Liêu Trai Chí Dị

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Người học trò ở Phượng Dương (Phượng Dương Sĩ Nhân)


Một người học trò ở Phượng Dương(1), đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về. Thế rồi hơn mười tháng qua mà vẫn tuyệt vô âm tín, chị vợ ở nhà mỏi mắt chờ trông.

(1) Thời Minh Thanh là phủ Phượng Dương, thuộc tỉnh An Huy.

Một đêm, chị ta vừa lên giường nghỉ, bóng trăng lung linh ve vuốt tấm rèm the cửa sổ, càng làm thổn thức thêm nỗi nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì một cô gái đẹp, bím tóc cài trâm ngọc, vai quàng khăn hồng, vén rèm bước vào, nhoẻn cười bảo chị ta:
- Thế nào, chị tôi có muốn gặp anh tôi không?
Chị ta hớn hở vội vùng dậy. Người đẹp rủ cùng đi, chị ta còn e ngại đường xá xa xôi, hiểm trở. Người đẹp khuyên nhủ đừng lo rồi dắt tay nhau gội ánh trăng suông lên đường.
Mới đi bộ tầm tên bắn, chị ta thấy người đẹp đi nhanh quá mà đôi giày của mình siết vào chân khó đi, liền gọi bảo hãy đợi một chút, mình trở về thay đôi giày đế cao khác. Người đẹp kéo ngồi xuống bên đường rồi cởi giày của mình cho mượn. Chị vợ mừng quá, xỏ vào may mà vừa khít, liền đứng dậy đi theo, chân bước thấy cứ thoăn thoắt như gió lướt.
Chẳng bao lâu, họ gặp anh học trò nọ đang cưỡi con la trên đường trở về. Anh ta trông thấy vợ ngạc nhiên, vội nhảy xuống hỏi:
- Mình đi đâu đó?
Chị vợ đáp:
- Tôi đi thăm mình chứ còn đi đâu?
Anh ta quay về phía người đẹp, rồi hỏi vợ đó là ai? Chị vợ chưa kịp trả lời. Người đẹp đã bưng miệng cười:
- Thôi, anh chẳng phải hỏi nữa. Chị đây thì đi đốc thôi đốc hồi chẳng nghỉ. Còn anh thì rong ruổi suốt đêm, người ngựa đều mệt mỏi. Chi bằng nhà em cũng không xa đây, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai hãy đi cũng không muộn.
Hai vợ chồng nhìn quanh, cách đó ít bước quả có một xóm, liền nhận lời cùng vào. Vào đến một ngôi nhà, người đẹp gọi con hầu đang ngủ trở dậy sửa soạn cơm nước cho khách và bảo:
- Đêm nay trăng sáng vằng vặc thế này, chẳng cần phải đốt đèn nữa. Ngồi ngay trên sập đá ở căn nhà nhỏ này cũng được.
Anh học trò buộc con la vào gốc cây ngô đồng bên mé nhà rồi ngồi ngay xuống.
Người đẹp nói với chị vợ:
- Đi giày to không vừa chân, trên đường về chắc sẽ phiền anh ấy đấy! Nhưng dù sao đã có con vật đỡ chân, xin chị cho em xin lại.
Chị vợ cảm ơn, rút giày trao trả.
Lát sau, rượu quả bày ra, người đẹp nâng chén mời:
- Loan phượng xa lâu, đêm nay chắp cánh, xin có chén rượu nhạt kính mừng!
Anh học trò cũng nâng chén mời lại, bên trên, chủ khách nói cười, bên dưới dép giày lẫn lộn. Anh học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, luôn buông những lời chọc ghẹo cợt nhả, còn chẳng thèm nói một lời với chị vợ bao lâu mới gặp lại. Người đẹp cũng sáng mắt đưa tình, thả lời bả lả. Còn chị vợ cứ ngồi câm lặng giả như kẻ ngu đần.
Lâu sau, hơi men đều ngấm, điều đối tiếng đáp ý tình hai người lại càng xoắn xuýt. Người đẹp rót rượu vào chén lớn mời khách, khách từ đã say, ả càng cố sức nài ép. Anh học trò cười mà rằng:
- Em hát cho nghe một khúc, tôi sẽ xin uống.
Người đẹp chiều ý ngay, liền dùng que ngà voi gảy đàn cầm mà hát rằng:

Bóng hoàng hôn ngả màu son phấn nhạt
Gió lạnh ngoài song ngăn ngắt thấu màn the
Thánh thót tàu tiêu mưa từng trận não nề
Mà nơi ấy, cùng ai mải mê chi lắm
Trông mòn mắt chẳng về, một thân quạnh bóng
Lệ cạn đôi hàng những ngóng cùng mong
Nhớ vô chừng mà càng giận vô chừng
Thử lấy giày thêu tung gieo quẻ bói(1)

Ca xong còn cười mà bảo:

(1) Nguyên văn:
Hoàng hôn xã đắc tàn trang bãi
Song ngoại tây phong lãnh thấu sa
Thinh tiêu thanh, nhất trận tế vũ hạ
Hà xứ dữ nhân nhàn hạp nha
Vọng xuyên thu thủy, bắt kiến hoàn gia
Tiềm tiềm lệ tự ma
Hựu thị tưởng tha, hựu thị hận tha
Thứ nã chước hồng tú hài nhi chiêm quỷ quái.
Ngày xưa phụ nữ có chồng đi xa, muốn biết sắp về hay chưa thường bói bằng cách lấy giày đang đi tung lên cho rơi xuống đất. Hể giày úp sấp là chồng sắp về.


- Đó là khúc hát ở chỗ đầu đường xó chợ, chẳng bõ làm bẩn tai anh. Song do thói đời hiện nay đang ưa chuộng, em mới học đòi bắt chước mà thôi.
Giọng hát của ả ta đậm đà, điệu bộ lả lơi làm cho anh học trò mê mẩn cả tâm thần dường như không còn tự chủ được nữa. Lát sau ả ra vẻ say đi ra, anh học trò cũng đứng dậy theo.
Lâu lắm không thấy họ trở về, đứa con hầu mỏi mệt nằm lăn ra ngủ ngoài hành lang. Còn chị vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không thể nào chịu được. Chị ta đã định bỏ ra về, song đêm tối mịt mờ, không nhớ đường đi lối lại nên lại thôi. Lòng dạ cứ trăn trở khôn nguôi, chị ta đứng dậy thử lần dò xem anh chồng với cô ả ở đâu. Vừa đến gần cửa sổ một căn buồng, đã nghe phảng phất tiếng cuộc mây mưa rả rích trên giường. Lại gần nghe rõ hơn thì mới biết mọi trò anh chồng vẫn thường giãi bày với mình trong chốn buồng the nay đến giở ra hết với ả nọ. Lúc đó tim chị ta đập mạnh, tay run bắn lên, vừa giận vừa tức, nghĩ chi bằng ra ngoài kia đâm đầu xuống rãnh ngòi mà chết đi cho khuất mắt.
Đang định đi thì cậu em thứ ba cưỡi ngựa đi tới. Cậu ta trông thấy vội nhảy xuống ngựa. Nghe chị kể lể mọi nỗi nguồn cơn, cậu Ba giận quá bảo chị cùng quay vào. Nhà đã đóng cửa cài then chặt chẽ, song vẫn còn có thể nghe thấy tiếng nói cười rúc rích trên gối. Cậu Ba vác luôn một hòn đá to tướng như cái đấu ném mạnh vào cửa sổ, làm cho mấy cái chấn song gãy gập. Bỗng bên trong vọng ra tiếng kêu thất thanh:
- Thôi anh ấy vỡ sọ rồi. Làm thế nào đây?
Chị vợ nghe thấy thế, kinh hoảng khóc lớn, mếu máo bảo em:
- Tôi có bảo cậu giết anh ấy đâu. Làm thế nào bây giờ?
Người em trợn mắt lên nói:
- Chị đã chẳng hu hu giục tôi vào, nay vừa mới tiêu xong cái hận trong bụng, đã lại vì chồng mà oán trách anh em. Tôi là tôi không có quen làm ngón tay trỏ cho hạng con đòi đâu.
Nói rồi ngoắt mình bỏ đi. Chị níu áo, bảo:
- Cậu chẳng đưa chị về còn đi đâu?
Người em dứt áo ra làm chị ngã lăn xuống đất, rồi bỏ đi mất. Chị giật mình tỉnh dậy thì hóa ra vừa rồi là giấc mộng.
Ngày hôm sau, quả nhiên anh học trò cưỡi con la trắng trở về. Chị vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì về chuyện mộng mỵ. Người chồng kể trước, đêm qua cũng nằm mộng, mọi chi tiết đều y như vợ đã nghe đã thấy. Cả hai đều cho là quái lạ.
Rồi cậu Ba nghe tin anh rể đi xa về cũng đến chơi thăm hỏi. Cậu ta bảo anh rể:
- Đêm qua em nằm mơ thấy anh về nay quả nhiên như thế. Thật lạ quá!
Anh học trò cười bảo:
- Cũng may mà tôi không bị đá choảng chết.
Cậu Ba ngạc nhiên hỏi tại sao anh biết? Anh nói là nằm mộng thấy. Cậu Ba càng kinh ngạc, hóa ra cậu ta cũng nằm mơ gặp chị khóc lóc tố giác chuyện bờm xơm của anh rể, tức giận quá cậu có ném đá thật.
Ba giấc mộng hợp nhau, song không biết người đẹp là thế nào?

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Nam Nam Thành thần (Vương Lục Lang)


Họ Hứa làm nghề đánh cá, nhà ở bắc thành Tuy Châu. Đêm đêm anh ta đem bầu rượu ra bờ sông kéo cá, mỗi lần uống rượu lại rưới một chén xuống đất lầm rầm khấn:
- Mời nam nam(1) uống rượu cùng ta!

(1) Nam nam: ma chết đuối.

Như thế trở thành thường lệ và hôm nào Hứa cũng đầy giỏ cá. Còn những người khác thì không được mấy.
Một đêm vừa giở rượu ra, có một chàng trai lảng vảng đi tới bên. Hứa sốt sắng gọi vào cùng uống. Tuần rượu có bạn, cảm khái say sưa kéo dài suốt đêm, nên không được con cá nào. Hứa có ý buồn phiền. Chàng trai đứng dậy nói:
- Để tôi xuống mạn dưới sông xua cho cá lên.
Nói rồi lãng đãng bước đi, lát sau trở lại bảo Hứa:
- Cá đã đến đấy!
Quả nghe có tiếng cá quẫy roàn roạt dưới sông. Hứa vội kéo vó lên, được liền mấy con dài hơn một thước(2).

(2) Thước ta dài 0,4 m.

Hứa mừng quá, cảm tạ và muốn đưa cá tặng chàng trai. Nhưng chàng ta không nhận:
- Đã từng mang ơn cho rượu ngon, kẻ hèn này chưa có gì báo đền, đâu dám nhận tạ. Nếu ông không ghét bỏ, xin cứ cho như thế này luôn luôn.
Hứa nói:
- Mới vừa mời nhau được một chén rượu, sao nói là “đã từng”? Còn nếu anh có lòng muốn gặp gỡ lâu dài thì đó cũng là điều tôi mong muốn. Song tôi cũng lấy làm thẹn vì không có gì đáng kể để bày tỏ mối giao tình.
Hỏi đến tên họ, chàng ta nói:
- Tôi họ Vương, không có tên. Muốn gặp nhau, xin cứ gọi là “Vương Lục lang”.
Từ biệt nhau, sáng ra Hứa đem bán cá, mua nhiều rượu hơn mọi khi. Tối đến, Hứa ra bờ sông đã thấy chàng trai lởn vởn ở đó. Hai người lại khề khà, chén chú chén anh. Được một chén, chàng ta đứng dậy đi xua cá cho Hứa.
Cứ như thế nửa năm, một hôm Vương rầu rầu bảo Hứa:
- Được quen biết nhau, mối thanh giao thân thiết như ruột thịt, ngày càng gắn bó. Nay sắp đến ngày phải từ biệt, nói ra mà đau lòng!
Hứa sửng sốt hỏi vì sao? Vương ngập ngừng định nói lại thôi, mãi sau mới bày tỏ được.
- Thân tình thế này có điều gì đáng ngại? Nay đến lúc từ biệt, tôi xin nói rõ: tôi thực là ma nam nam. Thuở sinh thời tôi rất thích rượu, chết đuối vì say, hồn ma lẩn quất ở đây đã mấy năm rồi. Anh kéo cá được hơn mọi người chính là do tôi đuổi cá đến để đền ơn hàng đêm đổ rượu xuống đất cho. Ngày nay sắp có người làm ma ở đây, tôi được thác sinh làm người. Chúng ta chỉ còn lần gặp nhau đêm nay, cho nên không khỏi động lòng.
Hứa nghe nói là ma, trong bụng đã có ý kinh, song vì gần cận đã lâu cho nên không thấy sợ, chỉ còn thương cảm, sụt sịt khóc, rót rượu mời:
- Lục lang! Anh hãy cạn chén rượu này cũng đừng cảm động quá làm gì. Hợp mặt với nhau chưa được mấy mà đã chia ly đôi ngả, ai chẳng buồn. Song anh đã mãn nghiệp chướng, chính là điều đáng mừng. Buồn vậy không nên!
Rồi cùng nhau nâng chén. Hứa hỏi kỹ:
- Người thay anh sắp tới đây là ai?
- Anh cứ ra bờ sông, trưa mai sẽ thấy một người đàn bà qua sông rồi chết đuối. Người ấy thế chân tôi đấy!
Gà trong làng đã gáy. Hai người nhỏ lệ chia tay.
Hôm sau Hứa ra bờ sông xem lời nói của Vương có ứng nghiệm không? Quả nhiên có một người đàn bà ẵm đứa bé sảy chân ngã xuống sông. Đứa bé văng lên bờ, quẫy chân, quờ tay, xệch mồm kêu khóc. Người đàn bà vật vờ chìm nổi mấy lần bỗng vùng vẫy mạnh tạt được vào bờ, trèo lên nằm vật ra đất. Chị ta thở mạnh một lúc, trở dậy bế đứa trẻ đi.
Lúc người đàn bà ngã xuống sông Hứa động lòng đã muốn nhảy xuống cứu. Chợt nhớ tới Lục lang, người này thế chân cho anh ta mãn kiếp, cho nên lại thôi. Khi người đàn bà tự lên được, Hứa cho là lời Vương không nghiệm. Đến tối, Hứa ra chỗ kéo vó thấy người bạn trẻ lò mò tới nói:
- Từ nay lại cùng nhau họp mặt tiếp không phải ly biệt nữa.
Hứa hỏi:
- Vì sao?
Đáp:
- Người đàn bà ấy sắp sửa thay tôi nhưng tôi cám cảnh cho chị ta còn đứa bé. Một người thay mà hại cả hai mạng thật không nỡ. Từ nay không biết đến bao giờ mới có người thế. Âu duyên hội ngộ hai ta chưa đến ngày đứt chăng?
Hứa cảm động, than thở:
- Thật là một tấm lòng nhân hậu, có thể cảm thông đến Thượng đế.
Hai người lại càng thân thiết chuốc chén. Chỉ vài ngày sau, Lục lang đến lại từ biệt. Hứa hỏi, đã có người thay chăng?
Đáp:
- Không phải. Việc nhỏ mọn hôm trước cảm động đến Trời, nên nay có mệnh vời tôi đi xa làm thổ thần ở Ổ Trấn, thuộc huyện Chiêu Viễn. Mai, tôi phải về châu nhậm chức. Vì anh không quên tình bạn cũ, xin mời anh đến thăm một chuyến, chớ hiềm đường xa cách trở.
Hứa lấy làm mừng cho bạn, song lại phân vân:
- Anh chính trực mà làm thần, thế đủ yên lòng thần dân. Còn việc tôi đi thăm thì thần với người cách xa trời vực, dù tôi không kiêng sợ song làm thế nào đến mà gặp mặt nhau cho được?
- Nếu có lòng, đừng ngại điều đó!
Vương dặn dò kỹ càng năm bảy lượt rồi mới chia tay. Hứa về nhà sắm sửa hành trang. Vợ cười bảo:
- Chiêu Viễn cách đây vài trăm dặm. Nhưng chỉ e đến nơi, tượng đất không nói ra tiếng để mà nhận thì phiền.
Hứa bỏ ngoài tai, cứ đi, thẳng đến huyện Chiêu Viễn. Hỏi thăm, quả có ấp Ổ Trấn. Tìm đến nơi, mang hành lý gửi nhà trọ, hỏi thăm miếu Thổ địa ở đâu, chủ nhà kinh ngạc hỏi ngay:
- Chắc hẳn ông khách họ Hứa?
- Đúng, nhưng sao chủ biết?
- Chắc hẳn khách muốn đến chơi thăm ấp chúng tôi?
Hứa lại hỏi sao biết? Chủ nhà không trả lời, vội vã ra ngoài. Lát sau, một người đàn ông bế con tới, đàn bà con trẻ lấp ló đứng ngoài nhòm vào. Rồi cơ man nào là người tấp nập kéo đến đứng đông đặc ngoài cửa. Hứa lo sợ, không hiểu ra sao. Họ cung kính thưa rằng:
- Trước đây mấy đêm. Thần bản địa đã báo mộng có người bạn họ Hứa ở Tuy Châu sắp đến thăm, phải sửa soạn đón tiếp giúp đỡ mọi thứ vật dụng hàng ngày. Vì vậy chúng tôi đã chờ từ bấy.
Hứa lấy làm lạ, liền tới miếu làm lễ khấn rằng:
- Từ sau khi chia tay tôi thức ngủ không yên cho nên không dám ngại đường xá, cho tròn hẹn trước. Thần còn báo mộng cho dân, nghĩa tình ấy tạc ghi trong dạ, riêng thẹn lễ vật không có chi đáng kể, chỉ xin có chén rượu này. Ví còn không ghét bỏ, xin lại cùng uống như những đêm cạn chén ở bờ sông.
Hứa khấn xong, đốt vàng, đổ rượu. Liền đó, một trận gió nổi lên cuốn lễ vật đi mất. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy Lục lang tới, mũ áo óng ánh khác hẳn ngày trước, vái tạ Hứa rằng:
- Đường xa dặm thẳm, vất vả thăm nhau, thực là khó phân mừng tủi. Tôi nay ở vào chức mọn không tiện giáp mặt, thành ra chỉ trong gang tấc mà như cách trở núi sông thật là buồn dạ. Song đã có dân ấp khoản tặng lễ vật thay tôi đón tiếp. Khi nào trở lại nhà, tôi sẽ xin theo tiễn.
Được vài ngày Hứa muốn về. Dân làng khẩn khoản lưu lại, ân cần ngày đêm thay phiên nhau túc trực khoản đãi. Hứa cố từ tạ trở về. Họ truyền tin cho nhau tranh nhau đến gặp. Chưa tới nửa buổi, vật biếu mang tặng đã đầy túi. Từ người đầu bạc cho đến đứa trẻ để chỏm tụ tập đông nghịt tiễn đưa.
Hứa vừa ra khỏi thôn, một trận gió lốc nổi lên, cuốn theo đến mười dặm. Hứa đứng lại vài dặm mà khấn:
- Lục lang trân trọng quá, đừng phải mất công tiễn nhau xa thế. Lòng thần nhân ái có thể dành phúc cho cả một vùng không cần đến lời dặn dò của cố nhân nữa.
Trận gió còn quanh quất một hồi lâu rồi mới tan đi. Dân làng thấy cũng bàng hoàng quay về. Từ đó gia tư nhà Hứa dần dần dư dật ít nhiều, không phải làm nghề kéo cá sinh sống như trước nữa.
Về sau, khi gặp người huyện Chiêu Viễn, Hứa hỏi thăm. Họ nói vị thần ấy linh thiêng lắm.
Lại có người nói đó chính là Thổ thần ở tràng Thạch Thanh ấp Chương Khâu.
Chuyện thực ở đâu chưa rõ.
Lời bàn của tác giả


Thanh vân nhẹ bước mà không quên bạn nghèo hèn, như thế mới là thần vậy. Ngày nay những kẻ cưỡi xe há có nhớ đến người bạn nón lá xưa cũ.
Quê tôi có người tên là Lâm Hạ, nhà nghèo lắm. Có người bạn từ nhỏ nay nhà giàu chức lớn, anh ta muốn đến thăm, cố sức lắm mới chê biện được hành trang, bôn ba hơn nghìn dặm. Đến nơi, thất vọng về bạn thù tiếp, anh ta phải dốc túi, bán ngựa mới trở về được nhà. Anh em, họ hàng làm bài hát đùa rằng:

Tuần trăng đến, bác vừa về!
Mũ lông đã mất dù che không còn
Hỏi đâu cái nghẽo(1) gày mòn?
Đôi giày há mõm có còn ở chân?


(1) Tiếng lóng chỉ ngựa.


Nguyễn Văn Huyền dịch



Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Trộm đào (Du đào)


Thời còn trẻ, đang dịp tết lập xuân ta lên quận thi. Theo lễ cũ, trước lập xuân một ngày, mỗi nhà treo đèn kết hoa chiêng trống vang lừng, người ta đi mua đi bán và đến trước đình quan Tuần dự hội “xuân diễn”. Ta cũng theo bè bạn đi xem.
Đúng ngày lập xuân, người ta nô nức kéo nhau đi chơi đông như kiến cỏ. Trên công đường, bốn vị quan lớn đều mặc áo đỏ, ngồi đối diện nhau theo hướng đông tây. Lúc ấy, ta còn nhỏ không biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng nói cười ồn ã, chiêng trống rát tai.
Bỗng có người đàn ông dắt một đứa trẻ còn xõa tóc, vai vác hòm nặng, tiến thẳng lên công đường, tựa như có việc gì muốn bẩm báo. Thế là muôn ngàn tiếng hò reo sôi động, không còn nghe rõ là gì, chỉ thấy trên công đường có tiếng cười. Lập tức một người áo xanh lớn tiếng ra lệnh diễn trò. Người vừa bước lên hỏi cho diễn trò gì. Trên công đường, các quan nhìn nhau trao đổi. Viên nha lại hỏi giỏi về trò gì. Người ấy thưa: trò “đảo lộn vật sống”. Viên nha lại bẩm quan, lát sau hạ lệnh diễn trò “hái đào”.
Người biểu diễn diễn tiếng dạ ran, cởi luôn áo trùm lấy cái hòm, cất tiếng làm bộ oán thán:
- Bậc trưởng quan sao chẳng thấu tình! Trời rét băng chưa tan, đào đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, vậy làm sao đây?
Đứa bé nói:
- Cha đã xin nhận, từ chối sao được?
Người cha rầu rầu suy nghĩ hồi lâu:
- Ta tính đã kỹ: đầu xuân băng tuyết, tìm đâu được đào trên cõi đường này. Chỉ có trên vườn Tây Vương Mẫu(1) bốn mùa hoa lá xanh tươi. Phải lấy trộm trên trời mới được.

(1) Truyền thuyết: Tây Vương Mẫu là tiên trên trời, trong vườn có đào tiên, ba nghìn năm một lần kết quả.

- Úi chà! Trời chứ có phải cái thang đâu mà lần bậc lên được.
- Đã có phép chứ!
Nói rồi người cha mở hòm lấy ra một cuộn dây ước vào trăm thước, thắt nút thòng lọng một đầu rồi tung lên không trung. Sợi dây dựng đứng lên y như được treo móc vào một vật gì trên đó. Không lâu, càng ném càng cao, dây cứ lẩn dần vào mây cho đến khi hết.
Lúc ấy người đàn ông mới gọi con:
- Lại đây! Cha già thân nặng, lóng ngóng khó lên. Con đi giúp cha! Cứ bám lấy dây mà leo!
Con cầm lấy đầu dây, tỏ vẻ khó khăn, ngao ngán:
- Cha thật là bất nhẫn. Một sợi dây mỏng manh thế này, bảo tôi bám vào để leo lên trời cao muôn trượng. Ngộ nhỡ chừng dây đứt thì còn gì xương thịt nhà tôi.
Người cha lại giục:
- Cha đã lỡ mồm nhận với quan trên, hối không kịp nữa. Nhờ con đi một chuyến, đừng có phàn nàn, nếu lấy được đào ắt có thưởng trăm đồng tiền vàng, thế nào cũng cưới cho mấy con vợ đẹp.
Thằng con có vẻ bùi tai, cầm đầu dây, bám lấy leo lên, tay co đến đâu, chân quấn đến đấy y như con nhện leo tơ. Cứ thế khuất dần trong đám mây trời không trông thấy đâu nữa.
Lâu sau có quả đào rơi xuống to như cái bát. Người cha hớn hở nhặt lấy dâng lên công đường. Trên ấy các quan chuyền tay nhau xem xét hồi lâu, cũng không biết là thật hay giả.
Chợt, sợi dây từ trên trời bỗng rơi tuột xuống đất. Người cha kinh hoàng:
- Chết rồi! Trên ấy có người cắt dây. Con tôi biết tựa vào đâu?
Lát sau, có một vật gì rơi bịch xuống đất. Nhìn xem thì là đầu thằng bé. Người cha bưng lấy đầu con kêu khóc:
- Đây ắt là nó trộm đào, bị người coi phát hiện. Con tôi thế là toi đời.
Lát sau một cẳng chân rơi xuống. Không bao lâu chân tay, mình mẩy đều lần lượt rơi xuống đủ cả. Người cha buồn rũ rượi, thu thập tất cả bỏ vào hòm đậy lại, ca thán:
- Lão nay chỉ có một thằng bé hàng ngày cùng lên bắc xuống nam. Nay phải vâng nghiêm lệnh quan trên chẳng dè chuốc lấy vạ thảm thương kỳ lạ này. Tôi phải đi chôn nó thôi.
Rồi bước lên công đường, quỳ xuống kêu:
- Vì chuyện đào mà giết mất con tôi. Các quan thương đến kẻ hèn mọn mà cấp cho chút tiền chôn cất thì tôi xin kết cỏ ngậm vành báo đền ơn ấy.
Quan khách ngồi xem rùng mình khen ngợi, đều bỏ tiền ra cho. Người cha thu lấy giắt vào thắt lưng rồi ra gõ vào cái hòm, gọi:
- Cu Bút Bút ơi! Không ra tạ thưởng còn đợi gì nữa.
Bỗng một cái đầu bù đội nắp hòm lên, cả người nhoài ra, hướng về phía bắc, cúi đầu bái tạ. Thì ra là thằng bé vừa leo dây.
Thật là một thuật lạ, mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ. Sau nghe nói phái Bạch Liên(1) còn có người làm được thuật ấy, ý giả là dòng dõi đấy chăng?


Image



(1) Tức Bạch Liên giáo. Đó là một tổ chức bí mật của quần chúng ở Trung Quốc, xuất hiện vào thế kỷ 13, 14. Thông qua các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Hội đó đã tổ chức đoàn kết mọi người để tiến hành đấu tranh chống ách thống trị ngoại tộc Nguyên-Mông. Đến thời Thanh - thời tác giả - nó phát triển thành một tổ chức dân gian với mục đích chống ngoại tộc Mãn Thanh thống trị. Cuộc khỏi nghĩa đã diễn ra hơn 10 năm ở nhiều tỉnh. Sau bị triều Thanh trấn áp rất khốc liệt.
Từ đó có thể thấy ý nghĩa sâu xa của câu chuyện này.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Ba ngày làm diêm vương (Lý Bá Ngôn)


Lý Bá Ngôn, quê huyện Hàn Thủy tỉnh Sơn Đông, là người nghĩa khí, cương trực. Một hôm bỗng nhiên mắc bệnh nguy cấp, người nhà đem thuốc đến ông ta không chịu dùng, bảo:
- Bệnh ta không thể uống thuốc mà khỏi được, dưới âm phủ hiện nay khuyết Diêm Vương cho nên ta được tạm cử thay thế. Ta chết rồi, nhất thiết không được mai táng, cứ để đấy, đợi sau sẽ hay.
Thế rồi ông ta chết luôn ngay hôm đó. Còn đang trong cơn mơ mơ hoảng hoảng thì một đoàn hộ tống đã đến đón ông đi, vào một tòa cung điện, đem mũ áo ra mời mặc. Hai bên nha dịch đứng hầu, mười phần cung kính, nghiêm túc. Trên bàn đã xếp đống nhiều án tờ, trong đó có vụ án tên mỗ ở Giang Nam. Tra ra thuở sinh thời hắn đã tư thông với 82 con gái nhà lương thiện. Xét hỏi, đều có chứng cứ không chút oan uổng. Lý bèn cứ theo đúng pháp luật dưới âm ti, xử tội “nướng”.
Dưới thềm có một cột dây đồng rỗng ruột cao khoảng 8-9 thước, chu vi đầy một ôm, trong ngoài cùng đốt than củi, cột đỏ rực. Một bầy quỷ sứ vác gậy đánh phạm nhân, xua phải leo cột đồng. Lý hai tay ôm cột níu lên, hai chân quặp lấy cột đẩy tới, cứ từng nấc từng nấc choài lên. Vừa đến đỉnh cột bỗng một làn khói phun vọt, một tiếng nổ uỳnh như pháo đại. Phạm nhân ngã lộn xuống, sõng soài trên mặt đất, một hồi lâu mới tỉnh dậy. Quỷ sứ lại vác gậy đánh, bắt phải leo nữa. Một tiếng nổ ùng. Y lại bắn xuống đất giống như lần trước. Ba lần như thế, phạm nhân chỉ còn như một đụn khói lan tỏa trên mặt đất rồi tan đi, không khôi phục lại được hình người.
Một vụ khác: Vương mỗ người cùng huyện Hàn Thủy, bị cha người vợ bé anh ta, tố cáo tội cưỡng đoạt con gái của ông. Nguyên trước đây có người bán một cô gái, Vương biết do lai lịch bất chính song vì ham giá rẻ liền chuốc lấy. Đến giờ Vương chết đột nhiên. Một ngày sau, bạn anh là Chu mỗ gặp ở đường biết anh ta đã là ma, vội chạy về thư phòng nằm, Vương theo hút vào. Chu sợ lắm, hai mắt cứ chằm chằm nhìn anh, hỏi cần gì? Đáp:
- Phiền anh xuống âm ti làm chứng cho.
Chu cả kinh hỏi vì việc gì. Đáp:
- Cái cô vợ bé ở nhà tôi, thực tôi bỏ tiền mua, nay bị họ vu cáo. Việc này chính anh đã thấy tận mắt, nay chỉ xin nhờ anh làm chứng, nói một câu sự thực. Ngoài ra không có việc gì khác nữa.
Chu kiên quyết không đi. Vương đành quay ra, miệng vẫn lẩm bẩm:
- Chỉ sợ anh không thể tự theo ý anh thôi.
Quả nhiên lát sau Chu chết, hồn được dẫn đến trước Diêm Vương đối chất, Lý vốn là thân thích của Vương nay trông thấy anh ta, tâm tư hơi ngầm có ý thiên vị. Bỗng trên nóc điện bùng cháy, Lý vội vọt dậy. Một viên thư lại bảo riêng Lý:
- Âm ti và dương thế khác nhau. Ở dưới này không dùng một chút lòng riêng. Xin ngài hãy mau bỏ đi những tư tình không thẳng thắn, lửa kia sẽ tắt.
Lý nghe theo, quả nhiên ngọn lửa lập tức tắt ngấm.
Đến khi thẩm án, Vương và người bố cô gái tranh biện qua lại. Hỏi đến Chu, Chu cứ thực tình trình bày. Luận án: Vương vì đã biết trước có sự không minh bạch mà vẫn cố phạm, phải phạt đòn. Xử xong, Lý phái quỷ sứ dẫn Chu và Vương trở về dương thế. Hai người đã chết mấy ngày nay đều sống lại.
Lý Bá Ngôn làm việc công ở dưới âm phủ xong hạn, ngồi xe ngựa trở về nhà. Giữa đường thấy một đoàn mấy trăm người, kẻ cụt đầu, kẻ mất cẳng, bò lê bò càng trên mặt đất mà kêu gào thê thảm. Ông ta dừng xe, hỏi thăm cặn kẽ mới biết đó là những hồn ma chết ở nơi đất khách, nay muốn trở về quê nhà lại sợ các cửa quan ngăn trở không cho đi, mới kêu khóc khẩn cầu ông ta cấp cho giấy thông hành. Lý khuyên giải:
- Ta chỉ thay mặt Diêm Vương có ba ngày, nay đã hết nhiệm kỳ còn có quyền gì để giúp các ngươi việc ấy được?
Các hồn ma lại thưa:
- Ở thôn Nam có ông họ Hồ đang muốn làm chay cứu độ chúng sinh. Nhờ ngài thay chúng tôi nói giúp với ông ta để có thể sớm làm được.
Lý nhận lời. Về đến nhà, ông cho những người tùy tùng quay về hết, còn ông sống trở lại.
Hồ sinh ở thôn Nam, hiệu Thủy Tâm, là bạn thân của Lý. Ông ta nghe tin Lý hồi sinh liền đến thăm viếng. Lý hỏi ông ta chuẩn bị bao giờ lập bàn làm chay, Hồ kinh ngạc:
- Vừa trải qua một cơn binh hỏa lớn, gia quyến tôi may được chu toàn, vì thế mà tôi và bà vợ từ lâu đã có ý nguyện mở một đàn tràng. Song chúng tôi chưa hở cùng ai, sao ông anh biết?
Lý thuật lại lời khẩn cầu của các hồn ma. Hổ than thở:
- Chỉ bàn một câu chuyện trong buồng mà dưới âm đã lan truyền khắp. Thật đáng sợ!
Do vậy ông ta thuận lập ngay đàn tràng.
Hôm sau, Lý đến nhà Vương, Vương còn đang mệt mỏi nằm trên giường, thấy Lý đến vội cung kính cảm tạ ông ta đã hạ cố. Lý bảo:
- Pháp luật không thể khoan thứ bất kỳ ai có tội. Bây giờ anh còn đau không?
- Không còn đau đớn gì khác, chỉ đợi những vết đòn liền miệng là khỏi.
Hơn hai mươi ngày sau Vương bình phục. Trên bắp vế đùi còn hằn những vết sẹo như những lằn roi.

Nguyễn Văn Huyên dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Xấu người đẹp nết (Kiều nữ)


Ông Kiều ở Bình Nguyên có cô con gái vừa đen, vừa xấu, khuyết mũi, thọt chân. Cho nên tuy cô ta đã hai lăm, hai sáu cái xuân xanh mà chưa ai hỏi đến. Trong huyện có chàng họ Mục hơn bốn mươi tuổi đầu, vợ chết mà nghèo quá không có tiền cưới vợ kế, mới chịu phép lấy chị ta. Ba năm sau chị ta sinh con trai. Sau đó ít lâu Mục chết. Gia cảnh càng túng quẫn, phải ngửa tay xin mẹ đẻ cưu mang, song mẹ cũng không cáng đáng được. Chị ta đành ở lại nhà chồng, trông vào nghề canh cửi, lần hồi sinh sống.
Mạnh sinh cũng góa vợ, đứa con trai Ô Đầu mới tròn tuổi tôi. Thiếu người bú mớm cho con, chàng ta phải gấp nhờ người mối lái cho mấy đám nhưng chưa vừa ý. Bắt gặp Kiều thị chàng ta ưng lắm, nhờ người đánh tiếng. Kiều thị từ chối:
- Tôi đói rét thế này, nương bóng quan nhân sẽ được ăn no, sao lại chẳng muốn. Song tôi tàn tật xấu xí chẳng được bằng người. Điều còn đáng tin ở tôi là chữ đức, thế mà lại để mắc tiếng thờ hai chồng, vậy còn đi bước nữa làm gì?
Mạnh phục là hiền đức, càng đem lòng mến mộ, nhờ mối đem tiền bạc, vải lụa đến nói lót với bà mẹ. Bà mẹ thân đến nơi chị ta ở, cố khuyên nhủ nhưng không lay chuyển nổi. Bà mẹ xấu hổ vì trót nhận lời, định đem con gái út thế cho Mạnh. Người trong gia đình đều vừa ý, song Mạnh nhất quyết không chịu.
Chẳng bao lâu, Mạnh bị bệnh nặng chết. Kiều thị đến viếng tang, kêu khóc hết sức thảm thiết. Mạnh không có thân thích gì đáng kể nên bọn vô lại trong thôn thừa gió bẻ măng, tìm cách lừa bịp lấy hết mọi vật dụng trong nhà và còn mưu tính chia nhau chiếm đoạt cả điền sản. Gia nhân cũng thừa cơ bỏ trốn. Trong nhà chỉ còn một bà * ẵm đứa con nhỏ của Mạnh đang khóc ngằn ngặt trong màn.
Nghe chuyện đó, Kiều thị rất bất bình. Biết Lâm sinh bạn thân với Mạnh, chị ta tìm đến tận nhà mà bảo:
- Tình vợ chồng, nghĩa bè bạn là nhân luân lớn của con người. Tôi xấu xí bị người đời coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh là hiểu biết tôi. Trước đây tuy bề ngoài tôi từ chối song bên trong đã có ý bằng lòng. Nay chẳng may anh ấy thiệt phận, con còn trứng nước tôi tự thấy phải đền đáp ơn tri kỷ. Song việc nuôi dưỡng con côi cút cho anh ấy thì dễ, chống chọi lại sự cướp đoạt mới là khó. Anh không có cha mẹ anh em, nếu chỉ ngồi đó mà nhìn con bạn chết, nhà bạn tan mà không ra tay cứu giúp thì trong ngũ luân hóa không còn nghĩa bạn bè. Về phía tôi, tôi không góp sức được gì nhiều nhặn với anh, song đầu một lá đơn tố cáo với quan huyện, chăm sóc đứa con côi thì tôi không dám ngại khó.
Lâm hứa làm theo. Lúc ấy chị ta mới về. Lâm đang tìm cách giúp nhà bạn thì bọn vô lại biết, tức lắm, định thí cho một nhát dao. Lâm sợ quá đóng chặt cửa không dám đi nữa. Kiều thị đợi mấy ngày rồi mà chẳng có tin tức gì. Hỏi ra, điền sản nhà Mạnh đã bị cướp sạch trơn.
Kiều phẫn uất quá, bọc dao nhọn trong người, tức tốc lên quan. Quan vặn hỏi chị ta là người thế nào với Mạnh? Đáp:
- Ngài là quan tể một huyện. Cái căn cứ của ngài là có lý. Nếu như nói càn thì kẻ chí thân cũng không trốn được tội. Nếu không phải là nói càn thì tiếng nói của người qua đường cũng cần phải nghe.
Lời nói cương trực ấy đã làm quan nổi giận thét đuổi Kiều thị ra ngoài. Không còn đâu giãi bày nỗi oan phẫn, Kiều thị tìm đến cửa quan một thân sĩ. Ông Mỗ nghe chuyện ấy, cảm tấm nghĩa khí của người đàn bà, giúp đỡ đề đạt lên quan trên. Quan trên tra cứu quả điều tố cáo của chị ta là đúng, liền bắt bọn vô lại trừng trị nghiêm khắc, bắt phải hoàn lại tài sản cho khổ chủ.
Có người bàn là Kiều nên chuyển sang ở hẳn nhà Mạnh để chăm sóc con côi, nhưng Kiều không chịu. Chị ta khóa chặt cửa nhà Mạnh, bảo bà * ẵm thằng bé Ô Đầu cùng về nhà mình, để cho ở một căn riêng. Phàm những vật dụng cần thiết hàng ngày cho Ô Đầu, Kiều đều cùng bà * đến nhà Mạnh mở cửa lấy để chi dùng dần. Còn mẹ con thì vẫn giữ phận nghèo, rau cháo hàng ngày như xưa, chứ không mảy may đụng đến của con Mạnh.
Khi Ô Đầu lớn, Kiều tìm thầy cho học, còn con đẻ của mình phải tập nghề nghiệp tay chân. Bà * khuyên cho cả hai trẻ cùng học với nhau cho vui. Nàng đáp:
- Mọi phí tổn học hành là của cậu ta. Nếu tôi hao phí của người để cho con tôi học, sự tình ấy làm sao có thể coi là sáng tỏ được.
Mấy năm sau, Kiều đã để dành cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc. Liền hỏi con gái nhà dòng dõi cho nó, tu sửa nhà cửa, thu xếp cho nó trở về nhà cũ. Ô Đầu khóc lóc xin mẹ Kiều cùng về ở chung. Nể tình Kiều cũng nghe theo song vẫn giữ nghề dệt vải như trước. Hai vợ chồng Ô Đầu đem giấu hết đồ nghề canh cửi đi. Nàng bảo:
- Mẹ con tôi chỉ ngồi ăn thì sao yên tâm được?
Rồi sớm chiều Kiều chăm sóc việc trong nhà, lại sai con tuần hành đồng ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Vợ chồng Ô Đầu có sai làm gì dù nhỏ bé, nàng khiển trách luôn, không nương nhẹ. Nếu có chút nào không có ý sửa lỗi, nàng lập tức thu xếp đòi đi. Hai vợ chồng phải quỳ xuống ăn năn xin lỗi lúc ấy nàng mới nguôi.
Ít lâu sau, Ô Đầu vào học trường quận, Kiều đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Chàng ta lại góp tiền cưới vợ cho chàng con họ Mục. Kiều cho con đẻ về ở nhà riêng cũ. Ô Đầu lưu thế nào cũng không được mới ngầm mua một trăm mẫu đất thôn bên để cho Mục làm phương tiện sinh sống.
Sau khi Kiều ốm lại đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Bệnh nguy kịch, bà trăng trối: thế nào cũng phải đưa về chôn ở nơi cũ. Ô Đầu nhận lời. Song đến khi bà mất, Ô Đầu đem vàng nói lót với con Mục, xin cho hợp táng với ông Mạnh. Đến khi đưa đám, cỗ quan tài tự nhiên quá nặng, ba chục người khiêng không nổi. Còn con Mục tự nhiên ngã lăn đùng ra đất, máu mũi hộc ra, tự miệng thốt lên:
- Đứa con bất hiếu! Sao được bán mẹ mày như thế!
Ô Đầu sợ quá, lễ lạy cầu khấn mãi hắn ta mới khỏi. Việc tống táng phải đình lại mấy ngày để kịp sửa sang lại phần mộ ông Mục rồi hợp táng bà vào đó.

Lời bàn của tác giả


Cảm ơn tri kỷ mà đem hy sinh thân mình đền đáp, đó là việc làm của các trang nam nhi nghĩa liệt. Người đàn bà kia hỏi có hiểu biết gì nhiều lắm mà lại hành động cao cả lạ lùng đến thế? Nếu Cửu Phương Bình(1) còn sống gặp Kiều nữ ắt hẳn đánh giá ngay chị ta là “ngựa cực quý”.
Truyện này ý nói: Phải coi trọng cái tinh thần bên trong và không nên chú ý đến những hình thức bên ngoài.

(1) Tức Cửu Phương Cao - một người xem tướng ngựa cực giỏi thời Xuân Thu - được Tần Mục Công sai đi tìm ngựa quý. Tìm được ngựa như ý ông ta về báo đó là con ngựa cái màu vàng. Đến khi người khác đi lấy về thì đó là một con ngựa đực màu đen song vẫn cực tốt.

Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Vương Quế Am


Vương Cao, tự là Quế Am, con một nhà gia thế ở phủ Đại Danh, đi chơi miền Nam, cắm thuyền ở bờ sông. Thuyền bên cạnh có cô con gái nhà thuyền đang ngồi thêu giày, phong tư vào loại tuyệt trần. Vương chăm chắm nhìn ngắm đã lâu, cô gái vẫn dường như không hay biết. Vương ngâm chơi câu thơ:

Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa(1)


(1) Đây là câu đầu bài hành “Cô gái Lạc Dương” của nhà thơ Vương Duy đời Đường, nguyên văn là “Lạc Dương nữ nhi đối lân củ” tiếp đến câu thứ hai “Tài khả dung nhan thập ngũ dư” (Dung nhan mới khoảng ngoài mười lăm). Đọc câu ấy cốt ý trêu ghẹo cô gái.

Cố ý để cô gái nghe thấy. Cô gái hình như hiểu là nói về mình, khẽ ngẩng đầu đưa mắt liếc ngang rồi lại cắm cúi thêu như cũ. Vương sốt ruột lấy luôn một thoi vàng ném từ xa vào vạt áo cô gái. Cô ta cầm lấy rồi ném luôn đi, dường như không biết là vàng. Thoi vàng rơi lên bờ. Vương nhặt về, rồi lại ném luôn một cái vòng vàng xuống chân cô gái. Cô ta cứ cắm cúi làm như không thèm để ý tới.
Không bao lâu người nhà thuyền đi đâu về. Vương sợ người ấy trông thấy cái vòng lại căn vặn lôi thôi cho nên trong bụng cũng cuống. Song cô gái vẫn thản nhiên như không, đưa hai bàn chân che lấp đi.
Người nhà thuyền cởi dây buộc, thuyền thuận nước xuôi dòng.
Vương ngồi ngây ra, suy nghĩ vẩn vơ, tâm tình chán nản. Bấy giờ Vương vừa mới cưới vợ nhưng đã góa ngay, cứ tiếc sao không lập tức ngỏ lời với cô gái. Đến khi hỏi thăm các thuyền xung quanh thì không ai biết họ tên cô gái nọ. Không có cách nào hơn Vương cho quay thuyền đuổi theo thật gấp, song ngút ngát tầm mắt vẫn không thấy bóng thuyền cô gái. Cực chẳng đã, Vương phải cho quay thuyền xuôi Nam.
Công việc xong Vương trở về Bắc. Trên đường thuyền đi, chàng hỏi thăm khắp mà vẫn không thấy âm hao cô gái. Về đến nhà, khi ngủ, khi ăn, không lúc nào chàng không vấn vương tưởng nhớ.
Hơn năm sau, Vương mua hẳn một con thuyền, lại xuôi về hướng Nam. Ngày ngày chàng đến gặp xem xét các thuyền qua lại trên sông đến nỗi thuộc cả từng cánh buồm, từng bánh lái, song con thuyền ngày trước vẫn bằn bặt tăm hơi. Được nửa năm, cạn hết cả tiền lương, đành phải quay về nhà.
Thế rồi cứ đi thì mong, ngồi thì nhớ, quanh quất chẳng làm được việc gì. Một tối Vương nằm mộng thấy đến một làng ven sông, qua mấy cổng thấy một căn nhà cửa sài(1) quay hướng Nam, dãy trúc thưa làm hàng rào. Vương nghĩ đây là cái vườn đình(2) liền đi vào. Bên trong có một gốc dạ hợp tơ hồng giăng kín cây. Vương sực nhớ đến câu thơ: “Một cây mã anh(3) hoa trước cửa” thật là đúng với cảnh này.

(1) Cửa ghép bằng cây củi, ý nói giản dị, đơn sơ.

(2) Vườn có đình làm nơi nghỉ mát, ngắm cảnh.

(3) Một tên khác của cây dạ hợp.


Đi quá vào trong, thấy phía Bắc có một ngôi nhà ba gian, hai cửa đều khép kín. Phía Nam có một căn nhà nhỏ hơn, chuối tiêu che lấp cửa sổ. Trước cửa ra vào có một cái giá áo trên treo quần hoa. Vương biết đây là buồng đàn bà con gái, vội quay ra ngay. Song bên trong đã biết, có một người con gái chạy ra. Nhìn kỹ, chính là cô gái thêu giày trên thuyền độ nọ. Vương kinh ngạc thốt lên:
- Ôi! Lại còn có lúc gặp nhau thế này ư?
Vương đang định lại gần người đẹp thì ông bố cô gái chợt về. Vương giật mình tỉnh dậy hóa ra là giấc mộng. Mọi cảnh vật đã trải qua đều như in trước mắt. Song chàng vẫn giữ kín e lộ ra người khác biết thì vỡ mất giấc mộng đẹp ấy.
Sau hơn một năm, Vương có việc đi Trấn Giang, ở miền Nam quận có quan Thái bộc họ Từ vốn có quan hệ giao du nhiều đối với Vương cho nên mời Vương đến ăn uống. Vương lên ngựa, quẩn quanh thế nào vào nhầm một thôn nhỏ, thấy đường sá, cảnh vật phảng phất như đã từng qua. Trong cổng có một cây mã anh y như thế. Lấy làm lạ, Vương đánh ngựa đi vào thì cảnh sắc càng không khác gì trong mộng đã gặp. Vào sâu bên trong cũng thấy hai căn nhà bên Nam bên Bắc, lúc ấy mới cho là mộng đã nghiệm. Không còn lo ngại gì nữa, chàng đi thẳng vào căn nhà phía Nam và trong đó quả có cô gái thêu giày trên thuyền độ nào.
Vừa trông thấy Vương, cô ta sửng sốt đứng dậy nấp sau cánh cửa, quát lớn:
- Đàn ông ở đâu vào thế?
Vương lưỡng lự, vẫn còn ngờ hay đây lại là mộng nữa. Cô gái nghe tiếng bước chân đã gần, liền đóng sầm cánh cửa lại. Vương lên tiếng:
- Nàng không còn nhớ người ném vòng ư?
Rồi chàng giãi bày mọi nỗi tương tư cũng là những điều mộng tưởng. Cô gái đứng bên trong cánh cửa hỏi vọng ra về gia thế của Vương. Chàng kể lại hết. Cô gái bảo:
- Đã thuộc dòng dõi nhà quan thì thiếu gì người đẹp mà phải đoái hoài đến tôi?
- Nếu không vì nàng - chàng nói tiếp - thì tôi đã lấy vợ lâu rồi.
- Nếu đúng như thế thì đủ biết lòng chàng. Tấm tình này không thể thưa với cha mẹ, song thực ra em đã trái mệnh cha mẹ, khước từ mấy đám rồi. Cái vòng vàng vẫn còn đây, em đã tính nếu chàng là người chung tình thì nhất định thế nào cũng hỏi cho ra tin tức. Hiện nay cha mẹ em sang bên ngoại cũng sắp về. Chàng hãy tạm lui ra, nhờ mối lái đưa lễ đến, việc thế nào cũng thành. Còn nếu như muốn nên đôi nên lứa một cách trái lễ thì quyết không được đâu.
Vương thảng thốt quay ra thì cô gái gọi với:
- Vương lang ơi! Em là Vân Nương, họ Mạnh. Cha em tên tự là Giang Ly.
Vương nhớ đinh ninh trong dạ. Xong việc ở nhà quan Thái bộc, Vương vội quay về xin gặp ông Mạnh. Ông mời chàng ngồi ngay bên giậu trúc. Vương kể gia thế của mình, thưa rõ chủ ý và xin nộp ngay trăm đồng vàng làm sính lễ. Ông nói:
- Con tôi đã có nơi có chốn rồi!
Vương thưa:
- Tôi đã biết rất rõ, cô nhà còn đang đợi. Không hiểu sao ông vội cự tuyệt thẳng thừng như vậy?
Ông nói:
- Ngày cưới đã hẹn. Tôi không dám nói dối cậu.
Tâm thần tán loạn. Vương đành vái chào trở ra, trong lòng vẫn nghi hoặc không biết có đúng thế thật không? Đêm ấy chàng ta cứ trằn trọc, những hận không ai có thể mối mai, thăm dò tin tức cho được. Trước đây chàng đã định nhờ vả ông Thái bộc, song lại sợ nói đến việc lấy con nhà thuyền, ông lại cười cho. Nay đến nỗi gấp gáp này, đành sáng ra đến ngay thưa với ông Thái bộc. Ông bảo:
- Ông này với ta là họ hàng, là cháu đích bên ngoại của bà nội ta. Sao anh không bảo trước?
Lúc ấy Vương mới kể rõ những sự tình uẩn khúc vừa rồi. Ông Thái bộc tỏ vẻ nghi ngờ:
- Giang Ly tuy nghèo, song xưa nay chưa hề làm nghề sông nước bao giờ. Hay có điều chi lầm lẫn?
Đoạn sai người con cả tới nhà ông Mạnh. Ông cho biết:
- Tôi tuy nghèo nhưng không bán con gái. Vừa qua cậu ấy đem vàng đến làm mối, chắc cậu ấy cho là tôi hám lợi. Bởi vậy tôi không dám tính đến chuyện hôn nhân. Nay đã có mệnh của ông nhà tất không có gì là sai lầm, khuất tất. Song cái con bé bướng bỉnh nhà tôi nó cậy mỹ miều, bao nhiêu đám tốt nó đều chối cả. Vậy để tôi bàn với nó đã, kẻo sau này nó lại oán, hối là phải lấy chồng xa.
Đoạn ông đứng dậy, quay vào một lát rồi trở ra, chắp tay xin nhận lời, hẹn ngày cưới rồi mới chia tay.
Người con cả ông Thái bộc quay về báo lại. Vương liền vội vàng sửa soạn sính lễ đưa đến nhà ông Mạnh và mượn luôn nhà ông Thái bộc làm nơi đón dâu. Ở đó ba ngày, hai vợ chồng từ biệt ông nhạc, quay về Bắc. Ban đêm ngủ trong thuyền. Vương hỏi Vân Nương:
- Trước đây gặp gỡ trên sông, tôi đã ngỡ nàng không phải là con nhà thuyền. Thế lúc ấy nàng ngồi thuyền đi đâu?
Vân cho biết:
- Nhà chú em ở bờ bắc sông nên ngẫu nhiên mượn con thuyền nhỏ đi chơi thăm cảnh mà thôi. Nhà em tuy chỉ tạm đủ ăn, sống không phải hạng chỉ quý tiền của, cho nên không khỏi cười chàng, con mắt chỉ bé như hạt đậu, cứ luôn đem vàng ra hòng làm người ta xiêu lòng. Đến khi em nghe thấy giọng chàng biết là bậc nho sĩ phong nhã, nhưng vẫn có phần ngờ là kẻ phóng đãng đi trêu ghẹo con gái. Nếu để cho cha em nhìn thấy cái vòng ấy, chàng chắc chết không có đất chôn. Còn em, lòng em mến tài như thế cha có tha thiết không?
Vương cười mà rằng:
- Nàng tinh đời lắm thế mà vẫn rơi vào bẫy của tôi đó.
Vân vội hỏi:
- Việc gì thế?
Vương thôi không nói nữa. Vân gặng hỏi mãi, lúc ấy Vương mới đáp:
- Sắp đến nhà rồi, không thể giấu mãi được, xin thú thực với nàng: tôi vốn đã có vợ ở nhà. Nàng ấy là con gái quan thượng thư họ Ngô.
Vân không tin. Vương làm giọng nghiêm trang như thực. Vân tái mặt đi, nín lặng hồi lâu, bỗng vụt chạy ra ngoài. Vương vội đuổi theo, ra đến ngoài thì nàng đã đâm đầu xuống sông rồi. Vương gọi ầm lên, các thuyền xung quanh náo động, nhưng đêm tối mịt mùng, mặt sông chỉ còn lấm tấm những bóng sao trời.
Vương đau đớn kêu khóc suốt đêm. Sau đó đành thả thuyền theo dòng nước, thuê người mò vớt thi hài, song không thấy đâu cả. Chàng đành trở về nhà lo buồn nặng trĩu, lại còn sợ ông nhạc đến thăm con gái thì biết nói năng sao.
Vương có người con rể làm quan ở Hà Nam, chàng sai đánh xe đến chơi, ở lại đó giải khuây hơn một năm mới về. Giữa đường gặp mưa, thấy một căn nhà dân ở bên đường khá sạch sẽ. Vương vào trú mưa. Trong đó có một bà già đang chơi với một đứa nhỏ. Đứa bé trông thấy Vương liền sà tới đòi bế. Vương cũng lấy làm lạ, nhưng thấy thằng bé kháu khỉnh đáng yêu nên đặt nó trên đầu gối. Bà già gọi nó, nó cũng không chịu rời Vương. Lát sau trời tạnh. Vương đưa trả đứa bé cho bà già, sửa soạn lên đường. Thế là thằng bé khóc ầm lên:
- Thôi, cha đi rồi!
Bà già xấu hổ với khách, quát mắng nó cũng không thôi, đành sấn vào bế nó đi.
Vương còn đang ngồi đợi sửa soạn xe, bỗng từ sau bức bình phong một cô gái đẹp bế đứa trẻ ấy ra. Hóa ra chính là Vân Nương. Vương còn đang sửng sốt, thì nàng cất tiếng mắng:
- Gã phụ bạc kia! Để lại một cục thịt như thế này làm gì?
Lúc ấy Vương mới biết thằng bé ấy chính là con mình.
Ruột xót như bóp muối, chàng chưa vội hỏi đến nỗi lưu lạc trước đây mà phải trỏ trời chỉ đất thề bồi lời mình nói có vợ là mình đùa thôi. Lúc ấy Vân mới ngớ ra, chuyển giận thành buồn cùng nhìn nhau mà khóc lóc sụt sùi.
Nguyên là, ông chủ nhà họ Mạc đây đã sáu mươi tuổi mà chưa có con, phải dắt bà vợ đi cầu tự đức Phật Quan Âm mãi tận Nam Hải. Trên đường trở về thuyền ép bờ sông thì Vân Nương bị sóng cuốn chạm vào thuyền ấy. Ông Mạc sai người vớt lên cứu chữa suốt đêm Vân mới tỉnh lại. Hai ông bà thấy cô gái đẹp đẽ hiền lành thì mừng lắm, đưa về nhà nhận làm con.
Được vài tháng, ông bà muốn gả chồng cho, nhưng cô gái không nghe. Mười tháng sau cô gái đẻ một đứa con trai, đặt tên là Ký sinh. Khi Vương vào trú mưa nhà đó, Ký sinh mới lên một tuổi. Biết đầy đủ sự tình như thế, Vương vội cởi hành lý, vào lạy tạ hai ông bà, nhận làm nhạc phụ, nhạc mẫu.
Ở lại đó mấy ngày, Vương mới đưa cả gia đình về quê. Về tới nơi mới biết ông Mạnh tới đợi đã hai tháng. Khi ông mới đến thấy bọn con hầu đầy tớ từ nói năng đến cử chỉ đều có vẻ ngập ngừng, hoảng hốt, ông đã hơi ngờ. Nay gặp lại được con, nghe kể lại mọi nỗi tỏ tường, ông mới vui bụng và mới rõ được thái độ khác lạ của họ là có nguyên cớ.

Nguyễn Văn Huyền dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Duyên lỡ người tiên (Vân Thúy Tiên)


Lương Hữu Tài, người huyện Sơn Tây, trôi nổi xuống Tế Nam, làm nghề bán hàng vặt, trơ trọi một thân, chẳng có vợ con điền sản gì cả.
Hôm đó Tài theo người lối xóm, lên núi Đại chơi.
Khoảng tháng tư, người ta lên núi Đại lễ bái rất đông. Lại có vô số mụ đồng, thường đem hàng chục, hàng trăm đệ tử, quỳ lung tung trước bàn thờ thần, cứ xem nhang cháy làm ngữ gọi là quỳ nhang.
Tài thấy trong bọn có một cô chừng mười bảy, mười tám tuổi, sắc đẹp, lấy làm khoái ý, liền giả làm khách đi lễ, mon men đến cạnh nàng. Lại giả đò mỏi gối cho nên vịn tay vào chân nàng. Nàng day lại ngó với nét mặt giận, rồi dang ra xa. Tài lại bò đến gần, giây lát, thò tay vịn cẳng nàng như trước. Nàng đứng phắt lên không quỳ nữa, ra cửa chùa rồi đi.
Tài cũng đứng dậy theo gót nhưng không biết nàng đi đằng nào, lòng đã thất vọng buồn bã ra về.
Giữa đường thấy nàng đi theo một bà già, hình như là mẹ. Tài rảo bước đi theo. Mẹ con vừa đi vừa nói chuyện. Mụ nói:
- Con chịu khó đi lễ bà như thế thì phải lắm. Con chẳng có em trai em gái gì, chỉ xin bà phù hộ cho lấy được thằng chồng xứng ý, miễn là biết hiếu thảo, không cần phải con nhà giàu sang.
Tài nghe mừng thầm, dần dà đến bên kiếm chuyện hỏi mụ. Mụ tự nói mình là họ Vân, còn nàng là Thúy Tiên. Nhà thì ở Sơn Tây, cách bốn mươi dặm. Tài nói:
- Đường núi thì gồ ghề mà bà thì lọm khọm, cô thì ẻo lả thế này làm sao đi tới nơi cho được?
Trời đã xế, mẹ con định ghé vào nhà ông cậu nghỉ nhờ.
- Lúc nãy, nghe bà nói kén rể, không chê nghèo hèn, vậy tôi đây chưa có vợ, bà xem có ưng ý không?
Mụ hỏi nàng nghĩ sao. Nàng làm thinh. Hỏi đi hỏi lại đôi ba lần nàng mới nói:
- Chàng ta kém phúc đức, lại chơi bời mất nết, con người khinh bạc ấy dễ tráo trở như bàn tay, con không thể làm vợ một anh chàng như vậy được!
Tài nghe choáng người, vội vàng bày tỏ lòng thành, và trỏ mặt trời thề thốt. Mụ vui mừng nhận lời. Nàng thì vùng vằng ra vẻ rầu rĩ. Bà mẹ lại ráng vỗ về cho nàng vui lên.
Tài ân cần xách hộ hành lý hai mẹ con, thấy hai chiếc kiệu núi đi tới, liền thuê cho hai mẹ con ngồi, còn mình đi bộ theo sau, như cách tôi tớ vậy. Đến khúc đường nào gập ghềnh khó đi, chàng lăng xăng thét bảo phu kiệu không được lắc mạnh, làm bộ chăm chút tử tế lắm.
Không bao lâu đến một xóm, mụ bảo đây là nhà anh trai, mời Tài cùng vào. Có ông bà già ra đón, mụ Vân gọi là anh là chị, lại giới thiệu Tài:
- Con rể tôi đây, vừa vặn hôm nay tốt ngày, chả phải kén chọn xa xôi, lấy ngay đêm nay cho hai đứa cháu thành lễ.
Ông cậu cũng mừng, dọn cơm rượu thết Tài xong, Thúy Tiên mặc áo cưới bước ra cùng làm lễ thành hôn.
Chàng quét giường hối vợ đi ngủ. Nàng nói:
- Tôi vốn biết anh bất nghĩa, chỉ vì mẹ tôi bắt buộc nên phải lấy. Nếu anh tu tỉnh làm người tử tế thì vợ chồng cùng sống thong thả, khỏi phải lo gì!
Chàng vâng dạ nghe lời.
Sáng mai thức dậy, mụ bảo Tài về trước đi, sẽ dẫn vợ chàng đến sau.
Chàng về quét dọn nhà cửa vừa xong thì mụ với nàng đến. Mụ vào thấy nhà trống trơn, nói:
- Như vậy thì vợ chồng bay làm sao mà sống? Để ta về ngay, giúp đỡ cho bay chút ít đỡ khổ.
Mụ nói rồi đi liền, hôm sau lại đến, dắt theo mấy đứa tớ trai, hầu gái, cùng chén bát y phục các thứ, xếp đầy một nhà rồi tất tả đi ngay, chứ không ăn cơm, chỉ lưu lại một đứa hầu gái phục vụ hai vợ chồng.
Từ đó Tài được no lòng ấm cật, ngày ngày a dua đàn lũ với bọn vô lại, uống rượu và đánh bạc. Lần hồi ăn cắp cả hoa tai trâm vàng của vợ đem bán để quăng vào đỏ đen. Nàng khuyên bảo lời hơn lẽ thiệt cũng không nghe, nên có ý buồn lòng xót ruột, chỉ lo ôm giữ rương tráp, như là phòng bị giặc cướp vậy.
Một hôm, tụi cờ bạc đến nhà thăm Tài, dòm thấy mặt nàng, lấy làm kinh dị, đùa bỡn bảo Tài:
- Chú mày đại phú quý còn lo nghèo túng nỗi gì?
- Phú quý ở chỗ nào? - Tài hỏi.
- Vừa rồi thấy mặt vợ chú đẹp như tiên, mà gia đạo lại không thuận với nhau, nếu đem bán cho người ta làm hầu thiếp có thể được bạc trăm, mà bán cho nhà thổ chứa thì được bạc ngàn. Có bạc ngàn trong nhà thì còn lo gì nhậu nhẹt cờ bạc không có tiền chứ?
Tài không nói gì nhưng trong bụng cho là phải!
Bữa đó đi chơi về, ngó vợ mà than vắn thở dài, chốc chốc lại kêu nghèo quá, không biết làm cách nào mà sống. Nàng ngó lơ. Tài lại vỗ bàn và ném đũa bát, gắt mắng con ở, làm đủ các trò gây gổ để ghét.
Một buổi chiều kia nàng tự mua rượu cho uống, rồi thừa dịp nói chuyện nhà:
- Mình vì sự nghèo túng, ngày đêm lo nghĩ nát ruột. Em cũng chẳng có cách gì trị được cái nghèo, gọi là chia lo sẻ buồn với mình, thật là hổ thẹn. Tiếc là em không còn có món gì đáng giá, chỉ có con bé ở này, hay là mình đem bán phắt nó đi, lấy ít nhiều xoay xở qua ngày vậy.
Tài lắc đầu nói:
- Thứ đó thì được bao nhiêu, không bõ bèn gì mà bán.
Nói xong lại ngồi gật gù uống rượu. Giây lát nàng nói:
- Em đối với mình không có chỗ nào tiếc rẻ mà không đưa ra, chỉ khổ là đã kiệt lực rồi. Nghĩ lại cảnh vợ chồng ta nghèo túng xác xơ thế này, nếu ôm lấy nhau mà chết thì cứ khổ như vậy mãi, có cơ gì mở được mày mặt với đời. Chi bằng đem em mà bán cho nhà giàu sang nào đó, thì cả vợ chồng càng có ích lợi. Bán em thì chắc được món tiền hơn con ở nhiều.
Tài làm bộ kinh ngạc, trách vợ sao lại nói tới chuyện quái gở ấy? Nhưng nàng cứ nằn nì mãi, chàng mừng thầm mà nói:
- Thì để thủng thẳng sẽ tính.
Liền hôm đó chàng đánh tiếng cho một nhà cũng gọi là giàu sang trong miền, để bán vợ vào phường hát. Nhà giàu ấy đến nhà Tài, trông thấy nàng, ưng ý ngay, lại sợ không mua được nàng liền buộc Tài làm tờ thỏa thuận ngay, ngã giá tám trăm quan tiền, thế là xong việc. Nàng nói với chồng:
- Mẹ em thấy nhà rể quá nghèo, cho nên thường lo nghĩ săn sóc. Ngày nay như vậy là tình nghĩa đứt rồi, em sửa soạn về thăm mẹ một chút, vả lại chàng với em đoạn tuyệt, lẽ nào chàng không đến nói qua cho mẹ hay?
Tài sợ bị mụ ngăn trở. Nhưng nàng nói:
- Tự em tình nguyện cơ mà. Mình cứ đi, em cam đoan vô sự.
Tài yên bụng, bèn cùng nàng đi.
Gần nửa đêm, mới đến nhà mẹ vợ, gõ cửa bước vào thấy lâu đài ngang dọc nguy nga, tôi tớ đi lại tấp nập. Nguyên từ hồi Tài lấy vợ, thường muốn đi thăm nhạc gia, nhưng vợ bảo đừng, thành ra hơn một năm, chưa đến nhạc gia lần nào. Hôm nay đến trông thấy cửa nhà đồ sộ, hết sức kinh hãi, bụng thầm nghĩ một nhà giàu có thế này tất không chịu cho con gái đi làm lẽ mọn người ta đâu.
Tới khi nàng dẫn chồng lên lầu, bà cụ trông thấy sửng sốt, hỏi vợ chồng có việc chi dắt nhau đến đây. Nàng nói với giọng oán thán:
- Con đã từng nói là nó bất nghĩa, nay đã quả nhiên.
Vừa nói vừa móc trong túi ra hai thoi vàng, đặt trên bàn và nói tiếp:
- Cũng may mà của này hãy còn, không bị đứa tiểu nhân gạt mất, giờ con xin nộp lại cho mẹ.
Mẹ sửng sốt hỏi vì cớ gì, nàng đáp:
- Nó muốn bán con đi, con có giữ vàng cũng vô ích.
Rồi điểm mặt Tài mà nhiếc mắng:
- Quân chó đểu! Lúc trước mày gánh hàng rong, mặt mày nhem nhuốc như quỷ, mới đến gần tao còn nhễ nhại mồ hôi chua loét, bụi bậm cáu ghét ở người mày rơi ra cả đám, muốn đổ cả giường, tay chân thì nổi chai lên dày một tấc, khiến người ta suốt đêm lộn mửa. Từ hồi tao về nhà mày, ngày hai bữa mày chỉ có việc ngồi ăn sung sướng, mới lột được lớp da quỷ sứ đi. Có mẹ làm chứng đó, tao có nói gian cho mày đâu?
Tài cúi mặt nín khẽ, nàng nói tiếp:
- Tao tự xét không có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành mà làm hầu thiếp hạng quý nhân. Nhưng mà hạng nam tử đó, còn xứng đôi phải lứa với tao hơn là thứ mày. Thử coi tao có làm điều gì lầm lỗi, mà mày định bán tao đi, không nghĩ đến chút tình hương lửa bấy lâu. Có phải tao chẳng có sức làm nhà lầu mua ruộng tốt được đâu, nhưng tao chỉ nghĩ mày là đứa bội bạc, tướng ăn mày, trước sau rồi cũng xa lìa, chứ không già đời tóc bạc được với tao.
Lúc nàng hạch tội Tài, lũ con hầu * bõ đứng vây chung quanh, đều phỉ nhổ mà nói:
- Cô giết phăng nó đi, chứ trách mắng làm gì cho tốn hơi…
Tài sợ quá quỳ mọp dưới đất, kêu ca đã biết ăn năn. Nàng càng cáu thêm:
- Đem vợ con đi ở đợ làm mướn cho người ta, đã là đại ác nhưng chưa đến nỗi quá lắm. Sao mày nỡ lòng đem người bạn đầu gối tay ấp gạ gẫm bán đi làm đĩ chứ?
Nàng nói chưa dứt lời, mọi người đều nghiến răng trợn mắt, kẻ rút trâm cài đầu, người chạy đi lấy dao, thi nhau đâm vào bên hông túi bụi. Tài kêu rú cứu mạng, nàng ngăn cản mọi người:
- Thôi tha cho nó, tuy nó bất nhân, nhưng ta không muốn trông thấy bộ tịch nó run sợ như thế kia!
Nói đoạn, cùng mọi người xuống lầu.
Tài ngồi dỏng tai nghe ngóng một lúc, thấy yên lặng tiếng người bèn nghĩ muốn lẻn trốn. Bỗng ngửa mặt trông trời, thấy phương Đông đã hửng sáng cảnh sắc mênh mang, đèn cũng vụt tắt, té ra không có nhà cửa nào hết. mình đang ngồi trên vách đá chót vót, dòm xuống dưới là vực sâu thăm thẳm. Chàng hoảng hồn vía, sợ té thì tan xương.
Hơi cựa mình, nghe một tiếng rầm, hòn đá chàng ngồi rời ra, lăn xuống lưng chừng núi, quăng chàng ngã theo. May phúc có cây khô chắn ngang, không rơi tuột xuống vực. Bụng chàng nằm vắt trên cây khô, tay chân chẳng chỗ nào bấu víu, ngó dưới xa mịt mù, không biết là bao nhiêu trượng mà nói. Chàng nằm chịu trận thin thít không dám động đậy, mình mẩy xây xát khắp nơi, mắt, tai, mũi, lưỡi cho đến hơi sức đều thấy kiệt quệ, chỉ còn đợi chết.
Mặt trời lên cao, mới có bọn kiếm củi trông thấy liền chạy đi kiếm dây, thòng đưa chàng xuống, đặt trên tảng đá hơi thở thoi thóp. Họ làm phúc khiêng chàng về nhà.
Về thì nhà cửa trống hoang như ngôi chùa đổ, ghế bàn giường chiếu cùng các thứ lặt vặt khác đều biến đâu mất, trơ lại chiếc chõng rách và cái bàn mục là đồ cũ của chàng hồi xưa. Chàng nằm tiu nghỉu một mình, mỗi ngày đói bụng thì bò sang hàng xóm xin ăn một lần. Rồi thì thân thể lở lói gớm ghiếc, người làng vốn ghét tính hạnh không tốt, nay đều mặc kệ chẳng ai ngó ngàng.
Tài hết kế sống, bán nhà đi vào ở hang núi, ngày ra đường sá ngửa tay ăn xin, luôn luôn có con dao đem theo bên mình. Có người khuyên hắn bán dao đổi lấy cơm gạo chẳng hơn sao. Tài lắc đầu và nói:
- Tôi ở núi phòng hùm beo, cần dao để tự vệ.
Sau bắt gặp thằng bạn ngày trước khuyên mình bán vợ, Tài đến gần làm bộ năn nỉ, rồi thừa cơ rút dao đâm nó chết liền. Quan bắt giam vào ngục tối, rồi xét rõ sự tình, nên không nỡ tra tấn, chỉ cầm giữ ở ngục, được ít lâu thì Tài ốm chết.

Đào Trinh Nhất dịch




Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Cởi truồng rượt ma (Chương A Đoan)


Vệ Huy Thích, người trẻ tuổi chín chắn, có gan dạ dám làm. Lúc đó, một họ lớn trong làng có tòa nhà to, giữa ban ngày thấy ma hiện lên, người ở kế tiếp nhau chết, thành ra sợ hãi, tình nguyện bán rẻ.
Chàng thấy giá rẻ liền mua để ở. Nhưng nhà rộng mà người thì ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành bỏ hoang phế. Thường đêm gia nhân kinh hoảng, la sợ có ma. Được hai tháng, chết một con hầu. Cách ít lâu, vợ chàng mò đến khu lầu gác hoang phế kia trong lúc chiều hôm, trở về phát bệnh được mấy hôm cũng chết.
Gia nhân sợ quá, khuyên chàng dời đi chỗ khác. Chàng không nghe. Bấy giờ góa vợ, trơ trọi một mình đã buồn cho thân, lại thêm lũ tôi tớ thường đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói, chàng phát cáu, ôm chăn gối ra nằm ngủ độc thân ở giữa căn nhà bỏ hoang bấy lâu.
Chàng để đèn sáng, chờ xem có sự gì lạ xảy đến không. Đợi lâu chẳng thấy gì rồi ngủ quên đi.
Bỗng có người thò tay vào chân, rờ mó sờ soạng, chàng tỉnh giấc, ngó thấy một mụ * già, mặt mày đầu tóc trông nhăn nheo bù rối gớm ghiếc. Chàng biết là ma, nắm lấy cánh tay đẩy ra, vừa cười vừa nói:
- Bà thì tôi không dám chơi.
Mụ hổ thẹn, khựng tay lại, bước cao bước thấp chuồn đi mất.
Giây lát một thiếu nữ từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, đến thẳng dưới đèn, giận dữ la mắng:
- Thằng học trò ngông cuồng ở đâu? Sao dám đến chỗ này nằm ngất ngưởng như thế?
Chàng trỗi dậy cười nói:
- Tôi làm chủ nhà này, nằm đợi cô đến để đòi tiền thuê nhà đó.
Rồi đứng phắt lên, cởi trần truồng mà rượt bắt nàng. Nàng vội vàng chạy trốn. Chàng mau lẹ đến trước mé tây bắc mà chặn đường. Nàng cùng đường bí lối, ngồi phịch xuống giường chịu trận, chàng đến tận nơi, thấy dưới ánh đèn nàng đẹp như tiên, lần hồi ôm nàng vào lòng. Nàng cười hỏi:
- Cuồng sinh không sợ ma ư? Ta sẽ vật cho xem.
Chàng cởi tuột quần áo của nàng, nàng cũng không mấy chống cự, kế đó dịu dàng biện bạch:
- Em họ Chương, tên là A Đoan, sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, tính nó hung dữ bất nhân, thường đánh đập thẳng tay, khiến em buồn rầu chết yểu, xác chôn tại đây trên hai mươi năm rồi, dưới nền nhà này toàn là mồ mả.
Chàng hỏi mụ * già là ai, nàng đáp:
- Mụ cũng là một con ma cũ ở đây, theo em về hầu hạ. Trên có người sống ở thì ma quỷ ở dưới không yên, vì thế vừa rồi em sai mụ ra đuổi chàng đi.
Chàng lại hỏi mụ rờ rẫm nghĩa là thế nào, A Đoan nhoẻn cười và đáp:
- Mụ đó từng sống hơn ba mươi năm chưa được nếm mùi đời thú vị ra sao, nghĩ tình đáng thương, nhưng mụ rờ rẫm chàng như vậy, kể ra thật không tự biết xét mình chút nào. Tóm lại người nào nhút nhát thì ma chòng ghẹo, còn người nào cứng cỏi thì chẳng dám phạm đến.
Nghe chuông chùa bên xóm gõ rền, nàng mặc quần áo rồi bước xuống giường nói:
- Nếu chàng không nghi ngại thì đêm em lại tới.
Trời tối, quả thật nàng lại đến, cùng nhau ôm ấp mây mưa cực kỳ vui vẻ. Trong lúc đầu gối tay ấp, chàng thở dài mà nói:
- Vợ tôi chẳng may qua đời, tôi nghĩ thương nhớ không lúc nào nguôi, nàng có thể làm cách nào dắt hồn y về được không?
Nàng nghe kể càng chạnh lòng tủi thân:
- Tội nghiệp, em đây chết hai chục năm nay, có ai đoái hoài tưởng nhớ em như thế. Anh thật là người đa tình, em xin ráng sức giúp anh việc đó. Nhưng nghe nói chị đã đi đầu thai rồi, chẳng rõ còn ở dưới âm ty hay không?
Qua đêm sau nàng đến báo tin:
- Chị sắp được đầu thai vào nhà sang trọng anh ạ! Nhưng vì sinh thời có lúc mất đôi hoa tai, nghi con hầu ăn cắp, đánh nó, nó bực trí tự tử. Vụ án đó kiện đến nay chưa xong, nên còn hoãn lại. Bây giờ chị đang bị tạm giam ở trước công đường Diêm Vương, có lính canh giữ. Em sai mụ * đi lo lót hối lộ có lẽ sắp về.
Chàng hỏi sao nàng lại được thong thả. Nàng đáp:
- Phàm những ma quỷ uổng tử, nếu không tự xuống âm ty đầu thú, thì Diêm Vương cũng không biết tới.
Hết canh hai, mụ * già dẫn vợ chàng cùng đến. Chàng nắm tay vợ khóc lóc bi thảm, vợ chàng cũng sướt mướt không nói ra tiếng.
Nàng từ giã đi, nói:
- Thôi để anh chị hàn huyên với nhau, em xin đi, tối mai lại đến nhé.
Chàng an ủi và hỏi thăm vụ án con hầu tự tử, vợ đáp:
- Không hề chi, đã xử xong rồi.
Hai người đi ngủ, ôm ấp yêu thương y như lúc còn sống. Từ đó vợ chồng sum họp như thường. Sau năm bữa, bỗng vợ khóc ròng và nói:
- Ngày mai em phải đi Sơn Đông, thế là vợ chồng ta vĩnh quyết, biết làm thế nào?
Chàng nghe nói ôm mặt mà khóc vùi, hết sức thống thiết. A Đoan khuyên giải hiến kế:
- Em có một cách làm cho anh chị tạm thời sum họp được.
Hai người cùng gạt lệ hỏi cách nào? Nàng xin lấy mười xấp tiền giấy, đem đốt ở dưới gốc cây hạnh, trước nhà hướng nam, để nàng đem xuống âm ty hối lộ với kẻ phụ trách áp dẫn những người phải đi đầu thai, cầu xin trì hoãn ngày giờ lại ít lâu.
Chàng làm y theo.
Tối đến, vợ trở về nói:
- May nhờ cô Đoan lo lót đắc lực, nay được tụ họp thêm mười bữa.
Chàng mừng quá không cho Đoan bỏ về như mọi đêm, cố giữ nàng lưu lại, cùng nằm chung giường suốt đêm tới sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng hết.
Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc nức nở suốt đêm; lại nói Đoan xem có mẹo cao gì khác. Nàng nói:
- Xem chừng bận này khó tính quá! Tuy vậy, em cũng thử làm xem, nhưng không có giấy tiền trăm vạn không xong.
Chàng mua đủ số trăm vạn giấy tiền về đốt như trước.
- Em cậy người nói lót với chú cai áp dẫn, ban đầu ra vẻ khó khăn, chừng trông thấy nhiều tiền mới xiêu lòng. Bây giờ đã chọn con ma khác để đi đầu thai thế chân chị rồi.
Từ đó, ban ngày cùng ở với nhau, chẳng đi đâu nữa. Đoan bảo chàng dán giấy bịt kín cửa sổ, bên trong đèn thắp sáng không lúc nào tắt.
Sống như vậy hơn một năm, bỗng dưng nàng mắc bệnh, mê man rầu rĩ, luôn luôn hoảng hốt như thấy ma làm. Vợ chàng rờ vào mình nàng mà nói:
- Đây là bệnh ma thật.
Chàng ngạc nhiên hỏi:
- Quái lạ! Đoan đã là ma rồi, lại còn ma nào làm bệnh nữa kia?
Vợ cắt nghĩa:
- Không phải vậy đâu. Sự thật ma chết thành mỵ. Ma sợ mỵ cũng như người sợ ma vậy.
Chàng muốn đi mời thầy phù thủy về cúng lễ, vợ không nghe.
- Bệnh ma phải có thầy ma, chứ người chữa sao được? Mụ già họ Vương ở xóm ta hiện đang làm nghề cúng lễ ở dưới âm ty, để tôi đi gọi. Nhưng mụ ở cách xa hơn mười dặm, mà chân cẳng tôi yếu lắm, không thể đi được, vậy mình đốt cho tôi con ngựa giấy.
Chàng làm theo lời. Ngựa giấy chưa cháy tàn thì đã thấy con tớ gái dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân. Vợ chàng leo lên, chớp mắt biến mất. Giây lát lại cùng một mụ già cưỡi ngựa đến, cột ở dưới thềm. Mụ vào bóp mười ngón tay nàng, rồi thì ngồi xếp bằng ngay ngắn, tay bưng đầu lắc lư lên đồng, giây lát ngã xuống đất, rồi bò dậy nói:
- Ta là Hắc Sơn đại vương đây. Người con gái này bệnh nặng gặp ta là phúc lớn. Bệnh này là bệnh ma làm nhưng không hề gì. Muốn khỏi bệnh phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc không được thiếu món nào cả.
Vợ chồng đứng nép bên, vâng dạ răm rắp. Mụ đồng lại ngã xuống mà hồi tĩnh về hướng bệnh nhân la hét ít tiếng rồi thăng đồng. Thế là xong việc. Mụ xin đi, vợ chồng đưa ra ngoài sân tặng luôn con ngựa, mụ hớn hở lên đường.
Trở vào xem nàng, dường như hơi tỉnh, hai vợ chồng rất mừng rỡ về thăm hỏi, bỗng dưng nàng nói:
- Em không sống ở đời được nữa. Hễ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện lên, âu cũng là số mệnh đã đến lúc sắp hết rồi.
Nói đoạn khóc sướt mướt.
Qua đêm sau bệnh càng trầm trọng thêm, nằm co run rẩy, như là trông thấy yêu quái gì mà nhát sợ vậy, kéo chàng nằm chung, rúc đầu vào bọc chàng, sợ ai đến bắt đi. Chàng đứng dậy đi chỗ khác, nàng liền kinh hoàng kêu la dữ dội. Như thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng hết phương, không còn biết tính liệu cách nào.
Một hôm chàng có việc đi khỏi, nửa ngày mới về nghe tiếng vợ gào khóc, té ra Đoan nương đã tắt thở trên giường, thi hài phủ chăn còn đó. Chàng mở ra xem, thấy xương trắng một đống, thương khóc cực thảm rồi lấy lễ tống táng như người, chôn cất bên cạnh mồ mả ông bà.
Đêm đó, vợ đang ngủ mà khóc thổn thức, chàng lại hỏi chuyện gì. Vợ nói:
- Vừa rồi tôi chiêm bao thấy Đoan nương về, kể chuyện thằng chồng cô đã hóa ra mỵ (ma chết thành mỵ), tối đến đòi mạng. Cô xin vợ chồng ta làm một tuần chay cho vong linh cô.
Sáng ra chàng thức dậy sớm, sửa soạn đi rước thầy chùa vào mua sắm các thứ để làm tuần chay, vợ ngăn lại nói:
- Làm chay siêu độ ma mỵ, chàng biết đâu mà sắm sửa? Để đó tôi lo.
Nói rồi đi liền, một chặp trở về, cho hay đã sai người đi mời thầy chùa, bây giờ phải đốt giấy tiền trước cho họ làm lộ phí.
Chàng làm y lời.
Mặt trời vừa lặn, đã thấy lũ thầy chùa kéo đến, trống mõ đồ cúng mọi thứ giống như trần gian. Vợ chàng kêu trống mõ làm đinh tai nhức óc, nhưng chàng tuyệt nhiên không nghe tiếng động gì hết.
Cúng xong, vợ lại chiêm bao thấy Đoan nương về tạ ơn, nhân dịp cho biết oan cừu đã rửa sạch rồi, sắp sửa đi thác sinh làm con gái của một vị Thành hoàng nhờ chị nói lại cho anh hay.
Vợ chàng ở nhà với chồng ba năm, ban đầu gia nhân nghe thì sợ hãi, lâu dần trở nên quen thuộc, thân cận như thường. Chàng đi đâu vắng thì tôi tớ ở nhà đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm công việc nọ kia cho bà chủ biết. Một đêm, tự dưng vợ khóc và nói với chồng:
- Mình ơi! Người lính áp dẫn đầu thai độ nọ, đã bị tiết lộ công việc man trá mà bị mất chức và bị tội rồi. Nay âm ty lùng bắt tôi gấp lắm, e vợ chồng ta không còn được sum họp bao lâu nữa.
Mấy hôm sau, quả nhiên sinh bệnh, nàng nói:
- Mối tình gắn bó, chỉ mong được chết mãi còn hơn, chẳng vui sướng gì đi thác sinh. Thế mà nay chúng ta sắp phải vĩnh quyết nhau, chẳng phải tự số trời xếp đặt ư?
Chàng bi thương hết sức, hỏi xem còn có mưu kế gì để được đoàn tụ mãi với nhau. Vợ nói:
- Bây giờ không còn có cách gì nữa.
- Thế, mình trốn bấy lâu có bị trừng phạt gì không?
- Có, nhưng chỉ xoàng thôi. Trốn sống mới có tội to, trốn chết chỉ qua là tội nhỏ.
Nói đoạn không nhúc nhích cựa quậy gì cả, dòm kỹ lại thì thấy hình thể biến đi lần lần tới hết.
Chàng thường nằm ngủ một mình trong nhà hoang, mong được tái ngộ, nhưng không có gì lạ. Từ đó nhà cửa hết có ma quỷ quấy nhiễu, gia nhân ở yên.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Một nhà đĩ chồn (Nha đầu)


Học sinh Vương Văn người Đông Xương, từ nhỏ tính vốn thật thà, đi chơi đất Sở, trời tối gặp sông lớn chưa qua được phải vào nhà trọ nghỉ ngơi, dạo bước ngoài cửa xem cảnh.
Người đồng hương là Triệu Đông Lâu, buôn bán lớn, thường mấy năm không về nhà một lần, nay gặp Vương ở xứ lạ tay bắt mặt mừng, liền mời đi tiêu khiển chơi.
Đến nơi, chàng dòm thấy trong nhà có mỹ nhân ngồi, kinh ngạc lùi bước. Triệu cố lôi kéo, lại đứng ngoài cửa sổ kêu gọi Nật Tử, bảo nàng tránh đi, bấy giờ Vương mới chịu vào.
Triệu sai dọn cơm rượu thết đãi, chuyện vãn ân cần. Vương nói:
- Đây là nhà ai?
- Nhà này là một nhà chứa nho nhỏ - Triệu đáp. Tôi vì sống ở quê người đất khách lâu ngày, cho nên tạm lấy chốn này làm trò vậy.
Trong lúc hai người đang nói chuyện, Nật Tử thường ra vào dòm ngó luôn, khiến cho Vương nhột nhạt không yên, liền đứng dậy từ biệt. Triệu cố níu chàng ngồi lại. Giây lát, một thiếu nữ đi qua trước cổng trông thấy chàng, liếc mắt đưa tình, sóng thu lai láng mà dáng người ả, có vẻ thần tiên. Thuở nay chàng vốn đứng đắn thế mà bây giờ ngây ngất xiêu lòng, hỏi thăm cô gái đẹp ấy là ai. Triệu đáp:
- Con gái út của bà chủ này đó. Nàng tên là Nha Đầu, mới có mười bốn tuổi, bọn vương tôn quý khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ, nhưng nàng nhất định không chịu, thành ra bị mẹ đánh đập khốn khổ chỉ vì còn ít tuổi, nhờ năn nỉ lạy lục mới êm. Hiện nay còn đang kén chồng đó.
Vương nghe nói cúi đầu ngồi lặng, như mộng như si, đến nỗi chuyện trò thù tạc sai cả đầu đề. Triệu hỏi bỡn:
- Nếu anh ưng ý thì tôi làm mai cho.
Vương ngậm ngùi nói mình không dám có ý nghĩ ấy đâu. Tuy nhiên, trời đã xế bóng chàng vẫn ngồi lì, chẳng nói gì tới sự đi về. Triệu lại đùa bỡn hỏi lại lần nữa. Vương nói:
- Bạn có lòng tốt, tôi rất cảm tạ, chỉ hiềm cạn túi, biết làm thế nào?
Triệu biết tính ý Nha Đầu cứng cỏi, nếu ít tiền chắc nàng không chịu tiếp, cho nên tình nguyện giúp mười lạng. Chàng bái tạ về nhà trọ dốc hết tiền bạc trong hầu bao rồi đến chỗ cũ, đếm được năm lượng, năn nỉ Triệu nói giùm với mụ tào kê. Quả nhiên, mụ chê ít, không thuận, Nha Đầu nói:
- Thường ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ: nay xin theo ý muốn. Con mới học ra đời, thế nào cũng có ngày báo đáp ơn mẹ. Vậy mẹ đừng chê món tiền nhỏ mọn, mà xua đuổi ông Thần Tài đi.
Mẹ thấy tính con bướng bỉnh, giờ được nó ưng chịu như thế, hết sức mừng rỡ bèn nhận lời ngay sai con ở đi mời Vương Văn.
Triệu thấy vậy, không thể chạy chối lời hứa, bèn xuất thêm mười lượng phụ vào món tiền của Vương Văn mà trao cho mụ.
Vương cùng Nha Đầu vui vẻ yêu đương nhau rất mực. Đoạn, nàng hỏi Vương:
- Em là con nhà trăng hoa hèn mọn, không đáng cùng chàng sánh đôi bằng lứa. Nay được chàng đoái thương, nghĩa ấy rất nặng, em không quên. Nhưng chàng trút túi để mua cho được một cuộc vui thú đêm nay, rồi ngày mai thì sao?
Chàng cảm động, khóc lóc than thở. Nàng khuyên can:
- Xin đừng bi thương làm chi. Em gửi thân trong chốn phong trần, nhưng không phải thật tâm muốn vậy; chẳng qua chưa gặp được người thành thực như chàng, đáng cho em trao gửi tấm thân, cho nên đành phải nấn ná đó thôi. Bây giờ em xin trốn đi theo chàng đêm nay.
Vương hớn hở vùng dậy, nàng cũng đứng lên, nghe trống canh đã điểm ba tiếng, lật đật thay đổi y phục, giả làm con trai, cùng chàng mở cửa ra đi.
Chàng ghé nhà trọ, gõ cửa chủ nhân, lấy cớ có việc gấp kêu lão bộc thức dậy thu nhặt hành lý và dắt lừa đi ra tức khắc.
Nàng lấy bùa dán vào bên tai lừa, thế rồi buông cương cho chạy như bay, hai mắt nhắm nghiền, bên tai chỉ nghe gió thổi vu vu. Sáng sớm đến Hán Giang, mướn chỗ ở tại chỗ. Vương ngỏ ý kinh ngạc, nàng thú thiệt:
- Nói ra có lẽ chàng sợ hãi chăng? Sự thật em không phải là người. Em chính là chồn đây. Mẹ em tham dâm hàng ngày em bị ngược đãi, chứa chất bực tức trong lòng đã nhiều, nay gặp may mắn được thoát thân bể khổ, ở ngoài trăm dặm, mẹ em chẳng biết đâu mà tìm, huống cho còn xa hơn nữa, vợ chồng ta có thể yên ổn vô hại.
Chàng nghe nói yên lòng, chẳng ngờ vực chi, nhưng rồi chậm rãi thở than:
- Ngồi ngắm bông phù dung tươi đẹp, mà nhà trơ bốn vách, nghĩ thật buồn rầu, chỉ sợ mình cực khổ quá, rồi sớm muộn cũng đến bỏ tôi mà đi.
Nàng an ủi chồng:
- Sao lại lo nghĩ vơ vẩn như thế? Bây giờ ta buôn bán lặt vặt, trong nhà chỉ có ba miệng ăn, sống với nhau một cách đạm bạc có thể no đủ. Vậy chàng bán phắt con lừa kia đi mà làm vốn buôn bán.
Chàng y lời, lập ngay trước cửa một quán tạp hóa nho nhỏ; hai thầy trò xuất lực làm việc, bên trong bán rượu và tương, mắm phụ thêm; còn nàng thì may thuê thêu mướn, ngày ngày kiếm được dư dật, sự ăn uống cũng được phong lưu.
Hơn một năm lần hồi nuôi được * bõ con hầu, từ đó chàng không phải bắt tay vào công việc nặng nhọc nữa, chỉ đứng chỉ bảo trông nom thế thôi.
Một hôm, bỗng dưng nàng buồn rầu nói:
- Đêm nay có tai nạn đưa tới, biết làm thế nào?
Vương gạn hỏi tai nạn gì, nàng đáp:
- Mẹ em đã dò biết tung tích, chắc bà sinh sự bức bách chứ không để yên. Nếu bà sai Nật đến thì vợ chồng ta khỏi lo, chỉ sợ bà thân hành đến mới nguy.
Đêm ấy đã khuya, nàng ngỏ ý vui mừng và nói cho chồng hay rằng:
- Chị Nật sắp tới đó.
Một lúc, quả nhiên Nật tự đẩy cửa vào, nàng tươi cười đón rước. Nật Tử nhiếc mắng:
- Con ranh bỏ nhà theo trai đi trốn, không biết thế là xấu hổ ư? Mẹ sai tao trói mày dẫn về xử tội.
Nói đoạn lấy dây lòi tói ra, buộc vào cổ nàng.
Nàng phát giận, chống cự lại:
- Đi theo một người mà thờ, thì có tội gì chớ!
Nật Tử càng tức, lôi kéo nàng đứt cả vạt áo. Lũ tôi tớ trong nhà nghe động, cùng tụ tập lại can thiệp. Nật Tử sợ hãi, vội vàng dông mất. Nàng nói:
- Chị về báo tin, mẹ em chắc sẽ tự đến, vạ lớn tới nơi, ta nên tính trước.
Lập tức hô bảo gia nhân thu dọn đồ đạc để đi nơi khác. Bất đồ bà mẹ đã xồng xộc bước vào, nét mặt hầm hầm:
- Tao biết con khốn nạn này vô lễ, cho nên tao phải tự tới nơi mới xong.
Nàng quỳ xuống khóc lóc năn nỉ. Mụ chẳng nói chẳng rằng, túm tóc nàng lôi đi mất.
Chàng thương nhớ bâng khuâng, bỏ ăn quên ngủ, mau mau lên đường tới Đại Hà, mong có thể bỏ tiền ra chuộc lấy nàng về. Nhưng đến nơi thì cửa nhà y cũ, người ở khác xưa, hỏi thăm không ai biết nhà mụ dọn đi đâu, chàng ngậm ngùi trở về Hán Giang. Rồi phân tán đồ đạc cho người ta, còn bao nhiêu thì chuyển về quê nhà Đông Xương.
Cách mấy năm sau, ngẫu nhiên đi vào Yên Kinh, qua viện Dục Anh (tức là nhà nuôi trẻ côi cút) trông thấy đứa bé chừng bảy, tám tuổi, người lão bộc lấy làm lạ, bởi mặt mày đứa bé thật giống chủ như đúc cho nên chăm chăm dòm ngó mãi. Vương hỏi tại sao cứ nhìn thằng bé không chớp mắt, lão bộc cười và nói rõ nguyên nhân.
Chàng cũng cười, nhìn kỹ thằng bé bộ dạng chững chạc, tự nghĩ mình chưa có con, nhận thấy nó giống mình, liền động lòng thương yêu, xuất tiền chuộc nó.
Hỏi tên họ là gì nó tự xưng là Vương Tư. Chàng hỏi vặn:
- Khi mày còn bé tí, đã bị cha mẹ bỏ rơi cho vào viện Dục Anh, tại sao biết tên họ rành mạch như thế?
Vương Tư đáp:
- Thầy học con thường kể chuyện, lúc bắt được con đem về nuôi, trước bụng có viết hàng chữ: Con của Vương Văn ở Sơn Đông.
Chàng nghe cả kinh:
- Quái lạ! Ta đây chính là Vương Văn, có con hồi nào ở đây?
Chàng nói vậy, rồi suy nghĩ tất là người nào trùng tên mình, nhưng trong bụng mừng thầm vớ được thằng bé ngộ nghĩnh lanh lợi, cho nên hết sức thương yêu. Đưa nó về quê nhà, người ta trông thấy không cần phải hỏi, biết ngay là con của Vương Văn.
Tư lớn lên, vạm vỡ có sức, thích săn bắn chứ không lo việc trong nhà, lại ham đánh lộn chém người. Vương chẳng ngăn cản được. Tư lại khoe mình trông thấy ma quỷ, chồn tinh, ban đầu không ai thèm tin; về sau trong nhà nọ bị chồn quấy nhiễu, mời Tư đến xem giùm.
Tư đến nơi, chỉ vạch những nơi chồn ẩn nấp kín đáo, sai mấy người vác gậy cứ theo ngón tay mình trỏ bảo mà đánh túi bụi, quả nghe tiếng chồn kêu rối rít và tìm thấy chỗ đó còn lông máu tơi bời. Nhờ vậy mà nhà này mới yên. Sau đó, người ta bàn tán với nhau, càng tin Tư là một nhân vật lạ lùng.
Một hôm. Vương đi dạo phố, chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo lôi thôi, mặt mày ảm đạm, bất giác sửng sốt hỏi ở đâu đến mà thân thể tiêu điều quá vậy! Triệu nhăn mặt xin hẹn thong thả hoàn hồn sẽ nói. Chàng liền dẫn về nhà đãi ăn uống, rồi Triệu kể chuyện.
- Mụ đi bắt được Nha Đầu đem về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên phía Bắc muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề chết không lấy hai chồng. Vì thế mụ giam giữ trong buồng kín suốt ngày như ở tù ngục vậy. Nàng sinh hạ đứa con trai, mụ đem bỏ ra ngoài đường, có lẽ nay đã trưởng thành, ấy là cục máu của anh bỏ rơi đó.
- Nhờ trời xui khiến tôi đã đưa được con về đây rồi.
Đoạn, kể chuyện đầu đuôi gặp gỡ cho Triệu nghe.
Triệu thở dài và nói:
- Anh ạ! Ngày nay tôi mới biết bọn lầu xanh bạc bẽo, chớ có tin tưởng quá mà chết. Nhưng khi tỉnh ngộ thì đã muộn rồi, còn nói chi nữa?
Nguyên lúc mụ dời lên Bắc, tức là Yên Kinh, nơi đóng đô của Minh triều hồi đó. Triệu lấy cớ buôn bán đi theo, những hóa vật nặng nề khó chở thì bán rẻ đi hết. Dọc đường bao nhiêu phí tổn chi tiêu, Triệu đều nai lưng gánh vác; mà phí tổn rất nhiều cho nên thâm thủng tiền vốn hết. Đã vậy Nật Tử đòi bóc lột thẳng tay, trong vài năm, bạc muôn của Triệu mất sạch. Bấy giờ mụ thấy Triệu hết tiền, xoay ra bạc đãi. Nật Tử cũng bỏ nhà đi ngủ với những vương tôn quý khách, luôn mấy đêm không về là thường. Triệu tức giận quá nhưng không biết làm cách nào.
Có bữa, mụ già đi vắng, Nha Đầu đứng cửa sổ kêu Triệu nói:
- Chốn lầu xanh không có tình nghĩa gì cả, họ gắn bó chiều chuộng người ta chỉ vì tiền bạc đó thôi. Anh còn luẩn quẩn ở nhà này, tất sẽ rước lấy tai vạ lớn đó.
Triệu sợ toát mồ hôi, như người ngủ mê mới tỉnh, quyết kế bỏ nhà này ra đi. Khi sắp lên đường, lén vào thăm Nha Đầu. Nàng trao cho bức thư, nhờ đưa hộ Vương. Đó rồi Triệu đi.
Nói đoạn, Triệu lấy bức thư của Nha Đầu đưa cho chàng. Đại khái thư viết thế này:
- Em biết thằng Tư, đứa con yêu dấu của chúng ta, hiện đã ở bên cạnh chàng rồi. Tai ách của em ra sao, anh Đông Lâu thấy rõ, anh sẽ thuật lại cho chàng nghe. Kiếp trước em vụng tu thế nào khiến cho kiếp này khổ não, khôn xiết nói năng. Giờ em bị nhốt trong buồng kín, tối tăm không thấy bóng mặt trời; bị đánh đập tới phồng da nát thịt, mà lửa đói như thiêu đốt ruột gan. Một ngày ở đây dài đằng đẵng như một năm. Nếu chàng không quên lúc chúng ta ở Hán Giang; đêm tuyết trời lạnh mà vợ chồng chỉ có một chiếc mền đơn, co ro với nhau cho ấm; vậy chàng nên cùng con mưu tính, giải thoát cho em ra khỏi nơi tai ách này. Mẹ em với chị em dẫu chi cũng là cốt nhục, xin chàng với con nhớ nương tay tha thứ, dừng làm thương tàn, ấy sở nguyện của em chỉ có thế thôi.
Vương xem thư khóc ngất, lấy vàng lụa ra tặng Triệu để cho Triệu đi.
Lúc này, Tư đã mười tám tuổi. Vương kể rõ gốc ngọn đầu đuôi cho con nghe, lại đưa cho con xem bức thư của mẹ nó gửi về. Tư trợn mắt tức giận, nội ngày hôm đó lên đường vào Yên Kinh, hỏi dò địa chỉ của Ngô Ôn, giữa lúc ngựa xe đậu đầy trước cửa. Tư đi thẳng vào trong nhà. Nật Tử đang ngồi uống rượu với khách trông thấy Tư cầm dao, sợ hãi biến sắc toan chạy nhưng không kịp, vì Tư đã xông đến nơi đâm chém lia lịa.
Khách khứa cả kinh, tưởng là giặc cướp, chừng ngó lại xác Nật Tử đã thấy hiện nguyên hình là con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà sau, Ngô Ôn đang đốc thúc tôi tớ nấu đồ ăn, thoáng trông thấy Tư, biết có sự chẳng lành, vội vàng biến mất. Tư ngó quanh tứ phía, mau mau lấy cung lắp tên, bắn lên dầm nhà một con chồn bị trúng tim rơi xuống đất chết ngay. Tư cắt lấy đầu rồi tìm chỗ mẹ bị giam, vác đá phá cửa mà vào. Mẹ con thấy nhau mừng mừng tủi tủi cùng la thất thanh.
Mẹ hỏi bà cụ đâu, Tư nói đã giết chết rồi. Mẹ hờn giận nói:
- Sao con không nghe lời ta dặn dò từ trước?
Nàng nói rồi bảo Tư thu nhặt thi thể bà cụ đem ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả vờ vâng lời, nhưng lột lấy da cất đi. Rồi Tư lục soát rương hòm của bà cụ, lấy hết xống áo, tiền bạc trong đó, đưa mẹ lên đường trở về quê nhà. Vợ chồng xa cách nay được trùng trùng, nửa vui nửa khóc. Chàng hỏi Tư về sự chôn cất Ngô Ôn. Tư đáp:
- Còn ở trong túi con đây này!

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Cậu bé đa tình (Thanh Nga)


Hoắc Hoán, tự Khuông Cửu, người đất Tấn (tức Sơn Tây ngày nay) cha làm quan huyện úy mất sớm, để chàng mồ côi khi còn bé bỏng.
Chàng thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng vào học trường tỉnh. Nhưng bà mẹ cưng con hết sức, cấm ra khỏi sân nhà, thành ra mười ba tuổi đầu mà không biết phân biệt ai là chú bác cô cậu.
Trong làng có ông Võ bình sự (họ Võ làm chức bình sự) là người mộ đạo thần tiên, lên núi không về. Nhà có cô con gái tên Thanh Nga, mười bốn tuổi, sắc tuyệt đẹp, thuở bé đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ đành chiều ý con, chứ không còn cách nào ép uổng được.
Một bữa, Hoắc sinh đứng chơi ngoài cổng, ngó thấy Thanh Nga. Trẻ con tuy chưa biết gì, chỉ thấy tình yêu nổi lên rạo rực, mà không biết ngỏ ra lời, chạy về nói thật với mẹ, đòi sai người đi làm mai Thanh Nga cho mình. Mẹ biết là việc không xong cho nên ngần ngại. Chàng đâm ra uất ức bất đắc chí, mẹ sợ con buồn, nên nhờ người lui tới ngỏ ý với nhà họ Võ. Quả nhiên việc không thành.
Chàng đi đứng suy nghĩ, chưa ra kế gì hay. Vừa gặp một đạo sĩ ngoài cổng, tay cầm cái bay nho nhỏ, dài non một thước, chàng mượn xem và hỏi dùng làm việc gì. Đạo sĩ nói:
- Khí cụ để đào vị thuốc. Nó tuy nhỏ mà đá cứng cũng đâm thủng như chơi.
Chàng không tin. Đạo sĩ liền chém vào tảng đá trên tường, liền tay bể nát.
Chàng lấy làm lạ, cầm mân mê ngắm nghía không nỡ rời tay, đạo sĩ nói:
- Công tử đã ưa thì tôi xin tặng đó.
Chàng mừng quá, muốn lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ bỏ đi không lấy.
Đem vào nhà, chàng thử chém vào đá, đều bể phăng phăng, chợt nghĩ ta dùng vật này đào tường khoét vách thì được thấy mặt mỹ nhân, trong ý không hề biết đó là sự phi pháp.
Canh khuya vắng vẻ, chàng leo tường đi thẳng đến nhà họ Võ, đào khoét hai lớp tường mới vào tới sân giữa, thấy trong căn nhà nhỏ còn sáng đèn, núp lên dòm vào thì thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ, sửa soạn đi nằm. Giây lát, đèn tắt, bốn bề lặng lẽ không nghe một tiếng động, chàng xuyên tường chui vào, nàng đã ngủ say, bèn tháo nhẹ đôi giày leo đại lên giường. Lại sợ nàng thức giấc kinh hoàng mà rầy mắng, đuổi đi thì dại mặt, cho nên lén nằm phục bên cạnh mền thêu, lặng hơi thở thơm phức, trong lòng tự lấy làm sung sướng.
Khốn nỗi mất công nửa đêm đào khoét hì hục, tới đây mệt mỏi lắm rồi thành ra chợp mắt ngủ lúc nào không hay. Nàng tỉnh giấc nghe tiếng ngáy khò khò mở mắt ra nhìn, thấy lỗ tường có ánh sáng lọt và, bất giác sợ hết hồn vía vội vàng trỗi dậy, lay nhẹ con hầu, cùng nhẹ nhàng mở cửa chạy ra, đứng ngoài cửa sổ kêu gọi gia nhân.
Bọn này thắp đuốc cầm dây chạy vào, thấy một cậu học trò để chỏm ngủ mê mệt trên giường. Họ dòm kỹ biết là Hoắc sinh, liền đánh thức dậy.
Chàng vùng dậy, cặp mắt long lanh như sao băng dường như không có vẻ gì sợ hãi, chỉ thẹn thùng không nói được lời nào. Mọi người hô là kẻ trộm và lớn tiếng nạt nộ, bấy giờ chàng mới tuôn nước mắt khóc và nói:
- Tôi chẳng phải trộm cướp gì đâu, thiệt tình chỉ vì yêu mến cô nhà, nên muốn được gần kề hương trạch thế thôi.
Người ta thấy tường khoét mấy lớp, ngờ rằng đứa con nít không thể làm nổi, chắc có đồng lõa. Nhưng chàng đưa cái bay cho mọi người xem và tả phép lạ của nó. Họ thay phiên thí nghiệm, cùng phải kinh dị là của thần cho, toan đi trình báo cho phu nhân biết, Thanh Nga cúi đầu suy nghĩ có ý không muốn làm như vậy. Ai nấy đón biết ý nàng cùng nói:
- Anh chàng này cũng là con nhà thanh danh, xứng với nhà ta, chi bằng thả cho y về, để y cậy mai mối đến cầu hôn thì hơn. Sáng ngày chúng ta lấy chuyện trộm đạo trình báo phu nhân, như thế có được chăng?
Nàng không đáp. Mọi người bèn giục chàng đi. Chàng đòi cái bay, khiến họ phì cười:
- Cậu bé ngây thơ vẫn không quên món đồ sinh chuyện này ư?
Chàng dòm bên gối, có một chiếc thoa, lén đút vào tay áo, con hầu trông thấy, mách với nàng, nàng không nói gì cũng chẳng có vẻ giận. Một mụ ở đẩy chàng bảo đi, chàng lại chui qua lỗ ra về.
Về nhà, không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ lại cậy mối đi nói. Mẹ không nỡ cự tuyệt ra mặt, nhưng cậy mai mối gấp rút đi tìm đám khác để dạm cho chàng. Thanh Nga nghe chuyện trong lòng bàng hoàng, ngầm sai người làm phúc đến ngỏ ý với bà mẹ chàng tới nói, tất là xong việc.
Bà mẹ chàng mừng rỡ, liền cậy mối đi. Giữa lúc đó, con bé hầu dại mồm dại miệng tiết lộ câu chuyện hôm nọ ra. Võ phu nhân lấy làm nhục nhã gia phong, hết sức phẫn uất. Mụ mối thò mặt đến càng chọc giận thêm, phu nhân cầm gậy vạch đất mà mắng nhiếc chàng, luôn tới bà mẹ.
Mụ mối sợ quýnh, lật đật chuồn thẳng, về thuật lại tình trạng, mẹ chàng cũng nổi giận, nói lớn:
- Thằng ranh con làm chuyện đào tường khoét ngạch như thế, già này đâu có hay biết. Cớ sao buông lời vô lễ động chạm đến ta? Ngay khi bắt được chúng nó kề đùi kề vế nhau, sao không đem cả đôi đảng nhi phu dâm phụ mà giết phăng đi có được không?
Từ đó, bà gặp họ hàng thân thuộc, đều giãi bày chuyện đó, Thanh Nga nghe thấy, xấu hổ muốn chết. Võ phu nhân hết sức ăn năn, nhưng có cách nào cấm được mẹ chàng đừng nói. Nàng lại sai thân tín đến bày tỏ an ủi mẹ chàng, nhân dịp thề nguyện không khi nào thay lòng đổi ý. Lời lẽ thiết tha khiến cho mẹ chàng cảm kích, bấy giờ mới chịu thôi không rêu rao nữa, mà việc dự định cầu hôn cũng bỏ qua luôn.
Nhằm dịp Âu Công đến trấn nhiệm quận này, xem văn bài của chàng, đem lòng quý mến, thường gọi vào trong dinh, tiếp đãi rất hậu. Một hôm ông hỏi chàng đã có vợ chưa; chàng đáp chưa; ông gạn hỏi tỉ mỉ chàng mới thú thật:
- Bẩm ngài, lúc trước tiểu sinh với con gái quan Võ bình sự có lời hẹn ước, về sau có chuyện xích mích, thành ra bỏ dở dang.
- Thế bây giờ cậu còn muốn lấy đám đó không?
Chàng đỏ mặt không nói gì. Âu Công cười nói:
- Nếu muốn thì ta giúp cho thành sự mà!
Lập tức ông sai huyện úy và giáo du đứng ra cầu hòa, nộp đủ lễ vật ở nhà họ Võ.
Võ phu nhân thấy vậy rất mừng, cuộc hôn nhân mới xong. Qua năm cưới nàng về, nàng ném cái bay xuống đất và nói:
- Đồ dùng trộm đạo này, không quăng đi cho rảnh còn để làm gì?
Chàng cười, lượm cái bay lên và nói:
- Nó là mụ mai cho vợ chồng mình đó, không nên quên ơn.
Đoạn cột dây đeo bên mình, không rời lúc nào.
Nàng hiền lành, ít nói, mỗi ngày ba lượt đến thăm hầu mẹ chồng, còn thì đóng cửa, ngồi lặng lẽ một mình, không lưu tâm gì đến việc nhà. Nhưng mỗi khi mẹ chồng có tiệc mừng hay đám tang mà vắng mặt, thì bao nhiêu gia sự một tay nàng liệu xếp đặt, đâu đó xong xuôi.
Hơn hai năm, nàng sinh một gái, tên là Mạnh Tiên, nhất thiết giao cho người * trông nom, tự mình dường như chẳng ngó ngàng thương yêu chút nào.
Lại bốn năm sau, bỗng dưng nói với chồng:
- Vợ chồng ta ăn ở với nhau đến nay đã tám năm, nay đã đến lúc ly biệt nhau, biết làm thế nào?
Chàng cả kinh gạn hỏi duyên cớ, nàng chỉ làm thinh.
Kế đó mặc áo đàng hoàng, vào nhà trong lạy mẹ chồng, trở về buồng mình nằm ngửa trên giường, chàng theo chất vấn, thì ra nàng đã tắt hơi thở rồi.
Mẹ con thương khóc đau đớn hết sức, chôn cất trọng thể.
Bà cụ già đã yếu thường thường ẵm cháu lại tưởng nhớ mẹ nó, ruột gan như xé, vì đó mang bệnh mệt đuối không dậy được. Nằm nghĩ thèm ăn canh cá, mà quanh miền không có cá, muốn có phải đi cách xa hơn trăm dặm mới mua được.
Lúc đó tôi tớ trong nhà lại sai đi công việc xa vắng tất cả. Tính chàng hiếu chí, không thể chờ đợi tôi tớ trở về mà sai, liền bỏ tiền vào túi ra đi một mình, đêm ngày không nghỉ.
Chàng về đến giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai cẳng đã kiệt sức, không muốn bước nữa. Chợt có một cụ già đi tới, hỏi chàng:
- Có phải sưng cẳng không?
Chàng dạ dạ nói có. Cụ liền đỡ chàng ngồi xuống đường, cầm đá mài cọ vào nhau để lấy lửa, rồi bọc thuốc bột trong mảnh giấy ra, mà hơ hai cẳng cho chàng, xong rồi cụ bảo thử đứng lên đi xem.
Giờ chẳng những hết đau mà lại còn thấy cứng cáp lanh lẹ hơn. Chàng hết sức cảm tạ. Cụ hỏi có việc gì đi hấp tấp làm vậy; chàng nói mẹ đau nặng ở nhà, nhân dịp kể hết chuyện gia đình. Cụ già hỏi:
- Sao không lấy vợ khác?
- Thưa cụ, vì chưa tìm được người nào khác.
Cụ giả trỏ vào xóm núi trước mặt mà nói:
- Trong đó có một giai nhân, nếu cậu theo lão dẫn đi, lão sẽ mai cho.
Chàng từ chối, nói rằng mẹ già đang mắc bệnh, chờ lấy cá ăn, cho nên chẳng còn tâm địa nào vội nghĩ tới chuyện lúc này. Cụ chắp tay chào, hẹn ngày khác đến xóm này cứ hỏi ông già họ Vương sẽ cùng nhau tái ngộ, nói rồi từ biệt đi.
Về nhà, chàng mổ cá nấu canh dâng lên mẹ ăn được chút ít, nói rồi từ biệt đi.
Chàng bèn cưỡi ngựa dẫn tôi tớ đi theo, tìm kiếm cụ già hôm đó.
Đến chỗ cũ, nhìn quanh chẳng thấy xóm làng ở đâu cả. Quanh quất cả giờ, bóng chiều dần xế mà núi hang tứ tung, không thể trông rõ được hết. Chàng và người tùy bộc chia nhau lên đỉnh núi gồ ghề cưỡi ngựa không được, liền bỏ ngựa đi bộ mà lên, tới nơi thì trời dần chạng vạng rồi.
Đứng nhìn tứ phía cũng chẳng thấy xóm làng nào, vừa toan trở xuống thì lạc mất đường đi, trong lòng nóng sôi như đốt.
Chàng lần mò từng bước, trượt chân ngã xuống khe núi thăm thẳm. May phúc dưới đó mấy thước có một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang, chàng té nằm trên nóc, bề rộng vừa đủ dung thân, dòm xuống dưới đen thui chẳng trông thấy đáy. Chàng sợ hết hồn không dám nhúc nhích. Lại may sườn núi có những cây cối nho nhỏ ước chừng bằng cây song cửa, chàng vịn tay định thần giây lát, nhận thấy bên chân có một cửa động nhỏ, lòng khấp khởi mừng thầm, bèn tựa lưng vào đá, mon men chui vào.
Vào cửa động rồi hơi vững dạ, mong đến trời sáng có thể kêu cứu. Giây lát, nhìn trông xa có ánh sáng bé tí như ngôi sao, chàng đi lần tới chừng hai ba dặm, bỗng thấy nhà cửa san sát, bên trong chẳng có đèn đuốc gì hết, mà sáng trưng như ban ngày. Một mỹ nhân từ trong buồng đi ra, nhìn kỹ đó là Thanh Nga. Nàng trông thấy chàng cả kinh và hỏi:
- Sao cậu lần mò tới được chốn này?
Chàng không bày tỏ căn do, nắm lấy tay nàng mà thổn thức muốn khóc. Nàng khuyên lơn và hỏi thăm tin mẹ với con, chàng kể hết cảnh khổ, khiến nàng cũng buồn thảm. Chàng hỏi:
- Ủa! Mình chết đã hơn một năm rồi mà. Đây là âm ty chăng?
Nàng đáp:
- Không phải! Đây là động tiên. Lúc trước tôi không phải chết thiệt đâu. Cậu đem chôn chỉ là một cây gậy trúc đó thôi, nay cậu đến đây là có duyên phận thành tiên.
Đoạn, nàng dẫn vào chào thân phụ, một người vạm vỡ râu rậm ngồi chễm chệ ở nhà trên. Chàng vào lạy chào, nàng đứng bên thưa rằng:
- Bẩm cha, có Hoắc lang đến chào cha.
Ông giật mình đứng lên, cầm tay hỏi chuyện rồi nói:
- Con rể ta đến đây thật là hay. Con có duyên số phải ở lại đây với ta.
Chàng chối từ còn có mẹ ở nhà mong đợi, không thể nào ở lâu được. Ông nói:
- Ta cũng biết vậy, nhưng ở chơi đôi ba ngày có hề chi.
Rồi ông sai bày cơm rượu thết đãi xong, gọi con thị nữ dọn giường ở chái tây, trải nệm gấm cho chàng nằm nghỉ.
Chàng cáo thoái về phòng khách, một hai níu kéo nàng cùng nằm với mình. Nàng gạt đi:
- Đã vào chốn này là động tiên, chớ có phải phàm trần đâu mà bày trò tục tĩu ra?
Chàng nắm tay chặt cứng, không chịu buông, con thị nữ đứng ngoài cửa sổ cười hì hì, khiến nàng thêm hổ thẹn. Giữa lúc đang trì kéo nhau, thì ông nhạc đến la mắng om sòm:
- Quân phàm tục làm nhơ nhuốc động phủ của ta, mau mau cút đi!
Chàng vốn người nóng tính bây giờ bị xấu hổ, không nhịn được, trừng trợn đáp lại ông nhạc:
- Cái tình vợ chồng ai mà thoát khỏi? Người sao lại đi rình dòm ngó, nghĩa là gì? Tôi có thể đi ngay lập tức, nhưng phải cho con gái ông đi với tôi mới được, đạo gái theo chồng phải thế.
Ông chẳng bắt bẻ gì được, đành bảo con gái đi theo, rồi mở cổng sau tống hai chân ra. Nhưng lừa chàng đi ra trước, cha con đóng sập cửa lại. Chàng ngoảnh lại xem, thì vách đá cao ngất không thấy hở chỗ nào, mà chiếc thân bơ vơ, chẳng biết đi đâu; nhìn lên trời thì trăng đã xế, sao đã thưa; tần ngần giây lâu, hết bí tới hận, rồi đứng trước vách đá kêu gào, cũng không nghe bên trong ừ hử gì hết. Chàng phẫn uất cực điểm, liền lấy cái bay vẫn đeo bên mình ra, tấn công vào đá huỳnh huỵch, vừa đục vừa chửi, giây lát lủng sâu vào ba bốn thước, thì nghe văng vẳng bên trong có tiếng cười nói:
- Nghiệp chướng thay!
Chàng ra sức đục khoét càng dữ; bỗng cửa động mở hé, Võ ông đẩy Thanh Nga ra ngoài và nói:
- Cút đi! Cút đi!
Rồi vách đá liền khít lại như cũ.
Nàng nói tấm tức:
- Đã thương yêu tôi, lấy tôi làm vợ, sao lại xử với ông nhạc tàn tệ đến thê'? Không biết lão đạo sĩ nào cho mình cái hung khí đó, quấy rầy người ta muốn chết.
Chàng bắt được vợ trở lại rồi, thế là mãn nguyện, không thích cãi cọ gì, chỉ lo ngại đường sá hiểm trở khó về. Nàng liền bẻ hai nhánh cây cho mỗi người cưỡi lên một nhánh, tức thời hóa ra hai con ngựa, cùng nhau rong ruổi như bay, chẳng mấy chốc đã về tới nhà. Lúc đó chàng đi mất biệt đã bảy ngày rồi.
Số là hồi vào núi, chàng với người lão bộc lạc nhau, lão bộc tìm hoài không thấy, về nói cho mẹ chàng hay. Bà cụ sai gia nhân vào núi chia nhau tìm khắp các hang hốc, không thấy dấu vết gì cả; trong bụng đang lo sợ thì nghe tin con về mừng rỡ chạy ra đón rước.
Bà trông thấy Thanh Nga, hãi hùng gần muốn ngất xỉu. Chàng thuật qua mọi chuyện cho mẹ nghe, bà mới vui mừng.
Nàng thầm nghĩ hình tích mình có chỗ lạ lùng e thiên hạ xầm xì bàn tán, cho nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Bà nghe theo, vốn có nếp nhà ở quận khác; tức thời thiên di tới đó, người ta không hay biết chi về gốc tích của nàng.
Vợ chồng ăn ở với nhau luôn mười tám năm, sinh thêm một gái, gả cho con nhà họ Lý ở cùng làng.
Sau bà mẹ qua đời.
Thanh Nga bảo chồng:
- Trong khu ruộng tranh của nhà ta (đây là nơi ở cũ), có kiểu đất chim trĩ ôm tám quả trứng, ấy là kiểu đất quý, có thể chôn mẹ, vậy mình với con trai Mạnh Tiên rước linh cữu mẹ về an táng ở đó. Thằng con chúng ta đã khôn lớn, nên để nó ở lại giữ mộ; không cần trở lại đây.
Chàng y theo lời nàng, sau khi chôn mẹ rồi trở về một mình.
Hơn tháng sau, Mạnh Tiên về thăm, thì cha mẹ đã đi đâu mất; hỏi người lão bộc, lão nói hai ông bà đi đám tang chưa về. Mạnh Tiên biết có sự lạ thế nào đó, nhưng đành than vắn thở dài mà thôi.
Mạnh Tiên văn hay nổi tiếng, song thi cử lận đận mãi, cho đến bốn chục tuổi, thi hoài không đậu. Về sau lấy danh nghĩa là bạt công (người học trò giỏi được quan địa phương tiến cử) vào trường thi Hội ở kinh đô gặp một người cũng tên Tiên như mình, tuổi độ mười bảy, mười tám, có vẻ chững chạc, trong lòng yêu mến, cầm lấy quyển xem thấy đề Thuận Tiên lâm sinh (học trò được nhà nước cấp lương ăn học) Hoắc Trọng Tiên, lấy làm sửng sốt, kinh hãi, nhân dịp tự giới thiệu tên họ của mình. Trọng Tiên cũng kinh ngạc hỏi quê quán Mạnh ở đâu, Mạnh nói rành rẽ, bấy giờ Trọng mừng mà nói:
- Lúc em sửa soạn lên đường vào kinh, cha em có dặn dò khi vào trường thì có gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Hữu, ấy là dòng họ nhà ta đó nên giao thiệp tử tế, nay thật quả nhiên. Duy có điều lạ sau danh tính và biểu tự chúng ta giống nhau đến thế?
Mạnh Tiên gạn hỏi tới ông bà cha mẹ, rồi thất kinh và nói:
- Ông là cha tôi đó.
Nhưng Trọng Tiên nghĩ tuổi tác chênh lệch quá, e rằng không phải. Mạnh Tiên cắt nghĩa:
- Cha mẹ đều là tiên, lấy diện mạo mà bàn số tuổi sao được?
Đoạn kể rõ chuyện xưa tích cũ cho Trọng nghe, bấy giờ Trọng mới tin.
Thi xong không màng nghỉ ngơi, hai người vội vàng rủ nhau về, vừa tới ngoài cổng, gia nhân đã chạy ra đón rước, báo tin cho biết ông bà đi biệt đâu mất hồi đêm. Cả hai cả kinh, Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ nói tối qua ông bà vẫn ngồi uống rượu với nhau, bỗng mẹ bảo tôi rằng: “Vợ chồng mày còn nhỏ tuổi, chưa thạo việc đời, ngày mai có anh cả mày đến thì ta không phải lo gì nữa”. Sáng nay tôi vào phòng, chỉ thấy phòng không, ông bà đã đi hồi nào rồi.
Anh em nghe nói, giậm chân gào khóc. Trọng Tiên muốn bổ đi tìm, nhưng Mạnh Tiên bảo là vô ích, mới thôi.
Khoa thi ấy Trọng Tiên đậu cử nhân, nghĩ lại mồ mả tổ tiên ở cả Sơn Tây, cho nên theo anh về đó. Lúc nào cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, ra sức tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi, rốt cuộc không thấy tông tích đâu hết.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 24 Aug 2022

Tay áo làm mai (Củng tiên)


Củng đạo nhân, không có tên tự, cũng không biết là người ở đâu, có lần đến xin ra mắt Lỗ vương, nhưng người canh cổng không cho vào.
Có nàng thân tín trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào và ngỏ ý muốn. Thân tín ngó thấy ông xấu xa bẩn thỉu, lại xua đuổi thêm.
Ông đi rồi trở lại. Thân tín nổi giận sai thủ hạ vừa đuổi vừa đánh. Đến chỗ vắng vẻ không ai, đạo nhân cười và đưa cho trăm lượng vàng, nhờ kẻ đuổi theo nói hộ với vị thân tín kia rằng:
- Bản tâm ta không cần giáp mặt vương đâu, chỉ nghe tiếng vườn hoa sau vương phủ có cây cối lâu dài, đẹp nhất thế gian, nếu sẵn lòng dẫn ta đi xem một phen là đủ mãn nguyện.
Nói xong lại móc tiền bạc ra đút lót người đuổi theo mình. Anh này thấy tiền mừng rỡ, quay về thưa lại thân tín.
Thân tín cũng mừng, liền dẫn đạo quân vào cửa sau, xem đủ mọi cảnh rồi bước lên lầu. Thân tín đang đứng dựa bên cửa sổ, đạo nhân xô một cái, tự nhiên thấy mình té xuống bên ngoài, may có dây leo vướng bụng, thành ra treo tòn teng lơ lửng giữa trời, ngó xuống thấy sâu thăm thẳm mà nghe dây leo kêu rắc rắc, dường như sắp đứt, sợ hoảng hồn xám mặt, thân tín kêu la vang trời.
Mấy tên thái giám chạy đến, trông thấy cũng sợ khiếp đảm, vì nhắm thân tín thấy cách xa mặt đất cao quá. Họ hoảng hốt lên lầu cùng xem, thì ra đầu dây cột vào bao lơn, muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây leo vấn vít cả búi, nhắm bề không thể dùng sức mà tháo gỡ nổi. Đi tìm đạo nhân thì đạo nhân đã biệt tăm dạng, họ nghĩ bó tay hết kế bèn chạy tâu cho Lỗ vương hay.
Lỗ vương đến mục kích lấy làm lạ, đành sai lính tráng rải cỏ khô và bông gòn dưới đất, rồi sẽ chặt đứt dây leo cho thân tín rớt xuống khỏi bể đầu nhừ xương. Công việc dự bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước thôi, ai nấy cùng tức cười.
Xong đó, Lỗ vương sai người đi tìm đạo sĩ ở đâu. Nghe tin ông ở đậu nhà thấy tú tài họ Thượng, lính đến đó hỏi, thì ông đi ngao du chưa về. Họ thất vọng bảo nhau trở về, may gặp ông ở giữa đường, liền dẫn tới trước mặt Vương.
Vương mời ngồi ăn tiệc, và yêu cầu đạo sĩ làm trò lạ cho xem. Đạo sĩ thưa:
- Thần là người quê mùa, chẳng có tài giỏi chi, nay ngài thương đến mà sai bảo, vậy xin dâng nữ nhạc để chúc thọ ngài.
Nói đoạn, mò trong tay áo ra một mỹ nhân đặt xuống đất; nàng cúi đầu chào Vương rồi đạo sĩ sai diễn tuồng Dao Trì tứ yến, chúc Vương muôn năm. Nàng vừa ra sân khấu hát mấy câu, đạo sĩ lại thò vào tay áo lấy ra một người nữa, tự bạch là Tây Vương Mẫu. Giây lát nào Đổng Tiên Nga, nào Hứa Phi Quýnh, cả đám tiên cô trên trời, lần lượt xuất hiện. Sau hết tới Chức Nữ ra trò, hiến Lỗ vương một bộ áo trên trời, màu vàng rực, chói rạng khắp nhà.
Lỗ vương nghĩ là đồ giả, đòi xem tận nơi, đạo sĩ vội vàng cản ngăn, nói rằng không nên. Vương không nghe, cứ việc lấy ra xem, quả nhiên áo trời liền lạc một mảnh, không có đường may nào hết, thật sức người không sao làm đặng. Đạo sĩ không vui, nói:
- Thần hết lòng tôn kính đại vương cho nên mượn bộ áo trời cho Thiên tôn đem xuống, nay bị trọc khí nhuốm vào, rồi làm sao trả lại nguyên chủ được đây?
Lỗ vương lại nghĩ những nàng ca hát, tất đều là tiên, cho nên muốn giữ lại vài cô, nhưng khi nhìn kỹ, thì không ai khác hơn là con hát thường ngày trong vương phủ mình. Vương xoay ra ngờ khúc hát họ chưa học qua sao mà hát được? Hỏi ra chính họ mù mịt chẳng có biết tại sao.
Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa mà đốt, rồi mới bỏ vào trong tay áo mình. Mới đó mà người ta khám xét, chẳng thấy dấu tích gì cả mới kỳ.
Từ đó, Vương rất trọng đạo sĩ, giữ ở trong phủ. Nhưng đạo sĩ từ chối, lấy cớ mình quen tính bình dân, ở cung điện xem như ở trong lồng chậu, không bằng ở nhà thầy tú tài quen được tự do hơn. Thế rồi ban ngày vô phủ Lỗ vương, nhưng thế nào tối cũng về nhà Thượng tú tài. Có lần Vương nài ép lắm thì cũng ngủ lại trong phủ. Mỗi khi giữa yến tiệc, thường đảo lộn hoa cỏ bốn mùa để làm trò chơi. Vương hỏi:
- Ta nghe nói người tiên cũng chẳng khởi động tính thích gái, có quả thế không?
Đạo sĩ đáp:
- Không chừng người tiên mới thế, còn tôi không phải người tiên cho nên lòng như cây khô héo vậy.
Một đêm ông ngủ lại trong phủ, Vương sai một ả đào non đến rình xem.
Nàng vào phòng, kêu mấy tiếng không nghe thưa, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường; lay gọi, ông hé mắt một chút lại nhắm nghiền lại. Lay gọi nữa thì tiếng ngáy khò khò. Xô đẩy thì liền ngã lăn xuống giường mà vẫn ngủ say mà ngáy vang như sấm. Gõ trên sàn chỉ thấy ngón tay mình đau, như gõ vào nồi gang hũ sắt vậy. Nàng trở về phục mạng, kể rõ ràng tình đầu cho Vương nghe. Vương sai lấy kim mà đâm. Kim đâm không vào. Người ta cố sức xô đẩy, thấy nặng không thể lung lay. Thêm mười mấy người nữa, xúm nhau khiêng ông quăng xuống chân giường, nghe có tiếng nặng trịch như tảng đá ngàn cân rơi xuống đất vậy.
Sáng ngày đến dòm, ông vẫn ngủ yên dưới đất. Tỉnh dậy cười và nói:
- Một giấc ngủ say, rơi xuống chân giường mà không biết?
Lần khác Vương sai lũ con gái trẻ măng sắc đẹp, nhè lúc nằm ngồi, đến bên véo thịt ông làm vui. Nhưng bận đầu véo còn thấy mềm qua bận sau đã cứng như sắt đá rồi.
Đạo sĩ ở nhà Thượng tú tài, thường khi suốt đêm không thấy về, tú tài khóa cửa đi ngủ, trời sáng đã thấy ông ngủ vùi trên giường hồi nào!
Nguyên trước Thượng tú tài nhân tình với đào hát Huệ Kha, đôi bên thề thốt lấy nhau. Huệ hát cực hay, đường tơ giọng hát vang dậy một thời. Lỗ vương nghe tiếng vời nàng vào ở trong nhà phủ hầu hạ, vì thế Thượng tú tài với nàng đứt tuyệt đi lại, nhiều khi thương nhớ muốn chết, mà không có cách nào thông tin được với nhau.
Một đêm, Thượng hỏi đạo sĩ vào phủ có trông thấy Huệ Kha lần nào không? Đạo sĩ nói:
- Đào hát trong phủ đều thấy, duy không thấy Huệ Kha là cô nào.
Thượng tả hình dung và cỡ tuổi, đạo sĩ mới nhớ ra. Nhân đó Thượng cầu nhắn giùm một đôi lời. Đạo sĩ cười nói:
- Tôi là người tu hành, không làm chim xanh cho ông được.
Thượng năn nỉ mãi, đạo sĩ đưa tay áo lên và nói:
- Nếu nhất định muốn thấy mặt người yêu một phen, thì chui vào đây, tôi đưa đi.
Thượng dòm bên trong thấy rộng rãi như cả một gian nhà, liền chui mình vào, lại thấy lộng lẫy sáng sủa, bàn ghế, giường mùng, chẳng thiếu thứ gì, cho nên ở trong thấy sung sướng, không buồn rầu chút nào. Đạo sĩ vào phủ, ngồi đánh cờ với Lỗ vương, thừa dịp Huệ Kha tới gần, giả vờ phe phẩy tay áo để giũ bụi, Huệ Kha bị hút ngay vào trong, mà chẳng một người nào trông thấy.
Khi đó, Thượng đang lo nghĩ tơ tưởng một mình chợt nghe có vật gì từ mái nhà rơi xuống, nhìn lại té ra Huệ Kha. Hai người sửng sốt mừng rỡ, kể lể tình xưa. Thượng nói:
- Cái duyên lạ lùng của đôi ta hôm nay, không lẽ không ghi nhớ bằng văn chương, vậy tôi với mình làm thơ liên cú để kỷ niệm nhé.
Chàng nói rồi viết câu mở đầu trên vách tường:

Hầu môn thăm thẳm bấy lâu nay

Huệ Kha nói theo:

Ai ngỡ chàng Tiêu lại gặp đây!


Thượng tiếp câu thứ ba:

Tay áo mênh mông trời đất rộng


Huệ Kha đọc câu kết:

Trai thương gái nhớ được sum vầy.


Viết bài thơ vừa xong bỗng có năm sáu người ép vào, bịt khăn đầu rìu, mặc áo màu hường, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng lẳng lặng không nói gì, chỉ bắt Huệ Kha dẫn đi. Thượng kinh hãi chẳng hiểu nguồn cơn tự đâu.
Về nhà đạo sĩ gọi Thượng ở trong tay áo ra, hỏi chuyện tình tự có hả lòng chưa. Thượng còn giấu giếm không nói hết, đạo sĩ mỉm cười, cởi áo lộn bên trong đưa cho chàng xem. Chàng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ, nhỏ tí, tức là bài thơ tình tự của hai người liên cú hồi nãy.
Cách sau mười mấy hôm, chàng lại xin chui vào tay áo lần nữa. Trước sau gồm ba lần, Huệ Kha bảo Thượng:
- Em nghe trong bụng cục cựa, nghĩ mà lo quá, thường ngày em lấy lụa buộc bụng thắt lại, còn có thể giấu nhẹm được, nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, một mai ở cữ, làm sao giấu được đứa trẻ khóc oa oa, vậy chàng phải bàn tính với đạo sĩ, chừng nào em sinh đẻ, thì ông ra tay cứu cho mới được.
Thượng vâng lời, đêm ấy về quỳ mọp trước mặt đạo sĩ, chưa kịp nói chi, đạo sĩ đã nâng đỡ trở dậy và nói:
- Thôi mà, anh chị căn dặn nhau những gì, tôi biết dư rồi. Xin ông đừng lo, dòng giống nhà ông nhờ có một chút đó lẽ nào tôi chẳng hết sức giúp đỡ. Nhưng từ nay trở đi chớ đòi chui vào tay áo nữa nhé! Tôi muốn báo đáp ông, chẳng phải nguyên ở tự tình mà thôi đâu.
Mấy tháng sau, một hôm đạo sĩ ở ngoài về tươi cười và nói:
- Tôi đã rước cậu bé về đây, sửa soạn tã lót mau!
Người vợ Thượng vốn hiền lành, ngoài ba chục tuổi sinh nở mấy lần, chỉ được một đứa con trai, vừa lại sinh con gái đầy tháng thì bỏ, nay nghe chồng vào báo tin, tức tốc chạy ra đón rước đứa bé.
Đạo sĩ thò vào tay áo, lấy đứa bé ra; nó đang ngủ say và rốn chưa cắt. Vợ Thượng đón lấy bồng trên tay, bây giờ mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo và nói:
- Máu đẻ vấy dơ cả áo thế này, đạo môn kỵ nhất. Nay vì sự giúp đỡ ông, mà vật cũ hai chục năm bỗng chốc bị bỏ đi.
Thượng đưa áo khoác lại cho đạo sĩ thay. Đạo sĩ căn dặn:
- Cái áo cũ của tôi chớ nên bỏ uổng. Để làm thuốc trị bệnh hay lắm đó. Chỉ xé một miếng độ một chỉ mà đốt, hòa với nước nóng, có thể cứu được truy thai và sinh đẻ khó.
Thượng xin vâng lời.
Đạo sĩ ở một thời gian, chợt bảo Thượng:
- Chiếc áo cũ nên để dành nhiều ít, về sau tự mình cần dùng điều đó sau khi tôi chết, cũng không nên quên nghe.
Thượng cho là lời nói bất thường, nhưng đạo sĩ lặng lẽ ra đi, vào phủ Lỗ vương nói:
- Tôi muốn chết bây giờ.
Vương thất kinh hỏi tại sao. Đạo sĩ thưa:
- Đó là số trời đã định còn phải nói chi!
Vương không tin, cố giữ lại chơi, đánh xong một ván cờ, đạo sĩ vội vàng đứng lên. Vương lại ngăn cản.
Chừng xin phép ra ngoài. Vương mới y cho. Đạo sĩ ra đó nằm vật mình xuống, xem lại thì ông đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài chôn cất đủ lễ. Thượng rất cảm; bấy giờ mới hiểu lời ông hôm nào tức là bảo trước vậy.
Cái áo cũ ông để lại làm thuốc cho đàn bà đẻ mau, thật là linh nghiệm. Người đến xin, chen vai nối gót ở trước cửa. Ban đầu còn cho cái tay áo có vấy máu, lần hồi xé tới cổ, bất cứ chỗ nào làm thuốc cũng hay. Sau nhớ lại câu đạo sĩ căn dặn, e chính vợ mình sẽ có tai vạ vì sinh sản, cho nên cắt lấy một miếng vải có máu, to chừng bàn tay, cất kỹ để dành.
Gặp hồi Lỗ vương có nàng ái phi chuyển bụng ba ngày không đẻ, bao nhiêu lương y đều bó tay. Có người mách Thượng có cách chữa tuyệt diệu, Vương gọi Thượng vào, quả thật chỉ có một chén thuốc là ái phi sinh đẻ dễ dàng. Vương mừng hết sức, trả lễ bằng tiền bạc gấm vóc cực nhiều. Nhưng món gì Thượng cũng từ chối không nhận. Vương hỏi:
- Vậy anh muốn chi?
- Thưa, tôi không dám nói ra.
Vương gạn hỏi đôi ba lần, Thượng cúi đầu nói:
- Nếu đại vương ban ơn cho, tôi xin người đào hát cũ Huệ Kha là đủ.
Lập tức, Vương gọi nàng ra hỏi bao nhiêu tuổi?
Nàng thưa:
- Thiếp vào trong phủ từ hồi mười tám tuổi, trải mười bốn năm nay rồi.
Vương thấy tuổi nàng đã lớn, bèn cho phép Thượng chọn lựa trong đám đào hát son trẻ, muốn lấy cô nào cũng cho. Thượng không chọn có nào cả, khăng khăng chỉ chọn cô đào già Huệ Kha mà thôi.
Vương cười nói:
- Anh học trò này khờ quá. Hay là đôi bên đã đính hôn từ mười năm về trước chăng?
Thượng kể chuyện thật từ trước đến sau. Vương liền sai thắng ngựa chở cả Huệ Kha và những tiền bạc gấm vóc đã cho, để làm tư trang cho nàng đi về nhà chồng.
Đứa con trai Huệ Kha đẻ lúc trước, tên là Tú Sinh, có ẩn nghĩa tú sinh là đẻ trong tay áo, lúc này đã được mười một tuổi.
Hàng ngày vợ chồng nhớ ơn đạo sĩ, năm nào đến tiết thanh minh cũng đi viếng mộ.
Có người ở Tứ Xuyên lâu năm, gặp đạo sĩ ở giữa đường trao cho mấy quyển sách và nói đó là sách trong phủ Lỗ vương, vì đi vội vàng, quên chưa nộp lại, nay phiền đem về trả giùm.
Người đó về, nghe tin đạo sĩ đã chết, thành ra không dám tâu bày cùng Lỗ vương. Sau đó nhờ Thượng trả quyển sách và tâu hộ tự sự. Lỗ vương mở ra coi thì quả là quyển sách của mình đã cho đạo sĩ mượn coi năm xưa. Nhân đó, Vương sinh nghi, đào mả đạo sĩ lên xem, thì ra chỉ còn cái hòm trống rỗng.
Về sau, chính thằng con trai của vợ Thượng sinh ra chẳng may chết yểu, nhờ có Tú Sinh nối dõi tông môn, đúng lời tiên tri của đạo sĩ.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Đào mả cô Canh (Canh Nương)


Kim Đại Dụng, con một nhà thế gia cũ ở Trung Châu lấy con gái quan thái thú họ Vưu làm vợ. Nàng tên là Canh Nương, đẹp mà hiền đức. Vợ chồng rất âu yếm hòa thuận. Vì có loạn giặc cỏ đánh phá, ai nấy phải bỏ nhà, tìm đường xa lánh.
Kim dẫn gia quyến đi về miền Nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng đem vợ đi chạy loạn, tự giới thiệu mình là Vương Thập Bát và tình nguyện làm hướng đạo. Kim mừng lắm, đi đứng lúc nào cũng có nhau. Canh Nương ghé bên tai chồng nói nhỏ:
- Ta chớ nên đi chung ghe với người đó. Hắn hay dòm liếc, đôi mắt nhấp nháy mà sắc mặt biến đổi, trong bụng hẳn là nham hiểm khó lường đó.
Chàng gật đầu.
Vương Thập Bát sốt sắng đi tìm mướn chiếc ghe thật lớn, khiêng vác hành lý hộ chàng, ra vẻ khó nhọc đáo để. Chàng không nỡ từ chối để đi tách riêng. Lại suy nghĩ hắn có đem vợ trẻ đi theo, chắc không có chuyện gì xảy ra mà lo.
Kim phụ cùng Canh Nương ở chung một khoang thuyền, xem người cũng có vẻ hiền từ. Còn Vương thì ngồi trên mũi ghe, cùng người chân sào nghiêng mình nói chuyện, dường như có họ hàng hay là quen biết đã lâu.
Không mấy chốc mặt trời lặn, mà sóng nước mênh mông, chẳng phân biệt phương hướng đâu là nam bắc.
Kim nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ này thâm sâu hiểm hóc, trong bụng hơi nghi sợ. Một lúc sau trăng mọc, nhìn thấy lau sậy bát ngát.
Ghe đậu lại đó.
Vương mời cha con Kim lên mui đứng xem phong cảnh, thừa cơ đẩy tuốt Kim xuống sông. Thân phụ Kim thấy vậy muốn kêu lên, nhưng người chủ ghe cầm sào đẩy ông xuống sông chết luôn. Đến bà mẹ chàng đang ở trong ghe, nghe tiếng ồn ào, chạy ra dòm xem cũng bị dìm sông chết đuối nữa.
Bây giờ Vương mới làm bộ kêu cứu.
Lúc bà mẹ bước ra. Canh Nương ở phía sau đã dòm biết sự tình ra sao rồi. Khi thấy cả nhà mình chết đuối, nàng cố trấn tĩnh, không lộ vẻ kinh hoàng, chỉ ôm mặt khóc nói:
- Cha mẹ chồng chết, chồng cũng chết nữa thân tôi biết nương dựa vào đâu bây giờ, hỡi trời?
Vương đến bên vỗ về, khuyên nhủ:
- Nương tử chớ lo, xin theo tôi về Kim Lăng, tôi có ruộng đất nhà cửa đủ để sinh sống, chẳng phải lo gì.
Nàng lau nước mắt và nói:
- Được như vậy là tôi mãn nguyện lắm rồi.
Vương rất mừng, đãi đằng chiều chuộng hết sức. Tối đến nó lôi kéo nàng đòi giao hoan. Nàng nói trong mình đang kỳ kinh, bấy giờ mới chịu về chỗ vợ nằm. Cuối canh một, nghe tiếng vợ chồng cãi nhau rì rầm, không hiểu vì cớ gì, chỉ nghe vợ nói:
- Mày làm chuyện đó, tao e sấm sét đánh nát đầu mày cho xem.
Vương đánh vợ. Vợ la lớn:
- Mày giỏi đánh chết tao đi càng hay, tao không muốn làm vợ một đứa giết người đâu.
Vương gào thét giận dữ, túm đầu vợ ra bên ngoài, liền nghe một tiếng ùm, rồi Vương nói rêu rao rằng vợ té xuống sông chết đuối rồi.
Mấy hôm sau đến Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, chào hỏi bà mẹ. Bà lấy làm lạ sao người này không phải vợ cũ. Vương trả lời, vợ cũ chết đuối, nên mới lấy người này.
Lúc nàng vào phòng riêng, lại muốn mò mẫm này khác, nàng cười và nói:
- Con trai ngót ba chục tuổi đầu mà không biết việc phải ở đời thế nào ư? Dầu là con nhà đầu đường xó chợ, khi mới lấy vợ phải có chén rượu lạt gọi là thủ lễ. Nhà ngươi giàu có, việc ấy hẳn không khó khăn, chả lẽ đối diện suông tình với nhau còn ra thể thống gì nữa.
Vương nghe nhằm lý, bèn dọn tiệc rượu ngồi đối diện nhau. Canh Nương nâng chén khuyên mời hết sức niềm nở ân cần. Vương gần say, chối từ không uống được nữa. Nàng lại rót một ly lớn, giả đò lả lơi mời ép Vương uống cho kỳ được, Vương thấy vậy khoái chí không nỡ từ chối, liền uống cạn một hơi.
Bấy giờ nó say mèm, cởi tuột quần áo thúc giục Canh Nương đi ngủ.
Nàng dọn dẹp mâm chén rồi tắt phụt đèn, lấy cớ đi tiểu, bước ra ngoài đường, giắt dao trong lưng, đem vào, lò mò trong đêm tối, lấy tay vít chặt lấy cổ Vương.
Nó mơ màng ngỡ là người yêu bá cổ mình, cho nên còn cầm lấy cánh tay nàng nói giọng lả lơi. Nàng thừa thế ấn dao xuống thật mạnh, Vương kêu rú và vùng dậy, nàng chém bồi thêm mấy dao nữa hắn mới chết. Bà mẹ nghe có tiếng động chạy đến hỏi chuyện gì, nàng thuận tay giết nốt. Em trai nó là Thập Cưu, hay tin chạy đến. Canh Nương tự biết mình không thoát khỏi, liền trở mũi dao lại đâm vào cổ. Nhưng vì hốt hoảng nên đâm không vào sâu, vội vàng mở cửa vọt ra chạy trốn.
Thập Cưu rượt theo bén gót.
Nàng kịp nhào đầu xuống giếng tự tử, Thập hô xóm giềng vớt lên cứu, thì nàng đã tắt hơi rồi, mà nét mặt vẫn tươi đẹp như lúc còn sống.
Mọi người cùng vào buồng xem xét tử thi của Vương thấy trên cửa sổ có đề bức thư, mở ra xem, tức là thư Canh Nương kể về nỗi oan khổ của mình.
Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi nàng nghĩa liệt, bàn nhau chung đậu tiền bạc mua vải liệm xác và lo cuộc tống táng.
Sáng ra thiên hạ tựu lại có mấy ngàn người.
Ai trông thấy dung nhan nàng cũng kính cẩn vái lạy. Trọn ngày quyên góp được trăm bạc, an táng nàng ở ngoại ô phía Nam. Có kẻ bày đặt điều chuyện, đem cả mão nạm hột châu và áo bào phục mặc vào thi thể nàng rồi đem chôn một cách trang trọng, đầy đủ.
Giờ trở lại Kim Đại Dụng, bị xô té xuống sông, tưởng chắc chết đuối, nhưng may phúc níu được tấm ván trôi nổi theo dòng nước, thành ra thoát chết. Gần xế chiều, trôi đến Hoài Thượng, nhờ một chiếc thuyền nhỏ vớt lên.
Thuyền này vốn của Doãn ông, nhà giàu có thả luôn trên sông, chuyên vớt những kẻ đắm đuối làm phúc.
Chừng được hồi tỉnh, Kim đến tận nhà Doãn ông để cảm tạ.
Ông đãi rất tử tế, lại muốn giữ Kim ở lại trong nhà để dạy con học. Nhưng Kim sốt ruột vì không biết tin tức cha mẹ sống chết thế nào, cho nên còn đang lưỡng lự, chưa quyết.
Giữa lúc ấy có người vào trình Doãn ông biết sự mới vớt được xác cụ già và một bà lão chết trôi, Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy ra nhìn mặt quả đúng. Doãn ông sắm sửa quan tài chôn cất tử tế.
Chàng đương khóc lóc, lại được tin vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim Sinh.
Kim giật mình gạt lệ định chạy ra tận nơi xem mặt thì người đàn bà ấy đã tới ngay nhà Doãn ông. Kim nhìn không phải Canh Nương mà chính là vợ cũ Vương Thập Bát.
Nàng trông thấy Kim khóc ròng, một hai năn nỉ chàng đừng bỏ mình tội nghiệp. Chàng nói:
- Hiện tôi bối rối ruột gan, còn có bụng dạ nào lo việc hộ người cho đặng.
Nàng càng khóc già.
Doãn ông hỏi rõ nguồn cơn, mừng là đạo trời báo ứng, cho nên khuyên nhủ Kim Sinh nên lấy nàng làm vợ.
Kim chối từ.
- Đang lúc cư tang, lấy vợ không tiện, vả lại còn phải lo việc báo thù cho cha mẹ, sợ có đàn bà bịn rịn bên mình, sinh ra hệ lụy chăng?
Nàng nói:
- Theo như lời chàng, giả tỉ Canh Nương còn sống thì chàng cũng lấy cớ báo thù và cư tang mà bỏ chị ấy đi chăng?
Doãn ông cho lời nàng nói đúng, ông xin vì chàng hãy tạm thâu dưỡng nàng, để sau sẽ tính. Lúc đó Kim mới ưng chịu, rồi lo việc chôn cất cha mẹ. Nàng cũng mặc đồ xô gai và khóc lóc như đối với cha mẹ chồng thật.
Sau khi an táng cha mẹ xong, Kim giấu dao nhọn trong lưng, đeo bị ăn xin dọc đường, định tới Quảng Lăng tìm kẻ thù. Nàng ngăn lại và nói:
- Tôi họ Đường tổ tiên vốn ở Kim Lăng cùng làng với thằng khốn nạn đó. Lúc trước nói ở Quảng Lăng ấy là nói láo. Vả lại quân ăn cướp giang hồ, phần nhiều là đồng đảng của nó. Chàng chớ có mạo hiểm vu vơ e rằng đại cừu không báo được mà tự rước lấy vạ vào thân mình đấy thôi.
Kim nghe ngần ngừ không biết tính sao cho phải.
Chợt nghe thiên hạ đồn rùm về chuyện một người con gái giết chết kẻ thù, khắp cả đò dọc biển sông, đâu đâu cũng biết, lại nói rõ cả tên họ. Kim nghe lấy làm khoái chí, nhưng lại càng thấy đau đớn trong lòng, nhất định từ chối không lấy Đường thị, nói rằng:
- Cũng may, vợ tôi không chịu ô nhục, mà giết được kẻ thù. Một người vợ có nghĩa liệt đến thế, nỡ lòng nào phụ rẫy mà lấy vợ khác cho đành.
Đường thị trả lời rằng đã có lời nói nhất định trước rồi, không chịu giữa đường bỏ dở, thôi thì nguyện làm nàng hầu vợ mọn cũng cam.
Vừa vặn lúc đó có quan phó tướng Viên công, vốn quen biết Doãn ông, nhân tiện đổi đi trấn thủ miền Tây, ghé vào thăm Doãn ông, được trông thấy Kim, đem lòng yêu mến, xin chàng đi theo làm thư ký.
Không bao lâu, giặc cướp phạm vào đất Thuận, họ Viên đánh dẹp có công to, Kim cũng tham dự khó nhọc trong việc quân cơ, được thưởng chức quan Du kích mà về. Bấy giờ mới cùng Đường thị làm lễ kết hôn, thành ra vợ chồng chính thức.
Ở lại mấy ngày rồi dắt vợ đi Kim Lăng, định tìm viếng mộ Canh Nương.
Kim bảo ghé thuyền đỗ bến Trấn Giang, ý muốn lên núi Kim Sơn viếng cảnh, chợt giữa dòng có một chiếc ghe nhỏ đi qua, bên trong có bà cụ và một thiếu phụ ngồi, Kim thoáng trông thấy làm lạ, thiếu phụ hơi giống Canh Nương.
Chiếc ghe lướt qua mau lẹ, thiếu phụ thò đầu ra cửa sổ dòm Kim, khiến chàng nhận thấy hình dung càng giống như đúc, nhưng trong bụng nửa kinh, nửa ngờ, không dám đuổi theo mà hỏi, chỉ vội vàng nói câu này thật lớn: “Xem đàn vịt đang bay trên trời kia kìa!”
Thiếu phụ nghe lọt cũng nói to tiếng: “Chó con lại muốn ăn thịt của mèo ư?”. Ấy là câu nói lóng của vợ chồng thường đùa bỡn nhau trong chốn khuê phòng.
Kim cả kinh, giục ghe quay chèo lộn lại. Té ra thiếu phụ chính là Canh Nương.
Con hầu đỡ Canh Nương bước sang thuyền Kim. Vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, Đường thị lấy lễ vợ bé đối vợ lớn, chào hỏi Canh Nương.
Canh Nương sửng sốt hỏi tại sao vợ Vương Thập Bát lại ở đây, Kim thuật rõ đầu đuôi. Canh Nương cầm tay Đường thị và nói:
- Câu chuyện đàm đạo trong khi cùng một chuyến đò, vẫn ghi nhớ trong lòng không quên, chẳng dè ngày nay được sum họp với nhau một nhà. Tôi nhờ có chị thay mặt tống táng cha mẹ chồng, đáng lý tôi phải tạ ơn chị trước, sao chị lại lấy lễ đích thứ đối với tôi như thế?
Canh Nương hỏi ra Đường thị kém mình một tuổi bèn gọi Đường thị là em.
Nguyên hồi Canh Nương chết rồi, được các người hảo tâm chôn cất, không biết là tự trải bao xuân đắp đổi. Một hôm chợt nghe có người gọi tên và nói:
- Canh Nương ơi! Chồng mi không chết đâu, rồi vợ chồng mi sẽ lại được sum họp.
Khi đó nàng như chiêm bao mới tỉnh, rờ tay thấy bốn phía bưng bít như tường kín, bấy giờ mới tỉnh ngộ rằng mình đã chết, chôn trong quan tài, nhưng trong trí chỉ thấy buồn bực, chứ không có điều chi khổ sở.
May sao, có một bọn người tham lam, thấy được khi người ta liệm nàng có nhiều đồ vật sang trọng bèn thừa đêm khuya rủ nhau ra đào mả bửa hòm, để lấy những vật quý giá đó. Nào dè mở ra, thấy Canh Nương còn sống, cả bọn cuống quýt sợ hãi.
Canh Nương sợ chúng sát hại mình, cho nên lấy lời nhỏ nhẹ năn nỉ:
- Thật là nhờ có mấy anh, mà tôi lại trông thấy mặt trời. Vậy bao nhiêu trâm cài lược giắt trên đầu tôi, xin mấy anh cứ việc lấy đi, rồi đem tôi bán cho một chùa nào đó làm ni cô thì mấy anh còn được món tiền nhiều ít nữa. Tôi thề giữ kín, không lộ với ai mà sợ.
Bọn trộm cúi đầu thưa:
- Nương tử nghĩa liệt, dù người hay quỷ thần đều phải kính nể. Anh em chúng tôi chỉ vì nghèo túng vô phương, mà làm việc bất nhân này. Chỉ cần nương tử không nói lộ chuyện này là may phúc cho anh em chúng tôi lắm rồi, đâu dám đem nương tử đi bán cho chùa?
Canh Nương đáp:
- Điều đó tự lòng tôi muốn mà!
Một đứa trong bọn nói:
- Tại Trấn Giang có Cảnh phu nhân, góa chồng mà không có con cái chi, nếu mang được nương tử về làm con nuôi, thì hẳn bà mừng lắm.
Canh Nương tạ ơn, rồi tự tháo các món châu báu trang sức trên đầu trao cho lũ trộm. Chúng không dám nhận. Nàng cố ép mãi, chúng mới chịu lãnh rồi mời nàng xuống ghe, chở tới nhà Cảnh phu nhân nói thác rằng nàng bị bạt phong chìm thuyền lưu lạc đến đây.
Cảnh phu nhân nhà cao cửa rộng, thân đàn bà góa vò võ một mình, đang trong cảnh buồn, bỗng được Canh Nương, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền nhận nuôi nàng và chăm nom chiều chuộng không khác nào con đẻ.
Hôm nọ, Kim sinh gặp ở trên sông, là lúc hai mẹ con đi chơi trở về đó.
Canh Nương kể rõ tình đầu cho bà mẹ nghe, rồi Kim sinh qua chào. Bà mẹ tiếp đãi như mẹ vợ đối với chàng rể, lại mời đến nhà ở chơi mấy ngày mới cho về.
Từ đó hai vợ chồng lui tới nhà phu nhân luôn.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Kết duyên với ong (Liên Hoa công chúa)


Giao Châu Đậu Húc, tự Hiểu Uy, bữa nọ đang nằm ngủ trưa, chiêm bao một người bận áo vải nâu tối đứng bên giường, dòm ngó quanh quẩn, dường như có điều chi muốn nói vậy.
Chàng hỏi đi đâu, người ấy thưa:
- Tướng công tôi mời ngài lại chơi.
- Nhưng tướng công nhà chú là ai? - Chàng hỏi lại.
- Bẩm nhà ở gần đây.
Chàng dậy theo đi, vòng qua vách tường nhà mình rồi đưa tới một nơi, lâu đài nguy nga, tiếp liền muôn lớp, đi quanh ngả vòng, khúc kia, có đến trăm cổng ngàn ngõ không phải là ở cảnh trần gian. Lại thấy những cung tần nữ quan, đi lại cực đông ai nấy cũng hỏi người áo vải:
- Đậu lang tới đó ư?
Người áo vải gật đầu.
Chợt một vị quý quan đi đến, chào rất cung kính, chàng hỏi:
- Bấy lâu không được hân hạnh quen biết, cho nên chẳng đến bái kiến, nay ngài quá yêu đón rước như vậy, khiến tôi e ngại hết sức.
Vị quý quan đáp:
- Đức vua của tôi thấy tiên sinh là nhà dòng dõi tử tế, lòng vẫn hâm mộ, nên cần gặp mặt.
Chàng nghe càng sợ. Hỏi đại vương là ai, vị quý quan trả lời vắn tắt:
- Lát nữa ngài sẽ biết.
Giây lát, có hai nữ quan ra đón, cầm hai lá cờ dẫn chàng đi, qua lớp cổng lớn vào ở trong, thấy một Vương giả đang ngồi trên điện.
Vương vừa thấy chàng đến, liền bước xuống thềm chào đón, giữ lễ chủ khách. Lễ tương kiến xong, yến tiệc dọn ra, cực kỳ sang trọng. Ngửa mặt trên điện có bức hoành phi sơn son thếp vàng đề hai chữ Quế Phủ. Chàng thêm lúng túng run sợ, không biết ăn nói thế nào. Vương mở lời trước:
- Là chỗ xóm giềng với nhau, tình phải tự nhiên khăng khít. Vậy xin ngài cứ việc ăn uống chuyện vãn thong thả, đừng quản ngại chi hết.
Chàng đa tạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm có phường nhạc trỗi đàn ca chiêng trống, nhưng tiếng nhỏ li ti, chàng nghe không rõ. Một lát, Vương hỏi tả hữu bá quan:
- Trẫm có câu văn này, chư khanh thử đối xem: Tài nhân đăng quế phủ (Tài nhân lên phủ quế).
Các quan còn đang suy nghĩ chưa ra, chàng nói liền:
- Tâu đại vương, tôi xin đối: Quân tử ái Liên Hoa (Quân tử thích hoa sen).
Vương phán:
- Hay, hay quá, Liên Hoa là tên công chúa, sao ngài đối thích hợp khéo léo đến thế, há chẳng phải là có túc đế nhân duyên?
Lập tức truyền gọi công chúa ra chào quân tử.
Giây lát, nghe tiếng ngọc khua rộn ràng, hương bay ngạt ngào, công chúa ra điện, tuổi độ mười lăm, mười sáu, nhan sắc dáng điệu tuyệt đẹp. Vương truyền làm lễ chào khách, rồi giới thiệu với chàng:
- Đây là tiểu nữ Liên Hoa.
Nàng chào rồi trở vào. Chàng trông thấy người tiên, tâm hồn rung động ngây ngất đến nỗi ngồi thừ như tượng gỗ, dồn cả tư tưởng vào ai. Vương nâng chén rượu khuyên mời, nhưng mắt chàng không thấy. Có lẽ Vương xét rõ tình ý, bèn nói:
- Con gái tôi đáng nâng khăn sửa túi cho ngài đó, nhưng còn tự thẹn không phải cùng loài, thì làm thế nào?
Chàng vẫn còn ngơ ngẩn vì ai, mà không nghe mấy lời Vương nói:
Người bên cạnh đạp nhẹ lên chân chàng và hỏi:
- Vương mời, ông không thấy ư?
Bấy giờ chàng như cơn mê mới tỉnh, mặt bẽn lẽn thẹn thùng đứng ra ngoài tiệc, chắp tay nói:
- Thần mang ơn rất hậu, không dè vui chén quá say, thất thố về lễ nghi, cúi xin đại vương rộng lượng tha thứ. Ngày giờ đã muộn đại vương lại nhiều việc, cần phải xem xét, vậy thần xin kiếu từ lui về.
Vương đứng dậy đáp lễ:
- Được thấy dung nhan quân tử, thật là thỏa lòng ta, chưa chi khanh đã thoái lui sao phải. Tuy vậy khanh đã muốn về, quả nhân cũng không dám ép nài ở lại. Thôi, để dịp khác quả nhân sai mời khanh đến.
Đoạn, vương truyền nội quan di tiễn chàng về.
Giữa đường, nội quan nói:
- Lúc nãy đại vương có nói ngài cùng công chúa xứng đôi vừa lứa, cho nên muốn kết hôn.
Chàng giậm chân ăn năn, mỗi bước chân là một bước than tiếc, thế rồi về tới nơi thì mặt trời đã lặn, ngồi thừ mặt ra mà tưởng cảnh đẹp người tiên như còn phảng phất trước mắt.
Tối đến, chàng ở nhà học một mình, tắt đèn đi ngủ sớm, trong ý mong đợi giấc chiêm bao cũ lại tìm đến mình, nhưng suốt đêm không thấy tăm dạng gì cả, chỉ có thở than thèm tiếc mà thôi.
Một đêm chàng đang nằm ngủ trên giường với người bạn thì nội quan hôm nọ đến nói đại vương sai mời.
Chàng mừng quýnh, theo đi liền.
Đến nơi, chàng phủ phục làm lễ bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi và nói:
- Từ hôm từ biệt, quả nhân biết khanh nhọc lòng tơ tưởng. Nay mời khanh đến ý muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, tưởng khanh không đến nỗi chê bỏ.
Chàng bái tạ nhận lời ngay.
Vương liền sai các quan học sĩ đại thần yến ẩm.
Tiệc xong cung nhân vào tâu:
- Công chúa đã sửa soạn xong rồi.
Một lát mấy chục cung nữ phò công chúa ra, gấm đỏ bịt đầu, chân bước êm ái, đứng trên nệm lông chiên, cùng chàng làm lễ giao bái thành vợ chồng.
Rồi cung nữ đưa hai vợ chồng về nhà riêng, vui thú động phòng hết sức nhuần nhị. Chàng nói:
- Có khách ở trước mắt, thật là khiến người ta vui sướng quên hết. Nhưng e cuộc gặp gỡ ngày nay, chỉ là giấc mộng thôi.
Công chúa vội vàng bưng miệng chàng và nói:
- Rõ ràng thiếp với chàng ngồi đây, sao lại bảo là giấc mộng cho được!
Sáng dậy chàng đùa thoa son dồi phấn cho công chúa, rồi lấy dây lưng đo quanh bụng cho đến ngón tay ngón cẳng. Công chúa phì cười hỏi:
- Chàng điên sao chớ?
Chàng nói:
- Tôi thường bị chiêm bao đánh lừa nhiều rồi, cho nên muốn ghi chép vào trí cho nhớ, phòng khi có mộng đi nữa, cũng đủ chạnh lòng tưởng niệm nhau vậy.
Hai người đang nô giỡn cười đùa như thế bỗng một cung nữ hơ hải chạy vào, vừa thở vừa nói:
- Yêu quái kéo vào nội cung. Đại vương đã lánh mình ra biệt điện rồi. Vạ lớn đến nơi bây giờ.
Chàng cả kinh, liền tới biệt điện ra mắt. Vương cầm tay chàng, khóc nói:
- Vừa mới được người quân tử có lòng đoái thương gắn bó ý muốn cùng nhau tụ hội lâu dài, nào ngờ trời làm tai nghiệt, vận nước sắp đổ biết tính làm sao đây?
Chàng sửng sốt hỏi vương tại sao, vương lấy một bản tâu còn để trên án, trao cho chàng đọc. Bản tâu ấy viết như vầy:
Hàm hương đại học sĩ, thần Hắc Dực, cúi xin tâu bày việc yêu quái phi thường, phải sớm dời đô, nhà nước mới còn.
Cứ theo viên Huỳnh môn quan báo cáo từ hôm mùng sáu tháng năm, một con rắn lớn dài ngàn trượng, chiếm giữ ngoài cung, ăn hết tôi dân trong ngoài, tính lại cả thảy một muôn ba ngàn tám trăm mạng. Nó đi qua chỗ nào, đền đài chỗ ấy sụp đổ thành gò đất.
Thần phấn khởi dũng khí, ra trước thăm dò, quả thấy con yêu quái, đầu tựa núi non, mắt như sóng biển, nghển đầu thì cung diện trôi, vươn mình thì lâu dài sụp, thật là dữ dội ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu, nguy ngập sớm hôm, cúi xin bệ hạ sớm đem cung quyến, dời đi nơi nào yên ổn v.v…

Chàng đọc xong, mặt tái mét, liền có cung nhân chạy vào cấp báo yêu vật đã đến. Khắp cung điện nổi tiếng khóc lóc kêu gào, tình cảnh rất thê thảm. Vương luống cuống không biết làm thế nào, chỉ khóc và day lại bảo chàng:
- Phiền tiên sinh lo giùm tiểu nữ nghe!
Chàng nghẹn ngào trở về tư thất, công chúa đang cùng tả hữu ôm nhau kêu khóc, thấy chàng bước vào, liền nắm lấy áo nói:
- Lang quân tính sao cho thiếp bây giờ!
Chàng đau đớn muốn chết, hỏi công chúa:
- Tôi vốn nghèo hèn, tự thẹn không có nhà vàng để khanh ở, chỉ có vài ba gian nhà lá, vậy ta đưa nhau về đó tạm lánh, được chăng?
Công chúa nức nở nói:
- Việc nguy cấp lắm rồi, còn lựa chọn sao đặng? Lang quân dẫn thiếp đi mau!
Chàng bèn đỡ công chúa ra đi. Một chập về đến nhà. Công chúa nói:
- Nhà này rộng lớn yên ổn gấp mấy cố quốc của thiếp. Nhưng thiếp theo chàng đến đây được yên thân còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu? Vậy xin chàng cất cho một gian riêng, để phụ hoàng đem cả nước tới ở đậu cho vui.
Chàng cho là việc khó khăn. Công chúa gào thét:
- Trời ơi! Không thể cứu giúp người trong nguy cấp, thì còn ai cần dùng chàng được nhí?
Chàng tìm lời an ủi qua loa rồi vào nhà trong. Công chúa nằm phục bên giường mà kêu khóc bi thảm không thể khuyên can đặng, chàng bối rối gan ruột vì nỗi vô phương. Tới đó bỗng dưng đứng dậy, mới biết là giấc chiêm bao. Bên tai còn nghe tiếng than khóc vu vơ chưa hết, lắng tai nghe kỹ, chẳng phải là tiếng người, chỉ hai ba con ong, bay lượn vo ve trên gối. Chàng kêu to:
- Quái lạ!
Người bạn nằm bên hỏi nguồn cơn, chàng kể rõ chiêm bao khiến ông ta cũng lấy làm lạ.
Hai người vùng dậy xem, thấy ong cứ bay đậu quanh quẩn bên áo chàng, đuổi cũng không đi. Bạn khuyên làm ổ cho chúng ở.
Chàng nghe theo, mướn thợ về làm, vừa mới dựng xong hai bên, đã thấy đàn ong từ ngoài tường bay vào, liên tiếp như dệt, dò xem gốc tích, thì ra ở cái vườn cũ của ông lão hàng xóm bay đến.
Trong vườn này nguyên có một ổ nuôi ong, đã ngoài ba chục năm, sinh đẻ cực nhiều. Có người kể lại việc của Đậu Sinh cho ông lão hàng xóm nghe, ông chạy ra xem thì tổ ong vắng tanh, lật bức vách ra, thật có con rắn nằm trong, dài tới một trượng, liền bắt giết đi. Trên kia nói mãng xà ngàn trượng tức là vật đó.
Từ ngày ong vào nhà chàng, sinh nở càng phồn thịnh hơn.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Bà chúa Tây Hồ (Tây Hồ chúa)


Trần Bật Giáo, tự Minh Doãn, người đất Yên, vì cảnh nhà nghèo đi theo phó tướng quân Giả Giản, làm chân thư ký.
Nhân có việc, đậu thuyền trên hồ Động Đình, chợt thấy một con thuồng luồng nổi lên mặt nước. Giả tướng quân lấy cung tên bắn trúng lưng nó. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không bỏ, thành ra bắt được cả đôi, kéo lên mạn thuyền, chỉ còn hơi thở thoi thóp. Thuồng luồng há miệng ngáp hoài, dường như kêu cứu. Trần sinh trông thấy động lòng, xin phép Giả tướng quân cho thả nó đi, sẵn trong túi có thuốc trị thương tích, chàng đùa xoa vào vết thương của nó rồi thả xuống hồ. Nó lặn hụp giây lát rồi đi thẳng.
Hơn một năm sau, chàng nghỉ việc về bắc, lại qua hồ Động Đình, bị gió bão lớn đánh ghe lật chìm, may phúc chàng ôm được một cái phên tre, lênh đênh cả đêm mới dạt vào bờ. Khi lên ngồi ngó lại thấy một cái xác cũng theo chân dạt vô. Thì ra xác tên tiểu đồng theo hầu mình. Chàng cố kéo lên bờ, nó đã chết cứng, trong lòng đau đớn rầu buồn, ngồi trơ trọi trước thây ma. Dòm quanh chỉ thấy núi non lởm chởm, hàng liễu xanh xanh, chẳng có bóng người nào qua lại, hòng thăm hỏi đường sá.
Từ sáng sớm đến quá giờ thìn, buồn bực muốn chết.
Bỗng dưng xác tiểu đồng cựa quậy, chàng mừng quá rờ xem, giây lát nó ộc nước ra cả thùng, rồi thì sống lại.
Thầy trò cởi hết quần áo phơi trên mặt đá, gần trưa mới khô ráo, mặc vào mình được, tới phiên bụng đói cồn cào, không sao chịu nổi. Bấy giờ dắt nhau băng núi mà đi, mong gặp xóm làng để xin ăn đỡ dạ.
Mới bò lưng chừng núi, nghe tiếng rung reng, đang dáo dác suy nghĩ, thấy hai cô thiếu nữ cưỡi ngựa từ đầu kia tới, rong ruổi như bay. Cô nào cũng khăn lụa bịt trán, tóc cắm lông trĩ, mình vận áo tím chẽn tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua phía nam núi, có mấy chục người ngựa đang săn trong đám cỏ tranh, đều là mỹ nữ trang sức như nhau.
Chàng không dám bước tới, chừng thấy một người dàn ông đi bộ, trông thấy lính chăn ngựa mới lần tới hỏi thăm.
Người lính đáp:
- Ngài là bà chúa Tây Hồ, lên Thủ Sơn săn bắn đó.
Chàng kể lại lai lịch của mình và kêu đói bụng người lính đưa cho gói cơm khô và căn dặn.
- Chú nên tìm đường tránh xa, nếu để chúa trông thấy thì chết mất xác đó!
Nghe nói sợ quá, chàng lật đật xuống núi, thấy trong rừng rậm có bóng lâu đài, ý chừng là cảnh chùa, liền nhằm hướng đó lần tới. Đến nơi, thấy vách tường sơn trắng, suối nước chảy qua, cửa son nửa khép. Chàng dòm qua cửa, thấy bên trong san sát những lầu, những gác, như cảnh thượng uyển nhà vua, trong ý tưởng chắc là vườn của một nhà sang trọng nào đó, bèn lần mò vào. Hai bên đường đi, giàn hoa vắt ngang, hương thơm sực mũi. Qua mấy ngả quanh co, vào tới một tòa lâu đài khác, mấy chục cây dương liễu thành hàng cao đụng mái nhà, chim núi hát ríu rít thì hoa càng bay, cơn gió thổi phe phẩy thì lá cây tự rụng, thật là cảnh sắc đẹp mắt khoái tâm, chẳng phải cõi trần. Đi xuyên qua một lớp tiểu đình, thấy một giá đu, cao vút mây xanh, lúc đó tứ bề lặng lẽ, không có bóng người nào. Chàng nghĩ gần chốn khuê các, cho nên nhút nhát không dám vào nữa.
Bỗng nghe tiếng ngựa hí cổng ngoài, với tiếng con gái cười nói, chàng với tiểu đồng cùng nép mình nằm phục trong đám cây hoa. Một lát, tiếng cười tiến đến gần, nghe một cô nói:
- Bữa nay đi săn không vui, bắt được chim muông rất ít.
Một cô khác nói:
- Nếu công chúa không bắn rơi một con nhạn hôm nay, thì cuộc săn tốn công vô ích.
Liền đó, mấy người thị nữ áo đỏ, nâng đỡ một vị thiếu nữ đến ngồi trong tiểu đình. Nàng mặc nhung phục, tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc mướt mình thon, vẻ đẹp hoa ngọc nhị quỳnh, cũng không bì kịp. Bọn gái hầu dâng trà thơm và đốt trầm hương, khói cuộn long lanh như gấm dệt. Giây lát, nàng đứng dậy bước xuống dưới thềm, một cô hầu gái nói:
- Công chúa cưỡi ngựa nhọc mệt, giờ có thể chơi đu được chăng?
Nàng cười và gật đầu. Bọn hầu gái liền xúm lại, kẻ đỡ vai, người nâng cẳng, lại có đứa xắn quần, cầm giày, đặt công chúa lên bàn đu. Công chúa đưa hai cánh tay nõn nà nắm lấy dây đu, chân thì nhún nhảy trên bàn đạp, nhẹ nhàng như chim én bay lượn trên mây.
Công chúa đánh đu một lúc, bọn hầu lại đỡ xuống và nói:
- Công chúa thật là nàng tiên.
Thầy trò cùng nói cười vui vẻ, kéo nhau trở về cung.
Trần lang hé mắt dòm từ đầu tới cuối, hồn phách tê mê. Chừng tiếng người im lặng đâu đó, chàng mới thò mặt ra, đến dưới cây đu, bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy dưới giàn có chiếc khăn đỏ, biết là của các cô mỹ nữ bỏ rơi, liền lượm bỏ túi, rồi bước lên tiểu đình ngắm cảnh chơi. Trông thấy trên bàn sẵn có bút mực, chàng bèn lấy khăn ra, đề lên một bài thơ tức cảnh:

Người đâu tiên nữ nhởn nhơ chơi
Tung búp sen vàng rải khắp nơi.
Đố chị Hằng Nga khỏi ganh ghét,
Mây xanh nhẹ gót thẳng lên trời.


Đề xong, ngâm nga đắc ý rồi ra đi, tìm lại đường cũ thì mấy lớp cửa đóng then cài cả rồi. Chàng quanh quẩn không biết tính sao, quay lại dạo xem lầu nọ đài kia gần khắp lượt. Một thị nữ chợt đến, sửng sốt, hỏi chàng tại sao lọt vào chốn này. Chàng vái chào nói:
- Tôi đi lạc đường xin cô cứu cho.
- Anh có lượm được chiếc khăn đỏ nào không?
- Thưa cô, nhưng đã viết chữ vào rồi làm sao?
Nói rồi lấy đưa cho nàng xem, nàng cả kinh nói:
- Thôi, anh chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, giờ vẽ bậy vào rồi, biết nói làm sao!
Chàng tái xanh mặt, năn nỉ xin lỗi. Nàng lắc đầu:
- Vào chốn cung cấm dòm dỏ, tội đã không tha thứ được rồi. Tôi nghĩ anh là học trò nho nhã, muốn lấy sự tử tế riêng mà bênh vực chu toàn cho anh, nhưng đằng này anh lại tự gây ra tai vạ đến như vậy, thì tôi hết lối.
Nói xong vội vàng cầm khăn chạy đi.
Chàng run sợ hồi hộp, tức mình không có cánh mà bay, chỉ còn có cách vươn cổ đợi chết. Một chặp sau, người thị nữ lúc nãy trở lại, nói nhỏ với chàng:
- May mà anh khỏi chết đấy. Công chúa cầm khăn xem đi xem lại ba bốn lần, mặt không có vẻ gì tức giận, có lẽ tha cho anh đi. Thôi, chịu khó ngồi đợi ở đây, chớ có tò mò leo cây trèo tường mà dòm ngó gì, nếu bị phát giác thì không tha được đâu.
Trời đã xế chiều, việc lành dữ ra sao chưa nhất định, mà bụng đói như thiêu như đốt muốn chết. Một lát, thị nữ cầm đèn đi tới, một cô khác thì xách giỏ cơm bầu rượu đem cho chàng ăn. Chàng săn đón dò hỏi tin tức. Nàng nói:
- Vừa rồi thừa dịp nói với công chúa liệu định có thả anh học trò trong vườn thì thả cho ra đi, không thì đói bụng chết. Công chúa ngẫm nghĩ rồi bảo trời tối rồi, đuổi người ta đi đâu bây giờ? Rồi công chúa dạy đem cơm ra cho ăn, thế tức không phải là điềm dữ đâu!
Chàng băn khoăn lo lắng suốt đêm, không sao yên tâm cho đặng. Qua hết giờ thìn, thị nữ lại xách cơm ra cho ăn. Chàng năn nỉ nói giùm. Nàng đáp:
- Công chúa không bảo giết, cũng chẳng bảo tha. Tôi là kẻ dưới đâu dám nhắc nhở lôi thôi.
Cho tới mặt trời xế bóng, chàng mong đợi mãi không thấy gì, bỗng thấy thị nữ hơ hải chạy đến, nói không ra hơi:
- Thôi chết đến nơi rồi. Kẻ nào nhiều chuyện không biết, đi nói lộ ra cho vương phi hay, vương phi đòi lấy chiếc khăn ra xem rồi quăng xuống đất, la mắng ngông cuồng rầm rĩ, vậy e tai vạ của anh không còn xa nữa.
Chàng nghe hết hồn hết vía, mặt nhợt ra không còn sắc máu, quỳ mọp dưới đất, van lơn cầu cứu.
Chợt nghe tiếng người xôn xao đến gần, nàng vội vàng lảng đi chỗ khác. Mấy người vác hèo cầm dây, hầm hầm bước vào định trói chàng giải đi. Trong đám có một thị nữ nhìn kỹ chàng rồi la thất thanh:
- Tưởng ai, té ra Trần lang đây mà!
Nàng nói và ngăn bảo đừng trói:
- Khoan đã! Khoan đã! Đợi tôi tâu với vương phi xem sao?
Nàng lật đật chạy đi giây lát, trở lại nói rất lễ phép:
- Vương phi xin mời Trần lang vào.
Chàng run sợ đi theo, qua mấy chục lần cửa, đến tòa cung điện, ngoài treo rèm ngọc móc vàng, liền có mỹ nữ cuốn rèm lên, và xướng tâu:
- Trần lang vào chầu.
Một thiếu phụ ngồi trên, bào phục cực kỳ lộng lẫy. Chàng cúi đầu mọp mình nói:
- Thần là người ở xa xôi tới đây, rủi lạc vào chốn tôn nghiêm, muôn đội ơn trên tha thứ.
Vương phi vội vàng đứng dậy, tự đỡ tay chàng và nói:
- Nếu không nhờ có tiên sinh, thì tôi đâu còn tới ngày nay. Bọn tôi tớ chẳng rõ nguồn cơn, đến nỗi thất lễ với khách, lỗi đó lấy gì chuộc đặng.
Lập tức sai dọn tiệc hoa, rót rượu bằng chén ngọc, ân cần thết đãi. Chàng mờ mịt chẳng hiểu duyên cớ ra sao. Vương phi nói:
- Đại ơn tái tạo, bấy lâu chưa được báo đền, lòng hằng cắn rứt. Con gái tôi được chàng đề thơ vào khăn, âu hẳn duyên trời tác hợp. Vậy ngay hôm nay, tôi cho làm lễ thành hôn.
Chàng đã khỏi chết, lại sắp có vợ đẹp, thật là sự mừng ra ngoài tưởng tượng, tinh thần lúc bây giờ vui sướng ngây ngất, không tả được.
Trời mới tối, một thị nữ đến bẩm:
- Thưa phò mã, công chúa đã sửa soạn xong rồi, xin mời ngài đi hành lễ.
Rồi dẫn chàng lên điện, tức thời đàn sáo trỗi lên inh ỏi, khắp nơi kết hoa treo đèn, mấy chục tiên cô phò công chúa cùng chàng làm lễ giao bái. Mùi thơm xạ hương, sực nức trong ngoài.
Đoạn tân nương, tân lang dắt nhau về buồng riêng, tình tự ân ái. Chàng hỏi công chúa:
- Tôi là người trôi nổi tha phương, thuở giờ chưa được hân hạnh bái yết, đã phạm tội bôi lọ vào chiếc khăn quý báu, được khỏi rìu búa là may rồi, ai còn giá nghĩa nhân duyên, thật là cái phúc tôi không dám tưởng đến.
Công chúa nói:
- Mẹ em là vương phi của đức vua hồ này, và là con gái Giang Dương Vương, năm ngoái về thăm nhà, ngẫu nhiên dạo chơi trong hồ, bị mũi tên bắn trúng. Nhờ có chàng cứu mà được thoát nạn, lại xức thuốc cho vết thương được lành, cả nhà em cảm bội, canh cánh bên lòng chẳng quên. Chàng đừng cho em là phi loại mà nghi ngại điều chi, em theo Long Quân, đã được bí quyết trường sinh nguyện cùng chàng hưởng chung cái thú muôn đời bất tử.
Bấy giờ chàng mới biết ra công chúa là thần. Lại hỏi trong đám hầu, sao có một đứa lại nhận được mặt, công chúa đáp:
- Hôm đó chàng ngồi trên thuyền ở hồ Động Đình, hẳn trông thấy con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng bị thương mà không rời bỏ tức là con hầu ấy.
Chàng tỉ tê hỏi nữa:
- Hôm bắt được tôi trong vườn, đã không giết chết, sao lại chần chừ không chịu thả đi?
Công chúa cười và nói:
- Em đọc bài thơ, trong bụng thật là yêu mến cái tài của chàng, nhưng không có quyền tự chủ, thành ra băn khoăn tơ tưởng cả đêm, nỗi khổ ấy có ai hiểu thấu cho mình?
Chàng tha thiết:
- Nàng thật là Bảo Thúc của tôi đó! À, còn thị nữ vẫn đem cơm cho tôi là ai?
- Nó tên là A Niệm, người tâm phúc của em.
- Vậy tôi phải đền ơn nó bằng cách nào bây giờ?
- Đừng lo, sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, chừng đó hãy lo đền ơn, cũng không muộn mà.
- Còn đại vương thân phụ em, hiện nay ở đâu?
- Ngài đi theo Huỳnh Đế đánh giặc Xuy Vưu chưa về.
Vợ chồng ăn ở với nhau mấy hôm, chàng nghĩ ở nhà mình mất bặt tin tức, chắc là trông mong dữ lắm, bèn viết thư báo tin bình yên, sai thằng tiểu đồng về trước, cho gia nhân yên lòng.
Chẳng dè mấy ngày thần tiên là hàng năm cõi trần. Nhà chàng từ khi nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con xô gai để tang đã hơn một năm rồi. Tiểu đồng đem thư về, mới hay tin chàng còn sống. Nhưng âm hao cách trở, người nhà e chàng vui sống cuộc đời trôi nổi, trước sau khó nỗi trở về quê nhà.
Cách nửa năm sau, thình lình chàng về, ngựa xe cực sang, trong túi đầy nhóc vàng ròng ngọc báu. Từ đó trở nên giàu sang hàng vạn, tối ngày đàn ngọt, hát hay, rượu ngon gái đẹp, tiêu xài hết sức hào phóng, dù những nhà giàu sang mấy đời cũng không theo kịp.
Luôn bảy tám năm, chàng ở với vợ, sinh hạ năm con, mà ngày nào cũng như ngày nấy, tụ hợp bạn bè khách khứa ăn uống, cung phụng cực sang. Có người hỏi gặp gỡ món nào mà sẵn tiền lắm của như thế, chàng nói thật cả, không giấu giếm chút nào.
Có người bạn chơi từ nhỏ, tên là Lương Tú Tuấn, đi làm quan ở miền Nam hơn mười năm mới về, qua hồ Động Đình, trông thấy một chiếc du thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thiếp vàng cực đẹp, bên trong có tiếng đàn hát thanh tao, dập dờn trên mặt sông hồ, thỉnh thoảng lại thấy mỹ nhân mở hé cửa sổ đứng ngắm phong cảnh.
Lương dòm kỹ trong thuyền, thấy một người đàn ông thiếu niên, dựa đầu gác vế mỹ nhân, bên cạnh có hai cô son trẻ chừng đôi tám, thay phiên nhau hầu hạ đấm bóp. Ban đầu, Lương nghĩ chắc là một vị quan lớn nào ở miền Tương Sở, nhưng lấy làm lạ sao chẳng có người hầu lính gác nào cả. Chừng nhướng mắt nhìn kỹ, té ra là bạn cũ Trần Minh Doãn liền đứng ra mạn thuyền kêu gọi rùm lên.
Chàng nghe tiếng kêu bèn sai dừng chèo, ra trước mũi thuyền, mời Lương qua chơi.
Lương qua, trông thấy những món ăn thừa, la liệt trên bàn, mùi rượu hãy còn sực nức. Trần sai dọn hết để dọn tiệc khác.
Giây lát, năm ba nàng hầu xinh đẹp, tíu tít châm trà rót rượu, các món sơn hào hải vị bày ê hề, toàn là thứ lạ, thuở nay mắt Lương chưa thấy bao giờ. Lương kinh hoàng, hỏi bạn:
- Cách biệt mười năm không gặp nhau, sao anh phú quý đến thế này ư?
Chàng cười đáp:
- Anh khinh thằng khố dây này không thể mở mặt với đời hay sao?
Lương hỏi:
- Ban nãy có người đàn bà cùng ngồi uống rượu là ai?
Chàng đáp:
- Mẹ trẻ nhà tôi đó.
Lương càng lấy làm lạ, hỏi chàng đem cả gia quyến đi đâu đây?
Chàng nói:
- Đi về miền Tây.
Lương còn muốn hỏi nhiều chuyện nữa, nhưng chàng vội sai lũ ca nhi trổi giọng đàn hát vang rền, làm như sấm đánh ù tai, rồi thì đũa chén và trúc tơ xen hòa ồn ào, che lấp cả những tiếng nói cười không nghe được nữa.
Thấy gái đẹp nhởn nhơ trước mặt đông đầy, Lương thừa lúc ngà ngà say, cất tiếng nói lớn:
- Anh Minh Doãn có cho thằng bạn cũ này được hưởng thú bay hồn không nào?
Chàng cười xòa nói:
- Bạn say lắm rồi. Tuy nhiên tôi có thể tặng cho cố nhân để cưới một cô hầu cực đẹp nhé!
Nói đoạn, liền sai thị nữ lấy ra một trái minh châu sáng ngời để tặng Lương và nói:
- Với của này, anh có thể cưới một mỹ nhân tuyệt thế, như hàng con Lục Châu của Thạch Sùng ngày xưa cũng không khó gì. Như vậy để tỏ ra tôi không keo cú với bạn cũ từ ngày còn để chỏm với nhau.
Kế lại nói tiếp, ngỏ ý kiếu từ:
- Hiện tôi có việc cần kíp, rất tiếc không thể cùng bạn ngồi đối diện đàm tâm được lâu hơn nữa.
Liền đó tiễn Lương về thuyền, rồi hô thủy thủ thuyền mình mở dây đi thẳng. Lương về, ghé thăm nhà Trần, thì ra chàng đang ngồi ngất ngưởng uống rượu với khách, trong bụng càng lấy làm lạ, liền hỏi:
- Vừa mới hôm kia gặp anh trên hồ Động Đình, về đây hồi nào mà lẹ quá vậy?
Chàng nói:
- Đâu có chuyện ấy? Tôi vẫn ở nhà mà!
Lương bèn thuật lại rõ mọi sự đã thấy, khiến mọi người cùng lắc đầu thè lưỡi, cho là một chuyện quái lạ.
- Anh trông gà hóa cuốc rồi sao chớ! Nói vậy thì ra tôi có phép thuật phân thân ở hai nơi được ư?
Ai nấy cũng lấy làm lạ, nhưng nghĩ mãi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao.
Về sau, chàng thọ tới tám mươi mốt tuổi mới mất. Khi liệm thi thể, gắn kỹ rồi mà thấy hòm nhẹ như không, mở ra xem thì quan tài trống rỗng.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Liêu Trai Chí Dị

Postby bevanng » 27 Aug 2022

Con người quốc sắc (Mao Hồ)


Mã Thiên Vinh, con nhà làm ruộng, ngoài hai mươi tuổi góa vợ, vì nghèo quá không cưới nổi vợ khác.
Một hôm, đi ra thăm ruộng, trông thấy một thiếu phụ mặc tử tế, xuyên bờ đạp lúa mà đi, mặt đỏ xem có vẻ phong lưu, Mã ngỡ là người lạc đường, dòm quanh tứ phía không có ai, bèn chọc ghẹo chơi. Nàng mỉm cười, Mã toan đè ra giao hoan tại đó. Nàng gạt đi:
- Giữa thanh thiên bạch nhật sao làm chuyện bậy bạ như vậy? Anh về nhà trước đi, khép cửa đợi tôi, trời tối, tôi đến.
Mã không tin lời, nàng thề nguyền nói thật. Mã bèn vẽ đường lối cửa ngõ cho nàng biết, rồi nàng từ giã.
Đêm lại, quả đến, thuận cho giao hoan. Mã thấy mình mẩy nàng mềm nhũn, thắp đèn lên soi, da đỏ và mỏng manh như đứa trẻ mới sơ sinh lông tơ đầy mình, phải lấy làm lạ. Lại ngờ tông tích nàng vu vơ, tự nghĩ không khéo là chồn, liền thử hỏi đùa xem.
Nàng tự nhận ngay là chồn, không hề chối cãi, giấu giếm. Mã nói:
- Đã là tiên nương hẳn là cần chi được nấy. Cô đã âu yếm với tôi, sao không cho tôi ít đồng qua cơn nghèo túng?
Nàng nhận lời, đêm sau tới, Mã hỏi số tiền hứa cho đâu? Nàng làm bộ sửng sốt mà nói: “Rủi tôi quên mất tiền rồi”. Chừng sắp ra về, Mã lại nhắc. Đêm tới khi nàng vừa đến, Mã hỏi ngay:
- Món đó cô lại quên nữa chứ gì?
Nàng cười hẹn đến hôm khác.
Cách mấy hôm. Mã lại hỏi. Nàng vừa cười vừa rút trong tay áo ra hai nén bạc, đáng giá năm sáu đồng, hai bên ria có những khía nhỏ trông xinh đẹp dễ thương, Mã mừng rỡ, cất kỹ trong rương, chừng nửa năm sau, có việc cần xài bèn lấy ra cho người ta xem và nhờ bán giùm. Người ta nói:
- Đây là chì mà, đâu có phải bạc!
Đưa răng lên cắn thử, bể ngay. Mã sợ quá, vội vàng nhặt lấy về nhà. Đêm nàng đến, Mã gây gổ trách móc đáo để. Nàng cười:
- Mạng anh mỏng manh lắm, không xài được bạc thật đâu.
Thế rồi cười xòa bỏ qua chuyện đó. Mã cũng cười và hỏi:
- Nghe nói giống chồn thành tiên, đều là trang quốc sắc, nhưng nay tôi thấy đâu có phải vậy.
Nàng nói:
- Loài chúng tôi đều tùy theo hạng người gặp gỡ mà hóa thuận hiện hình. Thứ anh, một đồng bạc còn không có phúc mà hưởng được, thì nhan sắc chim sa cá lặn, làm sao tiêu thụ cho nổi? Tôi xấu xí thế này, vốn không đủ dâng cho hạng thượng lưu, nhưng nếu đem so sánh với tụi chân to lưng gù thì tôi chính là quốc sắc đấy anh ạ!
Qua mấy hôm, nàng bỗng dưng đưa ra ba lượng bạc cho Mã và nói:
- Anh đòi hỏi nhiều phen, tôi suy nghĩ mạng anh không thể có tiền để dành mà cho anh làm chi? Nhưng nay đến kỳ cưới xin, vậy tôi đem cái giá cưới một con vợ tặng anh, và xin cùng anh từ giã luôn thể.
Mã bày tỏ mình không hề có chuyện mối manh cưới hỏi gì cả. Nàng nói:
- Trong một hai ngày, sẽ có mụ mối tự đến.
Mã hỏi mặt mày nàng vợ sắp lấy xấu hay đẹp thế nào? Nàng đáp:
- Anh khao khát quốc sắc, rồi có quốc sắc cho anh mà!
- Tôi chẳng dám mong tới bực đó, nhưng với ba lượng bạc mua một con vợ sao đủ?
- Chuyện đó ông tơ bà nguyệt đã an bài, không cần ở nhân lực đâu.
- Nhưng tại sao cô vội từ giã tôi?
- Đêm nào tôi cũng dầm sương đội nguyệt mà đến hủ hỉ âm thầm với anh, đâu phải là cuộc lâu dài mãi được. Rồi anh sẽ có vợ anh, còn cầm giữ tôi làm chi?
Sáng hôm sau ra đi, lại trao cho Mã một gói thuốc bột, dặn rằng: Sau khi biệt nhau, e anh lâm bệnh, uống thuốc này thì khỏi.
Liền ngày hôm sau nàng đi rồi, quả có mụ mối đến. Mã hỏi nhan sắc người con gái trước hết. Mụ đáp rằng: ở giữa khoảng xấu đẹp. Lại hỏi tiền cưới độ bao nhiêu, mụ trả lời: Chỉ độ bốn năm đồng.
Mã tuy không kéo nài về giá tiền đắt rẻ, nhưng chỉ muốn trông thấy người tận mắt cho được chắc ý. Mới tỏ ý lo ngại rằng con nhà tử tế, không chịu vác mặt đến nơi cho mình xem đâu. Nhưng rồi mụ hẹn cùng chàng đi đến nhà gái, sẽ tùy cơ liệu tính cho xem mặt cô dâu.
Khi đến làng đó, mới đi vào trước, bảo Mã đứng chờ bên ngoài, lúc lâu mụ trở ra nói:
- Được rồi, người bà con bên ngoại tôi cùng ở nhà trên, vậy anh giả danh đến thăm bà con tôi nhà ngang trước cửa, chỉ cách gang tấc, tha hồ mà dòm.
Mã nghe lời, quả thấy nàng ngồi căn giữa, ngả mình xuống giường để cho người ta gãi lưng. Mã phớt qua, hai mắt ngó chăm thấy mặt mày như lời mối đã tả.
Đến lúc bàn định về khoản cưới, nhà gái không kéo nài gì hết, chỉ cần được một hai lượng, để mua sắm chút ít cho nàng xuất giá, có thế thôi.
Mã còn cò kè bớt một thêm hai, rồi mới nộp tiền, luôn dịp đền ơn mụ mai. Khi viết giấy tờ xong, tính ra ba lượng vừa hết, không thừa một xu con nào.
Vài hôm, chọn được ngày lành giờ tốt, đón vợ về nhà. Mã nhìn thấy vợ lưng gù bụng ỏng, cổ rụt như cổ rùa, trông xuống bàn chân to phát sợ. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ những lời con chồn đã nói là có căn do vậy.

Đào Trinh Nhất dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 65 guests