Liêu Trai Chí Dị

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Lấy vợ công chúa (Vân La công chúa)


An Đại Nghiệp, người Lô Long mới lọt lòng đã biết nói, bà mẹ phải lấy máu chó đổ cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai, chẳng ai bì kịp; lại thông minh học giỏi, nhiều nhà giàu sang muốn gả con gái cho.
Lúc trước, bà mẹ thường chiêm bao thần dạy:
- Con mụ sẽ lấy công chúa.
Trong bụng rất tin. Nhưng con đến mười lăm, mười sáu tuổi, chưa thấy linh nghiệm, khiến bà lần hồi ăn năn mình tin thần mộng quàng xiên.
Bữa nọ, An đang ngồi một mình, chợt có mùi thơm lạ sực nức, rồi một thị nữ đẹp chạy vào nói:
- Công chúa đến.
Vừa nói vừa trải chiếu dài trên mặt đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà, khít bên giường chàng ngồi. Chàng đang kinh ngạc hốt hoảng, thấy một thiếu nữ vịn vai hầu gái lững thững bước vào, y phục dung nhan sáng chiếu khắp nhà. Hầu gái lấy gối thêu, nệm gấm lót trên giường, rồi đỡ cô thiếu nữ ngồi xuống.
An luýnh quýnh không biết làm sao, vòng tay nói rất cung kính:
- Nàng là thần tiên ở núi nào, động nào có lòng đoái tưởng, chịu dời gót giáng lâm nhà tôi.
Nàng mỉm cười, lấy tay áo che miệng không nói gì. Thị nữ nói:
- Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Vì Thánh Hậu để ý tới lang quân muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự đến xem nhà cửa đó.
Chàng mừng quá không nói ra lời. Nàng cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau làm thinh.
Bình nhật chàng vốn thích đánh cờ, bàn cờ thường để bên cạnh. Một thị nữ lấy khăn đỏ lau bụi sạch, đem ra đặt trên bàn và nói:
- Thường ngày công chúa ưa thích cuộc tiêu khiển này, thử chơi với lang quân xem ai thắng nào?
Chàng dời ghế gần. Công chúa cười và gật đầu ưng thuận. Hai người qua lại độ ba chục nước, thị nữ thò tay xóa bàn cờ và nói:
- Thôi phò mã thua rồi.
Lượm quân cờ bỏ vào hộp, nói tiếp:
- Có lẽ phò mã là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ có thể nhường sáu con thôi.
Liền chọn sáu con cờ đem ra bày lại bàn cờ, công chúa cũng gật đầu.
Lúc nàng ngồi đánh cờ, sai thị nữ ngồi dưới, đưa lưng cho nàng gác cẳng, còn cẳng kia thòng xuống đất, thì một thị nữ khác phục xuống mà đỡ. Hai bên hai hầu nhỏ đứng hầu. Mỗi lúc An ngẫm nghĩ nước cờ khó khăn, nàng co một cánh tay gác trên vai, ngồi đợi.
Ván cờ đánh mãi chưa phân thắng phụ, con hầu nhỏ cười nói:
- Phò mã thua một con.
Nhân dịp, thị nữ xen vào, thưa:
- Công chúa đã mệt mỏi, nên dẹp đi thôi.
Nàng nghiêng mình nói nhỏ bên tai thị nữ điều gì không rõ; thị nữ chạy ra, giây lát trở lại, đặt ngàn vàng trên giường bảo chàng:
- Mới rồi công chúa nói nhà cửa ẩm thấp, chật chội, vậy phiền lang quân dùng số tiền này sửa sang lại, sửa xong thì xum họp đó.
Một thị nữ khác nói:
- Tháng này phạm vào sao Thiên Hình, không nên xây dựng gì cả. Qua tháng sau tốt lắm.
Công chúa đứng dậy, chàng ra trước mở cửa, thị nữ lấy ra một vật trông giống như cái túi bằng da, liền gõ tại đó, tức thì có mây ở bên trong tỏa ra tứ phía rồi thì hợp lại mù mịt chẳng trông thấy công chúa và bọn tùy tùng đâu nữa.
Mẹ chàng hay chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng chàng mơ tưởng mẩn mê, không sao quên được, lo gấp công việc cất nhà bất chấp ngày tháng kiêng kị. Chàng hối thúc thợ làm, không mấy ngày mà cửa nhà mới hẳn.
Nguyên trước có người học trò Loan Châu, tên là Viên Đại Dung, đến trọ ở xóm bên, đưa danh thiếp vào tận nhà để xin ra mắt. Chàng vốn ít giao du bạn bè, cho nên thác cớ đi vắng không tiếp, lại dò được hồi Viên không có nhà ở trọ, mà đến chơi đáp lễ.
Hơn tháng sau thình lình gặp ngoài cửa, té ra Viên là chàng thiếu niên mới ngoài hai mươi, y phục trang nhã; An đứng nói chuyện qua loa, thấy người rất đứng đắn, trong bụng khoái lắm, liền mời vào nhà đánh cờ tướng chơi. Mỗi bên đều có hơn thua. Sau đó bày rượu ra uống liên miên, chuyện vãn cực tương đắc.
Ngày hôm sau, Viên mời chàng đến nhà trọ mình, cũng đãi tiệc rượu ân cần tử tế. Có thằng tiểu đồng lối mười hai, mười ba gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui.
Chàng say quá bước đi không nổi. Viên sai tiểu đồng cõng về. Chàng thấy nó nhỏ con, yếu đuối, sợ không cõng mình đặng, nhưng Viên một hai cứ bảo để nó cõng xem. Quả nhiên nó cõng chàng về nhà khỏe re. Chàng lấy làm kỳ. Hôm sau đem tiền đến thưởng nó, nó từ chối đôi ba phen rồi mới chịu lãnh.
Từ đó, Viên với chàng giao tình thân mật, cách đôi ba ngày lại đến nhà nhau một lần.
Viên có tính sơ sài, lặng lẽ, mà khảng khái hay giúp đỡ người ta. Trong chợ có kẻ mắc nợ phải bán con gái đi. Viên trút túi ra chuộc giùm, không có vẻ tiếc của chút nào. Vì thế An càng kính trọng.
Cách mấy hôm sau, Viên đến từ giã chàng, tặng những đũa ngà, kỳ nam cả thảy mười món, lại thêm năm trăm đồng bạc để giúp chàng chữa nhà. Chàng trả bạc lại, chỉ lấy đồ vật, và đưa vải lụa tặng lại.
Vài tháng sau đó, ấp Lạc Đình có người đi làm quan xa về, hòm xiểng đầy nhóc của cải. Đêm khuya, cướp vào nhà, bắt trói chủ nhân mà nung sắt nướng kìm, tra tấn thảm độc, rồi vơ vét sạch sành sanh.
Người nhà biết họ Viên làm vụ đó, bèn trình báo quan sở tại, quan tư gấp giấy khắp nơi tróc nã.
Lối xóm An có nhà họ Đồ, ngày thường vốn xích mích với nhà chàng nay thấy nhà chàng xây dựng cửa nhà to tát, trong bụng thầm ghen tức, sẵn dịp có thằng nhỏ ở nhà chàng lấy trộm đôi đũa ngà, đem đến nhà Đồ dạm bán. Đồ biết là vật của Viên tặng liền báo quan huyện.
Huyện sai lính kéo về bao vây nhà chàng, nhằm lúc chàng với tôi tớ vắng mặt, liền bắt mẹ chàng đi. Bà cụ già yếu lại bị kinh khủng, thở không ra hơi, luôn hai ba bữa không ăn uống gì cả, quan huyện thả cho về.
Chàng nghe tin mẹ, vội vã trở về nhà, thì mẹ đã bệnh nguy rồi, hôm sau qua đời. Thu liệm vừa xong còn chưa kịp chôn, thì chàng bị lính huyện áp giải đi.
Quan huyện thấy bộ tịch trẻ trung nho nhã, thầm nghĩ chàng bị vu oan nhưng bề ngoài cũng làm ra nạt nộ, chàng nói thật nguyên do kết bạn với Viên không giấu một chút nào. Quan lại hỏi tự nhiên phát giàu là của ở đâu. Chàng đáp:
- Mẹ tôi có chôn giấu được ít nhiều tiền của, nay tôi sắp sửa lấy vợ, cho nên sửa sang nhà cửa, thế thôi.
Quan huyện tin lời, liền viết tờ bẩm và cho lính đưa chàng lên quận xét nghĩ. Thằng cha hàng xóm là họ Đổ kia, biết thế nào lên quận chàng cũng vô tội, bèn đem nhiều tiền hối lộ cho tụi lính áp giải để chúng giết chàng ở dọc đường là xong.
Đường đi lên quận, phải qua núi sâu, lính kéo chàng đến sườn núi lởm chởm, rồi đẩy xuống vực sâu là rồi đời. Giữa lúc thiên nguy vạn cấp đó, bỗng dưng một con cọp từ trong bụi rậm nhảy ra, cắn hai tên lính chết rồi tha chàng đến một nơi có lâu đài nguy nga bỏ nằm ở đó.
Chàng hồi tỉnh, mở mắt thấy Vân La công chúa vịn vai thị nữ đi tới, nức nở chia buồn với chàng rồi nói:
- Thiếp muốn giữ lang quân ở lại đây, nhưng nghĩ lại chàng còn việc tang bà cụ chưa chôn cất xong, mà dính với quan nha cũng đang lỡ dở, nên ở lại đây không tiện. Vậy chàng nên cầm lấy tờ bẩm, lên quận tự nạp mình, chắc chắn là vô sự đó.
Nói đoạn lấy sợi dây lưng trước bụng chàng, thắt lại hơn mười nút, dặn dò chàng khi đứng trước mặt quan cứ lần mở những nút này, tức thì tai qua nạn khỏi.
Chàng nghe lời khuyên bảo, một mình đến quận tự đầu thú. Quan thái thú mừng là người thành thực, lại xem tờ bẩm, hiểu rõ oan tình, liền phê cho chàng về.
Về nửa đường gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình trạng rắc rối bấy lâu. Viên nghe tức giận xám mặt làm thinh không thốt lời. Chàng nói:
- Vẻ người như anh, làm chi tới chuyện trộm cướp để tự nhơ danh xấu tiếng.
Viên đáp:
- Tôi giết toàn hạng người bất nhân, tôi lấy toàn là tiền của phi nghĩa. Không vậy thì của bỏ rơi ở đường cũng không thèm lượm. Điều anh khuyên răn tôi rất phải, nhưng xin hỏi thử người như thằng cha lối xóm nhà anh, có nên để nó sống ở trên đời không chớ?
Nói xong chào biệt thúc ngựa đi thẳng.
Chàng về chôn cất mẹ, rồi đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm, trộm vào nhà hàng xóm, cha con trên mười người đều bị giết sạch, chỉ chừa lại một con ở. Giết xong cuốn gói tiền của đồ vật, chia bớt cho tiểu đồng mang xách. Lúc ra đi, lấy đèn soi mặt và bảo con ở:
- Mi nhìn cho kỹ nghe. Giết người nhà này là tao đây, chứ không dính dáng tới ai.
Nói đoạn không cần mở cửa, hai thầy trò vọt lên mái nhà, nhảy qua vách tường đi mất.
Hôm sau, vụ án này lên quan, quan ngờ An sinh hay biết, lại bắt chàng đi, trừng mắt hỏi cực nghiêm. Chàng đứng ở công đường, tay rờ vào dây lưng thắt nút, vừa tranh biện vừa cởi nút ra, quan không có chỗ nào buộc tội cả, lại tha cho về.
Lần này được về, chàng lại càng giữ gìn, chỉ ở nhà đọc sách, không đi đâu nửa bước; nội nhà chỉ có một * già khập khễnh lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang mẹ rồi, ngày ngày quét dọn nhà cửa chờ đợi tin lành.
Một hôm, mùi hương lạ thơm ngát trong nhà, chàng leo lên gác xem, thấy trong ngoài đã bày biện khác hẳn, cuốn rèm lên thì thấy công chúa đã ngồi chững chạc từ hồi nào rồi. Chàng vội vái chào, nàng nắm lấy tay và nói:
- Chàng không tin số, thành ra xây dựng nhà cửa lỗi thời gây nên tai vạ, lại thêm tang tóc, làm trễ cuộc sum họp của chúng ta mất ba năm.
Muốn gấp, té ra lại chịu trì hoãn, ấy việc đời đại khái như thế cả.
Chàng tính lấy tiền cho mụ * đi chợ, nàng gạt đi bảo không cần. Thị nữ lấy trong rương ra các món đồ ăn nóng sốt, như mới xào nấu dưới bếp đem lên; rượu cũng thơm ngon lạ lùng. Hai người uống rượu nói chuyện một lúc thì trời đã sẩm tối, mấy con hầu đưa lưng cho nàng gác cẳng đều tản mát đi hết. Nàng uể oải tay chân, co duỗi bắp đùi, dường như không che đậy gì cả, chàng liền ôm nàng hôn hít. Nàng nói:
- Khoan đã! Chàng hãy buông tay ra, em giao hẹn câu này. Bây giờ có hai cách chàng muốn chọn cách nào?
Chàng ôm cổ nàng và hỏi hai cách nào, nàng đáp:
- Em với chàng, nên kết bạn chén rượu cuộc cờ, thì được tụ họp đến ba chục năm; còn nếu kết bạn thú vui chăn gối, thì chỉ được sum họp sáu năm thôi.
Chàng cao hứng quá, nói đại:
- Hãy được sáu năm rồi lại tính.
Nàng làm thinh. Hai người giao hoan. Nàng nói:
- Em vốn biết chàng không sao tránh khỏi thú vui phàm tục, âu cũng là số mạng khiến vậy.
Rồi khuyên chàng nuôi thêm * già con hầu. Cho ở riêng căn nhà phía Nam, lo việc thổi nấu cơm nước và kéo sợi dệt vải làm sinh kế. Còn ở căn nhà phía Bắc tịnh không có khói lửa, bên trong chỉ có bình rượu bàn cờ mà thôi; cửa đóng kín tối ngày. Chàng đẩy nhẹ thì cửa tự mở ra; ngoài chàng, không ai được tới đó. Tuy thế những người ở căn nhà phía Nam làm việc chăm chỉ hay trễ nải, nàng đều biết rõ, thường khi bảo chàng qua rầy mắng người nào, thì người ấy phải chịu lỗi ngay.
Nàng không nói nhiều lời, không cười lớn tiếng, cùng chàng nói chuyện gì, chỉ cúi đầu cười nụ, hễ sánh vai ngồi, thì ưa nghiêng mình dựa vào chàng. Có khi chàng ẵm nàng lên đầu gối, thấy nhẹ như ẵm trẻ thơ. Chàng nói:
- Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay người ta múa được.
Nàng trả lời:
- Chuyện đó có khó khăn gì đâu; có điều chỉ là phần việc của mấy con thị nữ tôi không thèm làm đó thôi. Ví dụ, con Phi Yến mà sách vở trần gian vẫn ca tụng đó, nguyên là thị nữ của chị Chín tôi, hay lẳng lơ mà bị tội, đày xuống trần gian, lại không biết giữ trinh tiết, cho nên bây giờ đang bị nhốt kín một nơi.
Trên gác trải đầy nệm gấm, mùa đông chẳng thấy lạnh, mùa hạ chẳng thấy nóng. Giữa mùa đông lạnh lẽo cắt ruột, nàng cũng mặc áo mỏng và nhẹ. Chàng may áo mới, ép nàng phải mặc, nàng vì nể, mặc vào chốc lát, cởi ra nói:
- Vật phàm ô trọc đè nặng vào xương cốt đến thành bệnh lao chết.
Một hôm chàng ẵm nàng trên gối bỗng thấy nặng khác mọi ngày, lấy làm lạ. Nàng cười trỏ vào bụng:
- Trong này có giống phàm tục rồi.
Cách mấy hôm sau, nàng ngỏ ý muốn ăn đồ nấu nướng, chàng liền mua sắm những món lạ cho nàng ăn. Từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một bữa, nàng nói:
- Em vốn ốm yếu, không kham nổi việc sinh sản, con thị nữ Phàn Anh khỏe mạnh, vậy để nó thay em.
Nói đoạn cởi áo lót mình, mặc vào cho Phàn Anh rồi nhốt nó trong phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ khóc, mở cửa ra coi té ra con trai. Nàng mừng và bảo:
- Thằng con này có phúc tướng, chắc sau này thành người khá to, nên đặt tên là Đại Khí.
Nàng ẵm con trao cho chàng, đưa về căn nhà phía Nam cho * nuôi. Từ khi nàng thoát nợ sinh sản, vóc vạc lại nhỏ thó như cũ, và không ăn thực vật phàm trần nữa. Bỗng từ biệt chàng để về thăm nhà, hỏi bao giờ trở lại, nàng đáp ba ngày. Lúc đi, lại có túi da tuôn mây rồi biến đi như bận trước.
Đến kỳ hẹn không thấy nàng về. Hơn một năm bặt luôn tin tức; chàng đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, thi đậu cử nhân, song không chịu lấy vợ. Mỗi đêm nằm ngủ một mình ở căn nhà phía bắc, tắm gội với hương thừa hãy còn phảng phất.
Đêm nọ, thao thức trên giường không ngủ, chợt thấy đèn lửa sáng trưng, rọi qua cửa sổ, rồi lại cửa giữa tự mở, bọn thị nữ xúm đỡ công chúa bước vào. Chàng mừng hết sức, vùng dậy chào hỏi và trách lỗi sai hẹn. Nàng nói:
- Em có sai hẹn đâu? Trên trời mới có hai ngày rưỡi đó thôi.
Chàng khoe khoang thi đậu, ý hẳn nàng mừng, không dè nàng buồn rầu và nói:
- Ôi! Cái thứ danh vọng thoảng đó có nghĩa lý gì đâu. Chẳng qua làm người ta tổn thọ thì có. Ngờ đâu vắng mặt có ba bữa, mà chàng đã vương phải tục lụy sâu thêm một lớp nữa rồi.
Chàng nghĩ lời vợ nói phải, cho nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Cách mấy tháng, nàng lại đòi về thăm nhà, chàng bịn rịn không muốn cho vợ đi, nhưng nàng năn nỉ bằng được.
- Chuyến này em trở về mau, không để cho chàng trông đợi như kỳ trước, vả lại, đời người biệt ly, đều có định số, mình xem trọng quá thì thấy nó dài, mặc kệ nó thì thấy nó ngắn mà!
Nàng ra đi, hơn tháng trở lại. Từ đấy thành lệ một năm hay nửa năm, có đi một kỳ chừng vài tháng lại về, chàng thấy sự thường không lạ gì nữa.
Vợ chồng ăn ở với nhau, lại sinh thêm đứa con trai. Nàng ẵm lên và nói:
- Thằng này sài lang, nên bỏ đi, chớ nuôi.
Nhưng chàng không nỡ lòng bỏ, cứ để lại nuôi, đặt tên nó là Khả Khí. Vừa mới đầy năm, nàng đã gấp tìm nơi hỏi vợ sẵn sàng cho nó. Các bà làm mai mách lối, tới lui liền liền; nàng hỏi tuổi đứa con gái kỹ lưỡng, đứa nào cũng chê không hợp, than thở rằng:
- Ta có ý muốn mưu sẵn một cái chuồng sắt để nhốt thằng con hùm beo này, mà mưu không thành, âu cũng là số.
Đoạn, dặn dò chồng:
- Chàng nhớ bốn năm sau, Hầu thị sinh đứa con gái, sườn bên tả có cái bướu nhỏ, chính là vợ của thằng Khả Khí đó, chàng nên dạm hỏi cho nó, bất chấp nhà gái sang hèn gì cả.
Nàng nói rồi, buộc chàng chép vào giấy tức thời cho khỏi quên. Sau đó nàng lại về thăm nhà. Bận này đi luôn không trở lại nữa.
Chàng nhớ lời vợ căn dặn, thường cậy bạn thân dò hỏi, quả có Hầu thị sinh ra đứa con gái mọc bướu cạnh sườn; nhưng Hầu thị là người hèn hạ, mà tính tình rất xấu, không ai thèm chơi với. Chàng mặc kệ cứ cậy mối lái đi hỏi con gái Hầu thị cho thằng Khả Khí.
Con trưởng là Đại Khí mười bảy tuổi thi đậu, cưới vợ họ Văn. Hai vợ chồng đều hiếu hạnh, chàng rất yêu chuộng. Còn Khả Khí càng lớn càng hư, không thích học, chỉ lén ăn cắp tiền nhà đi cờ bạc với bọn vô lại; dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để trả nợ chơi bời. Cha giận đánh đòn nhiều trận, nhưng chứng nào vẫn giữ tật ấy không chừa. Thế rồi cả nhà bảo nhau đề phòng, không thể lấy gì được, bèn đi ăn trộm lặt vặt của người ta, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện xem rõ họ tên, viết danh thiếp cho lính đưa trả về nhà, nhưng cha và anh cùng trói lại. Cha lại đánh suýt chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ, cha mới chịu tha.
Vì đó cha phẫn uất sinh bệnh, kém ăn, bèn làm tờ chia của cho hai con. Nhưng nhà lầu, ruộng đất đều về phần Đại Khí. Thấy vậy Khả Khí tức tối, nửa đêm xách dao vô buồng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Nguyên trước công chúa có để lại chiếc áo mũ, nhẹ và mềm nhuyễn, anh giữ làm áo ngủ, giờ Khả Khí chém vào áo nảy lửa cháy lập lòe tứ tung làm hắn ta sợ hãi chạy mất.
Cha hay việc này, bệnh nặng thêm, mấy tháng sau thì mất. Khả Khí nghe tin cha qua đời mới mò về. Anh đối đãi tử tế, nhưng hắn càng ngày càng hư. Chỉ hơn một năm, phá hết điền sản của cha chia cho, rồi làm đơn thưa anh tại quận. Quận thừa biết là người thế nào, cho nên xé đơn đuổi về không xét. Tình nghĩa anh em thành ra đoạn tuyệt từ đó.
Cách hơn một năm sau, Khả Khí hai mươi ba tuổi. Hầu nữ mười lăm tuổi, anh nhớ lời mẹ dặn, muốn gấp cưới vợ cho xong, liền kêu Khả Khí về nhường tòa nhà đẹp cho ở. Khi cưới vợ về nhà, anh lại đem bao nhiêu ruộng tốt cha để lại, toàn số giao cho và nói với em dâu rằng:
- Mấy đám ruộng này bấy lâu anh cố sống cố chết giữ gìn bộ, ngày nay anh giao lại hết đó. Em tôi vốn mất nết, dù cho nó nhiều ít gì cũng đều như của bỏ. Từ đây về sau, nên hay là hư, cốt ở nơi thím. Nếu chú nó biết sửa nết, chịu khó làm ăn thì chả phải lo đói rét, không vậy thì anh đây cũng chịu phép không lấy gì mà lấp đầy cái vực sâu không đáy kia đặng.
Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh, sắc sảo. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo gì cũng không dám làm trái ý. Đi đâu, hẹn giờ khắc mà về không đúng thì nàng mắng nhiếc, không thèm ngồi ăn uống chung.
Nhờ vậy, Khả Khí cũng chừa bớt lêu lổng ít nhiều, hơn năm sau, sinh đứa con trai. Hầu nữ nói:
- Từ nay, chẳng cần gì ai. Mấy đám ruộng tốt đó, ta lo cày cấy, mẹ con no ấm có thừa, bây giờ chẳng có chồng cũng chẳng cần.
Có hôm Khả Khí xúc trộm lúa đi bán để đánh bạc, vợ hay, cầm cung tên đứng chặn ở cửa để chống cự. Khả Khí sợ quá, lẩn trốn mất mặt. Chừng dòm thấy vợ vào trong nhà rồi, mon men trở vào định lấy thóc cho bằng được. Không ngờ vợ xách dao rình sẵn, Khả Khí bỏ chạy, vợ rượt theo chém trúng mông đít, máu tuôn đẫm ướt giày tất, liền đến mách với anh, nhưng anh mặc kệ, đành hổ thẹn ra đi.
Sáng hôm sau lại bò về, quỳ trước mặt chị dâu mà khóc lóc kêu ca, nhờ chị nói giùm vợ cho về nhà. Vợ nhất định không nghe, Khả Khí nổi xung định giết vợ. Anh cũng mặc kệ, không nói gì. Khả Khí càng phẫn, xách ngọn mác hầm hầm ra đi. Chị dâu sửng sốt, toan chạy theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ Khả Khí đi rồi, mới cắt nghĩa:
- Nó làm bộ tịch vậy đó, cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt về.
Nói rồi, sai người theo dõi, thì Khả Khí đã bước vào trong nhà rồi, bây giờ anh mới đâm lo tính, chạy theo can gián cho kịp, chẳng dè đến nơi, thì Khả Khí đã cúi mặt nín thít đi ra. Té ra khi Khả Khí vào nhà, vợ đang đùa giỡn với con, thoáng trông thấy, liền đặt con trên giường vào bếp xách con dao bổ củi ra; Khả Khí hết hồn hết vía, kéo lê ngọn mác chạy mất. Vợ rượt theo tới ngoài cổng mới chịu thôi.
Anh biết rõ sự tình như vậy, nhưng làm bộ như không biết, cố ý gạn hỏi đã đâm vợ chết chưa, Khả Khí chỉ úp mặt vào tường mà khóc nức nở, hai mắt đỏ ngầu. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu tiếp, chờ anh đi rồi, phạt chàng quỳ dưới đất, buộc phải thề độc, bấy giờ mới lấy cơm đựng vào tô xấu cho ăn.
Từ đó Khả Khí sửa nết làm lành, vợ lại chịu khó chăm nom công việc làm ăn, thành ra nhà được phong túc, Khả Khí chỉ có việc ngồi ăn sẵn mà thôi. Đến năm bảy mươi tuổi, con cháu đầy nhà, còn có lúc bị vợ nắm râu bạc và bắt quỳ.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Tấm gương thu hình (Bát đại vương)


Lâm Thao Phùng sinh, tên thật là gì, người thuật chuyện không nhớ, chỉ biết chàng vốn dòng dõi thế gia nay đã sa sút rồi. Có người chài lưới thiếu nợ chàng mà không trả nổi, hễ lần nào bắt được ba ba cùng loài cua đinh cũng đem lại biếu chàng. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, chàng thấy hình dạng lạ lùng, liền thả ra sông.
Sau có dịp đi thăm con rể trở về đến bờ sông Hoàng Hà, trời đã chạng vạng, thấy một người say rượu, hai ba tiểu đồng theo sau, ngất ngưởng từ đầu kia đi tới, giáp mặt chàng hỏi chàng là ai và đi đâu vậy? Chàng trả lời là kẻ đi đường. Người say giận nói:
- Chàng có tên họ gì, sao lại nói cụt lủn là kẻ đi đường?
Đường xa trời tối, chàng sốt ruột đi về, cho nên chẳng buồn trả lời, cứ phăng phăng đi qua. Người say càng giận, nắm chặt lấy áo chàng không cho đi, mùi rượu xông lên sặc sụa. Chàng rất khó chịu mà cố sức gỡ mình ra không được bèn nói xẵng:
- Nhà ngươi tên chi?
Người say đáp giọng lè nhè:
- Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô. Mà chú hỏi làm chi.
Chàng nói:
- Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi thiên hạ. Ấy, may là Lệnh doãn cũ, phải là Lệnh doãn mới, dễ thường giết hết người ta chàng?
Người say giận lắm, toan giở võ ra với chàng. Chàng dõng dạc nói:
- Ta đây là Phùng mỗ, không chịu anh đánh đâu!
Người say nghe nói, liền đổi giận làm vui, cúi mọp xuống lạy và nói:
- Ngài là ân nhân của tôi, vừa rồi đường đột, xin đừng chấp trách.
Đoạn, trỗi dậy bảo tiểu đồng đi mau về nhà trước dọn rượu. Chàng từ chối không được, nắm tay cùng đi vài dặm, đến một xóm nhỏ. Vào trong thì cửa nhà sang trọng, như phủ đệ quý nhân. Sau khi thấy chủ nhân đã tỉnh rượu, chàng mới hỏi thăm tên họ là gì. Chủ nhân nói:
- Thú thật với ông xin ông chớ kinh hãi. Tôi là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới đây, Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu trở về có hơi quá say, nên mới xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn.
Chàng biết là yêu quái nhưng thấy tình ý niềm nở cho nên chẳng sợ hãi. Giây lát tiệc bày linh đình, mời chàng uống rượu nói chuyện. Bát vương uống cực hăng một hơi cạn luôn mấy ly lớn. Chàng sợ hắn lại say, sinh sự rắc rối như hồi nãy, bèn giả đò mình say và đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý, cười nói:
- Ông sợ tôi say quá hóa cuồng chăng? Xin ông chớ lo. Phàm người say nói xằng làm bậy, mà bảo rằng qua sáng mà tỉnh rượu, không còn nhớ gì việc mình làm, ấy là nói dối, nhưng đối với người trưởng giả như ngài, thật không dám làm điều vô hạnh. Tại sao ngài cự tuyệt tôi như thế?
Chàng nể lòng, lại ngồi xuống, nghiêm sắc mặt can gián:
- Ông đã tự biết mình lầm lỗi, sao không sửa đổi đi?
Bát vương đáp:
- Lão phu hồi làm Lệnh doãn, say sưa be bét còn quá ngày nay. Từ ngày chọc giận Thượng đế, bị đày ở cù lao, cố chừa thói cũ, được hơn mười năm. Nay nghĩ mình già yếu, sắp sửa vào hòm, mà tấm thân còn vất vả chẳng được vẫy vùng, cho nên thói cũ lại muốn trở lại mà không tự biết đó thôi. Nay được ngài khuyên bảo, tôi xin vâng lời.
Còn đang nói chuyện, thì nghe thấy chuông chùa xa đã gõ. Bát vương đứng dậy cầm tay chàng nói:
- Tôi cùng ngài tụ họp không được lâu, vậy có một vật báu, xin tặng ngài để báo đáp ơn xưa. Vật này chẳng nên mang lâu, chừng được như nguyện rồi, xin trả lại cho tôi.
Nói đoạn, khạc trong miệng ra một hình nhân bé tí hon, độ chừng một tấc, rồi lấy móng tay nhọn rạch cánh tay chàng, đau như xé ruột, vội vàng đặt hình nhân lên trên mà đè thật mạnh. Khi buông tay thì hình nhân đã lọt vào da thịt, mà dấu móng tay còn rành rành. Chỗ đó phồng lên, như mọc ung nhọt. Chàng sợ hãi cuống quýt, Bát vương cười mà không đáp, chỉ nói rằng:
- Ngài nên đi thôi.
Đoạn tiễn chân chàng ra cửa, Bát vương trở lại.
Chàng ngoảnh lại, xóm làng nhà cửa đều biến mất, duy một con ba ba lớn đang bò xuống sông, chàng sửng sốt giây lâu tự nghĩ vật báu nó mới cho, tất là ngọc ba ba.
Từ đó cặp mắt cực sáng; phàm chỗ nào có châu báu, dù ở suối vàng, cũng trông thấy. Ngay đến vật gì thuở nay không từng biết bao giờ, cũng ứng khẩu nói ra đích danh. Nhờ vậy mà đào lên được mấy trăm bạc chôn giấu ngay trong buồng ngủ, thành ra sự ăn tiêu hơi phong túc.
Sau có người bán ngôi nhà cũ, chàng dòm thấy tiền bạc chôn giấu nhiều lắm, bèn mua giá đắt để làm nhà ở. Dần dà giàu có ngang bậc vương hầu, phàm loại ngọc quý trong thiên hạ, nhà chàng sưu tập tích súc đủ cả.
Trong số đó có một tấm gương, sau lưng chạm trổ hình chim phượng và bà Tương phi, bề mặt chiếu sáng tới ngót một dặm, rõ ràng từ mảy tóc sợi lông, có thể đếm được.
Nhất là mỹ nhân nào soi gương này, tức thời hình dạng in vào gương, chùi lau cách gì cũng không mất được. Nếu người đó thay quần áo khác mà soi lại, hoặc một mỹ nhân khác soi, thì hình ảnh in trước mới mất được.
Lúc bấy giờ, bà chúa Ba, con gái Túc vương (tức là Túc Trang vương), hoàng tử thứ mười bốn của Thái tổ nhà Minh nhan sắc tuyệt đẹp, chàng vẫn nghe danh mộ tiếng. Nhân dịp chúa Ba đi chơi núi Không Động, chàng đi trước, lén núp trong hang, rình khi chúa ở trên kiệu bước xuống, lấy gương ra thu hình ảnh rồi mang về.
Chàng về, đặt gương trên bàn, nhìn kỹ, thấy mỹ nhân ở trong, tay cầm khăn, miệng mỉm cười và mấp máy muốn nói, làn sóng mắt cũng long lanh muốn động, chàng mừng quá, giấu kỹ một nơi.
Hơn một năm, vợ ngồi lê đôi mách, nói lộ chuyện ấy ra, lọt đến tai Túc phủ.
Túc vương cả giận, bắt giam chàng lại, đòi lấy tấm gương, và định án chém. Chàng hối lộ rất nhiều cho một vị thân tín trong phủ, nhờ bắn tin với Túc vương rằng:
- Nếu vương tha thì của gì báu nhất trên đời, muốn có cũng dễ. Bằng không, tới chỉ có chết là cùng, sự đó lại chẳng có ích lợi gì cho vương.
Túc vương muốn tịch thu gia sản và đày chàng đi xa. Chúa Ba nói:
- Hắn đã dòm con rồi, dù hắn chết mười phần, cũng không gột rửa cái nhơ bẩn này, chi bằng gả con đi cho hắn là hơn.
Vương không nghe. Chúa đóng cửa không chịu ăn. Vương phi lo quá, hết sức nói với Vương, bấy giờ Vương mới chịu thả chàng ra khỏi ngục, lại sai người thân ngỏ ý với chàng. Chàng từ chối:
- Vợ tôi lấy từ thuở hàn vi, nghĩa không sao bỏ đặng. Tôi thà chết, chứ không dám phụng mạng. Nếu vương cho tôi chuộc tội thì hết nhà hết cửa cũng cam.
Vương giận lắm, lại bắt chàng giam ngục.
Bà vương phi vời vợ chàng vào trong cung, toan đánh thuốc độc cho chết. Nàng đem chiếc giá gương bằng san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ cực mềm mỏng, Vương phi rất vui lòng, sai giáp mặt Chúa Ba, chúa cũng ưng ý, đính ước làm chị em, rồi sai người vào ngục dụ dỗ chàng nữa. Chàng nhắn bảo vợ: “Con nhà vương hầu, không thể kể trước sau mà bàn chuyện lớn bé đặng”.
Vợ không nghe, cứ việc sắm lễ vật, đưa nộp vương phủ. Số người mang đội lễ có hàng ngàn, nhiều thứ châu báu quý ngọc lạ, nhà vương không biết tên gì. Vương mừng, thả chàng về làm lễ cưới với chúa. Hôm chúa về nhà chồng, cũng đem gương báu cùng về.
Một đêm chàng nằm một mình, mộng thấy Bát vương nghênh ngang đi vào, nói:
- Món đồ tôi tặng năm xưa, giờ nên trả lại. Mang nó trong mình lâu quá tổn hao tâm huyết và hại mạng nữa.
Chàng xin vâng, muốn cầm giữ Bát vương ở lại uống rượu chơi, nhưng Bát vương từ chối:
- Thôi, rượu thì xin kiếu. Từ lúc nghe lời ông khuyên can, tôi bỏ đứt hơi men, được ba năm rồi.
Đoạn há miệng cắn vào tay chàng. Đau quá chàng tỉnh dậy, xem cục thịt nổi đã tiêu mất rồi. Từ đó y như người thường.

Đào Trinh Nhất dịch



Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Mặc áo lá cây (Phiên Phiên)


La Tử Phù người Phân Châu, cha mẹ đều mất sớm, hồi tám chín tuổi ở nhà chú là Đại Nghiệp nuôi. Ông này làm quan ở Quốc Tử Giám, nhà giàu mà không có con, cho nên thương yêu La như con ruột vậy. Lúc chàng mười bốn tuổi bị kẻ gian dụ dỗ đi chơi gái. Vừa gặp một ả lầu xanh ở Kim Lăng đến quận này ở trọ kiếm tiền, La trông thấy say mê. Sau ả trở về Kim Lăng, chàng bỏ nhà chú mà trốn đi theo đêm ăn ngày ở nhà ả.
Được nửa năm, tiền túi hết sạch, bị các chị em khinh rẻ lạnh lùng, nhưng chưa nỡ tống cổ đi. Không bao lâu ung nhọt bể mủ, thối tha làm thấm ướt dơ dáy cả giường chiếu, chàng bị chị em lầu xanh đuổi ra khỏi nhà, phải ra ngoài chợ ăn xin. Người chợ trông thấy vội vàng xa lánh.
Chàng lo sợ chết mất xác ở quê người, nên quyết kế xin ăn dọc đường, lần mò trở về quê quán. Mỗi ngày đi ba bốn chục dặm, lần hồi về đến ranh giới Phân Châu.
Nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối, không mặt mũi nào nhìn hàng xóm mình, còn thơ thẩn ở quanh miếu chưa dám về nhà vội.
Trời tối, định đến ngủ nhờ một ngôi chùa ở trên núi, nửa đường gặp một thiếu nữ dung mạo như tiên, tới gần hỏi chàng đi đâu?
Chàng kể tình thật. Nàng nói:
- Tôi xuất gia tu hành, ở trong hang núi, có thừa chỗ trải chiếu cho anh ngủ nhờ, không sợ gì heo cọp đâu.
Chàng mừng rỡ, đi theo, vào tận núi sâu thấy một hang động. Bước vào bên trong thấy cửa bắc ngang khe suối; đi mấy bước, có hai căn nhà đá, ánh sáng chói lọi, không cần đèn đuốc. Nàng bảo cởi áo rách, ra khe suối tắm thì khỏi mụn nhọt, lại kéo màn quét chiếu, giục chàng đi nằm.
- Anh đi ngủ cho khỏe, tôi may quần áo cho.
Đoạn nàng lấy mấy tàu lá to như lá chuối, cắt và may thành áo. Chàng nằm liếc dòm, thấy nàng may chốc lát đã xong, xếp để trên giường, nói:
- Sáng thức dậy, lấy áo mới đó mà mặc.
Rồi nàng nằm giường đối nhau mà ngủ.
Sau khi chàng ra khe suối tắm rửa sạch sẽ nghe những vết thương không đau đớn gì nữa. Chàng tỉnh ngủ rờ xem, thì mụn đã lên da. Trời sáng sắp dậy lòng còn ngờ vực lá chuối may áo thì mặc sao đặng, nhưng cầm tay nhìn kỹ, té ra gấm xanh cực đẹp.
Một lúc sau, dọn cơm, nàng hái lá gì trên núi chẳng rõ, nói là bánh và bảo chàng ăn; chàng ăn quả thật là bánh. Nàng lại cắt thành hình gà với cá, đem ra mổ, đều như vật sống. Một cái lọ để góc nhà, bảo là rượu ngon, múc uống, quả thật rượu. Múc hơi cạn thì lấy nước suối đổ thêm vào.
Mấy hôm ghẻ lở khỏi hẳn, đòi nằm ngủ chung với nàng. Nàng tức cười và nói:
- Thằng cha bợm bãi này vừa mới được yên thân đã muốn nọ kia!
Chàng nói:
- Tôi muốn đền ơn cô mà!
Rồi hai người nằm chung hết sức ân ái.
Một hôm có một thiếu phụ đến, cười nói:
- Con ranh Phiên Phiên độ rày sướng quá ta! Liệu bao giờ có mang đấy em?
Phiên Phiên mơn trớn nói:
- A, cô Hoa Thành, hèn lâu không bước chân tới đây. Hôm nay bị gió tây nam thổi vù đến. Thế nào, cậu bé đã ẵm đi chơi được chưa?
Hoa Thành đáp:
- Lại một con bé thì có.
- Sao Hoa cô không ẵm cháu lại chơi luôn thể?
- Nó vừa khóc rồi ngủ thít, chị mới đi được đây.
Hoa Thành nói đoạn rồi ngồi đòi đãi rượu uống chơi, lại day qua La sinh, bảo chàng đốt thứ hương cho thơm. Chàng để ý dòm Hoa Thành độ hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, tuy gái mấy con nhưng vẫn còn đẹp, trong ý ưa muốn lắm. Lúc gọt trái cây, lỡ đánh rớt xuống bàn, chàng vờ cúi xuống lượm, để thừa dịp rờ chân nàng. Hoa Thành nói lảng và cười nói như không hay biết gì cả.
Chàng đang vui sướng tâm thần, chợt thấy trong mình lạnh lẽo, ngó lại áo khoác mình mặc, đã biến ra lá cây, trong trí hoảng sợ, phải ngồi lặng giây lát mới thấy nó biến trở lại gấm vóc như cũ. Lòng khấp khởi mừng thầm hai nàng không thấy.
Chén tạc chén thù chốc lát, chàng lại nổi chứng cũ, thừa cơ lúc Phiên Phiên ngoảnh mặt đi chỗ khác, thò ngón tay cái gãi vào bàn tay mềm mại của Hoa Thành.
Hoa Thành cứ thản nhiên cười đùa, hình như không để ý. Nhưng áo quần chàng bỗng hiện nguyên hình lá cây một lát mới biến trở lại. Từ đó chàng hổ thẹn ngồi nín khe, chẳng dám mơ tưởng xằng bậy nữa.
Bấy giờ Hoa Thành mới cười xòa, nói với Phiên Phiên:
- Anh chồng tí hon của dì thật không đứng đắn tí nào ví bằng gặp phải vợ dữ, thì có lẽ hắn nhảy vọt lên tới mây xanh không chừng.
Phiên Phiên cũng cười mỉm:
- Thằng cha bạc tình nên để chết rét cho đáng kiếp.
Hai người cùng vỗ tay thích chí. Đoạn Hoa Thành đứng dậy nói:
- Thôi, phải đi! Con bé ngủ thức dậy khát sữa, e khóc tới đứt ruột mất.
Nàng cũng đứng dậy nói giỡn.
Sau khi Hoa Thành đi rồi chàng nơm nớp lo sợ Phiên Phiên trách mắng vì tội thấy gái như mèo thấy mỡ, nhưng may nàng làm lơ không nói gì, đối đãi y như bình thường.
Không bao lâu, thu mãn sang đông, sương sa lá rụng, nàng lo nhặt những lá rơi, để dùng làm đồ ngự hàn. Chừng day lại ngó chàng rét ngồi co ro, bèn ra ngoài cửa động, bốc lấy mây trắng làm bông gòn, may áo lót cho chàng mặc, thấy mềm nhuyễn và nhẹ nhàng lúc nào cũng ấm áp như bông mới tinh vậy.
Qua năm, nàng sinh hạ một con trai, cực xinh xắn thông minh, hàng ngày chàng ở trong động ẵm bồng nựng nịu con làm vui. Nhưng lòng thương nhớ quê hương muốn rủ nàng cùng về; nàng nói:
- Tôi không thể đi theo mình được. Nếu nhớ quê, thì xin tự đi một mình, mặc tôi ở đây.
Nấn ná hai ba năm thằng con lớn dần, chàng bèn đính ước xui gia với Hoa Thành. Nhiều khi chàng ngỏ ý lo nghĩ đến ông chú già ở nhà, không ai chăm sóc, nàng nói:
- Ông chú, cố nhiên tuổi tác đã cao, nhưng nhờ trời phù hộ vẫn còn mạnh khỏe, mình không phải lo. Thôi thì mình cố ở đây cho tới khi cưới vợ cho con rồi sự đi hay ở tùy mình quyết định.
Nàng ở trong động, lấy lá làm giấy viết chữ chép sách, dạy con học. Thằng nhỏ sáng dạ, chữ nào qua mắt cũng thuộc lòng ngay. Nàng nói:
- Thằng bé này có phúc to lắm, cứ thả cho nó lăn lộn vào cõi trần, chả lo gì không làm nên quan lớn.
Thấm thoắt nó được mười bốn tuổi. Hoa Thành tự đưa con gái đến nhà chồng. Con nhỏ mặt đẹp dung nhan lộng lẫy như trên trời sa xuống. Hai vợ chồng La sinh và Phiên Phiên rất vui lòng. Cả nhà yến tiệc linh đình, Phiên Phiên gõ cây tràm làm nhịp mà hát:

Ta có con hiền
Không chuộng quan sang.
Ta có dâu thảo,
Không chuộng bạc vàng.
Đêm nay sum vầy,
Cả nhà vui vẻ.
Mời chàng chén này,
Cầu chàng sức khỏe!


Hoa Thành đi rồi, hai người cùng đôi vợ chồng mới cùng ở đối diện trong hang đá. Con dâu hiếu thảo chăm lo săn sóc hầu hạ mẹ chồng tối ngày ríu rít bên cạnh, vì thế Phiên Phiên yêu thương như con ruột.
Chàng lại bàn chuyện hồi hương, nàng biết thế không cầm giữ được nữa, đành thu xếp cho chồng đi.
- Mình có cốt tục, chung quy không sao thành tiên được, thôi thì mình đi. Thằng con chúng ta cũng là người trong làng phú quý, vậy mình nên đem con về theo, tôi không muốn cầm giữ để lỡ mất cuộc vinh hoa một đời của nó.
Con dâu đang suy nghĩ làm thế nào để gặp được mẹ từ giã, thì Hoa Thành đã tới nơi. Con khóc lóc bịn rịn, hai bà mẹ cùng an ủi:
- Con hãy tạm đi, sau sẽ có dịp trở lại.
Phiên Phiên cắt lá thành hình con lừa, cho ba người cưỡi mà đi.
Lúc này ông chú ruột La sinh già nua, đã cáo quan về nhà, trong trí tin tưởng bề nào thằng cháu cũng chết bỏ xác đâu rồi; nay bỗng thấy cháu lù lù trở về, lại có cả con trai con dâu cùng theo, ông cụ hết sức vui mừng như bắt được của báu vậy.
Khi ba cha con đã vào đến trong nhà, ngó lại áo mặc đều thành lá chuối, xé ra, mây lót bên trong ngùn ngụt bay lên không. Ông chú đưa quần áo thật cho ba cha con thay đổi.
Sau chàng thương nhớ Phiên Phiên, dắt con đi vào núi thăm, chỉ thấy lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, cùng nhau ngậm ngùi trở về.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Mê sách (Thư sĩ)


Lang Ngọc Tru, quê Bàng Thành, ông bố làm quan đến chức thái thú rất liêm khiết, được bổng lộc không tính đến chuyện làm giàu, chỉ tích sách đầy nhà. Đến Ngọc Tru lại càng mê sách, gia cảnh nghèo khó phải bán hết đồ đạc, nhưng số sách cha để lại thì vẫn không suy suyển một quyển.
Khi còn sống, người cha đã viết cả thiên Khuyến học(1) dán lên vách bên phải tòa nhà ở:

Nhà giàu chẳng cần bán ruộng tốt
Trong sách tự có nghìn chung thóc
Ăn ở chẳng cần nhà cao to
Trong sách tự có lầu kim ốc.
Lấy vợ chớ e mối mai xoàng
Trong sách có nàng mặt như ngọc.


(1) Đó là bài thơ của Tống Chân Tông trong đó có câu (nguyên văn):
Phù du bất dụng mại lương điền
Thư trung tự hữu thiên chung túc
An cư bất khả giá cao đường
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc
Thú thê mạc hận vô lương môi
Thư trung tự hữu nhan như ngọc


Hàng ngày Lang thường ngâm đọc, lại còn viết bài ấy vào bức lụa trắng, chỉ sợ mờ rách mất. Anh ta cũng không mơ tưởng đường công danh vì đinh ninh tin rằng trong sách thế nào cũng có vàng có thóc.
Suốt ngày suốt đêm anh ta chỉ mải mê đọc sách, bất kể lúc nóng nung người hoặc khi rét cắt da. Tuổi ngoài đôi mươi, anh ta chả thiết gì tìm vợ vì hy vọng người đẹp trong sách sẽ tự đến. Bạn bè thân thích đến chơi, anh ta chẳng thiết chuyện trò, chỉ qua quýt hỏi đáp vài câu rồi lớn tiếng ngâm đọc, khách ngồi chán rồi lại đi. Mỗi lần sát hạch, anh ta đều được lấy đứng đầu, nhưng khổ nỗi thi hoài không đỗ.
Một hôm Lang đang ngồi đọc sách, chợt có cơn gió thổi bay sách, anh ta vội đuổi theo, chợt chân sụt xuống đất. Hóa ra chỗ đó có hố thóc mục đã tơi như đất mùn, do người xưa cất giấu. Tuy không ăn được thứ ấy nhưng anh ta càng tin “nghìn chung thóc” là không sai, cho nên lại càng chăm đọc sách. Hôm khác bắc thang lên giá sách cao, trong đám sách vở linh tinh vớ được cái xe vàng độ hai gang, anh ta mừng quá, cho rằng nghiệm với chữ “kim ốc” (nhà vàng). Đưa xe cho người ta xem thì hóa ra là vàng mạ, không phải vàng thật. Anh ta cố ý oán cổ nhân lừa dối mình. Không bao lâu, có người khuyên cúng cái xe ấy vào việc xây dựng tháp Phật. Người bạn đồng khoa với cha Lang, đang làm quan ở đất ấy, vốn là người mộ đạo Phật liền tặng hai con ngựa, ba trăm đổng vàng. Lang mừng quá cho rằng ứng nghiệm với chữ “xe ngựa, nhà vàng” cho nên lại càng khổ công dùi mài kinh sử.
Tuổi đã ba mươi, người ta khuyên lấy vợ đi. Lang chỉ trả lời: “Đã có câu trong sách ‘Trong sách có nàng mặt như ngọc’(1), ta lo gì không có vợ đẹp”. Rồi lại miệt mài đọc sách, hai ba năm nữa vẫn không thấy kiến hiệu gì.

(1) Tên từ trong câu thơ của bài Khuyến học: “Thư trung tự hữu Nhan Như Ngọc”

Người ta chế giễu quá. Lúc ấy trong dân gian có thành ngữ: “Chức Nữ trên trời đã trốn rồi”, người ta dựa vào đó mà đùa Lang rằng: “Cháu Trời(1) đi mất là vì anh đấy”. Lang cho là chuyện đùa, bỏ ngoài tai.

(1) Nguyên văn: Thiên Tồn, tên một ngôi sao, cũng gọi là Chức Nữ. Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cháu trời trốn xuống trần lấy anh chăn trâu (Ngưu Lang).

Một tối đọc sách Hán thư đến quyển thứ tám, bỗng thấy hình một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ghép trong trang giấy. Lang kinh ngạc tự nhủ: “Câu ‘Trong sách có nàng mặt như ngọc’ ứng ở đây chăng?”. Nhìn kỹ mỹ nhân thì từ đầu mày cuối mặt y như người sống, sau lưng mờ mờ có chữ “Chức Nữ”, anh ta càng lấy làm lạ. Từ đó, Lang thường đặt hình mỹ nhân lên trên sách, trở đi lật lại ngắm nghía đến quên ăn quên ngủ.
Một hôm Lang đang bần thần ngắm nghía thì mỹ nhân bỗng nhổm dậy, ngồi trên sách mà hé môi cười. Lang hãi quá phục lạy trước bàn. Mỹ nhân đứng dậy đã cao tới hai gang. Lang càng sợ, cứ lạy như tế sao. Mỹ nhân thong dong bước xuống đất, đứng thẳng lên nghiễm nhiên trở thành một trang giai nhân tuyệt thế. Lang vừa vái vừa đánh bạo hỏi:
- Bẩm, người là vị thần gì?
Mỹ nhân cười đáp:
- Thiếp họ Nhan, tên Như Ngọc mà chàng đã biết từ lâu(2). Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh tới, thiếp mà không đến, sợ nghìn năm sau sẽ không còn ai tin ở cổ nhân.

(2) Tên từ trong câu thơ của bài Khuyến học: “Thư trung tự hữu Nhan Như Ngọc”

Lang mừng quá, để ở cùng phòng, chung chăn gối bội phần thân ái. Song khổ nỗi chàng ta ngú ngớ không biết cách thể hiện bản lĩnh của trang nam tử như thế nào. Từ đó, mỗi khi đọc sách, thế nào anh ta cũng kéo cô gái ngồi kề. Cô gái bảo thôi đừng đọc sách như thế nữa, nhưng anh ta nhất định không nghe. Cô rành rọt khuyên bảo:
- Chàng sở dĩ không thành đạt được chính vì đọc sách nhiều quá mê muội đi đấy. Thử xem những ông nghè, ông cống, hỏi mấy người đọc được như chàng? Can chàng chẳng nghe, em bỏ đi đấy.


Image


Lang nể lời nghe theo, nhưng chốc lát quên mất, lại cất tiếng sang sảng ngâm đọc; lúc sau nhớ ra ngoái tìm cô gái thì cô ta đã biến đi đâu mất. Thần hồn hoảng hốt, chàng ta vội vã quỳ xuống cầu khấn song nàng vẫn biệt tăm. Sực nhớ ra nơi ẩn cũ của người đẹp, chàng ta vội mở lại cuốn Hán thư, kiểm kỹ đến chỗ cũ thì thấy hình mỹ nhân. Gọi mãi vẫn không động tĩnh, chàng phải phục xuống khóc lóc, xin van, cô gái mới hiện ra và dọa ngay:
- Còn không nghe, nhất định sẽ vĩnh biệt!
Rồi nàng lấy bộ quân cờ, cỗ bài để hàng ngày cùng chơi. Nhưng Lang chẳng để ý gì lắm, hễ nàng vắng lại giở trộm sách, vẫn sợ nàng biết cho nên anh ta ngầm cất quyển tám sách Hán thư vào một chỗ khác, hòng để nàng không tìm thấy chỗ ẩn cũ.
Hôm khác, đang say đọc thì nàng tới, chợt thấy bóng, Lang gấp vội sách, song nàng đã biến đâu mất. Lang cả sợ, tra khắp các sách không thấy đâu cả, đến giữa quyển tám sách Hán thư lại thấy Nhan Như Ngọc, không sai số tờ. Chàng phải van lạy, thề thốt không đọc nữa, lúc ấy cô gái mới ra, bắt phải cùng đánh cờ. Nàng hẹn trước: “Nếu ba ngày đánh không được, sẽ lại đi”. Đến ngày thứ ba, Lang thắng hai ván. Cô gái tỏ lời khen, trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi một khúc. Lang chăm chú tập trung mắt nhìn tay gảy, lâu sau đã quen với tiết tấu, giai điệu. Rồi cô gái rủ cùng uống rượu đánh bài, Lang vui thích mà bớt dần việc đọc sách lu bù. Cô gái lại thúc giục Lang ra ngoài gặp gỡ bạn bè, giao du ngày càng rộng rãi. Lúc ấy nàng mới bảo:
- Chàng có thể đi thi được rồi đấy.
Một đêm Lang tỉ tê hỏi nàng:
- Phàm người ta nam nữ ở với nhau sẽ sinh con đẻ cái. Nay tôi với mình chung đụng đã lâu mà không thấy gì cả?
Cô gái nhoẻn cười:
- Chàng cứ mê mải vùi đầu vào sách hoài, em đã bảo khéo mà vô tích sự. Bởi vậy cho nên nay chàng vẫn chưa hiểu nổi chương “chồng vợ” và hai chữ “gối chăn” cũng phải dầy công đấy.
Lang ngẩn mặt hỏi:
- Công phu gì cơ?
Cô gái cười ngặt nghẽo, không nói. Lát sau vắng vẻ, mới tỉ tê bày vẽ cho Lang những ngón bí mật chốn buồng the. Lang thực hành ngay, khoái lắm, bảo nàng:
- Tôi không nghĩ rằng cái lạc thú chồng vợ lại không thể truyền bá cho nhau được.
Thế rồi, gặp ai anh ta cũng thông thốc kể lại mọi sự “thú làm tình” với người đẹp, không giấu giếm điều chi. Cô gái biết trách Lang, Lang đáp:
- Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám ngỏ với ai. Còn cái lạc thú trong đạo thiên luân ai cũng vậy cả, việc gì phải giấu giếm kiêng kị.
Chín tháng sau, nàng đẻ con trai, thuê một người * trông nom đứa trẻ. Một hôm nàng bảo chồng:
- Em ở với chàng hai năm đã nghiệp dĩ sinh con. Nay có thể chia tay, ở lâu sợ gây tai họa cho chàng, hối không kịp.
Lang nghe xong cứ khóc ròng, phục xuống mà nói:
- Em không nghĩ đến đứa hài nhi còn oa oa đó chăng?
Cô gái cũng buồn rầu, lâu sau mới ra điều kiện:
- Nếu chàng muốn em ở lại, phải phá tán hết sách trên giá đi.
Lang từ chối:
- Đó là cố hương của em, là tính mệnh của tôi, sao em lại nói thế?
Cô gái không ép nữa, chỉ thở dài bảo:
- Em cũng biết là có số mệnh cả, song không thể dự báo cho chàng.
Trước đây, thân thích trong họ Lang dòm thấy cô gái đã khả nghi lắm, lại chưa nghe thấy mối lái cưới xin cho nên họ kéo đến chất vấn. Lang không thể đặt điều nói dối, song cũng úp mở không để lộ chuyện cho nên họ lại càng ngờ. Lời đồn đại lan truyền đến tai quan huyện họ Sử, xuất thân tiến sĩ người đất Mân. Nghe chuyện lạ về Lang, quan huyện trẻ tuổi đã động lòng thèm khát muốn được tận mắt, ngắm nhìn dung nhan người đẹp liền ra lệnh bắt giải cả Lang và mỹ nhân lên huyện. Cô gái biết bỏ trốn biệt tích. Quan huyện càng nổi giận, sai lột hết quần áo Lang rồi cùm lại, hòng cô gái thương người tình mà tự dẫn thân đến.
Song Lang bị đọa đày gần chết vẫn không chịu nói một lời. Tra khảo con hầu nó mới cung ra đôi điều loáng thoáng. Quan huyện phán quyết đúng là yêu quái trá hình cho nên tự thân mình đến nhà Lang khám xét. Quan thấy sách chất đầy nhà, nhiều không đếm xuể, liền ra lệnh đốt sách, khói kết lại không tan âm u mù mịt.
Sau Lang được thả vì chàng được thư can thiệp của người học trò cũ của cha đang có quyền thế, cho nên chàng được miễn tội, khôi phục các quyền lợi. Năm ấy chàng đi thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ luôn tiến sĩ. Trong lòng chứa chất mối hận tù khắc cốt, ghi xương, chàng thiết lập bài vị Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn vái: “Nàng có khôn thiêng xin phù trợ cho ta làm quan ở đất Mân”.
Sau quả nhiên Lang được cử đi thanh tra đất Mân. Ở ba tháng chàng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên nhà cửa. Rồi được cử làm Tư ly, Lang bức Sử phải nộp người thiếp yêu, thác cớ mua thị tì hầu hạ trong dinh. Vụ án kết thúc, Lang lập tức đưa cả người thiếp đi theo.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Người Hóa Hổ (Hướng Cảo)


Hướng Cảo, tên chữ là Sơn Đán, người Thái Nguyên, Cảo đối với anh trai là Thạnh hết sức kính ái. Thạnh dan díu với một kỹ nữ tên là Ba Tư. Hai bên đã cắt máu ăn thề, song vì bà mẹ cô gái đòi sính lễ quá nặng nên lời ước nguyện không thành. Bà mẹ muốn rút ra khỏi sổ làng ca kỹ để hoàn lương trước hãy lo cho Ba Tư đã. Có công tử Trang vốn thích Ba Tư, đòi mua làm thiếp. Ba Tư nói với mẹ:
- Những ước mong cùng thoát nơi nước lửa, khác nào muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường. Nếu lại đâm đầu làm thiếp người ta thì khác gì như trước. Vì mẹ thuận theo chí con thì cậu Hướng là được.
Mẹ bằng lòng, ngỏ ý ấy với Thạnh. Vừa qua Thạnh có tang vẫn chưa lấy vợ cho nên được tin ấy mừng lắm, liền dốc hết của cải cưới Ba Tư. Công tử Trang tức giận Thạnh dám cả gan tranh gái yêu của mình, nhân gặp nhau trên đường liền lớn tiếng nhục mạ Thạnh. Thạnh không chịu, Trang thét người hầu vác gậy đập chết, phơi thây ra đấy rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy ra thì anh đã chết, Cảo đau thương phẫn uất khôn xiết, làm đơn kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, khắp chốn cho nên việc kiện cứ như đánh bùn sang ao.
Cảo cứ ôm nỗi phẫn uất trong lòng không sao tố giác phơi bày ra được, nghĩ duy chỉ có cách đón đường mà giết kẻ thù. Từ đó, hàng ngày cứ thủ dao nhọn, phục ở bụi rậm trên đường núi. Lâu lâu, việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy, cho nên hễ đi đâu là có phòng bị nghiêm ngặt. Hắn nghe tin ở Phần Châu có tên Tiêu Đồng, đã gan dạ lại có tài thiện xạ, liền bỏ nhiều vàng ra đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế của mình, nhưng vẫn hàng ngày rình đón may ra có dịp nào chăng.
Một hôm Cảo đang phục trong bụi, bỗng mưa lớn trút xuống, trên dưới ướt dầm, rét run không chịu nổi. Rồi gió táp bốn bề dữ dội, băng tuyết tiếp đến, thân thể bỗng nhiên đau đớn, tê liệt. Trên đỉnh núi có một ngôi đền thờ sơn thần, Hướng Cảo gắng gượng bò lên. Vào được đến miếu thì vị đạo sĩ quen biết vẫn còn ở đó. Nguyên trước đây đạo sĩ thường hay vào hành khất trong thôn, Cảo thường cho ăn, vì thế quen biết. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, ông lấy áo vải bố trao cho, bảo thay cho đỡ rét. Cảo thay xong tự nhiên thấy buộc phải ngồi chồm hỗm như con chó. Nhìn lại mình thì lông da đã mọc, rõ rành hóa thành con hổ. Còn vị đạo sĩ thì biến đâu mất. Cảo vừa hãi vừa giận. Nhưng rồi lại nghĩ: Chuyến này vồ được kẻ thù xé thịt mà ăn, như thế là kế đạt lắm rồi.
Cảo bò xuống đến nơi phục cũ, thấy thi thể mình nằm trong bụi rậm, lúc ấy mới biết là mình đã chết song chỉ sợ diều quạ đến rỉa xác, cho nên cứ loanh quanh đấy trông coi. Ngày hôm sau như trời xui khiến vậy. Trang đi qua đó, hổ vụt ra tát hắn lộn từ trên ngựa xuống đất, ngoạm đứt đầu mà ăn. Tiêu Đồng quay trở lại bắn trúng bụng hổ, rồi xảy chân cũng chết.
Xác Cảo ở trong bụi rậm mơ màng như vừa tỉnh mộng, phải qua một đêm mới đứng lên được, thất thểu đi bộ về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền biệt tăm đã ngờ và sợ, nay thấy về, đều đến mừng và thăm hỏi. Cảo chỉ nằm, ngơ ngơ ngác ngác mà chưa thể nói gì được. Lát sau có tin Trang bị hổ vồ. Mọi người tranh nhau đến bên giường báo tin mừng. Lúc ấy Cảo mới nói:
- Hổ ấy là ta đó.
Bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện lạ. Do đó mà tin ấy lan truyền ra.
Con tên Trang đau đớn vì bố chết thảm thương, nghe chuyện càng sinh thù hằn, liền đầu đơn kiện Cảo. Quan thấy chuyện ấy quái đản lại không có căn cứ cho nên không xét đến.

Nguyễn Văn Huyền dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Vương Giả

Tuần phủ Hồ Nam sai châu tá(1) áp giải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường bị mưa, trời tối, cả đoàn ở độ đường, không nơi trọ, thấy một ngôi chùa cổ phía xa, tìm đến trú lại. Trời sáng nhìn đến số tiền áp giải thì đã sạch trơn không thấy đâu nữa. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng không thể quy tội cho ai. Viên châu tá phải về bẩm rõ sự tình với quan tuần. Quan tuần cho là lừa bịp, nói càn, định đem xử tử. Đến khi tra hỏi những người sai dịch cùng đi, ai ai cũng đều cung như thế. Quan bắt viên châu tá phải trở lại chốn cũ dò xét manh mối vụ ấy.

(1) Chức quan giúp việc ở cấp châu.


Đi qua một ngôi miếu, ông ta thấy một người mù, hình mạo kỳ dị, với cái bảng đề mấy chữ: “Xem đoán mọi điều sâu kín trong lòng” liền nhờ bói cho một quẻ. Người mù nói: “Việc mất vàng phải không?”. Viên châu tá nhận đúng, rồi thuật lại mọi chuyện. Người mù đòi đem cho một cỗ kiệu, rồi bảo:
- Hãy theo ta, sau sẽ hay.
Các sai dịch cùng đi theo cả. Người mù bảo: “Đông!”, tất cả đi theo hướng đông, bảo “Bắc!” lại đi theo hướng bắc. Đi năm ngày vào một vùng núi sâu, bỗng thấy có thành quách, người ở đông đúc. Vào thành, đi một lát, người mù ra lệnh: “Dừng lại!”. Ông ta xuống kiệu, lấy tay chỉ hướng nam dặn:
“Thấy cái cổng cao ở phía tây, có thể vào đó để hỏi”, rồi chắp tay bỏ đi.
Viên châu tá theo đúng lời chỉ bảo, quả thấy cổng cao, liền đi vào. Có một người ra, mũ áo chỉnh tề theo kiểu đời Hán, không xưng tên họ. Viên châu tá nói rõ lý do tìm đến. Người ấy bảo:
- Xin lưu lại mấy ngày, ta sẽ cùng ông đến gặp người có liên quan đến chuyện ấy.
Nói rồi dẫn viên châu tá đi theo, xếp ở một buồng riêng, cho ăn uống đầy đủ.
Nhân lúc thư thả, viên châu tá đi dạo về phía sau ngôi nhà thì thấy một cái đình trong vườn, chung quanh tùng già che bóng mặt trời, cỏ non trải phẳng như thảm. Đi theo dãy hành lang đến một cái đình cao. Lần theo từng bậc bước lên, thấy trên vách có treo mấy tấm da người còn đủ tai, mắt, mũi, mồm, mùi tanh tưởi nồng nặc, bất giác mà sởn hết gai ốc. Ông ta sợ quá vội quay lại buồng ở, tự nghĩ thôi chuyến này thì xương da phải để lại nơi đất lạ, không hòng gì sống. Song lại nghĩ, tiến hay lùi đều cùng một chết, hãy cố đợi xem thế nào.
Hôm sau cái người áo mũ chỉnh tề ấy lại đến gọi đi, nói: “Hôm nay có thể gặp được”. Rồi ông ta cưỡi con ngựa phóng như điên. Viên châu tá cố đi bộ theo. Một lát, đến một cửa dinh như dinh tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên tả hữu, tư thế nghiêm chỉnh. Người ấy xuống ngựa dẫn viên châu tá vào. Lại qua một cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm, mũ ngọc, ngồi quay hướng nam. Viên châu tá bước lên làm lễ bái yết. Vị vương giả hỏi:
- Nhà ngươi có phải là viên quan áp giải Hồ Nam không?
Viên châu tá thưa phải. Vị vương giả nói:
- Tiền còn đầy đủ ở đây. Đó là tiền mà quan Tuần nhà ngươi khảng khái dâng nộp, chắc chắn là như thế.
Viên châu tá khóc, thưa lại:
- Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị gia hình. Việc bẩm bạch với quan trên lấy gì làm chứng cớ?
Vị vương giả nói:
- Điều đó không khó.
Rồi sai mang ra một cái tráp to, bảo rằng:
- Đem cái này về sẽ đảm bảo yên ổn.
Rồi ra lệnh lực sĩ đưa ra.
Viên châu tá sợ quá không dám ho he điều gì nữa, chỉ còn việc nhận tráp mà về. Đường qua núi qua sông tất cả đều khác với đường đi vào. Ra khỏi núi, người đưa đường mới quay trở lại. Vài ngày về đến Trường Sa, viên châu tá trình báo lại hết với quan Tuần. Nhưng quan càng cho là nói càn, nổi giận không cho biện bạch gì nữa, sai tả hữu mang dây ra trói. Viên châu tá vội đưa cái tráp ra. Quan Tuần mở ra xem chưa xong, mặt đã tái như chàm đổ, liền sai cởi trói và bảo:
- Tiền bạc là việc nhỏ, hãy cho người lui.
Quan Tuần liền phát lệnh các thuộc quan phải lập tức vận chuyển bổ sung. Vài ngày sau, quan ốm rồi mất.
Trước đó, quan cùng người thiếp yêu nằm ngủ, đến khi tỉnh dậy thì tóc đã bị cắt hết. Cả nha môn kinh sợ, không biết tại sao. Bây giờ trong tráp là mớ tóc ấy. Ngoài ra còn có thư rằng:
“Nhà ngươi từ khi thành đạt làm quan thú quan lệnh, chức vị cực cao thì của tham ô, quà hối lộ kể không sao xiết. Khoản bạc sáu mươi vạn trước đây đã nghiệp dĩ thu vào kho. Hãy nên mở rộng túi tham nộp bổ sung thêm lệ cũ. Còn viên quan áp giải không có tội, không thể xử càn. Trước đây gọt tóc người thiếp để cảnh cáo tí chút, nếu như không tuân lời dạy bảo, sớm muộn sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc đưa lại kèm đây có thể làm tin”.
Sau khi quan Tuần mất, người nhà mới truyền bức thư ấy. Về sau các thuộc viên sai người đi tìm lại cái xứ kỳ lạ nọ chỉ thấy núi cao lớp lớp, vực sâu thăm thẳm, không có một con đường qua lại nào.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Dế Chọi (Xúc chức)


Thời Tuyên Đức(1) trong cung rất chuộng chơi chọi dế, hàng năm bắt dân gian cung tiến. Trò đó không phải nảy sinh từ đất Thiểm Tây mà do viên quan huyện lệnh huyện Hoa Âm muốn lấy lòng quan trên đem tiến một con. Quan tỉnh thấy nó chọi hay quá đòi phải cung tiến thường xuyên. Quan huyện lại đòi lý trưởng phải cung cấp. Ngoài chợ, bọn tay chơi tìm mua được con nào tốt, đem nhốt lồng nuôi, nâng giá lên thành hàng quý lạ. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ cung tiến dế, sách nhiễu dân chúng. Mỗi đầu dế phải nộp, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà.

(1) Niên hiệu thời vua Tuyên Tông nhà Minh khoảng 1426 - 1435.

Huyện ấy, có người tên Thành Danh đã là một đồng sinh(2) nhưng không theo học tiếp nữa. Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy nhiên thiên phương bách kế chối từ nhưng vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt. Gặp vụ nộp dế, Thành không dám bổ bán sách nhiễu dân mà nhà thì không còn gì để bù, bởi thế lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh. Người vợ khuyên can:

(2) Theo chế độ khoa cử lúc ấy ai có học đi thi nhưng chưa đỗ tú tài thì bất kể tuổi tác đều gọi là đồng sinh.

- Chết thì được việc gì, chi bằng tự tìm bắt lấy, muôn một may ra được con nào chăng.
Thành cho là phải, từ đó cứ sáng đi tối về, tay xách ống tre, lồng tơ, đủ cách bới đất lật đá tìm hang, mọi nơi tường đổ, bờ hoang, bãi cỏ. Cũng có lần moi được vài ba con nhưng vừa yếu lại vừa bé, không đủ quy cách. Quan trên cứ hạn mà trách phạt, quá hơn chục ngày Thành phải chịu đòn trăm gậy, đôi mông máu me be bét mà chẳng có con dế nào để nộp. Về nhà anh ta lăn lộn, trăn trở trên giường, chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi.
Lúc ấy, trong thôn có cô đồng gù mới đến, có tài bói toán cầu thần. Vợ Thành chạy tiền đến bói. Gái tơ, nạ dòng kéo đến chật cổng ngõ. Trong nhà, buồng kín che mành, cửa bày hương án. Người đến bói thắp hương sì sụp lễ. Cô đồng đứng bên hướng lên không trung khấn thay, mồm mấp máy thầm thì không biết nói những gì. Mọi người xung quanh cung kính đứng nghe. Lát sau, trong mành ném ra mảnh giấy ghi những lời truyền phán chỉ bảo, không mảy may sai lẫn.
Vợ Thành nộp tiền trước án rồi cũng thắp hương làm lễ như những người trước. Độ giập bã trầu thì mành động có mảnh giấy ném ra. Giở ra xem, không thấy chữ, chỉ có hình vẽ; ở giữa là đền gác như kiểu chùa Phật; đằng sau, dưới ngọn núi nhỏ lổn nhổn những mô đá kỳ quái, những bụi gai tua tủa, một chú dế “thanh ma”(1) nằm phục, bên cạnh là con ếch trong tư thế định nhảy ra. Xem mà không hiểu ra sao, chỉ thấy qua chú dế dường như có bao hàm ẩn ý về việc mình cầu khẩn, cho nên vợ Thành bọc giấy vào người, đem về đưa chồng xem. Thành xem trăn trở tự nhủ: “Phải chăng bức vẽ chỉ cho ta chỗ bắt dế?”. Ngắm kỹ hình vẽ thấy giống như Đại Phật Các ở mé đông thôn. Bèn gượng dậy, cầm theo bức vẽ, chống gậy lần ra phía sau chùa, ở đó có một ngôi mộ cổ trên gò cây cỏ um tùm. Lần theo xung quanh mộ thấy đá lởm chởm rất giống hình vẽ. Thành vạch cây vén cỏ, căng mắt dỏng tai như đi tìm mũi kim hạt cải, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Bỗng có một con ếch nhảy vọt ra, Thành kinh ngạc vội đuổi theo, ếch lẫn vào đám cỏ. Thành dõi theo hướng, lần tìm thấy một chú dế núp dưới gốc gai. Thành chộp vội, nhưng dế đã chui tọt vào hang. Lấy cỏ nhọn chọc, nó vẫn nằm lỳ trong ấy. Sau khi đem ống phun nước vào, bị sặc, một chú dế cực kỳ to khỏe mới thòi ra. Tóm được chú ta, nhìn kỹ: mình to, đuôi dài, cổ xanh, cánh vàng. Thành vô cùng mừng rỡ liền nhốt vào lồng mang về. Cả nhà ăn mừng, cho dầu có bắt được trân châu, bảo ngọc cũng không bằng. Rồi thả vào bồn, nuôi nấng hàng ngày bằng thóc ngâm sữa, thịt cua luộc, chăm sóc chi chút từng li từng tí, đợi đến kỳ hạn nộp quan.

(1) Tên một loại dế.

Thành có đứa con lên chín, thấy bố đi vắng liền mở trộm bồn ra xem. Dế thừa cơ vọt ra. Thằng bé đuổi theo mãi vồ được vào tay thì dế đã gãy cẳng, bẹp bụng, chết ngay tức khắc. Nó sợ quá chạy mách mẹ. Mẹ vừa nghe xong, mặt nhợt như chết rồi, quát mắng ầm lên:
- Thật là tiền oan nghiệp chướng! Chết đến nơi rồi! Bố về sẽ cho mày biết!
Thằng bé khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại mà lạnh toát xương sống, đi tìm con thì con đã biến đâu không biết. Mãi sau mới vớt được xác con ở dưới giếng.
Chuyển giận thành thương, Thành vật ra kêu trời muốn chết. Nhà tranh bặt khói, vợ chồng im lặng nhìn nhau không còn gì nữa. Trời gần tối mới đem chiếu cỏ liệm thây con, ôm ấp vỗ về thì thấy con thoi thóp thở. Mừng quá! Nửa đêm, con sống lại. Hai vợ chồng hơi yên tâm. Song đứa con vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, bằn bặt ngủ lịm.
Thành nhìn cái lồng dế rỗng không lại như đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa. Suốt một đêm ròng không hề chợp mắt. Mặt trời mọc, Thành vẫn nằm dài, lòng buồn rười rượi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng dế gáy, vội nhỏm dậy nhìn ra thì dế vẫn còn đó. Thành mừng quá vồ lấy. Kêu to một tiếng, dế nhảy bật đi. Tay Thành chộp được thì thấy dường có dường không. Mở ra, dế lại nhảy vọt mất. Thành đuổi theo đến góc tường, không thấy nó đâu. Hoảng hốt nhìn quanh bốn phía thấy nó đã nép trên vách. Nhưng con này vừa nhỏ vừa ngắn, đỏ đen nham nhở, không phải con trước. Thành cho là hạng bét không thèm để mắt mà cứ quanh quẩn đi tìm con trước. Bỗng dế con từ trên vách nhảy tọt ngay vào trong tay áo Thành. Ngắm kỹ, đầu vuông, đùi dài, dáng ve sầu(1) cánh hoa mai, có vẻ tốt. Thành hơi mừng giữ lấy định đem lên công đường nộp, song chỉ lo sợ không được vừa ý quan, mới nghĩ cách cho chọi thử xem sao.

(1) Nguyên văn “thổ cẩu” (chó đất) một loại côn trùng, dạng ve sầu.

Một chàng trai tay chơi trong thôn nuôi được một chú dế nòi đặt tên là “Cua xọc xanh”, hàng ngày đem chọi với dế của đồng bọn đều thắng cả. Chàng ta muốn giữ để kiếm lời, ai trả giá cao mấy cũng chưa chịu bán. Nhân qua nhà thăm Thành, thấy dế Thành nuôi, chàng ta bịt miệng cười và đưa dế mình, bỏ vào lồng để đánh. Nhìn thấy dế người vừa to vừa cao, Thành lại càng xấu hổ, không dám đưa dế mình ra. Chàng trai cố ép. Thành nghĩ: Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười. Thành đưa dế vào bồn đấu. Chú dế con nằm ẹp xuống không dám động đậy. Chàng trai cười ngất, cầm cái lông lợn chọc vào râu, nó vẫn nằm im. Chàng trai lại cười, lại chọc. Dế con nổi giận, xông thẳng ra, phấn chấn cất tiếng gáy ke ke. Rồi vểnh râu, cong đuôi nhảy xô vào cắn cổ địch thủ. Chàng trai hốt hoảng, xin ngưng chọi. Dế con dõng dạc cất tiếng gáy như báo cho chủ biết mình vừa thắng cuộc. Thành chứng kiến cảnh ấy, vui mừng vô cùng.
Đang khi cùng nhau ngắm nghía dế con thì một con gà sán lại gần, mổ dế. Thành hoảng, đứng dậy thét đuổi. May mà gà mổ không trúng. Dế co càng nhảy một phát đến hơn một thước. Gà đuổi sấn theo, dế đã nằm dưới móng gà. Thành thảng thốt không biết làm thế nào để cứu dế, chỉ còn dậm chân, thất sắc. Nhưng sao gà cứ vươn cổ, sã cánh? Nhìn kỹ thì dế đã bám trên mào gà cắn chặt lấy không buông. Thành vừa kinh ngạc, vừa mừng, vội bắt lấy dế bỏ vào lồng.
Hôm sau, Thành đem dâng quan huyện. Quan huyện thấy dế quát ầm lên. Thành thuật lại chuyện lạ về con dế ấy, nhưng quan không tin. Đem chọi với các con khác, dế Thành đều thắng. Đem thử với gà thì quả như lời Thành nói. Quan trên thưởng cho Thành và hiến dế lên tỉnh. Quan tỉnh vui lòng lắm liền bỏ dế vào lồng vàng tiến vua, lại dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Đã vào cung rồi, dế còn phải tỉ thí với khắp các loại dế kì hình, dị dạng của cả thiên hạ dâng tiến như dế bướm, dế bọ ngựa, dế dầu, dế “trán tơ xanh”… con nào cũng chịu thua cả. Còn điều kỳ lạ hơn nữa, ở trong cung, con dế của Thành, mỗi khi nghe tiếng đàn cầm, đàn sắt lại nhảy múa theo các tiết điệu. Hoàng thượng hết sức đẹp lòng, rộng ơn ban thưởng, xuống chiếu cấp cho quan tỉnh ngựa hay, vải quý. Quan tỉnh không quên nguồn gốc dế nên ít lâu sau tiến cử quan huyện là người “tài năng ưu việt” có thể thăng cấp. Quan huyện sướng quá cho Thành được miễn sai dịch; lại dặn học quan cho Thành thi lấy học vị tú tài.
Còn con Thành hơn năm sau tinh thần trở lại như cũ và kể lại rằng: Mình đã hóa thành dế, lanh lẹ, chọi giỏi, nay mới thực sống lại. Quan tỉnh biết rõ chuyện ấy, lại hậu thưởng cho Thành. Chỉ mấy năm thôi, Thành đã có ruộng đồng trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê đầy đàn. Ra khỏi nhà thì áo cừu, ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

Lời bàn của tác giả

Bậc thiên tử dùng một vật gì chốc lát rồi quên; còn kẻ hầu cận bèn lấy làm lệ định. Từ đó, qua bọn tham quan lại ngược, dân phải bán vợ đợ con không dứt. Cho nên nửa bước của bậc thiên tử cũng quan hệ đến dân, không thể coi nhẹ được. Riêng họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, vì dế chọi mà giàu, vênh vang áo cừu, ngựa béo, lúc còn bị lý dịch sách nhiễu chẳng tưởng đến chuyện như thế. Còn ơn trời đền đáp sao mà lâu dài hậu hĩ vậy, khiến cho quan tỉnh, quan huyện đều được ân thưởng vì con dế. Ta từng nghe: “Một người thăng thiên, gà chó cũng thành tiên”(1). Đáng tin vậy thay!

(1) Câu này do điển: Thời Hán, Hoài Nam vương Lưu Yên tu luyện đắc đạo bay lên trời. Lũ gà chó trong nhà ăn phải thuốc luyện còn dư cũng đều trở thành tiên cả.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Chuyện ở đảo thần tiên (Phân Điệp)


Lương Viết Đán là sĩ nhân đất Quỳnh Châu. Dịp ấy, chàng ta từ một quận khác trở về nhà, đi thuyền qua biển. Chẳng may gặp gió bão, thuyền sắp đắm, chàng vội nhảy sang một chiếc thuyền không vừa dạt tới. Nhìn lại, thuyền cũ đã đắm, mọi người trên ấy không thoát một ai.
Gió nổi càng dữ, chàng cứ nhắm mắt mặc cho muốn đến đâu thì đến. Khi trời lặng, mở mắt ra đã thấy một hòn đảo, nhà cửa san sát. Chèo thuyền vào bờ, đi thẳng đến cổng làng, trong làng không có tiếng chó sủa, gà kêu. Chung quanh một tòa nhà cổng quay hướng bắc, bóng tùng trúc ẩn hiện dưới sương mờ, trong tường vây không biết là cây gì mà nụ hoa chúm chím đầy cành mặc dù tiết đã bắt đầu đông.
Trước cảnh ngoạn mục ấy, lòng Dương đã thấy vui vui, liền quanh quẩn tìm vào. Trong nhà chợt có tiếng đàn văng vẳng. Dương ngập ngừng bước. Một cô hầu gái khoảng chừng mười bốn mười lăm, xinh xắn tươi đẹp, từ trong đi ra, vừa trông thấy Dương đã quay ngoắt vào. Tiếng đàn trong nhà ngừng bặt. Một chàng trai trẻ bước ra, hỏi khách từ đâu tới. Dương thuật lại từ đầu. Hỏi họ tên, quê quán, Dương kể rõ ngọn ngành. Chàng trai sửng sốt:
- Hóa ra khách là người thân của vợ tôi.
Rồi vội thi lễ, dẫn khách vào nhà. Trong nhà trần thiết rất mực tinh tế, hoa lệ, tiếng đàn thánh thót ngân vang. Một cô gái trẻ chỉ khoảng mười tám mười chín, dáng vẻ lộng lẫy đang ngồi gẩy đàn, thấy khách vào buông đàn định đi. Chàng trai giữ lại:
- Đừng vội, khách đây có họ với mình đấy!
Rồi kể tung tích khách. Thiếu phụ mừng rỡ:
- Thế là cháu tôi đó!
Rồi hỏi luôn:
- Bà cháu còn khỏe không? Cha mẹ cháu bao nhiêu tuổi rồi?
Dương thưa:
- Cha mẹ cháu đều ngoài bốn mươi, khỏe mạnh cả. Bà cháu đã sáu mươi, ốm yếu lắm, một bước cũng phải có người dìu. Cháu thực chưa biết cô thứ bậc thế nào trong gia tộc, xin cho được biết để khi về thuật lại.
- Đường xa cách trở, tin tức không thông đã lâu lắm rồi. Cháu về thưa với cha: Cô Mười hỏi thăm, tự khắc cha cháu biết.
Dương lại hỏi:
- Thưa, dượng họ gì?
Người đàn ông đáp:
- Họ Ân, tên Hải Dư. Nơi đây là đảo Thần Tiên cách Quỳnh Châu ba nghìn dặm. Tôi ở đây cũng chưa lâu đâu.
Cô Mười vào nhà trong sai sửa soạn cơm rượu thết khách, có nhiều món lạ. Dương chưa hề biết. Ăn xong, họ dẫn nhau ra ngắm cảnh vườn, đào mận còn đang ủ nụ. Dương ngỡ ngàng, Ân giải thích:
- Ở đây mùa hè không nắng nhiều, mùa đông không rét lắm, hoa nở liên tiếp bốn mùa.
Dương hí hửng:
- Thế thật là cảnh tiên. Cháu về thưa với cha mẹ chuyển nhà đến ở đây với cô dượng.
Ân chỉ mỉm cười.
Khi trở vào thư phòng, Dương thấy có cây đàn đặt ngay giá sách, có ý xin được nghe. Ân liền nắn cần, so dây, gọi cô Mười từ trong nhà đi ra:
- Lại đây! Lại đây! Mình gảy cho cháu nghe một khúc.
Cô Mười ngồi xuống hỏi cháu:
- Cháu muốn nghe bản nào?
Dương thưa:
- Cháu chưa từng đọc về sách đàn, cho nên không biết thế nào mà nói.
- Thế cháu cứ nêu đề tài ra, cô đều có thể ngẫu hứng gảy thành điệu, thành bản.
- Thưa, gió biển bạt thuyền, có thể thành một khúc được không?
- Được chứ!
Rồi nâng đàn, bật dây, âm thanh cứ theo ý mà thành điệu khoan nhặt, bổng trầm, thành thục y như theo một bài bản sẩn có. Dương lắng nghe mà cảm thấy mình như đang lênh đênh trên thuyền, sóng gió cuồn cuộn hất lên dội xuống. Dương vừa kính vừa phục, khen nức, khen nở, hỏi cô:
- Thưa, cháu có học được không ạ?
Cô Mười trao đàn cho cháu sai gảy thử và bảo:
- Cháu có thể học được. Thích học gì?
- Cô dạy ngay cháu bản “Gió bão” vừa rồi, không biết mấy ngày thì có thể thuộc. Xin cô viết ra trước cho cháu đọc đã.
- Không thể viết thành văn được đâu. Cô chỉ theo ý mà phổ đàn thôi.
Rồi cô lấy một cây đàn khác, gảy trước một đoạn làm mẫu, bảo Dương tập theo. Tập được hơn một trống canh, tiếng đàn của Dương đã hợp làn điệu tuy còn thô vụng, thì cô và dượng tạm biệt đi nghỉ. Dương còn ngồi lại, tập trung tinh thần tập gảy dưới đèn khá lâu, đột nhiên bừng hiểu, bất giác hứng khởi đứng lên múa. Bất chợt ngửng đầu, Dương thấy cô hầu gái vẫn đang đứng đó. Dương sửng sốt hỏi:
- Cô vẫn còn ở đây chưa đi nghỉ ư?
Cô ta cười nhoẻn:
- Cô Mười sai em thu xếp giường chiếu chu đáo để chàng yên nghỉ. Lại còn phải đóng cửa tắt đèn.
Dương ngước nhìn kỹ cô ta: đôi mắt long lanh như làn thu thủy, dáng vẻ tình ý rất mực dễ thương. Dương bồi hồi cả thần hồn, ỡm ờ trêu gọi. Cô gái lặng lẽ cúi đầu, làn môi mủm mỉm. Dương càng mê mẩn đứng vụt dậy bá lấy cổ.
Cô ta ngăn lại:
- Chớ! Chớ! Đêm đã canh tư rồi, chủ nhân sắp dậy. Đây đấy nếu có lòng nào, đêm mai chưa muộn.
Dương đang ôm cô ta, chợt có tiếng dượng Ân gọi:
- Phấn Điệp!
Cô gái thất sắc:
- Chết rồi!
Rồi vội vã bỏ đi. Dương lẻn theo nghe ngóng. Tiếng dượng Ân:
- Tôi đã bảo con bé này chưa dứt được đường trần duyên thế mà mình cứ nhất định thu nhận. Nay làm thế nào? Phải đánh đòn ba trăm roi!
Cô Mười liền nói:
- Cái tâm địa ấy mà nảy nòi thì không thể ngăn giữ được. Chi bằng cho phắt thằng cháu tôi cho rồi.
Dương nghe vậy vừa thẹn, vừa sợ quay lại thư phòng, tắt phụt đèn đi ngủ. Sáng trở dậy chỉ có thằng nhỏ đến lấy nước rửa mặt, không thấy Phấn Điệp đâu. Trong bụng Dương cứ nơm nớp lo sợ bị quở trách. Lát sau dượng Ân và cô Mười cùng tới, tựa hồ như không có chuyện gì xảy ra, chỉ khảo ngón đàn Dương mới học. Dương gảy lại, cô Mười khen:
- Tuy chưa đạt đến chỗ thần diệu song đã được chín mười phần. Cố tập cho thuần thục thì tuyệt đấy.
Dương xin dạy cho khúc khác. Ân truyền cho khúc Thiên nữ trích giáng(1) trong đó đòi hỏi các kỹ xảo ngón tay như “bẻ”, “cắt”. Dương tập ba ngày, gảy mới rõ tiếng. Ân bảo:

(1) Tiên nữ trên trời bị phạt đày xuống phàm trần.

- Những khó khăn đại khái là đã qua. Nay về sau chỉ cần sao cho thành thục. Nếu thuộc được hai khúc này, trong kỹ thuật đàn cầm không còn điều nào đáng ngại nữa.
Được ít ngày, Dương nhớ nhà, thưa với cô Mười:
- Cháu ở đây được cô chăm sóc dạy dỗ rất vui, chỉ hiềm canh cánh nỗi gia hương. Đường sá xa xôi cách trở ba ngàn dặm, không biết ngày nào cháu mới về được đến nhà.
Cô Mười bảo:
- Điều đó chẳng có gì khó. Thuyền cũ của cháu còn đó, chỉ cần giúp cháu một buồm gió. Cháu không còn gia thất, cô sẽ cho con Phấn Điệp.
Rồi cô tặng Dương một cây đàn, đưa một bọc thuốc mà dặn:
- Cháu đem thuốc về biếu bà, thuốc này không chỉ chữa bệnh mà còn kéo dài tuổi thọ.
Đoạn cô tiễn Dương ra bờ biển. Dương tìm mái chèo, cô bảo:
- Không cần đến đâu!
Rồi ghép quần của mình lại thành buồm, đem mắc buộc vào thuyền. Dương sợ không biết hướng đi, lạc nẻo. Cô nhủ:
- Đừng lo! Đã có buồm đưa lối, cứ theo nó.
Buộc xong, Dương xuống thuyền. Đang buồn rầu, định bái biệt cô thì gió nồm thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ. Trong thuyền đã có sẵn lương khô, song số lượng chỉ ăn đủ khoảng một ngày, bụng Dương đã oán cô sao hà tiện? Bụng đói nhưng chàng không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Song khi ăn một cái bánh nướng thấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái nữa cất đi dành bữa sau thì lạ thay không thấy đói.
Bóng chiều đã ngả. Đang hối không mang theo đèn đuốc thì chỉ nháy mắt sau đã thấy khói bếp đất liền. Thì ra thuyền đã đến đất Quỳnh rồi. Thuyền cập bờ, Dương mừng quýnh, thu quần, bọc bánh về nhà.
Vào đến cửa cả nhà sửng sốt vừa sợ vừa mừng. Thì ra chàng ta đã vắng nhà mười lăm năm trường và mới biết vừa qua đã gặp tiên. Bà nội Dương bệnh đã kịch, chàng đưa thuốc cô Mười ra cho uống, mọi chứng bệnh tức khắc tiêu tan. Chàng kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Bà cụ mới bảo:
- Đó là cô ruột cháu đấy!
Xưa bà có người con gái út tên là cô Mười, sinh ra đã có dáng vẻ tiên nữ. Gia đình hứa gả cho họ Ân. Chú rể mới mười tuổi, vào núi không thấy trở về. Cô Mười đợi đến ngoài hai mươi tuổi, bỗng nhiên không ốm đau gì mà mất, chôn cất đến nay tính ra đã hơn ba chục năm.
Khi nghe Dương kể lại chuyện ở đảo Thần Tiên, mọi người đều ngờ là cô Mười chưa chết. Dương đưa cái quần dùng làm buồm ra thì đúng là cái mà cô trước đây vẫn thường mặc. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một chiếc thôi cả ngày không thấy đói, lại còn cảm thấy tinh thần phấn chấn gấp bội. Người nhà đào mả cô Mười lên coi thử thì chỉ còn quan tài không.
Trước đây Dương đã lấy người vợ họ Ngô, song hơn chục năm đi vắng, chị ta đã đi lấy chổng khác. Lúc ấy Dương mới tin lời cô Mười và có ý mong Phấn Điệp. Song đã hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, lúc ấy chàng mới đi tìm đám khác. Ở huyện Lâm có ông tú tài họ Tiền có con gái là Hà Sinh nổi tiếng gần xa là đẹp, mới mười sáu tuổi mà ba chàng rể chưa cưới đã chết. Dương nhờ mối lái đính hôn, chọn ngày lễ. Khi cô dâu về nhà chồng, Dương nhìn kỹ thì đúng cô dâu mới là Phấn Điệp. Dương hỏi đến chuyện cũ ngoài đảo Thần Tiên, cô ta cứ mơ mơ hồ hồ. Thì ra khi cô ta bị đuổi, chính là lúc cô ta giáng sinh đầu thai vào nhà họ Tiền. Chỉ lúc nghe Dương gảy bản đàn Thiên nữ trích giáng thì cô ta mới chống má trầm tư tựa như có sự cảm thụ, xúc động sâu sắc vậy.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Phan Trần đùa mà hơn thực (Trần Vân Thê)


Chân Dục Sinh người Di Lăng đất Hồ Nam là con một cử nhân. Anh ta học giỏi lại đẹp trai, tuổi hai mươi đã được nhiều người biết tiếng. Lúc còn nhỏ, có thầy tướng đoán: sau này sẽ lấy vợ đạo cô. Cha mẹ đều coi đó là chuyện cười. Khi tính đến việc hôn nhân của anh ta thì lại buồn vì xa gần chưa tìm được đám nào ưng ý.
Bà mẹ Sinh, người họ Tang, quê gốc ở Hoàng Cương. Dịp về thăm quê ngoại, anh ta nghe đồn đại: “Bốn cô Vân ở Hoàng Cương, trẻ đẹp không ai sánh bằng”. Số là trong quận có một anh thờ Lã Tổ(1), bốn đạo cô tu ở đấy đều xinh đẹp cho nên có lời đồn thế.

(1) Tức Lã Đồng Tân, một trong “bát tiên”.

Am này chỉ cách nhà họ Tang khoảng mươi dặm cho nên Sinh lẻn đến xem sao. Vừa mới gõ cửa, quả nhiên bốn đạo cô đã hớn hở chạy ra đón tiếp, thái độ đều tao nhã, khiêm nhường. Trong đó, cô trẻ nhất thực là một tuyệt thế giai nhân. Chàng ta thích ý quá cứ chăm chăm nhìn. Cô ta lấy tay che mặt mà ngó qua nơi khác. Các cô khác đi tìm ấm chén, pha trà tiếp khách. Sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ cô ta. Đáp:
- Họ Trần, tên Vân Thê.
Sinh nói đùa:
- Thế thì lạ quá. Tiểu sinh này lại đúng là họ Phan(1).

(1) Tích Phan Trần ở một vở kịch của Trung Quốc: Ni cô Trần Diệu Thường và chàng thư sinh Phan Pháp Thành yêu nhau, sau nên vợ nên chồng (ở Việt Nam cũng có truyện thơ nôm Phan Trần).

Ửng hồng đôi má cô ta cúi đầu không nói, đứng dậy ra ngoài. Rồi các đạo cô rót chè, bày quả mời khách và nói rõ họ tên:
Một cô: Bạch Vân Thâm, tuổi chừng ba mươi.
Một cô: Lương Vân Đống, ước hai bốn, hai lăm.
Một cô: Thịnh Vân Miên tuổi đôi mươi trở về.
Còn Vân Thê thì không trở lại nữa. Sinh thấy thế mất vui, nhân hỏi lý do. Cô Bạch đáp:
- Con bé ấy sợ người lạ.
Sinh đứng dậy từ biệt. Cô Bạch hết sức lưu giữ nhưng không được đành hẹn:
- Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai lại đến.
Sinh trở về quê ngoại cứ tưởng nhớ người đẹp không nguôi, cho nên ngay hôm sau đã trở lại am. Các đạo cô khác đều có mặt, lại chỉ vắng Vân Thê, song Sinh chưa tiện hỏi. Các đạo cô sửa soạn cơm mời khách, Sinh cố từ chối không được. Cô Bạch bóc bánh trao đũa khuyên Sinh rất mực niềm nở, ân cần. Chàng sốt ruột hỏi:
- Vân Thê đi đâu?
Đáp:
- Cô ấy sẽ đến.
Ăn uống lâu lâu trời đã xế bóng, Sinh ngỏ ý xin về. Cô Bạch nắm lấy cánh tay giữ lấy, nài nỉ:
- Xin chàng cố lưu lại đây, tôi sẽ bắt con bé phải ra mắt.
Ở đây Chân Dục Sinh nhân Vân Thê họ Trần xưng bừa mình là họ Phan để đùa.
Sinh đành ở lại. Lát sau, họ châm đèn bày rượu. Vân Miên không dự, ra ngoài. Rượu được vài tuần, Sinh kiếu say. Cô Bạch lại nài:
- Xin cứ cạn ba chén nữa, Vân Thê sẽ ra thôi!
Sinh uống đủ số. Cô Lương cũng theo số ấy nài mời. Sinh lại cố cạn hết, úp chén kiếu từ. Cô Bạch quay sang bảo cô Lương:
- Bọn ta phận bạc khuyên mời không đắt. Cô đi ngay dẫn con Trần vào đây, bảo rằng chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi.
Lương ra, lát sau quay lại:
- Vân Thê không chịu tới.
Sinh muốn về nhưng đêm đã khuya, liền vờ say nằm ngay tại chỗ. Hai cô ả liền cởi quần áo chàng ra rồi thay phiên nhau “liễu ép, hoa đòi” suốt đêm làm chàng mệt lử, không chịu nổi. Sáng ra, Sinh chẳng buồn cáo biệt, chuồn thẳng.
Đến mấy ngày sau chàng chẳng dám quay lại nhưng lòng vẫn mê mẩn Vân Thê cho nên bất chợt lại lảng vảng đến gần am thăm dò. Một hôm, trời đã xẩm tối, thoáng thấy cô Bạch đi ra ngoài cùng một gã trẻ tuổi. Còn cô Lương ở nhà thì không đáng sợ lắm. Sinh nghĩ thế làm mừng, vội đến gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng không ở nhà. Hỏi đến Vân Thê. Miên liền dẫn vào một căn viện khác, cất tiếng gọi:
- Vân Thê! Có khách đến đấy!
Chỉ thấy tiếng “binh”, cửa đóng sập lại. Vân Miên cười:
- Thôi. Nó đóng cửa rồi!
Sinh đứng ngoài cửa sổ, dáng băn khoăn như có điều gì muốn nói. Vân Miên ý tứ lảng đi, có tiếng Vân Thê nói qua song cửa.
- Họ chỉ lấy em làm mồi để câu anh đấy. Nếu anh đến luôn sẽ tiêu mạng. Em biết em không thể giữ được phép tắc trong sạch trọn đời, song cũng không dám bừa bãi phạm đến liêm sỉ. Em chỉ muốn được người như chàng Phan để gửi thân!
Sinh xin kết ước cho đến đầu bạc răng long. Vân Thê bảo:
- Công sư phụ em chăm nom nuôi dưỡng cũng không phải dễ. Nếu quả chàng thực bụng thương em, thì chàng phải chạy hai mươi lượng chuộc về. Em đợi chàng ba năm nữa. Còn như muốn bày tỏ “trên bộc trong dâu”(1) thì không thể được đâu.

(1) Trai gái hò hẹn tư thông.

Sinh nhận lời. Còn đang muốn bày tỏ nỗi lòng thì Vân Miên đã trở lại. Sinh đành phải cùng cô ta quay ra, từ biệt mà về. Trong lòng chàng vẫn buồn rầu, những muốn nấn ná gặp gỡ Vân Thê thì bỗng có người nhà đến báo ông thân mệt nặng. Chàng vội vã ngày đêm tất tả trở lại quê.
Không bao lâu ông thân mất. Phu nhân dạy bảo con cái phép tắc rất nghiêm. Chàng không dám lộ chuyện tâm sự, chỉ lo dè sẻn bớt tiêu tiền để dành tiền bạc. Nếu mẹ có bàn tính chuyện hỏi vợ, chàng lấy cớ đại tang từ chối. Bà mẹ không nghe, chàng phải lựa lời nói dối:
- Trước đây ở Hoàng Cương, bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thực đúng sở nguyện. Nay gia đình có việc, tin tức cách trở, đã lâu con chưa đi Hoàng Cương thăm viếng quê ngoại. Nay mai con sẽ đi, nếu việc ở quê ngoại không xong, con sẽ xin vâng mệnh mẹ.
Bà mẹ bằng lòng. Chàng ta tất tả thu xếp tiền để dành được đem theo. Vừa đến Hoàng Cương, chàng vội tới am cũ thì am đã hoang vắng, cảnh vật khác xưa. Tìm vào bên trong, chỉ có một sư già đang thổi nấu. Hỏi thăm tin tức, bà cho biết: ông đạo sĩ già đã tịch, bốn cô Vân đều mỗi người một ngả.
Hỏi đi đâu cả, bà đáp:
- Vân Thâm, Vân Đông bỏ theo mấy gã trai trẻ bợm bãi. Nghe đâu, Vân Thê đến trú ngụ ở phía bắc quận này. Còn Vân Miên thì không có tin tức gì cả.
Sinh nghe vậy mà trong lòng khôn xiết buồn thương, lập tức đánh xe lên bắc quận, gặp đạo quán nào cũng vào hỏi thăm mà tịnh không thấy bóng hồng. Chàng đành ôm hận trở về, lại phải nói dối mẹ:
- Cậu nói Trần công đi Nhạc Châu vắng. Khi nào ông về sẽ báo tin ngay.
Nửa năm sau, phu nhân về thăm quê ngoại đem chuyện đó hỏi mẹ già, bà cụ ngớ người không hiểu ra sao. Phu nhân giận về tội con nói dối, song bà cụ cho rằng hay là cậu cháu nó mưu mô riêng với nhau mà mình chưa biết chăng. May mà ông cậu đi vắng cho nên những điều chàng bịa chưa bị lộ.
Phu nhân lên lễ Phật ở núi Liên Phong, tối ngủ trọ ở dưới núi. Bà đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa buồng dẫn vào một cô tự xưng tên là Trần Vân Thê. Cô ta nghe nói phu nhân ở Di Lăng liền sang giường, rầu rĩ kể lể mọi nỗi trắc trở của mình. Cuối cùng cô ta nói:
- Tôi có ông anh họ Phan là người đồng hương với phu nhân. Xin phiền phu nhân sai con cháu trong nhà nói lại với anh tôi: Tôi đang tạm ở chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại Thê Hạc đạo quán, sớm chiều khổ sở lắm, một ngày đằng đẵng tựa hàng năm. Xin sớm đến cho thấy mặt nhau. Chỉ sợ qua lúc này rồi chưa biết sự tình sẽ ra thế nào?
Phu nhân hỏi Phan tên gì thì đạo cô cũng chịu không rõ, chỉ nói:
- Anh ấy đã đi học trường, các vị tú tài ai mà không biết.
Trời chưa sáng, đạo cô đã từ biệt lên đường, còn ân cần dặn đi dặn lại phu nhân.
Về tới nhà, phu nhân nói lại chuyện ấy với con. Chàng ta quỳ xuống thưa:
- Thú thực với mẹ: cái anh chàng Phan ấy chính thực là con.
Phu nhân căn vặn hết đầu đuôi, bừng bừng nổi giận:
- Con nhà bất hiếu, dám hẹn hò trai gái giữa nơi chùa quán, nếu lấy đạo sĩ thì còn mặt mũi nào với họ hàng thân thích nữa!
Sinh cúi gằm mặt, không dám nói gì.
Đến khi Sinh lên quận dự thi, bí mật đi thuyền đến thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi, Vân Thê đã đi đâu mất từ nửa tháng trước, về đến nhà, Sinh buồn bực phát ốm.
Trong dịp phu nhân qua quê ngoại chịu tang mẹ đẻ, khi trở về lạc đường, vào nhà họ Kinh, không ngờ hỏi ra thì bà ta lại là em họ phu nhân. Phu nhân vào trong nhà bắt gặp một trang thiếu nữ tuổi trạc đôi mươi, dung nhan tuyệt vời. Bà chưa bao giờ thấy một người như thế. Phu nhân thường tâm niệm sao tìm được một cô con dâu thật đẹp để con trai không còn chê trách vào đâu. Nay nhìn thấy cô này thì đẹp ý quá đỗi, mới dò hỏi bà em họ.
Bà cho biết:
- Cô ấy họ Vương, cháu gọi ông Kinh nhà tôi bằng cậu. Cha mẹ nó đều mất cả rồi, nay tạm ở nhờ nhà tôi.
Hỏi:
- Rể là con nhà ai?
Đáp:
- Chưa có.
Hai chị em nắm tay nhau trò chuyện ý hợp tâm đầu. Phu nhân đẹp lòng lắm. Lúc nghỉ lại đấy, bà ngỏ ý riêng với bà Kinh ý định tác thành cho con trai.
Bà ta vui vẻ:
- Xứng đôi quá. Song có lẽ nó còn làm cao, nếu không thì sao còn lần lữa đến giờ. Để em dò ý xem sao.
Phu nhân kéo cô gái đến ngủ chung giường, nói cười cực kỳ cởi mở. Cô ta xin được nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân cả mừng rủ cùng về quê với mình. Cô ta nhận lời, vui vẻ lắm.
Hôm sau hai người xuống thuyền về quê. Đến nơi, Sinh còn ốm chưa dậy được. Muốn đem lại niềm vui cho con đang lúc ốm đau, bà sai con hầu vào ngầm mách với Sinh:
- Phu nhân đã đưa người đẹp về cho công tử đó.
Sinh chưa tin, cố vịn cửa sổ nhòm ra, xa xa nhác thấy cô gái so với Vân Thê còn đẹp hơn nhiều. Nhân nghĩ đến lời ước hẹn ba năm đã qua rồi, đã cất công tìm đến tận nơi thì cô ta lại đi đâu mất. Như thể hoa thơm ắt hẳn đã có chủ. Nay nếu được cô gái đẹp này thì nỗi lòng tưởng nhớ ý trung nhân cũng nguôi được một phần. Nghĩ vậy mà hồng hào lại sắc mặt, bệnh dần khỏi.
Phu nhân cho hai người làm lễ bái kiến. Trước đó phu nhân bảo cô gái:
- Con có hiểu ý mẹ đưa con cùng về chưa?
Cô gái mủm mỉm thưa:
- Dạ, con đã rõ. Song ý con lúc đầu nhận về cùng mẹ thì mẹ chưa biết đâu. Lúc còn nhỏ con đã đính ước với chàng Phan ở Di Lăng, song từ đó bằn bặt âm hao, hẳn chàng đã có bạn đời khác. Nếu quả vậy con sẽ làm dâu của mẹ. Nếu không như vậy thì trọn đòi con là con gái của mẹ, sẽ có ngày báo đáp ân sâu.
Phu nhân ôn tồn:
- Nếu con đã có lời định ước, mẹ không dám ép. Song ngày trước ở núi Ngũ Tổ, có một đạo cô nhắn lời mẹ tới họ Phan, nay con lại nói tới họ Phan. Thế mà mẹ biết các nhà thế tộc ở đất Di Lăng này không có họ ấy.
Cô gái sửng sốt:
- Vậy phu nhân đã nghỉ lại dưới chân núi Liên Phong là mẹ ư? Thế thì người hỏi thăm họ Phan chính là con đấy.
Phu nhân lúc đó mới bừng hiểu, cười mà bảo:
- Ôi, nếu vậy thì Phan Sinh vốn ở ngay tại đây.
Cô gái cuống quýt:
- Thế ở đâu ạ?
Phu nhân sai con hầu dẫn cô gái đến chỗ Sinh. Sinh vừa trông thấy đã kinh ngạc:
- Cô… Vân Thê phải không?
Cô gái lại hỏi:
- Sao biết?
Sinh thuật đầu cuối sự tình, lúc ấy cô mới biết chàng ta nhận bịa họ Phan cốt để đùa. Cô gái biết đúng là người tình cũ rồi mới mắc cỡ bàn chuyện chung thân, sau đó vội quay ra thưa lại với phu nhân. Phu nhân hỏi:
- Thế sao con lại nhận họ Vương.
- Con vốn gốc họ Vương. Chỉ vì đạo sư quý con nhận làm con gái nên đổi theo họ ông.
Thế là mọi sự mắc mớ, trớ trêu nay tình cờ mà đều trở nên rõ rành êm đẹp. Phu nhân mừng quá, chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.
Nguyên trước đây Vân Miên và Vân Thê đều đến nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ở nơi sâu hiểm, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu. Còn Vân Thê vốn người yểu điệu ngây thơ không chịu được khổ ải, lại xấu hổ không dám ra mặt hành nghề đạo sĩ cho nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đi Hoàng Cương, cô gái bắt gặp cứ khóc lóc than vãn. Nhân đó ông dẫn cháu về nhà mình, cho đổi mặc quần áo bình thường, toan tính chuyện hôn nhân cho cháu với người dòng dõi Nho học nên giấu biệt việc cô ta đã từng là đạo sĩ. Song đến lễ vấn danh cô ta không chịu, cậu mợ không biết ý hướng cháu ra sao cho nên không khỏi có phần khó chịu. Đến khi cô ta theo Tang phu nhân, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng vậy.
Lại nói sau lễ hợp cẩn, chàng và nàng cùng nhau tình tự khúc nhôi, mừng quá mà nước mắt ròng ròng. Vân Thê là người hiếu cẩn, phu nhân rất mực thương yêu. Song nàng chỉ những hết chơi đàn đến đánh cờ mà không biết trông coi gia nhân làm ăn khiến phu nhân có phần lo ngại.
Hơn một tháng sau, phu nhân sai hai vợ chồng đến cáo lễ với bên ngoại họ Kinh, lưu lại mấy ngày rồi trở về. Thuyền đang rẽ nước trên sông thì một thuyền khác đi tới, bên trong thấp thoáng một đạo cô. Lại gần thì đúng là Vân Miên. Vốn là hai bạn chí thiết Vân Thê gọi ngay Vân Miên sang thuyền mình hàn huyên mọi nỗi ngọt cay. Hỏi Miên đi đâu, đáp:
- Lâu ngày nhớ nhau quá, tôi đến Thê Hạc đạo quán tìm, thì nghe tin cô đã nương tựa cậu Kinh. Cho nên tôi lại đến Hoàng Cương để thăm cô, biết đâu người ta đã chăn ấm gối êm với ý trung nhân rồi. Nay trông người ta như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt nay không biết bao giờ hết kiếp ấy.
Nói rồi cứ sụt sùi mãi. Vân Thê nghĩ ngay ra một kế: bảo Miên cởi bỏ áo đạo sĩ giả làm chị gái của mình đến ở với phu nhân rồi sẽ từ từ chọn nơi xứng đôi vừa lứa. Miên theo kế ấy.
Về đến nhà, Vân Thê vào thưa trước với phu nhân. Miên vào sau. Cử chỉ cô ta đĩnh đạc kiểu con nhà đại gia, trong khi nói cười rõ vẻ thấu đạt thế cố nhân tình. Phu nhân trong cảnh góa bụa đang khổ vì nỗi vắng vẻ cô đơn nay có Vân Miên thì vui quá, chỉ e cô ta đi mất. Cô ta còn dậy sớm giúp bà mọi việc nặng nhọc, không hề coi mình là khách. Phu nhân lại càng mừng trong bụng, thầm nghĩ hay là cưới thêm cô chị này cho con để át cái tiếng đạo sĩ cho cô em. Cũng mới nghĩ vậy mà chưa dám ngỏ. Một hôm bà quên làm một việc gì đó, vội lại xem sao thì Miên đã thu xếp gọn từ lâu. Nhân đó bà bảo con dâu:
- Người đẹp như tranh mà không chăm lo nổi gia đình thì được việc gì? Con mà như chị ấy thì khỏi phải lo lắng.
Nào ngờ trúng vào ý Vân Thê đã trù tính từ lâu, nói ra chỉ sợ mẹ giận, cô ta cười thưa lại:
- Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu của mẹ chỉ muốn bắt chước Nữ Anh - Nga Hoàng(1), ý mẹ thế nào?

(1) Hai chị em cùng lấy vua Thuấn.

Được lời như cởi tấm lòng, bà mẹ không nói gì nhưng tỏ vẻ đồng tình.
Vân Thê lui vào, bảo chồng:
- Mẹ già ưng rồi đó!
Rồi sai quét dọn sửa sang luôn một buồng riêng và nói với Miên:
- Ngày trước khi chúng ta còn chung gối trong đạo quán, chị đã bảo với em: “Nếu có người biết điều thân ái thì chị em ta cùng phụng sự chung”. Chị còn nhớ không?
Miên bất giác trợn trừng mắt nói:
- Điều mà tôi gọi là “thân ái” ấy không phải là thế này: nếu như ngày ngày lo việc làm ăn, không một ai biết cho những nỗi ngọt bùi cay đắng, mấy ngày tới bởi có chút khó nhọc được mẹ già yêu thương thì trong lòng đã trước sau nóng lạnh, thái độ thay đổi nhanh chóng. Nhược bằng nhà đây không có ý đuổi đi thì xin được sống chung lâu dài với mẹ già. Như thế là đủ thỏa nguyền. Chứ không mong lời nói trước đây thành sự thực.
Vân Thê đem chuyện đó thưa với phu nhân, bà bắt chị em phải thắp hương thề sẽ không oán hối. Rồi sai con làm lễ kết nghĩa vợ chồng.
Khi sắp động phòng hoa chúc, Vân Miên bảo Sinh:
- Em là cô gái già hai ba tuổi đồng trinh đấy.
Sinh chưa tin, song đến khi trên đệm còn đọng vết hồng, lúc ấy mới lấy làm lạ. Miên bày tỏ với chàng:
- Em sở dĩ còn vui thú chồng con, chẳng phải không chịu được cảnh núi non vắng vẻ, song thực là vì tấm thân khuê các không kham được sự thù ứng như nơi kỹ viện. Nhân việc hôn lễ này mà mượn danh tiếng chăng, chỉ là vì chàng mà phụng dưỡng mẹ già, cai quản gia đình. Còn sự vui thú buồng the, xin chàng cứ chia sẻ với người khác.
Ba ngày sau, Miên ôm chăn chiếu sang buồng phu nhân, bà đuổi cũng không đi. Vân Thê biết vậy, vào buồng phu nhân từ sớm, chiếm lấy giường chiếu. Bất đắc dĩ Miên lại phải trở về với Sinh. Bởi vậy từ đó cứ hai ba ngày một lần đổi phiên, dần thành lệ.
Phu nhân vốn thích đánh cờ, từ khi ở góa không còn lúc rảnh mà chơi. Sau khi cô Miên quán xuyến việc nhà cửa, bà được thư thái, hàng ngày mới cùng Vân Thê chơi cờ thỏa thích. Tối đến lại thắp đèn, pha trà ngồi nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới thôi. Bà thường bảo:
- Khi cha bay còn sống cùng chưa bao giờ được vui thế.
Miên trông coi việc xuất nhập, thường ghi chép sổ sách rành mạch để trình báo với phu nhân. Bà hỏi lại:
- Các con thường kể là mồ côi từ tấm bé. Vậy ai dạy cho con học chữ, học cờ?
Vân Thê kể lại sự tình về hai chị em. Bà mẹ cười:
- Hồi trước ta không cho con ta lấy một đạo cô, nay hóa ra lại vớ được cả hai.
Chợt nhớ lại điều thầy tướng đoán cho con hồi còn bé, mới biết số định khó tránh.
Còn Sinh cứ thi đi thi lại không đỗ. Phu nhân bảo con:
- Nhà ta tuy chưa thực dư dật, song ba trăm mẫu bạc điền được Vân Miên trông coi khéo nên ngày càng no ấm. Bên gối ta, đã có con cùng hai nàng dâu hàng ngày vui thú đoàn viên, cho nên ta không mong con phải đi tìm giàu sang chi nữa.
Sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai, một gái. Vân Thê, một gái, ba trai. Bà mẹ hơn tám mươi mới về già. Các cháu đều vào học trường huyện, trường quận. Cháu đích tôn - con Vân Miên - đậu cử nhân.

Nguyễn Văn Huyền dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 30 Aug 2022

Yêu hoa đâu dễ biết hoa (Cát Cân)


Thường Đại Dung, người đất Lạc, rất mê hoa mẫu đơn. Nghe tiếng giống mẫu đơn Tào Châu là đệ nhất, hơn cả giống ở Tề, ở Lỗ. Thường đã có ý đi kiếm. Gặp dịp có việc đến Tào Châu, chàng thuê mảnh vườn nhà thân sĩ để ở.
Lúc ấy vào tháng hai, chưa đến độ hoa mẫu đơn nở, Thường cứ bổi hổi bồi hồi trong vườn, mắt chăm chú theo dõi các cây, những mong thấy được mầm hoa nhú đã rõ ràng. Chàng còn làm đủ một trăm bài thơ tứ tuyệt cùng một đề tài Mong nhớ mẫu đơn. Ít lâu sau mẫu đơn có nụ, lương ăn đã cạn nhưng chàng vẫn mải mê với hoa quên cả chuyện về.
Một sớm Thường ra vườn hoa, đã thấy một cô gái và bà * ở đấy. Chàng ngờ là người nhà quan sang nên quay trở vào. Chiều ra vườn lại thấy họ vẩn vơ ở đó. Nhác thấy Thường, họ thung dung lánh đi. Liếc nhìn thấy cô nàng áo xiêm rực rỡ, chàng đoán là tiên nữ chứ dưới trần làm gì có người như thế! Nghĩ vậy chàng dõi theo bóng, ngoắt đi tìm, qua một hòn núi giả thì giáp mặt bà *. Còn cô con gái đang ngồi trên hòn đá, vừa trông thấy chàng đã tỏ vẻ kinh ngạc. Bà * vội lấy thân mình che cô gái, quát lên:
- Cuồng sinh làm gì vậy?
Chàng ta vội quỳ xuống nói:
- Nương tử đây tất là thần tiên.
Bà * thét:
- Nói càn như thế, đáng phải trói lại giải quan.
Chàng ta hoảng quá. Nhưng cô gái đã mỉm cười bảo và *:
- Thôi, ta đi đi!
Thế rồi họ vòng qua hòn núi đi khuất.
Thường quay về, cất bước không nổi, lòng những sợ cô gái mách với cha thì tất mình không tránh được nhục, về nằm lăn trong căn buồng trống, lại hối hận rằng sao mà mình dám khinh suất, mạo muội đến thế. May mà cô gái không có vẻ giận dữ. Hoặc cô ta không thèm chấp?
Vừa hối, vừa sợ, đêm hôm đó Thường phát ốm. Hôm sau, nửa buổi vẫn chưa thấy có ai đến hỏi tội, đã hơi yên tâm. Song khốn nỗi khi hồi tưởng lại lời ăn tiếng nói cùng hình dung yểu điệu của nàng thì Thường lại đâm ra đắm say mơ tưởng. Cứ như vậy ba ngày, thân hình tiều tụy như một xác chết. Tối ấy, chàng đốt đèn ngồi một mình tới khuya, người đầy tớ cũng đi ngủ rồi, thì bà * gặp ở vườn bữa nọ, bước vào tay cầm một cái âu đưa cho Thường và bảo:
- Nương tử Cát Cân nhà tôi tự tay nấu canh “chim trẫm”(1). Cậu dùng đi!

(1) Một thứ chim độc, ăn vào chết người.

Thường nghe mà hết vía, nói lại với bà:
- Tôi và nương tử trước nav chưa hề có hiềm oán, nay vì sao buộc tôi phải chết? Nếu thực nương tử tự sắc thuốc độc này mà tôi thì ốm tương tư thiếu chết, chi bằng tôi xin uống ngay để chết cho rồi!
Chàng cầm lấy cái âu, uống ực một thôi. Bà * cười, thản nhiên cầm cái âu ra về. Thuốc Thường uống vừa mát vừa thơm dường như không phải thuốc độc. Chỉ lát sau tâm can thư thái, đầu óc tỉnh táo ngủ ngay được. Đến khi tỉnh dậy ánh nắng đã ùa vào nhà. Thường trở dậy bệnh đã tiêu tan. Thường càng tin cô gái đúng là tiên. Chưa thể gặp lại được, nhưng trong lúc vắng Thường vẫn cảm thấy như nàng đứng kia, ngồi đó và thế là chàng lại vái lạy, cầu khẩn.
Một hôm chàng đang đi dạo trong đám cây lá sum sê, chợt giáp mặt cô gái, may đúng lúc không có ai. Chàng mừng quá, phục xuống đất. Cô ta lại gần đỡ dậy, từ người cô ta mùi hương tỏa ra sực nức. Chàng vịn tay cô đứng lên, da thịt cô mềm mại nõn nà làm cho đốt xương chàng cũng dường như muốn mềm ra. Chàng đang định cất lời thì bà * chợt đến. Nàng đẩy chàng nấp vào sau hòn đá, chỉ tay về phía nam, dặn:
- Tối, leo tường trèo thang xuống vườn. Nơi nào bốn phía cửa sổ hồng, ấy là nơi ở của tôi.
Nói rồi vội vã lảng đi. Thường buồn bã, ba hồn bảy vía như lạc đâu mất, không còn biết mình đang ở đâu?
Tối hôm đó, chàng leo lên bức tường phía nam, quả nhiên có cái thang bắc sẵn ở phía trong, liền tụt xuống vườn và nhận ra ngay chỗ có cửa sổ hồng. Trong nhà đang có tiếng quân cờ lách cách. Chàng dừng lại không dám đi tới, chần chừ đứng mãi rồi đành phải leo tường trở về. Lát sau, chàng lại lộn sang, thấy vẫn còn có tiếng ồn ào. Lại gần dòm xem thì cô gái nọ đang ngồi đối diện với một nữ nhân áo trắng, có thị nữ đứng hầu, bà * cũng ngồi ở đó. Chàng lại phải quay về. Qua lại như thế ba lần, trống canh ba cũng đã điểm. Chàng ta đang ở trên đầu thang bỗng có tiếng bà * đi ra, ca cẩm:
- Cái thang này ai đem bắc ra đây thế?
Rồi gọi con hầu cùng khiêng cất đi. Thường vội trèo tuột lên đỉnh tường, muốn xuống lần nữa mà không còn thang, đành ôm hận quay về.
Đêm hôm sau chàng lại mò sang. Thang đã đặt sẵn bên trong tường. May hôm đó vắng người. Lần vào nhà cô gái đang ngồi trầm ngâm một mình. Vừa trông thấy Thường, cô ta hơi có vẻ sợ, vội đứng dậy khép nép, thẹn thò. Chàng chắp tay vái và nói:
- Tự nghĩ mình phúc mỏng, sợ không bao giờ được gần mặt người tiên. Nào ngờ lại có đêm nay!
Nói rồi Thường choàng tay ôm luôn lấy nàng: lưng ong thắt đáy vừa đầy chét tay, hơi thở thoang thoảng như hương lan. Nàng đẩy chàng ra trách:
- Gì mà vội thế?
Thường lả lơi:
- Sự vui cứ phải tức thì, chậm trễ làm gì cho quỷ nó ghen!
Còn chưa dứt lời đã nghe có tiếng văng vẳng. Nàng vội vã thầm thào:
- Em Ngọc Bản đến đấy! Chàng nấp ngay xuống gậm giường này.
Thường buộc phải làm theo. Lát sau một cô gái chạy vào cười nói:
- Bớ tên bại tướng kia! Còn dám to mồm hô “chiến” nữa thôi? Kẻ này đã pha trà có giỏi đến dự cuộc đấu thâu đêm?
Nàng từ tạ, lấy cớ người khó ở. Nhưng Ngọc Bản không chịu tha cố nài. Nàng cứ ngồi yên, không chịu đi. Ngọc Bản chất chưởng:
- Cứ bịn rịn mãi! Hay lại giấu trai ở đây?
Nói rồi, kéo bừa nàng ra khỏi cửa. Lúc sau Thường mới lóp ngóp bò ra khỏi gầm gường, hận quá bèn lục trong gối xem may ra có tìm được một vật tín nào không. Song trong buồng tịnh chẳng có một thứ đồ trang sức nào. Chỉ thấy ở đầu gường có một que ngà “Như ý”(1), phía trên buộc một cái dải tía, vừa thơm, vừa sạch bóng, bèn thủ luôn vào bụng. Rồi trèo tường quay về.

(1) Nhà sang trọng dùng để gãi lưng.


Về đến nhà, khăn áo vẫn còn đượm hương thơm thân thể nàng, nỗi lòng ái mộ lại càng tha thiết. Song Thường cứ nghĩ đến nỗi chui rúc gầm giường bị bắt có thể bị mắc vào tội tày đình thì không còn tâm địa nào muốn trở lại chốn ấy nữa. Nhưng chàng vẫn giữ kỹ cái que “Như ý”, biết đâu nàng chẳng đến tìm. Cách một đêm, quả nhiên nàng tới thật, nàng đã cười lỏn lẻn:
- Cứ ngỡ ai kia là bậc quân tử, biết đâu lại là kẻ trộm cắp thế này!
Thường mừng cuống đáp:
- Có thế thật! Sở dĩ có chút nào chưa phải là bậc quân tử cốt là mong được “như ý” mà thôi.
Nói rồi bả lả ôm nàng vào lòng, lần tay cởi dải… Da ngọc vừa lộ, hương thơm đã tỏa lan bộn bề. Trong lúc đầu ấp má kề, từ hơi thở cho đến mồ hôi ở nàng tỏa ra đều thơm phức. Nhân đó Thường mới tỉ tê:
- Tôi vẫn nghĩ nàng là bậc tiên nữ, nay càng rõ không phải là sai. Giờ may được nàng đoái thương âu cũng là duyên kiếp ba sinh. Song trong lòng vẫn chỉ sợ tiên nương giáng thế rồi lại về trời, kết cục chỉ để lại nỗi hận ly biệt khôn nguôi.
Nàng cười:
- Chàng nói quá lời! Em chẳng qua như nàng thiếu nữ lìa hồn(1) tình cờ mà vướng vòng tình ái. Việc này cần phải kín đáo, sợ lỡ miệng thị phi biến trắng thành đen lúc ấy chàng không thể mọc cánh mà em cũng chẳng cưỡi gió đi đâu được. Như thế thì nỗi biệt ly tai vạ còn thảm gấp bội.

(1) Đời Đường, Trương Dật có người con gái là Thiện Nương vô cùng xinh đẹp, đã hứa gả cho Vương Trụ. Sau Trương đổi ý, định gả cho người khác. Hai người uất hận cùng nhau bỏ trốn sang đất Thục, có với nhau hai mặt con. Năm năm sau, hai người trở về tạ lỗi với Trương. Trương kinh ngạc vì Thiện Nương vẫn ở nhà ốm liệt đã mấy năm trời. Hai Thiện Nương giáp mặt nhau, hóa là một.
Người ta thường dùng điển này chỉ người con gái đa tình hồn lìa khỏi xác theo trai.


Thường xin nghe lời mà trong lòng cứ đinh ninh nàng là tiên, cố gắng hỏi họ tên. Nàng đáp:
- Chàng cứ cho em là tiên, đã là tiên thì cần gì phải lưu truyền tên họ.
Lại hỏi:
- Thế còn bà * già là thế nào?
- Đó là bà Tang. Thuở nhỏ em được bà ta che chở, bù trì, cho nên không coi bà ta như con hầu đầy tớ.
Khi nàng trở dậy sắp sửa ra về còn dặn:
- Ở chỗ em lắm tai nhiều mắt ngó nghiêng dòm dỏ, chẳng thể ở lâu. Cho nên lúc nào có cơ hội, em sẽ đến đây thôi.
Khi từ biệt nàng đòi lại que “Như ý”:
- Cái này không phải của em mà là của Ngọc Bản để quên.
Hỏi Ngọc Bản là ai. Đáp:
- Đó là em con ông chú.
Nói xong, nàng thoăn thoắt gót sen quay về. Vắng bóng nàng rồi mà chăn gối vẫn còn thoang thoảng mùi hương.
Từ đó, cứ hai ba đêm nàng lại tới một lần. Thường mê mẩn tâm thần chẳng còn nghĩ đến chuyện về quê mà túi tiền thì đã sạch sành sanh, đang định phải bán cả ngựa. Nàng biết điều đó bảo Thường:
- Vì em mà chàng phải rỗng túi, đợ khăn, tình không thể nỡ. Lại còn khi chàng quay về quê, đường xa hơn ngàn dặm lấy gì mà đi? Em còn của riêng, có thể giúp chàng một phần trang trải.
Thường từ chối:
- Cảm tạ tấm tình tốt đẹp của em, dù có nát thịt tan xương cũng đền đáp. Thế mà lại còn hèn hạ tham lam, chìa tay lấy tiền của em, như vậy còn giống người gì nữa?
Nàng cố ép:
- Cứ để em thử mượn cho chàng.
Đoạn cầm cánh tay Thường dẫn đến dưới một gốc dâu, chỉ vào một hòn đá bảo:
- Chàng vần nó ra chỗ khác!
Thường làm theo. Nàng lại rút cây trâm trên đầu vạch mươi nhát xuống đất, ra lệnh:
- Chàng bới lên!
Thường làm theo, thấy lộ ra một cái miệng vò. Nàng cúi xuống móc ra gần năm mươi lạng bạc. Thường cầm lấy cánh tay nàng ngăn lại, nhưng nàng không nghe, lại lấy ra thêm hơn mười nén nữa. Chàng trả lại một nửa số.
Một đêm, nàng bảo Thường:
- Gần đây đã hơi có lời đồn đại không lành, tình thế đôi ta như thế này không thể lâu dài được. Cho nên không thể không dự tính kế khác.
Thường cả kinh:
- Làm thế nào bây giờ? Tôi vốn hèn kém thiếu cẩn thận, nay vì chuyện này, tôi như gái góa lỡ tiếc không thể tự chủ được. Giờ nhất xin theo lời em, dù có giáo tì lưng, gươm kề cổ cũng không quản ngại.
Cô gái bàn: Hai người cùng bỏ trốn, chàng thu xếp về trước, hẹn gặp nhau ở quê Lạc sau. Rồi Thường sửa soạn hành trang về quê, định tới nơi sẽ đi đón nàng. Nhưng vừa đến nơi xe nàng đã kề cổng.
Hai người lên nhà gặp gỡ gia nhân xóm giềng đến mừng, không ai biết là hai người đi trốn. Thường vẫn nơm nớp lo âu, song nàng thản nhiên như không, bảo chàng:
- Không kể đến điều ngoài nghìn dặm rồi, thánh cũng chẳng biết lối mà tìm. Mà dù có ai biết chăng nữa thì Trác Vương Tôn có làm gì được Tương Như đâu(1).

(1) Tư Mã Tương Như, người đời Hán, yêu cô gái góa Trác Văn Quân con nhà giàu Trác Vương Tôn, đưa nhau đi trốn. Vương Tôn giận không cho một đồng nhỏ, Tương Như nghèo quá không còn đường sinh nhai liền dựng một cái quán cạnh nhà Vương Tôn, cùng vợ nấu rượu bán, Vương Tôn xấu hổ buộc phải cho con gái của hồi môn và chấp nhận sự đã rồi.


Em trai Thường là Đại Khí, tuổi vừa mười bảy, nàng nhìn thấy khen:
- Chú ấy có bản căn thông tuệ, tiền đồ sẽ hơn chàng nhiều.
Lễ cưới Đại Khí đã định, song vị hôn thê chẳng may chết yểu. Nàng bàn với chồng:
- Con em Ngọc Bản chàng đã từng thấy mặt, dung nhan cũng không đến nỗi nào, lại bằng tuổi chú ấy nhà ta. Có thể thu xếp cho chú ấy nên đôi lứa.
Thường nghe vậy chỉ cười, nói đùa nhờ nàng thu xếp. Nàng bảo:
- Nếu ý chàng quyết, việc ấy không khó.
Thường mừng, hỏi làm cách nào? Đáp:
- Cô ấy với em vô cùng chí thiết. Chỉ cần con ngựa kéo cỗ xe nhẹ và một bà * đi là xong.
Thường sợ lộ chuyện mình không dám theo kế ấy. Nàng quả quyết không hề gì. Rồi lập tức sai đóng xe cử bà Tang đi. Vài ngày sau đến Tào Châu, tới gần cổng làng, bà Tang xuống xe bảo người đánh xe đứng đợi bên đường. Còn bà đợi tối vào làng. Lâu sau trở ra cùng cô em Ngọc Bản lên xe ngựa phi trở về, cứ tối nghỉ sớm đi.
Nàng tính ngày, bảo Đại Khí áo quần chỉnh tề đi đón, cách năm mươi dặm thì gặp. Anh ả cùng ngồi xe trở về nổi nhạc kết đèn làm lễ thành hôn.
Từ đó hai anh em cùng có vợ đẹp, gia cảnh ngày càng trù phú. Một hôm có toán cướp đột nhập nhà Thường. Thường biết có biến, đốc cả nhà rút lên gác.
Cướp vào được nhà, bủa vây chặt căn gác, Thường cúi xuống hỏi:
- Ta có oán thù gì với các ngươi chăng?
Đáp:
- Không có thù oán gì. Song chỉ hai điều đòi hỏi: Một, nghe nói hai phu nhân nhà này tuyệt thế vô song, xin cho tụi này thấy mặt; Hai là, năm mươi tám người có mặt ở đây, xin mỗi người năm trăm đồng.
Rồi chúng chất củi dưới gác, có ý định đốt gác để uy hiếp. Thường bằng lòng để nhận nộp của. Song bọn cướp chưa thỏa mãn, vẫn lăm le đốt gác, gia nhân đều sợ rúm. Nàng muốn cùng Ngọc Bản xuống. Thường không nghe. Nàng vẫn điềm nhiên chỉnh đốn xiêm áo bước xuống. Vừa đến bậc thang thứ ba, nàng dõng dạc bảo bọn cướp:
- Hai chị em ta đều là người tiên cung, chỉ tạm thời giáng hạ trần thế, chúng ta có sợ chi bọn đầu trộm đuôi cướp. Ta muốn cho bay vàng ròng muôn lạng, chỉ sợ tụi bay không dám lấy.
Bọn cướp nhất tề ngước lên vái lạy, đồng thanh nói “không dám”. Hai chị em đang định trở lên, một tên cướp thét to:
- Trò bịp đấy!
Nàng nghe thấy, quay ngoắt người nghiêm giọng:
- Ý bay muốn gì thì cứ giở ngay đi. Chưa muộn đâu!
Bọn cướp lấm lét nhìn nhau không đứa nào dám ho he nữa. Hai chị em cứ thung dung bước lên gác. Bọn cướp ngước nhìn cho đến khi hút bóng nàng, rồi ồn ào giải tán.
Sau đó hai năm, hai chị em sinh mỗi người một trai. Lúc ấy họ mới nói mình họ Ngụy, bà mẹ đẻ được phong làm Tào phu nhân. Thường ngờ vực đất Tào không có nhà thế gia nào họ Ngụy. Vả lại dòng họ lớn mà mất con gái thì họ đâu có chịu yên. Chàng không dám căn vặn nàng đến nơi đến chốn, nhưng trong lòng vẫn ngờ vực. Rồi chàng kiếm cớ trở lại đất Tào, quyết dò tìm tung tích vợ. Biết các thế gia ở đây không ai họ Ngụy cả, Thường tìm đến ông chủ nhà trọ cũ, chợt thấy có treo bài thơ “Tặng Tào phu nhân”, thì rất kinh ngạc. Chàng hỏi kỹ chủ nhân, ông ta cười, mời chàng đi nom mắt ‘Tào phu nhân”, đến nơi thì ra chỉ là cây mẫu đơn. Hỏi vì đâu có tên ấy? Được biết, mẫu đơn là thứ hoa đệ nhất đất Tào cho nên người ta mới phong đùa như vậy. Hỏi đó là giống gì? Đáp: giống Cát Cân tía. Biết được thế, Thường lấy làm kinh hãi đoán rằng cô gái là “tinh hoa”.
Khi trở về chàng không dám kể thực chuyến đi, chỉ hở ra bài thơ “Tặng Tào phu nhân” để dò ướm thử xem. Nàng đột nhiên thất sắc, vụt bỏ ra ngay, gọi Ngọc Bản bồng con đến, bảo Thường:
- Ba năm trước, cảm lòng chàng đoái tưởng tới cho nên không tiếc thân đền đáp. Nay chàng đã mang lòng hồ nghi, thế thì còn ăn ở lâu dài với nhau sao được?
Đoạn hai người cùng tức thời quẳng con ra xa. Hai đứa bé rơi xuống đất chết ngay lập tức. Thường còn đang hoảng hốt cơ sự ấy, hai người đã biến đâu mất. Thường hối hận vô cùng, nhưng than ôi, ăn năn thì sự đã rồi!
Mấy ngày sau ở chỗ hai đứa bé rơi chết, bỗng nảy hai giò mẫu đơn. Chỉ mới một đêm đã cao hai gang. Ngay năm ấy đã nở hoa: một tía, một trắng, đóa hoa to như cái mâm, so với các giống Cát Cân, Ngọc Bản bình thường thì cánh hoa dày dặn hơn nhiều. Mấy năm sau hai cây mẫu đơn ấy sum xuê tươi tốt thành bụi. Nếu bứt đi trồng nơi khác thì lại biến dị, không ra giống gì cả.
Từ đó, nơi nhiều mẫu đơn không đâu hơn đất Lạc.

Nguyễn Văn Huyền dịch

Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 30 Aug 2022

Vụ án tình si (Yên Chi)


Họ Biện ở Đông Xương chuyên nghề chữa bệnh cho trâu. Ông ta có cô gái, tiểu tự là Yên Chi, tài sắc đủ vẻ. Người cha yêu quý lắm muốn chọn gả cho con nhà thanh quý, song những bậc giàu sang lại khinh là xuất thân hèn kém không xứng đáng để thông gia. Bởi vậy cô ta đến tuổi cập kê mà chưa có nơi có chốn.
Ở nhà đối diện có Vương thị - vợ họ Củng - tính khí lả lơi cợt nhả, là bạn trò chuyện tỉ tê trong chốn buồng the của Yên Chi. Một hôm tiễn chân Vương thị ra đến cổng, chợt thấy một chàng trai đi qua, quần áo trắng tinh, phong thái đĩnh đạc, Yên Chi đã có chiều như phải ý, nét thu ba lúng liếng đôi hồi.
Chàng trai cúi đầu rảo bước đi qua. Đi đã xa rồi mà cô nàng còn cứ nhìn theo đăm đắm. Vương thị đoán biết ý tình, mới nói chơi rằng:
- Tài sắc cô thế này mà sánh với người ấy thì không có gì đáng hận.
Cô gái ửng hồng gò má, nín thinh không nói một lời.
Vương thị lại hỏi:
- Cô có biết chàng ta không?
- Không biết.
- Đó là tú tài Thu Chuẩn, con cố cử nhân họ Ngạc ở ngõ Nam. Tôi là người cùng làng nên có biết. Đàn ông trên đời này dễ không ai hòa nhã được như cậu ta. Cậu ta mặc đồ trắng vì tang vợ chưa hết. Cô vừa ý tôi sẽ nhắn lời mai mối cho.
Cô gái vẫn nín thinh. Vương thị cười quay về.
Mấy ngày sau vẫn không có âm hao gì, cô gái cho hoặc là Vương thị bận chưa đi ngay cho được, hoặc họ dòng dõi nhà sang không chịu hạ mình. Rồi cứ bổi hổi bồi hồi, nghĩ quanh nghĩ quẩn đến bỏ cả ăn uống, nằm liệt giường. Vương thị đến thăm, gặng hỏi bệnh tình làm sao. Yên Chi rên rỉ:
- Em cũng chẳng biết vì sao? Từ hôm ấy chị về rồi em cảm thấy khó chịu, hơi thở bây giờ chỉ còn như đi mượn, sớm muộn gì thì em cũng sẽ đi thôi!
Vương thị thầm thì:
- Anh ấy nhà tôi buôn bán chưa về, cho nên chưa có người đánh tiếng đến nhà họ Ngạc, mình ngọc không an, phải vì thế chăng?
Đôi má Yên Chi ửng hồng hồi lâu. Vương thị lại đùa:
- Nếu quả vậy mà bệnh đến thế này thì còn e gì nữa? Trước tiên hãy gặp nhau một tối, chàng ta đến mấy mà lại không ưng.
Cô gái than thở:
- Đúng! Sự tình đến thế này không thể đừng được nữa. Tuy nhiên nếu họ không hiềm nhà em thấp hèn nhờ người mai mối ngay đi thì bệnh em ắt khỏi. Còn như hò hẹn tự tình thì quyết không thể được.
Vương thị cúi đầu, trở về.
Thuở còn đào non, Vương thị đã từng tư thông cùng người học trò trong xóm là Túc Giới. Sau khi Vương thị thành gia thất, Túc cứ rình người chồng vắng nhà là ngựa quen đường cũ, lại tìm đến hú hí với người tình cũ. Tối ấy Túc đến, thị thuật lại chuyện cô gái, cốt làm trò cười rúc rích với tình nhân, lại còn dặn đùa Túc đánh tiếng với Ngạc. Túc biết tiếng cô gái đẹp từ lâu, nghe chuyện ấy mà khấp khởi trong dạ, chuyện này có thể mượn gió bẻ măng. Nhưng muốn cùng mưa tình với tình nhân song lại sợ ả ta ghen, bèn ra vẻ vô tâm, khuấy khỏa hỏi dò đường ngang lối tắt nhà cô gái.
Đêm hôm sau hắn ta trèo tường vào, đến ngay buồng Yên Chi, gõ nhẹ vào cửa. Bên trong có tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Đáp:
- Ngạc đây!
Tiếng cô gái hổn hển nói vọng ra:
- Em sở dĩ nghĩ đến chàng là vì chuyện trăm năm, đâu phải vì một tối. Nếu chàng quả thực yêu thương em thì hãy nhờ mai mối tới ngay. Nếu có ý đòi tư thông thì em quyết không dám vâng lời.
Túc giả vờ ưng thuận, chỉ khẩn cầu được nắm bàn tay thon thả làm tin. Cô gái không nỡ cự tuyệt thẳng thừng, đành gượng dậy mở cửa. Túc nhảy xổ vào ôm chầm lấy đòi điều kia khác. Cô gái không còn sức nào chống cự, ngã quay ra đất, thở không ra hơi. Túc vội dìu lên, cô gái nói đứt đoạn:
- Sao mà tàn ác đến thế!… Tất không phải là Ngạc lang… Nếu quả Ngạc lang con người thuần nhã thấy tôi đau ốm hẳn phải xót thương, có đâu lại cuồng bạo thế này!… Nếu còn vậy tôi buộc phải kêu lên thì sẽ tổn thương đến phẩm hạnh cả hai. Hỏi có ích gì?
Túc sợ bại lộ tung tích, không dám tiếp tục cưỡng bức chỉ xin được hẹn hò gặp gỡ sau này. Cô gái xin chờ ngày nghinh hôn. Túc cho rằng hẹn ấy xa quá, cứ nài nằng. Để chóng thoát khỏi cảnh bài vây cô đành hẹn khi khỏi bệnh. Túc xin vật làm tin cô gái không cho. Túc sấn sổ tuốt lấy chiếc giày thêu của cô gái rồi quay đi. Cô gái gọi, đòi trả lại:
- Đã có lời giao ước, tôi đâu dám tiếc? Chỉ sợ vẽ hổ thành chó, để rồi chịu tiếng chê cười. Nay của tin đã lọt vào tay anh, liệu không thể quay trở lại được nữa. Anh như có lòng nào phụ bạc, tôi chỉ còn một chết mà thôi!
Túc quay trở lại ngủ với Vương thị. Đã đi nằm rồi, hắn vẫn không quên đôi giày, lén thò tay vào túi áo thì giày đã biến đâu mất. Hắn vội vàng dậy che đèn lục lọi áo, lần tìm trong bóng tối. Vương thị thấy thế gặng hỏi, hắn cứ im thin thít. Hắn nghi Vương thị giấu đi. Ả ta lại cứ cười cợt ỡm ờ làm hắn càng nghi. Rồi sốt ruột không kìm giữ được nữa, hắn nói toẹt ra. Nói xong, hắn đốt đuốc ra tìm ngoài nhà nhưng vẫn không thấy, đành nuôi hận quay trở về buồng Vương thị. Hắn vẫn còn hy vọng, đêm hôm khuya khoắt không ai qua lại, nếu có giày rơi thì vẫn còn ở ngoài đường. Tờ mờ sáng hắn đã trở dậy, lục lọi tìm tòi, song vẫn không thấy đâu cả.
Nguyên là, trong ngõ có Mao Đại là tên du thủ du thực, không có nơi ăn chôn ở nhất định. Hắn ve vãn Vương thị nhưng không ăn câu. Lại biết Túc thường lui tới nhà thị nên rình bắt để cho bêu riếu một phen. Đêm ấy hắn qua cổng nhà thị, đẩy cổng vào thì thấy chưa gài, hắn lẻn luôn vào. Vừa đến cửa sổ thì giẫm phải một vật gì mềm mại như nắm lụa. Nhặt lên xem thì ra cái giày con gái bọc trong khăn. Hắn nấp rình nghe được hết mọi điều Túc thuật lại với ả tình nhân, thì mừng rỡ vô cùng, liền quay ra ngay.
Vài đêm sau, hắn vượt tường đột nhập nhà Yên Chi. Vì không thuộc đường đi lối lại, cho nên hắn tới nhầm buồng ông bố. Ông Biện dòm qua cửa sổ thấy có bóng đàn ông, nhác thấy cung cách ấy biết ngay là kẻ gian đi mò gái. Ông ta nổi giận, rút dao xông ngay ra, Mao Đại sợ quá tháo chạy, đang định vọt tường thì ông Biện đã đuổi sát tận nơi. Gấp quá, liệu khó bề tẩu thoát, hắn ngoắt lại cướp lấy dao. Bà Biện trở dậy, thấy thế hô lên. Mao thấy nguy cơ bị tóm, liền sẵn dao chém chết luôn ông Biện.
Yên Chi đã hơi đỡ, nghe tiếng huyên náo, hớt hơ hớt hải vùng dậy. Đốt đèn lên soi thì ông bố đã bị bể sọ không nói được tiếng nào, lát sau chết luôn. Thấy ở chân tường có cái giày thêu của con, bà mẹ tra hỏi, cô gái khóc lóc kể hết tình đầu. Song không nỡ để lụy đến Vương thị, cô gái chỉ nói là Ngạc tự tìm đến mà thôi.
Sáng ra, gia đình họ Biện phát đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt luôn Ngạc. Ngạc vốn là người ngây thơ, chưa từng trải, mười chín tuổi rồi mà gặp khách lạ vẫn thẹn thẹn thò thò như con trẻ. Cho nên khi bị bắt, anh ta sợ hãi quá chừng, trước công đường chẳng biết mở miệng nói năng ra sao, chỉ những run như cầy sấy. Quan huyện thấy cung cách ấy, tin đúng anh ta phạm tội, sai tra tấn rất dữ. Tạng thư sinh yếu ớt, không chịu được đau đớn, Ngạc nhận hết những lời vu khác.
Giải lên quận, tình thế lại diễn ra như ở huyện. Ngạc xin được đối chất với Yên Chi, nhưng vừa giáp mặt, cô gái đinh ninh đó là kẻ giết bố mình, chửi mắng sỉ nhục Ngạc thậm tệ. Ngạc cứng lưỡi không sao giải tỏ được nỗi oan khiên. Do đó Ngạc bị luận án tử hình. Qua mấy tòa quan lớn, vẫn y án.
Sau này được ủy cho phủ Tế Nam phúc lại. Bấy giờ ông Ngô Nam Đại đang làm tri phủ, vừa thấy Ngạc sinh, trong thâm tâm đã ngờ: diện mạo ấy khó có thể là kẻ giết người. Ông ngầm sai người đến nói chuyện, hỏi riêng một cách thoải mái thì càng rõ Ngạc bị oan. Suy ngẫm mấy ngày rồi ông mới hỏi cung lại. Đầu tiên hỏi Yên Chi:
- Sau khi đính ước, có ai biết chuyện không?
- Thưa, không.
- Lúc gặp Ngạc, có còn ai nữa không?
- Thưa, không.
Gọi Ngạc lên, ông ôn tồn, an ủi. Ngạc thưa:
- Khi tôi đi qua cổng ông Biện có thấy người hàng xóm cũ là Vương thị cùng một thiếu nữ đi ra, tôi vội rảo bước, tịnh không nói nửa lời gọi có.
Ông Ngô quay ra quát cô gái:
- Người vừa nói khi gặp Ngạc không có ai ở bên. Sao đây Ngạc lại nói có người đàn bà hàng xóm?
Nói rồi làm vẻ định tra tấn. Cô gái sợ, vội thưa:
- Tuy đúng lúc ấy có Vương thị, song thị không có quan hệ gì tới việc này.
Ông ấy kết thúc cuộc đối chất, sai lính đi bắt Vương thị.
Mấy ngày sau Vương thị đến, ông không cho ả ta liên lạc với cô gái và lập tức thẩm vấn. Hỏi Vương thị:
- Ai là kẻ sát nhân?
Thưa:
- Không biết.
Ông vờ thắt buộc như thật:
- Yên Chi đã cung, việc giết ông Biện nhà ngươi biết hết, sao còn dám giấu?
Vương thị vội kêu:
- Oan con quá! Con dâm nữ ấy phải lòng trai, con tuy có ngỏ ý mối mang chỉ để mua vui thôi. Nó tự dẫn gian phu vào nhà, con đâu có biết!
Ông Ngô truy vẫn cặn kẽ, ả ta thuật lại tỉ mỉ những lời đùa bỡn trước sau. Ông gọi cô gái lên, làm mặt giận dữ:
- Người khai ả ta không liên quan gì, thế sao bây giờ y lại cung cả hai phía?
Cô gái sụt sùi:
- Tự con không ra gì làm cho cha phải chết thê thảm. Kiện tụng chưa biết đến bao giờ mới xong, nếu làm lụy đến người khác thực là bất nhân!
Quan lại hỏi Vương thị:
- Đã cợt nhả quá đáng như thế, sau có nói lại với ai không?
- Thưa không.
Quan vặn lại:
- Vợ chồng tỉ tê đầu gối tay ấp, sao lại có thể không nói được? Lại còn chối?
- Chồng con vắng nhà đã lâu.
- Mặc dù vậy, phàm đã trêu cợt người khác đều là để cười người ta ngu, để tỏ ta đây là giỏi. Thế mà lại không nói với ai? Ngươi còn định dối trá ư?
Rồi quan sai kẹp mười-đầu ngón tay, ả ta không chịu được phải khai thực: “Đã trót hở với Túc”. Quan liền thả Ngạc bắt Túc.
Túc đến, cung là không biết gì cả. Quan phán:
- Đã ngủ ở nhà gái tất không phải là kẻ tử tế.
Sai tra khảo, Túc phải khai thật:
- Đúng là có lừa cô gái, nhưng từ khi đánh mất cái giày thì không dám đến nữa. Còn việc giết người thì quả thực không biết sự thể ra sao.
Quan nổi giận:
- Hừ! Kẻ trèo tường chim gái thì có đâu mà không đến?
Rồi lại sai tra khảo. Đau quá. Túc không chịu nổi, phải nhận cả.
Án thành, cáo lên trên, không ai không khen tài thần minh của ông Ngô. Án sắt như núi, Túc chỉ còn vươn cổ đợi mùa thu chịu hành quyết.
Túc tuy là kẻ phóng đãng song cũng là một kẻ sĩ ở đất Sơn Đông. Nghe thấy ông học sĩ Thi Ngu Sơn(1) là bậc hiền năng, yêu người tài, thương kẻ sĩ, Túc làm một bài từ khiếu oan, lời lẽ rất thống thiết. Thi công nghiên cứu bản cung, lật đi lật lại suy ngẫm, ông vỗ bàn kêu lên: “Tay học trò này oan rồi”.

(1) Tên chính là Nhuận Cương, đỗ tiến sĩ, làm quan học chính đất Sơn Đông, là thầy học tác giả Bồ Tùng Linh.

Ông xin với dinh Tuần, dinh án được tra lại án ấy. Hỏi Túc:
- Để rơi giày ở đâu?
- Bẩm không rõ. Chỉ nhớ khi gõ cửa nhà Vương thị, thì giày vẫn còn trong ống tay áo.
Ông quay sang hỏi Vương thị:
- Ngoài Túc Giới ra, còn thông gian với ai nữa?
- Bẩm, không có ai nữa.
- Đã là kẻ đĩ bợm, đâu chỉ chuyên có một người?
- Con đã trót dan díu với Túc Giới từ thuở nhỏ cho nên chưa thể đoạn tuyệt được, về sau không phải không có kẻ ve vãn, chim chuột, song thực chưa dám đi lại thêm với một ai khác.
Ông bắt nói rõ tên những kẻ ve vãn để chứng thực. Vương thị cung tiếp:
- Kẻ cùng làng là Mao Đại đã mấy lần rồi, lần nào cũng bị cụt hứng.
Thi công châm biếm:
- Gớm nhỉ? Sao tự nhiên lại trinh bạch thế?
Liền sai đánh trượng. Ả ta gục đầu chịu đòn, máu me đầm đìa, song vẫn hết sức biện bạch là quả không còn đi lại với ai khác. Lúc ấy Thi công mới tha đánh, vặn hỏi:
- Chồng ngươi đi xa, há lại không có kẻ nào thác cớ đến gạ gẫm hay sao?
- Thưa, thế thì cũng có. Tên Giáp, tên Ất… đến một vài lần, hoặc vay mượn, hoặc quà cáp.
Những tên Giáp tên Ất này đều là những tên du đãng trong ngõ, cũng có ý định với ả nhưng chưa dám lộ.
Thi công ghi họ tên bọn ấy, sai bắt đến hết, giam chúng ra miếu Thành Hoàng, bắt quỳ phục trước hương án rồi phán bảo:
- Đêm qua ta được thần nhân báo mộng: kẻ sát nhân không ngoài bốn, năm tên lũ bay. Nay trước uy linh thần linh, bay không được dối trá. Đứa nào tự thú được hưởng lượng khoan hồng. Bằng không thì quyết chẳng khoan thứ.
Bọn chúng đều đồng thanh kêu là không có dính dáng đến vụ giết người. Thi công sai đem hết gông cùm, kìm kẹp bày ra trên mặt đất, như thể chuẩn bị gia hình. Chúng bị buộc tóc lại, lột trần truồng ra, nhưng vẫn một mực kêu oan. Thi công sai ngừng gia hình, phán bảo:
- Bay đã không tự nhận thì buộc ta phải nhờ quỷ thần chỉ bảo.
Rồi sai người lấy chăn che kín các cửa đền, không để cho ánh sáng lọt vào; trật trần lưng bọn chúng ra dẫn vào trong buồng tối, đưa một chậu nước vào bắt đứa nào cũng phải rửa tay rồi sắp hàng đứng dưới bức vách. Xong xuôi ông mới ra lệnh:
- Bọn bay phải quay mặt vào vách, cấm không được động đậy để thần nhân viết vào lưng kẻ có tội.
Lát sau, gọi chúng ra kiểm tra, ông chỉ tay vào mặt Mao Đại, thét lớn:
- Đây đúng là tên sát nhân.
Thì ra, Thi công đã sai người xoa than lên vách. Nước rửa tay đưa vào chính là nước muội đèn. Tên giết người sợ thần viết vào lưng, cho nên trong bóng tối đã quay lưng lại tựa vào vách, đến khi sắp ra lại lấy tay che lưng nên trên lưng có vệt đen. Khi thẩm án, Thi công đã có ý nghi Mao, đến bây giờ càng rõ rành. Rồi dùng cực hình tra khảo, Mao phải khai ra hết sự thực.
Sau đó, Mao bị kết án chém đầu, Túc Giới là kẻ sĩ buông tuồng bị giáng một bậc học vị(1).

(1) Đoạn này bỏ không dịch bản văn luận tội vì nội dung lặp lại và nhiều điển cố nặng nề, chỉ tóm tắt mức án (N. V. H).

Văn án được công bố, xa gần đều truyền tụng.
Ngay từ khi được Ngô công phúc án, Yên Chi mới biết Ngạc Thu Chuẩn oan. Mỗi khi ra vào chốn công môn, gặp nhau nàng thường nhìn chàng mà nuốt lệ, tựa như có điều gì đau đớn tiếc nuối mà chưa nói được thành lời. Ngạc cũng cảm động vì tình quyến luyến không che giấu của cô gái, trong lòng cũng rất mực mến yêu. Song lại nghĩ đến điều cô ta xuất thân hèn kém, mỗi khi bị dẫn giải đến nha môn, trăm nghìn người dòm ngó, chỉ trỏ, nếu lấy e sợ người ta chê cười. Bởi vậy cứ ngày đêm nghĩ quanh nghĩ quẩn mà không dám tự quyết được. Văn án cuối cùng được ban bố, trong đó có mấy câu kết về Yên Chi thấu lý đạt tình: “Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng. Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu. Bởi vậy mong quan huyện đứng ra tác thành cho đôi lứa(1)”. Lúc ấy ý Ngạc mới ngả một bề.

(1) Đoạn văn án này ở trong bản văn án không dịch đã nói ở chú thích trên. Người dịch xin phép được đưa vào đây cho đoạn kết thêm rõ.

Và quan huyện đã làm theo đúng lời quyết án.

Lời bàn của tác giả

Rất rõ ràng: xử kiện không thể không hết sức cẩn trọng vậy! Cũng có thể biết người này bị kết oan, song ai biết kẻ kia còn có nhiều điều khuất tất. Tuy sự việc có điều ám muội song ắt thế nào cũng có kẽ hở. Cho nên nếu không suy ngẫm nghiên cứu kỹ thì không thể được vậy! Than ôi! Người ta đều phục cái bậc hiền minh có tài xử đoán ngục tụng, mà không biết dụng tâm của trời già kia cũng thực là công phu vậy. Những bậc cai trị dân trên đời này chỉ biết cờ rượu qua ngày, chăn gấm xỏ tay, dân tình bên dưới khốn đốn, nào có động một chút lòng? Đến khi trống gióng mở cửa công đường thì ngất ngưởng trên cao tót, dưới sân nháo nhác tố khổ thì lại gông cùm trấn áp. Thế thì có lạ gì trong chốn tối tăm còn biết bao nhiêu oan khiên trầm uất.

Nguyễn Văn Huyền dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 03 Sep 2022

Hóa quạ, lấy vợ thần (Trúc Thanh)


Ngư Dung, quê Hồ Nam (người kể chuyện quên mất quận, huyện). Nhà anh ta nghèo lắm, đi thi bị trượt trở về, tiền lưng không còn một đồng dính túi, đói quá phải đi ăn xin. Anh ta vào tạm trú trong miếu Ngô Vương, bi phẫn mà khấn vái trước bàn thờ thần. Ra nằm ngoài hè bỗng có một người dẫn đến yết kiến Ngô Vương. Người ấy quỳ tâu:
- Đội Hắc Y hiện nay còn thiếu một lính, xin cho người này sung vào cho đủ.
Ngô Vương phán được. Ngư được trao một tấm áo đen, mặc vào biến ngay thành quạ, vỗ cánh bay lên. Ra đến ngoài thấy bạn quạ tụ tập thành đàn kéo nhau bay đi, phân ra từng bầy đậu trên các cánh buồm. Người trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không trung, đón đợi tranh thịt. Anh ta cũng bắt chước làm thế, lát sau đã no bụng, bay đậu trên ngọn cây cũng tạm lấy làm mãn nguyện.
Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương tình Ngư Dung còn lẻ bạn ghép cho một con mái tên gọi Trúc Thanh. Đôi vợ chồng mới yêu thương nhau lắm. Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng nguy hiểm. Trúc Thanh nhiều lần nhắc nhở khuyên lơn nhưng Ngư đâu có chịu để vào tai. Một hôm có một người lính đi thuyền qua, bắn cho một phát trúng bụng. May có Trúc Thanh kịp cứu, quắp mang đi Ngư mới thoát nạn. Đàn quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng cuồn cuộn nổi lật úp con thuyền. Còn Trúc Thanh thì cõng mồi mớm cho Ngư. Ngư bị thương nặng, một ngày sau thì chết.
Ngư Dung thốt nhiên bừng tỉnh mộng, mở mắt ra thấy mình nằm trong miếu. Số là trước đó, dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ người thấy còn nóng chưa cứng, liền cử người thay nhau xoa bóp. Đến khi Ngư tỉnh dậy, họ hỏi rõ căn do, liền góp tiền bạc giúp đỡ cho về quê.
Sau đó ba năm Ngư lại qua chốn cũ và bái yết Ngô Vương. Rồi dọn bữa, gọi đàn quạ xuống ăn, khấn rằng:
- Trúc Thanh có đây, xin ở lại gặp!
Ăn no xong, đàn quạ bay đi hết.
Sau Ngư đỗ cử nhân trở về qua đây, lại vào bái yết Ngô Vương, dâng cỗ thịt dê, thịt lợn. Xong lại bày cỗ lớn, mời tất thảy các bạn quạ, lại khấn như trước.
Tôi hôm ấy, thuyền Ngư dừng chèo trên hồ. Chàng đang chong đuốc ngồi chơi bỗng thấy như có một con chim sa xuống trước ghế, nhìn ra thì là một nữ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi tỉnh hỏi thăm:
- Từ khi chia tay đến nay, chàng vẫn mạnh giỏi?
Ngư kinh ngạc hỏi là ai?
Đáp:
- Chàng không nhận ra Trúc Thanh ư?
Ngư mừng quá, hỏi nàng từ đâu đến?
Đáp:
- Ngày nay thiếp làm thần nữ sông Hán, ít khi có dịp về cố hương. Trước đây bạn quạ hai lần kể lại tâm tình luyến ái của chàng cho nên hôm nay đến họp mặt.
Ngư càng bồi hồi cảm động như đôi vợ chồng xa cách lâu ngày, vui thú yêu thương nồng nàn khôn xiết.
Hai người bàn chuyện, Ngư muốn đưa nàng xuôi Nam về quê mình. Nàng lại muốn cùng nhau sang Tây nơi nàng đang làm thần nữ. Khi Ngư tỉnh ngủ thấy nàng đã trở dậy rồi, chung quanh không còn là cảnh chật hẹp trên thuyền mà là một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng trưng. Chàng kinh ngạc trở dậy hỏi:
- Đây là đâu?
Nàng cười:
- Đây là Hán Dương. Nhà thiếp là nhà chàng, hà tất phải xuôi Nam.
Trời dần sáng, kẻ hầu người hạ tề tựu. Rượu thịt đã bày. Hai vợ chồng lên giường cao cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi về người đầy tớ theo hầu mình ở đâu?
Nàng đáp:
- Còn ở thuyền.
Ngư lo nhà thuyền không đợi được lâu. Nàng cho biết:
- Chàng đừng ngại. Thiếp phải giúp chàng báo cho họ biết.
Thế là từ đó vợ chồng ngày đêm vui thú, Ngư quên cả chuyện về.
Lại nói, nhà thuyền tỉnh mộng bỗng thấy mình đã ở Hán Dương, hoảng sợ quá.
Người đầy tớ của Ngư đi tìm chủ cũng chẳng thấy chủ đâu. Nhà thuyền muốn giong thuyền đi nơi khác thì chèo lái tự nhiên bị cột chặt, chỉ còn cách ngồi đấy trông thuyền.
Qua đi hơn hai tháng, Ngư bỗng động tình quê mới bảo nàng rằng:
- Tôi ở đây tuyệt đường thân thích, vả tôi với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần nhận nhà cửa, họ hàng, vậy nên như thế nào đây?
Nàng đáp:
- Không nói đến chuyện thiếp không thể nào đi được, giả sử có đi được thì ở nhà chàng ắt phải có vợ, vậy sẽ xử sự với thiếp thế nào? Chi bằng cứ để thiếp ở đây thành một phòng khác của chàng là được.
Ngư e ngại đường sá quá xa xôi, không thể năng lui tới. Nàng đưa ra một bộ áo đen, bảo chồng:
- Tấm áo cũ của chàng hãy còn đây. Khi chàng nhớ đến thiếp, cứ mặc áo này vào là có thể phút chốc đến được. Rồi thiếp sẽ cởi giúp cho.
Đoạn nàng sai bày tiệc lớn hoan tiễn, đủ các thức ngon lành, quý giá. Sau rồi đi ngủ, khi tỉnh dậy Ngư đã thấy mình ở trong thuyền. Nhìn ra cảnh vật thì bến cũ Động Đình là đây. Nhà thuyền và người đầy tớ còn đủ ở đó. Thấy chàng bất chợt trở về, họ cả kinh, xúm vào hỏi chuyện. Ngư nhớ lại việc vừa xảy ra cũng không khỏi bàng hoàng.
Nhìn quanh, chàng thấy bên gối có cái bọc, giở ra xem thì đủ cả áo mới, giày thêu Trúc Thanh gói tặng, trong đó có tấm áo đen đã một thời thân thuộc. Lại thấy có cả một cái túi thêu có đáy buộc thắt ngang, mở ra thấy đầy tiền bạc. Cứ thế giong buồm xuôi Nam, khi cập bến Ngư trả công cho nhà thuyền khá hậu.
Về nhà được mấy tháng chàng lại cháy lòng nhớ tới Hán Thủy, liền kín đáo giở tấm áo đen ra mặc. Tức thì đôi tay biến thành đôi cánh bay vút lên không. Chỉ độ vài khắc đã đến nơi mong nhớ. Bay liệng nhìn xuống dưới thấy giữa hòn đảo nhỏ đơn độc có một tòa lâu đài, chàng liền hạ cánh xuống. Một thị nữ nhanh mắt trông thấy đã vội reo lên:
- A! Quan nhân đã đến!
Loáng sau, Trúc Thanh đi ra, vội sai những người chung quanh cởi “áo” cho chàng, bộ lông bộ cánh đều trút ra hết. Hai vợ chồng nắm tay nhau bước vào nhà, nàng nhanh nhảu bảo:
- Chàng đến vừa khéo, chỉ nay mai thiếp ở cữ.
Ngư hỏi đùa:
- Nàng đẻ thai hay đẻ trứng?
- Thiếp nay đã là thần, xương da đều đổi khác xưa kia rồi.
Mấy ngày sau quả nhiên nàng sinh nở. Bọc thai to như một quả trứng lớn. Xé vỏ ra là một cậu con trai. Ngư mừng lắm đặt ngay cho là Hán Sản làm kỷ niệm. Ba ngày sau, các thần nữ Hán Thủy đem các vật quý lạ đến mừng. Đó là những cô nàng xinh đẹp không quá ba mươi. Họ đều vào buồng lấy ngón tay gí lên mũi thằng bé, gọi như thế là “tăng thọ”. Họ ra rồi, Ngư hỏi Vợ:
- Đó là những ai vậy?
Đáp:
- Đều là bạn thiếp cả.
Ngư lưu lại vài tháng, Trúc Thanh sai đánh thuyền đưa chàng về quê. Thuyền không phải dùng buồm hoặc mái chèo mà cứ rẽ nước phăng phăng. Cập bờ, đã có người giữ ngựa đứng đợi sẵn, đưa cho chàng cưỡi về. Vì thế chàng cứ qua lại luôn luôn.
Mấy năm sau, Hán Sản lớn lên càng đĩnh ngộ. Ngư yêu quý lắm. Bà vợ họ Hòa ở quê khổ tâm vì nỗi không sinh nở, cứ khao khát được nhìn thấy Hán Sản. Ngư thuật lại nguyện vọng ấy cho Trúc Thanh nghe, nàng liền sắm sửa hành trang cho con theo bố về quê, hạn ba tháng phải quay lại.
Về đến nơi, Hòa thị yêu quý Hán Sản quá con đẻ, để hơn mười tháng không chịu cho về. Một hôm đứa bé đột nhiên mắc bệnh mất. Hòa thị xót thương tưởng chết. Ngư phải đi Hán Thủy báo tin, vừa bước vào đã thấy Hán Sản chân trần nằm chơi trên giường, mừng quá vội hỏi Trúc Thanh. Nàng trả lời:
- Chàng lỗi hẹn lâu quá. Thiếp nhớ con không chịu được phải tìm cách đưa nó về đấy.
Ngư giãi bày, chậm là do Hòa thị quá mến con. Nàng hẹn:
- Thôi đợi thiếp sinh nở tiếp rồi cho Hán Sản về hẳn quê.
Quả nhiên một năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái là Ngọc Bội. Ngư bèn dẫn Hán Sản về. Song mỗi năm ba bốn lần đi lại thăm nom không được tiện, cho nên Ngư chuyển nhà luôn tới Hán Dương.
Hán Sản mười hai tuổi vào học trường quận. Nàng cho là ở trần thế không có người đẹp, gọi con về Hán Thủy cưới vợ - tên là Hỗ Nương - cũng là con gái thần nữ, rồi mới cho trở về quê.
Sau Hòa thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang như mẹ đẻ. Tang lễ xong xuôi, Hán Sản lưu lại quê cũ còn Ngư Dung dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi hẳn không thấy trở về nữa.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 04 Sep 2022

Nối giấc kê vàng (Tục Hoàng lương)


Mới đỗ ông nghè đã tự kiêu
Càng nghe tâng bốc, lại như diều
Nồi kê tích cũ không chi lạ
Giấc mộng giàu sang có bấy nhiêu!


Ông cử họ Tăng người Phúc Kiến, lúc vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ vừa xong, cùng hai ông bạn tân khoa đi chơi ngoài thành. Chợt nghe trong chùa Bi Lô có một thầy xem số tử vi ở trọ, liền rẽ ngựa tới đó bói một quẻ.
Tăng vào, nghênh ngang tự ngồi chẳng đợi ai mời chào. Thầy tướng thấy người có vẻ tự đắc, bèn kiếm lời nịnh hót thêm. Tăng cầm quạt phe phẩy, mỉm cười, hất hàm hỏi thầy tướng coi mình có số mệnh mặc mãng bào, đeo đai ngọc triều phục của Tể tướng hay không?
Thầy tướng nghiêm trang nói Tăng sẽ làm Tể tướng yên ổn trong hai mươi năm. Tăng mừng lắm, vẻ mặt càng kiêu. Nhằm lúc trời mưa nhỏ bèn nhủ bạn vào trong chùa nhà thầy tạm ẩn. Một vị sư già, mũi cao mắt lõm, ngồi trên nệm cỏ, ngạo mạn không chào hỏi gì. Mấy người giơ tay chào qua loa, rồi tự leo lên giường ngồi nói chuyện với nhau. Ai nấy đều mừng Tăng là Tể tướng. Tăng càng nở mũi tự kiêu trỏ bạn đồng du mà nói:
- Lúc nào tôi làm Tể tướng, tôi cử Trương huynh làm Tuần phủ một tỉnh miền Nam; ông anh cô cậu với tôi làm chức Tham du; lão bộc nhà tôi cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện.
Mọi người cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa như trút nước. Tăng mỏi mệt, ngả người lên giường mà ngủ.
Bỗng thấy hai vị trung sứ đem tờ chiếu chỉ của Thiên tử viết tay, đến vời Tăng tể tướng vào triều bàn định việc nước. Tăng khoái chí, lật đật vào chầu. Ngài Ngự bước ra nghênh tiếp hỏi han niềm nở giây lâu, rồi truyền cho Tăng được tự quyền bổ các quan tam phẩm trở xuống; lại ban cho mãng ngọc và ngựa quý. Tăng mặc áo mãng bào, mang đai ngọc cúi đầu tạ ơn rồi đi ra.
Về nhà thì thấy nhà mình ở cũ bây giờ là dinh thự, cột chạm cửa sơn, rất mực lộng lẫy, đến nỗi chính Tăng cũng không hiểu vì đâu mình chóng vinh hiển đến thế này. Chỉ biết giờ phút này cất tiếng khẽ gọi, đã nghe những tiếng vâng dạ vang như sấm dậy. Rồi thì các quan công khanh đem biếu sơn hào hải vị, tấp nập ngoài cổng. Các quan Lục khanh (tức Lục bộ thượng thư) tới thăm thì Tăng còn đứng dậy chào mời; hạng Thị lang thì xá và nói chuyện với, còn từ hạng đó trở xuống, Tăng chỉ trả lời bằng cái gật đầu mà thôi.
Tuần phụ Sơn Tây gửi tặng một phường nữ nhạc mười người đều là gái mỹ miều son trẻ. Đẹp nhất là Niễu Niễu và Tiên Tiên, hai người càng được yêu quý, hầu hạ vấn tóc gội đầu, ngày ngày đàn hát làm vui.
Một hôm, nhớ lại hồi mình còn hàn vi, thường được một thân sĩ trong làng là Vương Tử Lương giúp đỡ nay mình đã chót vót mây xanh, mà ông còn lênh đênh trên đường sĩ hoạn, sao không đưa tay dìu dắt ông ấy một phen?
Sáng hôm sau, Tăng dâng sớ tiến cử Vương làm chức Gián nghị, liền được vua giáng chỉ bổ dụng ngay.
Lại nghĩ đến lão Quách Thái bộc từng trợn mắt gây gổ với mình liền mời bọn Lữ Cấp gián và thị ngự Trần Xương tới, mách bảo ý tứ; rồi ngày hôm sau bọn ấy kế tiếp nhau dâng sớ kể tội Quách Thái bộc làm cho ông này bị cách chức và bị đuổi về vườn.
Xong việc đền ơn trả oán, Tăng hơi mát lòng khoái ý.
Bữa nọ quan Tể tướng đi chơi ngoài thành, một anh chàng say rượu đi loạng choạng thế nào đụng vào cờ quạt giàn hầu của ngài, ngài liền thét lính trói cổ và giải đến dinh Phủ doãn kinh thành. Lập tức anh ta bị đánh đòn đến chết.
Những người có nhà cửa nguy nga, ruộng nương bát ngát, đều sợ quyền thế mà dâng đất đai màu mỡ. Từ đó Tăng càng trở nên giàu có.
Không bao lâu Niễu Niễu và Tiên Tiên kế tiếp qua đời. Tăng khuya sớm bâng khuâng, chợt nhớ lại năm nọ, mình trông thấy con gái ở xóm Đông tuyệt đẹp, thường ao ước mua nàng về làm hầu thiếp, nhưng vì hồi đó còn nghèo nàn chẳng được như nguyện. Bây giờ có địa vị cao sang, muốn sao được vậy, liền sai mấy đứa tôi tớ giỏi đem tiền đến ấn đại vào nhà nàng mà bắt nàng đi. Một lúc, võng khiêng nàng vào dinh. Tăng trông thấy so sánh với khi mình trông thấy ngày trước, giờ nàng càng đẹp hơn. Nghĩ lại bình sinh như vậy đủ mãn nguyện.
Hơn một năm, xem ra các quan trong triều có ý thầm thì bàn tán, trong bụng chê bai, nhưng chẳng ông nào dám nói ra miệng.
Tăng thấy vậy càng vênh váo nghênh ngang, chẳng thèm bận lòng để ý.
Có quan Long đồ học sĩ, họ Bao, dâng sớ hạch tội Tăng, đại lược như sau:
“Thiết nghĩ: Tăng mỗ nguyên là một đứa rượu chè cờ bạc đàng điếm tiểu nhân, một lời nói hợp ý mà được hoàng thượng tin dùng, cha con vẻ vang, ơn huệ tột bậc. Thế mà chẳng nghĩ làm sao dốc lòng hiến thân, báo đáp ơn vua trong muôn một; lại dám lòng dạ buông lung, tự tiện làm điều oai, phúc, cái tội đáng chết, nhổ tóc mà đếm cũng không đủ.
“Danh vị quý báu của triều đình coi như món hàng đem bán lấy tiền làm giàu, tha hồ so đo gầy béo, đánh giá hơn thua, vì đó mà công khanh tướng sĩ đều phải luồn lọt tới lui nhà hắn, tính toán lo lót, như tuồng bán buôn, núp bóng nhờ hơi kể sao cho xiết. Hoặc có người là hạng kiệt sĩ hiền thần, không chịu a dua theo hắn, nhẹ thì đuổi về vườn, nặng thì giáng xuống làm lính. Rất đỗi không về hùa với hắn, liền bị buộc tội hươu vượn không đâu, đầy đi những chốn hùm beo xa lắc. Nhân sĩ thấy mà lạnh mình, triều đình hóa ra cô lập.
“Lại còn máu mỡ của dân, tha hồ bóc lột, con gái lương thiện, ép uổng làm hầu; đến nỗi tiếng oán than dậy, khí uất xông lên, mặt trời cũng phải vì đó mà u ám.
“Tôi tớ của hắn đi tới đâu, thì quan lại địa phương phải nể mặt, thư từ hắn gửi tới đâu, thì người cầm quyền tư pháp ở đó phải làm trái phép cho được chiều lòng. Có khi con cái bọn nấu ăn, giữ ngựa cho hắn, hoặc là bà con đi đâu cũng hạch sách ngựa trâu, hò hét như sấm vang gió bão, hễ địa phương cung cấp hơi trễ, là roi vọt lập tức ra oai. Thôi thì chúng ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, thầy trò đi tới chỗ nào thì đồng ruộng chỗ ấy không còn một ngọn cỏ xanh.
“Trong khi đó, Tăng mỗ vênh mặt ỷ mình đắc thế, không chút ăn năn; khi ở trong triều đình thì giả dối xảo trá trước mặt vua, chưa về tới nhà thì đàn ngọt hát hay đã chờ sẵn. Thanh sắc cẩu mã ngày đêm hoang dâm, quốc kế dân sinh không chút lo nghĩ, ở đời há có thứ Tể tướng như vậy được ư?
“Vì thế, trong ngoài xôn xao, nhân tâm hồi hộp nếu không kịp trị bệnh bằng hình phạt búa rìu, thể tất gây nên cái họa Tháo Mãng cướp nước. Hạ thần sớm tối lo lắng, không dám có lúc nào ăn ngon ngủ yên, liều chết để ra các khoản trên đây, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh chém đầu gian nịnh, tịch của tham ô, hầu trên hợp ý trời, dưới khoái lòng dân. Nếu xét ra thần bày dặt chuyện, thì dao búa vạc dầu xin làm tội thần lập tức v.v…”

Sớ này dâng lên vua, Tăng nghe hồn xiêu phách lạc, lạnh mình như uống băng; nhưng may nhờ vua khoan dung, xem sớ bỏ đó, không hỏi gì cả.
Tiếp đến các quan trong triều, ngoài quận thi nhau dâng sớ đàn hạch tội trạng của Tăng. Ngay bọn xưa kia xin làm đồ đệ, thờ kính bằng cha, nay cũng đổi lòng trở mặt, theo hùa hạch tội như thường.
Bấy giờ vua mới giáng chỉ tịch thu gia sản và bắt Táng đi làm lính ở Vân Nam. Người con y làm Thái thú quận Bình Dương, triều đình cũng sai quan ra tận nơi xét hỏi.
Tăng ở nhà nghe tin con, đang kinh hoảng đau xót thấy có mấy người võ sĩ, nách gươm tay mác, vào thẳng buồng, lột áo mão của Tăng, trói chung với vợ. Tiếp thấy bọn lính chuyển vận của cải trong nhà ngoài sân, vàng bạc tiền nong đến mấy trăm vạn; hột châu ngọc quý đến mấy trăm hộc, những thứ chăn màn giường chiếu cũng mấy ngàn món. Đến nỗi những áo lót trẻ con và giày tất đàn bà, rơi vãi lung tung ở trên thềm. Tăng nhất nhất trông thấy như đâm vào tim, chọc vào mắt.
Giây lát một người lính túm cổ nàng hầu đẹp của Tăng lôi ra, đầu bù miệng mếu, mặt ngọc tái xanh khiến Tăng càng bi thảm như lửa đốt ruột gan, nhưng nén tủi nuốt thương mà không dám nói.
Rồi thì lâu đài kho vựa, niêm phong đâu đó xong xuôi, võ sĩ mới thét Tăng ra đi. Người cầm đầu toán lính áp giải, lôi kéo bắt đi thật mau.
Vợ chồng Tăng thổn thức lên đường; lúc này cầu lấy một con ngựa xoàng, cỗ xe xấu cho đỡ mỏi chân cũng không thể được.
Đi được ngoài mười dặm vợ mỏi chân, đuối sức, loạng choạng muốn ngã, Tăng đưa một tay ra nâng đỡ vợ. Lại đi hơn mười dặm nữa, chính mình cũng mỏi mệt hết hơi; xa trông thấy những ngọn núi cao ngất mây xanh, tự lo không thể trèo nổi. Chốc chốc lại nắm tay vợ nhìn nhau khóc sướt mướt nhưng chủ cai trợn mắt ra oai, không cho ngừng bước tí nào. Lại thấy mặt trời đã lặn, mà từ phía núi non, không có nơi nào khả dĩ ngủ đỡ, cực chẳng đã, vợ chồng níu nhau, cà nhắc đi lần từng bước.
Khi đến sườn núi vợ đã kiệt sức, ngồi phịch bên đường mà khóc. Tăng cũng đánh liều ngồi nghỉ, mặc kệ chủ cai mắng chửi.
Bỗng nghe trăm tiếng nổi lên ồn ào, một tốp trộm cướp vác dáo dài, dao nhọn nhảy qua lề đường mà tiến đến trước mặt. Chủ cai hoảng sợ bỏ chạy, Tăng quỳ mọp nói với bọn cướp rằng mình làm quan bị cách chức và đi đày xa, trơ trọi một thân, trong hành lý chẳng có tài vật gì đáng giá, năn nỉ chúng tha cho làm phúc.
Bọn cướp trợn mắt nói:
- Tụi tao đều là lương dân bị hại, chỉ lấy cái đầu thằng nghịch tặc mà thôi, ngoài ra không đòi hỏi gì hết.
Tăng nổi giận:
- Tao dù mắc tội, cũng là quan lớn của triều đình, lũ bay là lâu la giặc cỏ, sao dám hỗn xược như thế?
Bọn cướp nổi xung, huơ búa lớn chặt cổ Tăng, nghe đầu rơi xuống đất một tiếng huỵch.
Hồn vía đang hãi hùng bỡ ngỡ liền có hai quỷ sứ đến nắm lấy tay lôi đi. Đi mấy khắc đồng hồ, vào một nơi đô hội. Giây lát trông thấy một tòa cung điện trang nghiêm, trên điện một vị Vương giả mặt mày dữ tợn, ngồi chễm chệ xét xử tội phúc. Tăng khúm núm ngồi xuống đợi lệnh.
Vương giả mở tập hồ sơ ra xem qua mấy hàng, bỗng thịnh nộ thét lớn:
- Thằng này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu!
Lũ quỷ dạ ran, muôn miệng họa theo, tiếng như sấm sét.
Tức thời có những quỷ cao lớn chặn lại, túm cổ Tăng lôi xuống giữa sân, thấy cái vạc dầu cao chừng bảy thước bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run rẩy kêu gào, muốn chạy trốn cũng chẳng được, quỷ lấy tay trái nắm tóc, tay mặt xách cẳng đưa bổng Tăng lên mà ném vào vạc dầu. Tăng thấy mình tùy theo dầu sôi mà nổi lên chìm xuống, da thịt cháy bỏng, đau buốt đến tận tim, dầu, sôi vào miệng, phanh xé ruột gan, ý muốn cho mau chết nhưng lại không chết liền cho. Phỏng chừng xong xuôi bữa ăn, quỷ mới cầm cây nĩa lớn khều Tăng ra ngoài, lại đặt dưới thềm.
Bấy giờ, Vương giả lại kiểm sổ sách, nổi giận và nói:
- Nó cậy thế hiếp người, phải xử phạt núi đao phanh thây xé xác nó mới xứng!
Quỷ lại lôi Tăng đi, đến chỗ thấy một trái núi không to lớn lắm nhưng đá mọc dựng đứng chung quanh có đao nhọn đâm ra ngang dọc tua tủa, như những khóm măng dày kiến. Đã sẵn có mấy người bị đâm bụng thọc ruột đang vướng trên đó, nghe tiếng họ kêu gào và trông thấy cảnh tượng mà thương tâm thảm mục. Quỷ giục Tăng leo lên. Tăng khóc rống lùi trở lại, quỷ cầm dùi nhọn đâm vào óc, Tăng đau quá, kêu van năn nỉ, khiến quỷ nổi giận, chụp lấy Tăng rồi ra sức tung bổng lên không.
Tăng thấy mình lơ lửng trên không, rồi rơi xuống một bụi gai, mũi dao nhọn đâm thẳng vào bụng, đau đớn không sao tả xiết. Giây lát, vì thân thể nặng nề, thành ra lỗ dao đâm dần dà khoét rộng, rồi mới rớt xuống đất, chân tay rúm lại. Quỷ lại dẫn vào trước mặt Vương giả.
Vương giả sai người tính sổ coi một đời Tăng bán chức buôn danh, cướp đoạt của cải thiên hạ, cộng lại số tiền là bao nhiêu? Tức thời, có người rậm râu, đứng gảy con toán rồi đáp: “Hết thảy là ba trăm hai mươi tư muôn”.
Vương giả nói:
- Nó đã chứa vào, giờ bắt nó phải uống đi!
Một lát, bầy quỷ khiêng vác tiền bạc ra xếp đống dưới thềm, cao như gò núi. Đoạn, bỏ lần vào trong nồi gang, chất lửa mà nấu cho hóa ra nước.
Mấy đứa quỷ sứ thay phiên nhau lấy gáo múc nước ấy đổ vào miệng Tăng tràn qua hai má thì da thịt cháy xèo xèo, vào tới cuống họng thì ruột gan sôi lên sùng sục. Sinh thời chỉ lo cái vật ấy thu vào ít bây giờ lại sợ nó đến mình quá nhiều.
Công việc bắt uống vàng bạc tới nửa ngày mới xong. Vương giả sai người áp giải Tăng đi cẩm Khâu, chuyển sinh làm con gái.
Đi độ vài bước, thấy trên giàn cao, gác một cây dầm bằng sắt, chu vi độ mấy thước, buộc một bánh xe khổng lồ, rộng lớn không biết là mấy trăm dặm, sáng lòe năm sắc, chiếu rọi mây xanh. Quỷ cầm roi vụt Tăng, bắt phải leo lên bánh xe ấy. Tăng vừa nhắm mắt leo lên thì bánh xe quay tít, dường như bị té rơi xuống, khắp thân thể mát lạnh, té ra đã hóa làm đứa trẻ sơ sinh, mà lại là con gái.
Rồi nhìn tới cha mẹ, thì áo rách quần manh, ở trong lều tranh vách đất, bị gậy treo kia, bay giờ Tầng mới tự biết mình đã chuyển sinh làm con kẻ ăn mày.
Lớn lên, ngày ngày đi theo lũ trẻ đồng bối ăn mày ăn xin khắp nơi. Cái bụng lép kẹp, không một bữa nào được ăn no, mình mặc áo rách tả tơi, gió thổi lạnh buốt thấu xương. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đem bán làm nàng hầu ông tú tài họ Cố, tuy cơm áo hơi đủ no ấm, nhưng phải người vợ lớn độc dữ, hàng ngày roi vọt đánh đập luôn tay, lại nung sắt đỏ mà đốt *. May được ông chồng khá thương yêu, cho nên tự an ủi đôi chút. Xóm bên đông có một thiếu niên hung tợn leo tường sang nhà, ép phải giao hoan với nó. Nàng tự nghĩ kiếp trước của mình làm nên tội ác nhũng gì, để bị quỷ sứ hình phạt khắc nghiệt rồi, có lý đâu kiếp này lại phải chịu nhuốc nhơ lép vế thế này nữa, nàng bèn kêu cứu ầm lên. Chổng và vợ lớn vùng dậy, tên thiếu niên kia mới chạy trốn.
Không bao lâu, một đêm ông tú qua buồng nàng nằm ngủ, đầu gối tay ấp, nàng đang rủ rỉ kể nỗi oan khổ của mình cho chồng nghe, bỗng dưng có tiếng hét vang, cửa buồng mở toang, hai tên côn đồ xách dao áp vào chặt đầu ông tú rồi vơ vét áo xống đồ vật mà đi. Nàng cuộn tròn trong chăn, không dám ho he. Bọn côn đồ đi rồi, mới kêu la ầm và chạy lên buồng vợ lớn. Chị này cả kinh, ôm thây chồng khóc lóc, nghĩ nàng đưa tình nhân đến giết chồng, bèn làm đơn trình quan Thứ sử bản hạt.
Nàng bị bắt và bị tra tấn đau quá, buộc phải nhận tội. Quan kết án lăng trì (lóc từng miếng thịt) xử tử.
Lính trói dẫn ra chỗ hành hình, trong bụng nàng nghẹn ngào nỗi mình oan uổng, vừa đi vừa la trời cho rằng trên trần dưới âm, không có tình cảnh nào đen tối hơn thế này. Đang lúc kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn đồng du lay gọi:
- Anh bị ma đè hay sao mà la dữ thế.
Bấy giờ Tăng mới tỉnh giấc, thấy vị sư già vẫn ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Các bạn xúm lại hỏi: “Trời chiều bụng đói sao anh ngủ ngon thế?” Tăng buồn rười rượi đứng lên, sư già mỉm cười hỏi:
- Quẻ bói tể tướng đã thấy nghiệm chưa?
Tăng càng kinh hãi chắp tay vái sư và hỏi tại sao mà biết. Sư nói:
- Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có bóng sen nở ra chứ bần tăng có biết gì đâu!
Tăng vênh mặt khi đến, bây giờ xuôi xị trở về, cái ý nghĩ đài các, từ đó nguội lạnh, rồi vào núi tu, về sau thế nào không rõ.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 04 Sep 2022

Tình nghĩa với chim (A Anh)


Cam Ngọc, tự Bích Nhân, người quận Lô Lăng, cha mẹ mất sớm còn người em trai, tên Giác tự Song Bích, mới có năm tuổi, nhờ anh chị nuôi nấng.
Người rất hữu ái, chăm nom em không khác gì con ruột. Năm tháng qua đi, Giác trưởng thành, mặt mày khôi ngô lại thông minh học giỏi, cho nên Ngọc càng quý, thường nói:
- Thằng em ta lỗi lạc thế này, phải có vợ tài mạo song toàn mới xứng đáng.
Nhưng kén chọn khó tính quá, thành ra dạm hỏi chẳng xong đám nào. Một hôm, Ngọc lên chùa núi Khuông Sơn đọc sách rồi ngủ lại đó, gần khuya đi nằm nghe bên ngoài cửa sổ có tiếng con gái thỏ thẻ, nhìn ra, thấy ba bốn cô gái ngồi xúm nhau trên bãi cỏ, mấy con tớ gái bày rượu và đồ nhắm, cả bọn đều có sắc đẹp. Một cô hỏi:
- Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không đến chơi với chị em ta?
Cô gái ngồi hàng cuối trả lời:
- Bữa qua nó từ cửa ải Hàm Cốc đến đây bị một thằng hung bạo làm đau cánh tay phải; cho nên không thể cùng chị em mình ngao du đêm nay.
Mỗi người mỗi lời, tỏ vẻ tức tối cho A Anh. Rồi một cô gái nói:
- Đêm trước nằm chiêm bao ghê quá, hôm nay nhớ lại còn toát mồ hôi.
Cô ngồi hàng cuối xua tay gạt đi:
- Chớ nói ra! Chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói chuyện nhát sợ người ta mất khoái đi.
- Con bé này sao nhát gan đến thế! Nó làm như beo cọp đến vồ đi chăng? Nếu muốn cho ta đừng nói thì phải một bài chuốc chén cho chị đây.
Cô nọ liền ngâm nho nhỏ:

Bông đào đua nở đầy thềm tốt tươi
Hôm qua hẹn ước chớ có đơn sai
Nhắn nhủ cô em bên xóm
Đợi nhau chút đỉnh chớ nên giục tôi
Mang giày cánh phụng rồi tôi tới nơi.


Cô ngâm xong, cử tọa đều tấm tắc khen hay.
Giữa lúc chị em đang vui cười, bỗng một người to lớn hầm hầm đi vào, mắt lồi mặt dữ tợn, các cô cùng hoảng hốt, la lên:
- Yêu tinh đến đó! Yêu tinh đến đó!
Rồi mạnh ai nấy chạy tán loạn, như chim lạc đàn, duy cô vừa mới hát không chạy kịp, bị yêu tinh bắt được, kêu la thảm thiết, cố sức giằng co để gỡ mình ra. Yêu tinh giận dữ, cắt đứt một ngón tay của cô mà nhai liền đó. Cô ngã xuống đất chết giấc.
Cam Ngọc nhìn thấy động lòng xót thương không sao nhịn được, lập tức rút gươm mở cửa xông ra, chém yêu tinh, trúng vào bắp vế đứt lìa, nó đau quá chạy mất.
Ngọc đỡ nàng vào nhà, thấy mặt đầy cát bụi, máu thấm ướt áo, té ra đứt ngón tay cái, liền xé vải buộc lại cho nàng. Bấy giờ nàng mới tỉnh, nói rên rỉ:
- Cái ơn cứu mạng, lấy gì báo đền?
Từ khi Ngọc trông thấy nàng, đã ngầm tính tới chuyện làm mai cho em, bèn ngỏ ý với nàng, nàng nói:
- Con người có tật như tôi, không thể làm việc nội trợ được nữa, để tôi làm mai một người cho em ông.
- Người ấy họ chi?
- Cô ấy họ Tần.
Đoạn, Ngọc tự lấy chăn của mình đắp cho nàng. Hôm sau, Ngọc về thuật chuyện với em, lấy làm hối hận không hỏi nàng cửa nhà làng xóm ở đâu.
Một hôm, em Ngọc là Giác ngẫu nhiên đi chơi ngoài đồng, gặp một cô xuân xanh đôi tám, mặt mày cực xinh, ngó chàng mà cười chúm chím, sau liếc quanh bốn phía rồi nói:
- Cậu có phải là cậu Hai họ Cam đó không?
- Thưa phải, chính tôi!
- Ông cụ thân sinh ra cậu hồi xưa có đính ước hôn nhân cho cậu với tôi, sao hôm nay cậu lại muốn trái lời ước cũ, đi dạm hỏi họ Tần?
- Thưa cô, tôi mồ côi cha từ hồi còn bé, cho nên những lời hẹn hò thế nào, không từng hay biết. Vậy xin cô nói rõ tên họ, để tôi về hỏi lại anh tôi.
- Thôi cậu ạ, không cần tra hỏi tỉ mỉ làm chi. Miễn được cậu ừ một tiếng, rồi tôi sẽ tự đến nhà.
Giác từ chối, lấy cớ chưa nói với anh, không dám hứa bừa. Nàng cau mặt nói:
- Cậu này ngây thơ quá, sợ anh đến thế ư? Đã vậy thì thôi, nói cho biết: Tôi đây họ Lục ở thôn Sơn Vọng thuộc về Sơn Đông. Nội trong ba bữa tôi đợi tin cậu đấy.
Nói đoạn, nàng từ giã đi.
Giác về thuật chuyện với anh. Anh nói:
- Con đó nói láo. Hồi cha mất, tao đã ngoài hai mươi tuổi, nếu có chuyện đính hôn đó, lẽ nào tao lại không hay.
Ngọc lại nghĩ, con gái đi một mình ngoài đồng, gặp đàn ông con trai tự dưng bắt chuyện như thế là hạng gái không ra gì, cho nên trong lòng khinh bỉ, không thèm để ý. Tuy nhiên, cũng hỏi em coi dung mạo nàng ra sao? Giác thẹn đỏ mặt, không thốt được một lời nào. Chị dâu cười hỏi:
- Ý chừng cô ả đẹp lắm thì phải.
Ngọc nói:
- Nó con nít, biết gì xấu đẹp? Dù cho đẹp cũng không bằng họ Tần đâu. Đợi xem chừng nào họ Tần không xong, sẽ tính đám này cũng chưa muộn.
Giác lẳng lặng bỏ đi.
Cách mấy hôm sau, Ngọc đi đường, thấy một thiếu nữ vừa đi vừa khóc trước mặt, liền buông cương kìm ngựa lại mà dòm mặt thấy sắc đẹp tuyệt trần bèn sai tên tùy tùng hỏi nàng vì sao mà khóc.
Nàng đáp:
- Tôi lúc trước đã đính hôn với cậu hai họ Cam vì nỗi nhà nghèo phải đi xa, phải bặt tin tức. Gần đây mới về, lại nghe Cam gia thay lòng đổi dạ, quên lời ước cũ, bây giờ tôi cốt đến hỏi người anh cả là Cam Bích Nhân xem anh ấy tính liệu cho tôi ra sao?
Ngọc sửng sốt vừa mừng vừa tự giới thiệu:
- Cam Bích Ngọc chính là tôi đây, cô ạ! Ông cụ nhà tôi thuở trước hẹn ước ra sao, thật tình là tôi không biết. Đây cách nhà tôi không xa, mời cô về nhà tôi bàn tính.
Nói rồi xuống ngựa, nhường cho nàng cưỡi, tự mình đi bộ theo sau, đưa nàng về nhà.
Nàng tự nói tên là A Anh, mà không có anh trên em dưới nào cả, duy chỉ có một người chị bên ngoại họ Tần cùng ở chung. Bấy giờ Ngọc mới hiểu cô nọ đã nói hôm trước, tức là người này. Ngọc muốn sai người đi báo tin cho nhà cô biết, nhưng cô nhất định cản đi.
Ngọc mừng thầm, em mình vớ được vợ đẹp nhưng sợ nàng lẳng lơ, e bị thiên hạ chê cười. Cưới về một thời gian, nhận thấy cử chỉ đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị em dâu như là mẹ, chị dâu cũng hết lòng yêu chuộng.
Gặp tiết trung thu, vợ chồng đang ngồi ăn uống thân mật, chị dâu sai người đến mời, kèo nài thế nào nàng cũng phải đến nhà anh chị uống rượu thưởng nguyệt cho vui. Trong ý Giác còn phân vân, thì nàng bảo người đi mời cứ về trước, nàng sẽ tới sau. Nhưng rồi nàng cứ ngồi lỳ ở nhà nói chuyện vui cười với chồng, lâu lâu mà không có ý ra đi, làm Giác phải giục giã, sợ chị dâu chờ đợi mãi, không nên. Nàng chỉ cười, sau rốt vẫn ngồi nhà chớ không đi đâu cả.
Sáng ngày, nàng chải đầu thoa phấn vừa xong, thì chị dâu thân hành đến thăm viếng, hỏi tại sao đêm qua ngồi với mình mà có vẻ xuôi xị không vui. Nàng mỉm cười.
Giác thấy chuyện lạ, hạch hỏi đôi co, té ra hồi hôm vợ ngồi cả buổi ở nhà không chịu đi, đồng thời lại có mặt ở nhà chị, mới kỳ. Chị cả kinh, nghĩ bụng nếu như nàng chẳng phải yêu ma, cớ sao có phép thân phân hai nơi như thế. Ngọc cũng phát sợ, đứng cách bức mành mà nói:
- Nhà tôi đời đời tu nhân tích đức, vốn không chuyện oán thù gì với cô. Nếu phải cô là yêu tinh thì xin đi mau, chớ giết em tôi tội nghiệp.
Nàng thẹn thùng nói:
- Vâng, em vốn không phải là người. Chỉ vì ngày xưa ông cụ có lời đính ước, thành ra chị Tần thúc giục em tới đây. Chính em tự nghĩ không thể sinh đẻ gì được, cho nên thường muốn từ biệt mà đi cho rảnh; bấy lâu hãy còn bịn rịn chẳng nỡ dứt tình chỉ vì cảm tấm lòng anh chị đối đãi tử tế đó thôi. Nay anh chị đã sinh lòng ngờ vực thì em xin đi biệt từ đây.
Chớp mắt, hóa thành chim anh vũ cất cánh bay mất.
Nguyên hồi Cam ông còn sống, có nuôi một con anh vũ cực khôn, mỗi ngày ông tự đút mồi cho nó ăn. Lúc đó Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cha tại sao cứ phải cho chim ăn. Ông Cam nói giỡn:
- Cho nó ăn để sau này làm vợ mày đó.
Nhiều khi sợ chim ăn chưa đủ no, ông kêu Giác:
- Kìa, con không cho nó ăn thì con dâu của tao chết đói còn gì?
Gia nhân cũng lấy chuyện đó mà đùa bỡn với Giác. Về sau, chim tuột dây, bay vù đi mất.
Nay người anh nhớ lại chuyện xưa, mới tỉnh ngộ nàng nói cựu cũ là vậy đó.
Bây giờ, Giác thấy rõ vợ không phải là người nhưng nàng biến đi thì lòng thương nhớ không nguôi. Chị dâu cũng nặng tình tưởng nhớ, đến nỗi sớm chiều khóc lóc. Ngọc động lòng hối hận song việc đã lỡ chẳng biết làm sao kéo lại cho được.
Sau hai năm, Ngọc cưới con gái Khương thị về cho em nhưng trong ý vẫn không nguôi chuyện cũ.
Có người anh họ làm chức Tư lý ở Quảng Đông, Ngọc đến thăm, lâu ngày không về. Vừa gặp thổ phỉ dấy loạn, xóm làng xung quanh đổ nát quá nửa. Giác sợ quá đưa cả nhà vào hang núi lánh nạn, trai gái hỗn tạp, không còn biết ai là ai. Chợt nghe tiếng con gái nói thỏ thẻ, nghe giống như A Anh, chị dâu hối Giác lại gần xem thì quả A Anh.
Giác mừng quýnh nắm chặt lấy cánh tay không buông, nàng nói với người cùng bọn:
- Cô hãy đi trước, tôi đợi chị dâu tôi đến.
Khi đến nơi, chị dâu trông thấy khóc nức nở, nàng an ủi đôi ba phen, lại nói chốn này không thể yên thân, nên kéo nhau về nhà là hơn. Mọi người sợ cướp quấy nhiễu thì nguy. Nàng nhất định bảo cứ về, không có gì lo. Bấy giờ mọi người mới đưa nhau về.
Nàng đào đất bịt cửa, dặn dò ai nấy cứ yên bên trong, không được ra ngoài. Ngồi nói ba điều bốn chuyện, nàng rục rịch muốn đi. Chị dâu vội vàng nắm chặt cánh tay, lại bảo hai con hầu mỗi đứa ôm cứng một chân. Cực chẳng đã, nàng phải ở lại, nhưng chạy về buồng riêng. Giác năn nỉ hẹn hò ba bốn lần nàng mới đến một lần.
Chị dâu thường nói với nàng rằng Khương thị lôi thôi, nên không vừa ý chú hai (tức Giác) nàng bèn thức dậy thật sớm, ra tay trang điểm trau dồi cho Khương thị. Người ta vào thấy xinh đẹp gấp bội. Cách ba bốn ngày biến đổi rõ ràng là một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân dịp mình không có con, ý muốn mua một cô hầu cho chồng, nhưng bấy lâu chưa rảnh mà tính chuyện ấy, nay thấy nàng có tài biến xấu ra đẹp như thế, bèn hỏi nàng trong đám thị tì, chẳng biết có thể nào tô điểm biến hóa được không? Nàng nói:
- Bất cứ ai cũng có thể biến hóa được. Duy có kẻ nào sẵn sàng chất tốt, thì đỡ tốn công phu thế thôi.
Đoạn, nàng xem tướng khắp mặt con hầu trong nhà, có một đứa vừa đen vừa xấu nàng bảo có tướng sinh con trai. Liền đó nàng gọi nó đi tắm rửa xong, tự lấy phấn trộn với thuốc bột mà thoa khắp thân thể cho nó. Làm vậy ba bốn bữa, sắc mặt lần lần biến ra màu vàng. Sau hai mươi tám ngày thì dầu mỡ thấm nhuần da thịt, thành ra con người dễ coi.
Ngày ngày nàng chỉ có đóng cửa làm trò vui cười, tuyệt nhiên chẳng hề kể gì tai nạn binh hỏa rầm rộ bên ngoài.
Một đêm, tiếng kêu ồn ào tứ phía, cả nhà sợ quýnh. Giây lát, ngoài cửa dậy tiếng người la ngựa hí, kéo đi nầm nập. Sáng ra mới biết hồi khuya, cả xóm bị cướp đốt phá gần hết, bọn cướp lục soát khắp nơi, những người ẩn núp hang núi đều bị giết chóc. Bấy giờ cả nhà mới cám ơn nàng, coi nàng như thần. Bỗng dưng nàng nói với chị dâu:
- Em đến đây chuyến này, chỉ vì cám ơn nghĩa của chị không thể quên được cho nên cùng chị chia sẻ cảnh buồn loạn li. Anh sắp về tới nơi, chị ạ! Em còn ở đây nghĩ cũng kỳ, khác nào tục ngữ thường nói: “Chẳng ra môn khoai gì cả”, âu thật buồn cười. Thôi em phải đi, chừng nào rảnh sẽ ghé thăm chị.
Chị dâu hỏi tin tức người đang đi đường có bình yên mạnh giỏi không. Nàng đáp:
- Giữa đường có nạn lớn nhưng chuyện này không dự chi đến người ta. Chị Tần mang ơn nhiều, tất là nhân dịp báo đáp, vậy thì gặp nạn cũng chẳng hề chi.
Chị dâu cố giữ ngủ lại một đêm nữa, trời chưa sáng rõ thì nàng đã đi rồi.
Nói về Cam Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà giặc giã, cố đi đêm ngày để về cho mau. Giữa đường gặp giặc, hai thầy trò phải bỏ cả ngựa, gói ghém tiền nong cột vào bụng lén núp trong bụi gai góc. Một con Tần Các Liễu (tên riêng của loài chim anh vũ) bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che đậy. Ngọc nhìn cái cẳng thấy khuyết một ngón, trong bụng lấy làm lạ. Giây lát bọn giặc xúm quanh tứ phía tìm tòi khắp các bờ bụi, Ngọc và tên tùy bộ nín hơi, không dám thở mạnh.
Giặc lục soát không thấy gì, bỏ đi tứ tán, bấy giờ chim mới bay đi.
Về nhà, vợ chồng cùng thuật cho nhau nghe những chuyện đã thấy, lúc đó Ngọc mới biết Tần Các Liễu tức là mỹ nhân mình cứu mạng năm xưa.
Sau, hễ khi nào Ngọc đi chơi lâu không về, đêm ấy A Anh tất ghé về nhà, nhằm chừng Ngọc gần về thì nàng đi. Giác gặp lại nàng tại nhà chị dâu, lần nào cũng mời thỉnh đến nhà mình chơi, nàng ừ nhưng không đến bao giờ.
Một đêm, Ngọc đi chơi, Giác định chừng A Anh sẽ đến, bèn núp một nơi để chờ. Một lúc, quả nàng có tới, Giác xông ra đón đường, lôi kéo về nhà mình kỳ được mới nghe. Nàng nói:
- Tôi với cậu tình duyên đã hết rồi, nếu cố sum họp, e bị trời ghen ghét, vậy ta nên lưu chút tình đó để thỉnh thoảng gặp nhau thì hơn.
Giác không nghe, cứ việc ôm ấp nàng, rồi giao hoan.
Trời sáng, đến nhà chị dâu, chị lấy làm lạ, nàng cười nói:
- Em đi nửa đường, bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải mong đợi, thật em có lỗi muôn vàn.
Nàng nói chuyện năm ba câu rồi đi ra. Một lúc sau, con mèo lớn trong nhà ngậm chim anh vũ đi qua trước cửa buồng ngủ, chị dâu nghi là A Anh, sửa soạn tắm mà phải bỏ tắm, kêu gọi người nhà đổ ra bắt con mèo mà lấy chim anh vũ lại. Cánh bên tả rướm máu, hơi thở thoi thóp, chị dâu đặt lên đầu gối vuốt ve khá lâu, chim mới hồi tỉnh, tự lấy mỏ rỉa lại lông cánh, giây lát, bay quanh trong nhà, miệng nói:
- Xin chào chị ở lại, em đi. Em oán cậu Giác lắm.
Đoạn, vỗ cánh tay thẳng.

Đào Trinh Nhất dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 05 Sep 2022

Chồn quỷ tranh chồng (Liên Hương)


Một bệnh trầm kha vì Lý nữ
Mười năm tái ngộ hứa Tang sinh
Yêu nhau khi chết như khi sống
Chồn quỷ ganh đua thế mới tình.

Tang sinh tên Hiển, tự Tử Minh, người ở Ngân Châu, mồ côi từ thuở nhỏ, mướn nhà ở bến đò Hồng Hoa.
Chàng là người ưa tĩnh mịch, hòa nhã; mỗi ngày chỉ có hai lượt đi ra khỏi nhà, qua xóm đông ăn cơm, ngoài ra ở nhà ngồi lì mà thôi. Người bạn bên đông ngẫu nhiên đến thăm, hỏi bỡn:
- Anh ở một mình như thế này, không sơ ma chồn ư?
Tang cười đáp:
- Trượng phu sợ gì ma với chồn. Hễ con đực tới thì tôi có thanh gươm sắc, con cái tới thì mở cửa mời vào, can chi mà sợ?
Bạn về bàn mưu tính kế với mấy người quen rồi đêm khuya cho một con điếm bắc thang trèo vào gõ cửa. Chàng khẽ dòm và hỏi ai. Con điếm tự xưng là ma đây. Con điếm đứng loanh quanh giây lát rồi bỏ đi.
Sáng sớm, bạn đến nhà chàng, chàng kể lại việc thấy lúc ban đêm, nhân dịp nói mình sửa soạn về quê quán. Bạn vỗ tay và hỏi:
- Thế sao anh không mở cửa rước vào?
Chàng tỉnh ngộ là trò đùa việc giả, bèn ở yên nhà đó như cũ.
Nửa năm sau, một người con gái đêm đến gõ cửa. Chàng đoán rằng bạn bè trêu ghẹo mình, liền mở cửa mời vào, té ra là một nàng đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Chàng kinh ngạc, hỏi nàng ở đâu lại đây, nàng nói:
- Tôi là Liên Hương, kỹ nữ ở trong xóm tây.
Nguyên ở bên có nhiều cô gái lầu xanh, cho nên chàng tin là thật; tắt đèn lên giường, yêu đương cực kỳ âu yếm. Từ đó, năm ba ngày nàng lại đến một lần.
Buổi tối hôm đó, chàng ngồi thẩn thơ nghĩ ngợi. Bỗng nhiên thiếu nữ xăm xăm bước vào, đoán chắc là Liên Hương, cho nên vồn vã chào hỏi, chừng nhìn mặt té ra không phải. Cô này mới độ mười lăm, mười sáu tuổi, áo choàng tóc vấn trông ra vẻ phong lưu xinh đẹp, mà bước đi lại ngả ngớn, làm như nửa tới nửa dừng, khiến chàng hết sức kinh ngạc, ngờ nàng là con chồn hóa thân hiện hình. Nàng nói:
- Em là con nhà lương thiện, họ Lý. Mộ chàng tao nhã mà đến, nhờ lượng bao dung.
Chàng mừng, nắm lấy tay nàng, thấy lạnh buốt như nước đá, hỏi tại sao lạnh thế, nàng đáp:
- Tấm thân yếu đuối đơn hàn lại dãi dầu sương gió ban đêm, không lạnh sao được?
Khi cởi áo giao hoan thấy rõ là gái tơ. Nàng nói:
- Em vì tình duyên xui khiến mà cái thân son trẻ nguyên lành này được chàng không chê xấu xa thì em xin thời thường hầu hạ chăn gối. À, trong nhà chàng không có ai lạ đấy chứ?
- Không có ai lạ. Trừ một ả thanh lâu ở xóm gần đây nhưng ả cũng không đến thường.
- Nếu vậy thì phải tránh mặt mới được. Em không thể ví như mấy ả lầu xanh. Vậy xin chàng giữ kín đừng nói, hễ ả tới thì em đi, ả đi thì em tới thì hơn.
Gà gáy sáng, nàng muốn từ giã ra đi, tặng chàng một chiếc giày thêu và nói:
- Đây là vật em mang dưới chân, khi rỗi lấy ra mân mê cũng đủ khuây lòng tưởng nhớ. Nhưng có người lạ thì chàng đừng thò ra nghe!
Chàng cầm lấy xem, lòng rất vui thích. Qua đêm sau, thừa lúc vắng người, lấy chiếc giày ra ngắm nghía vuốt ve, tự nhiên nàng ở đâu ra phơi phới đi đến, lại cùng nhau đầu gối tay ấp, hết sức yêu đương. Từ đó hễ khi nào mân mê chiếc giày, đều thấy nàng đến tức thời, gạn hỏi cho ra lẽ. Nàng cười và nói:
- Ngẫu nhiên nhằm lúc đó tới thôi, nào có chi lạ!
Một đêm, Liên Hương tới, trông thấy sắc mặt chàng sửng sốt kinh hãi:
- Thần sắc của mình coi sao tiều tụy quá thế?
Chàng trả lời không tự biết tại sao. Liên Hương từ biệt hẹn mười ngày sau sẽ trở lại. Trong khoảng ấy đêm nào Lý cũng mò đến, thường hỏi: “Tình nhân của chàng sao lâu ngày không thấy đến chơi”. Chàng nói còn hẹn mười ngày. Lý cười, đáp:
- Chàng coi Liên Hương với em, ai đẹp hơn ai?
- Có thể bảo cả hai cùng đẹp tuyệt. Nhưng Liên Hương thì da thịt ấm áp điều hòa.
Lý tái mặt nói:
- Chàng bảo hai người cùng đẹp chẳng qua muốn chiều lòng em mà nói đãi bôi thế thôi. Chắc ả là nàng tiên cung trăng, em không sánh kịp.
Vì thế, nàng bùi ngùi không vui, tính đốt ngón tay, kỳ hạn mười ngày đã tới, một hai dặn dò chàng giữ kín, để cho nàng dòm lén xem sao.
Đêm sau, Liên Hương quả đến, nói cười rất vui vẻ. Đến khi nằm ngủ hãi hùng và nói:
- Chết rồi, mười bữa không thấy mặt nhau, hôm nay sao chàng thêm suy yếu quá vậy? Đây hẳn có cặp kè với con nhỏ nào rồi, chớ lẽ nào không?
Chàng hỏi cớ sao mà biết. Liên Hương đáp:
- Tôi thấy thần khí của chàng mà nghiệm thì biết. Mạch chạy lung tung như nùi chỉ rối beng, đích thị chứng ma làm đây mà!
Qua đêm hôm sau, Lý tới, chàng hỏi dòm nhan sắc Liên Hương ra thế nào, nàng đáp:
- Thật tình là đẹp. Em vốn ngờ thế gian không làm gì có người đẹp đến bực đó. Quả nó là chồn. Khi nó đi ra, em theo bén gót, tới Nam Sơn, thấy nó chui tọt vào trong hang, không chồn là gì?
Chàng nghĩ chắc Lý ghen mà nói vậy, nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Cách một đêm nữa Liên Hương tới, chàng hỏi bỡn:
- Tôi vốn không chịu lời nói xàm, nhưng có kẻ bảo mình là chồn đấy.
Liên Hương chụp hỏi ai nói. Chàng cười và đáp:
- Có ai đâu! Tôi tự bỡn mình thế thôi.
Liên nói:
- Chồn có khác gì người ta đâu nào?
Chàng cãi:
- Có chứ! Người ta bị chồn mê hoặc, bệnh nặng thì chết, thành ra phải sợ.
Liên đáp:
- Không phải vậy đâu. Theo cỡ tuổi chàng, cứ ba ngày giao hoan với đàn bà, thì tinh khí lại phục hồi. Như vậy dù với chồn cũng chẳng hại chi. Ví bằng đêm đêm truy hoan với người thì còn tai hại gấp mấy mươi với chồn. Thử xem thiên hạ bao nhiêu cái xác ho lao, con ma sài mòn, dễ thường đều chết vì chồn mê hoặc đó ư? Tuy nhiên tất có đứa vạch vòi thế nào chớ chắc không?
Chàng cố biện bạch không có ai vạch vòi gì cả nhưng Liên Hương gạn hỏi mãi, cực chẳng đã chàng phải nói thật. Liên nói:
- Tôi lấy làm lạ sao chàng suy kiệt, nhưng không ngờ mau lẹ đến ra thân thể này; hay nó không phải là người chăng? Vậy chàng cũng giữ kín đừng nói, để tối mai, tôi lén dòm, y như hôm trước nó lén dòm tôi vậy.
Đêm hôm ấy Lý tới, vừa nói được một hai câu, chợt nghe ngoài cửa có tiếng đằng hắng, vội vàng bỏ đi. Liên vào nói:
- Thôi chàng nguy rồi. Nó chính là ma, nếu chàng còn mê sắc đẹp không sớm tuyệt đi, thì đường xuống âm ti gần lắm.
Chàng nghĩ rằng Liên ghen, làm thinh không nói gì. Liên tiếp:
- Tôi biết trước rằng chàng say đắm, không thể nào buông nó ra. Nhưng lòng tôi không nỡ ngồi nhìn chàng chết; ngày mai tôi đem thuốc men đến đây, để trừ âm độc cho chàng. Cũng may bệnh còn nhẹ, chỉ mười bữa thì lành, tôi xin nằm chung giường để săn sóc cho tới khi khỏi bệnh.
Qua đêm sau, Liên quả đem thuốc đến, sắc cho chàng uống, giây lát nghe ruột gan mát mẻ, tinh thần khoan khoái. Trong bụng chàng cảm ơn, nhưng vẫn không tin mình mắc bệnh ma làm.
Luôn mười đêm, Liên nằm bên cạnh nâng giấc chàng; chàng muốn giao hoan, nàng hất ra.
Mấy hôm sau, da thịt nở nang rồi, nàng muốn từ giã, một hai căn dặn phải dứt tình với Lý. Chàng vờ nhận lời, nhưng khi Liên đi rồi, đóng cửa khêu đèn, lại đem chiếc giày ra mân mê tưởng nhớ. Bỗng dưng Lý đến. Nhân bị xa cách lâu ngày, nét mặt hơi tỏ sắc hờn giận.
Chàng nói:
- Luôn luôn mấy đêm nó ở lại thuốc men cho tôi, xin đừng giận vì thế, tình thương yêu cốt ở nơi tôi kia mà!
Nàng nghe nói hơi nguôi. Khi đầu gối tay ấp, chàng nói nhỏ:
- Anh thương em hết sức. Nhưng có kẻ bảo em là ma hiện hình đó.
Lý cứng lưỡi giây lát, mới thốt lời mắng nhiếc:
- Đây chắc là con chồn dâm dục to nhỏ ỉ ôi với mình chứ ai. Nếu mình chẳng tuyệt nó đi, thì em cũng chẳng thèm lui tới nữa đâu.
Nói đoạn, nằm khóc tấm tức, chàng phải khuyên giải trăm cách mới êm.
Qua đêm sau, Liên Hương đến, biết Lý lại tới, nổi giận và nói:
- Chàng nhất định chết hay sao thế?
Chàng cười đáp:
- Sao mình ghen với người ta dữ vậy?
Liên càng giận thêm:
- Chàng tự gieo lấy mầm chết, tôi phải nhổ đi cho, không ghen thì làm thế nào!
Chàng kiếm chuyện trêu ghẹo:
- Nó bảo hôm nọ tôi bệnh là tự chồn làm ra đó.
Liên than thở nói:
- Nếu quả thiệt như lời chàng nói, mà chàng say đắm không tỉnh, muôn một xảy ra thế nào, dù tôi có trăm miệng cũng tự bào chữa không nổi. Thôi từ nay xin từ biệt chàng, sau trăm ngày sẽ trở lại để trông thấy chàng đau nằm liệt giường liệt chiếu.
Chàng cố níu lại không được. Liên hậm hực bỏ đi thẳng.
Từ đó trở đi, Lý ở cạnh chàng hết đêm này qua đêm khác chừng hơn hai tháng, chàng thấy mình hơi kiệt sức quá lắm. Ban đầu còn tự tin an ủi lấy mình nhưng rồi ngày càng ốm o mình gầy mặt võ, đến nỗi chỉ uống được một chén nước cháo mà thôi. Lúc ấy muốn về quê dưỡng bệnh mà còn bịn rịn với Lý không nỡ rời nhau. Nấn ná mấy ngày sau thì bệnh tình trầm trọng, nằm liệt giường, không dậy được nữa, cố nhướng mắt nhìn quanh tứ phía thì Lý đã bỏ đi từ đâu hồi nào, biến mất dạng.
Chàng nằm vò võ một mình trong căn nhà trống, tơ tưởng Liên Hương như bác nông phu trông đợi mùa lúa chín vậy.
Một hôm, đương nghĩ vẩn vơ, bỗng có người cuốn rèm bước vào, tức là Liên Hương.
Nàng đến bên giường, nói mát:
- Anh chàng nhà quê này, hôm nay mới biết ta nói trước có sai đâu?
Chàng nghẹn ngào giây lâu rồi tự thú mình biết tội đã nhiều, xin nàng cứu vớt. Liên nói:
- Bệnh đã ăn sâu vào tim phổi rồi, thật không có phép gì cứu được. Tôi đến hôm nay là cốt cùng chàng vĩnh quyết, để tỏ mình chẳng phải ghen tuông đó thôi.
Chàng khóc thảm thiết và nói:
- Dưới gối có một vật nhờ mình đem băm vằm tan nát hộ tôi.
Liên mò dưới gối được chiếc giày thêu, đem ra đèn ngắm nghía. Tự nhiên Lý đến, vừa trông thấy Liên, vội vàng quay mình trở ra, tìm đường chạy trốn. Liên đứng chặn ngang cửa; Lý bối rối không biết làm thế nào. Chàng trông thấy liền trách mắng và kể tội. Lý ngẩn người, chẳng trả lời được câu nào. Liên cười:
- Hôm nay tôi mới được giáp mặt dì nó để đối nại với nhau một hai câu. Bữa trước dì nói lang quân mắc bệnh là tự tôi gây nên; bây giờ dì bảo thế nào đây?
Lý cúi đầu tạ lỗi. Liên hỏi:
- Con người mỹ miều thế này, mà nỡ lấy tình yêu kết thành oán cừu như vậy ư?
Lý vật mình xuống đất khóc vùi, xin Liên Hương thương tình cứu giúp.
Liên đỡ Lý dậy, tra hỏi lai lịch. Nàng nói:
- Em là con ông Lý thông phán, tuổi nhỏ chết non, chôn ở ngoài vách tường nhà chàng. Con tằm đã thác hãy còn vương tơ, gắn bó thương yêu chàng là sở nguyện của em, nhưng làm cho chàng chết thì em đâu có lòng dạ như thế cho đành.
Liên hỏi:
- Nghe nói giống ma cốt làm cho người chết để có thể cùng nhau đoàn tụ lâu dài, có phải thế không?
Lý đáp:
- Không phải thế đâu. Hai con ma gặp nhau, tịnh không có chi vui sướng. Nếu được vui sướng, thì dưới suối vàng há phải thiếu hạng trai tráng ư?
Liên nói:
- Cô này ngơ ngẩn làm sao! Cứ đêm đêm dâm dục, thì người cũng không chịu nổi huống chi là ma.
Lý hỏi:
- Chồn cũng hiếu dâm làm chết người ta sao lại bảo không có thuật ấy?
Liên đáp:
- Đó là hạng bổ khí luyện đơn, nhưng tôi không thuộc về loại ấy. Cho nên: ở đời có thứ chồn không làm hại người; nhưng quyết chẳng có thứ ma nào bất hại nhân, bởi lẽ âm khí nặng nề vậy.
Chàng nằm nghe hai ả nói chuyện với nhau bấy giờ mới rõ chồn với ma đều có thật, nhưng vì gần gũi đã thường, thành ra hết cả sợ hãi. Song nghĩ đến thân mình, hơi tàn chỉ còn thoi thóp mỏng manh như sợi tơ, bất giác mủi lòng khóc lớn.
Liên day lại ngó Lý và nói:
- Cô tính xử với lang quân thế nào đây?
Lý đỏ mặt xin lỗi. Liên cười:
- Chỉ e lang quân lành mạnh rồi, cô lại ghen ngược với tôi nhé!
Lý khúm núm nói:
- Chị có tài Biển Thước, chữa cho lang quân lành mạnh để khỏi mang tội với lang quân, em nguyện vùi đầu xuống đất, chứ còn mặt nào dám ngó thiên hạ nữa!
Liên mở đẫy lấy thuốc và nói:
- Tôi đã biết trước phải có ngày hôm nay, cho nên sau khi từ giã, liền đi hái mới đủ dược liệu. Bệnh lao hay trúng độc chí tử, uống liều thuốc này cũng tỉnh ngay. Nhưng mà chứng bệnh mắc phải vì đâu, thì phải lấy ngay cái đó mà dẫn thuốc mới được. Bởi vậy tôi không thể không cậy dì giúp sức một phen.
- Chị cần em giúp sức chi?
- Tôi cần xin mấy giọt nước bọt ở trong miệng dì đó thôi. Tôi đặt hoàn thuốc, phiền dì kề miệng nhổ nước bọt vào chuyển thuốc cho lang quân.
Lý thẹn đỏ mặt, cúi đầu loay hoay mà ngó chiếc giày. Liên hỏi:
- Dì đắc ý nhất, chỉ có chiếc giày thôi ư?
Lý càng thẹn, cuống cả người. Liên nói:
- Đó là ngón thường ngày đã quen nay lại tiếc rẻ hay sao?
Đoạn lấy hoàn thuốc để bên môi chàng, và hối thúc Lý kề miệng nhổ nước miếng tống thuốc vào. Cực chẳng đã, Lý phải làm theo. Liên bảo: Nhổ nữa đi; Lý lại nhổ nữa. Cả thảy, ba bốn lần. Hoàn thuốc đã trôi vào trong cổ. Giây lát, nghe trong bụng ùng ục như sấm vang. Liên cho uống hoàn nữa, tự mình kề môi để phà hơi cho thuốc chạy vào. Chạy nghe ruột gan nóng dậy, tinh thần mạnh mẽ.
Liên nói:
- Thế là khỏi bệnh rồi.
Gà gáy, Lý vội vàng từ giã.
Liên suy nghĩ, chàng vừa mới khỏi bệnh, còn cần phải chăm nom bổ dưỡng, nếu mỗi bữa đi qua xóm đông ăn cơm thì không tiện. Nàng liền đóng cửa ngõ và khóa bên ngoài, giả làm ra vẻ chàng về nhà quê để tuyệt bạn bè lui tới. Ngày đêm, Liên ở luôn bên cạnh chàng, hầu hạ săn sóc.
Đêm nào Lý cũng tới, trông nom cơm nước, rất ân cần và thờ Liên như chị. Liên hết sức thương yêu.
Trải ba tháng, chàng lành mạnh như cũ; bấy giờ Lý mới thưa đến. Thường khi mấy đêm mới đến thăm một lần. Đến chỉ đứng nhìn một cái là đi liền. Lúc đối mặt nhau, thường bùi ngùi chẳng vui. Có khi Liên muốn lại ngủ chung, nhưng Lý nhất định không chịu.
Chàng rượt theo ẵm về, thân thể nhẹ bỗng như đồ mã, Lý không trốn được, để nguyên cả áo lên giường nằm. Chàng ngủ quên, chừng tỉnh giấc rờ coi thì nàng đã biến đâu mất rồi.
Luôn mười bữa sau, không thấy mặt Lý đến nữa, chàng tưởng nhớ tha thiết, thường đem chiếc giày ra mân mê, Liên phải than thở:
- Con người yểu điệu thế ấy, tôi cũng thấy thương, huống chi đàn ông các người!
Chàng nói:
- Hồi trước, hễ khi nào mân mê chiếc giày tức thời nàng đến, lòng tôi vẫn ngờ, nhưng không dè đâu nàng lại là ma! Nay đối vật tưởng người, xiết bao đau đớn.
Rồi chàng khóc òa.
Nguyên có nhà giàu họ Chương, có người con gái tên Yến Nhi, mười lăm tuổi, bị bệnh tắc mồ hôi mà chết. Hết đêm lại tỉnh dậy, nhìn ngó dáo dác rồi muốn vùng chạy.
Chương đóng chặt cửa ngõ, không cho chạy ra.
Yến Nhi tự nói:
- Ta là hồn con gái ông Lý thông phán, cảm tình Tang quân thương yêu, giày ta còn để lại nhà chàng. Ta chính là ma đây, cấm cố làm chi vô ích.
Chương gia nghe lời nói có ngành ngọn, liền hỏi vì sao lại đến đây, nhưng nàng nhìn trước ngó sau, tỏ ra mịt mùng không tự hiểu vì sao?
Có kẻ nói Tang sinh ốm đau đã bỏ về quê quán rồi, nàng cố cãi là chuyện bịa đặt. Người nghe vậy cả nghi.
Người bạn xóm đông nghe chuyện lạ như thế, trèo tường vào dòm chàng, thấy đương ngồi đối diện đàm đạo với một mỹ nhân. Bạn xông bừa vào, trong lúc chộn rộn mỹ nhân đã biến. Bạn kinh hãi cố tra hỏi ra lẽ, chàng cười và nói:
- Lúc đó tôi chẳng đã từng nói với anh rồi ư? Hễ giống cái đến đây thì tôi mở cửa đón rước mà!
Nhân đó, bạn kể chuyện lạ Yến Nhi cho chàng nghe. Chàng muốn mở cửa đi tới nhà họ Chương dò la, nhưng khốn nỗi chưa tìm ra cớ gì.
Đồng thời, Chương mẫu hay tin quả thật chàng còn ở đó chưa về quê quán, càng lấy làm lạ, cho nên sai mụ ở tới đòi chiếc giày.
Yến Nhi rất mừng, vội vàng mang thử, té ra giày nhỏ hơn chân một tấc. Nàng kinh ngạc, cầm gương soi mặt, bỗng tỉnh ngộ mình đã tái sinh bèn thuật rõ đầu đuôi, lúc ấy Chương mẫu mới tin.
Nàng lại soi gương cất tiếng khóc hu hu:
- Mặt mày ta ngày nọ, còn hơi tự hào; thế mà mỗi lần trông thấy chị Liên, ta còn phải xấu hổ thay! Bây giờ mặt mũi như vầy, thà cứ làm ma còn hơn làm người!
Nói rồi cầm chiếc giày gào khóc, ai khuyên giải cũng không thôi. Khóc chán rồi trùm mền nằm liệt, mời ăn không chịu ăn, mình mẩy sưng phù lên. Luôn bảy ngày nhịn ăn vẫn không chết, mà bệnh phù dần dà tiêu đi, bấy giờ mới thấy bụng đói cồn cào, không thể chịu nổi, bèn ăn uống trở lại như cũ.
Vài ngày, khắp mình nổi ngứa, lột hết lớp da. Sáng dậy thấy rơi mất giày, liền tìm để mang vào thì giày lớn quá. Lại thử chiếc giày cũ, thấy vừa vặn như in. Nàng mừng quá, lại soi gương, té ra mặt mũi, giống hệt diện mạo sinh bình (nghĩa là khi còn là Lý nữ), càng mừng hơn nữa; lập tức rửa mặt chải đầu ra mắt bà mẹ. Ai thấy cũng sửng sốt.
Liên Hương nghe đồn việc ấy, khuyên chàng cậy mối đi dạm hỏi Yến Nhi làm vợ. Song chàng nghĩ giàu nghèo cách tuyệt, chưa dám bàn vội.
Nhân gặp ngày mừng sinh nhật Chương mẫu, chàng đi theo bọn cháu đến chúc thọ bà cụ. Bà thấy tên chàng bèn xếp đặt cho Yến Nhi đứng sau bức mành mà nhìn mặt khách.
Chàng đến sau chót, nàng liền chạy ra níu áo, một hai đòi theo chàng về nhà. Chương mẫu la rầy nàng mới xấu hổ thụt vào nhà trong. Chàng nhìn kỹ rõ ràng là Lý, bất giác động lòng rơi lụy, rồi quỳ mọp xuống đất mà lạy. Bà cụ phải đỡ lên.
Chàng về nhà năn nỉ ông cậu đi làm mai. Chương mẫu bằng lòng và bàn định ngày lành giờ tốt cho chàng rể cưới gửi rể.
Chàng nói cho Liên hay và bàn tính về sính lễ. Liên ngẩn người giây lâu, rồi muốn từ biệt đi. Chàng giật mình sửng sốt đến nỗi khóc sướt mướt. Liên nói:
- Chàng sửa soạn đến nhà người ta, làm lễ đuốc hoa với vợ mới. Tôi đi theo chàng thì mặt mũi còn ra thế nào?
Muốn cho lưỡng tiện, chàng tính kế, trước hết đưa Liên về quê nhà, rồi sau sẽ cưới Yến Nhi.
Liên nghe theo. Chàng đem tình thật ngỏ với nhà Chương. Chương nghe nói chàng đã có vợ ở nhà rồi, nổi giận gây gổ. Yến Nhi hết sức phân trần. Chương mới chịu ý theo, cho chàng cưới vợ về nhà mình.
Đến ngày chàng đi đón dâu. Khi ra đi, trong nhà chỉ xếp đặt xoàng xĩnh; thế mà bận về, từ ngoài cổng vào nhà trong đều trải đệm nhung, trăm nghìn đèn lồng, treo la liệt như dệt. Liên phò cô dâu vào buồng căng toàn vải xanh, khi bỏ khăn nhiễu che mặt xuống, hai người thấy nhau, hớn hở chuyện trò như bạn cũ.
Lúc uống giao bôi, Liên ngồi bên gạn hỏi chuyện lạ hoàn hồn. Yến Nhi nói:
- Hôm đó em uất ức buồn rầu, chỉ tủi thân mình là ma, tự nghĩ mà thẹn. Sau khi từ biệt, em chẳng muốn về mả mình làm gì, cứ theo luồng gió trôi nổi, trông thấy người nào cũng đầy lòng thèm muốn, ao ước làm sao mình được sống làm người như họ. Ban ngày em núp bóng cỏ cây, đêm thì tùy theo bước chân phiên lưu vô định. Ngẫu nhiên đến nhà họ Chương, trông thấy một thiếu nữ nằm trên giường, hồn đã lìa xác. Em liền nhập ngay xác đó, ban đầu cũng chẳng ngờ mình được sống.
Liên nghe chuyện, ngồi lẳng lặng như có điều gì suy nghĩ trong trí.
Cách hai tháng sau, Liên ở cữ một đứa con trai. Đẻ xong thì phát bệnh nặng, càng ngày càng trầm trọng, bèn cầm tay Yến và nói:
- Tôi để lại đứa con, phiền dì nuôi giúp, con tôi cũng như con dì vậy.
Yến khóc vùi, an ủi, muốn rước thầy lang về cứu chữa. Nhưng Liên gạt đi, bệnh dây dưa thêm nặng, hơi thở còn sợi tơ mảnh, chàng và Yến xót thương quá, cùng khóc òa. Bỗng thấy Liên trừng mắt mà nói:
- Đừng làm vậy! Các người vui sống riêng ta vui chết; nếu còn tơ duyên thì sau mười năm, ta gặp lại nhau lo gì?
Nói đoạn tắt hơi, chàng và Yến mở mền ra để rửa ráy khâm liệm thấy xác Liên đã hóa chồn.
Chàng không nỡ lòng dễ nguôi, cứ việc lo liệu tống táng rất hậu, y như người ta vậy.
Đứa con tên là Hồ Nhi, Yến chăm sóc nuôi nấng như con mình đẻ ra. Mỗi năm đến thanh minh đều ẵm con ra mộ Liên đèn nhang khóc điếu tử tế.
Mấy năm sau chàng đậu thi Hương, nhà cũng dần dà phong phú, duy buồn Yến lần nào sinh đẻ cũng không nuôi được.
Hồ Nhi khá thông minh nhưng thể chất yếu đuối, hay đau ốm luôn. Yến thường nghĩ tới việc mua hầu thiếp cho chàng.
Một hôm, tỳ nữ vào thưa rằng ở ngoài cổng có một bà già, dắt đứa gái theo, ngỏ ý muốn bán. Yến lập tức kêu vào, thoạt nhìn hết sức quái lạ nói:
- Trời ơi! Chị Liên lại ra đời đây chăng?
Chàng thấy quả giống, cũng lấy làm kinh ngạc, hỏi bà cụ già:
- Con bé của bà năm nay được bao tuổi?
- Thưa, cháu nó mới mười bốn tuổi.
- Bà muốn bán lấy bao nhiêu tiền?
- Già chỉ có mình nó là con, nếu đặt chỗ nào nó nhờ cậy yên thân, mà già cũng có ngày hai bữa, mai sau nắm xương già chẳng đến nỗi quăng ngoài sông rạch bờ bụi, thế là mãn nguyện, không cần lấy tiền.
Chàng mua với giá đắt và lưu cả bà mẹ ở lại nhà mình. Yến cầm tay thiếu nữ, dắt vào buồng kín, cười và hỏi:
- Mi có biết ta không?
- Thưa tôi không biết. - Thiếu nữ đáp.
Hỏi tên họ quê quán, thiếu nữ nói:
- Tôi họ Vi, cha làm nghề bán tương ở thành Từ Châu, qua đời đã ba năm nay.
Yến bấm đốt ngón tay suy nghĩ, sực nhớ Liên chết tới nay vừa đúng mười bốn năm; lại nhìn kỹ dáng điệu đi đứng của thiếu nữ, không vẻ nào không giống Liên ngày xưa như đúc, bèn vỗ trán nàng mà gọi:
- Chị Liên ơi! Chị Liên ơi! Lời ước mười năm sau lại gặp nhau, quả thật không sai!
Bỗng nàng như mơ mộng mới tỉnh, vùng nhớ lại tiền thân và kêu rú lên:
- A! A!
Rồi nàng nhìn Yến chăm chăm, như tìm trí nhớ. Chàng đứng bên cười mà nói:
- Là chim yến quen nhà lại muốn về chốn cũ ấy mà!
Nàng rơm rớm nước mắt, thổn thức:
- Thôi phải rồi. Nghe mẹ em nói lại, lúc tôi vừa mới sinh ra đã biết nói, nhà cho là điềm bất thường lấy máu chó để tôi uống, thành ra quên mất kiếp trước của mình. Bây giờ tôi mới tỉnh mộng. Nương tử chính là dì Lý tủi phận làm ma đó chăng?
Thế rồi hai người cùng nói chuyện tiền sinh với nhau, bao xiết mừng mừng, tủi tủi.
Thấm thoát đã tiết thanh minh. Yến nói:
- Hàng năm cứ đến ngày hôm nay tôi với lang quân ẵm con ra mộ khóc chị đó.
Nàng liền tự đến thăm mộ mình, thấy cỏ hoang mà cây đã vừa ôm, bất giác động lòng thở dài.
Lý nói với chàng:
- Em với chị Liên, hai đời tình nghĩa, nay không nỡ nào xa lìa nhau, vậy nên lấy xương chôn chung vào một huyệt.
Chàng nghe theo, đến mộ Lý, lấy xương đem về hợp tác với di cốt Liên. Bạn bè nghe câu chuyện lạ rủ nhau khăn áo đến huyệt dự lễ hợp táng này, chẳng hẹn hò nhau mà tụ họp đến mấy trăm người.
Năm Canh Tuất, ta xuống miền nam chơi, đến Ngân Châu, vì mưa lâu nên phải nghỉ lại nhà trọ. Có Lưu sinh Tử Kính là anh em cô cậu, đưa cho xem tập Tang sinh truyện do bạn đồng xã là Dương Tử Chương soạn ra, dài chừng một vạn câu. Ta được đọc trọn, ở đây chép lại tóm tắt đó thôi.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 37 guests