Liêu Trai Chí Dị

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 22 Aug 2022

Hương Ngọc


Ở trong cung Hạ Thanh núi Lao Sơn có cây nại đông cao hai trượng, thân lớn mươi gang tay, cây mẫu đơn cao hơn trượng, khi trổ hoa, rực rỡ như gấm. Thư sinh họ Hoàng, ở Mục Châu, làm nhà ở đấy để đọc sách.
Một hôm ngồi trong cửa sổ trông ra thấy một cô gái áo trắng thấp thoáng trong đám hoa, bụng nghĩ trong đạo quán sao lại có người như thế được, vội chạy ra thì đã trốn mất. Từ đó thường thấy luôn. Bèn nấp trong bụi cây, đợi người ấy tới. Chẳng bao lâu cô gái ấy lại cùng một người mặc xiêm hồng nữa đến. Từ xa trông thấy cả hai đều tuyệt đẹp, đi tới gần thì cô xiêm hồng lùi bước nói:
- Ở đây có người.
Chàng bèn đứng vùng dậy, hai cô sợ hãi bỏ chạy, áo quần phấp phới, thoang thoảng hương thơm. Đuổi theo quá bức tường ngắn thì đã biến mất tăm. Chàng ái mộ hết sức, nhân đó đề bài thơ lên thân cây rằng:

Tưởng nhớ bao đau khổ,
Tần ngần ngóng trước song.
Gặp tay Sa Trá Lợi,
Đâu còn thấy Vô Song(1)


(1) Sa Trá Lợi là một viên tướng Phiên đã cướp Liễu thị, vợ Hàn Dực. Vô Song là tên một cô gái đẹp xưa, người yêu của Lưu Tiên Khách bị lưu lạc trở thành cung nữ. Sau nhờ một nghĩa sĩ là Cổ Áp Nha giúp đỡ, lại được xum họp.

Về phòng học ngồi mơ tưởng, chợt một thiếu nữ bước vào. Chàng vừa mừng, vừa ngạc nhiên, đứng dậy đón chào. Cô gái cười nói:
- Chàng hùng hổ như giặc, khiến người ta hoảng sợ, ai hay cũng là người tao nhã, có gần cũng không hại gì.
Chàng bèn hỏi qua thân thế, cô gái đáp:
- Thiếp tiểu tự là Hương Ngọc, người chốn bình khang, bị đạo sĩ nhốt ở trong núi này, thực không phải là ý nguyện.
Chàng hỏi:
- Đạo sĩ tên là gì? Tôi sẽ rửa hờn cho nàng.
Cô gái nói:
- Bất tất. Hắn ta cũng chưa dám ép buộc gì. Mượn nơi này để cùng khách hào hoa làm chốn gặp gỡ vắng vẻ kể cũng hay.
Chàng nói:
- Cô mặc áo hồng là ai thế?
Đáp:
- Chị ấy tên là Giáng Tuyết, chị kết nghĩa của thiếp. Bèn cùng ôm nhau đi nằm. Khi tỉnh giấc, trời đã rạng đông. Nàng vội đứng dậy nói:
- Ham vui quên cả trời đã sáng.
Mặc áo đi giày xong, lại nói:
- Thiếp xin khẩu chiến đáp lại chàng bài thơ, chớ có cười nhé:

Chóng hết đêm vui thế?
Vừng đông đã rọi song.
Muốn như đôi én nọ,
Cùng chốn, đậu song song.

Chàng nắm cổ tay, nói:
- Nàng đã đẹp lại thông minh, khiến người ta yêu quên chết. Một ngày xa nhau như cách biệt ngàn năm, nàng lúc nào rỗi cứ lại, đừng đợi đêm nữa.
Nàng nhận lời. Từ đó sớm tối cùng nhau. Chàng vẫn thường bảo mời Giáng Tuyết, mà nàng không thấy đến, nên lấy làm buồn bực. Nàng nói:
- Chị Giáng là người lạnh lùng, không si tình như thiếp. Cứ thong thả để thiếp khuyên nhủ, không việc gì phải vội.
Một hôm nàng buồn thảm bước vào nói rằng:
- Chàng không giữ được đất Lũng mà còn mong lấy Thục ư(1)? Thôi từ nay xin vĩnh biệt.

(1) Xuất xứ từ câu nói của vua Hán Quang Vũ: “Người ta khổ ở chỗ không biết thế nào là đủ. Đã dẹp được Lũng lại còn mong được cả Thục” Thục và Lũng ở đây ám chỉ hai người đẹp.

Chàng hỏi đi đâu thì lấy tay áo lau nước mắt nói:
- Cũng do số mệnh cả, không thể nói cùng chàng được. Câu thơ ngày trước nay thành ra lời sấm:
Người đẹp vào tay Sa Trá Lợi,
Nghĩa sĩ đâu còn Cổ Áp Nha.


Đem vịnh cảnh ngộ thiếp thế mà đúng.
Gạn hỏi nàng không chịu nói, chỉ nức nở khóc, suốt đêm không ngủ. Sáng dậy đi sớm. Chàng lấy làm lạ. Hôm sau có họ Lam người ở Tức Mặc, vào cung quán vãn cảnh, thấy cây bạch mẫu đơn, thích ý đào lên mang đi. Chàng mới hiểu ra rằng Hương Ngọc là tinh của hoa vậy, buồn rầu mãi không thôi.
Cách vài hôm nghe nói họ Lam đem hoa về trồng, càng ngày càng héo, chàng lại càng ân hận, làm năm mươi bài thơ khóc hoa, ngày ngày đến viếng chỗ hố đào, nước mắt tuôn rơi đầm đìa.
Một hôm đi vãng cảnh quay về, xa xa thoáng thấy cô gái mặc áo hồng đứng khóc bên hố đất. Chàng thong thả đi đến gần, nàng cũng không trốn tránh, nhân níu vạt áo, nhìn nhau rưng rưng nước mắt, rồi mời vào nhà. Nàng cũng đi theo, than rằng:
- Chị em với nhau từ tấm bé, một sớm chia lìa, thấy chàng thương cảm, thiếp cũng mủi lòng, nước mắt rơi xuống suối vàng may ra cảm thấu lòng thành mà tái sinh chăng? Nhưng kẻ chết đi, thần khí đã tan, trong chốc lát làm sao có thể cùng hai chúng ta cười nói được.
Chàng nói:
- Tiểu sinh phận bạc, làm hại tới người yêu, thực không có phúc được cả hai người đẹp. Ngày trước nhiều lần nhờ Hương Ngọc đạo đạt lòng thành, sao cô nương không hạ cố?
Nàng nói:
- Thiếp cho rằng bọn học trò trẻ tuổi, mười người thì đến chín là phường bạc tình kiêu hãnh, có biết đâu chàng là khách chung tình. Tuy nhiên thiếp cùng chàng giao hảo, xin lấy chữ tình, không lấy chữ dâm, còn như đêm ngày suồng sã thì thiếp không kham được.
Nói xong xin từ biệt. Chàng nói:
- Phải xa Hương Ngọc lâu ngày bỏ cả ăn, cả ngủ. Nhờ nàng ở lại đây chốc lát cho khuây nỗi nhớ, sao lại quyết liệt như vậy?
Nàng bèn ở lại, hết đêm ra về, mấy ngày không trở lại. Một hôm mưa lạnh bên ngoài, chàng nhớ thương Hương Ngọc, trằn trọc trên giường, lệ đầm chăn gối, xốc áo bèn đứng lên, khêu đèn, dầm bút, vịnh một bài thơ, nối theo vần trước:

Nhà núi chiều mưa lạnh,
Buông rèm tựa trước song
Người tương tư chẳng thấy,
Đêm, nhỏ lệ song song.


Làm xong thơ tự ngâm nga, chợt có tiếng người ngoài cửa sổ:
- Có xướng tất phải có họa chứ.
Nghe chính là Giáng Tuyết, mở cửa mời vào. Nàng xem thơ xong nối vần liền:
Chung gối, người đâu nhỉ?
Đèn le lói rọi song.
Một mình nơi núi thẳm,
Đổi bóng bỗng thành song.


Chàng đọc thơ, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nhân trách nàng thưa gặp mặt. Nàng nói:
- Thiếp không thể nồng nàn như Hương Ngọc được, chỉ có thể an ủi chàng khuây cảnh tịch mịch đôi chút thôi.
Chàng muốn cùng nàng chăn gối. Nàng nói:
- Niềm vui gặp gỡ, đâu phải vì chuyện đó.
Từ đó, cứ lúc nào chàng thấy quạnh hiu thì nàng lại đến. Đến thì yến ẩm xướng họa, có khi không ở lại ngủ đêm, tan tiệc rồi là về. Chàng cũng chiều theo, thường bảo nàng:
- Hương Ngọc là vợ yêu của ta, Giáng Tuyết là bạn tốt của ta.
Mỗi lần gặp lại hỏi:
- Nàng là cây thứ mấy trong viện, xin sớm bảo cho biết, anh sẽ mang trồng ở trong nhà, khỏi bị bọn ác cướp đi mất như Hương Ngọc, để hận lại suốt đời.
Giáng Tuyết đáp:
- Chốn cũ khó dời, nói cho chàng biết cũng vô ích. Vợ còn chẳng giữ trọn được, huống hồ là bạn.
Chàng không nghe, kéo tay cùng đi ra, đến mỗi cây mẫu đơn lại hỏi:
- Có phải nàng đây không?
Nàng không nói gì, chỉ bưng miệng cười.
Cuối năm chàng về quê ăn tết. Vào khoảng tháng Hai, chợt nằm mơ thấy Giáng Tuyết đến, buồn rầu nói:
- Thiếp gặp nạn lớn, chàng hãy mau trở lại, may còn được gặp nhau, nếu chậm là không kịp nữa.
Tỉnh dậy lấy làm lạ, vội bảo người nhà lấy ngựa, ruổi lên núi ngay; đến nơi, thấy đạo sĩ sắp làm nhà, có cây nại đông vướng chỗ xây cất, thợ mộc sắp chặt bỏ đi. Chàng liền cản lại(1). Đến đêm, Giáng Tuyết vào tạ ơn. Chàng cười bảo:

(1) Có bản thêm vào một câu: “Biết rằng giấc mộng mới đây chính là việc này”.

- Trước kia không nói thực nên gặp nạn này. Bây giờ biết đích nàng rồi, nếu không tới, tôi sẽ lấy mồi ngải đốt cứu cho mà coi.
Nàng đáp:
- Thiếp vốn biết thế, nên trước kia mới không dám nói đấy.
Ngồi một lát, chàng nói:
- Nay ngồi với bạn tốt, lại càng nhớ vợ đẹp. Lâu không đi viếng Hương Ngọc, bây giờ nàng có thể cùng tôi đến viếng được chăng?
Hai người bèn đi đến bên hố đất mà khóc. Đến lúc sắp tan canh một, Giáng Tuyết lau nước mắt, khuyên chàng thôi, rồi cùng ra về. Cách vài ngày sau, chàng đang ngồi một mình buồn bã, Giáng Tuyết tươi cười bước vào, nói rằng:
- Có tin mừng báo cho chàng hay. Thần hoa cảm động vì lòng chí tình của chàng, cho Hương Ngọc tái sinh ở trong cung này.
Chàng mừng hỏi:
- Bao giờ?
Đáp:
- Không biết chắc nhưng cũng không lâu nữa.
Trời sáng, bước xuống giường, chàng bảo nàng:
- Tôi vì nàng mà đến đây, chớ để người ta chịu hiu quạnh lâu nhá!
Nàng cười gật đầu. Hai ngày không thấy đến, chàng bèn đi đến ôm lấy thân cây, vuốt ve lay động, gọi tên Giáng Tuyết mấy lần, không nghe tiếng gì đáp lại. Bèn ra về, ngồi trước đèn vê mồi ngải định tới đốt cây. Giáng Tuyết lật đật chạy vào, giật mồi ngải ném đi mà nói:
- Chàng hay đùa nhả, khiến người ta bị đau, phải đoạn tuyệt với chàng thôi.
Chàng cười ôm lấy nàng, vừa ngồi chưa yên thì Hương Ngọc lững thững bước vào. Chàng trông thấy từ xa đã bật khóc, vội vàng đứng lên ôm lấy nàng, Hương Ngọc giơ một tay kéo Giáng Tuyết, nhìn nhau nghẹn ngào. Đến khi ngồi xuống(1), chàng cầm tay Hương Ngọc mà cảm thấy trống không, như tự nắm tay mình, nên rất ngạc nhiên hỏi nàng. Hương Ngọc ứa nước mắt nói:

(1) Có bản thêm: “kể nỗi khổ ly biệt”.

- Ngày trước thiếp là thần hoa cho nên thể chất ngưng tụ, nay thiếp là ma hoa cho nên thể chất hư tán, chàng đừng nên coi là chân tướng, chỉ nên coi là người trong mộng thôi.
Giáng Tuyết nói:
- Em lại đây tốt quá; chị bị chồng em quấy quả lằng nhằng muốn chết.
Nói rồi liền cáo thoái.
Hương Ngọc vẫn âu yếm như xưa, song lúc tựa kề nhau, phảng phất như là một mình tựa bóng. Chàng bần thần không vui, Hương Ngọc cũng băn khoăn tủi hận, bèn dặn:
- Chàng lấy ít bột bạch liễm trộn với ít lưu hoàng đem vun bón và mỗi ngày tưới một chén nước cho thiếp, đến ngày này sang năm sẽ đền ơn chàng.
Nói đoạn cũng từ biệt mà đi.
Hôm sau ra xem chỗ cũ thấy có một nhánh mẫu đơn mới mọc, chàng bèn làm theo như lời dặn, ngày nào cũng vun tưới, lại làm hàng rào vây quanh để giữ gìn. Hương Ngọc đến, bội phần cảm kích. Chàng bàn dời cây, mang về nhà. Nàng không chịu, nói:
- Thiếp vốn thể chất yếu đuối, không chịu được cảnh đào lên trồng xuống. Vả lại mọi vật sinh ra đều có nơi có chốn cả, thiếp từ trước vốn không tính sinh ở nhà chàng, làm trái đi sợ giảm tuổi thọ; nhưng nếu có thương yêu nhau, thế nào cũng có ngày sum họp.
Chàng hận Giáng Tuyết không đến. Hương Ngọc nói:
- Nếu muốn cưỡng bức bắt đền, thiếp có thể làm được.
Bèn bảo chàng khêu đèn lên, đến dưới gốc cây, lấy một cuống cỏ, lấy gang tay làm cữ, rồi đo từ dưới lên, đến bốn thước sáu tấc đánh dấu vào chỗ đó, bảo chàng lấy hai móng tay gãi. Giây lát Giáng Tuyết từ sau thân cây đi ra, cười mà mắng rằng:
- Con nhỏ này đến đây giúp Kiệt làm điều bạo ngược à(1)?

(1) Kiệt là ông vua nổi tiếng bạo ngược thời cổ đại Trung Quốc.

Đoạn dắt tay nhau cùng về. Hương Ngọc nói:
- Xin chị đừng phiền trách, tạm thời nhờ chị hầu hạ chàng, một năm sau, không dám quấy rầy nữa.
Từ đó bèn đi lại như thường. Chàng ngắm chồi hoa càng ngày càng tốt tươi nảy nở. Hết mùa xuân đã mọc được gần hai thước. Sau khi về nhà, lấy vàng tặng đạo sĩ, nhờ vun tưới cho cây. Sang năm sau, tháng Tư trở lại cung quán, thấy một bông hoa hàm tiếu; đang lúc tần ngần, hoa bỗng lay động như muốn gãy, lát sau đã nở lớn như cái mâm, nghiễm nhiên có một người đẹp nhỏ xíu ngồi trong nhụy hoa, chỉ bằng ba ngón tay, nháy mắt đã nhẹ nhàng nhảy xuống, chính là Hương Ngọc. Nàng nhoẻn miệng cười:
- Thiếp chịu mưa gió để đợi chàng, sao tới muộn thế?
Đoạn cùng vào nhà, thấy Giáng Tuyết đã đến, cười bảo:
- Ngày ngày làm vợ thay người, bây giờ may mắn lại được rút lui làm bạn.
Rồi cùng nhau ngồi chuyện trò, xướng họa. Đến nửa đêm, Giáng Tuyết ra về, hai người cùng đi nằm, lại mặn nồng như xưa. (l)
Về sau, vợ chàng mất, chàng vào ở hẳn trong núi, không về nhà nữa, bấy giờ cây mẫu đơn đã lớn như cánh tay. Chàng thường chỉ vào cây mà bảo:
- Ngày sau ta gửi hồn ở đó, sẽ mọc bên trái nàng.
Hai cô gái cùng cười mà rằng:
- Chàng nhớ đừng quên nhé.
Hơn mười năm sau, chàng thốt nhiên mắc bệnh, con đến thăm, nhìn mà thương xót. Chàng cười mà bảo:
- Đây là ngày ta sinh chứ không phải ngày ta chết, sao mày lại buồn?
Lại nói với đạo sĩ:
- Sau này, dưới gốc mẫu đơn có một mầm đỏ mọc lên, mọc một lúc năm lá, tức là tôi đó.
Đoạn không nói gì nữa. Con lấy xe chở về, đến nhà thì chết. Năm sau quả có một cái mầm lớn vụt mọc lên, đủ năm lá như chàng đã nói trước. Đạo sĩ lấy làm lạ, năng tưới vun cây ấy. Ba năm sau cao mấy thước, to một ôm, nhưng không trổ hoa.
Đến khi đạo sĩ già rồi chết đi, đệ tử không biết, nhân thấy cây không trổ hoa, đẵn bỏ đi. Cây bạch mẫu đơn cũng héo đi rồi chết. Chẳng bao lâu sau cây nại đông cũng chết nốt.

Trần Văn Từ- Nguyễn Chí Viễn dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 22 Aug 2022

Thanh Mai


Thư sinh họ Trình ở Bạch Hạ(1) là người lỗi lạc, không câu thúc. Một hôm ở ngoài về, cởi thắt lưng, thấy đầu dây nặng nặng như có vật gì bám vào. Nhìn xuống không thấy gì. Ngoảnh đi ngoảnh lại có người con gái từ sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cười, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma. Cô gái nói:

(1) Thuộc huyện Giang Ninh, tỉnh Hồ Nam.

- Thiếp không phải là ma, mà là hồ đây.
Trình nói:
- Đã là giai nhân thì ma cũng không sợ, huống chi là hồ. Bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau, nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai. Thường khuyên Trình:
- Đừng lấy vợ, tôi sẽ sinh con trai cho anh.
Trình tin lời, bèn không lấy ai nữa.
Họ hàng bạn hữu đều chê cười, Trình nản chí, lại phải lấy người con gái họ Vương ở Hồ Đông.
Hồ nghe tin, tức giận, đến cho con gái bú rồi giao cho Trình, nói:
- Đây là món hàng phải bù tiền(2) của anh, để nó sống hay giết nó đi đều tùy ý anh, tôi việc gì đi làm * nuôi cho người?

(2) Chỉ con gái. Theo quan niệm trọng nam khinh nữ ngày xưa, người ta cho rằng sinh con gái phải bồi thêm tiền.

Đoạn ra cửa đi thẳng.
Khi Thanh Mai lớn lên thông minh, linh lợi, mà vẻ người lại thanh tú hệt như mẹ. Được ít lâu, Trình bị bệnh chết, Vương thị cũng tái giá, Thanh Mai gửi nuôi ở người chú họ. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi.
Có ông tiến sĩ họ Vương, còn ở nhà chờ bổ(1), nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ ra một món tiền lớn mua về để hầu hạ con gái là A Hỷ. Hỷ vừa mười bốn, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai vừa lòng lắm, cho ngủ chung một giường. Thanh Mai cũng khéo hầu hạ, thường đón biết ý chủ, nên cả nhà đều yêu thương.

(1) Đợi để bổ làm quan.

Trong vùng có chàng thư sinh họ Trương, tên là Giới Thụ, nhà nghèo túng, không có chút sản nghiệp, phải ở thuê căn nhà của ông Vương. Nhưng chàng nết na, hiếu thuận, không cẩu thả, lại chăm học. Một hôm Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy chàng ngồi trên một hòn đá ăn cháo tấm, vào nhà trong nói chuyện với mẹ chàng thì thấy trên bàn có cái giò lợn. Lúc ấy người cha đang ốm, chàng vào nâng cha dậy đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo, ông cụ thấy lấy làm ân hận, chàng vội giấu vết bẩn, ra ngoài giặt giũ, sợ cha biết.
Mai thấy thế lạ lắm, về kể chuyện đó rồi nói với cô chủ:
- Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là người tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì chàng Trương chính là người ấy.
Cô gái sợ cha mẹ chê chàng nghèo, Mai nói:
- Không phải, việc này là ở nương tử, nếu thấy được, em sẽ bảo riêng với cậu ấy để nhờ người làm mối. Phu nhân tất gọi nương tử đến bàn, bấy giờ nương tử chỉ “vâng” một tiếng là tốt đẹp thôi.
Cô gái lại sợ sau này nghèo mãi, sẽ bị người ta chê cười. Mai nói:
- Em cam đoan là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, nhất định không nhầm.
Hôm sau sang nhà nói chuyện với mẹ Trương. Bà cụ hoảng hốt, cho lời cô nói là chuyện chẳng lành. Mai bảo:
- Tiểu thư nghe nói đến công tử nhà ta, khen công tử là người có đức; cháu đã nhòm biết ý như vậy, nên mới nói. Người mối đến, hai chúng cháu sẽ nói giúp thêm thì việc có thể xong. Bằng không được thì đối với công tử cũng có gì là nhục đâu?
Bà cụ nói: “Được”. Bèn nhờ bà bán hoa họ Hầu đến hỏi. Phu nhân nghe xong, buồn cười, nói lại với Vương, Vương cũng cười to. Gọi con gái đến, kể lại ý Hầu thị. Cô gái chưa kịp trả lời, Thanh Mai đã hết sức tán tụng chàng là người hiền đức, quyết phải quý hiển. Vương phu nhân lại hỏi rằng:
- Đây là việc trăm năm của mày, nếu có thể ăn cơm hẩm gạo lức(1) được thì ta cũng bằng lòng cho.

(1) Nguyên văn là “khang hột”, là loại mạch cứng giã không vỡ, tấm cám lổn nhổn. Chúng tôi dịch thoát.

Cô gái cúi đầu một lúc lâu, ngoảnh mặt vào vách nói:
- Giàu nghèo là số, nếu tốt số thì nghèo cũng chẳng lâu, mà lâu dài sẽ không còn nghèo. Còn như số đã xấu thì tuy gấm vóc vương tôn mà có phải ít người không thước đất cắm dùi đâu? Việc này xin tùy thầy mẹ.
Lúc đầu Vương bàn với con gái cũng chỉ muốn mua một trận cười, đến khi nghe con gái nói vậy thì bụng không vui, nói:
- Mày muốn lấy gã họ Trương ư?
Cô gái không đáp. Lại hỏi, vẫn không đáp. Giận nói:
- Con này cốt cách bần tiện, chẳng muốn khá, định xách bị làm vợ thằng ăn mày, không biết xấu mà chết quách đi!
Cô gái đỏ mặt, uất giận, cố cầm nước mắt bước ra, bà mối cũng trốn mất.
Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình. Mấy hôm sau đang đêm đến nhà Trương. Chàng đang đọc sách, giật mình hỏi đến làm gì thì lời lẽ thổ lộ có phần úp mở. Chàng liền nghiêm nét mặt mà từ khước. Mai khóc nói:
- Thiếp là con nhà tử tế, không phải gái dâm bôn, chỉ vì thấy chàng là người hiền đức nên muốn đem thân để nương tựa.
Chàng nói:
- Nàng yêu tôi, bảo tôi là người hiền đức, mà việc đêm hôm ám muội, kẻ tự trọng cũng không làm, nữa là người hiền đức ư? Trước lăng nhăng mà sau thành vợ chồng, người quân tử cũng cho là không nên, nữa là việc không thể thành được thì sau này hai bên đối xử với nhau như thế nào?
Mai nói:
- Nếu vạn nhất mà thành được, thì có ra ơn cứu mạng được không?
Chàng nói:
- Được người như nàng, lại còn mong gì hơn nữa. Nhưng có ba điều “không thể”, và “không biết làm thế nào”, nên không dám khinh dị mà nhận lời.
Mai hỏi:
- Là những gì?
Đáp:
- Nàng không có khả năng tự chủ, nên không thể, thì biết làm thế nào? Dù có tự chủ mà thầy mẹ tôi không bằng lòng thì cũng không thể, vậy biết làm thế nào? Dù thầy mẹ tôi bằng lòng mà thân nàng cao giá, tôi nghèo không sao chuộc được, thì lại càng không thể, và biết làm thế nào? Thôi nàng về ngay cho, cái hiềm gốc mận ruộng dưa(1) thật đáng sợ.

(1) Cổ ngữ nói: “Đi qua gốc mận, có lệch mũ cũng không đưa tay sửa; đi qua ruộng dưa, có tụt giày cũng không cúi xuống xỏ lại” là để tránh cho người ta khỏi ngờ oan.

Mai sắp đi, lại dặn rằng:
- Nếu chàng có lòng thì xin cùng nhau lo toan.
Chàng nhận lời. Mai về, cô chủ hỏi đi đâu, bèn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn, toan đánh. Mai khóc, biện bạch rằng không có điều gì khác, nhân mới kể thực tình. Cô gái thở dài nói:
- Không đi lại cẩu thả, thế là người có lễ; hỏi ý cha mẹ, thế là người có hiếu; không khinh dị mà nhận lời, thế là người có tín. Có ba đức tốt ấy, trời tất sẽ giúp. Người thế không lo nghèo đâu.
Đoạn lại nói:
- Mày định thế nào?
Đáp:
- Làm vợ anh ấy.
Cô gái cười nói:
- Con ngây, mày tự chủ được ư?
Mai nói:
- Không được thì chỉ còn chết thôi.
Cô gái nói:
- Ta sẽ làm cho mày được như nguyện.
Mai cúi đầu mà vái. Lại vài hôm sau, nói với cô gái rằng:
- Hôm nọ cô nói là nói đùa chăng? Hay quả có lòng thương em thực? Nếu quả là thương thì còn việc nhỏ này nữa, xin rủ lòng thương cho trọn.
Cô gái hỏi việc gì, đáp:
- Chàng Trương không có tiền cưới mà tì này cũng không có gì để tự chuộc mình ra được. Nếu ông bà đòi nhiều tiền thì có gả em cũng như không gả thôi.
Cô gái trầm ngâm rồi nói:
- Việc này thì sức ta không làm nổi. Ta cho mày đi lấy chồng sợ còn chưa được, huống chi là bảo không đòi tiền chuộc, thì tất ông bà không nghe, mà ta cũng không dám nói đâu.
Thanh Mai nghe nói thế nước mắt ròng ròng, chỉ xin nàng thương mà cứu vớt. Cô gái nghĩ lúc lâu, nói:
- Thôi thì ta còn để dành được ít vàng, sẽ dốc túi ra giúp mày vậy.
Mai vái tạ, nhân lẻn sang bảo với Trương. Mẹ Trương mừng lắm, cố vay mượn khắp nơi, cộng được số tiền kha khá, cất đi đợi tin mừng.
Vừa gặp lúc Vương được bổ làm quan tể ở Khúc Ốc, A Hỷ thừa dịp nói với mẹ:
- Thanh Mai tuổi đã lớn, nay nhà ta sắp chuyển đến nơi thầy trị nhậm, chi bằng cho nó ra.
Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại dẫn dắt con gái vào đường bất nghĩa, cũng định đem gả đi mà sợ con gái không vui. Nay nghe con nói, mừng quá. Hai hôm sau, có bà mối đến tỏ bày ý định của Trương thị. Vương cười, nói:
- Nhà đó thì xứng đôi với thị tỳ nhà ta rồi; trước kia sao lại càn rỡ thế? Nhưng mua tỳ thiếp ở cửa nhà quan, giá phải gấp đôi ngày trước đấy.
Cô gái vội bước lên nói:
- Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán nó làm thiếp, thì thật không nỡ.
Vương bèn truyền cho nhà họ Trương mang tiền trả nguyên số(1) sẽ gả Thanh Mai cho chàng.

(1) Tức là số tiền ngang với tiền lúc nhà họ Vương mua Thanh Mai.

Khi đã về nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất có hiếu, chiều chuộng còn hơn cả con trai chiều bố mẹ, mà làm lụng rất siêng năng, ăn rau cám không lấy làm khổ. Vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm nghề thêu thùa, bán chạy lắm, người mua đợi ở cửa chỉ sợ không mua được. Được thêm món tiền, nhà cũng đỡ túng. Nàng lại thường khuyên chàng chớ lo việc nhà mà lỡ việc học, nhà cửa cứ phó mặc nàng. Nhân ông chủ đi nhậm chức, nàng sang tiễn A Hỷ. Hỷ trông thấy, khóc mà nói:
- Em được toại nguyện rồi, ta cũng không bằng.
Mai đáp:
- Được thế này là ai cho em mà dám quên, nhưng cô đừng bảo là không bằng con hầu, e lại làm giảm tuổi thọ của con hầu đi đấy.
Bèn khóc mà biệt nhau.
Vương đến đất Tần được nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau, Vương vì tham nhũng bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng, không đủ ăn, đầy tớ cũng bỏ đi. Bấy giờ bệnh đậu lan rộng, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một * già ở với cô con gái; chẳng bao lâu * già cũng chết nốt. Nàng càng lênh đênh cơ khổ. Có bà cụ hàng xóm khuyên đi lấy chồng, nàng nói:
- Ai chôn cất được cha mẹ tôi, tôi sẽ xin theo.
Bà cụ thương tình tặng cho mấy đấu gạo rồi đi. Nửa tháng sau, lại đến nói:
- Tôi đã hết sức giúp nương tử, nhưng việc này khó quá; người nghèo thì không sao chôn cất được, mà kẻ giàu thì lại chê cô là con cái của một gia đình sa sút, biết làm thế nào. Có một cách này, chỉ sợ nương tử không theo được thôi.
Nàng hỏi:
- Cách gì?
Nói rằng:
- Ở gần đây có một chàng họ Lý, muốn lấy vợ lẽ; nếu được trông thấy dung nhan thì dầu có bảo tống táng thật linh đình, hắn cũng chịu cáng đáng mà không tiếc.
Nàng khóc òa lên, nói:
- Thiếp là con nhà quan, mà phải đi làm lẽ người ta ư?
Bà cụ không nói gì, bỏ đi. Sau đấy, mỗi ngày chỉ được một bữa, gắng sống để chờ xem có ai hỏi không, nhưng ở được nửa năm thì không chịu được nữa. Một hôm bà cụ đến, nàng khóc lóc nói:
- Khốn đốn thế này, vẫn chỉ muốn chết, còn dùng dằng sống tạm bợ đây là vì hai cỗ quan tài còn đó. Nếu đã đâm đầu xuống ngòi xuống rãnh rồi thì ai thu nhặt nắm xương cho cha mẹ? Cho nên nghĩ lại, chẳng bằng nghe lời bà vậy.
Bà cụ bèn dẫn Lý đến. Thoáng trông thấy nàng, anh ta thích lắm, tức thì bỏ tiền ra lo tống táng, cả hai cỗ quan tài cùng đưa đi, xong rồi mới đón nàng về. Vào chào vợ cả, vợ cả vốn hung hãn, lại cả ghen, lúc đầu Lý cũng chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là mua con hầu. Đến khi thấy nàng thì nổi giận đùng đùng, liền vác gậy đuổi thẳng không cho vào nhà. Nàng rũ tóc, nước mắt ràn rụa, không biết tiến thoái đằng nào. Có một ni sư già đi qua, rủ về cùng ở. Nàng mừng bèn theo về.
Đến am, nàng vái xin làm lễ cắt tóc, bà sư không cho, nói:
- Tôi trông nương tử không phải chịu đày đọa lâu trong cảnh phong trần. Am đây dưa muối gạo lức, kham khổ cũng đủ no, hẵng cứ tạm ở để đợi thời, thời đến nương tử khắc sẽ đi!
Ở được ít lâu, bọn vô lại trong chợ dòm thấy nàng đẹp, cứ đến đập cửa, buông lời trêu ghẹo làm vui. Bà sư không ngăn được. Nàng kêu khóc toan tự tử. Bà sư đến cầu xin ông nọ ở bộ Lại yết thị nghiêm cấm, lũ thiếu niên ác nghiệt kia mới hơi né tránh. Sau, đang đêm có kẻ đào tường nhà chùa, bà sư kêu lên đánh động mới bỏ đi. Nhân đấy lại báo lên quan Lại bộ, bắt được đứa cầm đầu, đưa về quận phạt đòn, mới dần dần được yên.
Lại được hơn một năm, có một công tử thế gia đi qua am thấy nàng, kinh ngạc lắm, ép bà sư dỗ dành nàng, lại đem nhiều tiền đến đút lót cho bà sư. Bà sư mềm mỏng nói rằng:
- Người ấy con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về đi, rồi thong thả sẽ xin bẩm lại.
Lúc y đi rồi, nàng toan uống thuốc độc tự tử, bỗng đêm nằm mộng thấy cha đến, mặt mày đau khổ, nói rằng:
- Ta không theo ý con, để con đến nỗi này, ăn năn thì đã muộn rồi; nhưng con hãy khoan, đừng chết vội, ước nguyện của con còn có thể đạt được.
Nàng lấy làm lạ. Trời sáng, rửa mặt xong, bà sư trông thấy giật mình nói:
- Trông sắc mặt nương tử, trọc khí đã tiêu hết, tai ương không đáng lo nữa. Phúc sẽ lại đến, đừng quên thân già này nhé.
Nói chưa dứt lời, nghe có tiếng gõ cửa, nàng sợ thất sắc, nghĩ bụng tất là đầy tớ nhà công tử nọ. Bà sư mở cửa, quả thế thực. Bọn đầy tớ xúm hỏi việc mưu tính thế nào. Bà sư ngọt ngào đon đả, xin hoãn ba ngày nữa. Chúng thuật lại lời chủ:
- Nếu việc không xong, nhà chùa tự đến mà trả lời.
Bà sư vâng dạ, chúng mới đi. Cô gái đau đớn lắm, lại muốn tự tử, bà sư ngăn lại. Nàng lo rằng ba ngày nữa chúng trở lại sẽ không biết nói thế nào. Bà sư nói:
- Còn thân già này đây, chém giết, tôi xin chịu.
Hôm sau, trời vừa trưa thì mưa như trút nước.
Bỗng nghe có mấy người đập cổng, réo gọi ồn ào; nàng tưởng lại có biến, khiếp sợ không biết làm thế nào.
Bà sư đội mưa ra mở cổng, thấy chiếc kiệu đỗ lại, một đám thị tỳ đỡ một người đẹp bước ra, kẻ hầu thầy tớ oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Kinh ngạc hỏi thăm; đáp rằng:
- Đây là bà nội tướng quan Tư lý tạm vào tránh mưa.
Bà dẫn vào trong điện, chuyển sập mời ngồi; bọn người nhà, thị tỳ chạy vào các phòng trai tìm chỗ nghỉ. Vào trong buồng thấy nàng, cho là đẹp, liền chạy ra bẩm với phu nhân.
Một lúc mưa tạnh, phu nhân đứng lên xin đi thăm thiền xá trong am. Bà sư bèn đưa vào. Trông thấy cô gái kinh ngạc quá, cứ nhìn chằm chằm, không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại rất lâu. Thì ra phu nhân không phải là ai khác, chính là Thanh Mai. Hai người đều khóc nức nở, nhân mới cùng kể lể sau xưa. Mới biết Trương ông đã ốm mà mất. Chàng Trương sau khi hết tang, đỗ liền thi hương, thi hội, được bổ làm quan Tư lý. Chàng rước mẹ cùng đi, sau lại dời cả gia quyến đến.
Cô gái than thở nói:
- Hôm nay trông nhau mà sao như một trời một vực!
Mai cười, đáp:
- Cũng may nương tử gặp bước gian truân, chưa lấy ai, chính là trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản thì làm gì có cuộc gặp gỡ bất ngờ này? Trong việc này có quỷ thần chứ không phải sức người mà làm được.
Liền lấy mũ ngọc, áo gấm, giục cô gái thay. Nàng cúi đầu bỡ ngỡ. Bà sư cũng khuyên thêm. Nàng sợ cùng ở chung thì danh không được thuận. Mai nói:
- Danh phận đã có từ trước, em đâu dám quên đức lớn; và nghĩ chàng Trương phải đâu là người phụ nghĩa?
Ép thay quần áo, rồi từ biệt sư bà mà đi.
Về đến nơi, mẹ con đều mừng. Nàng sụp xuống lạy, nói:
- Ngày nay không còn mặt nào dám trông thấy mẹ!
Mẹ cười, khuyên giải; nhân mới bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói:
- Nếu trong am mà còn đường sống, dù chỉ bằng sợi tơ, thì cũng không theo phu nhân đến đây; ví như còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn niệm Phật, thế là đủ rồi.
Mai cười mà không nói gì. Đến ngày, ôm các thứ trang sức lộng lẫy đến, nàng loay hoay không biết làm thế nào. Giây lát bỗng nghe tiếng nhạc nổi lên, nàng càng không tự chủ được. Mai sai thị tỳ, u già ép nàng mặc áo rồi xốc tay đỡ đưa ra. Thấy chàng mũ áo đứng vái, nàng cũng bất giác ngơ ngẩn vái theo. Lễ xong, Mai kéo nàng vào động phòng, bảo rằng:
- Ngôi vị bỏ trống này đợi chị đã lâu.
Rồi lại ngoảnh vào chàng nói đùa:
- Đêm nay được dịp đền ơn, phải làm cho khéo nhé.
Quay ra toan đi. Cô gái nắm lấy quần. Mai cười, nói:
- Đừng giữ em lại, việc này không thể thay nhau được.
Rồi gỡ tay thoát ra.
Thanh Mai đối xử với cô gái rất kính cẩn, không dám dành riêng phần ân ái. Mà cô gái vẫn thẹn thùng không yên tâm. Vì vậy, bà mẹ bắt cùng gọi nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai rốt cuộc vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám lơ là.
Ba năm sau, Trương được triệu vào kinh đô, đi qua am cũ của bà sư, đem 500 lạng vàng để tạ ơn sư bà; bà sư không nhận, cố ép mới nhận 200 lạng để dựng đền đại sĩ(1) và lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương làm đến thị lang, Trình phu nhân sinh được hai trai, một gái. Vương phu nhân sinh được bốn trai một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong làm phu nhân.

(1) Đại sĩ cũng như bồ tát; Quan Âm bồ tát cũng gọi là Quan Âm đại sĩ.

Đỗ Ngọc Toại dịch



Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 23 Aug 2022

Bạch Thu Luyện


Miền Trực Lệ có thư sinh họ Mộ, tự là Thiềm Cung, con một thương gia tên là Mộ Tiểu Hoàn, thông minh, ham học. Vừa tròn mười sáu tuổi thì người cha cho rằng theo đuổi nghề văn chỉ viển vông, bắt bỏ học, theo nghề buôn. Chàng theo cha tới đất Sở(1), mỗi khi trong thuyền rỗi rãi, lại mở sách ngâm đọc.

(1) Tên gọi chung hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc.

Đến Vũ Xương, cha lên quán trọ để cất trữ hàng. Nhân những lúc cha ra ngoài, chàng cầm lấy sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng. Bỗng chốc thấy ngoài cửa sổ có bóng ai lay động, tựa hồ một người nào đó đang nghe trộm, nhưng cũng chẳng để ý ngờ vực. Một đêm, cha đi uống rượu, lâu không về. Chàng ngâm nga càng réo rắt hơn. Tự nhiên có một người quanh quẩn ngoài song, ánh trăng soi rõ mồn một. Lấy làm lạ, vội chạy ra xem, thì là một thiếu nữ đẹp nghiêng thành, tuổi mười lăm mười sáu; thoáng trông thấy chàng đã lẩn đi mất.
Vài ba ngày sau, chở hàng quay về miền Bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ. Cha vừa ra khỏi thuyền, một người đàn bà đã bước vào, nói:
- Chàng hại con gái tôi rồi.
Chàng kinh ngạc hỏi nguồn cơn, đáp rằng:
- Tôi họ Bạch, được một gái tên Thu Luyện, cũng hơi am hiểu chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh tao của cậu bỗng đem lòng quyến luyến, đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết mối lương duyên, xin đừng cự tuyệt.
Chàng trong lòng đã thích lắm, song vẫn còn lo cha giận, bèn lấy tình thực bày tỏ lại. Bà già không tin hẳn, bắt phải thề nguyền. Chàng không chịu. Bà giận nói:
- Việc nhân duyên ở đời, có kẻ cầu mong đem sính lễ đến mà không được. Nay lão tự mình đứng ra làm mối cho con lại không đắt. Còn gì nhục nhã hơn! Đã thế xin chớ nghĩ đến chuyện về Bắc nữa!
Nói rồi bỏ đi. Một lát sau cha về, chàng dùng lời khéo léo giãi bày với cha, ngầm mong cha chấp thuận, nhưng cha lấy cớ đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái “hoài xuân”(1), nên cười mà bỏ qua.

(1) Chỉ những người phụ nữ tơ tưởng hôn nhân.

Chỗ đậu thuyền, nước sâu chống con sào không thấu, đến đêm cát sỏi bỗng bồi lên, thuyền mắc cạn không sao quay trở được. Hàng năm, thuyền buôn trong hồ gặp nạn này vẫn phải đậu lại, chờ đến tận mùa nước hoa đào(2) năm sau. Bấy giờ hàng hóa nơi khác chưa kịp chở đến, những gì chứa trong thuyền đều tăng giá gấp trăm; vì thế người cha cũng không mấy lo phiền, chỉ tính cách làm sao sang năm thuyền từ Nam về, hàng vẫn giữ được giá. Thế là ông để con ở lại, còn mình trở về nhà. Chàng mừng thầm, chỉ tiếc không hỏi kỹ làng ở của bà cụ.

(2) Mùa nước lớn, cũng là lúc đào ra hoa, nên gọi là “nước hoa đào”.

Trời chạng vạng, bà già cùng với con hầu dìu một nữ lang tới, cởi áo khoác và đặt nàng nằm lên giường, rồi quay nhìn chàng mà rằng:
- Bệnh người ta đã đến nước này, xin đừng ghếch đầu lên gối làm ra vô sự nữa.
Nói rồi đi liền. Chàng mới nghe thì hoảng, nhưng cầm đèn soi vào cô gái mới hay, bệnh trạng vẫn không giảm vẻ yêu kiều, làn thu ba không ngớt lóng lánh. Lại gần hỏi han, chỉ một nụ cười yếu ớt đáp lại. Chàng cố ép nàng lên tiếng, thì nói:
- Xin hãy vì thiếp mà ngâm cho nghe bài “Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng”.
Chàng mừng cuống lên, rất muốn chuyện thân cận, nhưng lại thương còn ốm yếu, nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve và ghé môi hôn hít làm vui. Cô gái bất chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói:
- Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài thơ “Từng nếp áo là” của Vương Kiến(1), thì bệnh sẽ khỏi.

(1) Vương Kiến: (768-830?) là nhà thơ đời Đường, sáng tác một trăm bài Cung từ (lời trong cung). Trên đây là một trong số bài đó.


Chàng nghe lời, mới ngâm xong lần thứ hai, nàng đã xốc áo ngồi dậy nói rằng:
- Thiếp khỏi rồi.
Lại ngâm tiếp, thì nàng cất giọng yêu kiều run rẩy họa theo. Chàng bấy giờ tâm thần, ý chí đều phiêu diêu, bèn tắt đèn cùng nằm ngủ. Trời chưa sáng rõ nàng đã trở dậy, bảo:
- Mẹ già sắp đến rồi.
Một chốc, bà già quả nhiên bước vào. Nhìn thấy con gái đang ngồi tươi vui, mặt điểm trang lộng lẫy, bất giác cũng mừng rỡ. Giục về, nàng cúi đầu không nói. Bà lập tức về ngay, bảo con:
- Mày còn muốn vui đùa với lang quân, thôi thì mặc mày. Chàng nhân đó hỏi đến nơi ăn chốn ở của nàng.
Nàng đáp:
- Thiếp với chàng chẳng qua mới là bạn sơ giao, việc cưới xin đã lấy gì làm chắc, cần gì phải biết đến nhà cửa.
Tuy thế, hai bên vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn, mở sách ra xem rồi bùi ngùi rơi lệ. Chàng cũng vội trở dậy hỏi han. Nàng nói:
- Ông về sắp trở lại. Câu chuyện giữa đôi ta, thiếp vừa mở sách bói một quẻ, đúng vào bài Giang Nam khúc của Lý ích(1), ý bài thơ chẳng được lành.

(1) Lý Ích (748-827) là nhà thơ đời Đường.

Chàng vỗ về khuyên giải, bảo nàng:
- Câu đầu bài thơ là “Cưới được chàng lái buôn đất Cù Đường” thì đó là “đại cát”, chứ có gì mà chẳng lành!
Nàng bèn tươi dần nét mặt, đứng lên từ biệt, nói:
- Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó.
Chàng nắm tay nàng nghẹn ngào, hỏi:
- Nếu việc lương duyên êm thấm, biết tìm đến đâu mà báo cho nhau?
Đáp:
- Thiếp vẫn thường cắt người dò la, việc êm thấm hay không thế nào mà chẳng biết.
Chàng định lên bờ tiễn chân, nhưng nàng cố từ mà đi.
Chẳng bao lâu, ông Mộ quả trở lại. Chàng lân la kể tình thực. Cha ngờ là dắt gái lầu xanh về, nổi giận quát mắng tàn tệ. Đến khi xét thấy của cải trên thuyền tịnh không suy suyển, cơn giận mới nguôi. Một đêm, ông không có mặt trong thuyền, nàng chợt tìm đến. Cả hai nhìn nhau âu sầu, chẳng biết cách nào xoay xở. Nàng bảo:
- Nên hay hư đã có số, hẵng lo chuyện trước mắt đã. Xin giữ chàng thêm hai tháng nữa rồi sẽ bàn tính ở hay đi.
Lúc sắp chia tay, hẹn ước lấy tiếng ngâm thơ làm dấu hiệu gặp nhau. Từ đó, hễ cha bước ra khỏi thuyền, chàng lại cao giọng ngâm nga thì thế nào nàng cũng đến.
Tháng Tư sắp hết, các thứ hàng đều mất giá, đám khách buôn không còn kế sách gì nữa, đành sắm lễ vật đến cầu đảo ở ngôi miếu thờ vị thần hồ. Sau tết Đoan dương(1) trời bỗng mưa to, nước lớn, thuyền mới đi lại được.

(1) Cũng gọi là tết Đoan ngọ, tức ngày 5 tháng 5 Âm lịch.

Chàng về đến nhà, tưởng nhớ thành bệnh. Ông Mộ rất lo, bói toán thuốc thang đủ cách. Chàng nói riêng với mẹ:
- Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào thuyên giảm được. Chỉ có Thu Luyện đến đây mới mong.
Mới đầu ông nghe thì nổi giận, nhưng về sau, thấy chân tay con ngày càng rời rã, đâm sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người quanh vùng, tịnh không ai biết bà già họ Bạch là người nào. Vừa hay, có bà lão lái con thuyền ghé vào bờ bước ra tự nhận mình họ Bạch. Ông trèo lên thuyền, nhìn thấy Thu Luyện, lòng thầm mừng. Nhưng hỏi kỹ về họ hàng, gia tộc, thì ra chỉ lấy thuyền làm nhà, nay đây mai đó lênh đênh trôi nổi mà thôi. Ông nhân đó nói thực căn bệnh của con, mong nàng đến thuyền mình, hẵng để giúp làm vơi cơn bệnh trầm trọng. Bà lão lấy cớ hôn ước chưa thành, không chịu. Cô gái hé nửa mặt, chăm chú lắng nghe. Thấy lời lẽ của hai bên, rưng rưng muốn khóc. Bà mẹ nhìn mặt con gái, lại nhân ông Mộ năn nỉ thiết tha quá, nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, nàng quả nhiên đến thật. Lại gần giường mà than khóc rằng:
- Tình trạng thiếp năm trước, nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng mà gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy!
Chàng cũng mừng. Nàng bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến hồi trước. Chàng nói:
- Đấy là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người thì hiệu nghiệm sao được? Nhưng chỉ nghe giọng nàng, tâm thần cũng đã thấy sảng khoái. Hãy thử ngâm cho nghe bài “Nghìn cành dương liễu hướng về Tây(1) xem nào?

(1l) Tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình (710-?), nhà thơ đời Đường.

Nàng vâng lời. Chàng thích thú kêu lên:
- Khoan khoái quá! Hồi trước nàng đọc tập Thi dư có bài Hái sen trong có câu “Ngậm gương, thơm ngát khắp mười gò”, bụng vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa.
Nàng lại vâng lời. Vừa dứt tiếng ngâm, chàng đã nhót ngay dậy, kêu lên:
- Tiểu sinh nào có bệnh gì đâu!
Rồi cùng ôm chầm lấy nhau. Chứng bệnh trầm trọng ngỡ như tiêu tán sạch. Xong xuôi chàng hỏi:
- Cha anh gặp bà cụ nói những gì? Việc có êm thấm hay không?
Nàng đã xét biết ý của ông, nói thẳng rằng: “Không xuôi”. Sau khi nàng đi, cha về, thấy con đã dậy được, mừng lắm, nhưng chỉ lựa lời khuyên giải, nhân nói rằng:
- Con bé thậm xinh. Song từ thuở để chỏm đến nay, chỉ biết ôm dầm chèo, tựa bánh lái ca hát, chưa nói con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh được rồi.
Chàng không đáp. Cha vừa đi thì nàng đã trở lại. Chàng kể rõ ý của cha. Nàng bảo:
- Thiếp vừa nhòm đã biết hết rồi. Việc đời là thế càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt. Chi bằng cứ để cho ông tự đổi ý, rồi lại quay lại cầu cạnh nhau đấy thôi.
Chàng hỏi mưu kế. Nàng đáp:
- Đại phàm đã là nhà buôn thì chí để vào chữ lợi. Thiếp có chút tài mọn biết được giá cả hàng hóa. Vừa xem qua các thứ chở trong thuyền, chẳng thứ nào có được một mảy may lời lãi. Hãy thưa lại với ông giùm thiếp, muốn lãi gấp ba thì mua trữ thứ hàng kia, lãi gấp mười thì thứ hàng này. Về đến nhà, nếu lời thiếp ứng nghiệm, thì cầm chắc thiếp là dâu hiền rồi. Lúc trở lại đây, chàng vừa mười tám tuổi, còn thiếp mười bảy, ấy là ngày ta vui vầy với nhau, việc gì mà lo!
Chàng đem lời nàng khuyên về giá cả thuật lại với bố. Ông không tin lắm, song cũng đem nửa số tiền còn thừa mua theo lời nàng dặn. Sau khi về, những hàng hóa do ông tự ý mua đều lỗ vốn nặng. May có chút hàng mua theo lời cô gái được lãi lớn, nên cũng bù lại được. Vì thế phục Thu Luyện như thần. Chàng còn thêm thắt vào, nói rằng theo lời nàng thì nàng có thể làm cho mình trở nên giàu có. Vì thế, ông lại bỏ thêm vốn liếng trẩy xuống miền Nam.
Trở lại bên hồ, tìm mấy ngày không thấy bà già họ Bạch. Lại qua mấy ngày nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu. Bèn đem đồ sính lễ đến. Nhưng lễ vật gì bà cũng không nhận, chỉ chọn ngày lành để cho con gái sang thuyền. Ông thuê một chiếc thuyền riêng để con mình làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông trẩy thuyền quá xuống Nam, loại hàng nào cần mua đều chép ra giấy đưa ông. Còn bà già thì mời luôn chàng rể sang ở trong thuyền mình. Ba tháng sau, thuyền ông trở lại, hàng hóa chỉ mới về đến đất Sở giá đã tăng gấp đôi. Khi sắp trở về nhà, cô gái xin chở thêm một ít nước trong hồ. Đến nhà rồi, mỗi lần ăn cơm, rưới vào một ít như chan tương, nêm dấm. Về sau mỗi bận trẩy xuống Nam thế nào ông cũng mang về cho một vài bình.
Được chừng ba bốn năm, nàng sinh một con trai. Một hôm, nàng khóc lóc nhớ nhà muốn về thăm. Ông bèn dẫn cả con và dâu cùng đi đến đất Sở. Khi đến nơi hồ cũ, không thấy bà lão ở đâu. Cô gái gõ vào mạn thuyền gọi mẹ, mặt mày thất đảm, giục chàng mau chạy ven hồ tìm hỏi. Gặp lúc một bọn câu cá “tầm hoàng”(1) câu được một con cá ngựa trắng. Chàng đến gần nhìn xem, thì là một giống cá lớn, hình thù rất giống người, * và âm hộ đều đủ cả. Chàng lấy làm lạ, trở về nói với nàng. Nàng hoảng hốt, nói rằng trước kia mình đã có lời nguyền phóng sinh, bảo chàng mua mà thả ra. Chàng tìm tới thương lượng với làng câu thì họ đòi giá rất cao. Cô gái bảo:

(1) Một giống cá lớn và hiếm, ở hồ và biển, hình dạng rất giống phụ nữ.

- Từ khi thiếp về nhà chàng, nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, thế mà chỉ tiêu một món vặt vãnh lại nỡ khư khư tiếc sẻn. Nếu chẳng nghe nhau thiếp đâm đầu xuống hồ chết quách cho xong.
Chàng sợ hãi, không dám nói với bố, lấy trộm tiền mua cá tha ra. Khi quay về không thấy nàng đâu, tìm khắp nơi cũng chẳng thấy, đến tàn canh nàng mới trở về. Hỏi:
- Đi đâu thế?
Đáp:
- Vừa về nhà mẹ.
Hỏi:
- Mẹ ở đâu?
Nàng bối rối đáp:
- Hôm nay thì không thể không thưa thực, con cá chàng vừa chuộc ra chính là mẹ thiếp đấy. Xưa kia, sống ở hồ Động Đình, được Long Quân giao cho trông coi việc bộ hành qua lại. Gần đây, trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên mới có sắc chỉ cho mẹ, tự nhiên vô cớ bắt tìm thiếp cho bằng được. Mẹ thiếp cứ thực tâu lên nhưng Long Quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, chịu đói khát gần chết, vì thế mới mắc vào tai nạn vừa rồi. Nay tuy đã tai qua nạn khỏi nhưng tội vẫn chưa được xóa. Chàng có yêu, hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân Quân(1) may ra thì thoát. Nhược bằng thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con lại cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ chốn Long cung vị tất đã không gấp trăm lần ở nhà chàng.

(1) Tức Lão Tử, vốn là nhà triết học lớn Trung Quốc thời cổ đại, được Đạo giáo suy tôn thành thần.

Chàng nghe mà rụng rời, lo rằng không có cách gì gặp Chân Quân được. Nàng bảo:
- Ngày mai giờ mùi(1), Chân Quân thế nào cũng đến. Cứ thấy một vị đạo sĩ chân thọt thì kíp phục xuống lạy, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân Quân vốn thích các văn nhân học sĩ, tất rủ lòng thương mà nhận lời.

(1) Vào khoảng xế chiều.

Nói rồi, lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá, đoạn bảo chàng:
- Như ngài có hỏi muốn cầu điều gì thì đưa ngay cái này ra, xin ngài viết cho một chữ “miễn”.
Chàng theo lời nàng dặn, cố chờ. Quả nhiên có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Chàng nằm phục xuống lạy. Đạo sĩ rảo chân bước gấp, chàng cũng bám gót theo sau. Đạo sĩ ném chiếc gậy xuống nước, rồi nhảy vọt theo, đứng trên gậy. Chàng cũng lội xuống nước leo lên, thì không phải là gậy nữa mà là một chiếc thuyền. Chàng lại sụp xuống lạy. Đạo sĩ hỏi:
- Cần gì?
Chàng đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ nhìn kỹ nói:
- Đây là vây cá ngựa trắng, anh làm sao gặp được?
Thiềm Cung không dám giấu, bày tỏ đầu đuôi mọi sự.
Đạo sĩ cười:
- Loại này đặc biệt phong nhã, tên Long vương già kia sao dám hoang dâm như vậy!
Bèn rút ngay ngọn bút lông ra, viết một chữ “miễn” theo lối chữ thảo, hình dáng giống như một đạo bùa. Rồi quay thuyền lại cho chàng ghé vào bờ. Thoắt đã thấy đạo sĩ đạp lên cây gậy nổi trên nước mà đi, chỉ phút chốc đã mất dạng.
Chàng trở lại thuyền. Nàng mừng lắm, chỉ dặn đừng nói hở ra với bố mẹ.
Sau khi trở về nhà được vài ba năm, một lần ông lại trảy xuống Nam mấy tháng không về. Bình nước hồ đem về dần dần đã cạn hết mà chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc. Dặn chồng rằng:
- Nếu thiếp có chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu(1) lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch(2), thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi có nước về, rót vào bồn, rồi đóng cửa cởi hết quần áo của thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, hẳn sẽ sống lại.

(1) Mão: sáng sớm; Ngọ: đúng trưa; Dậu: chập tối.

(2) Thơ của Đỗ Phủ (712-770), nhà thơ vĩ đại đời Đường.


Thở thoi thóp được mấy ngày, cô gái lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ trở về, chàng vội vã làm theo lời dặn. Ngâm nước khoảng một giờ thì nàng lại dần dần tỉnh lại.
Từ đó, nàng thường có ý muốn trở lại miền Nam. Sau khi ông mất, chàng chiều ý vợ, dời nhà xuống sống ở đất Sở.

Nguyễn Huệ Chi dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 23 Aug 2022

Gái Thần (Thần nữ)


Thư sinh họ Mễ, người đất Mân(1) người kể chuyện này quên mất tên tuổi, quận ấp. Tình cờ lên quận, uống rượu say, đi giữa phố xá, nghe bên trong một tòa nhà lớn có tiếng sáo, tiếng trống như sấm. Hỏi những người ở gần đấy thì nói nhà ấy mở tiệc khao thọ. Thế mà ngoài cửa trong sân cũng vắng vẻ lắm. Lắng nghe, thì thấy tiếng sênh, tiếng hát vang lừng. Đang say, chàng lấy làm thích, cũng không hỏi là nhà ai, liền ra ngay đầu phố mua đổ mừng rồi đưa thiếp “vãn sinh”(2) vào. Có người thấy chàng mũ áo quê kệch, liền hỏi:

(1) Tức tỉnh Phúc Kiến.

(2) Vãn sinh: người sinh sau, ít tuổi, lời xưng khiêm tốn.


- Anh với ông cụ này họ hàng thế nào?
Đáp rằng:
- Không có gì đâu!
Người ấy nói:
- Nhà này đến ngụ cư ở đây, không rõ quan tước gì, nhưng rất kiêu kì. Đã không thân thuộc thì vào làm gì?
Chàng nghe mà hối, nhưng thiếp đã đưa vào rồi. Chẳng mấy chốc, hai chàng trẻ tuổi ra đón khách, áo quần choáng mắt, dáng điệu phong nhã, vái chàng mời vào. Thấy một ông già ngồi ngoảnh mặt hướng Nam; phía Đông phía Tây bày đầy mâm cỗ; khách sáu bảy người, hình như đều là người sang cả. Thấy chàng đến, đứng cả lên làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy. Chàng đứng lâu, đợi ông cụ rước mời, mà cụ vẫn không rời khỏi chiếu. Hai chàng trẻ tuổi đỡ lời, nói:
- Phụ thân chúng tôi già yếu, đứng dậy vái rất khó, anh em tôi xin thay mặt tạ ơn bậc cao hiền hạ cố đến chơi.
Chàng khiêm tốn đáp tạ lại. Liền sai đặt thêm một cỗ ở phía trên, liền chỗ ông cụ. Một lát, nữ nhạc đạo ở dưới. Đằng sau phòng tiệc, có bày chiếc bình phong bằng lưu ly, để che cho người trong nhà. Trống, sáo nổi lên rầm rĩ, khách trong tiệc không thể chuyện trò nữa. Tiệc sắp tàn, hai chàng trẻ tuổi đứng dậy, mỗi người rót một cốc to mời khách, cốc đựng được chừng ba đấu. Chàng có ý ngại nhưng thấy khách nhận nên cũng nhận. Chốc lát, trông bốn bên, chủ khách đều uống cạn cả. Chàng bất đắc dĩ cũng phải cố uống hết. Chàng trẻ tuổi lại rót nữa, chàng thấy mệt quá, đứng lên mà cáo lui. Chàng trẻ tuổi cố nắm vạt áo giữ lại. Chàng say quá, ngã xuống đất, chỉ biết có người lấy nước lạnh rưới vào mặt; bàng hoàng tỉnh lại, dậy nhìn thì khách khứa đã đi hết, duy chỉ có một chàng trẻ tuổi xốc cánh tay đưa ra. Liền chào mà về. Sau đó chàng lại qua cổng, thấy đã dời đi chỗ khác.
Ở quận về, tình cờ đi qua chợ, một người từ trong quán bước ra, mời chàng vào uống rượu. Nhìn thì không quen, nhưng cũng cứ theo mà vào. Thấy trên tiệc đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì ra họ Chư, làm nghề mài gương(1) trong chợ. Hỏi:

(1) Người xưa dùng đồng làm gương soi, hay bị mờ nên có người chuyên mài cho sáng.

- Sao biết đến nhau?
Đáp:
- Người khao thọ hôm trước, ông có biết là ai không?
Chàng đáp:
- Không biết.
Chư nói:
- Tôi ra vào nhà ấy nhiều lắm, ông cụ họ Phó, nhưng không rõ quê quán và quan tước ra sao. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, tôi đang ở dưới thềm nên nhớ được.
Chiều tối, bữa rượu tan. Bão Trang về đêm bị chết ở dọc đường. Người bố của Trang không biết họ Chư, cứ tên chàng mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, cho rằng chàng mưu sát, khép vào tội chết, chàng bị cùm xích đủ mọi đường. Vì chưa bắt được Chư, chưa có đủ chứng cứ nên việc kiện còn treo đấy. Hơn một năm sau, quan trực chỉ(1) đi tuần tra các nơi, xét biết chàng bị oan, mới tha cho ra. Trong nhà, ruộng nương, của cải đã mất hết, mà mũ áo đã bị lột, nhưng cũng mong có thể lấy lại được, nên lại xách khăn gói lên quận. Trời đã xế chiều, chân đi đã mỏi, liền ngồi nghỉ ở ven đường. Từ xa thấy một chiếc xe nhỏ đi lại, hai cô gái áo xanh đi kèm hai bên. Đã qua chỗ chàng rồi, bỗng bảo dừng xe lại. Không biết trong xe nói gì. Một lát thấy một nàng áo xanh đến hỏi chàng:

(1) Một chức quan thời phong kiến, làm việc kiểm tra các địa phương.

- Có phải chàng họ Mễ không?
Chàng giật mình đứng dậy nói phải.
Hỏi:
- Sao nghèo túng đến thế?
Chàng kể duyên do. Lại hỏi:
- Định đi đâu bây giờ?
Chàng lại nói cho biết. Nàng áo xanh bỏ đi, ghé vào trong xe nói chuyện; một lát lại trở lại, mời chàng đến trước xe. Trong xe có một bàn tay thon thon thò ra vén màn, liếc trông thì ra một giai nhân đẹp tuyệt trần. Nói với chàng rằng:
- Chàng không may mắc phải cái vạ gió, nghe thấy mà buồn quá. Ngày nay, dinh quan đốc học chẳng phải là nơi kẻ hai bàn tay trắng có thể ra vào được. Giữa đường không biết lấy gì tặng…
Bèn rút một đóa hoa bằng ngọc trai trên mái tóc đưa cho chàng, nói:
- Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy mà dùng.
Chàng chắp tay vái tạ. Định hỏi cửa nhà gia thế thì xe đi rất nhanh, đã cách xa rồi, không biết là ai nữa. Cầm hoa nghĩ ngợi, thấy trên có nạm ngọc trai, biết không phải vật thường, liền trân trọng cất giấu mà đi.
Đến quận, đưa đơn vào, bị trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khổ. Giở hoa ra ngắm, không nỡ bán đi, đành quay về. Về rồi mà không có nhà ở, phải dựa vào anh chị. May được anh là người hiền, trông nom lo liệu cho, nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học.
Năm sau, chàng lên quận thi khoa đồng tử(1) nhầm đường lạc vào trong núi sâu. Gặp tiết thanh minh, người đi chơi rất đông. Mấy người con gái cưỡi ngựa đi tới, trong đó có một cô, chính là người ngồi trong xe năm ngoái. Thấy chàng thì dừng cương lại hỏi đi đâu? Chàng cứ thực nói. Cô gái kinh ngạc hỏi:

(1) Quy chế các đời có khác nhau, nhưng theo cách hiểu ở đây thì là một bậc thi như thi sơ học.

- Khăn áo nho sinh chàng còn chưa lấy lại được ư?
Chàng thẹn(1), rút ở dưới áo đóa hoa ngọc trai ra nói:

(1) Bản gốc là “buồn bã”, ở đây theo một bản khác.

- Không nỡ bỏ vật này nên vẫn là đồng tử vậy.
Cô gái đỏ bừng mặt. Đoạn bảo ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa ung dung mà đi. Giây lâu, một con hầu ruổi ngựa tới, trao cho chàng một cái gói, nói:
- Nương tử bảo, ngày nay cửa quan đốc học chỉ là cái chợ, xin tặng hai trăm đồng bạch kim để làm vốn tiến thủ.
Chàng từ chối, nói:
- Nương tử làm ơn cho tôi đã nhiều! Tự nghĩ thi đỗ cũng không khó, nên món tiền to này cũng không dám nhận. Chỉ xin được nương tử cho biết họ tên, để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái, thế là đủ rồi.
Con hầu không nghe, cứ đặt tiền xuống đất mà đi. Từ đấy chàng chi dùng đầy đủ, nhưng chung quy vẫn không thèm cầu cạnh ai. Sau được đỗ đầu vào trường học của huyện. Liền đưa tiền cho anh trai. Anh khéo kinh doanh, trong ba năm, cơ nghiệp cũ lấy lại được hết. Gặp lúc quan tuần vũ tỉnh Mân là học trò của ông nội chàng, thường giúp đỡ cho rất nhiều, hai anh em trở nên giàu to. Nhưng chàng vốn là người thanh cao, chính trực. Tuy thân thuộc với vị quan lớn, mà vẫn chưa từng đến yết kiến cầu xin gì.
Một hôm có một người khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa đến cổng, cả nhà đều không ai quen. Ra xem thì ra công tử họ Phó. Chàng chắp tay mời vào, cùng nhau hàn huyên. Chàng sai bày rượu thết đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói đến chuyện đi. Rồi khi cơm rượu đã bày, công tử bèn đứng dậy xin nói chuyện riêng. Mời vào nhà trong, liền lạy rạp xuống đất. Chàng kinh ngạc hỏi việc gì, công tử ủ dột, nói:
- Phụ thân mắc vạ lớn, muốn nhờ quan tuần một chút, ngoài anh ra không ai giúp được.
Chàng từ chối, nói:
- Ông ta, tuy là chỗ quen biết lâu đời, nhưng lấy việc riêng cầu cạnh với người, thực từ thuở bình sinh đến nay, tôi chưa hề làm bao giờ.
Công tử nằm phục xuống đất kêu khóc thảm thiết. Chàng nghiêm sắc mặt nói:
- Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ một bữa tiệc mà quen biết nhau, sao lại cố ép người ta làm việc mất danh tiết như vậy?
Công tử hổ thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi.
Hôm sau nữa, đương ngồi một mình, có một nàng áo xanh đi vào. Chàng nhìn thì chính là người đưa tiền tặng mình ở trong núi ngày trước. Chàng giật mình đứng dậy. Người áo xanh nói:
- Chàng quên đóa hoa ngọc trai rồi chăng?
Chàng nói:
- Dạ dạ, không dám quên.
Lại nói:
- Công tử đến đây hôm qua, tức là anh ruột nương tử tôi đấy.
Chàng nghe thấy, mừng thầm, giả cách nói:
- Điều đó khó tin lắm. Nếu được nương tử thân đến đây bảo với một lời, thì dẫu vạc dầu cũng xin nhảy vào; nếu không, không dám vâng lời.
Người áo xanh bước ra nhảy lên ngựa mà đi. Canh khuya, lại trở lại, gõ cửa bước vào nói:
- Nương tử đã đến.
Nói chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Chàng vái chào, nói:
- Tiểu sinh không có nương tử, không lấy đâu có ngày nay. Có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời!
Cô gái nói:
- Kẻ được người ta cầu cạnh thường hay khinh người, kẻ đi cầu cạnh thường phải sợ người. Nửa đêm bôn ba, bình sinh nào đã biết cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn biết nói gì?
Chàng an ủi, nói:
- Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc này, được gặp nhau một lần nữa là khó. Làm cho nương tử đêm hôm phải xông pha sương tuyết, thực đã biết tội.
Liền cầm ống tay áo cô gái len lén xoa. Cô gái giận nói:
- Anh thực là người tệ, không nghĩ đến cái nghĩa ngày trước, lại còn muốn định thừa cơ người ta nguy ngập nữa. Tôi nhầm rồi! Tôi nhầm rồi!
Nói xong vùng vằng mà ra, lên xe toan đi.
Chàng đuổi theo ra tạ lỗi, quỳ xuống chắn đường nàng áo xanh cũng khuyên giải thêm. Cô gái ý đã nguôi nguôi, liền ngồi trong xe nói với chàng:
- Nói thực với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm quan đô lý ty ở Nam Nhạc, ngẫu nhiên thất lễ với địa quan, sẽ đến tai thượng đế; không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không thể gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì kiếm một tờ giấy vàng, vì thiếp mà xin cho một cái dấu.
Nói đoạn, xe chuyển bánh đi.
Chàng trở về, lo nghĩ mãi không thôi. Bèn mượn điều trừ ma, nói với quan tuần vũ. Tuần vũ bảo là việc đồng cốt, mê tín, không cho. Chàng đem nhiều tiền đút cho những người tâm phúc của ông ta, chúng nhận lời nhưng chưa có dịp nào tiện, về đến nhà thì nàng áo xanh ngồi đợi ở cửa, chàng nói thực cho biết bèn im lặng đi ra, hình như có ý oán chàng không hết lòng. Chàng chạy theo tiễn nói:
- Về nói với nương tử, nếu việc không xong, tôi xin liều mạng chết theo.
Quay vào, suốt đêm trằn trọc, không tìm được ra kế gì. May gặp lúc trong dinh có người vợ lẽ yêu của quan muốn mua ngọc trai, chàng liền lấy đóa hoa ngọc trai đem cho. Người vợ lẽ thích lắm, liền ăn cắp dấu đóng vào giấy cho chàng. Mang về đến nhà, nàng áo xanh cũng vừa tới. Chàng cười, nói rằng:
- May không đến nỗi lỗi mệnh. Nhưng cái vật mà mấy năm nay, dù nghèo khổ phải đi ăn xin cũng không nỡ bán, thì ngày nay lại vì chủ nó mà phải bỏ nó rồi!
Liền kể tình đầu, lại nói:
- Vàng vứt đi tôi cũng không tiếc, nhưng nhờ nói với nương tử, đóa hoa ngọc trai thì phải đền mới được.
Qua mấy hôm, Phó công tử đến nhà tạ ơn, biếu một trăm lạng vàng. Chàng sầm nét mặt nói:
- Sở dĩ làm như vậy là vì lệnh muội đã không ngại riêng tây giúp đỡ tôi mà thôi. Nếu không thì dù vạn lạng vàng cũng dễ gì đổi danh tiết tôi được.
Cố ép, thì lời nói, nét mặt chàng càng gay gắt. Công tử thẹn mà đi, nói:
- Việc này chưa xong được.
Ngày hôm sau nữa, nàng áo xanh vâng mệnh cô gái, đem biếu chàng một trăm hạt ngọc trai, nói rằng:
- Thế này đã đủ đền đóa hoa ngọc trai chưa?
Chàng nói:
- Tôi trọng đóa hoa ấy không phải vì quý ngọc trai. Nếu không thì vật báu vạn dật(1) tặng tôi ngày trước, tôi đã đem bán đi làm một anh nhà giàu rồi còn cất giấu nâng niu, cam chịu nghèo khó làm gì nữa? Nương tử người thần, tiểu sinh nào dám mong gì kia khác. Nay đã đền ơn sâu được một chút, chết cũng không oán hận.

(1) Dật: đơn vị đo lường, bằng 20 lạng.

Nàng áo xanh để ngọc trai lên án, chàng liền vái rồi trả lại.
Qua mấy hôm nữa, công tử lại đến, chàng sai bày tiệc rượu. Công tử cũng bảo kẻ theo hầu xuống bếp nấu nướng. Hai người đối nhau uống rượu thả sức, vui như một nhà. Gặp khi có người khách biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, bèn nói với chàng:
- Anh là người chính trực thanh cao, tôi và em trai tôi đều mê muội không biết sớm, thực đáng xấu hổ với kẻ quần thoa nhiều lắm. Phụ thân tôi cảm đức lớn, không lấy gì báo đền được, muốn cho em gái tôi kết duyên với anh, chỉ sợ anh hiềm nỗi u minh khác nẻo vậy.
Chàng mừng mừng sợ sợ, không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt mà về, nói rằng:
- Đêm mai, mồng 9 tháng Bảy, lúc trăng vừa lên(2),

(2) Nguyên văn: “tân nguyệt câu thìn”, nhiều nhà chú giải chưa hiểu rõ. Chúng tôi dịch thoát.

Thiên Tôn(1) có con gái gả xuống trần, đấy là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa (2).

(1) Thiên Tôn: tên sao, tức là sao Chức Nữ

(2) Nguyên văn: “thanh lư” là phòng trang trí màu xanh để cô dâu ở. Chúng ta không có từ tương đương, nên chúng tôi dịch thoát.


Đêm sau, quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường. Sau ba ngày, cô gái đối với anh chị dâu, cho đến kẻ hầu người hạ, đều có quà tặng. Lại rất nết na, thờ chị dâu như mẹ chồng. Mấy năm không đẻ, khuyên chàng lấy vợ lẽ, chàng không nghe. Vừa khi người anh đi buôn ở Giang Hoài về, mua cho chàng một người thiếp trẻ tuổi. Thiếp họ Cố, tên là Bác Sĩ, dáng người cũng thanh nhã. Vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên mái tóc có cài đóa hoa ngọc trai giống hệt như vật cũ năm trước, rút xuống xem quả đúng. Thấy lạ liền hỏi. Đáp rằng:
- Trước đây người thiếp yêu của quan tuần vũ chết, thị tỳ của bà ta ăn trộm bán ở chợ. Cha thiếp thấy rẻ, mua về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ có một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau, cha thiếp mất, cửa nhà sa sút, thiếp phải sống gửi ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai, nhiều lần muốn đem bán. Thiếp nhảy xuống giếng toan tự tử, vì thế đến nay vẫn còn.
Vợ chồng cùng nói:
- Vật mười năm, lại về chủ cũ, chẳng phải là số ư?
Cô gái bèn rút ra một đóa hoa ngọc trai khác nói:
- Vật này đã lâu không có đôi rồi!
Nhân tặng cả cho người thiếp và tự tay cài lên mái tóc cho. Người thiếp lui xuống, hỏi gia thế cô gái rất kỹ, người nhà đều không dám nói. Nàng nói vụng với chàng rằng:
- Thiếp trông nương nữ không phải là người trần, ở khoảng mắt và lông mày có thần khí. Hôm qua, lúc cài hoa, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ bên trong da thịt toát ra, không phải như người thường chỉ hơn nhau ở chỗ trắng đen mà thôi!
Chàng cười. Nàng lại nói:
- Xin chàng đừng nói gì, để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì, cứ ở chỗ vắng người đốt hương cầu khấn là nương tử khắc biết.
Cô gái vốn có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ vẫn thích mà chưa dám nói, ngay lúc ấy bèn vào buồng thắp hương cầu khấn.
Cô gái dậy sớm, bỗng mở hòm lấy đôi tất, sai con hầu đem cho Bác Sĩ. Chàng thấy thế bật cười. Cô gái hỏi cớ sao, mới nói thật. Cô gái nói:
- Con bé ấy tinh ranh thật!
Nhân thấy Bác Sĩ thông minh, càng yêu thương. Mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ mờ sáng tất tắm gội để lên hầu. Về sau Bác Sĩ đẻ một lần hai con trai, hai người chia nhau nuôi.
Chàng đã tám mươi tuổi, mà diện mạo cô gái vẫn như người chưa lấy chồng. Chàng mắc bệnh, cô gái thuê thợ đóng cỗ quan tài rộng, to gấp đôi cỗ thường. Chàng mất, cô không khóc. Các con vừa đi ra chỗ khác, thì cô đã tự chui vào áo quan mà chết rồi. Vì vậy cùng chôn chung. Đến nay vẫn truyền tụng là “ngôi mộ quan tài to”.

Đỗ Ngọc Toại dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 23 Aug 2022

Thôi Mãnh


Thôi Mãnh, tên tự là Vật Mãnh, con nhà thế gia ở Kiến Xương(1). Tính cương nghị. Thuở nhỏ đi học, bọn trẻ hơi có gì xúc phạm đến thì lập tức vung tay đánh liền. Thầy học nhiều lần răn đe nhưng vẫn không chừa. Tên và tự(2) đều do thầy đặt cho. Đến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ cao cường tuyệt luân. Lại có thể chống sào nhảy lên nóc nhà. Rất thích giúp người khác rửa sạch nỗi bất bình. Vì vậy, người làng đều cảm phục. Trong nhà ngoài cửa thường đứng đầy những người đến bẩm bạch, tố cáo. Thôi ưa chế ngự kẻ mạnh, nâng đỡ người yếu, không sợ oán thù. Ai ho he dám chống lại thì gạch, đá, gậy gộc choảng luôn, kỳ cho đến tay chân thân thế phải tàn tật. Mỗi lần thịnh nộ bốc lên, không ai còn dám khuyên can. Duy chàng thờ mẹ rất có hiếu, hễ mẹ đến là hết giận ngay. Mẹ trách quở đến điều. Thôi dạ dạ vâng lời, nhưng ra khỏi cửa lại quên mất.

(1) Có nhiều nơi mang tên Kiến Xương, nhưng có lẽ ở đây là một phủ thuộc tỉnh Giang Tây, vì trong truyện có nói đến tên Nam Xương cũng là một huyện cùng tỉnh.

(2) Vật mãnh là chó dữ.


Liền bên nhà, có một người đàn bà rất ác, ngày ngày ngược đãi mẹ chồng. Mẹ chồng đói lả gần chết, con trai lén cho ăn, chị ta biết được, thét mắng trăm điều, vang động khắp bốn bên hàng xóm. Thôi giận lắm, vượt tường sang xẻo luôn tai, mũi, môi, lưỡi. Mụ chết ngay. Mẹ hay tin kinh hoàng, gọi anh hàng xóm qua, hết lòng xót thương an ủi, gả cho anh ta một con hầu trẻ, việc mới yên. Mẹ phẫn chí khóc lóc không chịu ăn. Thôi sợ, quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa rằng đã biết hối. Mẹ cứ khóc, không thèm nhìn. Vợ Thôi họ Chu, cùng quỳ xuống với chồng; mẹ bèn cầm gậy đánh con, rồi lại lấy kim thích vào cánh tay, thành hình chữ thập, dùng son bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều xin chịu hết, mẹ mới ăn trở lại.
Bà mẹ thích đãi cơm các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ dùng bữa no nê. Xảy có một đạo sĩ đang ở trước cửa thì Thôi đi qua. Đạo sĩ nhìn Thôi mà nói:
- Tôi xem lang quân có nhiều khí “hung hoạnh”, sợ khó giữ được cho tròn tuổi thọ. Nhà tích thiện đáng ra không có người như vậy.
Thôi vừa mới nhận lời răn của mẹ, nay nghe được điều đó thì tỏ ý cung kính mà nói:
- Chính tôi cũng tự biết như thế, nhưng hễ thấy bất bình, thì khó mà kìm mình được. Gắng hết sức sửa đổi, hoặc giả có tránh được không?
Đạo sĩ cười đáp:
- Hẵng đừng hỏi tránh được hay không tránh được, mà trước xin tự hỏi có thể sửa đổi hay không sửa đổi được. Chỉ nên tự mình ức chế thật riết; nếu muôn phần được một thì tôi sẽ mách anh một phép giải tử.
Bình sinh Thôi không tin bùa phép, nên chỉ cười mà không nói gì. Đạo sĩ nói tiếp:
- Tôi vẫn biết lang quân không tin, nhưng lời tôi nói chả phải như lời bọn đồng cốt. Cứ làm được cũng đã là thịnh đức, dầu không công hiệu cũng chẳng hại gì.
Thôi xin được nghe lời dạy bảo. Đạo sĩ bèn nói:
- Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cửa kia, anh nên kết giao thật hậu tình với hắn; sau này có phạm tội chết, thì người ấy có thể cứu sống anh được.
Nói rồi gọi Thôi ra chỉ cho biết người đó. Thì ra đó là thằng bé con nhà họ Triệu, tên là Tăng Kha. Triệu là người đất Nam Xương, gặp năm đói kém phải đến ngụ cư ở Kiến Xương. Từ đấy Thôi bèn cùng Triệu giao kết thân tình, mời dọn sang ở nhà mình, cung cấp cho rất hậu. Tăng Kha tuổi mới mười hai, lên nhà lạy mẹ, nhận nhau làm anh em. Năm sau, đến vụ canh tác mùa xuân, Triệu đem gia quyến đi, từ đó không có tin tức gì.
Bà cụ họ Thôi, từ khi người đàn bà hàng xóm chết, răn con càng cẩn mật; có người nào đến kêu nài, cầu cứu gì, bà đều xua gạt đi. Một hôm, cậu ruột Thôi mất, chàng theo mẹ sang viếng, giữa đường gặp mấy người đang trói giải một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa thúc đi cho nhanh, lại còn đánh đập. Người xem nghẽn cả đường, xe không tiến lên được! Thôi hỏi duyên do, thì những người biết Thôi đều xúm đến mách bảo. Nguyên trước đây con trai một vị chức sắc lớn, tên là Mỗ Giáp, ngang ngược nhất làng, dòm thấy vợ chàng Lý Thân có nhan sắc, muốn chiếm đoạt nhưng không có cớ gì, bèn bảo người nhà dụ anh ta đánh bạc, đưa tiền cho vay, lấy lãi rất nặng, bắt đem cả người vợ ghi vào khế văn, thua hết lại cho vay, một đêm nợ đến vài nghìn. Được nửa năm thì nợ mẹ đẻ nợ con đã hơn ba mươi nghìn. Thân không sao trả được; cậy thế đông người chúng đến cướp lấy người vợ. Thân đến cửa khóc lóc. Giáp giận, bắt trói, treo lên cây, đánh bằng roi, cứa bằng dao, và bức phải làm tờ “giấy tự nguyện”. Thôi nghe nói, nội khí bốc lên ngùn ngụt, gia roi cho ngựa tiến lên, ý muốn dụng võ. Mẹ vén rèm xe, gọi lại bảo:
- Chà, lại thế đấy!
Thôi đành phải nhịn.
Viếng tang xong trở về, không nói cũng không ăn, chỉ ngồi sững, mắt nhìn thẳng, như đang giận dữ người nào. Vợ căn dặn cũng không buồn đáp. Đến đêm, mặc cả áo ngoài, nằm trên giường, trằn trọc mãi đến sáng. Đêm sau cũng vậy, chợt mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ như thế đến ba bốn lần. Vợ không dám hỏi, chỉ lo lắng nín im để xem sao. Thế rồi lại ra đi, rất lâu mới trở về, khép cửa lên giường ngủ say. Cũng đêm ấy, có người đã giết Mỗ Giáp trên giường nằm, phanh bụng rút ruột ra ngoài; thây của vợ Thân cũng lõa lồ nằm ở dưới giường. Quan nghi cho Thân, bắt về tra xét, cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân nhưng vẫn không cung xưng; hơn một năm, không chịu nổi cực hình, phải nhận liều(1), bị ghép vào tử hình.

1) Nguyên văn: “vu phục”, nghĩa là không phạm tội mà bị tra tấn đến không chịu nổi, phải tự vu cho mình, nhận có phạm tội.

Vừa gặp lúc mẹ Thôi mất. Chôn cất xong, chàng bảo vợ rằng:
- Kẻ giết tên Giáp, chính là ta. Chỉ vì còn mẹ già không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, cớ sao một người làm tội lại để kẻ khác vạ vậy? Ta sắp ra nhận tội trước nhà chức trách.
Vợ kinh hãi, túm áo kéo lại, chàng dứt chéo áo mà đi, tự ra thú nhận ở pháp đình. Quan ngạc nhiên, cùm lại, tống vào ngục, mà tha cho Thân. Thân không chịu, cứ một mực nhận tội. Quan không thể quyết, giam cả hai. Họ hàng thân thuộc chê trách Thân, Thân nói:
- Cái việc mà công tử làm, là việc mà ta muốn làm mà không làm được. Công tử đã làm thay cho ta, mà ta lại nỡ lòng ngồi nhìn công tử chết hay sao? Nay ta cứ coi như công tử chưa ra đầu thú là được rồi.
Rồi cứ giữ nguyên, không đổi lời khai, lại cố tranh tội với Thôi. Lâu về sau nha môn cũng biết duyên cớ, bắt Thân phải ra khỏi ngục, để Thôi chịu tội. Ngày xử quyết đã gần đến, xảy có quan tuất hình(1) Triệu bộ lang tới duyệt các án tù. Đọc đến tên Thôi Mãnh, ông gạt hết mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào, ngẩng nhìn lên công đường, thì là Tăng Kha. Vừa buồn vừa mừng, nói hết tình thực. Triệu bồi hồi một lúc lâu, rồi vẫn truyền tống giam, dặn lính ngục phải đối đãi tử tế. Dần dần lấy cớ đã biết tự thú nên được giảm án, sung làm lính thú Vân Nam. Thân cũng đi theo để phục dịch. Chưa đầy một năm, được viện lệ ân xá mà về, đều là nhờ sức của Triệu cả.

(1)Tuất hình: thận trọng đối với hình phạt, không để oan uổng một tội phạm nào. Ở đây là viên quan giữ chức trách đi phúc tra lại các án tù.

Sau khi đã về, Thân vẫn theo không rời, nhận làm quản gia cho chàng; nhưng trả tiền không lấy, chỉ những thuật leo trèo đánh đá là chú tâm tập luyện. Thôi đãi ngộ rất hậu, cưới vợ cho và cấp cho ruộng đất. Riêng Thôi, từ đó cố gắng sửa đổi nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay, thì ràn rụa nước mắt. Trong làng xóm có xảy ra việc gì, thì Thân tự thác mệnh Thôi lò liệu dàn xếp mà không bẩm cho Thôi hay. Có viên giám sinh họ Vương, là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân bốn phương thường hay thậm thụt ra vào cửa hắn. Những nhà khá giả trong ấp phần lớn đều bị chúng cướp bóc; nếu có ai dám trái ý, hắn sai bọn cướp giết ngay ngoài đường. Con hắn cũng dâm bạo. Vương có một bà thím góa chồng; cả hai cha con cùng gian dâm với bà. Vợ là Cừu thị mấy lần can ngăn Vương, Vương liền thắt cổ nàng cho chết. Anh em họ Cừu kiện lên quan thì Vương đút lót để người cáo giác mình phải mang tội vu khống. Hai anh em chịu oan uất không cách nào phân giải được, bèn tìm đến Thôi để kêu cầu, tố cáo. Song bị Thân cự tuyệt, đuổi đi. Vài ngày sau có khách đến, gặp lúc không có người hầu ở nhà, Thôi bảo Thân pha trà. Thân làm thinh đi ra nói với người khách rằng:
- Tôi với Thôi Mãnh chẳng qua cũng là bạn bè thôi. Theo nhau đi đày ở ngoài muôn dặm, không thể nói là không tận tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào lại còn sai khiến như đầy tớ, thì chịu sao cho nổi.
Nói xong hằm hằm sắc mặt bỏ đi. Có người nói lại với Thôi. Thôi lấy làm lạ sao Thân đổi tính thay nết như vậy, nhưng cũng chưa coi là kỳ cho lắm. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công cho mình. Thôi kinh dị quá, phải Thân đứng ra đối chất, Thân phẫn uất tranh cãi. Quan cho là lý không ngay thẳng, trách mắng, đuổi đi.
Lại mấy ngày sau, bỗng đang đêm Thân vào nhà họ Vương bắt cả hai cha con, người thím, người dâu giết tất, rồi dán giấy vào vách, tự viết tên họ mình. Khi cho truy bắt thì đã đào vong mất tích. Nhà họ Vương nghi cho Thôi Mãnh là chủ mưu. Quan không tin. Thôi mới hiểu, câu chuyện kiện tụng Thân bày ra trước đây là vì sợ việc giết người sẽ liên lụy đến mình. Các địa đầu châu ấp phụ cận truy nã rất gắt. Vừa lúc giặc Sấm(1) nổi loạn, việc ấy mới xếp lại.

(1) Minh sử: Lý Tự Thành khởi nghĩa tự xưng là Sấm Vương.

Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi, Thân đem gia quyến về, lại nối lại tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Đắc Nhân, tập hợp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc, kéo đi đốt cướp xóm làng. Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó, Thôi vừa ra khỏi nhà. Khi giặc đã phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối. Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi. Thân trở vào, chỉ có một người đày tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại. Người đầy tớ vâng lời ra đi. Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng thẻ đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước ngụy trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ ngoài cửa. Thân buộc ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn. Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vờ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương. Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Đông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa. Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Đông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra. Thân thừa dịp lẩn vào phía tay phải rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói:
- Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây!
Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một đứa ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn. Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn:
- Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi. Ngựa nhớ con bon bon chạy, Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về.
Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn thương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn mưu tính kế. Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài ba lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy, lại trói được hai tên gian tế trong một nhà bà con của Đắc Nhân. Thôi muốn giết ngay Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng:
- Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì dù có đóng cổng làng cũng không sao giữ được!
Thân đáp:
- Chính tôi muốn cho nó xuống!
Bèn cho bắt những kẻ giấu giặc trong nhà đem giết hết. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn. Trời vừa tối chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc là phát hỏa ngay. Lại đi đến phía Đông cửa hang, chặt cây đặt trên dốc núi. Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người, chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt. Chờ chúng đã vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về. Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Đông, không thoát ra được, cũng không có khe đất trống nào để tụ tập. Hai bên bờ, tên đạn giáp công khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mươi đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại mà đem về. Thừa thắng tiến thẳng đến sào huyệt giặc. Bọn giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu xe lương thảo, trang phục đều tìm tòi kỳ hết đem về.
Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói:
- Đốt lửa ở phía Đông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Đó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi.
Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước.
Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người. Bọn cường đạo ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó được yên.

Cao Xuân Huy dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Cô Tiêm (A Tiêm)


Hề Sơn, người miền Cao Mật(1), làm nghề chạy hàng xách, thường qua lại làm khách ở vùng Mông, Nghi. Một hôm, giữa đường gặp mưa, vội tới nhà trọ quen, nhưng đêm đã khuya, gõ cửa mãi mà chẳng ai lên tiếng. Đang quẩn quanh dưới mái hiên, bỗng hai cánh cửa mở hé, một cụ già bước ra mời khách vào. Sơn mừng vào theo, tấp tểnh bước lên nhà trên. Trong nhà không có giường ghế gì cả. Ông già nói:

(1) Một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.


- Tôi thương ông khách không biết về đâu, mới cho tạm trú, chứ tôi thực không phải người bán cơm, buôn rượu. Trong nhà không ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già cùng đứa con gái yếu đuối, đều đã ngủ kỹ. Thức ăn thì có đấy, nhưng khổ nỗi là không còn nóng mấy nữa. Xin chớ hiềm ăn nguội nhé!
Nói rồi, vào nhà trong. Một lát, khiêng ra một chiếc giường chân thấp, đặt xuống đất, giục khách ngồi. Lại vào, mang ra một cái bàn chân thấp. Hết ra lại vào, trông dáng tất tả cực nhọc. Sơn đứng lén ngồi xuống không yên, níu lại xin cụ hãy tạm nghỉ. Chốc sau, một cô gái bưng rượu ra. Ông già nói:
- Con A Tiêm nhà tôi đã dậy đấy!
Nhìn xem, tuổi chừng mười sáu mười bảy, yểu điệu thanh tú, tươi tắn đoan trang. Sơn có người em trai chưa vợ, bụng thầm muốn xe vào, nhân hỏi thăm cửa nhà gia thế ông cụ. Đáp rằng:
- Già này tên Sĩ Hư, họ Cổ, con cháu đều chết yểu, còn lại mỗi mụn con gái này, nên không nỡ phá giấc ngủ đang say của nó. Chắc bà lão nhà tôi gọi nó dậy đấy.
Hỏi:
- Chồng cô em là con nhà ai?
Đáp rằng:
- Còn chưa hứa gả.
Sơn thầm mừng. Thế rồi thức ăn bày ra lắm món, chẳng khác gì ở cửa hàng. Ăn xong, cung kính thưa rằng:
- Con người bèo nước, đội ơn cụ có lòng đoái thương, đến chết cũng chẳng dám quên. Nhân thấy cụ thịnh đức, nên xin mạo muội bày tỏ tấm lòng chất phác quê mùa; tôi có đứa em nhỏ, đứng thứ ba, nay đã mười bảy tuổi, đang theo đuổi nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu đần. Muốn cầu chỉ thắm xe duyên, chẳng hay cụ có chê là nghèo hèn chăng?
Ông già mừng mà rằng:
- Già ở đây cũng là dân ngụ cư; nếu em nó tìm được chỗ gửi thân, nhân tiện mượn được một túp lều, thì dời cả nhà mà đi, cũng chẳng có gì luyến tiếc.
Sơn luôn miệng xin vâng, bèn đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi mới đi vào. Gà vừa gáy, ông đã ra, gọi khách rửa mặt. Gói buộc xong hành lý, chàng lấy tiền trả tiền cơm, cụ cố từ chối, nói rằng:
- Khách ở lại dùng bữa cơm, muôn vàn chẳng có lý gì lại nhận tiền. Hay là định đưa tiền dẫn cưới đây?
Bèn từ biệt. Hơn một tháng sau, khách trở lại. Cách thôn chừng ngoài một dặm, gặp một bà lão dắt một cô gái, khăn áo đều trắng. Đến gần, ngờ ngợ như A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần ngó lại, rồi nắm áo bà cụ, nói thầm câu gì không rõ. Bà cụ liền dừng bước, quay lại hỏi Sơn:
- Ông có phải họ Hề không?
Sơn dạ dạ. Bà cụ buồn bã nói:
- Ông lão nhà tôi chẳng may bị tường đổ, đè chết rồi. Hôm nay, chúng tôi đi thăm mộ đây. Nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát, chúng tôi đi rồi trở lại ngay.
Nói rồi đi về phía khu rừng. Hồi lâu trở lại, trên đường trời đã tối, bèn dẫn chàng cùng về. Nói đến cảnh mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc. Sơn cũng bùi ngùi. Bà cụ bảo:
- Dân tình ở đây thật không yên ổn, lương thiện chút nào. Con côi mẹ góa khó mà sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà anh, từ bấy đến nay sợ ngày tháng cũng trễ rồi, chi bằng sớm mai cùng đưa nhau về.
Sơn chấp thuận. Khi tới nhà, bà cụ khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, bảo Sơn rằng:
- Nghĩ là anh cũng sắp đến, nên thóc lúa cất trữ cũng đã bán gần hết, chỉ còn chừng hơn hai mươi thạch, vì xa nên chưa có ai đến lấy. Cách đây chừng bốn năm dặm về phía Bắc, có ngôi nhà lớn nhất xóm là nhà ông Đàm Nhị Tuyển, chủ mua thóc của tôi xưa nay. Phiền anh chịu khó, trước hãy mang giúp một túi đi, đến gõ cửa bảo họ rằng bà lão họ Cổ ở xóm Nam có ít thạch thóc, định bán lấy tiền tiêu dùng dọc đường, phiền họ cho lừa ngựa tới chở đi.
Nói rồi bèn đưa túi gạo cho Sơn. Sơn tất tả đi ngay. Gõ cửa, một người đàn ông bụng phệ bước ra. Chàng nói rõ duyên có, trút thóc cho anh ta rồi về trước. Một lát, có hai người làm công, dắt năm con lừa đến. Bà cụ dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống, cầm hộc xúc lên. Mẹ con bà cụ chuyển cho nhau, chốc lát đã đầy tải, trao cho họ chở đi. Đi lại đến bốn lượt, thóc mới cạn. Họ lấy tiền đưa cho bà cụ. Bà cụ giữ một người và hai con lừa lại, chở giúp đồ đạc đi về miền Đông.
Đi được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ. Đến một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm mới quay về. Về đến nhà, Sơn thưa chuyện lại với cha mẹ. Hai bên gặp gỡ rất vui mừng, bèn dọn một căn phòng riêng cho bà cụ ở, và chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho chàng Ba. Bà cụ sắm sửa tư trang cho con thật tươm tất.
A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện với mình, chỉ mỉm cười. Ngày đêm dệt cửi đưa thoi, không bỏ phí một tấc bóng. Vì thế, người trên kẻ dưới ai cũng thương yêu. Nàng thường bảo chàng Ba rằng:
- Nhớ dặn anh cả có trở lại miền Tây, đừng nói gì về mẹ con thiếp nhé.
Ở được ba, bốn năm, nhà họ Hề ngày càng giàu có; chàng Ba được vào học nhà Phán.
Một hôm, Sơn ghé trọ nhà hàng xóm của họ Cổ ngày xưa, ngẫu nhiên nhắc đến chuyện hồi trước không kiếm ra nhà, phải ngủ nhờ nhà ông bà cụ. Chủ nhân bảo:
- Ông lầm rồi. Sát nách phía Đông là căn nhà riêng của ông bác tôi. Từ trước ba năm rồi kia, những người ở đó thường thường thấy quái dị, nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà cụ nào mà lưu ông lại?
Sơn rất lấy làm ngờ, nhưng cũng chưa tin hẳn. Chủ nhân lại nói:
- Khu nhà ấy gần như bỏ không đã mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị đổ, ông bác tôi đến xem thì thấy đã đè lên một con chuột lớn như con mèo, khúc đuôi thò ra ngoài còn quẫy. Vội quay về gọi người đến thì đã không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi chính vật đó là yêu quái. Hơn mười ngày sau trở lại, vào xem thử, thì yên tĩnh không còn tăm hơi gì. Lại hơn một năm sau mới có người tới ở.
Sơn càng lấy làm kỳ quái. Trở về nhà, chàng nói riêng với người khác, trộm ngờ em dâu không phải là người, và thầm lo cho chàng Ba. Nhưng chàng Ba vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu dần, người nhà thì thào bàn tán, cô gái cũng phong thanh biết được. Nửa đêm, nói với chàng Ba rằng:
- Thiếp theo chàng từ mấy năm nay, đạo làm vợ chưa để xảy ra một lỗi nhỏ. Nay bày đặt ra chuyện để mọi người khinh rẻ thiếp. Xin chàng làm ơn viết cho thiếp tờ giấy ly hôn, để chàng chọn người xứng đáng hơn.
Nói rồi sụt sịt khóc. Chàng Ba bảo:
- Tấc lòng gắn bó thế nào, hẳn nàng đã biết rõ. Từ ngày nàng về nhà này, nhà ngày một no đủ, lúc nào cũng nghĩ nhờ phúc trạch của nàng mới được thế, có đâu lại còn điều này tiếng khác?
Nàng nói:
- Chàng một lòng một dạ, thiếp há không biết sao? Nhưng chỉ vì nhiều người nói ra nói vào, sợ rồi lại không khỏi như cây quạt mùa thu bị bỏ xó.
Chàng Ba khuyên giải ba bốn lượt mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, hàng ngày tìm mấy con mèo giỏi bắt chuột để dò ý tứ. Nàng chẳng sợ gì, nhưng rầu rầu không vui. Một đêm, bảo rằng mẹ không khỏe, xin phép chàng Ba về chăm nom săn sóc. Trời sáng, chàng Ba sang tìm, thì trong phòng đã trống không. Hốt hoảng, cho người đổ đi khắp bốn ngả, vẫn không tìm ra dấu vết. Trong lòng ấm ức, bỏ cả ăn cả ngủ. Nhưng cha và anh thì lại lấy làm may, cùng nhau vỗ về an ủi, toan kiếm vợ khác cho chàng. Nhưng chàng Ba nhất định không bằng lòng.
Đợi hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh thường chế giễu, trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi.
Lại vài năm nữa, nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng cảm nhớ A Tiêm. Có người em nhà chú tên là Lam nhân có việc đến đất Giao, đường xa ngủ lại ở nhà người bà con bên ngoại là chàng họ Lục, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất thê thảm, cũng chưa tiện hỏi thăm. Đến lúc quay về, lại nghe thấy, bèn hỏi chủ nhà. Đáp rằng:
- Mấy năm trước đây có người đàn bà góa và cô gái mồ côi, thuê nhà ở đây. Tháng trước, bà lão mất, cô gái ở một mình, không có ai thân thích, vì thế mà khóc.
Hỏi:
- Cô ấy họ gì?
Đáp:
- Họ Cổ. Thường đóng cửa, không giao thiệp với làng xóm, nên cũng không rõ gia thế ra sao.
Lam kinh ngạc nói:
- Thế thì là chị dâu tôi rồi.
Bèn ra gõ cửa. Có người lau nước mắt bước ra, đứng bên trong cửa, lên tiếng:
- Quý khách là ai? Nhà tôi không có đàn ông.
Lam nhòm qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ, quả là chị dâu. Bèn nói:
- Chị hãy mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây.
Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi, khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói:
- Anh Ba nhớ chị đến khổ. Vợ chồng có điều gì ngang trái mà chị phải lánh xa đến tận đây?
Ngỏ ý muốn thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu mà rằng:
- Tôi vì bị người khinh rẻ, mới đem mẹ đi trốn, nay lại trở về nhờ vả người thì ai chẳng khinh như mẻ? Như muốn tôi trở về thì phải cùng anh cả chia bếp, nếu không, tôi chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi.
Lam về, kể lại cho chàng Ba. Chàng Ba vội lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau, ai nấy đều rơi lệ. Hôm sau, nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là giám sinh họ Tạ, thấy nàng đẹp, ngầm mưu tính cưới nàng làm thiếp, nên mấy năm không lấy tiền nhà; đã nhiều lần đánh tiếng cho bà cụ, bị bà cụ cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong, thì chàng Ba bất chợt tìm đến. Bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó dễ. Nhà chàng Ba vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Nàng bảo không sợ, rồi dẫn Ba vào xem vựa thóc, ước chừng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Chàng Ba mừng, nói với họ Tạ. Tạ không nhận thóc, nhất định đòi tiền. Cô gái than rằng:
- Trăm sự cũng tại nghiệp chướng thân này mà ra cả.
Rồi kể tình thực cho chàng Ba hay. Chàng Ba giận, định kiện lên ấp. Họ Lục bèn vào đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng, lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.
Chàng Ba thưa thực cùng cha mẹ, xin cùng anh chia nhà để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc, mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lạ. Hơn năm xem lại, thì kho đã đầy. Không đầy vài năm, nhà đã giàu lớn, còn Sơn thì vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nhà nuôi dưỡng và đem tiền, gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Chàng Ba mừng nói:
- Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán.
Cô gái đáp:
- Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?
Về sau, cũng không có chuyện gì quái lạ.

Nguyễn Đức Lân - Nguyễn Huệ Chi dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Cô gái họ Mai (Mai nữ)


Phong Vân Đình, người Thái Hàng(1) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ ở nhà trọ. Hồi ấy tuổi đang trẻ đã góa vợ, những lúc quạnh vắng thường hay tơ tưởng. Giữa lúc mắt đang đắm vào đâu đấy, bỗng thấy trên giường có bóng một cô gái, thấp thoáng như vẽ, tự nghĩ hẳn vì lòng mơ tưởng nên mới sinh ra. Mãi lâu không thấy động, cũng không tan đi, mới lấy làm lạ. Nhổm dậy nhìn đã hóa ra người thật; lại gần thêm, thì rõ ràng là một thiếu nữ, mặt cau lưỡi thè, một sợi dây vòng quanh cái cổ thanh tú. Chàng sợ hãi nhìn không thôi, thấy rục rịch muốn bước xuống. Biết là ma thắt cổ, nhưng vì đang giữa ban ngày, tính cũng bạo, nên không sợ lắm.

(1) Có núi Thái Hàng, và cửa ải Thái Hàng, một trong tám cửa ải lớn của núi này, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

Hỏi rằng:
- Nương tử như có điều gì oan khuất, tiểu sinh xin hết sức giúp.
Bóng ma thong thả bước xuống, nói:
- Con người bèo nước, đâu dám vội vàng đem việc hệ trọng làm phiền quân tử, nhưng nắm xương khô ở dưới suối vàng, lưỡi không rụt vào được, dây không cắt bỏ được; xin chàng chặt cây xà ngang đem đốt đi, thì ơn ấy thật sáng tày non.
Chàng nhận lời. Bóng liền biến mất. Bèn gọi chủ nhân đến, hỏi về những điều mình vừa thấy. Chủ nhân đáp:
- Nhà này mười năm trước là ngôi nhà cũ của họ Mai, đang đêm có một tên trộm nhép lẻn vào nhà, bị Mai bắt được, giải lên quan điển sử(1). Điển sử nhận ba trăm bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với tên này, toan bắt nàng lên tra khám. Cô gái nghe tin thắt cổ chết, về sau, vợ chồng họ Mai lần lượt mất cả, ngôi nhà mới về tay tôi. Khách trọ vẫn thường nhìn thấy quái dị, nhưng không có phép gì yểm cho yên cả.

(1) Chức quan ngang huyện úy. chuyên coi việc trộm cắp.

Phong đem lời ma nói kể lại với chủ nhân. Chủ nhân tính phải dỡ nhà, thay thanh dầm khác, phí tổn không ít, nên ngần ngại. Phong bèn góp tiền trợ lực thêm. Chữa xong lại dọn về đấy ở.
Đến đêm, cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt đầy vẻ vui mừng, phong thái thật tươi đẹp. Phong yêu thích lắm, muốn cùng nàng giao hoan. Nàng đưa mắt nhìn xuống, thẹn thùng nói:
- Khí âm héo hắt, không phải chỉ bất lợi cho chàng thôi đâu; nếu làm việc đó thì cái tiếng nhơ nhuốc của thiếp lúc còn sống, dẫu nước sông Tây Giang cũng không thể rửa sạch. Đôi ta rồi sẽ có ngày sum họp, bây giờ thì chưa.
Hỏi đến bao giờ, chỉ cười mà không nói. Phong lại hỏi có biết uống rượu không, đáp rằng không uống được. Phong nói:
- Trước người đẹp mà cứ đưa mắt ảo não nhìn nhau thì còn gì là thú vị?
Nàng đáp:
- Bình sinh thiếp chỉ biết mỗi trò chơi đánh cờ ngựa; nay hai người ngồi cô quạnh, đêm đã khuya lại khổ nỗi không tìm đâu ra bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hay là hãy cùng nhau chơi trò giao tuyến(1) vậy!

1) Dùng hai sợi dây mắc vào ngón tay để chơi. Ở vùng Giang, Tả thường gọi là “cải cổ” (thay đổi bắp chân). Chưa rõ cách chơi.

Phong nhận lời. Cùng ngồi bó gối, đưa đẩy mấy ngón tay, trao qua chuyền lại rất lâu, đến lúc Phong loạn cả mắt, không còn biết đâu mà lần. Cô gái miệng vừa nhắc vừa hất cằm chỉ trỏ, càng đánh càng biến ảo, kỹ xảo tinh điệu vô cùng. Phong cười bảo:
- Đây là ngón nhà nghề nơi khuê phòng đây!
Nàng đáp:
- Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được. Người khác không chịu để ý đấy thôi.
Canh về khuya, có phần mệt mỏi, liền ép nàng đi ngủ, nàng đáp:
- Người cõi âm chúng em không biết ngủ, chàng cứ ngủ đi. Thiếp có biết qua thuật xoa bóp, xin trổ hết tài nghệ để giúp chàng ngon giấc.
Phong theo lời. Nàng chụm hai tay lại, rồi xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân; tay đưa tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế đấy, lại nắm tay lại đấm sẽ, giống như cầm nắm bông thúc nhẹ, khắp mình thư thái không thể nói hết. Đấm đến lưng thì mắt đã ríu lại, đến đùi thì chìm luôn vào giấc ngủ. Tỉnh dậy, trời đã gần trưa, cảm thấy các đốt xương đều nhẹ nhàng khoan khoái, khác hẳn mọi ngày. Lòng càng thêm ái mộ, bèn đi vòng quanh nhà cất tiếng gọi, tịnh không một lời đáp lại.
Chiều tối, cô gái mới đến. Phong hỏi:
- Nàng ở đâu để tôi gọi khắp nơi không thấy?
Đáp:
- Ma thì chẳng có chỗ nào nhất định, chỉ ở dưới đất thôi. Hỏi:
- Dưới đất có chỗ trống, có thể ở được sao?
Đáp:
- Ma không thấy đất, cũng như cá không thấy nước vậy.
Phong nắm lấy cổ tay nàng nói:
- Nếu nàng sống lại thì xin dốc hết cơ nghiệp để cưới nàng.
Cô gái cười đáp:
- Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp mới được!
Chơi đến nửa đêm, Phong cố sức nài ép. Cô gái bảo:
- Chàng đừng ép buộc thiếp; có cô ca kỹ ở đất Triết tên là Ái Khanh vừa mới đến trọ ở nhà láng giềng phía Bắc, vẻ người cực kỳ phong nhã; để tối mai thiếp sẽ rủ nàng cùng đến, tạm thay cho thiếp, có được không?
Phong bằng lòng. Tối hôm sau, quả nhiên nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi chừng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ lẳng lơ ngầm. Ba người ngồi sát vào nhau, chơi trò đánh cờ ngựa. Xong cuộc cờ, cô gái đứng lên nói:
- Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây.
Phong toan giữ lại, nàng đã phấp phới biến mất. Hai người bèn lên giường, vẫy vùng thỏa thích. Hỏi về gia thế thì cứ lấp lửng không chịu nói rõ. Chỉ bảo:
- Nếu chàng có yêu thiếp, thì chỉ cần gõ tay lên vách tường phía Bắc, khẽ gọi: “Hồ lô tử”, là thiếp đến ngay.
Gọi ba lần không thưa, ấy là thiếp không rỗi, đừng gọi tiếp nữa.
Trời sáng, chui vào khe tường phía Bắc mà đi.
Hôm sau, cô gái đến. Phong hỏi Ái Khanh đâu, nàng liền đáp:
- Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu rồi, vì thế mới không đến đây được.
Nhân đốt đèn cùng trò chuyện. Cô gái có điều gì muốn nói, mấy lần đã mở miệng lại thôi. Cố gặng hỏi, rốt cuộc vẫn không chịu trả lời, chỉ thở dài. Phong ép nàng bày trò cùng chơi, đến hết canh tư mới ra đi.
Từ đấy hai nàng đến luôn. Tiếng cười thường rộn rã thâu đêm. Vì thế hàng phố đều biết hết. Có viên điển sử nọ, cũng là con nhà thế tộc ở đất Triết, vợ cả gian dâm với đầy tớ, bị truất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, yêu thương nhau nồng nàn, nhưng mới đầy tháng đã chết yểu. Đau điếng trong lòng, nghe Phong có ma thiêng, muốn nhờ hỏi về người vợ của mình ở dưới Âm ty, bèn cưỡi ngựa đến tìm Phong. Mới đầu, Phong không chịu tiếp, chàng nọ ra sức cầu khẩn không thôi. Phong bèn bày tiệc rượu, mời ngồi, và nhận lời gọi nàng kỹ nữ ma đến. Trời bắt đầu tối, chàng gõ lên vách mà gọi. Chưa dứt ba tiếng, Ái Khanh đã bước vào. Vừa ngẩng đầu nhìn thấy ông khách, mặt nàng biến sắc, định chạy. Phong lấy mình chắn lối, ngăn lại. Chàng nọ nhìn kỹ, bỗng giận sôi lên, ném luôn cái bát lớn vào nàng. Thoắt cái nàng biến mất. Phong hoảng hốt, không biết duyên cớ ra sao, đang định hỏi, thì bỗng nhiên từ trong ngôi nhà tối, một bà lão bước ra, mắng rằng:
- Thằng giặc tham lam bỉ ổi kia! Làm hỏng mất cả một “cây tiền” của nhà bà rồi đấy! Đền ngay ba chục quan tiền đây!
Nói rồi cầm gậy đánh chàng nọ, trúng vào đầu. Chàng ta ôm đầu kêu lên rằng:
- Nó là Cố thị, vợ tôi, chết non. Đang đau đớn xót xa vì nó, có ngờ đâu nó lại là con ma bất trinh. Có can dự gì đến bà nào?
Bà lão giận mắng rằng:
- Mày vốn là tên tặc tử vô lại ở Triết Giang, mới mua được một giải thắt lưng nạm miếng sừng đen(1) mà mũi đã hếch ngược lên. Mày làm quan mà có kể gì đen trắng? Đứa nào trong tay áo có ba trăm quan thì mày thưa bẩm bằng ông! Thần căm người oán, giờ tận số đã đến sau lưng. Cha mẹ mày phải kêu xin cho mày ở dưới âm ty, tình nguyện cho con dâu quý vào lầu xanh, để trả món nợ tham nhũng của mày, thế mà còn chưa biết sao?

(1) Theo quan chế ngày xưa, chức điển sử được dùng giải thắt lưng nạm miếng sừng đen. Ở đây muốn nói tên vô lại này bỏ tiền ra mua chức điển sử.

Mắng xong lại đánh. Chàng nọ lạy lục kêu xin. Phong đang kinh ngạc, chưa biết làm cách nào cứu gỡ cho y, chợt thấy cô gái họ Mai từ trong phòng bước ra, trợn mắt lè lưỡi, khuôn mặt thay đổi kỳ dị, lại gần rút cây trâm dài đâm vào tai hắn. Phong hết sức kinh hoảng, lấy mình che cho ông khách. Cơn thịnh nộ của cô gái vẫn không nguôi. Phong lựa lời khuyên can:
- Ông này tuy có tội, nhưng nếu chết ở nhà trọ, thì tội rơi vào tiểu sinh. Xin hãy nhớ lời răn ném chuột đừng để vỡ lọ quý.
Cô gái bèn kéo tay bà lão mà nói:
- Bà hãy nể mặt tôi mà nghĩ đến chàng Phong, tạm tha cái mạng sống thừa cho nó.
Chàng nọ bàng hoàng lủi nhanh như chuột, về dinh, lo sợ, phát bệnh buốt óc, nửa đêm thì chết. Đêm hôm sau, cô gái hiện ra, cười nói:
- Khoái cực! Thế là mọi uất ức đã trút sạch rồi!
Hỏi:
- Thù oán thế nào?
Nàng đáp:
- Hồi trước thiếp đã từng nói: ăn của đút rồi vu cho người ta thông gian, mối hờn ngậm đã từ lâu. Nhiều lần định kể với chàng, mong mượn tay chàng vì ai rửa hờn, nhưng thẹn mình chưa có chút ơn đức gì, nên toan nói lại thôi. Đêm qua nghe thấy tiếng huyên náo, lén đến rình xem, ngờ đâu lại gặp chính kẻ thù.
Phong ngạc nhiên hỏi:
- Đấy chính là kẻ vu cáo cho nàng đấy ư?
Đáp:
- Hắn làm điển sử ở đây đã được mười tám năm, mà thiếp chết oan cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi.
Hỏi:
- Bà lão là ai?
Đáp:
- Là một kỹ nữ về già.
Lại hỏi đến Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Nhân tươi cười bảo chàng:
- Trước thiếp từng nói đôi ta thế nào cũng có ngày sum họp, nay quả thật không xa nữa. Chàng vẫn thường muốn dốc hết gia sản để chuộc thiếp, còn nhớ không?
Phong đáp:
- Bây giờ tôi vẫn có bụng ấy.
Nàng bảo:
- Nói thực với chàng, ngày thiếp chết đã đầu thai vào nhà ông hiếu liêm họ Triển ở Diên An. Chỉ vì oan lớn chưa giải, nên còn dùng dằng ở đây. Xin hãy lấy lụa mới khâu thành cái túi quý, để thiếp được theo chàng cùng đi, rồi đến nhà họ Triển cầu hôn thì chắc thế nào cũng xong.
Phong lo gia thế hai bên quá cách biệt, sợ họ không bằng lòng. Cô gái bảo:
- Hãy cứ đi, đừng lo.
Phong nghe theo lời. Cô gái dặn rằng:
- Trên đường nhớ thận trọng, đừng có gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy cái túi ra chụp lên đầu cô dâu, rồi gọi thật gấp rằng: “Đừng quên! Đừng quên!”
Phong vâng lời. Vừa mở túi, cô gái đã nhảy luôn vào. Mang đến Diên An hỏi thăm, quả có nhà ông hiếu liêm họ Triển, sinh được một gái, dung mạo cực kỳ xinh nhã, chỉ phải bệnh ngẩn ngơ, lại thường thè lưỡi ra ngoài môi, như con chó những lúc thở dốc. Tuổi đã mười sáu mà chưa có người làm lễ dạm hỏi, cha mẹ lo buồn thành bệnh.
Phong tìm đến cổng, đưa danh thiếp, tỏ bày dòng dõi, gia thế. Khi trở ra, cậy bà mối tới. Họ Triển mừng rỡ, giữ chàng gửi rể tại nhà mình.
Cô gái quá ngây ngô, không biết làm lễ, phải bảo hai con hầu dìu đỡ vào buồng. Khi đám con hầu đã trở lui, cô gái phanh ngay vạt áo, để hở cả * ra, đứng trước Phong, ngây mặt cười. Phong úp túi lên đầu nàng, rồi gọi. Cô gái sững lại nhìn chăm chú, tựa như có điều gì nghĩ ngợi, Phong cười hỏi:
- Nàng không nhớ tiểu sinh nữa ư?
Rồi giơ cái túi cho xem. Nàng chợt tỉnh ra, vội che vạt áo lại. Mừng rỡ, cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
Sáng ngày, Phong vào thăm bố vợ. Họ Triển an ủi rằng:
- Con bé ngớ ngẩn không biết gì, may được anh để mắt xanh thương đến; nếu anh có lòng, thì trong nhà bọn hầu gái sáng sủa không thiếu gì, ưng ai xin tặng anh không tiếc.
Phong cố sức biện bạch rằng vợ mình không ngớ ngẩn. Triển rất lấy làm ngờ. Lát sau, con gái đến, mọi cử chỉ đều đoan trang, thân thế càng lạ lùng khó hiểu. Cô gái chỉ che miệng tủm tỉm cười. Triển gạn hỏi, nàng ngập ngừng, e thẹn, không nói nên lời. Phong bèn đỡ lời, kể sơ qua ngành ngọn. Triển hết sức mừng rỡ, yêu thương con hơn lúc bình thường. Bèn bảo con trai là Đại Thành cùng chung sách đèn với con rể, cung cấp thật đầy đủ.
Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm ra khinh rẻ Phong. Nhân vì anh rể em vợ không hợp nhau, bọn đầy tớ cũng bới lông tìm vết. Triển ngấm mãi những lời xúi dục của chúng, đối đãi cũng nhạt nhẽo hơn trước. Nàng biết chuyện bảo Phong rằng:
- Nhà bố vợ không thể ở lâu được. Phàm những kẻ ở nhà vợ quá lâu, đều là những kẻ hèn hạ. Nay, chưa đến chỗ căng thẳng, nên về mau.
Phong cho là phải, vào thưa với Triển. Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều giận, không cho xe ngựa đưa về. Nàng tự bỏ tư trang ra mua ngựa mà về.
Về sau, Triển gọi con về thăm nhà, nàng cố từ, không đi. Mãi tới khi Phong thi đậu hiếu liêm, hai nhà mới giao hảo trở lại.

Nguyễn Huệ Chi dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Vợ bé là chồn (Hồ thiếp)


Lai Vu, Lưu Động Cửu, làm quan ở Phân Châu, có bữa ngồi một mình ở trong đình, nghe ngoài sân có tiếng cười nói, trước xa sau gần, rồi vào tới trong nhà thì ra là bốn người con gái. Người lớn nhất, độ bốn mươi tuổi; thứ hai, chừng ba mươi; thứ ba tới hai mươi bốn hai mươi lăm trở lại; cuối cùng là một cô còn để tóc xõa.
Cả bốn cùng đứng trước kỷ, ngó nhau mà cười.
Lưu vốn biết trong đình nhiều chồn, cho nên mặc kệ, không buồn để ý. Giây lát cô bé tóc xõa lấy chiếc khăn đỏ ra ném giỡn trên mặt Lưu, Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn.
Bốn cô cười rồi bỏ đi.
Một hôm người lớn tuổi nhất, đến nói với Lưu:
- Con bé em tôi có nhân duyên với ông, xin ông chớ chê là hèn hạ mà bỏ qua.
Lưu ậm ừ cho qua chuyện, người ấy mới đi. Lát sau, lại cùng một thị nữ dẫn cô bé tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói:
- Thật là tốt đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc ráng ở với Lưu lang, chị về nhé!
Lưu nhìn kỹ, thấy nàng tươi đẹp vô song, bèn cùng chuyện trò thân mật, thăm hỏi gốc tích. Nàng nói:
- Em đây chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người, nguyên em là con gái ông quan trấn nhậm ở đây trước, bị chồn làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ chồn làm phép cho em sống lại, cũng biến hóa như chồn vậy.
Lưu thò tay rờ phía sau. Nàng hiểu ý, cười và nói:
- Ý hẳn chàng bảo chồn có đuôi, phải không?
Rồi chuyển mình nói tiếp:
- Giờ thử rờ lại xem có đuôi không?
Từ đó nàng ở luôn trong đình, khi đứng ngồi đều có con hầu nhỏ bên cạnh. Gia nhân một mực tôn kính là bà nhỏ, * bõ tôi tớ lên chào, được thưởng tặng món này quà kia khá lắm.
Sắp đến ngày mừng sinh nhật của Lưu, Lưu sợ quan khách đông đảo, tính tới ba chục mâm cỗ, vậy cần phải nhiều đầu bếp làm cỗ mới đủ. Trước đó, Lưu đã ra sức đòi ở các nơi, nhưng chỉ có một hai người tới, thành ra đâm lo. Nàng biết, bảo Lưu:
- Không can chi mà lo. Số đầu bếp đã không đủ dùng, chi bằng đuổi mấy đứa kia về. Tôi tuy tài kém nhưng làm ba chục mâm cỗ, cũng chẳng khó gì.
Lưu mừng rỡ, sai mang các món rượu thịt, tỏi gừng vào trong tư thất để nàng nấu cỗ. Người nhà chỉ nghe tiếng dao thớt kêu lách cách không dứt. Bên trong cửa đặt một chiếc bàn, những người túc trực bưng cỗ cứ để mâm trên đó, ngoảnh đi ngoảnh lại các món ăn đã dọn đầy mâm, họ chỉ có việc bưng đi. Hơn mười người đi lại liên tiếp, mà món ăn lấy hoài, lấy mãi chẳng hết.
Sau chót, một người bưng mâm vào gọi lấy bánh chay. Bên trong trả lời:
- Quan ngài có bảo trước đâu, bây giờ gấp rút quá làm sao có được?
Rồi nói tiếp:
- Thôi thì đành phải mượn đỡ của người ta vậy!
Giây lát, người đợi lấy bánh, đã thấy trên bàn hơn ba chục bát còn nóng hổi, khói lên nghi ngút.
Khi các quan khách ăn xong ra về cả rồi, nàng nói với Lưu:
- Mình đưa tiền trả tiền bánh cho nhà kia đi.
Lưu sai người đem tiền đến nhà ấy, quả thật họ mất trộm mấy chục bát bánh vừa nấu xong, đang lấy làm kinh ngạc, thì có người đến trả tiền, bấy giờ mới hết nghi hoặc.
Một bữa, ngồi uống rượu buổi tối, Lưu chợt nhớ rượu Sơn Đông mà thèm, nàng nói:
- Để tôi đi kiếm cho.
Nói đoạn bước ra cửa đi liền. Giây lát trở về chạy vào bảo Lưu:
- Tôi lấy về một hũ ngoài cửa kia, đủ cho mình nhắm mấy ngày.
Lưu ra xem, quả thật rượu Sơn Đông, y như thể rượu thường cất ở nhà mình mọi lần.
Phu nhân (vợ lớn của Lưu) lúc này ở quê quán sai hai người gia tộc đến Phân Châu. Giữa đường một người nói:
- Nghe đồn “bà thứ chồn” vẫn khao thưởng rộng rãi cho con hầu người ở. Chuyến này được tiền thưởng ta để mua một chiếc áo lông chiên mặc chơi.
Nàng ngồi ở đình đã nghe biết cả rồi, nói với Lưu:
- Gia nhân ở nhà quê sắp đến. Đáng ghét một thằng nói giọng xấc xược, phải trị mới được.
Sáng hôm sau, tên gia bộc vừa mới vào trong nhà đã thấy đầu đau nhức, khi đến đình thì ôm đầu mà kêu cha kêu mẹ, ai nấy bèn đi rước thầy bốc thuốc cho y, Lưu cười:
- Bệnh này không cần phải chữa, hễ ngày giờ đến thì tự nó hết.
Mọi người hơi ngờ y phạm tội gì với bà bé chăng, nhưng y tự nghĩ mình mới tới đây, chân ướt chân ráo đã làm gì nên tội. Đến khi đầu nhức nhối quá, y không còn biết kêu van vào đâu, đành phải bò đến gần kêu van bà bé.
Tiếng người bên trong màn nói ra:
- Mi gọi bà bé là đủ, sao còn thêm một tiếng nữa là nghĩa gì?
Bấy giờ tên gia bộc mới tỉnh ngộ, kêu van chí chết.
Trong màn lại nói:
- Mi cần có áo lông, sao lại dám vô lễ?
Kế nói tiếp luôn:
- Thôi, mi hết đau rồi!
Tức thời, tên gia bộc thấy bệnh tiêu tan đâu mất, toan lạy tạ đi ra, chợt thấy trong màn quăng ra một bọc và nói:
- Một chiếc áo lông dê non đó, cho mi lấy đi!
Tên gia bộc mở ra xem, thấy bên trong gói năm đồng bạc. Lưu hỏi thăm tin tức ở nhà, tên gia bộc thưa ở nhà đều vô sự, duy có một đêm khi không mất một hũ rượu. Tính ngày giờ chính là đêm bữa Lưu nói thèm rượu Sơn Đông mà bà bé đi lấy về cho.
Và từ đó ai cũng kinh sợ nàng có phép thần thông, bèn gọi là Thánh Tiên.
Lưu vẽ hình nàng để treo. Lúc đó, ông Trương Đạo Nhất làm quan đề đốc sử nghe chuyện lạ lùng, lấy tình đồng hương đến chơi đình Lưu, khẩn cầu được thấy mặt nàng.
Nàng không chịu.
Lưu đưa ra tấm hình cho xem. Trương cố giật lấy đem về nhà, treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn vái cầu đảo:
- Xinh đẹp như cô, muốn gì lại chẳng được? Sao lại gửi mình ở lão già rậm râu. Tôi đây không kém thua Động Cửu, cớ sao không hạ cố tôi một phen?
Giữa khi đó, nàng ngồi ở đình nhà, thình lình bảo Lưu:
- Này, Trương công vô lễ, ta phạt lão đôi chút cho chừa đi!
Quả nhiên, một hôm, Trương đang ngồi cầu chúc lâm râm như mọi khi, thấy như có người cầm thanh bản đánh ngay giữa trán nghe cái bốp, đau điếng vội vàng cuộn hình lại không dám cầu nữa.
Lúc hỏi cớ sao lại thôi, Trương giấu chuyện bị đánh trả lời xuôi xị, Lưu cười và hỏi:
- Trán ngài có đau không?
Trương hết chối cãi, phải kể chuyện thật.
Cách đó ít lâu, con rể Lưu là Nguyên, đến thăm cha vợ, ngỏ ý muốn kính chào bà bé. Nhưng nàng từ chối.
Nguyên năn nỉ mãi, Lưu phải hỏi nàng:
- Rể là con ta, chớ phải người lạ nào mà cự tuyệt nó quá vậy?
Nàng đáp:
- Rể đến ra mắt, tất phải có quà cho nó. Nhưng nó hy vọng lắm cơ. Mà tôi xét hiện tại không làm vừa lòng nó được, cho nên không muốn cho nó giáp mặt là vì lẽ đó.
Sau Nguyên lại ngỏ lời cầu xin lần nữa, nàng ưng chịu hẹn mười ngày sẽ cho ra mắt.
Đến này hẹn, Nguyên vào đứng cách màn, chắp tay vái và kính lời thăm hỏi, nhưng thấy dung nhan một cách phảng phất, chứ không dám nhìn kỹ. Khi đi cách xa mấy bước mới ngoảnh mặt lại ngó đăm đăm, nghe tiếng nàng nói:
- Kìa chú rể day đầu lại!
Nói đoạn cười khanh khách như tiếng quạ kêu, Nguyên nghe mềm rủn cả chân tay, run rẩy như mất hồn phách. Lúc ra bên ngoài, phải ngồi giây lát, mới định thần nói:
- Vừa rồi nghe tiếng cười của bà như tiếng sấm sét, đến nỗi không biết thân mình còn hay mất.
Một lát, con hầu vâng lệnh nàng, mang ra ba mươi lạng tặng Nguyên, Nguyên nhận số tiền, rồi nói với con hầu:
- Thánh Tiên ngày ngày ở với ông nhạc ta, há không rõ tính ta xài lớn, chứ không quen những món tiền nhỏ sao?
Nàng nghe nói, trả lời:
- Ta đã biết trước mà. Hiềm vì trong túi vừa vặn hết tiền, ta đã cùng bạn bè đi Biện Lương để lấy, rủi ro trong thành bị thần Hà Bá chiếm giữ, bao nhiêu kho bạc đều ngập dưới nước. Vì thế ta không lấy được nhiều tiền để nhồi vào túi tham không đáy của y. Nói giả tỉ ta có cho nhiều đi nữa, phước đức của y mỏng manh, cũng không được hưởng cơ mà!
Mọi việc, nàng hay kiên trì, cho nên trong nhà gặp việc chi nguy nan cứ bàn với nàng chẳng việc gì là không xong.
Bữa nọ, vợ chồng cùng ngồi đàm đạo, bỗng nàng ngửa mặt lên trời, tỏ vẻ cả kinh và nói:
- Đại nạn sắp tới, biết làm sao đây?
Lưu hoảng sợ, hỏi vợ coi trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói:
- Tất cả vô sự, trừ ra cậu hai đáng lo. Chốn này, nay mai sẽ thành chiến trường, vậy chàng xin quan trên cho đi công cán nơi xa, mới khỏi tai nạn.
Lưu nghe lời, xin quan trên cho đi áp tải lương thực ở miền Vân Nam, Quý Châu. Đường sá xa xôi hiểm hóc, ai cũng lo ngại cho Lưu, duy có nàng lấy làm vui mừng.
Quả nhiên ít lâu, Khương Khôi dấy binh làm phản, Phân Châu hóa ra hang ổ của giặc, con thứ hai của Lưu, từ Sơn Đông tới thăm cha, vừa gặp loạn nổi, bị giết. Thành bị giặc lấy, quan lại lớn nhỏ đều ngộ hại trừ Lưu đi việc quan xa, thoát nạn.
Chừng yên giặc xong, Lưu trở về. Rồi sau liên can vào vụ án lớn, nghèo túng tới nước thiếu cả bữa ăn. Các nhà cầm quyền lại đòi đút nhiều, Lưu vừa quẫn vừa lo, muốn chết. Nàng bảo:
- Đừng lo. Còn ba nghìn đồng chôn dưới chân giường lấy lên dùng đỡ cũng được.
Lưu mừng, hỏi nàng đánh cắp của ai, nàng nói:
- Trong thiên hạ, thiếu gì của vô chủ can chi phải trộm cướp của ai.
Lưu dùng số tiền ấy lo chạy được thoát về quê quán. Nàng đi theo. Mấy năm sau, tự dưng bỏ đi mất để lại mấy món đồ gói giấy tặng Lưu. Trong đó có cái phướn nhỏ treo nhà đám ma, dài độ hai tấc.
Ai cũng cho là điềm gở. Rồi ít ngày sau, Lưu chết.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Mũi dao Kinh Kha (Điền Thất lang)


Võ Thừa Hưu, người Liêu Dương, thích giao du, phàm bạn chơi đều là hạng người có tiếng. Đêm nằm chiêm bao, thấy một người đến nói rằng:
- Anh kết giao hầu khắp trong nước, nhưng toàn là bạn chơi phiếm. Duy có một người có thể cùng chia hoạn nạn, thì lại không hay.
- Người đó là ai?
- Điền Thất lang chứ ai!
Võ tỉnh giấc, lấy làm lạ, sáng ngày gặp bạn nào quen, cũng hỏi thăm Thất lang là ai. Có người nói cho biết Thất lang là người thợ săn ở Đông thôn. Võ thân hành đến tận nhà, cầm roi ngựa gõ cửa; giây lát, một người ỏ trong bước ra, độ hai mươi tuổi, lưng ong mắt báo, vận áo chẽn quần cụt, nhiều chỗ mạng vá, đứng chắp tay ngang trán, hỏi khách ở đâu tới. Võ tự khai tên họ và mượn cớ đi đường thấy khó chịu, muốn vô nghỉ nhờ cho đỡ mệt, nhân dịp hỏi Thất lang. Người ấy đáp:
- Thất lang là tôi đây.
Đoạn mời khách vào trong nhà. Võ thấy mấy gian nhà nát, chống đỡ bằng cây. Vào một căn nhà nhỏ, trên vách treo đầy những da hổ báo, mà không có giường ghế gì để ngồi. Thất lang trải tấm da cọp dưới đất, cùng Võ ngồi đàm đạo, lời lẽ thật thà. Võ nghe rất ưng bụng, liền đưa ra một món tiền, gọi là giúp chàng làm sinh kế.
Chàng không chịu nhận. Võ nài ép mãi, chàng cầm tiền vào nhà trong nói cho mẹ hay. Lúc trở ra, lại đưa trả, nhất định không lấy. Võ ép đôi ba phen, chợt bà cụ già lọm khọm từ trong nhà bước ra, nghiêm sắc mặt nói:
- Già chỉ vẻn vẹn có thằng con đó, không muốn nó chơi với khách sang.
Võ thẹn ra về, dọc đường suy nghĩ tới lui không hiểu ý bà cụ ra thế nào. Lúc nãy, kẻ tùy tùng có dịp ra sau nhà nghe lỏm được những lời bà cụ nói, giờ kể lại cho Võ hay. Nguyên lúc Thất lang cầm tiền vào thưa mẹ, mẹ nói:
- Mẹ vừa dòm mặt công tử, thấy có nám đen, tất sẽ gặp tai vạ lớn. Mẹ nghe cổ nhân có nói: được người ta biết đến thì chia sẻ điều lo, mang ơn của người ta thì phải gánh đỡ tai nạn. Giàu, báo đáp bằng tiền, nghèo báo đáp bằng nghĩa. Nay vô cớ mà người ta cho được nhiều tiền, ấy là điềm chẳng lành. Mẹ e người ta sẽ đòi con đem cái chết ra báo đền ơn nghĩa đó.
Vì thế, bà cụ khuyên con đừng nhận tiền.
Võ nghe chuyện, khâm phục bà cụ là người giỏi, lại càng dốc lòng hâm mộ Thất lang, qua hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất lang không đến. Võ đến tận nhà đòi uống rượu. Thất lang mua rượu thết đãi với nộm thịt nai, hết sức niềm nở theo lễ.
Cách ngày hôm sau, Võ lại mời tiệc, bấy giờ Thất lang mới đến. Hai người uống rượu, nói chuyện cực vui vẻ. Nhưng đem tiền ra tặng chàng vẫn không chịu lấy. Võ kiếm cớ đặt tiền để mua da cọp, chừng đó chàng mới chịu nhận, rồi từ biệt ra về.
Về nhà, xem lại những tấm da cọp để dành, không đủ gán với số tiền, bèn nghĩ sẽ vào núi săn cọp mới có thể đủ số đem nạp cho Võ.
Vào núi luôn ba ngày không săn được gì. Lại nhằm hồi vợ lâm bệnh, phải ở nhà chăm sóc thuốc men chẳng nghĩ tới việc săn bắn gì được. Ngót tuần vợ lại chết. Thất lang phải lo việc ma chay, số tiền nhận phải đem tiêu xài gần hết. Võ đến nhà điếu tang, lễ phúng rất hậu.
Chôn cất vợ xong xuôi, Thất lang lại mang nỏ đeo gươm lần mò vào núi, trong trí thiết tha về việc trả món nợ cho Võ. Nhưng rốt cuộc vẫn không săn được con cọp nào.
Võ dò biết ý tứ, khuyên bảo đừng gấp, chỉ mong mời Thất lang đến chơi là vui, song Thất lang băn khoăn về món nợ còn thiếu chưa trả được, nên nhất định không đến.
Muốn buộc chàng phải đến. Võ đòi giao trước những tấm da để dành ở nhà cũng được. Thất lang kiểm điểm da cũ, thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, trong lòng càng buồn.
Võ biết thế, vội vàng đến nhà, ân cần an ủi, rồi vào xem những tấm da cũ và nói:
- Da này cũng được, bản ý tôi không cần đủ cả lông mà.
Nói đoạn, gỡ những tấm da xuống đem về, mời Thất lang cùng đi chơi một thể. Chàng không chịu đi. Võ đành về một mình.
Luôn suy nghĩ về sự chưa trả đủ số da cân với số tiền, lấy thế làm tấm tức, chàng lại gói lương khô, mang khí giới vào tận núi sâu. Rình mò mấy ngày đêm, hạ sát được một con cọp, để nguyên lông da, đưa nộp cho Võ.
Võ mừng, bày tiệc khoản đãi, nài Thất lang ở lại chơi luôn ba bữa với mình. Chàng khăng khăng từ chối. Võ sai gia nhân khóa chặt cửa ngõ để cầm chân chàng ở lại cho kỳ được.
Khách khứa bạn bè trông thấy Thất lang thô kệch, thầm chê Võ công tử chọn bạn sai lầm, nhưng Võ săn sóc chiêu đãi Thất lang hơn cả mọi người. Lại mang y phục mới nguyên cho chàng thay đổi, chàng không chịu. Võ thừa lúc chàng ngủ đem áo mới để bên, mà lấy áo cũ giấu đi. Cực chẳng đã chàng phải dùng mặc áo mới. Sau khi về nhà, vâng lời mẹ dạy, sai người đem áo mới trả lại và đòi áo cũ của mình về, Võ cười và nói với người thừa sai:
- Chú về thưa giùm với cụ rằng áo cũ đã lỡ cắt ra may lót giày rồi!
Từ đó, thường ngày Thất lang sai mang thịt thỏ, hoặc thịt nai biếu Võ, duy có mời đến chơi thì không đến nữa.
Một hôm Võ đến nhà Thất lang, nhằm lúc chàng đi săn vắng, bà mẹ ra đứng tựa cửa nói:
- Từ nay xin ông chớ rủ rê con tôi nữa! Có ác ý gì đó vậy?
Võ rất kính lễ bà cụ, tự thẹn ra về.
Cách chừng nửa năm, gia nhân báo tin, Thất lang vì tranh giành con heo săn được, mà đánh chết người ta, hiện đã bị bắt giải lên quan rồi.
Võ nghe báo cả kinh, tức tốc đến quận nghe ngóng, khi chàng đã bị giam vào ngục rồi. Chàng thấy mặt Võ, không nói gì nhiều, chỉ dặn dò chăm nom giúp đỡ mẹ mình, về nhà, Võ liền lấy ra nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm bạc nhét cho bên trên, cầu xin bãi nại. Hơn tháng, xử vô tội, thả Thất lang ra về. Bà cụ khảng khái bảo con:
- Da thịt tính mạng của con nhờ có Võ công tử mà còn, mẹ không có quyền thương tiếc chi nữa. Mẹ chỉ trông mong công tử suốt đời yên ổn, không vướng phải tai họa chi, tức là cái phước cho con đó.
Thất lang muốn đến tạ ơn Võ, bà mẹ lại nói:
- Con đến thì đến, chớ có tạ ơn làm chi. Cái ơn nhỏ còn tạ được, chứ ơn to thì không tạ được đâu!
Thất lang đến nhà Võ, Võ tiếp rước niềm nở, Thất lang chỉ dạ vâng lơ là, không đả động chi tới chuyện vừa qua. Người nhà Võ đều lấy làm lạ, cho là chàng sơ tình. Trái lại, Võ mừng tình ý thành đạt, càng đối đãi tử tế hơn.
Sau đó, thường cách vài ba ngày, chàng lại ở chơi nhà công tử, hễ tặng món chi cũng nhận liền, không chối từ mà cũng không nói sự báo đáp.
Gặp ngày mừng sinh nhật của Võ, khách khứa và bọn phục dịch tùy tùng đông quá, căn nhà chứa khách ngủ đêm đầy ứ. Võ cùng Thất lang nằm trong căn nhà nhỏ. Ba người gia bộc lót rơm nằm ngay dưới chân giường. Qua canh hai, chúng đều ngủ kỹ, còn hai người vẫn nói chuyện chưa thôi.
Con dao của Thất lang treo trên vách bỗng dưng thò đầu ra ngoài vỏ đến mấy tấc, nghe tiếng khua loảng xoảng, mà lưỡi dao lóe sáng chớp như điện. Võ thất kinh, Thất lang cũng chồm dậy hỏi ai nằm dưới giường.
Võ trả lời chúng nó đều là tôi tớ trong nhà. Thất lang nói:
- Nội bọn nhà này tất có đứa hung ác.
- Tại sao anh biết?
- Con dao này của tôi mua ở ngoại quốc. Nó giết người chưa từng thấm máu, họ nhà tôi đeo nó đã ba đời rồi, tính lại chặt đầu có tới số ngàn, mà vẫn bén tốt như mới rèn. Hễ có kẻ ác thì nó reo và nhảy lên chắc chắn phải giết người đến nơi. Xin công tử nên thân người quân tử, xa kẻ tiểu nhân, họa chăng tránh khỏi tai vạ đến mình.
Võ gật đầu, Thất lang vẫn ngậm ngùi chẳng vui, cả đêm trằn trọc không ngủ, Võ nói:
- Chuyện lành chuyện dữ đều do số cả, việc gì phải lo quá thế?
- Bất cứ chuyện nguy hiểm tới đâu tôi cũng chẳng sợ, chỉ băn khoăn còn có bà mẹ già thôi.
- Có lý đâu tai vạ đến ngay mà lo?
- Tôi trông đừng đến, càng may.
Ba đứa gia tộc ngủ dưới giường là: Lâm nhi ở trong nhà đã lâu, Võ rất vừa ý; một thằng nhỏ để sai vặt mới mười hai mười ba tuổi; một đứa nữa là Lý Ưng, tính rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ cãi cọ với công tử luôn, khiến công tử phát giận vì nó.
Đêm ấy công tử nghĩ thầm có lẽ ác nhân là nó, cho nên tảng sáng gọi đến nói khéo vỗ về rồi đuổi nó đi.
Người con trưởng của công tử tên là Thân, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm nhi ở coi nhà học giữa mùa cúc đang trổ hoa rực rỡ. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi khỏi nhà học tất vắng vẻ không ai, liền đến hái bông cúc. Lâm nhi chạy ra chòng ghẹo, nàng toan kêu lên, thì nó ôm đại vào trong nhà toan cưỡng hiếp. Nàng kêu khóc chống cự, đến nỗi xám mặt khản tiếng, Thân nghe chạy vào, Lâm nhi mới chịu buông nàng, rồi trốn đi mất.
Võ về nhà hay chuyện, nổi giận tìm Lâm nhi, nhưng không biết nó đi đằng nào. Qua hai ba bữa mới biết nó đã tới làm bộ hạ trong nhà ông Ngự sử nó. Ông ta làm quan ở kinh đô, việc nhà giao phó cho người em, Võ lấy tính thanh khí nói với nhau, viết thư đòi trả Lâm nhi. Người em ông Ngự sử không trả, Võ càng tức, làm đơn lên huyện thưa.
Ông huyện có thảo trát đi bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi đến. Bấy giờ công tử cho người đến thăm dò tận nhà Thất lang, thấy cửa đóng then cài, tứ bề vắng ngắt. Xóm giềng cũng đều không rõ tăm hơi của chàng.
Một hôm, người em Ngự sử đang ngồi trong tư thất ông huyện cùng nhau bàn chuyện riêng. Người chức việc đem hương bổng đến nộp. Bỗng dưng một người tiều phu xông tới trước mặt, đặt gánh củi xuống, rút dao nhọn ra chạy tới trước mặt Mỗ (tức là người em ông Ngự sử) mà đâm. Mỗ hoảng sợ, đưa tay ra đỡ dao, dao chặt đứt cánh tay, tiều phu chém thêm nhát nữa, đầu rơi xuống đất.
Ông huyện cả kinh chạy trốn. Tiều phu ngó dáo dác xem ông huyện chạy đường nào. Trong lúc đó bọn lính tráng và bọn chức dịch trong huyện, kịp đóng cửa ngõ, cầm dao vác gậy xúm lại vây bọc. Chú tiều phu tự biết khó thoát thân, liền trở mũi dáo tự đâm vào cổ chết.
Ai nấy xúm quanh nhìn mặt. Có kẻ nhìn biết là Điền Thất lang.
Ông huyện lúc đó mới hoàn hồn hết sợ, trở ra phúc nghiệm, trông thấy Thất lang nằm chết cứng giữa vũng máu lênh láng, tay vẫn nắm chặt dao nhọn.
Đột nhiên tử thi chồm dậy chém bay đầu ông huyện rồi lại ngã xuống.
Lính huyện đến bắt bà mẹ Thất lang, nhưng bà mẹ đã trốn đi từ mấy bữa trước rồi.
Võ nghe Thất lang chết, vội vàng đến nhìn mặt bạn khóc lóc cực thảm. Ai cũng bảo chính Võ chủ ý cho Thất lang làm ra thảm án này. Võ bán hết điền sản để lo chạy các quan, mới được vô sự.
Xác Thất lang khiêng bỏ ngoài đồng, dầu dãi hơn ba chục ngày, các loài chim muông thay nhau canh giữ, Võ xin quan cho đem về, tống táng rất hậu.
Đứa con Thất lang trốn tránh đến Đặng Châu, đổi ra họ Đông, lớn lên đi lính, có nhiều công trận, được thăng dần dà tới chức đồng tri tướng quân. Khi ấy mới trở về Liêu Dương. Võ đã ngoài tám mươi tuổi, trỏ bảo cho biết mồ mả thân phụ.

Đào Trinh Nhất dịch


Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Vợ dữ hơn cọp (Giang Thành)


Cao sinh ở Lâm Giang, tên là Phồn, thông minh, dáng dấp xinh đẹp, mười bốn tuổi đã vào học trường quận, cho nên nhà giàu quanh miền tranh nhau gả con gái cho.
Nhưng chàng kén chọn khó khăn, thường trái ý cha.
Cha là Trọng Hồng, sáu mươi tuổi, chỉ có một cậu con trai nên hết sức chiều chuộng, không muốn làm trái ý con.
Nguyên trước ở thôn Đông có họ Phàn, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thị tứ, đem cả gia quyến lên mướn phố ở gần nhà chàng. Phàn ông có con gái tên Giang Thành, cùng tuổi với chàng, lúc đó cũng cỡ tám chín tuổi; hai trẻ ngây thơ, ngày ngày quấn quýt chơi giỡn với nhau.
Sau Giang Thành theo Phàn ông dời đi xứ khác, trải năm sáu năm, không nghe tin tức.
Một hôm chàng đi trong hẻm, thấy một cô gái tuyệt đẹp, có con nhỏ sáu bảy tuổi theo hầu. Chàng không dám ngó ngay mặt chỉ đưa mắt liếc. Nàng nheo mắt dường như muốn nói, lại thôi. Chàng nhìn kỹ, té ra Giang Thành, chàng vừa sửng sốt, vừa mừng rỡ. Hai người đứng trân trân ngó nhau không ai nói gì. Giây lát ai đi đường nấy mà tình ý xem chừng bịn rịn, không muốn rời nhau.
Chàng cố ý đánh rơi chiếc khăn đỏ rồi đi. Con nhỏ theo hầu nhặt lấy, trao cho nàng. Tức thời nàng móc túi lấy khăn của mình ra, đưa cho con nhỏ và nói:
- Cao tú tài không phải người nào lạ, chớ có lấy đồ vật của cậu ấy đánh rơi, vậy mi đuổi theo và trả khăn cho cậu.
Con nhỏ đuổi theo đưa khăn trả chàng. Chàng vớ được khăn nàng, trong ý rất mừng, về thưa với mẹ, xin cậy mai mối hỏi Giang Thành cho mình. Bà mẹ nói:
- Nhà nó chẳng có đến cái túp lá để che mưa nắng, chỉ nay đây mai đó trôi nổi quanh năm, sao con lại muốn phối ngẫu với nó?
Chàng thưa mẹ rằng tự ý mình muốn vậy, về sau ra sao chịu vậy, cố nhiên không dám ăn năn gì hết.
Trong ý bà mẹ do dự không quyết, bàn tính với cha chàng. Cha chàng nhất định bảo không nên. Chàng nghe chuyện sinh buồn, bỏ cả cơm cháo. Mẹ chàng lo sợ quá, liền nói với cha chàng:
- Họ Phàn tuy nghèo, nhưng cũng là nhà nho, chứ không phải hạng vô loại. Vậy để tôi đến nhà xem mặt đứa con gái, nên dạm thì dạm, bằng không thì thôi có hại gì đâu?
Ông bằng lòng. Bà liền mượn cớ đi trả lễ ở đền Hắc Đế, tiện đường ghé qua nhà Phàn, thấy con gái mặt mày xinh đẹp, lòng rất vui mừng, rồi đem tiền lụa đến tặng và nói thật ý muốn. Phàn ông trước còn khiêm nhường, sau mới nhận lễ nhận lời. Bà về thuật lại, bấy giờ chàng mới tươi cười ăn uống như cũ.
Năm sau, chọn ngày lành tháng tốt, đón Giang Thành về. Hai vợ chồng trìu mến nhau rất vui vẻ. Duy Giang Thành có tính hay giận hờn, hơi một chút là trở mặt, coi chàng y như người lạ. Miệng lưỡi la lối, chàng nghe váng tai nhức óc, nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện gì cũng cố nhịn.
Hai ông bà nghe phong thanh, lấy làm bất mãn, gọi con đến trách mắng. Nàng biết vậy, tức lắm, càng kiếm chuyện gây gổ nhục mạ chồng nhiều hơn nữa. Hễ chồng hơi trả lời nặng nhẹ, nàng giận dữ thêm, vác gậy đánh đuổi ra ngoài phòng, đóng cửa lại.
Tội nghiệp chàng đứng co ro bên ngoài, chứ không dám gõ cửa, đành ngồi xổm ở mái hiên, ôm gối mà ngủ.
Từ đó nàng xem chồng như kẻ thù. Ban đầu còn có thể quỳ gối xin nàng hết giận làm lành, dần dà đến quỳ gối cũng hết hiệu nghiệm, thành ra lang quân khổ càng thêm khổ. Ông bà can thiệp trách nàng qua loa, nàng vung tay khoa chân, bộ điệu hỗn hào không thể tả hết, đến nỗi ông bà phát giận đuổi nàng về nhà cha mẹ.
Phàn ông vừa thẹn vừa sợ, cậy người đến năn nỉ Trọng Hồng cho Giang Thành trở lại, nhưng Trọng Hồng không cho.
Hơn một năm sau, chàng đi đường chạm trán ông nhạc, ông níu áo lôi về nhà ân cần tạ lỗi và bảo con gái ăn mặc đàng hoàng ra chào. Vợ chồng gặp mặt nhau cùng tỏ vẻ đau thương. Phàn ông bèn mua rượu về đãi chàng rể, khuyên mời niềm nở. Một lúc trời tối, ông cố giữ chàng lại ngủ đêm. Giang Thành muốn nằm giường riêng, nhưng ông xếp hai vợ chồng nằm chung.
Sáng ngày, chàng về nhà, không dám nói chuyện thật với cha mẹ, chỉ tìm cách thêu dệt và che đậy cho qua. Từ đó, cách năm ba ngày, chàng lại ngủ đêm tại nhạc gia một lần, mà cha mẹ chàng không biết.
Một bữa Phàn ông tự đến nhà Trọng Hồng xin cho giáp mặt nói chuyện. Trọng Hồng không tiếp, Phàn ông năn nỉ mãi, Trọng Hồng mới ra mặt, Phàn quỳ gối làm lễ tạ tội, Cao ông (tức Trọng Hồng, họ Cao) không nhận, đổ trút cho con, Phàn nói:
- Đêm qua cậu nó ngủ tại nhà tôi, có nghe chối từ cự nự gì đâu?
Cao sửng sốt, hỏi nó ngủ bao giờ. Phàn kể rõ đầu đuôi, Cao thẹn thùng xin lỗi và nói:
- Chuyện đó quả tôi không hay, vợ chồng nó đã thương yêu nhau, tôi há một mình thù hiềm cản trở nhân duyên của con ư?
Phàn về rồi, Cao gọi con ra nhiếc mắng. Chàng chỉ cúi đầu, không nói gì cả. Giữa lúc đó Phàn dẫn con gái đến. Cao nói:
- Tôi không thể nào gánh giùm lỗi lầm cho dâu con, chi bằng ở riêng ra, ai có nhà nấy.
Tức thời cậy Phàn chứng giám hộ cha con mình về cuộc riêng nhà chia bếp. Phàn khuyên lơn mãi, Cao nhất định không nghe, dọn căn nhà riêng cho vợ chồng ở, lại sai một con hầu chuyên việc hầu hạ.
Trong vòng hơn một tháng vợ chồng ăn ở với nhau hơi yên, chẳng nghe điều tiếng gì cả, ông bà đã mừng thầm trong bụng.
Nhưng cách đó không bao lâu, Giang Thành lại dần dà hung dữ, trên mặt chàng thường có dấu vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ là thế nhưng cũng ẩn nhẫn không hỏi đến.
Một hôm chàng bị vợ đánh dữ quá, không thể chịu nổi, phải chạy vụt sang nhà cha mà trốn, run rẩy xanh xám giống như chim sẻ bị cò ó mổ vậy. Hai ông bà đang kinh ngạc, đã thấy nàng xách roi xồng xộc chạy vào đến ngay bên cạnh ông túm lấy chàng, vụt lấy vụt để. Ông bà rầy la rầm rĩ nàng cũng mặc kệ, cứ việc đánh chồng tới mấy chục roi rồi mới hầm hầm bỏ đi.
Cao đuổi con đi và nói:
- Tao muốn tránh sự ồn ào, cho nên mới ở riêng, còn mày lấy thế làm vui thì ở đó mà hưởng, trốn đi đâu làm chi?
Chàng bị cha đuổi, bơ vơ không biết về đâu, Cao ông sợ con buồn bực tự tử, bèn cho căn nhà ở một mình, lại cấp dưỡng cho. Lại gọi Phàn đến, bảo dạy dỗ con gái thế nào, kẻo để lăng loàn quá đỗi. Phàn vào nhà, giảng dụ trăm phương ngàn cách, nàng cũng chẳng thèm nghe, lại còn nói hỗn với cha. Phàn tức mình, phủi áo ra đi, thề dứt tình cha con.
Không bao lâu, Phàn giận con quá, sinh bệnh, cùng bà vợ kế tiếp qua đời. Nàng bực tức, không về điếu tang đưa đám cha mẹ, tối ngày ngồi mắng chửi cách vách, cố ý lớn tiếng cho Cao ông Cao bà nghe. Cao mặc kệ không thèm đếm xỉa tới.
Chàng từ khi được ở riêng một mình thấy dường như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng chỉ khổ vì nỗi quạnh hiu buồn bực. Muốn được khuây khỏa chàng bèn chi tiền mụ Lý, để mụ dẫn gái vào nhà học tiêu khiển, gái thường lui tới ban đêm.
Ít lâu, Giang Thành nghe biết, tới tận nhà học mắng chửi thậm tệ. Chàng hết sức phân trần nỗi oan và trỏ lên mặt trời mà thề nàng mới chịu lui.
Từ đó ngày ngày rình mò cử động chàng. Một hôm mụ Lý từ trong nhà học đi ra, nàng bắt gặp, kêu gọi rùm lên. Mụ Lý xanh xám mặt may, nàng thêm sinh nghi, túm lấy mụ đe dọa:
- Có thế nào cứ việc nói thật, họa may còn tha thứ cho, nếu giấu giếm, tao vặt không còn một sợi lông đó!
Mụ vừa run vừa nói:
- Trong vòng nửa tháng nay duy có Vân nương là gái ở nhà chứa đến đây hai bận mà thôi. Còn vừa rồi công tử lại nói bữa trước đi chơi núi Ngọc Ti dòm thấy cặp chân của người vợ Đào gia xinh đẹp, cho nên muốn cậy tôi làm manh mối, để dụ nó tới đây. Con đó tuy lẳng lơ nhưng nó chưa chắc chịu làm như gái nhà chứa. Công tử đã bảo thì tôi thử dụ nó coi, việc thành hay không thật chưa chắc.
Nàng thấy mụ nói thành thật, cho nên rộng lòng khoan thứ. Mụ sửa soạn đi, nàng cố giữ lại cho đến trời tối, buộc phải làm theo mưu kế của mình:
- Đến ngay nhà học, làm bộ nói nhỏ với công tử bảo tắt đèn đi, cô ả Đào gia tới đó.
Mụ làm y lời. Nàng theo chân bước vô, chàng mừng quá, nắm tay mời ngồi và tỏ lòng khát khao mộng ước. Nàng làm thinh, chàng mò trong bóng tối rờ cẳng nàng và nói:
- Sở nguyện ôm ấp bao lâu, nay mới được toại, lẽ nào không cho thấy mặt?
Nói xong, chàng tự thắp đèn lên soi mặt. Trời ơi! Chính là Giang Thành!
Chàng sợ hãi thất sắc, đánh rớt cây đèn xuống đất run rẩy, quỳ mọp, dường như gươm đao đã kề trên cổ vậy.
Nàng xách tai kéo về buồng mình, lấy kim thật nhọn, đâm vào hai bắp đùi hầu khắp, rồi bắt nằm dưới gậm giường, hễ tỉnh giấc hồi nào thì kể tội và mắng chửi hồi đó. Chàng đã sẵn sợ như hùm beo, cho nên dù khi được nàng nguôi ngoai mơn trớn, cho nằm chung trên giường nhưng trong lúc đầu gối tay ấp, chàng vẫn run sợ hãi hùng, cơ hồ không phải con người nữa. Nàng vả vào mặt và thét đuổi đi, tỏ ý khinh khi và chán ghét, không coi chàng là hạng người nữa. Thành thử, hàng ngày chàng được ở trong khoảng hương xông xạ ủ, mà như ở tù, thấy bóng người canh ngục là chết khiếp.
Giang Thành có hai chị, cùng lấy chồng nho. Người chị lớn hiền lành ít nói, tính tình thường không hợp với nàng. Còn chị thứ hai lấy họ Cát, người giảo quyệt khéo nói: dung mạo tuy kém Giang Thành, nhưng ghen tuông độc ác thì ngang vai sánh gót. Chị em gặp nhau không có việc gì khác hơn là đem những chuyện bắt nạt chồng ra khoe khoang đắc ý với nhau. Vì thế hai người đi lại với nhau rất thân. Chàng đến nhà bà con họ hàng nào, nàng cũng giận dữ trách mắng, duy chỉ đến nhà họ Cát thì nàng không nói gì.
Một hôm chàng đến nhà Cát uống rượu. Lúc say ngà ngà, Cát chế giễu chàng:
- Sao chú sợ vợ quá thế?
Chàng cười đáp:
- Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi, anh ạ! Tôi sợ vợ tôi, là sợ sắc đẹp. Vậy mà có cái đẹp thua xa vợ tôi, người ta cũng sợ ngang như tôi mới là kỳ chứ.
Cát thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì. Con hầu nghe chuyện, tọc mạch với chị hai (tức vợ Cát). Chị hai nổi giận, vác gậy chạy ra, chàng thấy bộ tịch hung dữ, toan bỏ cả giày mà chạy lấy thân. Nhưng gậy đã nện vào lưng, chàng bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, đập cả đầu, máu tuôn như xối. Chừng chị hai đi rồi, chàng mới lom khom cà nhắc về tới nhà.
Nàng trông thấy cả kinh, gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu chàng nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị trận đòn nên không dám nói. Đôi ba phen tra vặn, mới kể rõ đầu đuôi. Nàng lấy lụa rịt bó đầu chàng xong, nổi cơn tam bành:
- Chồng của người ta, ai mượn nó đánh giùm cho ra thân thể này chứ?
Lập tức mặc áo cụt, xắn cao quần, tay cầm chày gỗ, dắt một con hầu đi theo, hầm hầm đến thẳng nhà Cát.
Chị Hai tưởng như mọi bận, tươi cười ra đón. Nàng chẳng nói chẳng rằng, đánh chị túi bụi, ngã gục, rồi xé bươm cả áo xống, lại đánh thêm nữa, chị Hai bị đánh tới bể môi gẫy răng, vãi cả cứt đái, nàng mới chịu bỏ đi.
Nàng đi rồi, chị Hai mới lồm cồm trỗi dậy, vừa thẹn vừa tức sai chồng phải đi mách với Cao ông.
Cát đến cửa, chàng ra đón, kiếm lời êm dịu yên ủi. Cát nói nhỏ bên tai:
- Tôi đến đây vì thế bắt buộc, không đi không xong. Lạ gì con đàn bà ấy hung dữ thuở nay, nhờ tay dì nó trừng phạt cho một bữa là đáng kiếp lắm. Còn tôi với chú thì có hiềm gì với nhau đâu.
Bất đồ Giang Thành nghe lén, tức tốc chạy ra điểm mặt anh rể và mắng như tát nước:
- Thằng đểu giả kia! Vợ bị đòn đau điếng, không nghĩ cách nào rửa hận cho nó, lại còn nói vụng nói lén với người ta thế ư? Cái giống đàn ông thế đó, không đáng đánh cho chết còn để làm gì?
Rồi nàng tru tréo kêu đầy tớ:
- Bay đâu, đem gậy ra đây cho tao mau mau!
Cát sợ hoảng hồn, vội lách ra cửa, co giò chạy mất.
Từ hôm ấy trở đi, chàng sợ chị vợ theo dõi, không dám tới lui nhất định một chỗ nào cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã đến chơi, chàng mời ở lại uống rượu cho vui. Trong khi chén tạc chén thù, đem chuyện khuê phòng ra nói đùa bỡn, có hơi tục tằn. Chẳng dè nàng núp lén nghe rõ đầu đuôi, lén bỏ bã đậu vào cháo bưng ra cho khách ăn. Một chập, Vương thượng thổ hạ tả dữ dội nằm thở như hấp hối sắp chết. Nàng sai con hầu ra hỏi:
- Còn dám nói hỗn nữa thôi?
Bấy giờ Vương mới hiểu rõ vì sao mình lại mửa thốc mửa tháo bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa cháo đậu xanh đã nấu sẵn cho ăn để giải độc. Vương ăn cháo ấy mới hết bệnh. Nhân chuyện này bạn bè mách bảo nhau phải kiềng mặt, về sau không dám đến nhà ăn uống gì nữa.
Vương sinh có quán rượu, trong có nhiều hồng mai đua nở, đặt tiệc mời anh em bạn đến thưởng lãm. Chàng mượn cớ họp văn xã, tâu trình với vợ, xin phép đi dự. Chiều tối đã say, Vương sinh nói:
- Vừa mới có một con đào non ở Nam Xương trôi nổi đến đây, ta nên gọi lại chuốc rượu cho vui nhé?
Mọi người vui vẻ tán thành, duy có chàng đứng dậy xin kiếu ra về. Anh em kéo áo lại và nói:
- Bà sư tử nhà anh có tai mắt dài đến đâu chăng nữa cũng không tài nào nghe thấy được tới chốn này. Anh ở lại cho vui, chúng tôi xin thề sẽ ngậm miệng, không nói lộ ra đâu mà sợ.
Chàng lại ngồi xuống. Giây lát, đào mới tha thướt bước vào, tuổi độ mười tám, mười chín, hỏi tên cô khai họ Tạ, tên là Phương Lan, nói năng cực lanh lợi thanh nhã, khiến cho ai nấy cùng say mê như cuồng. Xem ra cô ta để ý đến chàng hơn cả, thường liếc mắt dòm sang chàng luôn, anh em biết thế liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Cô nắm lấy tay chàng viết trong lòng bàn tay một “ngũ”. Lúc đó chàng thật tiến thoái lưỡng nan, muốn đi thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối rộn không sao nói xiết. Hai người ngồi dựa đầu cạnh nhau, nghiêng tai nói nhỏ, càng say chừng nào càng lả lơi chừng nấy, quên cả sư tử ở nhà.
Một chốc trống canh điểm khuya, khách trong quán rượu dần dà bỏ về gần hết, duy còn một thiếu niên xinh đẹp ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu hạ. Ai nấy khen thầm là người cao nhã. Giây lát, thiếu niên uống xong đứng dậy đi, tiểu đồng ra theo rồi trở lại, nói ngay với chàng:
- Thưa ngài, chủ tôi đợi ngài ngoài kia để nói một câu chuyện.
Không ai hiểu người đó thế nào, duy có chàng mặt mày thất sắc không kịp chào anh em, vội vàng sấp ngửa ra đi, vị thiếu niên ấy chính là Giang Thành, tiểu đồng là con hầu hai thầy trò giả dạng đi rình chàng vậy.
Chàng theo về nhà, chịu nằm mà nhận roi vọt. Từ đó chàng bị cấm cố gắt gao, mọi việc khách điếu cùng tuyệt. Chàng buồn bực lơ là việc học, kỳ hạch năm đó thi rớt, bị giáng làm thường dân và rút mất học bổng.
Một hôm thì thầm với con hầu thế nào chẳng rõ, nàng nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu úp kín đầu con bé mà đánh lấy đánh để. Rồi lại trói chàng với con hầu chung nhau, cầm kéo cắt thịt bụng mỗi người một miếng và đắp thịt của người nọ vào bụng người kia. Đoạn cởi trói ra để tự buộc lấy vết thương. Hơn tháng sau, chỗ vá thịt đó cũng dính liền làm một.
Còn ác độc hơn nữa, nàng thường lấy cẳng chân chà đạp chiếc bánh nhão nhoét, lại ném đất cát bụi bặm rồi thét bảo chàng phải lượm lên mà ăn. Những cử chỉ tàn nhẫn của Giang Thành đối với chồng đại khái như thế, bà mẹ thương con, ngẫu nhiên đến nhà chàng ở, trông thấy con gầy, ốm mà động lòng. Lúc trở về bà nghĩ đau đớn khóc lóc, muốn chết đi cho rảnh, đêm ấy, chiêm bao một cụ già hiện đến nói:
- Bà chớ nên lo phiền. Đó là nhân quả kiếp trước để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa, vô ý đạp chết con chuột ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không lấy sức người xoay đổi gì đặng. Tốt hơn là cứ thành tâm tụng niệm bài chú của Quan Âm (Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng v.v…) mỗi ngày một trăm lần tự nhiên sẽ có hiệu nghiệm.
Sáng hôm sau, bà thuật lại chiêm bao cho Trọng Hồng nghe, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng tuân lời thầy dạy, ngày ngày niệm chú Quan Âm. Hơn hai tháng Giang Thành vẫn ngang ngược như cũ, lại có thêm điên cuồng, hễ nghe ngoài cửa có tiếng kèn trống thanh la, nàng liền xòa tóc chạy ra đứng nhìn dớn dác, cả ngàn người cùng chỉ trỏ chê bai, nàng cũng thây kệ. Ông bà thấy con dâu khật khùng như vậy, rất hổ thẹn nhưng không làm sao ngăn cấm được, lấy làm bực tức.
Chợt thấy một lão tăng đến trước cửa thuyết pháp, người ta đứng xem vòng trong vòng ngoài. Lão tăng thổi vào mặt trống, thành ra tiếng kêu như trâu rống, nàng vội chạy đến, thấy người đứng kín mít không có khe hở mà lách vào lọt, bèn gọi con ở đem ghế ra để nàng đứng lên cao mà xem. Bao nhiêu cặp mắt cùng họp vào mình nàng, nhưng nàng thản nhiên dường như không hay biết gì cả.
Một lát, lão tăng giảng sắp xong gọi lấy một tô nước lạnh cầm đến trước mặt nàng mà tuyên đọc:

Chớ nên hờn!
Chớ nên hờn!
Kiếp trước chẳng phải giả
Kiếp này chẳng phải chân
Ôi!
Con chuột rụt cổ chạy!
Kẻo bị mèo xơi ngon!

Lão tăng đọc xong, ngậm nước phun vào mặt nàng, làm cho son phấn nhễ nhại, trôi xuống áo xiêm. Ai nấy sợ hãi, đoán chắc nàng nổi cơn tam bành đánh bể đầu trọc không chừng. Chẳng dè nàng lặng lẽ chùi mặt mày rồi về, lão tăng cũng bỏ đi chỗ khác.
Về nhà nàng ngồi ngây ngất, như người mất hồn. Trọn ngày không ăn, tự giũ giường chiếu đi nằm.
Bỗng dưng nửa đêm gọi chàng thức dậy. Chàng ngỡ vợ muốn đi tiểu, vội vàng bưng chậu tiểu dâng lên. Nhưng nàng lấy tay đẩy ra, kéo cánh tay chàng lôi vào trong mền nằm chung. Chàng phụng mạng mà chân tay run cầm cập, như ông quan khi tiếp kiến chỉ của vua ban xuống vậy.
Nàng khảng khái nói:
- Trời ơi! Tôi làm cậu ra thân thể này, còn đáng làm người sao đặng?
Rồi hai tay xoa khắp mình mẩy chàng, cứ tới chỗ vết tích, dao bầm roi đánh thì khóc rấm rứt, lấy móng tay nhọn tự cào vào mình, muốn cho chết ngay tức khắc. Chàng thấy tình trạng động lòng bất nhẫn, ra sức khuyên lơn yên ủi vợ, nàng nói:
- Em nghĩ ông hòa thượng lúc ban ngày, tất là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh, như thay đổi cả gan ruột. Giờ em nhớ lại những việc đã làm lúc trước như việc ở kiếp nào khác vậy, có lẽ em chẳng phải giống người chăng? Có vợ chồng mà không biết vui vẻ, có cha mẹ mà không biết phụng dưỡng thờ phụng là nghĩa thế nào? Sáng mai vợ chồng ta phải dọn đến ở chung với cha mẹ, để thăm nom hầu hạ cho dễ.
Vợ chồng nói chuyện suốt đêm, như là cách biệt mười năm giờ mới gặp gỡ vậy.
Tảng sáng nàng trỗi dậy, thu xếp xống áo mâm chén, con ở xách thúng mủng, nàng tự đội chăn mền, giục chàng đi trước kêu cửa. Bà mẹ hoảng sợ, mở cửa hỏi chuyện chi? Chàng tự bày tỏ ý muốn của vợ. Trong khi bà cụ còn đang ngần ngại, ý không muốn chứa, nàng với con ở đã tay xách nách mang bước vào.
Bà mẹ theo gót trở vào, nàng phục dưới đất khóc lóc thảm thương chỉ xin cha mẹ tha chết cho nàng để nàng đền tội. Bà xét ra ý nàng thành thật, cũng khóc và nói:
- Con ta sao thay đổi mau lẹ thế này?
Chàng thuật rõ câu chuyện đã qua, bây giờ bà cụ mới nhớ lại giấc chiêm bao, thật quả ứng nghiệm, vội vàng bảo tôi tớ dọn dẹp căn nhà cũ cho hai vợ chồng ở.
Từ đó nàng thờ cha mẹ chồng còn hơn người con hiếu thảo. Cử chỉ đoan trang như cô dâu mới về nhà chồng. Có ai bỡn cợt nhắc lại chuyện cũ thì nàng đỏ mặt ra dáng hổ thẹn. Tính lại cần kiệm, khéo ăn nhịn để dành, trải ba năm, cha mẹ chồng không phải bận lòng vì sinh kế trong nhà, mà của để cũng có hàng vạn rồi.
Năm ấy chàng thi đậu cử nhân. Nàng thường hỏi chồng:
- Ngày nọ em thấy mặt cô Phương Lan một lần, nàng vẫn còn thương mình à?
Chàng trả lời rằng, bây giờ sung sướng thế này là mãn nguyện rồi, chả dám mơ tưởng gì nhiều chuyện nữa.
Rồi chàng vào kinh thi Hội, mấy tháng mới trở về. Lúc bước vào nhà, thấy Phương Lan đang ngồi đánh cờ với Giang Thành, lấy làm sửng sốt. Hỏi ra thì do nàng tự xuất trăm đồng chuộc Phương Lan ra khỏi hồng lâu, vì là người năm xưa được chàng thương yêu.
Hồi ta đến chơi miền Tích Thiệu, được gặp ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe chuyện nàng rất rõ ràng.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Con gái nhà trời (Bạch Vu Ngọc)


Ngô Thanh Am, tên thật là Quân, tuổi trẻ đã nổi tiếng. Quan Thái sử họ Cát, xem văn của chàng thường tấm tắc khen ngợi, bèn nhờ người quen mời đến nhà chơi cho được thấy rõ diện mạo và nghe chàng đàm luận. Thái sử nói:
- Lý nào một người có tài như Ngô sinh, mà lại nghèo hèn mãi ư?
Rồi ông sai người lối xóm đánh tiếng cho chàng biết rằng: “Nếu Thanh Am gắng chỉ mây xanh, thì ta gả con gái cho”.
Lúc đó Thái sử còn một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, chàng nghe mừng rỡ hết sức tự tin mình bề nào thi cũng đậu.
Không ngờ đến khi khoa thi hương, chàng bị đánh rớt, cậy người đến nói với quan Thái sử rằng: “Sự giàu sang nhất định sẽ có không biết sớm hay muộn đó thôi. Vậy xin tiểu thư ráng đợi tôi ba năm nữa, nếu tôi không thành danh, cô sẽ đi lấy chồng”.
Từ đó chàng ra sức học càng chăm.
Một đêm sáng trăng, có một vị tú tài đến thăm, da trắng râu cụt, vóc người nhỏ nhắn, móng tay để dài. Hỏi khách ở đâu lại chơi, khách tự giới thiệu mình họ Bạch tên chữ là Vu Ngọc.
Chàng cùng Bạch nói chuyện mấy câu, trong lòng đã thấy khoan khoái cho nên vui mừng tiếp rước, mời ở lại nghỉ đêm.
Sáng ngày, Bạch sửa soạn ra đi, chàng căn dặn mỗi khi đi qua tiện đường, bề nào cũng nhớ ghé chơi, Bạch cảm cái tính niềm nở ấy, tình nguyện lần sau đến, sẽ xin trọ ngay ở nhà này, rồi hẹn ngày tái ngộ và từ giã lên đường.
Tới kỳ hẹn, một tên nô bộc đem các vật đựng nấu ăn đến trước. Giây lát Bạch tới, mình cưỡi ngựa vạm vỡ tướng như con rồng.
Chàng để gian nhà riêng Bạch ở, Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình ở lại sớm tối cùng Ngô gần gũi tương đắc.
Ngô để ý thấy sách vở của Bạch xem, không phải là thứ sách vở bình thường trông thấy. Lại cũng không thấy quyển nào là sách văn chương khoa cử. Chàng kinh ngạc và hỏi tại sao, Bạch cười đáp:
- Kẻ sĩ hiền đều có chí riêng, ai tùy thích nấy! Sở dĩ tôi không có loại sách thơ phú, vì tôi chẳng phải là người trong vòng khoa cử công danh.
Thường đêm Bạch mời chàng uống rượu, đưa ra một quyển sách cho chàng xem, toàn là thuật tu tiên, luyện đạo, nhiều chỗ xem không hiểu nghĩa. Chàng thấy vu vơ không hợp với mình, không buồn để ý.
Lần khác, Bạch nói với chàng:
- Quyển sách tôi đưa cho xem hôm nọ, chính là con đường bất lão, nấc thang lên tiên đó.
Chàng cười:
- Việc gấp của tôi không phải ở chỗ đó. Vả lại muốn được thành tiên, tất phải chấm dứt nhân duyên, để cho mọi điều tư tưởng đều tuyệt mới được. Khốn nhưng tôi còn có tật đa mang làm sao tu được?
- Xin hỏi vì cớ gì?
- Vì cớ phải lo sinh con nối dõi!
- Thế sao lớn tuổi vẫn chưa lấy vợ?
- Bởi tôi có tật hiếu sắc!
Chàng vừa nói vừa cười. Bạch cũng cười:
- Chỉ xin ông đừng hiếu cái sắc tầm thường nhé! Và muốn hỏi cái sắc ông biết ra thế nào?
Ngô đem hết câu chuyện Thái sử muốn gả con gái nói cho Bạch nghe.
Bạch ngờ cô ả của Thái sử chưa chắc thật là người đẹp. Chàng nói:
- Nhan sắc của Cát tiểu thư xa gần đều biết, chẳng phải là tôi hạ mình. Bạ ai cũng yêu được đâu.
Nói đoạn mỉm cười bỏ đi nơi khác.
Hôm sau, bỗng dưng Bạch sửa soạn hành lý để đi. Chàng thấy vậy sinh buồn, cùng Bạch quyến luyến nói chuyện mãi chưa chịu thôi.
Bạch sai thằng nhỏ đội hành lý đi trước, mình còn nán lại cùng Ngô chuyện vãn từ biệt. Hai người bịn rịn không nỡ rời tay.
Chợt thấy có một con ve xanh kêu rít rít và đáp xuống bàn. Bạch nói:
- Ngựa xe tới rước rồi đó. Tôi xin từ giã ông từ đây. Nếu tưởng nhớ tôi thì quét chỗ giường tôi, lên đó mà nằm sẽ thấy.
Chàng đang muốn hỏi han nhiều chuyện, nhưng trong chớp mắt Bạch đã thu mình nhỏ lại như ngón tay, ngồi lên lưng con ve mà bay lên không, biến vào trong mây.
Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ Bạch chẳng phải người thường, rồi đứng ngẩn ngơ giây lâu, vẻ buồn hiện rõ trên mặt.
Mấy hôm sau, trời đêm mưa phùn, lòng càng tưởng nhớ họ Bạch, ngó lại giường thấy bụi trắng xóa, chân chuột in tứ tung. Chàng thở than rồi lấy chổi quét dọn sạch sẽ, trải chiếu lên nằm ngủ liền.
Một lát sau thấy tên tiểu đồng của Bạch đến mời, chàng vui vẻ đi theo liền.
Vừa lúc ấy có một con chim ngũ sắc bé nhỏ từ trên mây đậu xuống bên, tiểu đồng thưa:
- Đường lối đen tối khó đi, xin mời ông đỡ chân bằng con chim này.
Chàng lo chim bé nhỏ quá làm sao mang nổi. Tiểu đồng nói:
- Xin ông thử leo lên coi.
Chàng y lời leo lên mình chim. Té ra ngồi rộng rãi có thừa. Tiểu đồng bám ở khúc đuôi. Chim xòe cánh nghe một tiếng vù, cất mình lên không bay đi vùn vụt. Không bao lâu tới một cái cổng sơn đỏ. Tiểu đồng nhảy xuống trước, đỡ chàng xuống sau. Chàng hỏi đây là chỗ nào, tiểu đồng thưa:
- Thưa, đây là cửa trời!
Bên cửa có con cọp lớn nằm phục. Chàng sợ run. Tiểu đồng lấy mình che đỡ cho chàng khỏi sợ hãi.
Chàng nhìn phong cảnh, chỗ nào cũng lạ lùng tốt đẹp, khác hẳn thế gian.
Tiểu đồng dẫn chàng vào cung Quảng Hàn, bậc thềm đều lát bằng thủy tinh, người bước lên trên như đi trên tấm gương. Hàng bên hai cây quế cao ngất và ôm lấy nhau, mùi hoa theo gió thơm phức. Trong cung san sát những tòa nhà, trổ cửa sơn đỏ, thấp thoáng có mỹ nhân ra vào, người nào người ấy, xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp.
Tiểu đồng nói cho chàng biết rằng: ở cung Vương Mẫu con gái còn mỹ miều gấp trăm, nhưng nó sợ ông chủ đợi lâu, cho nên không dám đưa chàng đi thơ thẩn xem người, ngoạn cảnh nhiều nơi, đành phải dắt chàng trở ra.
Một lát đi tới tòa lâu đài kia, đã thấy Bạch đứng đón chàng ở ngoài cửa. Bạch nắm tay chàng cùng bước vào trong nhà. Chàng nhận thấy trước thềm có bãi cát trắng, suối nước trong nghe chảy rả rích. Khắp nhà dát ngọc sơn son, y như cung điện vua chúa.
Chủ với khách vừa ngồi xuống, liền có một cặp mỹ nữ bưng trà thơm ngát ra dùng. Kế đó, Bạch sai dọn rượu thì có bốn mỹ nhân khác bôn tẩu hầu hạ chung quanh. Đến nỗi vừa thấy trên lưng hơi ngứa, tức thời mỹ nhân thò tay vào áo mân mê gãi giùm. Chàng thấy tấm thân khoan khoái lạ thường. Đến lúc hơi men ngà ngà, chàng không giữ vẻ nghiêm trang được nữa, cười cợt dòm liếc mỹ nhân, muốn kéo nàng lại nói nhỏ. Mỹ nhân mỉm cười và lánh đi.
Bạch truyền lệnh đàn hát để chuốc rượu, một nàng mặc áo sa bóng, bưng chén rượu đến trước mặt khách, rồi đứng tại đó, cất tiếng hát du dương, các mỹ nhân khác gõ xênh phách mà hát họa theo, nghe rất nhịp nhàng réo rắt.
Qua lớp ấy, tới một cô áo xanh cũng chuốc rượu và hát. Còn một cô áo tím và một cô áo trắng thì cười khúc khích, cô nọ khều cô kia, không ai chịu ra trước.
Bạch sai mỗi cô mời một chén, hát một bài.
Cô áo tím bước tới bưng chén rượu mời khách. Chàng mượn cớ tiếp lấy chén rượu mà nắm cánh tay. Cô bật cười tuột tay, chén rượu nghiêng đổ xuống đất. Bạch rầy mắng. Cô lượm chén lên, miệng cố nhịn cười và cúi đầu nói khẽ:
- Da lạnh buốt như bàn tay ma, thế mà cố véo vào tay người ta chứ!
Bạch cả cười, phạt nàng tự múa tự hát một mình. Múa hát xong tới phiên cô áo trắng tiến lên mời chàng một chén.
Chàng từ chối:
- Say quá rồi, uống không kham nổi!
Cô bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, chàng bèn gượng uống cạn chén cho cô vui lòng.
Nhìn kỹ bốn cô dáng dấp hay hay, không một cô nào mà chẳng kiều diễm tuyệt thế. Chàng nói với chủ nhân:
- Sắc đẹp trên đời, tôi đây mong có lấy một người mà còn khó khăn, sao ông tụ tập cả đám giai nhân mỹ sắc đến thế, liệu có sẵn lòng chia cho anh em hưởng với không nào?
Bạch ngó chàng, cười và đáp:
- Sao! Tự ông đã có giai nhân trong tâm ý rồi mà. Lũ này đâu có xứng đáng lọt vào mắt xanh của ông?
Chàng phải thú thật:
- Hôm nay tôi mới tự biết sự thấy của mình còn hẹp hòi quá.
Bạch bèn gọi hết cả đám mỹ nhân đến trước để cho chàng tự chọn lấy.
Chàng thấy cô nào cũng đẹp thành ra phân vân, không thể tự quyết định. Bạch nghĩ cô áo tím đã có cái duyên khều véo cánh tay, liền sai ngay cô sửa soạn chăn gối để hầu khách hôm nay.
Cố nhiên đầu gối tay ấp, hết sức yêu đương không cần phải nói. Chàng đòi tặng món chi làm kỷ niệm, nàng tháo ngay chiếc xuyến cho chàng.
Giữa lúc đó tiểu đồng chạy vào nói:
- Tiên phàm khác nhau, ở lâu không tiện, vậy xin mời ông đi ngay.
Nàng vội vàng trỗi dậy đi mất. Chàng hỏi ông chủ đâu, tiểu đồng nói:
- Ông chủ tôi đi chầu Ngọc Hoàng. Lúc ra đi có dặn tôi lo việc tiễn khách về trần.
Chàng buồn bã theo chân ra đi, lại noi theo đường lối cũ. Gần ra tới cổng ngoài, quay lại ngó tiểu đồng, thì nó đã biến đi từ lúc nào. Một con cọp gầm thét chồm lên. Chàng sợ hãi cắm đầu chạy, trông xuống dưới thăm thẳm mù khơi, chẳng biết đâu là đâu, nhưng hai chân đã lỡ rơi tuột xuống rồi. Chừng đó kinh hồn tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng.
Lúc sắp đứng lên, có một vật rớt nhẹ nhàng xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc vòng. Chàng càng lấy làm lạ.
Từ đó, ý nghĩ lúc trước thành ra nguội lạnh, thường muốn đi tìm ông Xích Tùng Tử để học đạo tu tiên, nhưng còn lo về nỗi không có con nối dõi tông đường.
Cách hơn mười tháng, một hôm chàng đang ngủ say giữa ban ngày, mộng thấy cô áo tím ở ngoài đi vào tay ẩm đứa con nhỏ và nói:
- Xương máu của chàng đây. Trên trời không cho giữ vật này, vậy tôi đem xuống trả lại cho chàng.
Nói đoạn, cô đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vai áo chàng mà đắp cho nó rồi vội vàng muốn đi. Chàng kéo lại, đòi giao hoan. Cô áo tím nói:
- Chuyến trước là động phòng, chuyến này là vĩnh quyết, vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí, may ra còn có lúc ta lại được gặp nhau.
Chàng tỉnh ngủ, mở mắt ra quả thấy đứa hài nhi nằm trên giường liền ôm vào trong nhà nói với bà mẹ.
Bà thấy được cháu, rất mừng, tìm * nuôi, đặt tên là Mộng Tiên.
Bấy giờ chàng sai người đến nhà ông Thái sử, báo tin cho ông hay rằng chàng sửa soạn đi ẩn, vậy xin ông lo kén rể khác cho tiểu thư.
Nàng nói:
- Xa gần chẳng ai không biết rằng con hứa làm vợ Ngô lang rồi. Bây giờ thay đổi thế là hai chồng còn gì?
Thái sử đem ý chí đó ngăn bảo chàng. Chàng vẫn khăng khăng một mực:
- Ngày nay chẳng những tôi không có chí về công danh, lại tuyệt tình về đường gia thất nữa. Nên tôi chưa bỏ nhà vào núi ngay, chỉ vì còn mẹ già đó thôi!
Thái sử lại bàn soạn với con gái, nàng trả lời:
- Ngô lang nghèo, con cam sống với rau muối. Ngô lang đi, con xin thờ bà mẹ chồng, nhất định con không lấy người nào khác đâu.
Sứ giả đi lại thương thuyết đôi ba phen, đều không xong việc. Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe ngựa chở tư trang và đưa tiểu thư về nhà chồng.
Chàng cảm là người hiền đức, hết lòng kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất hiếu, nâng niu hầu hạ còn hơn con gái nhà nghèo.
Qua hai năm bà mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang để lo liệu ma chay đủ lễ. Chàng nói:
- Tôi được người vợ hiền như nàng, còn lo gì. Nhưng nghĩ đến xưa kia một người đắc đạo, cả nhà cùng theo gót lên tiên, còn tôi ngày nay sắp sửa đi xa, mà nàng ở lại, trăm công ngàn việc đều phó thác cho nàng hết thảy.
Nàng thản nhiên không có ý bịn rịn chút nào.
Thế rồi chàng bỏ nhà ra đi.
Nàng ở nhà, ngoài việc đồng áng ra, trông dạy nuôi con, đâu đó ngăn nắp. Mộng Tiên dần dà khôn lớn, tính rất thông minh, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng và đậu thi hương, mười lăm tuổi hàn lâm. Thường khi triều đình hỏi tên cha mẹ để phong tặng cho nhưng Mộng Tiên không biết tên họ mẹ đẻ là gì, chỉ khai tên một mình Cát mẫu mà thôi.
Đến ngày sinh nhật cha, Mộng Tiên hỏi Cát mẫu chỗ ở của cha nơi nào. Cát mẫu nói rõ sự thật. Mộng Tiên muốn treo ấn từ quan để đi tìm cha, nhưng bà mẹ gạt đi:
- Cha con bỏ nhà vào núi đã ngoài mười năm, có lẽ nay đã lên tiên rồi, con biết chỗ nào mà tìm.
Sau có dịp, Mộng Tiên vâng chỉ vua sai đi tế núi Nam Nhạc, chẳng may giữa đường gặp cướp, trong lúc nguy cấp, thấy một đạo sĩ xách gươm xông vào đánh cướp, cướp thua chạy toán loạn. Nhờ vậy Mộng Tiên được giải vây, cảm ơn đạo sĩ, muốn tặng tiền bạc nhưng đạo sĩ không lấy, chỉ đưa ra một phong thư và căn dặn:
- Bần đạo có một ông bạn cũ cùng làng với quan lớn, vậy, xin dám nhờ quan lớn thay lời hỏi thăm hộ.
- Nhưng bạn cũ của ông tên họ là gì?
- Thưa tên Vương Lâm!
Mộng Tiên nhớ kỹ trong làng không có ai tên ấy. Đạo sĩ nói:
- Hắn ta con nhà hàn vi, cho nên quan không biết đó thôi.
Lúc giã từ đưa ra một chiếc vòng vàng nói tiếp:
- Đây là món đồ khuê các, bần đạo lượm được, cũng chẳng biết dùng làm gì, vậy xin biếu ngài luôn dịp.
Mộng Tiên cầm lấy xem, thấy chạm trổ tuyệt khéo, đem về trao cho phu nhân.
Phu nhân sai thợ khéo cứ y mẫu mà làm một chiếc nữa, nhưng nét tinh xảo vẫn kém xa. Lại dò hỏi khắp trong làng, chẳng ai có tên là Vương Lâm. Bấy giờ Mộng Tiên mới lén mở phong thư của ông đạo sĩ ra xem, phía trên viết mấy hàng chữ như sau:

Ba năm loan phượng
Phân cách tới nay
Nuôi con, chôn mẹ
Nhờ nàng một tay
Lấy gì báo đức?
Tặng hoàn thuốc này,
Mở ra uống xong,
Lên tiên có ngày.


Sau chót là hàng chữ:
Kính gửi Lâm nương phu nhân!
Mộng Tiên đọc không hiểu là ai, liền đưa trình Cát mẫu. Cát mẫu xem thư khóc sướt mướt.
- Đây là thư của cha con gửi về cho ta. Lâm là tên chữ của ta đó!
Bấy giờ mới hiểu ra tên Vương Lâm là tên Cát mẫu hồi nhỏ.
Mộng Tiên ân hận than tiếc mãi, vì chính mình đã gặp cha mà không ngờ. Chàng lại đưa chiếc vòng cho Cát mẫu xem. Bà nói:
- Vật kỷ niệm của mẹ đẻ con đó. Hồi cha con ở nhà, thường lấy ra, ta xem rồi.
Xem tới hoàn thuốc, thấy nhỏ bằng hạt đậu, Mộng Tiên mừng nói:
- Cha đã thành tiên, ngài cho hoàn thuốc này mẹ ta ăn hẳn được trường sinh bất lão.
Nhưng Cát mẫu còn để dành, chưa muốn ăn vội, bèn gói cất đi. Gặp lúc quan Thái sử qua thăm bà đọc bức thư Ngô lang cho cụ nghe, nhân dịp mang hoàn thuốc ra tặng cụ.
Thái sử cắt ra làm hai, mỗi người ăn một nửa, trong giây lát, đã thấy tinh thần thay đổi mạnh mẽ. Lúc ấy Thái sử đã gần thất tuần, mắt mờ sức yếu lắm rồi. Thế mà vừa ăn nửa hoàn thuốc vào, bỗng thấy gân sức khỏe ra đến nỗi bận về, bỏ xe đi bộ mà đi rất mau gia nhân theo mướt mồ hôi mới kịp.
Năm sau do thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không ngớt. Cả nhà Mộng Tiên lo sợ, đêm không dám ngủ, tụ tập quây quần ở giữa sàn, thấy lửa cháy lan, gần đến lối xóm. Cả nhà luýnh quýnh, chẳng biết làm thế nào.
Bỗng chiếc vòng vàng ở tay phu nhân nghe đánh vụt một tiếng, cất nhẹ bay đi. Trông lên thấy nó to lớn bằng mấy mẫu ruộng, úp quanh lên nhà, hình như vầng nguyệt, miệng vòng thì hướng về phía đông nam ai nấy đều thấy rõ ràng, hết sức kinh ngạc.
Một lát lửa từ phía tây lan tới chiếc vòng thì tạt qua hướng đông. Tới khi lửa dịu dần, mọi người thầm nghĩ chiếc vòng chắc mất, không lấy lại được, tự dưng ngọn lửa vừa ngớt, thì chiếc vòng rơi xuống dưới chân nghe có tiếng kêu.
Trận hỏa hoạn này đốt hết mấy muôn căn nhà, trước sau tả hữu đều thiêu ra tro, chỉ có nhà họ Ngô không can gì, trừ ra một lầu nhỏ ở phía nam bị đốt tức là nơi miệng vòng để hở vậy.
Cát mẫu ngoài năm mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp như người mới độ hai mươi.

Đào Trinh Nhất dịch



Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Chuyện lạ chim câu (Cáp dị)


Chim bồ câu rất nhiều giống: đất Tấn có Khôn tinh, đất Lỗ có Hạc Tú, đất Kiềm có Dịch Diệp, đất Dương có Phan Khiêu, đất Việt có Chư Tiêm, đều là những giống lạ. Lại còn có Hài Đầu, Điềm Tử, Đại Bạch, Hắc Thạch, Phu phụ tước, Hoa cẩu Nhởn. Bấm đốt ngón tay không kể hết, duy chỉ những kẻ hiếu sự mới có thể làm được.
Công tử Trương Công Lượng đất Châu Bình rất thích chim câu, cứ theo sách Kinh(1) mà tìm, cầu có được đủ các chủng loại. Có con nào, Trương chăm chút y như trẻ thơ: bị bệnh lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, bệnh nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ, nhưng ngủ quá nhiều thì mắc bệnh bại liệt. Hồi ở Quảng Lăng, Trương mua một con mười đồng vàng, mình rất nhỏ, chạy rất nhanh, thả trên mặt đất nó cứ chạy loanh quanh không biết đến bao giờ, kỳ đến mệt lăn ra chết mới thôi, cho nên phải có người bắt giữ. Ban đêm Trương bỏ vào trong đàn chim, nó chạy lung tung làm cho các con khác giật mình không ngủ được, để tránh cho chúng bệnh bại liệt. Vì thế chim ấy có tên là Dạ Du. Kể thế, những nhà nuôi chim đất Tề, đất Lỗ cũng kém tài. Mà công tử cũng lấy việc nuôi chim câu để tự khoe một chút.

(1) Chỉ sách Cáp tử kinh thời cổ đại Trung Quốc chuyên bàn về việc nuôi chim bồ câu.

Một đêm công tử đang ngồi ở thư phòng, bỗng một trang thiếu niên mặc áo trắng gõ cứa bước vào. Hai người không quen biết nhau, công tử hỏi, chàng ta đáp:
- Con người phiêu bạt, tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe tin đồn công tử nuôi bồ câu được lắm. Bình sinh tôi cũng ưa thích thứ ấy, xin được cho xem.
Trương liền đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như gấm mây. Chàng thiếu niên cười mà rằng:
- Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Tôi cũng có mang theo một hai con, công tử có muốn xem không?
Trương mừng quá, theo người thiếu niên đi. Đêm ấy, ánh trăng mờ ảo, đồng không mông quạnh, đi thì đi trong lòng Trương đã thầm ngờ sợ. Thiếu niên vừa chỉ vừa nói:
- Xin gắng đi chút nữa, nơi tôi ngụ không còn xa nữa.
Đi thêm mấy bước đã tới một ngôi nhà hai gian.
Thiếu niên dắt tay đi vào. Trong nhà không ánh đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù. Bỗng có một đôi chim tầm cỡ như chim thường lông trắng tuyền bay ra ngang tầm mái hiên, vừa gù vừa chọi. Thiếu niên xua tay, hai con nối cánh bay vào chuồng.
Thiếu niên lại chúm miệng gù cách khác. Lại có hai con khác bay ra - con lớn như con le, con bé bằng nắm tay - đậu trên thềm biểu diễn điệu hạc múa. Con lớn đứng vươn cổ, xòe cánh như hai cánh bình phong, vừa gù vừa nhảy rất uyển chuyển, dường như để khơi dẫn. Con nhỏ vừa gù vừa bay lên bay xuống đậu trên đầu con lớn đang vẫn giương cổ không động cựa, cánh chấp chới như tiếng chim yến lạc vào đám lác. Tiếng kêu con nhỏ như tiếng trống bỏi, tiếng con lớn lại y như tiếng khánh, đan hòa nhau như một dàn nhạc. Rồi chim nhỏ bay lên, con lớn cứ lắc lư như chào gọi vậy.
Công tử nhìn quang cảnh ấy, cứ khen ngợi mãi không thôi. Tự chỉ thấy mình chỉ là ếch ngồi đáy giếng, đáng xấu hổ bèn vái chàng thiếu niên, xin cho chia sẻ niềm yêu thích. Thiếu niên không nghe, lại cố gắng xin, lúc ấy thiếu niên mới gù gọi đôi chim trắng ra, bắt lấy đưa cho Trương, nói:
- Nếu công tử không ghét bỏ, tôi xin biếu đôi này.
Trương nhận lấy, ngắm nghía: đôi mắt tròn như hạt hồ tiêu, phản chiếu ánh trăng lóng lánh màu hổ phách như trong suốt; mở đôi cánh ra da thịt nó mỏng tanh trong vắt như có thể nhìn rõ tim ruột. Trương rất lấy làm lạ, mà ý chưa cho là đủ, còn nài nỉ xin nữa. Thiếu niên miễn cưỡng bảo:
- Hãy còn hai đôi chưa đưa ra trình, nay không dám mời xem nữa.
Còn đang chuyện trò đàm đạo thì người nhà Trương đốt đuốc đi tìm chủ nhân. Trương vừa quay đi, chàng thiếu niên đã hóa thành chim câu trắng, to như con gà, bay vút lên trời, đi đâu không rõ. Nhà cửa vừa trước mắt biến đâu mất mà chỉ còn một ngôi mộ có hai cây bách trồng bên. Trương vội cùng gia nhân ôm đôi chim về. Về đến nhà, thử cho bay, chim vẫn thuần và lạ như trước. Tuy chưa phải là cực hay, song trên đời này cũng hiếm. Do vậy, Trương càng yêu quý.
Qua hai năm, chim đẻ được ba con cả trống lẫn mái. Những người thân thích nài nỉ cầu xin đều không được. Có ông Mỗ bạn cha là bậc quan sang, một hôm gặp công tử hỏi:
- Thế nào, nuôi chim câu có được nhiều không?
Công tử chỉ dạ dạ rồi cáo lui, trong bụng chắc ông ta cũng thích, chàng cũng muốn làm vừa lòng ông ta song dứt ruột chia sẻ niềm yêu thương của mình thấy khó. Lại nghĩ: sự đòi hỏi của bề trên không thể làm ngơ được. Lại không dám đưa chim thường, cho nên phải chọn hai con tuyết trắng bỏ vào lồng mang biếu, đinh ninh rằng quà quý ngàn vàng không sánh được.
Ngày khác lại gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý về món quà tặng vừa rồi, song ông ta không mảy may ngỏ lời cảm ơn. Trương không ghìm được lòng hỏi ngay:
- Đôi chim hôm trước có tốt không ạ?
Đáp:
- Cũng béo ngon.
Trương hoảng lên:
- Thưa đã mổ thịt rồi ạ?
Ông Mỗ đáp một cách thản nhiên:
- Ừ!
Trương cả kinh thưa lại:
- Đó là loại chim cực quý, thường được gọi là Thát dát đấy ạ!
Ông Mỗ mơ màng như cố nhớ lại, thủng thẳng đáp:
- Thịt cũng không khác chim thường mấy.
Trương ôm hận trở về.
Đến tối, Trương mộng thấy chàng thiếu niên áo trắng đến trách:
- Tôi thấy công tử có lòng yêu thương cho nên gửi con gửi cháu. Sao lại nỡ lòng đem châu báu vứt vào nơi đen tối để đến nỗi chịu nạn thớt dao? Nay tôi phải đưa hết con cái đi.
Nói rồi hóa thành bồ câu, tất cả các loại câu trắng đều bay đi theo. Trời sáng, công tử xem lại chuồng, quả là chúng bay đi hết. Trương vô cùng ân hận, đem tất cả chim nuôi được tặng bạn tri giao. Mấy ngày thì hết sạch.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Người nuôi rắn (Xà nhân)


Nhà Mỗ ở Đông quận, sinh sống bằng nghề nuôi rắn làm trò. Có hai con đã thuần, cả hai đều màu xanh. Con lớn đặt tên là Đại Thanh, con nhỏ đặt là Nhị Thanh. Con Nhị Thanh trán có một cái chấm đỏ, thuần hơn. Anh ta đặc biệt yêu quý chúng hơn các con khác.
Năm ấy, rắn Đại Thanh chết. Anh ta muốn thay bằng con khác nhưng chưa gặp dịp. Tối ấy, anh ta trọ ở một ngôi chùa trong núi. Sáng ra mở giỏ rắn thì Nhị Thanh đã biến đâu mất. Anh ta buồn tưởng chết, vội chạy đi gọi, tìm khắp các gốc cây bụi cỏ nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu vết đâu. Anh ta đành phải quay về ngồi đợi, bụng vẫn mong ngóng nó sẽ tự tìm về.
Mặt trời đã lên cao, anh ta tuyệt vọng, đành nhẽ rầu rĩ khăn gói lên đường. Mới được ít bước, bỗng có tiếng loạt soạt trong bụi cây, vội dừng lại nghiêng ngó dõi theo thì thấy Nhị Thanh đang trườn tới. Anh ta mừng quá như tìm lại được vàng, vội dừng lại, đứng đợi ở góc đường. Rắn cũng dừng lại, phía sau có một chú rắn nhỏ đi theo. Anh ta vỗ về Nhị Thanh:
- Tao tưởng mày bỏ tao đi rồi? Nay còn dẫn thêm bạn nhỏ về nữa ư?
Rồi vội đem mồi cho ăn, cho cả con nhỏ nữa. Chú rắn tuy không bỏ đi nhưng còn có vẻ ngần ngừ không dám ăn.
Nhị Thanh ngậm mồi mớm cho, y như chủ nhân tiếp khách vậy.
Người nuôi rắn cũng tiếp mồi thêm cho. Bấy giờ rắn con mới ăn tự nhiên, ăn xong theo Nhị Thanh bò vào trong giỏ.
Người nuôi rắn đem dạy rắn con vào khuôn phép ngay không khác gì Nhị Thanh lắm. Anh ta đặt tên cho nó là Tiểu Thanh, rồi mang cả đi biểu diễn tứ phương, thu tiền vô kể.
Đại khái người biểu diễn rắn chỉ dùng rắn dài độ bốn gang, dài quá thì nặng phải thay con khác. Con Nhị Thanh đã đến độ phải thay, song chỉ vì nó hay quá, thành thử chưa muốn thay ngay mà còn lưu dùng hai ba năm nữa. Đến khi nó dài đến sáu bảy gang nằm chật đầy giỏ, anh ta buộc phải thay. Đến ấp Tuy ở Đông Sơn, anh ta cho Nhị Thanh ăn mồi ngon, vỗ về chúc tụng nó rồi thả ra. Nó đã bò đi, chốc lát quay lại, cứ lượn quanh ngoài giỏ. Người nuôi rắn vẫy tay ra hiệu:
- Đi đi! Trên đời này làm gì có tiệc vui sum họp trăm năm chưa tan. Từ nay mày vào ẩn trong hang lớn, thế nào cũng hóa thành thần long. Còn cái giỏ chật hẹp này mày sao có thể ở mãi được?
Dường như nghe hiểu ý vậy, lần này con rắn bò đi hẳn. Mỗ đưa mắt nhìn tiễn.
Thế rồi rắn lại quay trở lại. Mỗ vẫy tay ra hiệu cho nó đi, nó vẫn không đi, cứ lấy đầu cọ vào cái giỏ. Tiểu Thanh ở bên trong cũng động cựa soàn soạt. Lúc ấy Mỗ mới hiểu, bảo rằng:
- Có phải mày muốn quay lại từ biệt Tiểu Thanh chăng?
Nói đoạn mở giỏ cho Tiểu Thanh ra. Hai con đầu quấn lấy nhau, lưỡi thè lè như muốn nói với nhau điều gì đó. Rồi hai con cùng bò đi. Mỗ đang còn ngỡ Tiểu Thanh không trở về nữa, nhưng chỉ một lát nó đã ngoằn ngoèo bò về một mình, rúc vào trong giỏ nằm.
Từ đó, công việc của Mỗ không lấy gì làm tốt. Tiểu Thanh cũng to dần ra không biểu diễn được. Sau Mỗ kiếm một con cũng thuần, song không sao bằng Tiểu Thanh.
Lại nói Nhị Thanh vào trong núi, những người đi lấy củi thường hay gặp. Vài năm sau, nó dài đến mấy chục gang, khoang mình như cái miệng bát, thường hay xông ra phi đuổi người. Bởi vậy những người hay qua lại đấy mách nhau, sợ không dám ra đường.
Một hôm, Mỗ đi qua nơi ấy, rắn quăng mình như gió lao theo. Anh ta sợ quá bỏ chạy. Rắn đuổi theo rất gấp, sát tận chân. Anh ta quay lại nhìn thấy trán rắn có nốt đỏ mới nhận ra Nhị Thanh, liền hạ gánh xuống gọi: “Nhị Thanh! Nhị Thanh!” Rắn dừng lại, nghển đầu hồi lâu rồi quăng mình quấn lấy chân Mỗ như diễn trò hồi nào vậy. Mỗ biết rắn không có vẻ gì làm hại, nhưng vì nó to quá, anh ta không chịu được sức nó quấn cho nên ngã vật xuống, kêu lên. Lúc ấy rắn mới buông ra, lấy đầu cọ cọ vào giỏ. Mỗ hiểu ý, mở giỏ thả Tiểu Thanh ra. Hai con vật quấn lấy nhau hồi lâu mới rời.
Mỗ thấy thế, liền chúc Tiểu Thanh:
- Tao đã có ý định thả mày lâu rồi. Nay thế là có bạn nhé!
Quay lại Nhị Thanh, anh ta bảo:
- Trước mày dẫn nó về, nay mày hãy dẫn nó đi!
Rồi cùng dặn cả hai:
- Núi sâu không thiếu mồi, chớ quấy người dọc đường.
Hai con rắn cùng cúi đầu như tỏ ý vâng lời. Rồi con lớn trước, con bé sau, bò vào rừng. Người nuôi rắn đứng sững nhìn theo cho đến khi chúng khuất hẳn.
Từ đó người qua lại đường ấy được yên ổn, không gặp rắn đuổi.

Nguyễn Văn Huyền dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Nước Dạ Xoa (Dạ Xoa quốc)


Có người họ Từ ở đất Giao Châu, vượt biển đi buôn bị bão thổi bạt thuyền giạt vào một xứ núi cao, rừng rậm. Trông chừng nơi đây có người ở, anh ta buộc thuyền lại, đem theo lương khô rồi lên bờ.
Vừa đi một đoạn đã thấy hai bên núi đều có hang động, dầy đặc như lỗ tổ ong, ở trong âm âm nghe có tiếng người. Dừng chân đứng ngoài một cửa hang nhòm vào, thấy có hai tên dạ xoa răng tua tủa, mắt đỏ đòng đọc như ngọn đèn, đang lấy móng vuốt xé thịt hươu sống ăn. Anh ta hồn bay phách lạc vội ngoắt ra thì bọn dạ xoa đã nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt người. Hai dạ xoa trao đổi với nhau, tiếng như tiếng chim, tiếng thú. Chúng xé toang quần áo Từ, có ý muốn ăn tươi. Từ sợ quá, vội lấy lương khô, cùng thịt trâu khô trong đẫy ra đưa cho chúng. Chúng chia nhau ăn ngon lành lắm. Quen mùi chúng lại lục đẫy. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa có vẻ bực tức, lại túm lấy Từ, Từ kêu van:
- Xin tha cho, trong thuyền tôi có nồi niêu, có thể nấu nướng được.
Dạ xoa không hiểu gì cả lại càng tức, Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiểu, chịu theo Từ ra thuyền. Từ đem đồ đạc vào hang, bắc củi nhóm lửa nấu số thịt hươu còn lại rồi đưa cho lũ dạ xoa ăn. Chúng mừng rỡ chén ngay. Đêm xuống chúng vần đá lớn lấp cửa hang, chúng sợ Từ trốn, Từ nằm co quắp ngoài xa, trong bụng chỉ sợ phen này tất chết.
Sáng ra, chúng lấp chặt cửa hang rồi đi. Một lát, chúng mang về một con hươu giao cho Từ. Từ lột da, lấy nước ở cuối hang, luộc thịt làm mấy nổi. Lát sau, một bầy dạ xoa đến, ngấu nghiến ăn hết rồi cùng chỉ vào nồi ra vẻ chê nồi nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn, giống như nồi người ta thường dùng. Rồi cả bầy đem đến nào nai, nào sói; khi thịt chín rồi chúng gọi Từ đến cùng ăn.
Ở với nhau mấy ngày, bọn dạ xoa đã hơi quen Từ, khi đi không giam anh ta lại nữa mà ăn ở với nhau như người trong bầy. Từ dần dần phân biệt các tiếng kêu của chúng để dò biết ý, rồi cũng tập phát âm như thế, vô hình chung thành ra thứ tiếng dạ xoa. Chúng càng bằng lòng, rủ về một dạ xoa cái cho Từ làm vợ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần. Sau đó con dạ xoa cái lân la cùng Từ giao hợp, lấy làm khoái lắm. Mỗi khi đem thịt cho Từ ăn cũng thân thiết y như tình vợ chồng ở con người vậy.
Một hôm, tất cả bọn dạ xoa đều dậy sớm, quấn chuỗi hạt minh châu quanh cổ, thay phiên nhau ra cửa như có ý chờ đón khách quý. Chúng còn bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi vợ xem có chuyện gì vậy? Vợ đáp:
- Đây là tiết Thiên thọ.
Rồi ra bảo bọn kia rằng:
- Anh Từ không có vòng hạt đeo.
Cả bọn liền trích trong từng chuỗi minh châu mỗi chuỗi năm hạt đưa cho vợ Từ. Vợ Từ cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình, tất cả năm mươi hạt rối lấy sợi đay xuyên thành chuỗi hạt đeo vào cổ cho chồng. Từ nhìn kỹ, thấy đều là loại hạt châu quý có dễ phải hàng trăm đồng vàng một hạt.
Lát sau, cả bầy dạ xoa đều ra ngoài. Từ cũng nấu thịt xong, vợ vào mời ra bảo:
- Đón Thiên Vương.
Đến một cái hang lớn, rộng khoảng một mẫu, ở giữa xếp đá thành một khối phẳng như cái sập, bốn chung quanh đều có bệ ngồi bằng đá, bệ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu. Hai ba mươi bầy dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Lát sau, gió to làm bụi mù, tất cả dạ xoa đều vội ra khỏi hang. Một con vật khổng lồ hình thù cũng loại dạ xoa, chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi tót lên bệ trên, hai chân duỗi thẳng, mắt láo lướt nhìn khắp. Bầy dạ xoa theo vào sau, chia hàng thứ ngồi hai bên đông tây, đầu ngẩng, hai tay chắp ngực thành hình chữ thập. Con vật ấy nhìn điểm các đầu một lượt, cất tiếng hỏi:
- Bọn Ngọa Mi Sơn ở hết cả đây chứ?
Cả bầy hét lên có ý trả lời: phải. Con vật ấy nhìn Từ, nói:
- Gì đây?
Vợ Từ thưa:
- Rể.
Cả bầy đều khen Từ tài nấu thịt chín. Lập tức, hai dạ xoa đem thịt đã nấu bày lên sập. Con vật ấy cúi xuống ăn thịt no căng, vừa ăn vừa gật gù khen ngon, lại còn hẹn phải cung đốn thường ngày. Xong rồi, quay nhìn Từ bảo:
- Vòng hạt sao ngắn thế?
Bọn dạ xoa đáp:
- Mới đến, chưa đủ.
Con vật ấy rút mười hạt trong chuỗi đeo trên cổ đưa cho, hạt nào hạt ấy to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn. Vợ Từ vội nhận, đeo vào cổ cho chồng. Từ cũng chắp cánh tay, nói theo tiếng nói dạ xoa để tạ ơn. Xong con vật ấy ra khỏi hang, lướt gió mà đi, nhanh như bay. Cả bọn dạ xoa lúc sau mới xúm lại ăn nốt chỗ còn lại, rồi tản mát đi cả.
Được hơn bốn năm, vợ Từ đẻ sinh ba, hai trai một gái, đều giống bố cả. Cả bầy dạ xoa rất thích ba đứa trẻ, vỗ về đùa nghịch với chúng.
Một hôm, cả hang đi vắng, chỉ còn một mình Từ. Có một con dạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm Từ. Từ không chịu. Thế là nó quật Từ xuống đất. Vợ Từ bất thình lình về, nổi giận, quần nhau với nó cắn đứt tai. Chồng nó về, gỡ ra đuổi nó đi. Từ đó, vợ Từ giữ rịt lấy chồng không rời.
Ba năm sau ba đứa trẻ đã biết đi. Từ dạy chúng nói tiếng cứ líu ríu nhưng đã rõ là tiếng người. Tuy chúng còn là trẻ con song trèo núi cứ như đi trên đất bằng, khăng khít với Từ như tình cha con loài người vậy.
Một hôm vợ Từ và hai con ra ngoài, nửa ngày chưa về. Gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê, dẫn đứa con trai ra bờ biển, thấy thuyền cũ vẫn còn đó, liền quyết định trở về. Đứa con định báo với mẹ. Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm thì về đến Giao Châu.
Đến nhà, vợ cũ đã bỏ đi lấy chồng. Từ đem hai hạt châu bán đi lấy tiền làm ăn sinh sống, gia cảnh ngày càng dư dật. Đứa con trai, đặt tên là Bưu, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã có thể cất nổi hàng tạ, tính tình lỗ mãng, chỉ thích đánh nhau. Viên tướng chỉ huy ở đất Giao lấy làm lạ, cho giữ một chức quan võ cấp thấp. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong làm phó tướng.
Thời ấy, một lái buôn đi biển cũng bị gió thổi bạt đến Ngọa Mi, trèo lên bờ, thấy một thiếu niên đã lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là dân Trung Quốc liền hỏi thăm quê quán. Người lái buôn kể rõ. Thiếu niên dẫn ngay vào một cái hang đá nhỏ, bên ngoài toàn cây có gai góc, dặn cứ ở đây chớ đi ra ngoài. Lát sau trở về, anh ta đem thịt hươu cho người lái buôn biết và nói cha mình cũng là người Giao Châu. Người lái buôn ngày đó là Từ - vì họ cùng cánh buôn bán quen biết nhau - liền bảo với anh ta:
- Ông ấy là bạn tôi. Nay con ông ta đang làm phó tướng.
Thiếu niên không hiểu phó tướng là gì, người lại giải thích:
- Đó là một chức quan ở Trung Quốc.
Lại hỏi:
- Quan là gì?
Trả lời:
- Ra đường cưỡi ngựa, đi xe; vào nhà ngồi trên cao tót; gọi một lời trăm tiếng dạ ran; ai gặp không dám nhìn, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan.
Thiếu niên nghe thấy nói về quan như thế, đã lấy làm kính mộ lắm. Người lái buôn bảo:
- Cha anh đã ở Giao Châu, sao anh còn chịu ở đây lâu thế?
Thiếu niên kể lại sự tình. Người lái buôn khuyên nên về Nam với cha, anh ta mới nói thực tình:
- Tôi cũng thường có ý ấy, song mẹ tôi không phải là người Trung Quốc, vẻ người, tiếng nói đều khác. Vả lại nếu đồng loại mẹ mà biết ý định ấy thì sẽ tàn hại, do đó còn chần chừ. Rồi còn hẹn: “Đợi gió bấc nổi, tôi sẽ tìm cách đưa ông về. Phiền ông báo cho cha, anh tôi biết tin”.
Gần nửa năm ẩn trong hang, người lái buôn có phen nhòm qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài thì sợ lắm, không dám động cựa. Một hôm gió bấc ù ù thổi, thiếu niên đến ngay, dẫn người lái buôn trốn ra khỏi hang tìm cách về Nam. Anh ta còn dặn đừng quên điều mình nhờ.
Về đến Giao Châu, người lái buôn vào ngay phủ phó tướng, kể lại đầy đủ những điều đã gặp. Bưu chạnh lòng nhớ mẹ nhớ em, muốn lập tức đi tìm. Người cha hết sức can ngăn, e biển khơi gió to sóng dữ, hiểm trở gian nan. Bưu cứ đấm ngực kêu khóc, người cha đành phải chịu. Rồi Bưu đến trình với viên chánh tướng, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược cản, phải hạ buồm ở giữa biển nửa tháng, bốn chung quanh chỉ thấy mênh mông trời nước không bờ, chẳng phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp cơn sóng dữ lật úp thuyền, Bưu lộn xuống biển vật vờ chìm, nổi theo sóng. Hồi lâu được một con vật gì đó dìu vào một vùng đất có nhà cửa. Bưu tỉnh dậy, thấy con vật dìu mình ấy có hình dạng dạ xoa. Bưu nói tiếng dạ xoa kể lại cơn cớ của mình. Dạ xoa vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, bảo Bưu:
- Ngọa Mi chính là quê cũ của tôi. Anh đã chệch tám nghìn dặm. Đây là hướng tới nước Độc Long, không phải lối đến Ngọa Mi.
Nói rồi hắn ta tìm thuyền đưa Bưu xuống, rồi lội dưới nước đẩy thuyền nhanh vùn vụt như gió lướt loáng mắt đã vượt nghìn dặm. Qua một đêm, thuyền đã tới bờ bắc Ngọa Mi. Bưu thấy trên bờ có một thiếu niên có vẻ quẩn quanh trông ngóng. Biết đây không có loài người ở, Bưu ngờ ngay đó là em mình, lại gần dò hỏi thì quả nhiên là đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc. Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, được biết đều còn mạnh khỏe, bình yên, muốn cùng đi tìm ngay. Người em ngăn lại, tự mình vội vã quay đi, định đi tìm bầy dạ xoa để từ tạ thì chúng đã đi đâu mất cả.
Không bao lâu mẹ và em gái đều đến chỗ Bưu, vừa trông thấy nhau đã khóc ròng. Bưu nói ý định, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo:
- Sợ đến sẽ bị người hại.
Bưu cả quyết:
- Con ở Trung Quốc rất sang trọng, người nào dám coi thường.
Khi ý định về Giao Châu đã quyết thì lại ngại nỗi gió ngược không sao đi được. Mẹ con còn đang lúng túng thì thấy cánh buồm ngả hướng về Nam.
Bưu mừng, reo lên:
- Trời giúp ta rồi!
Mẹ con xuôi thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới đất Giao Châu. Người trên bờ vừa nhìn thấy thì đã bỏ chạy toán loạn. Bưu phân phát quần áo cho mẹ và em.
Về đến nhà, mẹ dạ xoa thấy ông bố chồng ra mặt tức giận mắng mỏ, đã lấy làm ân hận vì đã trót dại về đây. Từ phải tạ lỗi mãi. Gia nhân đến chào chủ mẫu, ai nấy đều run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc. Rồi được mặc áo gấm, ăn cơm thịt, mẹ dạ xoa mới yên lòng, có vẻ vui. Cả mẹ và con gái đều dùng trang phục đàn ông.
Được vài tháng, họ dần dần nói rõ tiếng người, nước da trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái là Dạ Nhi, đều rất khỏe.
Bưu tìm cách dạy em học chữ, Báo rất thông minh, kinh sử chỉ lướt qua một lượt là hiểu và thuộc. Song anh ta không muốn theo đòi nghiệp nho mà thích tập cưỡi ngựa, bắn cung, sau đỗ tiến sĩ võ, lấy con gái viên quan họ A.
Dạ Nhi vì khác giống, mãi không ai lấy, sau có viên tướng của Bưu - người họ Viên - vì chết vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng “bách thạch”, từ xa trăm bước có thể bắn trúng chim nhỏ, không phát nào trật. Mỗi khi đi đánh dẹp đâu, Viên thường đưa vợ cùng đi. Sau ông ta được cất nhắc lên chức đồng tri tướng quân, nửa phần công trạng là do vợ lập.
Còn Báo, năm ba mươi tư tuổi được đeo ấn tướng quân. Mẹ dạ xoa cũng đi theo, mỗi khi vào trận đánh lớn thường mặc áo giáp, cầm gươm tiếp ứng cho con. Quân địch trông thấy là hoảng sợ bỏ chạy. Nhà vua xuống chiếu phong cho tước nam. Báo thay mẹ dâng sớ từ không nhận tước ấy. Sau được phong là phu nhân.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Nàng Ba Hoa Sen (Hà hoa Tam nương tử)


Tống Dương Nhược, người Hồ Châu là bậc sĩ nhân. Một ngày mùa thu, đi thăm ruộng, thấy đám lúa tốt bời bời đang lay động dữ dội. Tống nghi hoặc, vượt bờ qua xem, thì ra đôi trai gái đang dở cuộc ái ân. Tống hắng giọng cười một tiếng định quay lại. Gã con trai thản nhiên thắt quần, vội vã đi qua. Cô gái đứng dậy mặt mũi khá xinh. Tống vừa nhìn đã thấy ưa, chớm nảy ý nọ kia, song lại xấu hổ e thành thô bỉ. Chàng tiến lại vừa phủi quần áo cho, vừa đùa:
- Cuộc tình trong dâu có vui thú chăng?
Cô gái cười, lặng thinh. Tống sán lại sát cô gái, khẽ cởi áo ngoài, thấy da thịt nõn nà, không kìm được, liền vuốt ve trên dưới khắp người. Cô gái cười:
- Cái anh tú tài cổ lỗ này muốn làm gì thì làm, cứ rối rít lên ích gì?
Tống hỏi họ tên, cô gái lấp lửng:
- Một độ chơi xuân thì tỏ tường mọi nhẽ, cần gì tra hỏi. Hay muốn lưu tên tuổi để lập một phường trinh chăng?
Tống nghiêm giọng:
- Giữa nội đồng sương cỏ, đó là nơi bọn chăn heo chốn sơn dã thường làm, tôi không quen thế. Thấy cô đẹp, đến việc ngỏ lời hẹn riêng cũng cần tự trọng, việc gì phải tuế tóa như thế!
Cô gái lặng nghe, có ý thừa nhận là đúng. Tống hẹn:
- Túp nhà hoang vắng của tôi cũng không xa đây, xin mời quá bộ đến thăm.
Cô gái từ tạ:
- Tôi đi đã lâu, sợ người ta ngờ. Có gì đợi tối.
Cô gái còn hỏi kỹ đặc điểm của nhà, đường ngõ rồi mới theo đường tắt bước quay đi.
Chập tối, cô gái đã đến phòng Tống, một cuộc mây mưa cực kỳ hoan lạc. Cứ thế ngày này tháng khác, không một ai hay. Hôm ấy, vị sư trụ trì chùa làng gặp Tống ngoài đường, kinh ngạc hỏi:
- Người anh có tà khí, đã gặp việc gì chăng?
Tống trả lời:
- Không.
Sau đó về ốm liền. Đêm đêm cô gái lại tới đều mang hoa quả ngon cho Tống ăn, ân cần hỏi han chăm sóc y như vợ chồng tận tụy. Đi ngủ, thế nào cô gái cũng ép Tống phải chiều bằng được. Tống mắc bệnh, không kham nổi, đã có ý nghi ngờ cô gái không phải là người, song chưa có cách nào dứt được, nay mới nói nửa kín nửa hở:
- Bữa trước hòa thượng đoán tôi bị yêu ám, nay quả bị bệnh, thật là nghiệm. Ngày mai, nếu người đến tôi sẽ xin bùa yểm.
Cô gái biến sắc.
Tống càng ngờ, sai người đến kể với sư. Sư bảo:
- Đó là hồ ly. Thuật của nó còn thường lắm, dễ bắt.
Sư vẽ cho đạo bùa, dặn:
- Về lấy một cái vò sành dán bùa vào miệng, đem đặt trước giường. Khi hồ ly chui vào. úp ngay một cái chậu lên, dán bùa rồi đổ nước vào, nổi lửa đun một lát là hồ chết.
Gia nhân về sắp sửa như lời sư dặn.
Đêm ấy, khuya cô gái mới đến, lấy quýt vàng từ tay áo ra, vừa định đến giường thăm hỏi Tống, bỗng trong vò có tiếng kêu u ú. Cô gái bị hút tụt ngay vào. Gia nhân đợi sẵn, vội bịt lấy miệng vò, dán bùa, định đốt lửa. Tống thấy quýt vàng tung tóe trên mặt đất, nhớ lại những ngày tình nghĩa sâu đậm, trong lòng không nỡ, sai phóng thích ngay. Bùa vừa được giải, chậu vừa được nhấc, cô gái từ trong vò chui ra, vô cùng lúng túng, cúi đầu nói:
- Thiếp, đại đạo sắp thành, suýt nữa hóa thành đất. May nhờ chàng nhân hậu, thiếp sẽ báo đền.
Nói rồi ngoắt đi.
Vài ngày sau, bệnh tình Tống vô cùng nguy kịch. Gia nhân đi chợ mua gỗ. Một người con gái đón hỏi:
- Có phải người nhà Tống Dương Nhược không?
Người kia nhận:
- Phải.
Cô gái tiếp:
- Tống là anh họ. Nghe nói bị bệnh nặng cũng định đến thăm, chẳng may lại bận việc, không đi được. Có một thang linh dược, phiền anh đưa giùm.
Người gia nhân về, Tống không có chị em họ hàng nào như thế, cho nên biết ngay hồ ly đền ân. Uống thuốc đến đâu, khỏi đến đấy, chỉ mươi ngày bình phục hoàn toàn. Tống vô cùng cảm kích chắp tay ngửa mặt lén không trung, nguyện được tái hợp.
Đêm ấy, Tống đóng cửa ngồi uống rượu một mình, bỗng nghe có tiếng móng tay cào cửa sổ, vội bật cửa chạy ra. Hồ nữ đến! Tống mừng quá chắp tay cảm tạ, bày rượu cùng uống. Cô gái giãi tỏ nỗi lòng:
- Từ độ từ biệt, lòng cứ bồn chồn không biết lấy gì báo đền ơn đức cao dày. Nay vì chàng xin tìm một đám xứng đôi như thế đã tròn trách nhiệm thiếp chưa?
Tống vội hỏi:
- Người nào vậy?
Đáp:
- Chàng chưa biết đâu. Sáng mai vào giờ Thìn, chàng vượt Nam Hồ, thấy cô gái hái dâu, quấn khăn tơ trắng thì chèo thuyền thật gấp đuổi theo. Nếu lạc hướng không kịp, thấy bên đê có bông hoa sen cuống ngắn ẩn dưới tán lá, xin chàng hái lấy; mang về, đốt nến hơ vào cuống hoa, chàng sẽ có trong tay một cô gái đẹp, lại thêm tuổi thọ.
Tống chăm chú ghi nhớ lời dặn, đến khi cô gái cáo biệt, Tống cố chèo kéo.
Cô gái từ chối, phân giải:
- Từ khi gặp tai nguy, bỗng giác ngộ đại đạo, nay đâu còn ham muốn mối tình chăn gối để chuốc lấy thù oán của con người.
Nói rồi nghiêm nét mặt, cáo biệt.
Tống theo đúng lời dặn. Đến Nam Hồ thấy đầm sen mênh mông, gái đẹp vô kể. Trong đám có một cô bím tóc buông rủ, áo lụa trắng như băng, tươi đẹp tuyệt trần. Chàng vội phóng thuyền theo, luống cuống lạc hướng, để mất hút người đẹp. Chàng bắt thuyền vào đám sen, quả nhiên thấy một nhánh hoa sen, cuống sen chưa đầy hai gang, liền hái lấy mang về. Vào nhà Tống đặt hoa lên ghế, cắm nến vào bên, châm lửa hơ. Khoảnh khắc, sen đã hóa thành cô gái đẹp. Tống vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, phục xuống vái. Cô gái nghiêm giọng:
- Anh chàng si tình! Ta là hồ ly đây, sẽ gây tai vạ cho chàng đấy.
Tống tỏ vẻ không cho là thực. Cô gái hỏi vặn:
- Ai bảo chàng làm thế?
Trả lời:
- Tự kẻ tiểu sinh biết nàng phải đợi ai bảo.
Tống nắm lấy cánh tay kéo đi, cô gái tuột theo tay Tống xuống đất, hóa thành hòn đá, cao khoảng hai gang, bốn mặt lấp lánh. Tống đặt đá lên án, đốt hương vái lạy cầu khẩn. Tối xuống chặn cửa gài then cẩn thận, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại không thấy đá đâu chỉ thấy một cái khăn lụa trắng, vẫn còn thoảng hương. Tống ôm lấy, lén giường đắp chăn nằm ngủ; tối trở dậy thắp đèn, quay lại đã thấy cô gái, sợ cô gái hóa thân, nên ra sức cầu van rồi sau mới dần dà lấn tới. Cô gái cười:
- Thật là nghiệp chướng! Chẳng biết kẻ thừa hơi nào lại đi dạy cho lão si tình này những chuyện tầm bậy thế này?
Rồi cùng nhau nhu thuận, không cưỡng lại. Trong lúc giao tiếp, có lúc dường như không kham được, nhiều lần xin ngưng nghỉ. Tống không nghe. Cô gái phải dọa:
- Nếu cứ thế này, thiếp sẽ hóa ngay.
Lúc ấy Tống mới thôi.
Từ đó đôi bên rất hòa hợp, mà gia tự nhà Tống thường vàng lụa đầy rương, không hiểu từ đâu đem về. Cô gái gặp ai cứ “dạ dạ” dường như miệng không thốt được thành lời. Còn Tống cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng. Lường đúng ngày sinh nàng vào buồng dặn Tống đóng chặt cửa không cho ai vào rồi nàng lấy dao tự rạch bụng mình, lấy con ra, bảo Tống lấy lụa quấn lại. Qua đêm, mẹ tròn con vuông.
Sáu, bảy năm sau, nàng bảo Tống:
- Thiếp đã báo đền ơn cũ vẹn toàn, nay xin cáo biệt.
Tống nghe vậy, sửng sốt khóc:
- Lúc nàng mới về, ta nghèo khổ không thể tự lập. Nhờ nàng mới có ngày nay, sao vội nói tới chia ly quá sớm? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ, cũng là điều đáng ân hận.
Nàng rầu rĩ phân giải:
- Có tụ ắt có tán, đó là lẽ thường. Con có phúc tướng, chàng tuổi thọ cũng dài, còn mong gì hơn nữa? Thiếp vốn họ Hà. Nếu chàng còn chút ân tình quyến luyến, cứ ôm kỷ vật cũ của thiếp mà gọi Nàng Ba Hoa Sen(1) thì tự nhiên lại thấy mặt.

(1) Nguyên văn: Hà Hoa Tam nương tử.

Rồi với dáng điệu thanh nhàn, nàng nói lời cáo biệt:
- Thiếp đi đây!
Kinh hãi quay lại nhìn thì nàng đã bay quá tầm người đứng. Tống vội nhảy lên níu giữ, nhưng chỉ được cái giày tụt lại. Giày rơi xuống đất hóa thành con yến bằng đá, sắc đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh. Chàng nhặt lấy, cất đi. Kiểm lại trong hòm thấy tấm khăn lụa trắng hồi mới về vẫn còn đây. Mỗi khi tưởng nhớ, chàng ôm ấp tấm khăn gọi “Nàng Ba Hoa Sen” thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện về y như lúc còn ở trần thế vậy. Chỉ có điều không nói một lời nào.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 51 guests