữa! Hết rồi! Ông nghĩ đến tất cả những cái vui sướng nhỏ nhoi mà ông có thể đem đến cho cô, tất cả những gì ông có thể làm để cho cô được hạnh phúc, nhưng ông đã không làm. Ông nhớ lại những sự nghiêm khắc và những lời rầy la của mình, nhớ lại tất cả những gì ông đã đòi hỏi ở cô, tất cả những niềm vui chính đáng mà ông từ chối không cho cô hưởng… Tất cả những sự ngu ngốc ngăn cản không cho chúng ta đến với con cái chúng ta, hôn nó, vuốt ve nó, cưng chiều nó, vì nó đã hơi lớn một chút, vì chúng ta không còn thói quen đó nữa, vì chúng ta đã trở nên quá già cỗi, quá nghiêm trang, vì một sự ngu ngốc vô lý không cho chúng ta dám biểu lộ cho nó thấy tất cả tình thương yêu của chúng ta! Và bây giờ Mariette đã chết, ông không thể làm được gì cho cô nữa. Phải chi cô đã nhận được món nữ trang đó, niềm vui nhỏ cuối cùng đó, trước khi rời xa ông vĩnh viễn! Việc cô con gái không bao giờ nhận được cây kẹp tóc khiến cho tấm lòng người cha đau xót ghê gớm. Tại sao ông đã không nghĩ đến việc ghim nó lên chiếc áo dài tẩm liệm của cô?… Ông hối tiếc điều này một cách cay đắng. Ông không tin vào cái gì hết, ông biết rằng sau cái chết không có gì cả, không có gì hết, trừ sự thối rữa của thể xác. Thế nhưng ông sẽ hài lòng biết bao nếu được nhìn thấy Mariette ra đi với chiếc kẹp tóc của cô. Đã quá trễ rồi!

Image


Ở tận cùng ngăn kéo còn có một hộp bằng các-tông. Ông mở nó ra. Đó là một con búp bê đã cũ. Con búp bê của Mariette. Bằng hai bàn tay run rẩy, ông nhấc nó ra khỏi hộp. Và ông nhớ lại, ông nhớ lại một Mariette hãy còn bé, nhớ lại cái ngày ông đã đem con búp bê đó từ Bỉ về cho cô, cái ngày mà cô đã sung sướng vô cùng, sung sướng đến điên cả người… Ông hình dung lại Mariette ẩm con búp bê trong tay, chăm sóc nó, mặc quần áo cho nó, ru nó ngủ, đi đâu cũng ẵm nó theo. Con búp bê bằng gỗ, thế mà cô đã thương yêu nó với tất cả tấm lòng mình. Nó, một khúc gỗ không biết suy tư, không biết đau khổ, không biết rằng cô đã chết… Ông hình dung lại chính ông ở lứa tuổi hai mươi, một người chồng trẻ, ngây thơ, vui tươi, đầy niềm tin nơi cuộc sống, tin tưởng vào sự tốt đẹp của cuộc sống và của con người, nắm chắc tương lai trong tay… Ông nhớ lại vợ ông, nhớ lại Mariette lúc cô mới lên một tuổi, với mái tóc vàng mịn như tơ, đôi mắt xanh, hai má xinh xắn hồng hào. Ông hình dung lại đứa bé gái với đôi mắt trong xanh chập chững bước những bước đầu đời, loạng choạng băng qua phòng ăn, tiến về phía ông, hai tay đưa ra, miệng vừa nở một nụ cười vừa nói bập bẹ.
- Ba… ba…
Và cái kỷ niệm ấy xé nát lòng ông. Vô số những hình ảnh, những tiếc thương, những hối hận, những đau khổ tràn ngập tâm hồn. Ông đẩy ngăn kéo lại với một tiếng nức nở nghẹn ngào. Và quỳ gối trên tấm thảm, với con búp bê ôm trong tay, một khúc gỗ vô tri vô giác đáng thương. Ông khóc thổn thức, như chưa bao giờ từng khóc trong đời, kêu lên một cách tuyệt vọng:
- Mariette! Mariette! Con gái bé nhỏ của ba! Mariette…

(Hết tập 1)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 09 Oct 2022

Tập 2 Tự trói buộc…


(Phần thứ nhất)


Chỉ có hai thứ tình yêu: Tình yêu chính bản thân ta và tinh yêu những người khác.


1


Michel chuẩn bị cho những kỳ thi cuối cùng và hoàn tất luận án ra trường. Từ cuối tháng Năm, Mariette không còn đến thăm và viết thư cho anh nữa. Sự im lặng đột ngột này khiến anh lo lắng.
Trong luận án, anh muốn nêu những nhận định về trường hợp lành bệnh của Évelyne, nhưng Domberlé khuyên anh không nên làm thế.
- Đề tài này không được cổ điển lắm. Cậu có nêu ra cũng vô ích, hãy tìm một đề tài ít táo bạo hơn.
Thế là Michel đành bằng lòng với bản nghiên cứu về chứng ứ huyết trong thùy trái của gan, thường xảy ra ở những người bị bệnh lao với các triệu chứng đặc trưng như bao tử bị suy yếu, các đầu móng tay nổi đỏ và phổi bên phải bị nám. Điều này phù hợp với kết luận của Domberlé: “Bệnh lao thường là kết quả của tình trạng ăn uống quá độ.”
Lúc này, sau những giờ làm việc tại phòng thí nghiệm của Norf, Michel đến viện điều dưỡng Saint-Cyr ở đó cả ngày bên cạnh vợ, các bệnh nhân lao phổi hoặc Domberlé. Thỉnh thoảng, Tillery và gia đình cũng đến đó bằng chiếc xe “hai không một” được chính tay Tillery sơn lại một cách mỹ thuật.
- Nước sơn xịn đó! - Tillery vừa nói vừa gõ ngón trỏ lên hông chiếc xe bị móp méo khá nhiều. - Đây là quà tặng của một anh bán dược phẩm, một khách hàng biết ơn. Còn vải bọc nệm là của bà hàng xóm có mấy đứa con bị bệnh sốt đỏ da cấp tính mà tao đã chữa trị trong nhiều đêm liền.
Tillery sống hạnh phúc với Choute cùng hai con trong cảnh túng thiếu và những cuối tháng cạn tiền, sự lạc quan, lòng tốt của anh chàng che giấu dưới những lời nói phét cố hữu! Vợ của Tillery nuôi hai đứa con một cách tuyệt vời, không thèm để ý đến vô số lời chỉ dẫn của chồng.
- Ngay cả việc rửa ráy cho chúng, tao cũng không làm được, - anh ta thú nhận với Michel. - Bàn tay tao run lên! Mở bụng mày, từ cổ họng xuống đến háng, còn dễ hơn nhiều, Michel ạ.
- Chắc chắn như thế! - Michel đáp.
Cũng chính tại viện điều dưỡng, Michel nhận được thư của Belladan, cựu sinh viên nội trú ở bệnh viện Bình Đẳng. Belladan đã bỏ nghề y khoa. Anh không kiếm sống được bằng nghề. Là quán quân của các kỳ thi, Belladan học sâu biết rộng hơn Tillery nhiều, nhưng anh lại sống lay lắt trong cùng một khu ngoại ô ở Angers, nơi mà trước kia Tillery - với vốn kiến thức ít ỏi, tính tình vui vẻ và hiểu tâm lý người bình dân - đã hành nghề rất phát đạt. Belladan vào làm trong ngành Bảo hiểm xã hội, với đồng lương cố định, và chỉ tiếp xúc với những con số. Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, một đoạn trong lá thư có câu:
“Kể từ sau cái chết của chị Mariette nhà mày…”
Thế là Michel mới biết Mariette đã chết. Anh viết thư hỏi cha, nhưng Doutreval không trả lời. Michel phải hỏi Belladan về những chi tiết của cái thảm họa đó.
Nỗi đau khổ của Michel gia tăng với những mối lo âu về vật chất. Mariette đã giúp đỡ anh rất nhiều. Bây giờ, sự giúp đỡ đó không còn nữa. Anh hy vọng sẽ còn làm việc thêm một hay hai năm nữa bên cạnh Norf, sau đó xin vào làm trong một viện điều dưỡng. Giờ đây, vì tiền lương không đủ sống, anh cần phải bảo vệ cho xong luận án, và ra hành nghề càng sớm càng tốt, cố gây dựng khách hàng để kiếm sống.
Ở viện điều dưỡng, Domberlé theo đuổi công trình giữa sự thờ ơ lãnh đạm và thái độ không thấu hiểu của mọi người. Các bệnh nhân gây cho ông nhiều chuyện bực mình. Vì ông không cho họ ăn thịt tươi nữa, họ than rằng ông muốn họ chết đi để có nhiều giường trống. Họ ních vào bụng các thức ăn độc hại được các đồng lõa từ bên ngoài mang vào, hay được ném qua vách tường. Rất nhiều lần “những kẻ dựa thế chính trị”, những kẻ được vào viện điều dưỡng nhờ một ân huệ, nhờ sự gửi gắm của dân biểu hay nghị viên hội đồng thành phố, đến than phiền với ông giám đốc. Thế là ông này hoảng sợ - bởi vì chính ông ta cũng phụ thuộc vào ông dân biểu hay nghị viên nọ - bèn “quạt” Domberlé một trận, buộc phải cho áp dụng phương pháp ăn uống như tất cả mọi người. Trong khu trẻ em, Domberlé không cho các em dùng những món đậu khô nghiền nhừ, đồ hộp, cá, các loại mứt chua; nghĩa là tất cả những món ăn mà các bác sĩ khác thường ghi toa cho các em! “Ông lấy quyền gì để đòi hỏi quá nhiều pho mát, khoai tây và cải xà lách? Ông phá hoại ngân sách! Vì lỗi lầm của ông, ngân sách bị đe dọa thâm hụt! Điều này không thể nào chấp nhận được!” Người ta đã cự nự ông như vậy. Giờ đây Domberlé không cần thiết phải tranh cãi nữa. Với bệnh nhân nào đòi ăn thịt và dùng các loại thuốc công phạt, ông thỏa mãn họ ngay. Nhưng với các bệnh nhân muốn nghe theo ông, ông dọn cho họ một bàn ăn riêng. Sau một thời gian, khi thấy sức khỏe của những người ngồi ở bàn ăn này được cải thiện, một số bệnh nhân khác bắt đầu tin tưởng ông, nhất là khi họ bị một cơn đau dữ dội, như chứng xuất huyết, chứng thổ huyết. Thế là họ cũng chịu nghe lời ông.
Nhưng những bệnh nhân mà Domberlé chăm lo nhiều nhất là các em bé. Chúng rất đông. Thủ đô Paris gửi đến viện điều dưỡng những cặn bã đáng thương của một nền văn minh hưởng thụ. Đó là các em bé nhà nghèo, từ thuở nằm nôi đã được cho bú một thứ sữa có pha rượu “áp-xanh” cho dễ ngủ, rồi được nuôi dưỡng bằng bánh mì, rượu chát đỏ và xúc xích. Hậu quả là có những em bé mới bốn hay năm tuổi đã mắc bệnh lao. Các em bé nhà nghèo ở vùng ngoại ô, các em bé - con của những ngoại kiều di cư đến tìm việc làm - sống chen chúc trong các căn nhà lụp xụp, thiếu vệ sinh, bị nhiễm bệnh. Những em bé của sở Cứu tế xã hội - khoảng hai mươi em, hoặc là sẽ chết ở viện điều dưỡng vì bệnh lao hoặc sẽ trở về sống trong những viện cứu tế, nếu chúng khỏi bệnh. Đối với Michel, sự ra đi của chúng bao giờ cũng là một cảnh thương tâm. Điều an ủi là anh biết chúng sẽ được Nhà nước nuôi dưỡng tử tế. Nhưng những em khác, những em bé thuộc vùng ngoại ô Paris, vừa lành bệnh trở về nhà lại phải ăn xúc xích với rượu chát đỏ, và la cà ở các rạp chiếu bóng, các quán rượu. Bạn có cảm giác là đã phải bỏ ra một nỗ lực lớn lao vô ích khi chữa lành bệnh cho một trong những em bé đó. Để làm gì? Bởi vì rất thường xuyên, chừng ba tháng sau, chúng trở lại với bạn và chết ngay tại đây!
Điều lạ lùng nhất là chúng không có vẻ gì buồn bã, những đứa trẻ đáng thương ấy. Chúng không ý thức được cảnh khốn khổ của mình. Chúng chơi đùa, cười nói, la hét y hệt như trong một sân chơi của trường học. Những ngươi mẹ đã quên chúng, không đến thăm chúng nữa, hoặc từ chối không chịu đem chúng về nhà. Bây giờ họ đã có một người tình, và người tình đó không thích trẻ con.

Image


Bị kẹt giữa ông quản lý tài chính, ông giám đốc và những người đầu bếp, Domberlé cố xoay xở để tránh cho bọn trẻ đó những thức ăn độc hại. Ông lấy tiền của mình mua một ít sô-cô-la. Vài sinh viên nội trú bỏ tiền ra mua một thùng chuối, trái cây, bí mật mua chuộc người trưởng đầu bếp để được cung cấp thêm khoai tây và cải xà lách.
Để các em bé được hít thở không khí trong sạch và tập thể dục, các sinh viên nội trú đã quét dọn một đám đất bỏ hoang. Không có quần đùi, Domberlé dùng những miếng vải băng để làm quần xi-líp cho các bé trai, quần lót và áo ngực cho các bé gái. Ông sai Michel đi mua những chiếc mũ lỗi thời với giá năm franc một tá. Dưới những chiếc mũ đó, các em bé trông giống như những cây nấm lớn sặc sở. Domberlé nhìn chúng, cười một mình, vẻ sung sướng.
Domberlé cố gắng cho những bệnh nhân bé nhỏ đó áp dụng phương pháp tập thể dục tự nhiên. Thế là cây cột dây thép cũ được dùng làm cột leo. Domberlé đỡ mông các em bé nhỏ nhất, đẩy chúng leo lên. Sợi dây thắt nút - vì không có cây xà ngang để treo lên - được móc bên trên một cánh cửa mở. Thế là trong sự thiếu thốn và trong niềm vui, Domberlé cứu sống những em bé bằng mấy phép lạ: Không khí trong lành, ánh nắng mặt trời, thức ăn tự nhiên và tập thể dục.
Trong trại bên cạnh, các em bé vừa mới vào đã bắt đầu chịu sự hành hạ của mũi kim và dao mổ. Ngay lúc mới đến, chúng nhận một loạt những mũi tiêm lao tố để xem phản ứng da. Vài ngày sau, lại những mũi tiêm khác để ngừa bệnh bạch hầu và bệnh phong đòn gánh. Em nào cũng phải tiêm vắc-xin, không cần bàn cãi, không cần khám bệnh, mặc dù từ lâu, rất nhiều bác sĩ đã nói đến những nguy hiểm của vắc-xin ngừa bệnh bạch hầu. Trong khoảng thời gian đó, người ta bắt các em nuốt một ống cao su dài, để hút chất nước trong đó ra xem có trực khuẩn không. Con trực khuẩn! Họ luôn luôn bị ám ảnh bởi con trực khuẩn, như thể nó phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của những đứa nhỏ! Và nếu như tìm ra trực khuẩn thì hàng tháng họ lại thi hành cực hình này.
- Điều tôi không hiểu được, - Michel nói - đó là người ta không chịu nghe và làm theo ông nhiều hơn. Khi tôi thấy phổi được lành nhờ một phương pháp dinh dưỡng trong sạch và thích hợp với từng cá nhân, những hầu hạch bị sưng đã xẹp xuống chỉ vì không ăn nhiều thịt và chất chua, nhờ các thức ăn tổng hợp với nồng độ nhẹ, không cần tiêm thuốc, uống thuốc công phạt, không cần phẫu thuật… tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao suốt hai mươi năm qua, công trình của ông vẫn chưa được chấp nhận và đề cao.
Domberlé mỉm một nụ cười buồn.
- Không được, Doutreval ạ. Sẽ còn lâu, lâu lắm! Nền y khoa chính thống còn phải gặp vô số những thất bại, sau cùng nó mới hiểu được rằng nó đang bị mắc trong vòng luẩn quẩn và tới lúc đó, nó mới chấp nhận thay đổi toàn diện những quan niệm cũ. Tôi hy vọng như thế, tôi tin chắc như thế. Bởi vì sự thật bao giờ cũng thắng. Trong năm mươi năm nữa, tại các viện điều dưỡng, ngươi ta sẽ chữa trị như tôi đã chữa trị cho vợ cậu. Lúc đó, tôi không còn sống để trông thấy điều này. Nhưng cần gì đâu.
- Năm mươi năm! - Michel thốt lên. - Tại sao phải cần đến năm mươi năm?
- Bởi vì, trước hết, nhiều bác sĩ rất thỏa mãn với những kiến thức ở nhà trường. Điều này cũng hợp lý thôi. Phải trải qua hai mươi năm hành nghề, người bác sĩ mới bắt đầu nghi ngờ hiệu quả của những kiến thức học được ở trường. Lúc đó, họ mới chịu tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu, làm các thí nghiệm. Nhưng người bác sĩ thiếu tiền bạc, thiếu thời gian, nhất là thiếu “cái may mắn” bị mắc bệnh như tôi… Nếu những vị thầy danh tiếng nghe tôi, thì đám “bác sĩ đệ tử” của họ sẽ làm theo họ ngay. Nhưng còn lâu các vị đó mới biết đến tôi. Tôi không là gì cả, không chức tước, không có ghế giáo sư, không có học trò, không có tiền bạc hay thế lực chính trị. Tôi bị chìm trong đám đông vô danh.
- Còn những cuốn sách của ông?
- Những cuốn sách của tôi ấy à! Chẳng thấm gì đâu trong vô số cuốn sách được xuất bản. Xuất bản sách! Đó là ước mơ của mọi người ngày nay. Họ cho xuất bản bất cứ sách gì, miễn là gây được tiếng vang, cốt đạt được danh vọng, tiền bạc… Trong cái biển sách và tạp chí được xuất bản này, các bác sĩ có thể đọc những gì? Chỉ một hay hai tạp chí. Những công trình được đóng dấu bởi một cái tên lớn…
- Còn ngành báo chí?
Lần này, Domberlé cười lớn.
- Chúng ta đừng nói đùa nữa, Doutreval à. Vào thời buổi này, có ông chủ báo nào điên rồ đến độ cho phép một bác sĩ tấn công - trên báo của mình - tất cả những gì được chính tờ báo quảng cáo và làm giàu cho nó? Các loại rượu, thuốc lá, các chất kích thích, mấy thứ thuốc nhảm nhí… Nghĩ cho kỹ, chất độc của thời đại chúng ta là ở đó. Trong cái ngành báo chí nô lệ cho tiền bạc, những tờ báo được các công ty kỹ nghệ lớn mua chuộc để đầu độc thể xác và tâm hồn của quần chúng. Cái khó là quần chúng cũng không chịu chấp nhận việc những thói quen ăn uống, hoạt động và sinh hoạt của mình bị chỉ trích… Theo bản năng, con người bác bỏ một kỷ luật khắc khổ như thế. Và rồi có quá nhiều kẻ sống nhờ vào sự đầu độc công chúng - một cách ý thức hay vô ý thức - sẽ bị mất quyền lợi. Những kẻ đó canh chừng để bóp nghẹt tiếng nói của các đầu óc sáng suốt. Và ngay cả công chúng, họ cũng sẽ chống lại tôi! Họ chỉ đến với tôi khi nào họ bị bắt buộc, bị cưỡng bách bởi bệnh tật và cái chết đang đe dọa. Người bác sĩ nào mong muốn giải thoát con người khỏi các độc tố trong cơ thể, đem họ trở về cuộc sống lành mạnh xa chốn đô thị; người bác sĩ nào muốn đến với quần chúng - một đám quần chúng đáng thương, bị lóa mắt trước những lời hứa hẹn, phỉnh phờ của những tên chăn chiên xấu xa - và khuyên bảo họ nên tự kiềm chế, sống điều độ, muốn họ giảm bốt lượng rượu và thức ăn kích thích; người bác sĩ nào từ chối không cấp cho họ - khi họ bị bệnh - những loại thuốc công phạt thật mạnh để nhanh chóng dập tắt cơn đau của họ, mà khuyên họ dùng những loại thuốc tự nhiên và êm ái để giải độc từ từ… thì người bác sĩ đó liền bị họ hò hét phản đối, bị họ xem như một con lừa ngu đần.
Không, Doutreval, anh đừng ngạc nhiên về cách đối xử của họ với tôi. Đó là điều tất nhiên, không thể tránh được. Vả lại, phải chăng đó là vai trò muôn thuở của người bác sĩ chân chính trên thế gian này? Làm điều thiện và bị nguyền rủa vì chính điều thiện mình đã làm. Tôi nhớ đến một anh chàng tên là Émile…
- Émile nào?
- Một người mà tôi muốn cứu sống. Anh ta tên là Émile, làm lao công ở viện điều dưỡng. Vào thời đó, tôi làm phụ tá ở đấy. Một buổi sáng, tôi đang ở trong trại thì các sinh viên nội trú chạy đến báo:
“Émile đã chết rồi.”
“Chết rồi à?”
“Émile thắt cổ trong phòng ngủ. Tử thi sẽ được đưa đến đại giảng đường để khám nghiệm.”
Tôi chạy đến phòng ngủ, đi cùng với hai người khiêng cáng. Tôi cho cởi quần áo của Émile ra, nhúng chiếc khăn vào thùng nước lạnh rồi chà xát mạnh lên ngực anh ta. Mười phút, mười lăm phút. Các sinh viên nội trú nhìn tôi, cười nhạo:
“Nào, thật là vô lý! Ông không thấy anh ta chết rồi sao? Chúng tôi đã làm tất cả mọi cách: kéo lưỡi, hô hấp nhân tạo!”
Tôi vẫn tiếp tục. Khi mệt mỏi, tôi nhờ người khác thay thế. Rồi tôi lại tiếp tục. Làn da của Émile bị trầy xước dưới chiếc khăn ướt. Đột nhiên, khuôn mặt của Émile hồng lên từ từ, hắt hơi một cái. Rồi, trong một câu nói nhỏ lầm bầm của người say rượu, anh ta càu nhàu:
“Các người chua chịu ngưng quấy rầy tôi sao?” - Đó là câu cảm ơn duy nhất của anh ta. Còn những sinh viên nội trú thì chỉ nói: “Chắc là cơn ngất xỉu không trầm trọng lắm nên một chút nước lạnh có thể làm anh ta tỉnh lại được!”
Ban quản lý bệnh viện gay gắt trách tôi vô cổ quấy rầy hai người khiêng cáng, và cảnh cáo tôi đừng tái diễn trò này nữa. Anh cười, phải không? Đó là sự thật, tôi không bịa thêm một chi tiết nào cả.
Tôi vẫn thường nghĩ rằng câu chuyện nhỏ này là câu chuyện của cả cuộc đời tôi. Tôi chữa lành bệnh với một ít nước lạnh, không khí trong sạch, thức ăn lành mạnh. Nhưng không ai tin tôi, bởi vì những phương tiện này quá đơn giản, quá tự nhiên, quá dễ dàng. Tất cả mọi người ai cũng có thể làm được. Tất cả những kẻ bị tôi chỉ trích về những lề lối làm việc cổ hủ, những kiến thức phức tạp hay những công cuộc làm ăn nhiều lợi lộc - nhưng độc hại - đã không tha thứ cho tôi về điều này!

Domberlé sống một cuộc sống ẩn dật và làm việc không ngừng. Ông thức dậy vào khoảng bảy giờ sáng, biên soạn sách, trả lời các thư từ. Xong, ông đến viện điều dưỡng làm việc, về nhà để ăn trưa với một ít xà lách, lúa mì sống, lúa mì nấu, khoai tây nấu nhừ với bột, một chút pho mát, một trái chuối và một cái bánh trứng. Trong khi ông nuốt món xúp đặc hỗn hộp mà người giúp việc hâm lại không được nóng lắm, và thường được bạn bè gọi là món “xúp chó”, thì các học trò, vài bác sĩ hành nghề trong những vùng lân cận đến tìm ông để trình bày các trường hợp bệnh khó chữa và hỏi ý kiến.
- Thưa ông, bé gái này không hết sốt mặc dù tôi đã cho em bé ăn một ít thịt.
- Người sản phụ của tôi không bình phục. Những đường nứt nẻ ở *…
- Ông nghĩ thế nào về chế độ ăn uống mà tôi đã chỉ định cho người bị bệnh đái tháo đường này? Xin ông hãy nhìn qua các tờ thực đơn.
Và Domberlé nuốt hai miếng thức ăn, cầm mấy tờ giấy, dùng bút chì đánh dấu, suy nghĩ một lúc, rồi giải thích, sửa chữa, trách mắng, trấn an, ăn thêm hai nĩa nữa, lau miệng và tiếp tục bài giảng.
Ăn xong, ông nằm nghỉ một giờ. Sau đó, ông tiếp các bệnh nhân cho tới năm giờ. Một giờ làm vườn, một bữa ăn tối gồm rau tươi, khoai tây và trái cây, rồi Domberlé lại làm việc cho đến khuya. Ông đọc các tạp chí, theo dõi các tiến bộ, các tìm tòi, các khuynh hướng mới của nền y khoa chính thống: nội tuyến học, vắc-xin, các phép trị bệnh, phân tâm học, phép trị liệu thần kinh giao cảm… Như thế hai mươi năm nay, Domberlé thấy hết thuyết này đến thuyết khác được dựng lên, và suốt đời ông tranh đấu chống lại những thuyết sai lầm, khuyên các bệnh nhân nên đề phòng chúng, tiên đoán không bao giờ sai về sự sụp đổ của chúng… Và khi những “tư tưởng mới”, những say mê nhất thời đã qua đi, thì một hệ thống tư tưởng dối trá khác lại được xây dựng lên trên những đổ nát của hệ thống trước, lôi cuốn sự chú ý của mọi người, che giấu sự thật một lần nữa. Và Domberlé lại tiếp tục cuộc tranh đấu.
Trước thái độ thiếu hiểu biết của ban giám đốc, ông phải thực hiện những phép lạ ở viện điều dưỡng mà không có một đồng xu trợ cấp nào. Ông phải viết báo, tờ báo nhỏ mà ông cho xuất bản để làm cầu nối liên lạc với các bệnh nhân. Ông làm đủ thứ, từ viết bài đến việc lựa chọn phông chữ, in hình ảnh, sửa bản in. Ông cho tái bản những cuốn sách của mình sau khi đã hiệu đính và bổ sung. Sau cùng, ông phải trả lời thư từ, một công việc làm ông mệt nhoài; Đôi khi ông phải thức trọn đêm để viết, ngồi trên giường với một tấm chăn khoác trên vai và một miếng “các-tông” đặt trên đầu gối. Ông phải gửi lời khuyên đến những người đang trong cảnh cô đơn và sợ hãi đối với nền y khoa cổ điển, với những mũi tiêm, những phương pháp trị liệu mạnh của nó, ông phải bảo vệ họ, không để họ rơi vào những sai lầm nặng nề, hướng dẫn họ từ tuần này sang tuần khác, đôi khi trong nhiều tháng liền. Một cách đều đặn, họ gửi đến ông những tờ thực đơn, kèm theo những lời nhận xét. Nhìn các biểu đồ nhiệt độ của họ, Domberlé sửa đổi thực đơn, thêm món này vào, bỏ món kia ra, định lượng các món. Thường thì họ không thể trả thù lao cho ông được. Đôi khi họ gửi kèm một con tem để ông gửi thư trả lời. Domberlé nâng đỡ tinh thần họ từng ngày, có khi gần như từng giờ, để giúp họ sống, hay làm cho cái chết của họ được êm dịu. Cuộc sống của họ như gắn liền với cuộc sống của ông. Khi họ chết, bệnh án của họ được sắp xếp chung với những bệnh án khác đang chờ đợi. Và kẻ đã chết ngày hôm qua có lẽ sẽ giúp cứu sống một kẻ khác trong mười năm nữa.
Có những bác sĩ viết thư xin ông cho họ những lời giảng giải hoặc chỉ dẫn. Domberlé soạn ra cuốn Nghệ thuật Y khoa dành cho họ. Có những bệnh nhân muốn ông chỉ cho họ cách nấu những món ăn dịu nhẹ và có nồng độ loãng. Thế là Domberlé vào nhà bếp, định lượng bột, đường và trứng. Ông cũng biên soạn sách nấu ăn cho người bệnh và sách hướng dẫn làm vườn dành cho những người yêu thích vườn tược. Ông thử trồng trong vườn những loại xà lách tốt nhất, những giống táo và lê ngọt, những giống anh đào và mận không có vị chua, không làm tiêu hao khoáng chất. Một ông già công nhân hỏa xa về hưu phụ giúp ông làm vườn, và một cựu thư ký bị bệnh bại liệt ở trại những người mắc chứng nan y đến - trên chiếc xe lăn - để chép bản thảo cho ông. Không tiền bạc và sức lực, ông đã thực hiện được những điều kỳ diệu với số tiền chắt chiu nhỏ nhoi. Bất cứ lúc nào và ở đâu, mỗi khi có dịp thuận tiện, ông nghỉ ngơi trong hai hay ba phút, đôi mắt nhắm nghiền, hai chân duỗi thẳng, và sau đó ông đủ sức làm việc lại trong nửa giờ.
- Con người đó đang tự giết mình dần dần, - Michel nghĩ. - Cho cái gì? Cho một sự thật. Ông biết là ông đang tự giết mình và ông chấp nhận nó để làm những điều tốt dẹp! Cho ai? Cho một số đông ngươi xấu xa đang nhục mạ ông, khinh thường và thù ghét ông. Nhưng mặc kệ, ông vẫn cứ làm. Vì sao? Vì có một điều mà con người thà chết còn hơn phải chấp nhận, ấy là việc giết chết nơi mình một sự thật. Cái chết không còn gì ghê gớm nữa đối vối kẻ nắm chắc được một sự thật.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Thể Xác Và Tâm Hồn - Maxence Van Dek Meersch

Postby bevanng » 13 Oct 2022

2


Một hôm, có người đàn bà đến chỗ ông xin khám bệnh. Bà ta chẳng hiểu gì cả và phản đối những yêu cầu khắt khe của chế độ ăn uống cũng như những hy sinh mà Domberlé khuyên bà ta phải chấp nhận. Họ đã cãi vã (thỉnh thoảng vẫn có những màn kỳ lạ như vậy diễn ra trong phòng khám bệnh của Domberlé). Sau cùng bà ta kêu lên:
- Đồ điên! Đồ điên! Ông chỉ là một kẻ điên rồ! Ông chỉ có một mình. Không ai biết đến ông! Bơ vơ một mình ở đây! Và ông bảo là ông nắm được sự thật! Nhưng ông hãy nhìn lại ông xem nào! Ông chỉ trơ trọi một mình. Trơ trọi một mình!
Bà ta cười vào mặt ông.
- Còn tôi, - Domberlé nói với Michel - trong lúc bà ta gào lên như thế, tôi thầm nghĩ: À phải! Đúng vậy. Tôi là như thế đó. Tôi trơ trọi một mình. Nhưng chính bởi vì tôi muốn biết sự thật mà tôi phải trơ trọi một mình. Đó chính là bằng chứng rằng tôi đã nắm được sự thật trong tay.
Một hôm, khi đến nhà Tillery, Michel gặp Seteuil và cả Santhanas.
Santhanas đã từ bỏ chuyên môn của mình. Anh ta không kiếm sống nổi. Quá nhiều cạnh tranh, quá nhiều bác sĩ hành nghề tại Paris và các thành phố lớn nơi mà thanh niên nào cũng muốn đến tìm việc, trong khi ở nông thôn lại thiếu bác sĩ. Giờ đây, Santhanas đã rơi xuống đáy. Anh ta cho một anh lang băm mướn bằng cấp và chức danh bác sĩ của mình. Anh lang băm chữa bệnh bằng phép thôi miên. Các bệnh nhân ra về, tin rằng mình đã lành bệnh. Dĩ nhiên, họ không còn cảm thấy đau đớn nữa, nhưng căn bệnh vẫn tiếp tục tàn phá nguy hại hơn, vì lẽ bây giờ người bệnh không còn cảm thấy chúng nữa. Trước đó, anh lang băm đã lãnh sáu tháng tù vì tội hành nghề y khoa bất hợp pháp, nên giờ đây anh ta khôn ngoan núp sau một tấm bình phong để hành nghề. Và tấm bình phong đó là Santhanas. Santhanas khám bệnh trước mặt “ông chủ” lang băm của mình; bề ngoài anh lang băm này không tiếp xúc với bệnh nhân, chỉ đóng vai trò cố vấn, nên không thể bị truy tố. Santhanas được trả công một trăm franc mỗi ngày với cái nghề làm “bồi” này. Anh ta bất cần, cười nhạo trong khi kể lại chuyện này cho Seteuil và Michel, hai người nghe mà cảm thấy ghê tởm đến mức thấy buồn nôn. “Ông chủ” của Santhanas, theo lời anh ta giải thích, rất cần đến anh ta. Santhanas lợi dụng điều này để tống tiền anh lang băm, bởi lẽ không dễ gì tìm được một bác sĩ y khoa chịu hạ mình làm nô lệ như thế.
Vợ Seteuil vừa mới qua đời, nhưng anh ta không đau khổ gì lắm, do vốn dĩ họ kết hôn không hẳn vì quá yêu. Anh ta được hưởng tài sản của vợ để lại, nhờ có đứa con trai mới vài tháng tuổi - người kế thừa hợp pháp gia tài của người mẹ.
Khi biết Michel muốn ra hành nghề, Seteuil đề nghị anh mở phòng khám bệnh tại một trung tâm kỹ nghệ ở miền Bắc, nơi anh ta đang hành nghề rất phát đạt. Một bác sĩ già ở đó vừa mới qua đời, để lại một chỗ trống. Seteuil muốn một người bạn của mình đến thay thế ông ta hơn là một người lạ. Đó là một vùng sát biên giỏi Bỉ, nửa thôn quê nủa thành thị, với một số nhà máy lớn thường xảy ra các vụ tai nạn lao động. Ngôi nhà không lộng lẫy, nhưng đàng hoàng. Michel nghe xong thì rất thích, hứa là sẽ đến xem.

Michel đi lên miền Bắc, tìm gặp Seteuil. Đó là khu ngoại ô của một thành phố kỹ nghệ, có năm, sáu nhà máy với một số cư xá công nhân, giữa những cánh đồng trồng củ cải đường, khoai tây và lúa mì. Từ thành phố Lille, bạn có thể đến đó dễ dàng bằng xe lửa. Căn nhà của ông bác sĩ già mà Michel muốn đến thay thế gần như nằm giữa thôn quê, ở đầu một con đường đất dài, hai bên mọc những cây liễu đã cắt bớt ngọn. Ngôi nhà có một khu vườn lớn bỏ hoang. Seteuil bảo đảm rằng Michel sẽ sống được ở đó. Và trong thời gian đầu, anh ta tìm cho Michel một chỗ làm thêm: Bác sĩ Becquerel, một dân biểu, cần tìm người thay thế ông trong vài tháng. Điều này sẽ đem đến cho Michel một số tiền rất quý báu, nhất là trong thời gian tới.
Michel đồng ý. Anh đến gặp người chủ căn nhà, ký giao kèo thuê nhà, rồi trở về Paris để cùng vợ chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Trước ngày lên đường, anh cùng Évelyne đến thăm Domberlé.
- Không, - người thầy già nói - cậu đừng cảm ơn tôi… Hãy truyền bá sự thật mà tôi đã vạch ra. Chỉ thế thôi. Và cậu sẽ thấy việc đó không dễ dàng đâu. Hãy viết thư cho tôi trong những lúc khó khăn. Tôi sẽ hướng dẫn cậu. Tôi hơi buồn một chút khi thấy cậu ra đi, một lần nữa, tôi lại cô đơn… Tôi đã quen có cậu bên cạnh. Nhưng thôi, đó là số phận của tôi.
- Thưa thầy, em cũng buồn, em rất tiếc…
- Đừng tiếc gì cả, - Domberlé nói. - Nỗi cô đơn và sự im lặng, đó là số phận của tôi. Còn cậu, đừng phụng sự hai người chủ, đến lượt cậu, hãy làm cái điều mà tôi đã muốn làm một cách cuồng nhiệt: Bảo vệ sự thật! Cậu sẽ bị nhục mạ, bị chê bai, bị nhạo báng và bị phản bội. Nhưng đồng thời cậu cũng sẽ nhận được những sự phù trợ kỳ diệu không thể giải thích được, và cậu sẽ được an ủi, được xoa dịu, được nâng đỡ tinh thần một cách nhiệm màu. Hãy luôn luôn nhớ lấy điều đó!
Ông đưa bàn tay to lớn lên. Trong đôi mắt sáng rực nồng nhiệt của ông, trên gương mặt râu ria xồm xoàm như của một nhà tiên tri lão thành, có một vẻ nghiêm trang, một vẻ long trọng.
Hãy chiến đấu đến chết vì sự thật,
Và Đức Chúa trời sẽ chiến đấu vì con!


Sau đó, Michel đến từ biệt giáo sư Norf. Người thầy già tiếp anh trong phòng thí nghiệm, cũng nói bằng một giọng hơi buồn:
- Dĩ nhiên… Tôi biết lắm… Đây là chuyện không thể tránh được… Nhưng thật đáng tiếc! Chắc chắn anh sẽ làm nên một điều gì có giá trị. Tôi sẽ tiếc anh mãi mãi.
Đã hai mươi năm rồi, Norf chưa bao giờ nói nhiều như thế.
- Thưa thầy, em cũng vậy, - Michel giải thích - em rất tiếc…
- Tôi đã quen rồi. Phải không, Vanneau?
Ông nở một nụ cười buồn với người lao công già trung thành.
- Tất cả những người trẻ đều rồi bỏ tôi. Luôn luôn như thế. Họ cần phải sống. Ở đây, lương rất thấp. Còn tôi! Một ông già điên rồ… Tôi đành chấp nhận… Vì khoa học… Vì công cuộc tìm tòi… Vợ tôi đã bằng lòng hy sinh… Nhưng đối với những người trẻ, thật là khó… Dù sao cũng rất tiếc. Tôi có những ý tưởng dành cho anh… Những điều mà anh có thể in thành sách…
- Thưa thầy, chính thầy nên xuất bản.
Norf mỉm cười.
- Thiên hạ xuất bản sách quá nhiều, thường là để kiếm một chút hư danh. Họ nhấn chìm người bác sĩ dưới những đống sách. Nếu người ta không có điều gì thật sự mới mẻ, thì nên im lặng. Sự hy sinh to lớn nhất của một nhà bác học, đó là sự im lặng.
Lần đầu tiên, Michel thấy một vẻ xúc động kín đáo trên gương mặt ông thầy già. Nỗi buồn của một người suốt đời đi tìm một sự thật khoa học, và vì chưa tìm ra được, đã chấp nhận hiến dâng cuộc đời mình một cách vô ích, bằng lòng với sự im lặng. Ông siết tay Michel, rồi quay lưng tiến đến ngồi trước kính hiển vi, và từ lúc đó ông dường như quên mất sự có mặt của anh. Michel ôm hôn ông già Vanneau, cảm động rơi nước mắt và ra đi.

Anh không bao giờ được gặp lại ông thầy già của mình nữa. Norf luôn luôn lo sợ tuổi già. Tuổi về hưu sẽ đuổi ông ra khỏi phòng thí nghiệm, buộc ông phải sống trong cảnh ăn không ngồi rồi, buồn chán và cô đơn, trong khi chờ đợi cái chết. Và cái chết nhân từ đã nhanh chóng đến giải thoát cho ông, nó đến ngay giữa lúc ông dang làm việc trong phòng thí nghiệm.
Thỉnh thoảng, Norf chữa bệnh miễn phí cho những người nghèo mà ông gặp ở bệnh viện. Một trong những người đó mắc bệnh ung thư, nhưng vì lòng trắc ẩn, Norf không để bệnh nhân biết điều đó. Anh ta để dành được một số tiền đủ để đến chỗ một bác sĩ khác. Người bác sĩ mới ra trường này hãnh diện với mớ kiến thức của mình:
- Anh bị ung thư, anh bạn. Những kẻ nào chữa bệnh cho anh trước đây đều là những tên tội phạm ngu xuẩn.
Rời khỏi phòng khám, người bệnh mua một khẩu súng lục. Tối hôm đó, anh ta đến phòng thí nghiệm và bắn bốn phát. Norf bị trúng đạn ngay giữa trán, ngã xuống bên chiếc kính hiển vi và tử vong chỉ sau hai phút. Tên sát nhân bị bắt, tự thắt cổ chết trong xà lim vài ngày sau đó.

Image

Bà Norf rời khỏi Paris, trở về quê sống nốt những ngày cuối đời, đau khổ trong cảnh nghèo túng. Một ông thầy mới đến thay thế Norf. Gia sản của ông thầy quá cố chỉ còn lại vài con chuột già trong những chuồng thỏ ở tầng trệt, và chúng cũng lần lượt chết theo ông. Không một bài báo, không một cuốn sách. Chỉ còn vài tờ giấy ghi chú để rải rác lộn xộn, và không ai tò mò đi tìm chúng. Khoa học có lẽ đã dành cho Norf cái phần chua cay, tiêu cực nhất: Nghiên cứu, tìm tòi những con đường đưa đến ngõ cụt để cho những kẻ khác đừng lạc vào đó nữa. Vả lại, nếu ông có khám phá được vài điều có ích, thì vì quá khiêm tốn, quá thận trọng, ông không muốn công bố một điều gì chưa hoàn toàn chắc chắn, nên hậu quả là không ai biết gì về những kết quả nghiên cứu của ông.
Tuy nhiên, trong một thời gian rất lâu, tư tưởng của Norf vẫn là linh hồn của phòng thí nghiệm giải phẫu bệnh lý. Khi ông thầy mới - giáo sư Gamblin, và cả người phụ tá của ông, bị bối rối, họ cũng làm như Michel: Họ gọi Vanneau đến, với một vẻ như không có gì quan trọng.
- Này, Vanneau, một trường hợp kỳ lạ, ông hãy đến xem! Thế nào? Ông đã trông thấy cái này lần nào chưa?
Vanneau nhìn vào ống kính hiển vi, rồi thận trọng theo thói quen, và núp sau uy tín của người thầy già quá cố, để không làm cho những kẻ kế vị ông phải xấu hổ, nói với vẻ cung kính:
- Thưa giáo sư, trong trường hợp này, tôi nhớ ông Norf có nói: “Đây là một chứng…”
Như thế, kiến thức của Norf vẫn còn sống trong phòng thí nghiệm, được ký thác một cách kỳ lạ nơi ông già Vanneau trung hậu.

Khi bình minh hãy còn lạnh lẽo, bao phủ bởi đám sương mù mùa hạ, xe lửa từ từ chuyển bánh, rời Paris đi lên miền Bắc, Tillery và Choute đã tiễn đưa những người bạn đến phút chót. Bây giờ, ngồi cạnh nhau trong toa xe, Michel và Évelyne nhìn những căn nhà gạch tồi tàn, những vách tường cao của các khu nhà dơ dáy màu đen đang lùi dần về phía sau, trong đó chen chúc bao nạn nhân đau khổ của nền văn minh kỹ nghệ. Montmartre dần dần hiện lên ở chân trời. Bên trên màn sương mong manh đã bị phân tán và xuyên thủng bởi các tia sáng mặt trời như những làn khói còn thơ thẩn lang thang trên một bãi chiến trường, ngôi nhà thờ vươn lên, rực rỡ một màu hồng, toa xe lửa hạng ba đông nghịt hành khách. Một người đàn bà đã mở cái gói dựng những lát bánh mì phết bơ và quả trứng luộc ra để ăn giữa lúc xe lửa dần tăng tốc, lao về miền Bắc.
Michel lặng thinh, tim hơi thắt lại. Anh nghĩ đến cuộc phiêu lưu mà anh đang dấn thân vào, nghĩ đến cuộc sống đầy khó khăn cho cả hai ngươi. Anh nghĩ đến nghề y khoa của mình, đến số khách hàng cần phải có, đến tiền bạc cần phải kiếm từng ngày, đến việc chăm lo sức khỏe cho Évelyne…
Michel lén nhìn Évelyne. Cô cũng nhìn anh, đặt tay mình lên tay anh và mỉm cười. Michel thấy lòng ấm áp. Cô không có vẻ gì sợ hãi. Thêm một lần nữa, anh hiểu được sức mạnh tinh thần của những con ngươi đã từng nếm mùi đau khổ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 24 guests