Lục Chỉ Cầm Ma - Nghê Khuông

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Lục Chỉ Cầm Ma - Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Image

Lục Chỉ Cầm Ma

Tác giả : Nghê Khuông


Giới thiệu

Những tuyệt kỹ võ công tranh bá thiên hạ luôn là nguyên nhân gây nên cuộc chiến khốc liệt của các môn phái võ lâm.

Thiên ma cầm bảo - vật trấn sơn của phái Thiên Long là một cây đàn ma quái đã tuyệt tích cùng cái chết thảm khốc của gia đình họ Dương.

16 năm sau, thiên ma cầm tái xuất giang hồ và mang theo mối thù sâu nặng của Dương Tuyết Mai để trả thù cho cha mẹ.

Vào ngày Lữ Đằng Không - Tổng tiêu đầu của Thiên hổ tiêu cục rửa tay gác kiếm, có một người giấu mặt đã nhờ áp tải một chuyến tiêu đặc biệt. Lữ Lân , thiếu gia họ Lữ vì háo thắng, ham lợi trước mắt đã giấu giếm cha mẹ nhận áp tiêu. Lữ Lân không hề biết rằng chính sự bồng bột nhất thời sẽ gây nên bi kịch thảm khốc cho gia đình mình và cả võ lâm.

Giang hồ lại một lần nữa dậy sóng, ai cũng muốn có được tuyệt thế võ công để xưng bá võ lâm. Cuộc chiến khốc liệt và đẫm máu bắt đầu dưới sự đứng đầu của Quỷ cung và Liệt hỏa cung, những kẻ đã gây nên cuộc thảm sát năm xưa. Đông Phương Bạch, chưởng môn của Thiên Long phái cũng không đứng ngoài cuộc tranh giành.

“Lục chỉ cầm ma” còn cuốn hút khán giả bởi câu chuyện tình cảm động giữa Dương Tuyết Mai và Phó Vân Tuấn .

Tình yêu chân thành và sâu sắc của Vân Tuấn đã sưởi ấm trái tim lạnh giá và chất chứa đầy hận thù của Tuyết Mai.

Vân Tuấn đã cảm nhận được sự thánh thiện và trong sáng trong cô gái bị cả thiên hạ gọi là nữ ma đầu. Sự hòa quyện giữa cầm và sáo đã tạo nên những giai điệu du dương nhưng vô cùng mãnh liệt.

Thiên ma cầm với những khúc nhạc ai oán, tang thương nhưng cũng chứa chan yêu thương sâu lắng đã chạm đến tận cùng nỗi đau trong trái tim của đôi trai tài gái sắc.

Những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc khi Lữ Lân hiểu lầm cái chết của cha mẹ mình là do Tuyết Mai gây ra.

Mang nặng mối thù gia đình, Lữ Lân tìm mọi cách đối đầu và quyết tâm luyện tập võ công để chống đối lại Tuyết Mai.

Những bi kịch và ân oán càng sâu đậm khi thiên ma cầm lên tiếng, sức mạnh hủy diệt của nó khiến cả thiên hạ phải khiếp sợ và cũng khiến lòng tham của con người trỗi dậy để có được tuyệt thế võ công.[/scroll]
Last edited by tuvi on 15 Apr 2022, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 01
Chuyện Đâu Lại Quá Lạ Lùng
Quái Khách Tìm Đến Quần Hùng Hãi Kinh

Gió to đang lộng, một ngọn đại kỳ không ngớt giũ nghe rèn rẹt.

Đấy là một ngọn cờ màu lam, bên trên thêu một con hổ xinh xắn và hết sức khéo léo, nhìn qua chẳng khác nào một con hổ sống đang vươn mình như muốn vồ tới trước. Bên dưới con hổ ấy, lại có thêu bốn chữ to Thiên Hổ Tiêu Cục.

Lá cờ to ấy được cắm trên nóc nhà Thiên Hổ Tiêu Cục cao vòi vọi.

Có thể nói Thiên Hổ Tiêu Cục là một tiêu cục to nhất trong năm tỉnh ở phía nam. Hàng hóa mà tiêu cục này nhận áp tải mỗi chuyến có giá trị đến mấy vạn lượng bạc. Nhưng từ xưa đến nay, chưa hề xảy ra một chuyện chi đáng tiếc cả.

Sở dĩ có như vậy, chẳng phải số nhân vật trong phe hắc đạo không biết động lòng tham trước những của quý báu ấy, mà chính vì họ biết vị chủ nhân của Thiên Hổ Tiêu Cục, tức Thiên Hổ Lữ Đằng Không và người vợ của ông ta là Tây Môn Nhất Nương, đều chẳng phải hạng người dễ trêu chọc.

Thiên Hổ Lữ Đằng Không là một nhân vật tài ba lỗi lạc, một đệ tử tại gia ưu tú của phái Nga My, cả về hai mặt nội ngoại công đều cao cường tuyệt đỉnh. Những nhân vật võ lâm thông thường khác, đến lúc tuổi già như ông ta, hầu hết đều tìm đến sơn lâm để quy ẩn, an nhàn trong cuộc sống thoát ly trần tục. Nhưng riêng Lữ Đằng Không thì trái hẳn, vẫn một mực lưu lại trong giới giang hồ, mở Thiên Hổ Tiêu Cục tại thành Nam Xương.

Lữ Đằng Không đối nhân xử thế tỏ ra rất có nghĩa khí, nhưng cá tánh của lão ta có một chỗ nhược, ấy là lúc nào cũng tham lam tiền tài. Tuy nhiên, có thể nói đấy là cái bịnh chung của người đời, vì ngay Khổng Phu Tử cũng đã từng nói: "Sự giàu có nếu có thể tìm đến được, thì dù cho một người làm nghề dạy học như tôi cũng không chối từ!" (Phú nhược khả cầu, tuy chấp tiền chi sĩ, ngô diệt vi chi! ) Với danh vọng của Thiên Hổ Lữ Đằng Không, từ trước đến nay dù tiêu cục của ông ta cần phải áp tải một số hàng hóa giá trị đến muôn ngàn lạng bạc đi nữa, ông ta vẫn chẳng cần phải đích thân bước ra điều khiển. Trái lại, ông ta chỉ cần phái một tiêu sư thay mặt ông ta lo việc chỉ huy, đồng thời cắm trước đoàn xe lá cờ Thiên Hổ Tiêu Cục là mọi việc sẽ được kết quả mỹ mãn, chẳng hề xảy ra chuyện chi bao giờ.

Vì tất cả những nhân vật hắc đạo, dù cho dám đối kháng thẳng với Lữ Đằng Không, dám đối kháng với vô số cao thủ tại gia, cùng các tăng nhân của phái Nga My đi nữa, thì e rằng cũng không làm sao đối kháng nổi với Tây Môn Nhất Nương cùng quần hùng của phái Điểm Thương. Bởi lẽ Tây Môn Nhất Nương tuy cư ngụ tại thành Nam Xương, nhưng kỳ thực bà ta là sư tỷ của vị Chưởng môn phái Điểm Thương ở Vân Nam, tức Lăng Tiêu Nhạn Khuất Lục Kỳ.

Vị Chưởng môn phái Điểm Thương là người sở trường về kiếm pháp. Thanh trường kiếm của ông ta xuất quỷ nhập thần, không ai là không kiêng sợ. Do đó, tên tuổi của ông ta trong võ lâm thật ra không kém sút chi so với Lữ Đằng Không cả.

Bởi thế, đời sống của Lữ Đằng Không ngoại trừ việc tiếp tục là rèn luyện dùi mài võ công, còn thì suốt tháng năm chỉ ở trong nhà vui chơi với con, hoặc giao du cùng với bạn bè để luận đàm về những giai thoại xảy ra trong giới giang hồ mà thôi! Lữ Đằng Không đến năm năm mươi mốt tuổi, thì bà vợ là Tây Môn Nhất Nương mới hạ sanh đứa con trai lấy tên là Lữ Lân.

Năm nay Lữ Lân vừa đúng mười hai tuổi. Ngay từ lúc Lữ Lân hãy còn nhỏ, thì vợ chồng của Lữ Đằng Không đã sưu tập cất sẵn những linh dược tiên thảo, uống vào có lợi cho người rèn luyện võ công, để cho Lữ Lân dùng. Vì hai vợ chồng ông ta quyết tâm sẽ đào tạo Lữ Lân trở thành một con người võ công cái thế sau này.

Do đó, đến năm Lữ Lân vừa lên tám, thì hai vợ chồng của Lữ Đằng Không đã bắt đầu truyền dạy võ công cho cậu ta. Bởi thế, Lữ Lân tuy tuổi hãy còn nhỏ, nhưng về mặt võ học cũng đã có một trình độ khá cao cường. Đồng thời, võ học của cậu ta lại tập trung được sở trường của hai môn phái Nga My và Điểm Thương, nên nhân vật giang hồ ai ai cũng ngợi khen, và cho rằng tương lai của Lữ Lân chắc chắn sẽ trở thành bậc anh tài xuất chúng trong võ lâm sau này.

Hôm ấy, trời thu cao vút và trong veo, không hề thấy một áng mây, khí hậu mát mẻ làm ai cũng cảm thấy sảng khoái trong người. Trên nóc nhà Phiêu Hổ Tiêu Cuộc, lá cờ to đang bay phất phơ theo chiều gió lộng. Những tên phu xe đang ngồi trước thềm cùng nói chuyện kháo, bất thần nghe có tiếng mấy người hỏi to lên rằng:

- Chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có ở nhà không? Bọn phu xe giật mình đưa mắt nhìn lên, thì trông thấy có bốn gã đàn ông ăn mặc theo lối gia đinh, nhưng y phục tươm tất sạch sẽ, chứng tỏ họ là gia nhân của một gia đình giàu có trong vùng.

Bởi thế, vị tiêu đầu có trách nhiệm tiếp tân trong tiêu cục không dám chểnh mãng, vội vàng lên tiếng hỏi:

- Ông ấy hiện đang có mặt ở nhà, song chẳng hay quý quản gia có điều chi chỉ dạy? Bốn gã đàn ông ăn mặc theo lối gia đinh ấy không đáp lời chi cả, trái lại, cùng nhanh nhẹn quay lưng bỏ đi tuốt ngay.

Vị tiêu đầu trông thấy thế thì không khỏi ngơ ngác, chẳng hiểu đối phương có thái độ như vậy là vì đâu. Nhưng cũng liền ngay sau đó, vị tiêu đầu trông thấy có một người đàn ông khác, ăn mặc sang trọng, vừa nhìn qua thì đã có thể đoán biết đấy là một vị quản gia của một gia đình giàu có, đang đưa chân bước thẳng đến nơi. Trong tay của người đàn ông ấy có bưng một cái hộp bằng gấm, và lên tiếng nói:

- Xin ông vui lòng bẩm lại cho Tổng tiêu đầu biết là tại hạ muốn xin ra mắt.

Làm nghề tải hàng mà trông thấy có khách hàng tìm đến, thì không ai lại dám tỏ thái độ vô lễ bao giờ. Nhưng vị tiêu sư ấy vừa rồi đã bị bốn tên gia đinh kỳ quái kia làm cho trong lòng không khỏi bực bội. Hơn nữa, giờ đây y lại nhìn thấy trên chiếc mũ của vị quản gia này có khảm một miếng ngọc xanh lóng lánh, trông giống miếng ngọc khảm trên mũ của bốn tên gia đinh vừa rồi, nên không khỏi có thái độ bực tức lây. Bởi thế, y liền cất giọng gắt gỏng nói:

- Có phải ông mang vật quý báu chi đến, để nhờ tiêu cục chúng tôi áp tải hay không? Ông trao cho tôi là được rồi! Đây là vật chi thế và định áp tải đi đâu...? Sao ông không nói mau cho tôi được biết? Trong khi người tiêu sư ấy cất tiếng hỏi dồn, thì gã đàn ông có dáng điệu giống như người quản gia ấy vẫn giữ nét tươi cười. Y chờ cho vị tiêu sư nói dứt lời, mới thong thả nói rằng:

- Việc này thật ra tôi không dám tự động, vì đây chính là việc của chủ nhân tôi sai bảo.

Vừa rồi, vị chủ nhân của tôi có dặn, là phải trao đến tận tay của Lữ Tổng tiêu đầu, vậy xin phiền ông vào trong bẩm lại cho, thì thực tôi cảm tạ vô cùng.

Vị tiêu sư ấy vốn có ý muốn to tiếng cãi vã cho hả cơn tức giận, nhưng vì trông thấy thái độ của người khách hàng vẫn một mực hòa nhã, nên y cũng phải đè nén sự tức bực trở xuống. Và y bèn đưa đôi mắt nhìn từ đầu đến chân người khách hàng một lượt để dò xét, rồi lên tiếng nói:

- Tôi sẽ vào trong bẩm lại cho Tổng tiêu đầu biết đây, vậy ông hãy ngồi chờ đợi trong giây lát.

Người quản gia đáp:

- Vị chủ nhân của tôi là người họ Tề, vậy ông vào bẩm cùng Lữ Tổng tiêu đầu, nói tôi là người của nhà họ Tề phái đến là được rồi.

Vị tiêu sư ấy cau mày nghĩ ngợi, vì y đã làm nghề áp tải hàng tại thành này từ lâu, phàm những gia đình giàu có mang hàng đến gởi áp tải, y đều được biết khá nhiều. Thế nhưng y moi óc nghĩ ngợi mãi, mà vẫn không biết có một gia đình họ Tề nào cả. Trong khi đó, y lại thấy từ cách ăn mặc cho đến cử chỉ của người quản gia đang đứng trước mặt, rõ ràng là người ở trong một gia đình giàu sang, chứ chẳng phải tầm thường, nên không khỏi boăn khoăn nghĩ ngợi mãi để cố tìm ra lai lịch của đối phương. Nhưng cuối cùng y vẫn không làm sao hiểu chi được thêm về người quản gia này cả, nên bất đắc dĩ phải quay lưng đi thẳng vào trong.

Người đàn ông ăn mặc theo lối quản gia ấy, bèn để yên chiếc hộp gỗ bạc gấm lên mặt bàn, rồi đưa mắt nhìn thẳng tấm bảng hiệu Thiên Hổ Tiêu Cục treo trên cao, trong lòng bất giác cười thầm.

Chẳng mấy chốc sau, Thiên Hổ Lữ Đằng Không đã theo chân vị tiêu sư vừa rồi, từ trong bước ra. Đấy là một lão già da dẻ hồng hào, tóc râu bạc trắng, đôi chân bước đi vững vàng, thái độ oai vệ uy nghi, khiến ai nhìn vào cũng phải kiêng sợ.

Thiên Hổ Lữ Đằng Không vừa bước đến nơi, thì gã đàn ông ăn mặc theo lối quản gia ấy, liền nhanh nhẹn cúi mình thi lễ nói:

- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, tiểu nhân là Tề Phúc xin ra mắt.

Lữ Đằng Không khoát tay áo rộng qua một lượt, gây thành một luồng kình lực mạnh mẽ đỡ lấy Tề Phúc, không cho y thi lễ. Nhưng Tề Phúc đã ngầm vận dụng chân lực hất tới, để đỡ thẳng vào luồng kình lực từ tay áo rộng của Lữ Đằng Không vừa cuốn ra. Song chẳng ngờ chính y vì đã dùng sức mạnh để đối kháng với luồng kình lực đó, mà đôi chân đã loạng choạng suýt nữa đã té lăn quay ra đất.

Lữ Đằng Không trông thấy thế bèn mỉm cười nói:

- Thì ra quý quản gia cũng là người am hiểu tuyệt nghệ. Chẳng hay hôm nay quý quản gia đến đây là có chuyện chi cần lão phu tương trợ, vậy xin cứ thẳng thắn nói ra.

Sắc mặt của Tề Phúc không khỏi bừng đỏ, đáp rằng:

- Chiếc hộp gấm này là món hàng mà gia chủ của tiểu nhân muốn đưa đến, để nhờ Tổng tiêu đầu áp tải tới phủ riêng của Ngô Giang đại hiệp, tức Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn ở Tô Châu phủ. Và chủ nhân của tiểu nhân hứa sẽ thù lao trọng hậu.

Lữ Đằng Không cất tiếng cười, nói:

- Đã từ lâu lão phu chẳng hề đích thân bước ra chỉ huy việc áp tải hàng bao giờ. Do đó, có lẽ hôm nay không thể phá lệ trước lời yêu cầu của quý chủ nhân được.

Tề Phúc lộ vẻ luống cuống nói:

- Gia chủ của tiểu nhân có dặn, là nhất định phải nhờ cho được Lữ Tổng tiêu đầu áp tải chiếc hộp gấm này và nếu là người khác thì không thể được! Lữ Đằng Không đưa tay vuốt râu mỉm cười nói:

- Với lá cờ Thiên Hổ của hiệu chúng tôi, dù cho đi khắp thiên hạ vẫn được an toàn, chẳng có điều chi bất trắc xảy ra cả. Phương chi, món hàng này lại áp tải đến phủ riêng của Hàn đại hiệp, thì thử hỏi coi có ai lại dám ra tay mạo hiểm để cướp đoạt? Do đó, sự lo lắng của quý chủ nhân không khỏi quá thừa chăng? Tề Phúc tươi cười nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu nói phải lắm! Dứt lời, gã đàn ông ấy bèn quay mặt nhìn ra cửa, đưa hai bàn tay lên vỗ kêu thành ba tiếng. Tức thì, bốn tên gia đinh vừa rồi đã tìm đến để hỏi thăm về Lữ Tổng tiêu đầu, liền nhanh nhẹn nối gót nhau bước thẳng vào.

Lúc ấy, trên tay của mỗi người đều có bưng một chiếc mâm sơn son thếp vàng to, bên trên dùng một vuông lụa xanh phủ kín. Tề Phúc bèn nhanh nhẹn bước tới, thò tay đỡ những vuông lụa xanh đậy trên từng chiếc mâm ra, và Lữ Đằng Không cùng số tiêu đầu đứng chung quanh đều không khỏi giật mình sửng sốt! Thì ra trong chiếc mâm sơn son thếp vàng thứ nhất đựng một viên ngọc Thấu Thủy Lục, hiếm có trong đời, chiếu sáng lóng lánh, đặt gọn giữa những tấm giấy màu xanh lam xinh đẹp.

Và trong chiếc mâm thứ hai đựng một viên dạ minh châu to bằng hạt trái nhãn. Trong chiếc mâm thứ ba là một con sư tử chạm trổ khéo léo bằng chuỗi đỏ. Thứ chuỗi ấy là một loại chuỗi Hỏa Tề hiếm có trong đời, chạm trổ tinh vi đến độ có thể nhìn rõ được từng sợi lông bờm trên đầu của nó.

Cuối cùng, trong mâm thứ tư là một con rồng vàng năm móng, thắt bằng những sợi tơ bằng hoàng kim. Về số vàng để tạo nên con rồng ấy chẳng qua chỉ hơn nửa cân mà thôi.

Nhưng về mỹ thuật thì quả đấy là một công trình hiếm có trong đời. Vì ngay đến một người thợ khéo léo nhất ở kinh đô, nếu khởi công thắt cho hoàn thành một con rồng như thế, ít nhất cũng phải trải qua đến tám năm trường. Đôi mắt của con rồng đó được cẩn hai hạt kim cương to, lúc nào cũng chiếu sáng lập lòe, hoa cả mắt mọi người chung quanh! Lữ Đằng Không trong giai đoạn tuổi già, đã trở thành một con người giàu có, tài sản rất nhiều. Ông ta đã từng bỏ tiền ra mua những món đồ cổ quý báu với một giá thật đắt để chưng bày trong nhà. Hơn nữa, ông ta lại là người rất thạo về đồ cổ nên đã mua được rất nhiều vật quý báu. Tuy nhiên, với bốn bảo vật đang bày trong mâm, bưng trên tay bốn tên gia đinh đang đứng trước mặt ông ta, thì chẳng có món nào không phải là vật quý báu vô giá, và chính ông ta từ xưa đến nay, cũng chưa hề được trông thấy lần nào! Bởi thế, trong nhất thời, ông ta không khỏi tròn xoe đôi mắt, há hốc đôi môi, nói chẳng nên lời. Qua một lúc lâu sau, ông ta mới ấp úng nói rằng:

- Quý... quản gia, những bảo vật này mang đến để làm gì? Tề Phúc bèn cúi người thi lễ nói:

- Gia chủ của tiểu nhân biết Lữ Tổng tiêu đầu chẳng xem hoàng kim hay bạc nén vào đâu cả. Do đó, mới bỏ ra một số tiền kết xù, tìm đến tây thành Nam Hải, để mua cho được bốn bảo vật này về. Nếu hôm nay Lữ Tổng tiêu đầu bằng lòng hứa, đích thân áp tải giúp chiếc hộp gấm này, thì bốn món bảo vật ấy dùng để gọi là thù lao, hầu tỏ ít nhiều sự cảm tạ và lòng thành kính! Thiên Hổ Lữ Đằng Không nghe qua không khỏi thầm kinh hãi, lên tiếng hỏi:

- Nếu bốn món bảo vật này dùng để thù lao cho lão phu, thì món hàng cần áp tải đưa đến tận tay Hàn đại hiệp ấy là vật chi? Câu hỏi ấy là câu hỏi tất nhiên mà ai ở vào trường hợp ấy cũng phải lên tiếng hỏi như thế cả. Vì bốn món bảo vật mà đối phương mang đến để thù lao cho lão ta rõ ràng là bốn bảo vật hiếm trên đời. Như vậy, món hàng cần nhờ lão ta áp tải, tất nhiên phải là một bảo vật quý báu hơn cả bốn bảo vật đang bày trước mặt ấy nữa! Thế nhưng thử hỏi trên đời này, còn có vật chi lại quý báu hơn bốn bảo vật ấy được? Tề Phúc nghe qua câu hỏi ấy, bèn lên tiếng đáp:

- Nếu Lữ Tổng tiêu đầu bằng lòng hứa sẽ đích thân chỉ huy áp tải món hàng này, thì tiểu nhân còn có vài lời để trình bày thêm! Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn đăm đăm vào bốn bảo vật bày trong mâm một lúc khá lâu, đồng thời thò tay nhấc lên rồi lại để xuống, sắc mặt tỏ ra vô cùng vui thích, nên liền lên tiếng nói:

- Được! Lão phu hứa với ông, là sẽ đích thân áp tải món hàng này! Nhưng trong chiếc hộp gấm kia đang đựng vật chi thế? Tề Phúc cúi mình thi lễ nói:

- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, xin ông hãy bỏ lỗi cho về chỗ vô lễ của tiểu nhân. Gia chủ của tiểu nhân đã có lời dặn là chiếc hộp gấm này phải được đậy kín trao đến tận tay Hàn đại hiệp, tuyệt đối không thể giở ra xem. Do đó, ngay đến tiểu nhân đây cũng hoàn toàn chẳng biết bên trong hộp gấm ấy đang đựng vật gì! Qua lời nói ấy của Tề Phúc, có thể bảo là hoàn toàn trái ngược với thông lệ của những tiêu cục. Vì phàm bất luận hàng hóa chi đưa đến tiêu cục nhờ áp tải, đều phải cho tiêu cục mở ra xem cho tận tường. Họ tuyệt nhiên không khi nào mà lại chịu nhận một món hàng mà họ không biết đấy là hàng chi.

Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn lên tiếng nói:

- Nếu vậy thì lão phu xin từ khước việc nhận áp tải chiếc hộp ấy mà thôi! Tề Phúc vội vàng nói:

- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, gia chủ tiểu nhân có bảo, là bốn món lễ vật này, e rằng đi khắp trong thiên hạ cũng không làm sao tìm cho ra! Câu nói đó đã đánh trúng vào lòng tham của Lữ Đằng Không, nên khiến lão ta trở nên trầm ngâm, không nói thêm chi nữa! Tề Phúc lại nói tiếp rằng:

- Chiếc hộp gấm này hiện giờ đã được niêm phong kỹ lưỡng, vậy chỉ cần Lữ Tổng tiêu đầu hứa là không mở ra, và áp tải thẳng đến cho người nhận là hoàn toàn vô sự! Lữ Đằng Không nói:

- Lão phu là một con người như thế nào mà có thể xem trộm chuyện riêng của người khác? Tề Phúc vội vàng nói:

- Phải! Tiểu nhân đã nói lỡ lời, thật là đáng chết! Lữ Đằng Không ngửa mặt nhìn lên nói:

- Quý quản gia, chẳng hay gia chủ của quý quản gia là ai thế? Tề Phúc đáp:

- Vì tiểu nhân không được tệ gia chủ cho phép, nên chẳng dám nói bừa bãi.

Lữ Đằng Không hừ lên một tiếng, rồi bất thần thò tay chụp tới, gây thành một luồng kình phong mạnh mẽ, nhắm chụp thẳng vào cổ tay của Tề Phúc nhanh như gió hốt! Tề Phúc vội vàng thối lui ra sau một bước, rùn thấp đôi chân, nhanh nhẹn thu cánh tay về để tránh, nên đã kịp thời tránh khỏi thế chụp bất ngờ ấy của Lữ Đằng Không. Kế đó y bèn lên tiếng nói:

- Thưa, Lữ Tổng tiêu đầu...! Trong khi ấy, Lữ Đằng Không không khỏi thầm giật mình, vì ông ta không ngờ là Tề Phúc có thể tránh khỏi thế chụp bất thần của mình. Hơn nữa, thân pháp của Tề Phúc vừa sử dụng lại chính là thân pháp của phái Hoa Sơn. Đồng thời, qua cách sử dụng thân pháp ấy, chứng tỏ Tề Phúc là một cao thủ của phái này. Thế chẳng hiểu tại sao y lại cam tâm cúi mình đi làm gia nhân cho người ta như thế? Nên biết, trong võ lâm môn phái rất nhiều, và võ công họ lúc nào cũng được truyền dạy từ đời này sang đời kia, mỗi môn phái đều có sự riêng biệt độc đáo của mình cả. Tuy nhiên, những môn phái nổi tiếng trong võ lâm, có môn nhân đông đảo cũng như võ học trác tuyệt thật sự cũng chỉ có các môn phái Nga My, Thiếu Lâm, Thanh Thành, Võ Đang, Hoa Sơn, Ngũ Đài, Điểm Thương và Thê Hà mà thôi. Các môn phái ấy dựa vào địa phương của mình để mệnh danh cho môn phái.

Ngoài ra, lại còn một số môn phái đã dựa vào võ công độc đáo của mình để mệnh danh cho môn phái, và cũng tương đối có tiếng tăm như Bát Quái, Thái Cực, Phi Yến... Riêng các tà phái cũng hết sức đông đảo, không ai kể ra cho xiết.

Nhưng phái Hoa Sơn nếu so với các môn phái khác có tiếng hiện giờ, thì đấy là một môn phái quy tụ được đông môn nhân nhất, kể cả số người xuất gia và tại gia của phái Nga My vẫn không bì kịp.

Cũng chính vì Hoa Sơn là một môn phái đông người, nên bên trong không khỏi có phần phức tạp, kẻ giỏi người dở, chen lộn lẫn nhau. Và cũng chính vì lẽ ấy nên thanh danh của phái Hoa Sơn không được tốt đẹp gì lắm trên chốn giang hồ.

Nhưng tất cả mọi người đối với vị Tổ sư của phái Hoa Sơn là Liệt Hỏa Tổ Sư, và mười hai vị Đường chủ dưới tay của Liệt Hỏa Tổ Sư đều không khỏi tỏ ra tôn kính.

Giờ đây Lữ Đằng Không đã bất thần ra tay chụp về phía Tề Phúc, và y đã có thể kịp thời tránh khỏi thế chụp bất thần ấy của đối phương, hơn nữa y lại sử dụng một thân pháp bí truyền của phái Hoa Sơn, gọi là Súc Cốt Pháp, nên Lữ Đằng Không đã thầm đoán ra được lai lịch của hắn ta, tin chắc rằng Tề Phúc là một trong mười hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn.

Do đó, lão ta mỉm cười nói:

- Thì ra ông chính là người của Liệt Hỏa Tổ Sư sai đến! Vì mười hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn đều là người có địa vị rất cao trong võ lâm, nên chắc chắn không khi nào chịu hạ mình làm quản gia cho người ta cả. Do đó, Lữ Đằng Không đoán biết việc này chính là do Liệt Hỏa Tổ Sư sắp đặt ra cả, không còn điều chi đáng ngờ vực cả.

Tề Phúc sau khi kịp thời nhảy lùi ra sau, trên sắc mặt đã lộ vẻ tức giận, nhưng y nhanh nhẹn giữ ngay thái độ bình tĩnh nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu quả là người có nhãn quang sắc bén, chỉ cần nhìn thoáng qua là đã biết tiểu nhân có học qua vài đường võ của phái Hoa Sơn. Song, chẳng phải tiểu nhân là người của phái Hoa Sơn đâu, gia chủ của tiểu nhân họ Tề, không phải là Liệt Hỏa Tổ Sư đâu.

Lữ Đằng Không nghe thế không khỏi sửng sờ. Vì theo sự nhận xét của lão ta thì Súc Cốt Pháp là thân pháp bí truyền của phái Hoa Sơn, và đồng thời cũng là một trong ba môn võ công lớn của phái này. Do đó, nếu chẳng phải là một nhân vật có địa vị cao trong môn phái thì không khi nào lại được truyền dạy cho cả. Vậy, chắc chắn Tề Phúc phải là một nhân vật của phái Hoa Sơn. Thế nhưng y lại lên tiếng phủ nhận, chứng tỏ việc này quả thật lạ lùng.

Theo sự nhận xét của Lữ Đằng Không thì đây là một âm mưu rất bất lợi cho lão ta, nên bèn cất giọng nói:

- Này, quý quản gia...

Lữ Đằng Không vốn có ý khước từ không chịu nhận áp tải món hàng của đối phương, nhưng khi ông ta nói chưa dứt câu, thì bốn tên gia đinh đang bưng mâm trước mặt, không rõ vô tình hay hữu ý, đồng loạt đưa chân xê dịch thân người một bước, khiến bốn món bảo vật đang đựng giữa những chiếc mâm sơn son thếp vàng kia không ngớt chiếu sáng lập lòe, làm cho Lữ Đằng Không hoa cả mắt, và hoang mang cả tâm thần.

Lữ Đằng Không thật chẳng thể nào đè nén được sự ham muốn trước bốn món bảo vật ấy, nên lão ta dừng câu nói lại một lát, rồi đổi giọng nói tiếp rằng:

- Từ đây đi đến Tô Châu phủ chẳng qua bảy tám ngày đường, trong khi đó quý quản gia là người có võ công cao cường, chứng tỏ quý chủ nhân phải là một nhân vật phi thường.

Vậy, vì lẽ gì quý quản gia lại không tự mang chiếc hộp gấm này đưa đến tận tay Hàn đại hiệp? Chả lẽ quý chủ nhân đã đoán biết được là trên đường có kẻ nào đó gây điều khó khăn chi chăng? Tề Phúc cất tiếng than dài đáp:

- Lữ Tổng tiêu đầu quả là người hết sức sáng suốt. Trong chuyến đi Tô Châu này, thật sự có ít nhiều chuyện rắc rối. Tuy nhiên, gia chủ của tiểu nhân chẳng phải là người sợ những chuyện rắc rối ấy, mà kỳ thực là không muốn gặp kẻ gây sự mà thôi. Chính vì thế mới có ý định tìm đến để nhờ cậy nơi Lữ Tổng tiêu đầu, đưa chiếc hộp gấm này đến tận tay Hàn đại hiệp được dễ dàng hơn.

Lữ Đằng Không suy nghĩ một lát, xét thấy uy danh của mình trong võ lâm chẳng phải tầm thường, vậy thử hỏi còn ai dám đón đường giựt hàng hóa? Hơn nữa, dù cho có kẻ nào mạo hiểm hành động như vậy, thì thanh Tử Kim Đao của mình nào có phải dễ dàng đối phó đâu? Vì nghĩ thế, nên ông ta tự tin trong chuyến áp tải này chắc chắn thành công một trăm phần trăm, nên liền lên tiếng nói:

- Được! Quý quản gia hãy để chiếc hộp ấy lại đây! Và nội trong sáng sớm ngày mai, già này sẽ lên đường ngay.

Tề Phúc cúi người xá sâu xuống đất nói:

- Tiểu nhân ngày hôm nay hoàn thành được sứ mạng của gia chủ giao phó, thực hoàn toàn nhờ ở lòng chiếu cố của Lữ Tổng tiêu đầu! Dứt lời, y bèn khoát tay ra hiệu, tức thì bốn tên gia đinh liền để yên bốn chiếc mâm sơn son thếp vàng lên mặt bàn một cách thận trọng, rồi cùng Tề Phúc quay lưng bước thẳng ra ngoài.

Lữ Đằng Không chờ cho số người của Tề Phúc bước ra khỏi cửa, mới hạ giọng gọi một vị tiêu đầu đứng gần đấy nói:

- Này, Tần tiêu đầu, ông hãy bước ra bám sát theo năm người ấy, và tuyệt đối không được để họ phát giác ra sự theo dõi của mình, để tìm hiểu lai lịch của họ ra sao.

Vị tiêu đầu ấy bình thường là một con người lanh lợi, nên Lữ Đằng Không mới dám ủy thác cho ông ta làm một việc trọng đại như thế này. Bởi thế, Tần tiêu đầu cất tiếng vâng lệnh, rồi nhanh nhẹn bước ra khỏi cửa ngay.

Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn theo Tần tiêu đầu, thấy ông ta đã đi mất hút, bèn quay người đến trước chiếc bàn có để bốn món bảo vật. Ông ta cầm lên xem qua từng món một, rồi để xuống. Nhưng chẳng mấy chốc sau ông ta lại cầm lên săm soi thật kỹ. Sắc mặt ông ta tỏ ra vô cùng yêu thích bốn món bảo vật này, nên cứ cầm lên để xuống không ngớt tay.

Qua một lúc sau, lão ta mới dời bốn món bảo vật ấy vào chung một mâm rồi bưng lên.

Đồng thời, ông ta cũng bưng cả chiếc hộp gấm mà Tề Phúc vừa trao đến khi nãy, rồi bước chân vào nội đường.

Khi ông ta đã đi cuối một dãy hành lang và bắt đầu tiến đến một khung cửa hình bán nguyệt, thì trông thấy một lão bà gầy cao, đang đưa chân bước thẳng về ông ta.

Thì ra lão bà ấy là vợ của Lữ Đằng Không, Tây Môn Nhất Nương. Bà ta có khuôn mặt dài như mặt ngựa, đôi mày xếch cao và rậm đen, nhìn qua thực là đáng sợ. Dù là người xa lạ, nhưng chỉ cần nhìn đến sắc mặt của bà ta cũng đoán được bà ta là người có tính tình nóng nảy và hung tợn.

Lữ Đằng Không vừa trông thấy Tây Môn Nhất Nương bèn lên tiếng nói:

- Phu nhân, tôi đang định tìm phu nhân đây, còn Lân nhi đâu rồi? Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn bốn món bảo vật để trong mâm mà Lữ Đằng Không còn cầm trên tay, thì không khỏi thầm kinh hãi.

Tây Môn Nhất Nương là một người xuất thân từ một gia đình hào phú ở vùng Vân Nam. Trước kia, tổ tiên bà ta là người giữ nhiệm vụ Chưởng khố cho quốc vương nước Đại Lý.

Về sau, nước Đại Lý bị diệt vong và quốc khố của nước này cũng bị mất cả đi, nhưng chẳng ai được biết là đã mất bằng cách nào. Song, trong thực tế chính là vị tổ tiên ấy của Tây Môn Nhất Nương đã chiếm đoạt làm của riêng. Như vậy thử hỏi một người mà tài sản gồm thu cả quốc khố của một quốc vương, thì sự giàu có đến mực nào? Chính vì thế nên Tây Môn Nhất Nương là người rất kiêu kỳ, bình thường đối với những món châu báu mà Lữ Đằng Không mua về để chơi, bà ta thật sự chẳng hề xem vào mắt. Thế nhưng giờ đây vừa nhìn qua bốn món bảo vật ấy, bà ta không khỏi giật bắn người, buột miệng hỏi rằng:

- Này ông, bốn món bảo vật ấy ông tìm từ đâu về thế? Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình cũng tỏ ra tán thưởng bốn món bảo vật đựng trong mâm, nên đoán biết đấy là những vật quý báu vào bậc nhất trên đời này, trong lòng lại càng thêm đắc ý. Do đó, lão ta bèn tươi cười kể lại việc Tề Phúc đã tìm đến, nhờ ông ta áp tải chiếc hộp gấm. Sau cùng, ông ta lại nói tiếp rằng:

- Từ đây đi đến Tô Châu phủ chẳng qua bảy tám ngày đường. Hơn nữa, người nhận món hàng áp tải này lại chính là Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, vậy theo tôi thì chắc chắn dọc đường chẳng có chuyện đáng ngại xảy ra đâu! Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương lộ vẻ đăm chiêu, cau mày một lúc thật lâu rồi nói:

- Theo ý tôi, việc này chẳng phải dễ dàng như ông nghĩ đâu! Nếu việc này dễ dàng, gã họ Tề ấy tại sao lại bằng lòng trả thù lao như vậy? Do đó, tôi chỉ e là vì bốn món bảo vật này, mà ông sẽ mang biết bao nhiêu tai họa vào thân đấy thôi! Lữ Đằng Không cất tiếng cười ha hả nói:

- Phu nhân nói thế thì không khỏi quá dè dặt! Nếu chẳng phải người ta chỉ định tôi phải đích thân áp tải món hàng này mới chịu trả cho một số thù lao trọng hậu, thì tôi chỉ cần cho cắm một lá cờ của Thiên Hổ Tiêu Cục trước đầu xe, là có thể sai thủ hạ mang đi khắp trong thiên hạ mà chẳng hề xảy ra chuyện gì! Tây Môn Nhất Nương thò một cánh tay ra, nói:

- Ông hãy cho tôi xem qua chiếc hộp ấy! Lữ Đằng Không trao chiếc hộp đến tận tay Tây Môn Nhất Nương, và khi bà ta cầm lên thì cảm thấy không nặng nề chi cho lắm. Bà ta quan sát kỹ khắp bốn bên chiếc hộp, thấy nó không có điều chi khác lạ, duy có điều là trên nắp chiếc hộp được dùng giấy phong kín lại mà thôi. Trên tấm giấy phong kín chiếc hộp, ngoại trừ có đề ngày tháng ra, còn thì chẳng thấy chữ chi khác hơn nữa.

Tây Môn Nhất Nương trở chiếc hộp qua lại xem kỹ một lúc, và dù với kinh nghiệm và sự lịch duyệt của bà ta trong võ lâm, bà ta vẫn không thể nào tìm hiểu được đấy là một chiếc hộp đựng thứ gì? Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không vừa nói chuyện, vừa đưa chân bước thẳng vào nội đường, và chẳng mấy chốc là họ đã tiến tới một gian hoa sảnh nhỏ.

Tây Môn Nhất Nương bèn để yên chiếc hộp gấm xuống bàn, rồi nghiêm nghị nói:

- Này ông, theo tôi thì đây có lẽ chính là một âm mưu to lớn, vậy chi bằng chúng ta nên mở chiếc hộp này ra xem qua, thử coi bên trong đựng thứ chi cho biết? Lữ Đằng Không lộ sắc sửng sốt đáp:

- Phu nhân, nếu làm thế e có điều bất tiện chăng? Tây Môn Nhất Nương hứ một tiếng, nói:

- Trong đời này đâu có ai lại mang hàng đến gởi, mà không cho tiêu cục xem bên trong đựng thứ chi bao giờ? Lữ Đằng Không nói:

- Tuy đứng về lý mà nói, đây quả là một việc trái với thông lệ của tiêu cục. Nhưng theo ý tôi thì rất có thể bên trong chiếc hộp này đựng một quyển võ lâm bí kíp, hoặc một thứ linh dược tiên thảo chi đó, không tiện để người ngoài biết được, vì sợ một cuộc tranh chấp đổ máu, nên vị chủ nhân mới giữ bí mật như thế mà thôi! Tây Môn Nhất Nương trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Lời nói của ông cũng có lý, nhưng nếu ông muốn giữ chữ tín, không bằng lòng mở chiếc hộp này ra xem, thì trong chuyến đi Tô Châu phủ, có thể cho tôi cùng đi không? Lữ Đằng Không hết sức vui mừng nói:

- Nếu có phu nhân cùng đi, thì tôi dám quả quyết là chuyến áp tải này chẳng hề xảy ra điều chi đáng tiếc! Ông ta dừng lại trong giây lát, rồi nói tiếp rằng:

- Nếu cả hai chúng ta cùng đi thì bỏ Lân nhi ở nhà một mình, chẳng ra thiếu người chăm sóc hay sao? Tây Môn Nhất Nương bèn nói:

- Tại sao chúng ta không đem nó cùng đi? Với tuổi của nó cũng phải tập lần việc dấn bước giang hồ là được rồi! Lữ Đằng Không nói:

- Lời của phu nhân nói phải lắm! Nói đến đây, ông ta bèn quay người ra phía cửa, to tiếng nói:

- Lân nhi! Lân nhi! Tiếng gọi vừa dứt thì đã nghe tiếng chân người từ đàng xa bước đến. Chẳng mấy chốc sau, đã thấy một cậu bé độ mười hai, mười ba tuổi mặt mày sáng láng tiến tới trước khung cửa, rồi đứng yên lại, nói:

- Ba, má gọi con có chuyện chi thế? Cậu bé ấy chính là Lữ Lân, con trai của vợ chồng Lữ Đằng Không. Tuy Lữ Đằng Không là người rất tham lam tiền bạc, nhưng đối với đứa con trai duy nhất của mình, thì còn tỏ ra yêu quý hơn cả tính mạng của mình nữa. Do đó, lão ta vội vàng đứng lên, kéo Lữ Lân vào lòng nói:

- Lân nhi, vào ngày mai này cha và má sẽ đi đến Tô Châu phủ một chuyến, và có ý định mang con cùng đi, vậy con có bằng lòng không? Lữ Lân nghe thế, bèn vỗ tay vui vẻ nói:

- Hay lắm! Con rất thích đi đây đi đó để chơi cho biết! Tây Môn Nhất Nương cười nói:

- Lân nhi, bộ con tưởng ra đi chỉ là để vui chơi không thôi sao? Không biết trong chuyến đi này chúng ta lại gặp phải những kẻ đối địch rất nguy hiểm đó! Đôi mắt đen láy của Lữ Lân xoay qua một lượt nói:

- Con đâu lại sợ chứ? Nếu gặp phải kẻ địch thì đánh nhau.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe con trai đáp thế, bất giác phá lên cười to. Vì hai vợ chồng Lữ Đằng Không lúc nào cũng mong muốn Lữ Lân sẽ trở nên một con người đầy đủ nghị lực và lòng can đảm. Do đó, họ nhìn qua thái độ của đứa con trai, cả hai đều lấy làm vui thích.

Đột nhiên, từ phía ngoài trước cửa hiệu bất thần có tiếng người la ó inh ỏi vọng đến, lại nghe văng vẳng có kẻ nói to rằng:

- Tìm Tổng tiêu đầu ra đây mau!

- Hãy lo cứu nguy cho nạn nhân trước đã!

- Ngươi có mắt hay không? Thương thế của ông ta còn mong cứu sống được hay sao? Chỉ trong chốc lát sau, trong khắp tiêu cục tiếng người ồn ào huyên náo, và những tiếng ồn ấy dường như đang tiến dần về phía gian hoa sảnh nhỏ của vợ chồng Lữ Đằng Không.

Bởi thế, Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, chẳng biết chuyện chi đã xảy ra. Lão ta chống một bàn tay lên mặt bàn, rồi đứng phắt dậy. Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương cũng ít nhiều biến đổi. Bà ta nắm chặt lấy tay của Lữ Lân, không để cậu bé bước ra ngoài.

Chẳng mấy chốc sau, ở phía ngoài cửa đã có người kêu to rằng:

- Có Tổng tiêu đầu trong ấy không? Lữ Đằng Không bèn lên tiếng hỏi:

- Có chuyện chi thế? Tức thì, sau một tiếng ầm, cánh cửa phòng đã bị xô hất tung ra, rồi lại thấy có độ mười bảy, mười tám người từ bên ngoài tràn vào. Số người ấy đều là những người giúp việc cho tiêu cục cả.

Trong đám đông ấy, có hai vị tiêu sư lớn tuổi. Trên khắp thân người của hai lão ta đã dính be bét máu tươi, vì hai lão ta đang đỡ một người thứ ba, toàn thân nhuộm máu đỏ, hối hả bước đến trước mặt Lữ Đằng Không.

Còn người đang được hai vị tiêu sư lớn tuổi ấy đỡ vào, quả đúng là một con người máu, vì khắp từ mớ tóc trên đầu đến đôi giày dưới chân của y đều đang ướt đẫm máu tươi.

Lữ Đằng Không nhìn qua tình trạng ấy, không khỏi thầm kinh hãi, quát rằng:

- Mọi người chớ nên ồn ào quá! Liền đó, tiếng hò reo liền im hẳn. Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn thẳng vào con người máu ấy, thì lại càng kinh hoàng hơn, buột miệng hỏi:

- Ủa! Đây chẳng phải là Tần tiêu đầu hay sao? Không sai tí nào cả, con người máu ấy chính là Tần tiêu đầu, một người vừa được Lữ Đằng Không phái đi để tìm hiểu lai lịch của Tề Phúc và bốn tên gia đinh đáng nghi ngờ kia.

Câu hỏi của Lữ Đằng Không vừa dứt, trong đám đông đã có người lên tiếng đáp rằng:

- Đúng thế! Chính là Tần tiêu đầu! Lữ Đằng Không vội vàng đưa chân bước tới trước, thò tay đỡ lấy Tần tiêu đầu. Lão ta đưa mắt nhìn kỹ thì thấy trong khắp châu thân của nạn nhân có mười mấy vết thương to, máu tươi chảy ra đầm đìa, tính mạng mỏng manh như chỉ mành treo chuông. Chỉ cần nhìn qua thương thế của Tần tiêu đầu thì Lữ Đằng Không đã đoán biết nạn nhân không còn làm thế nào đi đứng được nữa! Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương đã nhận xét được điểm đó, nên gằn giọng hỏi:

- Ai đã đưa ông ấy trở về đây? Một tên phu xe liền lên tiếng đáp:

- Vừa rồi, có một cỗ xe ngựa trang hoàng hết sức sang trọng, chạy đến trước cửa tiêu cục thì ném thẳng Tần tiêu đầu vào cửa hiệu chúng tôi, khiến ông ấy bắt từ trên cao rơi phịch xuống thềm nhà. Lúc đó, chúng tôi quá cuống quýt, nên cỗ xe ngựa đã chạy đi đâu mất biệt.

Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn về phía Lữ Đằng Không một lượt, rồi bước thẳng tới trước nhanh nhẹn vung thẳng ngón tay trỏ ra, búng nhẹ vào Bách Hội huyệt của Tần tiêu đầu. Bách Hội huyệt chính là nơi tập trung tất cả kỳ kinh bát mạch trong châu thân con người. Nên dù lúc ấy Tần tiêu đầu đang bị hôn mê, nhưng sau khi Bách Hội huyệt được Tây Môn Nhất Nương búng nhẹ thì đã bừng tỉnh trở lại.

Tây Môn Nhất Nương quát rằng:

- Tần tiêu đầu, ai đã hại ông thế? Hãy mau nói rõ để chúng tôi trả thù cho ông! Tần tiêu đầu cố gắng ngước mặt nhìn lên, rồi cất giọng yếu đuối nói:

- Lữ... Tổng tiêu đầu! Tôi may mắn đã làm tròn nhiệm vụ! Tổng tiêu đầu... tuyệt đối không thể... không thể...! Tần tiêu đầu chỉ nói đến đây, bỗng nhiên im hẳn và gục đầu trở xuống, không còn cử động nữa! Lữ Đằng Không vội vàng hỏi to rằng:

- Không thể cái chi? Nhưng lúc ấy Tần tiêu đầu đã hoàn toàn im lặng, không còn nói thêm chi được nữa! Số người hiện diện chung quanh không ai bảo ai, đồng thanh cất tiếng than dài. Vì từ trước đến nay tại Thiên Hổ Tiêu Cục quả chẳng hề có xảy ra một chuyện rùng rợn và hy hữu như thế này bao giờ cả.

Lữ Đằng Không trấn tĩnh lại tinh thần, lên tiếng nói:

- Bọn các ngươi hãy lui ra ngoài mau! Số người hiện diện nghe thế nhanh nhẹn tuân mệnh bước đi tức khắc. Bọn họ trở ra nhà trước, túm năm dụm ba để thì thầm bàn tán với nhau. Kẻ đoán thế này, người đoán thế khác và không ai có thể đi đến kết luận ra sao cả.

Lữ Đằng Không chờ cho số thủ hạ đã lui ra ngoài, thì mới để yên xác chết của Tần tiêu đầu ngay ngắn trên đất. Đồng thời, lão ta nhanh nhẹn xé một vạt áo dài, chùi sạch vết máu trên mặt của nạn nhân để xem qua. Lão ta lại không khỏi kinh hoàng thất sắc.

Thì ra sắc mặt của Tần tiêu đầu lộ vẻ kinh khiếp chưa từng thấy, do đó trông thật vô cùng rùng rợn! Chỉ cần nhìn qua sắc kinh hoàng ấy của nạn nhân, đã có thể đoán biết là trước khi chết, hoặc trước khi hôn mê vì trọng thương, nạn nhân đã mục kích chuyện chi vô cùng đáng sợ.

Đồng thời, cũng rất có thể vì mục kích chuyện ấy nên nạn nhân phải ngất lịm đi. Do đó, đối phương mới mặc tình gây thương tích cho nạn nhân như thế! Đến bây giờ Lữ Đằng Không mới tự biết là chuyện rắc rối dính líu đến mình chẳng những hết sức trầm trọng, mà còn ly kỳ khó hiểu, chưa từng thấy trong võ lâm nữa! Ông ta đưa mắt chăm chú nhìn kỹ sắc mặt của Tần tiêu đầu một lúc lâu, mới đứng thẳng người lên nói:

- Phu nhân, chẳng hiểu đây là một chuyện gì? Chẳng hay phu nhân có sự xét đoán như thế nào không? Lúc ấy sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương cũng đang đăm chiêu, trông vô cùng xấu xí.

Nhưng sắc mặt của bà ta không phải đang sợ hãi, mà chính là đang tức giận. Do đó, khi nghe qua câu hỏi của Lữ Đằng Không, bà ta bèn lên tiếng đáp rằng:

- Trước khi lâm chung, chẳng rõ tại sao Tần tiêu đầu lại bảo mình may mắn hoàn thành nhiệm vụ? Không hiểu vừa rồi ông có sai y đi làm chuyện chi chăng? Lữ Đằng Không gật đầu nói:

- Vừa rồi, sau khi Tề Phúc và bốn tên gia đinh đã bước ra khỏi cửa, tôi có sai bám sát theo bọn họ để tìm hiểu xem họ là ai.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu thế thì có thể ông ta đã tìm hiểu được lai lịch của đối phương rồi. Nhưng chỉ đáng tiếc là ông ta chưa nói kịp rõ ra, thì đã bị tắt hơi chết đi. Do đó, e rằng lai lịch của số người ấy kể từ nay sẽ trở thành một câu đố nan giải, không còn ai tìm hiểu được nữa.

Lúc ấy, Lữ Lân vẫn dựa người vào lòng Tây Môn Nhất Nương, im lặng đưa mắt nhìn, không nói tiếng chi cả. Tuy nhiên, trên sắc mặt của cậu ta không lộ vẻ chi sợ hãi. Sau khi nghe mẹ nói dứt lời, cậu ta bất thần lên tiếng hỏi:

- Thưa má, những người má vừa nói là ai thế? Chẳng hay tại sao Tần tiêu đầu bị sát hại mà chúng ta không lo trả thù cho ông ấy? Tây Môn Nhất Nương gượng cười, rồi đưa tay vỗ đầu Lữ Lân nói:

- Tuổi con hãy còn nhỏ, vậy chớ nên tìm hiểu những chuyện không đâu làm gì! Đôi tròng mắt của Lữ Lân xoay qua một lượt, tựa hồ cậu ta đang muốn nói chi, nhưng cuối cùng lại im lặng không nói gì cả. Trong khi đó, cậu ta bỗng khẽ gật đầu, dường như trong lòng đã có một sự quyết định chi rồi, nên quay về Tây Môn Nhất Nương nói:

- Thưa má, con nhìn thấy xác chết thì sợ lắm, vậy hãy để con bước ra ngoài một chốc.

Tây Môn Nhất Nương nghe thế cũng không nghi ngờ, nên lên tiếng nói:

- Con chớ nên đi bừa bãi đấy nhé! Lữ Lân lên tiếng vâng lời, rồi nhanh nhẹn bước chân ra khỏi gian hoa sảnh.

Vợ chồng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương kể từ ngày hạ sinh được Lữ Lân thì yêu quý cậu ta còn hơn cả châu ngọc. Đại phàm những bậc cha mẹ, vì quá yêu con thơ, nên vẫn thường xem con mình lúc nào cũng còn nhỏ dại. Lữ Lân tuy mới mười hai tuổi đầu nhưng đã là một cậu bé có rèn luyện qua võ công. Do đó, trình độ võ học cũng đã có căn bản. Hơn nữa, cậu ta lại là một đứa bé rất can đảm, tuyệt nhiên chẳng phải là một đứa trẻ thơ dại như vợ chồng Lữ Đằng Không lo ngại. Do đó, thật sự thì cậu ta chẳng phải sợ xác chết của Tần tiêu đầu mà bước ra khỏi gian phòng. Trái lại, đấy chỉ là một lý do khôn khéo để cậu ta rời đi mà thôi.

Vừa bước ra khỏi gian hoa sảnh, cậu ta bèn nhanh nhẹn chạy trở về gian phòng riêng của mình, nhún mạnh đôi chân nhảy cao lên bức tường, gỡ lấy thanh đao bằng thép Miến Điện do Lữ Đằng Không đã rèn cho cậu ta dùng. Thanh đao ấy có hình dáng giống hệt thanh Tử Kim Đao của Lữ Đằng Không đang dùng, duy có điều khác là nó ngắn hơn thanh đao của Lữ Đằng Không độ một thước mộc mà thôi! Lữ Lân siết lấy thanh đao vào lòng bàn tay, rồi hối hả bước nhanh ra phía trước. Cậu ta trông thấy số người làm công trong tiêu cục đang túm năm chụm ba, kẻ nói vầy người nói khác, cùng bàn bạc chuyện vừa xảy ra. Do đó, Lữ Lân liền men đến gần để lắng tai nghe.

Đám người chung quanh vì đang tập trung vào câu chuyện, nên chẳng ai phát giác sự có mặt của cậu ta cả.

Lữ Lân đứng yên nghe một lúc thì đã biết phần lớn nguyên nhân của sự việc vừa xảy ra Chương nãy. Hơn nữa, từ sự đối thoại của mọi người chung quanh, cậu ta cũng biết được cỗ xe ngựa trang hoàng sang trọng vừa rồi, sau khi đã ném Tần tiêu đầu vào hiệu liền nhắm ngay hướng tây chạy bay đi. Lữ Lân im lặng không nói chi cả, đeo gọn thanh đao thép vào sườn, quay lưng bước thẳng ra khỏi tiêu cục, nhắm hướng tây dõng dạc bước tới, chẳng hề do dự chi cả! Trong lòng cậu ta đã có một quyết định là phải tìm hiểu cho kỳ được lai lịch của đám người ấy, đồng thời phải truy đuổi theo cỗ xe ngựa bí mật kia.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương tuyệt đối không làm sao biết được là Lữ Lân chỉ mới chừng tuổi ấy đầu, mà lại to gan dám làm một chuyện như thế. Và hai vợ chồng lão vẫn đinh ninh Lữ Lân thật sự sợ xác chết nên bước ra khỏi phòng để chơi đùa mà thôi.

Do đó, sau khi Lữ Lân bước ra khỏi phòng thì Lữ Đằng Không liền vung chưởng quét ra, gây thành một luồng chưởng lực đóng kín cửa phòng lại, quay người về phía Tây Môn Nhất Nương nói:

- Phu nhân, nếu bảo là Tần tiêu đầu đã tìm ra chân tướng của số người bí mật kia thì thật là hữu lý. Nhưng tại sao trước khi ông ta tắt thở, lại nói liên tiếp mấy tiếng "không thể...

không thể" như thế là nghĩa lý gì? Tây Môn Nhất Nương cất tiếng khẽ than dài nói:

- Đấy quả là một chuyện khó hiểu. Nhưng theo sự nhận xét của tôi, có lẽ ông ấy bảo chúng mình không nên nhận lời áp tải món hàng ấy, và cũng chớ nên đi đến Tô Châu phủ? Lữ Đằng Không sửng sờ trong giây lát nói:

- Tại sao thế? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu hỏi tại sao thì thật ra chỉ có một mình Tần tiêu đầu có thể trả lời mà thôi. Nhưng đáng tiếc là ông ấy đã chết rồi. Này ông, việc này đã thế, tôi nhất định phải mở chiếc hộp gấm ấy ra xem mới được.

Lữ Đằng Không tỏ ra đắn đo trong giây lát, nói:

- Tần tiêu đầu vì theo dõi hành tung của Tề Phúc mà chết thảm, vậy chẳng cần ai nói, ta cũng có thể đoán biết được gã Tề Phúc ấy chẳng phải là một con người tốt...

Lữ Đằng Không vừa mới nói đến đây, thì Tây Môn Nhất Nương ngắt lời hỏi:

- Vừa rồi ông bảo rằng gã Tề Phúc biết sử dụng Súc Cốt Pháp của phái Hoa Sơn, hắn ta là một con người có hình dáng ra sao? Lữ Đằng Không nói:

- Biết hình dáng của hắn ta, thì hỏi có ích lợi gì? Phái Hoa Sơn môn hạ đông đảo, vậy chúng ta biết hắn đâu mà tìm? Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:

- Ông đã thế nào rồi? Trong phái Hoa Sơn, ngoại trừ Liệt Hỏa Tổ Sư và mười hai vị Đường chủ dưới tay ông ấy, thử hỏi còn còn có người thứ mười bốn biết Súc Cốt Pháp nữa hay sao? Trước đây, tôi đã từng theo vị sư tôn của phái Điểm Thương đến bái kiến Liệt Hỏa Tổ Sư tại Hoa Sơn. Trong dịp đó, mười hai vị Đường chủ đều hiện diện, vậy nếu tả đúng hình dạng của đối phương ra, có thể tôi còn nhớ được.

Lữ Đằng Không hỏi:

- Việc ấy cách đây bao lâu rồi? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Cách đây độ ba mươi năm rồi! Lữ Đằng Không nói:

- Nếu thế thì không xong, vì gã Tề Phúc ấy năm nay chỉ độ ba bốn mươi tuổi mà thôi! Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương tràn đầy vẻ ngờ vực. Qua một lúc thật lâu, bà vẫn im lặng không nói chi cả. Đột nhiên, bà ta thò tay ra lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm đang để cạnh đấy lên...

Nhưng Lữ Đằng Không đã cất tiếng nói:

- Phu nhân, theo ý tôi thì chúng ta không nên động đến chiếc hộp ấy là hơn. Vì vừa rồi tôi đã hứa với Tề Phúc là để y nguyên sự niêm phong của chủ nhân, đưa đến tận Tô Châu phủ kia! Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng lạnh lùng nói:

- Này ông, người ta bày sẵn cạm bẫy, thế mà ông vẫn ngoan ngoãn đi vào cạm bẫy đó hay sao? Vừa nói Tây Môn Nhất Nương vừa thò tay lấy một chung trà, rồi tưới ướt cả nắp chiếc hộp gỗ. Do đó, chẳng mấy chốc sau thì mảnh giấy niêm phong đã bị ướt đẫm.

Chờ đợi cho nước ngấm đều, Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay gỡ miếng giấy niêm phong một cách thận trọng. Bà ta tuy là người tính tình nóng nảy hung tợn, nhưng trong việc làm này vẫn tỏ ra vô cùng tế nhị. Nhờ thế, chẳng mấy chốc sau, tấm giấy niêm phong đã được bà ta gỡ ra nguyên lành, chẳng hề rách đi một tí nào cả. Sau đó lại đưa tay gỡ chiếc móc hộp, rồi lại giở tung nắp hộp ra...

Hai vợ chồng Lữ Đằng Không thò đầu nhìn vào bên trong chiếc hộp. Cả hai tràn đầy sắc kinh ngạc. Thì ra, bên trong chiếc hộp bọc gấm ấy hoàn toàn trống trơn, chẳng hề có đựng thứ gì cả! Vị chủ nhân của chiếc hộp này bằng lòng bỏ ra một món thù lao kếch sù, đồng thời chỉ định cho Phi Hổ Lữ Đằng Không phải đích thân áp tải một chiếc hộp trống không, thì thực là một chuyện vô cùng quái dị! Chuyện này nếu bảo là một trò đùa thì quả đúng chẳng sai. Nhưng cũng chính vì việc này mà Tần tiêu đầu chết một cách thảm thiết, vậy làm thế nào để bảo đây là một trò đùa được? Tây Môn Nhất Nương vội vàng đậy kín nắp hộp lại, rồi mới dán kỹ tấm giấy niêm phong vào y nguyên như cũ, để yên chiếc hộp bọc gấm ấy trở lại trên bàn.

Cả hai vợ chồng Lữ Đằng Không sửng sờ một lúc thật lâu, chẳng ai lên tiếng nói chi cả.

Tâm trạng của Lữ Đằng Không đang rối như tơ vò, lên tiếng hỏi:

- Phu nhân, nếu thế thì chúng ta có nên đi đến Tô Châu phủ hay không? Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:

- Lẽ tất nhiên phải đi, vì nếu chúng ta không đi thì lại bị người ta xem thường! Lữ Đằng Không gượng cười nói:

- Nếu vượt qua một đoạn đường xa xôi ngàn dặm để mang đến một chiếc hộp không cho Kim Tiên Chấn Càn Khôn như vậy, và khi mọi việc được đồn đãi ra ngoài, e rằng sẽ trở thành một câu chuyện đại khôi hài chưa từng có trong võ lâm mất! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Tuy chiếc hộp ấy trống không, nhưng biết đâu chừng bên trong lại có điều bí mật chi? Đồng thời, cũng không biết chừng Kim Tiên Chấn Càn Khôn nhìn qua là có thể biết được rõ mọi việc. Vậy, chúng ta chỉ cần thận trọng trên đường đi là được rồi! Lữ Đằng Không suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Lời nói của phu nhân phải lắm, song trong chuyến đi này, chẳng những đường xá xa xôi, mà lại còn có thể gặp kẻ đại địch, mọi việc diễn biến không sao lường trước được. Do đó, lẽ tất nhiên chúng ta phải đối phó với kẻ thù, trong khi đó Lân nhi lại tuổi nhỏ, vậy chi bằng không nên mang nó theo là hay hơn.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu chẳng mang nó cùng đi, mà gặp trường hợp chúng ta bị kẻ địch sát hại, hóa ra không làm sao trối trăn lại được một lời nào với nó hay sao?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 02
Chân Giả Thực Quả Khó Lường
Hầm Sâu Xác Trẻ Chưa Tường Ác Nhân


Lữ Đằng Không nghe qua lời nói của Tây Môn Nhất Nương thì không khỏi sửng sốt, vì từ trước tới nay ông ta biết tính của vợ mình rất là tự phụ.

Đồng thời giữa hai vợ chồng cũng đã từng liên kết đối phó với vô số kẻ địch hung tợn gian ác, nhưng chưa từng nghe Tây Môn Nhất Nương trước khi giao tranh với kẻ thù, lại nói lên những lời nói đầy vẻ chán ngán, ngã lòng như thế bao giờ. Bởi thế, ông ta không khỏi sửng sờ một lúc lâu, mới lên tiếng nói:

- Phu nhân, theo sự tiên đoán của phu nhân, thì trong chuyến đi này chúng ta sẽ gặp những kẻ thù như thế nào? Tây Môn Nhất Nương nghĩ ngợi trong giây lát, đáp:

- Việc này thật rất khó nói, vì trải qua nhiều năm trong võ lâm lúc nào cũng yên tĩnh, nên hầu hết các đại gian đại ác đều tìm nơi quy ẩn, chẳng hề xuất đầu lộ diện nữa. Nếu chiếc hộp này có tương quan đến một việc trọng đại sắp xảy ra, thì chắc chắn sẽ có rất nhiều tên ma đầu ẩn tích lại xuất hiện trong giới giang hồ, không làm sao phán đoán trước được. Do đó, tốt nhất chúng ta nên nhận xét để tìm hiểu vị chủ nhân của gã Tề Phúc ấy là ai, có lẽ sẽ hữu ích hơn.

Lữ Đằng Không chắp hai tay ra sau lưng, đưa chân đi tới đi lui trong phòng, rồi lại cúi mắt nhìn vào xác chết của Tần tiêu đầu. Lão ta trông thấy sắc diện khủng khiếp vẫn còn in rõ trên mặt nạn nhân, trong lòng hết sức lấy làm lạ, không hiểu trước khi chết, Tần tiêu đầu gặp phải một chuyện rùng rợn chi? Nhưng cùng lúc ấy, ông ta bỗng trông thấy hai bàn tay của Tần tiêu đầu đang nắm cứng ngắt, và có một vật gì lạ chi đó ló ra ngoài kẻ tay. Bởi thế ông ta liền vội vàng lên tiếng nói:

- Phu nhân, hãy bước đến xem trong kẽ tay của Tần tiêu đầu đang nắm cứng vật chi kia? Tây Môn Nhất Nương cũng lấy làm lạ nói:

- Tần tiêu đầu là người rất lanh lợi, vậy có thể trước khi bị trọng thương, ông ấy đã giật được một vật chi đó vào tay rồi đấy! Tức thì hai người cúi xuống, dùng sức mạnh gỡ bàn tay của Tần tiêu đầu ra, và trông thấy nạn nhân đang nắm cứng một mảnh lụa màu đỏ giữa lòng bàn tay.

Vợ chồng của Lữ Đằng Không vội vàng mở miếng lụa đỏ ấy ra xem, thì trông thấy rõ ràng đây là một vạt áo. Do đó, Lữ Đằng Không cất giọng ngạc nhiên nói:

- Ủa! Gã Tề Phúc và bốn tên gia đinh vừa rồi chẳng có ai mặc đồ màu đỏ kia mà! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu thế thì việc này lại càng thêm phức tạp hơn, chúng ta tuy đang ở tại thành Nam Xương, thế nhưng hoàn toàn không biết được là hiện nay đã có kỳ nhân xuất hiện trong thành. Mọi việc hiện đang diễn biến ngày càng thêm ly kỳ khó hiểu. Nhưng chúng ta cũng không nên bận tâm làm gì. Trong đêm nay, chúng ta nên thu xếp mọi việc, rồi sáng sớm ngày mai sẽ lên đường thôi! Sau đó, Lữ Đằng Không cẩn thận bưng mâm bảo vật và chiếc hộp gấm, cùng Tây Môn Nhất Nương bước ra khỏi gian hoa sảnh nhỏ. Cả hai cùng đi thẳng đến trước một hòn non bộ, giữa một vườn hoa ở phía sau.

Hòn non bộ ấy được đặt tại một góc vườn hoa, sát cạnh bên vòng tường rào, nên ít ai để ý đến. Trên những tảng đá xây thành hòn non bộ ấy, đều phủ rêu xanh, nên ai nhìn qua cũng cho đấy là một hòn non bộ, nhằm tô điểm cho đẹp khu vườn, cũng như trăm ngàn hòn non bộ khác, chứ chẳng có điều chi kỳ lạ.

Song, chỉ riêng có Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương là được biết hòn non bộ ấy là nơi quan trọng vô cùng đối với tiêu cục của họ.

Khi hai người bước đến sát bên cạnh hòn non bộ, thì liền rảo mắt nhìn khắp mọi nơi một lượt. Họ trông thấy cả khu vườn hoa rộng rãi không hề có một bóng người, nên yên lòng cúi khom thân mình, chui thẳng vào một cái sơn động tại hòn non bộ ấy.

Họ khom người đi tới độ hai trượng, sau khi đã đi qua ba khúc quanh, thì đã có thể đứng thẳng người lên được.

Bên trong sơn động của hòn non bộ ấy hết sức âm u đen tối, dù cho bóng mặt trời có thể xuyên qua vài kẽ đá trên nóc soi thẳng vào trong, nhưng đâu đâu cũng âm u lờ mờ, chẳng thấy rõ được mọi vật chung quanh. Hơn nữa, bên trong sơn động đó lại hết sức ẩm thấp, nên đâu đâu cũng có mùi meo móc, ngửi vào rất khó chịu.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khi vừa mới đứng thẳng người lên, Tây Môn Nhất Nương bỗng buột miệng úy một tiếng nói:

- Này ông, mấy hôm gần đây, ông có đến nơi này lần nào không? Lữ Đằng Không đáp:

- Không có! Kể từ khi chúng mình vào cách trước đây bốn hôm cho đến nay, tôi chẳng hề vào đây lần nào nữa.

Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:

- Quả chuyện lạ lùng cứ nối tiếp nhau xảy đến, mà chúng ta chẳng hề hay biết chi cả.

Tại đây rõ ràng đã bị kẻ lạ phát giác được và chắc chắn kẻ ấy có đặt chân đến nơi này rồi! Lữ Đằng Không nghe thế, không khỏi giật bắn người, vội vàng lên tiếng hỏi:

- Căn cứ vào đâu mà phu nhân nói thế? Tây Môn Nhất Nương đưa tay lên, chỉ thẳng vào bức vách đá trong sơn động, nói:

- Ông xem kia, ở đấy rõ ràng có một dấu bàn tay. Chúng ta cùng đến hôm trước, và hoàn toàn chẳng hề trông thấy dấu bàn tay ấy.

Lữ Đằng Không nhanh nhẹn ngước mặt nhìn lên, thì quả nhiên trông thấy trên vách đá phủ đầy rêu xanh, hiện rõ ràng một dấu bàn tay, và nơi đó lớp rong xanh đều bị rơi sạch, chứng tỏ kẻ nào đó khi ấn bàn tay vào vách đá đã dùng một sức mạnh phi thường.

Lữ Đằng Không cất giọng kinh hoàng nói:

- Quả đã có người vào đây, vậy chúng ta nên vào trong xem qua, coi có mất mát vật chi hay không? Thì ra, bên trong hòn non bộ này, Lữ Đằng Không đã mướn thợ xây cất một gian phòng bí mật bằng đá. Trong gian phòng đá ấy, lão ta đã cất giấu tất cả những báu vật mà lão sưu tầm được trong mấy năm gần đây. Hôm nay, sở dĩ hai vợ chồng của Lữ Đằng Không cùng đi vào nơi này chính là để cất bốn món báu vật mà ông ta vừa nhận được.

Riêng gian phòng bí mật này, ngoài hai vợ chồng Lữ Đằng Không, còn thì chỉ có hai người thợ xây cất trước đây ở vùng Tây Vực là được biết mà thôi. Tuyệt nhiên, chẳng còn có một kẻ thứ tư nào biết cả. Vì tuy Lữ Lân là con trai của vợ chồng Lữ Đằng Không, nhưng vì tuổi của cậu ta hãy còn bé, nên chưa được cha mẹ cho biết điều bí mật ấy.

Giờ đây, tại cửa gian phòng đá cất giấu bảo vật của ông ta lại xuất hiện một dấu bàn tay lạ, thì thử hỏi ông chẳng kinh hoàng thất sắc sao được? Tây Môn Nhất Nương lại cất tiếng hừ một lượt nói:

- Ông lúc nào cũng lo lắng đến ba cái đồ bỏ ấy. Ông có xem kỹ dấu bàn tay kia rồi chưa? Tây Môn Nhất Nương là người xuất thân từ gia đình giàu có, nên ngay lúc còn bé thơ, bà ta đã lấy ngọc ngà châu báu đi làm đồ chơi rồi. Do đó, bình thường bà ta tỏ ra rất chướng mắt trước thái độ tỏ ra quá say mê những báu vật mới sưu tập được của Lữ Đằng Không.

Tuy nhiên, lúc bình thường vì tình nghĩa vợ chồng quá khắng khít, nên bà ta không khi nào trách móc vì thái độ ấy của Lữ Đằng Không cả. Nhưng giờ đây mọi việc rắc rối đang xảy đến khiến bà ta không khỏi có điều bực mình nên đã bộc lộ thái độ bất mãn với cử chỉ ấy của chồng.

Lữ Đằng Không nghe câu hỏi ấy của Tây Môn Nhất Nương thì vội vàng ngửa mặt nhìn thẳng vào cái dấu tay in rõ trên vách đá, và lão ta đã nhận ra một điểm quái dị nữa.

Thì ra cái dấu tay in trên vách đá kia, ngoài năm ngón to, lại còn có một ngón thứ sáu bé nhỏ, mọc từ cạnh ngón tay cái ra.

Lữ Đằng Không là một con người suốt đời lặn lội trong võ lâm, kiến thức và kinh nghiệm rất dồi dào. Do đó, khi ông ta đã thấy rõ điều quái dị ấy trên dấu bàn tay nọ, liền kêu thất thanh lên rằng:

- Chả lẽ lại chính là Lục Chỉ Tiên Sinh hay sao? Tây Môn Nhất Nương nói:

- E rằng là ông ấy thôi! Lữ Đằng Không cảm thấy hết sức lạ lùng nói:

- Lục Chỉ Tiên Sinh tuy là người có tánh không nhất định, nhưng từ trước đến nay lúc nào ông ta cũng ở yên tại Tiên Nhân Phong trong ngọn núi Võ Di, tuyệt đối không khi nào dấn bước giang hồ. Trước đây mấy năm, ông ta có rêu rao là đi tìm để thu dạy một tên đệ tử, nên mới thấy xuất hiện trong võ lâm. Nhưng thời gian đó trước sau chẳng quá một năm, mọi người ai ai cũng nghe đến đại danh của ông ta. Do đó, cả giới giang hồ chẳng ai dám trêu chọc đến ông ta. Tuy nhiên, suốt thời gian ấy, ông ta chẳng hề gây sự với ai bao giờ vì cá tánh của ông ta là người rất đạm bạc, chẳng hề có lòng tham lam. Trong đời ông ta, ngoại trừ thú sưu tập đàn cổ ra thì chẳng còn thú chi khác nữa. Do đó, ông ta đâu lại đến đây để dòm ngó những món bảo vật của mình? Tây Môn Nhất Nương nghe Lữ Đằng Không nói tới nói lui, rồi cuối cùng cũng nhắc đến bảo vật thì không khỏi tức giận, lên tiếng nói:

- Này ông, bộ ông tưởng trong đời này, ai cũng như ông hết sao? Bộ người ta đều xem những món đồ bỏ ấy quan trọng như tính mạng sao? Nếu thật sự Lục Chỉ Tiên Sinh có xâm nhập vào nơi này, chắc chắn ông ta đã mở cửa gian phòng đá ấy rồi, vậy tại sao không mau vào xem qua cho biết? Lữ Đằng Không bị vợ lên tiếng trách móc về chỗ lúc nào mình cũng tỏ ra quý tài sản còn hơn cả mạng sống, thì trong lòng không khỏi thẹn thầm, cười gượng đáp:

- Phu nhân, dù cho Lục Chỉ Tiên Sinh có đến nơi này, thì tôi tin rằng ông ta cũng không cách nào mở được cửa gian phòng đá của mình.

Lời nói ấy của Lữ Đằng Không thật ra chẳng phải là khoác lác. Vì trong khi xây cất gian phòng đá bí mật ấy, Lữ Đằng Không ra lệnh cho hai người thợ ở Tây Vực, cố moi óc nghĩ ngợi để kiến tạo cho ông ta một cánh cửa có nút điều khiển bí mật, mà trên đời này rất có ít người có thể mở ra được. Hai người thợ khéo léo ấy đã thực hiện đúng như ý muốn của ông, xây một cánh cửa hoàn toàn bí mật.

Những nút điều khiển để mở những gian phòng bí mật ấy gồm có đến bảy nút khác nhau. Bảy nút ấy cũng đều làm bằng đá, hiện giờ chúng cũng phủ đầy rêu xanh. Nếu không để ý tìm tòi thì chắc chắn không ai mở ra được. Muốn mở cánh cửa gian phòng đá bí mật ấy của Lữ Đằng Không, cùng lúc phải ấn cả hai nút thứ nhất và thứ bảy xuống, rồi sau đó lại cùng một lúc ấn hai nút thứ hai và thứ sáu, sau đó lại ấn hai nút thứ ba và thứ năm, và cuối cùng là mới ấn đến nút thứ tư. Được vậy thì cánh cửa đá kia mới tự động mở ra.

Trái lại, nếu thứ tự như vừa nói bị sử dụng sai, chẳng những cánh cửa phòng không mở, mà còn có rất nhiều loại ám khí tự động bắn ra.

Tuy nhiên, tất cả những việc đó đều không có chi đáng ngại. Điểm đáng ngại nhất là tất cả những nút điều khiển nói trên đều được đặt dính liền dưới một tảng đá khổng lồ, nặng hàng ngàn cân. Do đó, nếu chỉ lực của một người không thể đè xuống mạnh đến mấy trăm cân, thì những chiếc nút ấy hoàn toàn không nhúc nhích.

Lữ Đằng Không khi nào muốn vào gian phòng đá bí mật để xem những bảo vật quý báu thì phải đi cùng với vợ của mình, mặc dù Tây Môn Nhất Nương chẳng hề thích chi những món bảo vật ấy.

Lữ Đằng Không tuy là người võ học cao cường tuyệt đỉnh, chỉ lực mạnh mẽ phi thường, nhưng vẫn không thể nào cùng một lúc ấn nổi đến hai chiếc nút bí mật kia, khiến cánh cửa gian phòng mở ra được! Một người dù võ công cao cường đến đâu thì chỉ lực vẫn có giới hạn. Do đó, Lữ Đằng Không mặc dù có thể sử dụng chỉ lực mạnh mẽ đến bảy tám trăm cân cũng thấy không đủ sức! Chính vì thế nên Lữ Đằng Không bảo dù Lục Chỉ Tiên Sinh có tìm đến đây thì cũng không thể nào xâm nhập được gian phòng bí mật này. Đó là lời nói rất hữu lý, không phải khoác lác.

Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không bèn cúi mình vận dụng chân lực ra ngón tay trỏ trên bàn tay phải, rồi cùng ấn vào những chiếc nút bí mật đúng theo thứ tự, khiến cánh cửa nặng nề kia chuyển động nghe kèn kẹt. Cả bức vách đá to kia liền di động sang một bên, chừa trống một khung cửa rộng rãi để vào phòng.

Lữ Đằng Không cầm lấy viên minh châu vừa nhận được vào tay, rồi đi thẳng vào trong gian phòng đá ấy. Gian phòng đá vốn tối đen như mực, nhưng nhờ có ánh sáng của viên dạ minh châu nên có thể trông thấy rõ được cảnh vật chung quanh.

Nơi ấy chỉ là một gian phòng được xây toàn bằng đá xanh rắn chắc, mỗi cạnh không hơn một trượng. Ở đây có rất nhiều trường kỷ bằng gỗ tử đàn, chạm trổ tinh vi. Bên trên những chiếc ghế ấy bày vô số những loại châu báu giá đáng ngàn vàng.

Bình nhật, Lữ Đằng Không cứ khi rảnh rang, thì bước vào gian phòng đá ấy thưởng ngoạn những bảo vật của mình và tỏ ra vô cùng thích thú. Mỗi khi đến đây, ông ta lưu luyến mãi trong phòng, có mấy tiếng đồng hồ không chịu rời đi. Tây Môn Nhất Nương thì ở bên ngoài chờ đợi ông ta.

Do đó, lắm lúc Tây Môn Nhất Nương phải lên tiếng hối thúc đến hai ba lần, Lữ Đằng Không mới bước ra.

Chính vì vậy, nên tất cả những bảo vật được cất giữ bên trong gian phòng đá gồm có bao nhiêu, vật nào để ở đâu, Lữ Đằng Không đều thuộc nằm lòng. Khi bước chân vào, ông ta rảo mắt nhìn qua một lượt, thì trong thấy số bảo vật ấy không mất đi một món nào. Do đó, ông ta hết sức vui mừng, quay đầu nhìn ra phía ngoài nói:

- Phu nhân, tôi nói có sai đâu nào! Dù cho Lục Chỉ Tiên Sinh có phát giác được nơi đây, vẫn nhất định không thể nào bước vào được gian phòng đá bí mật này được kia mà! Tây Môn Nhất Nương từ bên ngoài hạ giọng nói:

- Ông mau cất kỹ bốn món bảo vật ấy đi, chớ nên để mất thời giờ nữa! Lữ Đằng Không nhìn qua tất cả bảo vật mà suốt đời ông ta đã sưu tầm được, bỗng cảm thấy cao hứng vô cùng.

Tuy ngày hôm nay đã xảy ra bao chuyện rắc rối, nhưng đối với Lữ Đằng Không, những chuyện ấy không làm cho ông ta sợ hãi. Do đó, lão ta bèn đưa tay vuốt nhẹ hàm râu, sắc mặt tươi như hoa, thò tay dời tất cả những món bảo vật đó, chừa trống hai chiếc trường kỷ, rồi mới lấy bốn món bảo vật vừa nhận được bày lên ngay ngắn.

Khi xong đâu đấy, ông ta lùi ra sau mấy bước, rồi mới đứng yên ngắm nghía, ra chiều đắc ý lắm.

Khi làm xong được một việc chi, thói thường người ta vẫn thích lùi ra xa để thưởng ngoạn công trình của mình. Lữ Đằng Không cũng không thoát ra khỏi thông lệ đó. Ông ta sau khi đã lui mấy bước, bèn đưa mắt nhìn thẳng về phía hai chiếc trường kỷ, có để bốn món bảo vật quý nhất trên đời. Ông ta thấy hạt dạ minh châu đang chiếu sáng ngời, hạt ngọc Thấu Thủy Lục đang lập lòe màu xanh biếc, con sư tử bằng chuỗi đỏ đang chói rực như lửa, thì không khỏi lấy làm khoái trá...

Nhưng cùng lúc đó, ông ta đã thấy một bóng người đang đứng sững ở dưới gầm ghế trường kỷ.

Chiếc ghế mà ông ta dùng để bày bảo vật ở trong gian phòng là thứ trường kỷ thường dùng ở trong phòng khách nơi những nhà phú hộ. Người ta thường dùng nó để bình bông hoặc những đồ trang trí quý giá. Do đó, đấy là những chiếc trường kỷ cao không khỏi ngực.

Giờ đây Lữ Đằng Không lại trông thấy rõ bóng người ấy đang đứng sững dưới gầm trường kỷ.

Ông hết sức kinh hoàng, tròn xoe đôi mắt, đứng trơ người một lúc mới lên tiếng kêu to rằng:

- Phu nhân hãy mau vào xem đây này! Tây Môn Nhất Nương đang đứng bên ngoài gian phòng, đang suy nghĩ những chuyện quái dị xảy ra liên tiếp trong ngày hôm nay. Bà cảm thấy những việc ấy chắc chắn là rủi nhiều may ít, nên trong lòng hết sức boăn khoăn lo lắng. Bất thần bà ta nghe giọng kêu kinh hoàng của chồng nổi lên, nên không khỏi giật mình, nhanh nhẹn lướt thẳng vào gian phòng đá hỏi:

- Chuyện chi thế? Lữ Đằng Không đưa tay chỉ thẳng vào chiếc gầm trường kỷ, nói:

- Bà xem kia! Tây Môn NNhất Nương đưa mắt nhìn theo hướng tay chỉ của Lữ Đằng Không, thì kinh hoàng đến buột miệng kêu lên thành tiếng rằng:

- Lân nhi! Cùng một lúc với tiếng kêu ấy, bà ta đã siết chặt lấy cánh tay của Lữ Đằng Không. Tuy Lữ Đằng Không là người nội lực hết sức thâm hậu, nhưng bị hai bàn tay của Tây Môn Nhất Nương siết mạnh, vẫn không khỏi cảm thấy đau nhói.

Song vì lúc ấy ông ta đã nghe tiếng kêu kinh hoàng của Tây Môn Nhất Nương, thì đâu còn biết đến sự đau đớn của mình nữa.

Đó đó, ông ta cũng thất thanh kêu lên rằng:

- Lân nhi! Lữ Đằng Không mới chợt nhớ lại vừa rồi, Lữ Lân đã bước ra khỏi gian hoa sảnh nhỏ, cậu ta mặc chiếc quần màu xanh lục, chiếc áo ngắn màu thiên thanh. Giờ đây, lão ta thấy bóng người kia cũng thân hình bé nhỏ, và cũng mặc bộ y phục giống hệt con mình! Lữ Đằng Không vừa nghĩ đến đứa con trai yêu quý duy nhất của mình lại xuất hiện ly kỳ tại gian phòng đá này, trong lòng kinh hoàng không tả xiết. Ông ta hối hả tràn ngay tới trước một bước, nhưng không kịp bước tới được một bước nào nữa. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu óc, ông ta không khỏi cảm thấy ớn lạnh từ đầu đến chân. Do đó, cả người ông ta trở thành giá buốt như một tảng băng, đôi chân cứng đờ không còn di động được nữa! Lúc đầu, khi vừa nhìn thấy bóng người ấy, ông ta không hề tưởng tượng được đó là Lữ Lân. Lữ Lân có thân hình khá cao, bình nhật cậu ta đứng ngang cằm của Lữ Đằng Không.

Trong khi đó, chiếc trường kỷ đặt trong gian phòng cao không khỏi ngực ông ta, hơn nữa, cái bóng đen đang đứng sừng sững bên dưới lại đứng thẳng người, chứng tỏ bóng đen ấy thấp hơn Lữ Lân một cái đầu.

Do vậy, khi Lữ Đằng Không tràn người bước tới một bước, bất giác lại đặt câu hỏi: Thế còn chiếc đầu của bóng đen ấy đâu rồi? Từ xa nhìn đến, ông ta trông thấy bóng người ấy đang đứng sừng sững, chẳng hề thấy chiếc đầu của bóng đen ấy đâu cả. Nếu bóng đen ấy hãy còn một chiếc đầu trên cổ, thì chắc chắn khi đứng thẳng người lên như vậy, chiếc đầu phải ló cao lên mặt trường kỹ mới phải.

Thế nhưng trên mặt trường kỷ chỉ có vỏn vẹn mấy bảo vật, viên dạ minh châu đang tỏa ánh sáng như ban ngày, nào còn trông thấy vật chi khác hơn nữa? Chính vì vậy, nên có thể đoán biết bóng đen ấy chính là một cái xác người đã bị cắt mất đầu, sát đến tận vai.

Khi Lữ Đằng Không nghĩ đến đây, rồi lại nghĩ bóng đen ấy chính là đứa con trai yêu quý của mình, thì thử hỏi ông ta không cảm thấy hồn phi phách tán sao được? Giữa lúc ông ta còn đang đứng sửng sờ, thì bất thần nghe Tây Môn Nhất Nương kêu thét lên một tiếng hãi hùng, rồi vung đơn chưởng quét thẳng vào khoảng không, nhắm ngay chiếc trường kỹ ấy giáng xuống.

Cùng một lúc đó, cả thân người của Tây Môn Nhât Nương cũng đã phi thân bay thẳng đến khoảng không, nhằm phía trước mặt lướt nhanh tới như gió cuốn! Luồng chưởng phong của Tây Môn Nhất Nương vừa quét qua, thì tiếng ngã đổ ầm ầm nối tiếp vang lên không ngớt bên tai. Thế là bảy, tám chiếc trường kỷ đang đặt trong phòng đều bị đánh nát tan, khiến số bảo vật đang để trên bàn đổ bừa bãi xuống khắp mặt đất.

Đồng thời, có nhiều món bị chưởng phong hất bay thẳng vào vách đá, bể tan tành thành từng mảnh vụn.

Tây Môn Nhất Nương vừa tràn tới nơi, thì đã nhanh nhẹn thò tay chụp vào cái bóng đen đang đứng sừng sững ở đấy, và bà ta đã nắm gọn vào tay chiếc bóng đen ấy rồi. Khi bà ta đưa mắt nhìn kỹ thì thấy rõ ràng đấy là một xác chết không đầu, tay chân bé nhỏ. Rõ ràng đấy là một xác chết của một cậu bé.

Hơn nữa, xác chết ấy lại mặc đúng y phục của Lữ Lân và trên tay cũng đeo một chiếc vòng bằng ngọc mà Lữ Lân đã đeo từ thuở nhỏ đến giờ.

Chiếc vòng bằng ngọc đó đã được hai vợ chồng của Lữ Đằng Không đeo vào tay Lữ Lân nhân ngày sinh nhật cậu ta lên ba, và từ đó đến nay, chẳng hề cởi ra. Trong vòng chín năm qua, chân tay của Lữ Lân đã lớn dần, nên hiện giờ chiếc vòng ấy không còn cởi ra được nữa.

Nhìn qua những tín vật đó, Tây Môn Nhất Nương bất giác thấy lòng đau như dao cắt, xót xa như bị muối xát vào tim, không làm sao có thể hình dung sự đớn đau đó. Bà ta đứng sửng sờ một lúc thật lâu, bất thần ụa lên một tiếng thật to, hộc ra một ngụm máu tươi đỏ ối.

Tiếp đó, bà ta lại gầm lên một tiếng hãi hùng, rồi vung tay ném xác chết về phía Lữ Đằng Không, phá lên cười to như điên dại. Tiếng cười của bà ta nghe vô cùng kinh khiếp, đồng thời lên tiếng nói:

- Đây, người ta biết ông thích sưu tập bảo vật, nên mới tắm gội đứa con trai của ông sạch sẽ, đưa đến cho ông đấy! Cái xác chết được Tây Môn Nhất Nương ném ra liền bay vèo về phía Lữ Đằng Không nhanh như gió hốt. Lữ Đằng Không tuy vô cùng đau đớn nhưng trước một biến cố như thế, thường là người đàn ông giữ được sự bình tĩnh hơn người đàn bà. Do đó, ông ta bèn nhanh nhẹn vung tay lên chụp lấy xác chết, rồi đưa mắt nhìn kỹ nơi vết thương. Quả nhiên, ông ta thấy xác chết được rửa sạch sẽ, chẳng hề dính một vết máu! Lữ Đằng Không cảm thấy ruột đau như bị xé, nhưng vẫn cố gắng an ủi rằng:

- Phu nhân chớ nên quá bi thương, vì xác chết này không có thủ cấp, thì làm thế nào dám quả quyết rằng đó là Lân nhi được? Tây Môn Nhất Nương phá lên cười to ghê rợn, nói:

- Nếu không phải là Lân nhi thì còn ai nữa? Ông hãy xem chiếc vòng ngọc đeo trong tay nó kìa! Lữ Đằng Không vội vàng đưa mắt nhìn vào cổ tay xác chết, thấy chiếc vòng ngọc mà Lân nhi thường đeo hằng ngày, tia hy vọng cuối cùng trong đầu ông ta cũng biến mất.

Nhưng ngay lúc ấy, ông ta lại lóe lên một ý nghĩ, lên tiếng nói:

- Phu nhân, trước ngực của Lân nhi có một nốt ruồi son, chúng ta hãy xem kỹ đã! Vừa nói, ông ta vừa đưa tay lên xé toạc lớp áo trước ngực của xác chết, khi nhìn kỹ vào nơi ấy, thì thấy lớp da tại đó đã bị lắc mất.

Lữ Đằng Không là một tay anh hùng khét tiếng từ bấy lâu nay, nhưng khi nhìn qua thảm trạng trước mắt, thì đôi tay cũng không khỏi rủ riệt. Do đó, qua một tiếng phịch, xác chết trên tay ông ta bị đánh rơi xuống mặt đất lúc nào không biết. Xác chết ấy đã đè lên vô số châu báu đang đổ trên. Những món châu báu vô cùng quý giá trên, bình nhật Lữ Đằng Không chăm nom săn sóc và vô cùng yêu thích. Nhưng giờ đây dưới mắt ông ta thực chẳng khác chi là rơm rác.

Đứa con trai duy nhất đã bị kẻ thù sát hại rồi! Lữ Đằng Không cảm thấy tâm can của mình như bị xé nát, cất tiếng gào than nhưng không thể nào thành tiếng. Mặc dù lúc ấy ông ta đã khóc lên rất thảm thiết, nhưng nước mắt cũng không hề trào ra.

Ông đứng thừ người như một pho tượng đá, chẳng mấy chốc lại phá lên cười to ha hả.

Nhưng tiếng cười của ông ta nghe rất khác thường và bi thảm.

Tiếng cười to của Lữ Đằng Không làm cho cả gian phòng đá rung chuyển. Giờ đây, một lão anh hùng khét tiếng trong giới giang hồ mà tất cả các nhân vật võ lâm đều phải kiêng sợ, tự nhiên trở thành một con người tầm thường, y như những con người tầm thường khác. Lão ta khóc sướt mướt, thái độ hoàn toàn mếm yếu, y hệt như một người cha bị mất con khác trong đời! Lữ Đằng Không cười khan suốt một khoảng thời gian độ dùng xong một chén trà. Cuối cùng, tiếng cười bi thương ghê rợn của ông ta đã được một chuỗi ho khô khan cắt đứt.

Trong cơn ho dai dẳng, ông ta cảm thấy có người đang đưa chân bước nhẹ sát bên cạnh mình, rồi lại cảm thấy có một bàn tay vỗ nhẹ vào vai, nói:

- Này ông, chớ nên đau khổ nữa. Hiện giờ Lân nhi đã bị kẻ thù sát hại rồi. Hơn nữa, chắc chắn kẻ thù ấy chẳng phải tầm thường. Vậy chúng ta cần phải bảo vệ sức khỏe để lo trả thù cho nó! Lữ Đằng Không quay mặt nhìn lại thì trông thấy sắc mặt đau đớn không thể tả của người vợ già. Nhưng ẩn trong sự đau đớn ấy lại thoáng hiện nét can trường đến quả quyết.

Do đó, ông ta bèn lẩm bẩm, lặp đi lặp lại câu nói của Tây Môn Nhất Nương, rồi cất giọng buồn não hỏi:

- Lân nhi thật sự đã bị hại rồi hay sao? Chả lẽ bà bảo Lân nhi còn sống trên dương trần này nữa? Đây... đây nào phải là Lân nhi...

Tây Môn Nhất Nương thong thả khẽ gật đầu nói:

- Tuy xác chết này đã mất đi thủ cấp, cũng như lúc đầu tôi đã khẳng định đây là xác chết của Lân nhi. Nhưng giờ đây khi xem kỹ lại, thì hãy còn có điều đáng nghi ngờ lắm! Lữ Đằng Không vội vàng hỏi:

- Chỗ đáng nghi ngờ là đâu? Tây Môn Nhất Nương đưa tay chỉ thẳng vào lồng ngực của xác chết nói:

- Ông xem trên lồng ngực của xác chết, nơi mà đáng lý Lân nhi có một nốt ruồi son, hiện đã bị đối phương lắc mất rồi. Như vậy chứng tỏ kẻ thù của chúng ta muốn chúng ta tin xác chết này là của Lân nhi. Do đó, tôi dám tin rằng là Lân nhi hãy còn sống ở trên đời. Đây là xác chết của một kẻ khác.

Lữ Đằng Không uể oải lắc đầu qua một lượt nói:

- Dụng tâm của kẻ thù thật vô cùng sâu độc! Đối phương có ý định cho chúng ta nuôi mầm hy vọng là Lân nhi hãy còn sống ở trên đời này. Nên biết, nếu một người hoàn toàn bị tuyệt vọng thì sẽ vô cùng đau khổ, nhưng rồi thời gian sẽ xoa dịu đi! Trái lại, nếu kẻ ấy cứ nuôi mãi một tia hy vọng, tia hy vọng ấy không thể thành sự thật được, tất sẽ bị đau khổ giày vò suốt cả đời! Lời nói ấy của Lữ Đằng Không quả đã nói lên tiếng lòng của một lão già đang hết sức khổ đau.

Ông ta nói vừa dứt lời, bất thần vung tay đấm thẳng vào bức vách đá, vang lên hai tiếng ầm, ầm", khiến cả gian phòng đều rung rinh không ngớt.

Tây Môn Nhất Nương trầm ngâm trong một lúc khá lâu, rồi mới đưa vạt áo lên chùi máu nơi khóe miệng, cất giọng vô cùng bình tĩnh nói:

- Ngày hôm nay chúng ta đã gặp phải một việc bất hạnh có một không hai trên đời.

Nhưng dù thế nào chúng ta cũng phải giữ bí mật tuyệt đối, không thể để lộ ra bên ngoài.

Xác chết này chúng ta nên tạm thời để yên trong gian phòng đá này, tất cả mọi việc chúng ta nên tiến hành theo bình thường. Có làm được như thế, chúng ta mới tìm ra được kẻ thù là ai? Lữ Đằng Không gầm lên rằng:

- Ngoại trừ Lục Chỉ Tiên Sinh thì còn là ai nữa? Chẳng lẽ hai vợ chồng ta vẫn phải đi đến Tô Châu phủ hay sao? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Lẽ tất nhiên! Lữ Đằng Không thét to:

- Tôi không đi! Tôi cần phải đi đến Võ Di Sơn, san bằng ngọn Tiên Nhân Phong thành bình địa.

Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:

- Nếu chỉ có một mình Lục Chỉ Tiên Sinh, ông thử nghĩ tôi lại dại gì mà không đến Tiên Nhân Phong trong vùng Võ Di Sơn ngay.

Lữ Đằng Không tức giận hỏi:

- Thế còn ai nữa? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Trong bình sinh, Lục Chỉ Tiên Sinh đã cùng kết giao rất thân mật với Bích Ngọc Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân và Trúc Lâm Thất Tiên. Nếu chúng ta hành động quá lộ liễu, thì mười người ấy sẽ liên hợp lại, hai vợ chồng chúng ta làm sao đối phó nổi? Lữ Đằng Không sửng sờ trong giây lát, rồi vỗ mạnh đôi tay kêu to lên một tiếng rằng:

- Bích Ngọc Sinh? Có phải người trước đây ngoài mười năm, từng xâm nhập đại náo phái Ngũ Đài, và chẳng may sa vào Trường Đao Đoản Đao Trận của phái ấy, suýt nữa đã bị mất mạng, nhưng cuối cùng chạy thoát ra được đấy không? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Đúng thế! Tại sao ông lại hỏi đến lão ta thế? Tuy võ công của lão ta vô cùng quái dị và cao tuyệt, cũng như trong võ lâm không ai biết đến lai lịch của lão ta. Nhưng căn cứ vào sự thất bại ê chề của lão ta ở phái Ngũ Đài, đủ biết lão ta không phải là một nhân vật khó đối phó. Nếu đem lão so sánh với số người của Thiết Đạc Thượng Nhân, có lẽ hãy còn kém sút hơn một bậc.

Lữ Đằng Không vội vàng nói:

- Chẳng phải tôi băn khoăn ở chỗ võ công của lão ta cao hay thấp, mà chính vì bà nhắc đến hắn khiến tôi nhớ lại Tề Phúc và bốn tên gia đinh khi nãy, trên mũ đều có khảm một miếng ngọc màu xanh cả! Tây Môn Nhất Nương ngơ ngác một lúc nói:

- Lão ấy có tánh yêu thích châu ngọc còn hơn cả mạng sống của mình. Chính vì vậy nên lão ta bỏ tánh danh chân thực không dùng nữa, mà lấy Bích Ngọc Sinh, đồng thời có biệt hiệu khác là Ngọc Si, vậy chả lẽ họ thực của lão ta là họ Tề sao? Lữ Đằng Không nói:

- Chúng ta chẳng cần tìm hiểu chuyện ấy làm gì? Giờ đây, theo ý bà, thì mối thù của Lân nhi chúng ta trả bằng cách nào? Đôi mày rậm của Tây Môn Nhất Nương dựng đứng lên, cất tiếng cười khanh khách nói:

- Bọn chúng tuy tên nào tên nấy đều có tuyệt nghệ, nhưng thử hỏi tất cả các cao thủ của hai phái Nga My và Điểm Thương chả lẽ vô dụng cả hay sao? Nghe thế, Lữ Đằng Không không khỏi giật mình nói:

- Ý của phu nhân có phải là chúng mình sẽ đi mời các cao thủ trong hai môn phái cùng kéo đến báo thù cho Lân nhi hay không? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Lẽ tất nhiên! Nhưng trước khi chúng ta hành động, tuyệt đối không được để cho người chung quanh biết được. Chúng ta nên mang chiếc hộp không này trao đến tận tay Hàn Tốn trước đã. Sau đó, ông cấp tốc đi đến phái Nga My, còn tôi đi đến ngay phái Điểm Thương để mời và hẹn ngày giờ với họ, tập hợp tại chân núi Võ Di Sơn. Trong phái Nga My của ông, kể cả tăng nhân và các cao thủ tại gia đông đảo vô số, song vị tất họ đều nhận lời mời. Tuy nhiên, chỉ cần mười cao thủ bằng lòng giúp chúng ta cũng là đủ lắm rồi! Riêng hai vị Chưởng môn thì chúng ta chớ nên cho hay, kẻo lại kinh động đến họ.

Lữ Đằng Không biết làm như vậy thì rất có thể đối phương sẽ hay tin được. Trong khi đó, tuy Lục Chỉ Tiên Sinh và Bích Ngọc Sinh đều là người đi đứng trong giang hồ một thân trơ trọi, không vây cánh đông đảo. Song, Thiết Đạc Thượng Nhân là người có quan hệ sâu xa với phái Thanh Thành, đó là một điều rất đáng ngại. Riêng về Trúc Lâm Thất Tiên, là số người lúc nào cũng hợp tác chặt chẽ với nhau, và trong bảy người họ lại có liên hệ với phái Hoa Sơn và phái Thê Hà, do đó, bọn họ chẳng phải là số người bị lẻ loi cô độc.

Chính vì vậy, nếu tiến hành mọi việc theo lời của Tây Môn Nhất Nương, tất sẽ đưa đến một cuộc xô xát đẫm máu chưa từng có trong võ lâm.

Và cuộc chém giết ấy kết cục như thế nào thì chắc ai cũng đoán ra được. Cả hai bên sẽ đều bị thương vong như nhau.

Lữ Đằng Không tuy nhận xét được hậu quả tai hại ấy, song khi nghĩ đến đứa con trai của mình bị sát hại, chịu chết một cách vô cùng thảm khốc, thì không khỏi có ý nghĩ liều lĩnh, bèn gật đầu nói:

- Như vậy là được lắm! Sau đó, hai vợ chồng bèn bước ra khỏi gian phòng đá, đóng kín cánh cửa bí mật lại. Lữ Đằng Không thò tay sờ lại chiếc hộp gỗ bọc gấm đang cất kỹ trong áo, thấy nó vẫn còn nguyên, nên cả hai mới cùng bước ra khỏi hòn non bộ, vẻ mặt điềm nhiên như chẳng hề có chuyện chi xảy ra cả.

Vườn hoa này tọa lạc tại phía sau gian nhà ở của Lữ Đằng Không, nên thường ngày số người trong tiêu cục nếu không có lệnh gọi thì không khi nào dám hẻo lánh đến. Do đó, việc hai vợ chồng Lữ Đằng Không vào hòn non bộ thật lâu mà vẫn không một ai hay biết được.

Lữ Đằng Không trở về đến phòng riêng mà trong lòng vẫn cảm thấy nặng nề đau đớn.

Hơn nữa, ông ta lại cảm thấy vô cùng quái dị. Ông ta tin chắc rằng trên đời này không ai có thể biết được gian phòng bí mật ấy của ông ta cả.

Ông ta xét thấy người biết được gian phòng đá bí mật ấy, ngoại trừ hai người thợ ở vùng Tây Vực ra thì chẳng còn kẻ thứ ba. Như vậy, chả lẽ hai người thợ ấy đã tiết lộ mọi sự bí mật hay sao? Nhưng Lữ Đằng Không nhận thấy rằng, lúc mình đi mời hai người thợ ấy đến xây cất gian phòng bí mật này thì hành tung lúc nào cũng được giữ kín, số người xung quang chẳng ai biết được cả. Thế mà chẳng hiểu do đâu Lục Chỉ Tiên Sinh lại phát giác được gian phòng đá bí mật của mình? Sau đó, Lữ Đằng Không đã một mình đi đến thư phòng, trong lòng lão ta vẫn tràn đầy lửa hận. Lão ta ngồi yên xuống nghế, sửng sờ như một pho tượng đá.

Riêng Tây Môn Nhất Nương thì bình tĩnh hơn, bà ta cố đè nén sự đau đớn và tức giận, thản nhiên bước ra trước tiêu cục. Bà ta muốn tìm hiểu nơi số phu xe đẩy xe của tiêu cục, để thu thập một vài tin tức cần thiết, hầu phán đoán và truy tìm ra tung tích kẻ thù.

Khi Tây Môn Nhất Nương vừa xuất hiện thì có mấy vị tiêu đầu liền bước tới vây quanh, kẻ hỏi này, người hỏi nọ.

Tây Môn Nhất Nương bình tĩnh trả lời chiếu lệ với họ mấy câu, để họ không có lòng nghi ngờ. Nhưng ngay lúc ấy bỗng nghe có người lên tiếng:

- Tây Môn nữ hiệp vừa rồi có phải bà đã bảo tiểu chủ nhân đi ra đường chơi hay không? Tây Môn Nhất Nương nghe thế thì không khỏi giật mình, ngước mắt nhìn lên, trông thấy người hỏi câu hỏi ấy là một người phu đẩy xe đã lớn tuổi. Do đó, bà ta vội vàng hỏi lại;

- Ông đã gặp nó bao giờ thế? Người ấy nghiêng đầu nghĩ ngợi trong giây lát rồi đáp:

- Độ nửa giờ trước đây! Tây Môn Nhất Nương cảm thấy lạnh buốt cả tâm can. Vừa rồi bà ta tuy thấy xác chết trong gian phòng đá ấy mặc y phục của Lữ Lân, trên tay lại có đeo chiếc vòng bằng ngọc nữa.

Nhưng vì trước lồng ngực, nơi có nốt ruồi son bị lắc đi mất, nên bà ta vẫn nghi ngờ xác chết ấy là của một người khác.

Giờ đây, khi nghe qua lời nói của người phu đẩy xe, bà ta không khỏi mất bình tĩnh, hối hả truy hỏi về thời gian mà lão già ấy đã gặp Lữ Lân. Nếu lão già nọ vừa gặp Lữ Lân trên đường, thì chắc chắn là nó còn sống ở trên dương trần.

Thế nhưng qua câu xác nhận về thời gian của lão già, tia hy vọng mỏng manh và cuối cùng trong lòng bà ta bị tắt hẳn. Lão già ấy đã gặp Lữ Lân cách đây nửa giờ, chứng tỏ đấy là thời gian mà Lữ Lân từ trong gian hoa sảnh nhỏ bước ra.

Tuy nhiên, Tây Môn Nhất Nương vẫn còn nuôi hy vọng, lên tiếng hỏi:

- Ông gặp nó tại đâu thế? Lão già đẩy xe lên tiếng đáp:

- Tại hạ gặp cậu ấy trên một con đường ở giữa thành phía tây. Lúc đó, cậu ấy đeo lủng lẳng một ngọn đao thép bên sườn, đi hối hả ra cửa thành. Do đó, tại hạ nắm tay kéo cậu ấy lại, và hỏi cậu ấy định đi đâu? Nhưng tại hạ đã bị cậu ấy quật ngã, lăn quay ra đất..

Tây Môn Nhất Nương nóng ruột, ngắt lời hỏi tiếp:

- Lúc đó nó có bảo là đi đâu không? Lão già phu xe đáp:

- Không! Sau khi tại hạ bị quật ngã ra đất, thì chỉ còn thấy cậu ấy dõng dạc đưa chân nhắm hướng tây bước tới mà thôi.

Tây Môn Nhất Nương hừ lên một tiếng, nhưng im lặng chẳng nói thêm chi nữa. Lúc đó, trong lòng bà ta đang thầm tính về thời gian đã xảy ra mọi chuyện vừa rồi. Bà ta thấy Lữ Lân bước ra khỏi tiêu cục, đi về hướng tây, rất có thể là lúc cậu ta vừa mới rời khỏi gian hoa sảnh ấy. Sau khi cậu ta vừa mới ra đi, người trong tiêu cục hãy còn gặp mặt cậu ta. Như vậy là khoảng thời gian từ khi hai vợ chồng của bà ta cùng ngồi nói chuyện bên trong gian hoa sảnh, đến lúc vào hang đá tại hòn non bộ ở phía sau vườn, chỉ độ dùng xong hai chén trà nóng mà thôi.

Trong khoảng thời gian đó, kẻ thù sát hại Lữ Lân, rồi lại mang xác chết đặt yên vào trong gian phòng đá bí mật ấy. Như vậy cũng đủ thấy số người của Lục Chỉ Tiên Sinh trong những ngày gần đây, võ công tiến bộ vượt bực, không ai có thể tưởng tượng nổi.

Lúc bấy giờ Tây Môn Nhất Nương chỉ muốn tuốt lấy thanh trường kiếm siết chặt vào tay, nhắm hướng tây truy đuổi theo kẻ thù. Nhưng khi suy nghĩ lại, thấy năng lực của mình thật sự không làm thế nào đối địch nổi với bao nhiêu cao thủ ấy, nên đành cố đè nén sự tức giận trở xuống, lên tiếng nói:

- Vừa rồi tôi đã bảo nó đi về phía ấy trước, tìm nơi chờ đợi chúng tôi. Vì vào sáng ngày mai này, chúng tôi phải đi đến Tô Châu phủ. Do đó, mọi việc trong tiêu cục, các ông nên chăm sóc cho kỹ lưỡng, chớ để xảy ra điều chi đáng tiếc.

Số người hiện diện nghe qua, cảm thấy lời nói của Tây Môn Nhất Nương có điều rất đáng ngờ. Tại sao lại sai một cậu bé còn nhỏ tuổi như vậy đi một mình trước là nghĩa lý gì? Song, bọn họ thấy lời nói xuất phát từ cửa miệng của Tây Môn Nhất Nương thì đâu lại giả dối bao giờ? Bởi thế cả bọn đồng thanh cất tiếng vâng lệnh một lượt.

Sau đó, Tây Môn Nhất Nương bèn trở lại hậu đường, cùng bàn bạc với Lữ Đằng Không về kế hoạch đối phó với kẻ thù. Và hai người đã thức trắng đêm, không hề chợp mắt.

Sáng sớm hôm sau, Tây Môn Nhất Nương đeo song kiếm vào sườn, còn Lữ Đằng Không giắt thanh Tử Kim Đao lên vai, cùng rời khỏi tiêu cục.

Lúc bấy giờ, vợ chồng của Lữ Đằng Không đinh ninh kẻ thù đã sát hại Lữ Lân chính là số người của Lục Chỉ Tiên Sinh. Nhưng vì muốn bảo mật để việc trả thù được tiến hành thuận lợi, nên thái độ họ vẫn điềm nhiên, không hề lộ ý định của mình.

Suốt đêm qua, hai vợ chồng Lữ Đằng Không không ngớt nghe ngóng chờ đợi, nhưng Lữ Lân vẫn bặt tăm không thấy trở về. Do đó, hai vợ chồng ông ta lại càng đau đớn hơn. Suốt một đêm dài hai vợ chồng ngồi đối diện với nhau, mà không nghe ai nhắc đến tiếng hai tiếng "Lân nhi" cả.

Trong lòng của hai người đinh ninh xác chết trẻ thơ trong gian phòng đá chính là đứa con trai yêu quý của mình, tức Lữ Lân, chớ không còn điều chi ngờ vực nữa! Tuy nhiên, trong lòng họ vẫn còn một điểm đáng nghi ngờ là chẳng hiểu tại sao, giữa Lục Chỉ Tiên Sinh, Bích Ngọc Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân và Trúc Lâm Thất Tiên đối với hai vợ chồng họ vốn chẳng hề có mối oán cừu chi cả, vậy vì lẽ gì số người ấy lại hạ độc thủ đối với con của hai vợ chồng ông ta như vậy? Suốt một đêm bàn bạc với nhau, hai vợ chồng đều có cảm giác là bốn món bảo vật vô cùng quý báu do Tề Phúc mang đến để làm những món quà thù lao cho chuyến đi Tô Châu ấy, có lẽ hoàn toàn không dính dấp chi đến cái chết của Lữ Lân cả.

Sở dĩ hai vợ chồng của Lữ Đằng Không có ý nghĩ như vậy, vì họ không biết Lữ Lân rời khỏi tiêu cục với mục đích truy đuổi theo cỗ xe ngựa sang trọng vừa xuất hiện trước tiêu cục của họ. Chính cỗ xe ngựa sang trọng đó đã mang Tần tiêu đầu, một người nhận mệnh lệnh của Lữ Đằng Không ra đi để theo dõi lai lịch của Tề Phúc, đang bị trọng thương gần chết ném vào tiêu cục.

Nếu vợ chồng Lữ Đằng Không biết được mục đích ra đi của Lữ Lân, có lẽ bọn họ đã nhắm thẳng vào phái Hoa Sơn để gây sự rồi. Hơn nữa, tất họ sẽ gấp rút tiến hành điều tra lai lịch và tính danh của Tề Phúc, không hành động như mọi dự định hiện nay.

Hai vợ chồng Lữ Đằng Không giục ngựa phi nhanh tới trước, và lúc cửa thành Nam Xương vừa mở ra, cả hai liền nhắm hướng đông bắc phi ngựa lướt tới như bay.

Khi bóng mặt trời lên cao tới đỉnh đầu thì vợ chồng họ đã đi trên một trăm dặm. Khi ấy, họ nhìn thấy phía trước mặt đường núi khúc khuỷu gồ ghề, chung quanh cây rừng rậm rạp, vắng vẻ, chẳng hề trông thấy một bóng người, nên liền đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều thầm cảnh giác, để đối phó với mọi việc bất trắc có thể xảy ra.

Hai người lại tiếp tục đi về phía trước độ mấy mươi dặm đường nữa. Giữa lúc họ định xuống ngựa để nghỉ ngơi, ăn uống, bất thần nghe từ trong cánh rừng sát bên vệ đường, có tiếng đàn cổ đánh lên tình tang, rất vui tai.

Nghe tiếng đàn ấy, cả hai sắc mặt tràn đầy căm tức. Cả hai không ai bảo ai, nhanh nhẹn gò cương cho ngựa đứng lại.

Tây Môn Nhất Nương hạ giọng nói rằng:

- Tiếng đàn ấy rất có thể là của Lục Chỉ Tiên Sinh. Nếu lão ta có bước ra, chúng mình tuyệt nhiên chẳng thể tỏ thái độ khác lạ, mà nên chờ xem cử chỉ của lão ta, rồi mới định đoạt cách đối phó sau.

Câu nói vừa dứt thì tiếng đàn nghe lại càng gần hơn. Cuối cùng, họ lại nghe tiếng vó ngựa nện trên mặt đường lốc cốc. Đồng thời chẳng mấy chốc sau, hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã thấy từ trên con đường mòn nhỏ trong cánh rừng cạnh đấy, có một con lừa đen tuyền từ đầu đến chân, đang thong thả chạy ra.

Trên lưng con lừa ấy, đang ngồi một lão già mặc áo dài màu vàng, trước mặt có để một cây đàn cổ, và đôi tay không ngớt khảy nhẹ trên dây đàn, tựa hồ chẳng chú ý chi đến sự hiện diện của hai vợ chồng họ đâu cả.

Lữ Đằng Không thấy mặt kẻ thù, sắc mặt liền đỏ gay như lửa, cơ hồ không còn đè nén được sự tức giận đang cháy ngùn ngụt trong lòng. Những sợi râu dưới cằm của lão ta dựng đứng lên như những sợi lông nhím, thần sắc uy nghi trông thật đáng sợ. Song lão già đang ngồi trên lưng lừa vẫn một mực cứ gầm đầu lo đánh đàn. Trên hai bàn tay của lão ta, rõ ràng có hai ngón nhỏ, mọc từ cạnh ngón tay cái ra. Đấy quả là Lục Chỉ Tiên Sinh! Tây Môn Nhất Nương liếc thấy Lữ Đằng Không đang tràn đầy sắc căm tức, tựa hồ không thể đè nén được, trong khi thái độ của đối phương vẫn bình tĩnh. Bà ta không khỏi cuống quýt, vì ý định của bà ta là không muốn làm cho kẻ thù hiểu được dự định của mình, để có thể sắp xếp, tóm bọn họ cùng một lúc.

Bà ta bèn nhanh nhẹn thúc nhẹ vào người của Lữ Đằng Không nói:

- Thôi, chúng ta hãy mau đi lên! Nhưng tiếng nói của bà ta đã làm cho Lục Chỉ Tiên Sinh giật mình. Lão ta đưa mắt nhìn kỹ về phía Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không một lượt nói:

- Ủa! Nhị vị đây có phải là đôi vợ chồng họ Lữ ở Thiên Hổ Tiêu Cục không? Tại hạ đang định đi đến thành Nam Xương để thăm nhị vị đây, thế mà chẳng ngờ lại may mắn được gặp giữa đường, thực là quý hóa thay! Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:

- Quả là quý hóa lắm! Lục Chỉ Tiên Sinh nghe qua giọng nói của Tây Môn Nhất Nương thì không khỏi sửng sốt, không hiểu đấy là có ý nghĩa chi? Do đó, lão ta bèn quay mặt vào cánh rừng, kêu to lên rằng:

- Thiết Đạc Thượng Nhân, có hai vợ chồng lão chủ nhân họ Lữ đây rồi. Chúng ta khỏi phải mất nhiều thời gian đến thành Nam Xương nữa! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không khỏi thầm kêu lên trong lòng: "Hay lắm! Chả lẽ bọn ngươi tập trung ở cả nơi này hay sao?" Liền đó, họ nghe từ trong cánh rừng, một giọng nói vang lên như tiếng hồng chung, vọng đến rằng:

- Lục Chỉ Tiên Sinh, tiếng đàn của ông đã phá phách đôi tai của tôi, khiến tôi không được nghỉ ngơi yên ổn trong giây phút nào cả. Thế mà giờ đây, tiếng đàn vừa dứt, ông lại kêu réo ầm ĩ làm chi thế? Lục Chỉ Tiên Sinh cất tiếng cười ha hả nói:

- Đàn khảy tai trâu, thì trâu nào biết thưởng thức? Do đó, cũng chẳng trách ông tại sao lại chê tiếng đàn của tôi là ồn ào! Trong khi đôi bên còn đang đối đáp nhau, từ trong cánh rừng đã có bóng người dõng dạc cất bước đi tới. Bóng người ấy có thân hình hết sức cao lớn, mình mặc y phục màu đen, trông chẳng khác chi một ngôi thiết tháp, mắt beo đầu cọp, râu ria chơm chởm, trên lưng có một vật chi gồ cao, song xem kỹ thì không phải lưng gù, mà rất giống một gói hành lý.

Khi người ấy bước ra đến nơi thì dừng chân đứng giữa đường nói:

- Hai vị ấy là vợ chồng lão chủ nhân họ Lữ chăng? Tại hạ nghe danh từ lâu, song chưa có duyên được gặp mặt lần nào cả! Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vừa trông thấy người ấy xuất hiện, thì biết đây là người rèn về ngoại công đã đến trình độ tuyệt đỉnh, sức mạnh phi thường, tức Thiết Đạc Thượng Nhân. Vật gồ cao mà lão ta mang ở sau lưng chính là chiếc Thiết Đạc (chuông sắt), nặng có hàng sáu trăm cân. Thế mà lão ta dùng nó để làm binh khí, và sử dụng như một món binh khí bình thường. Tây Môn Nhất Nương trông thấy hai người này đều điềm tĩnh như chẳng có chuyện chi cả, thì trong lòng lại càng tức giận hơn. Song bà ta chẳng để lộ thái độ cho đối phương biết, thản nhiên lên tiếng nói:

- Vị này có lẽ là Thiết Đạc Thượng Nhân chăng? Nhưng chẳng rõ nhị vị muốn gặp chúng tôi để có việc chi chỉ giáo? Thiết Đạc Thượng Nhân vừa đưa chân bước tới mấy bước, mỗi bước lão ta dài có ngoài nửa trượng, vừa lên tiếng nói:

- Chính vì câu chuyện đứa con trai của nhị vị! Tây Môn Nhất Nương không ngờ rằng, vừa rồi đối phương tỏ ra điềm nhiên như chẳng hề biết chuyện chi xảy ra, thế mà giờ đây lại bất thần đề cập thẳng đến việc của Lữ Lân, nên đang nghĩ ngợi tìm câu trả lời. Nhưng Lữ Đằng Không vì quá tức giận, không còn đè nén được nữa, lão gầm to lên rằng:

- Con trai tôi thế nào? Nó chỉ mới chừng ấy tuổi, thế tại sao các ông...? Câu nói của Lữ Đằng Không vừa đến đây, Tây Môn Nhất Nương đã kịp thời vung tay vỗ mạnh vào vai ông ta, khiến ông ta giật mình, dừng ngay câu nói dở dang ấy lại.

Trong khi đó, Lục Chỉ Tiên Sinh và Thiết Đạc Thượng Nhân đều lộ sắc kinh ngạc. Lục Chỉ Tiên Sinh lên tiếng hỏi:

- Chẳng hay vì lẽ chi mà Lữ Tổng tiêu đầu thịnh nộ như thế? Lữ Đằng Không hừ một tiếng qua giọng mũi, nhưng Tây Môn Nhất Nương đã nhanh nhẹn cướp lời rằng:

- Không rõ các ông muốn tìm đứa con trai tôi là có chuyện gì? Lục Chỉ Tiên Sinh mỉm cười nói:

- Từ trước đến nay, tại hạ vẫn ở yên tại Tiên Nhân Phong trong Võ Di Sơn. Tài nghệ của mình cố lẽ nhiên không làm sao sánh kịp với các cao nhân trong hai phái Nga My và Điểm Thương. Tuy nhiên, tại hạ trước nay vẫn không có lòng tự phụ, nên nửa năm gần đây, có xuống núi một lần để tìm môn đồ kế nghiệp. Nhưng chẳng ngờ trong thiên hạ, người có tư chất lại quá hiếm Chương, nên trong chuyến đi ấy hoàn toàn chẳng có kết quả. Nhưng trước đây độ một tháng, tại hạ bất ngờ nghe Thiết Đạc Thượng Nhân và một số bằng hữu khác có đề cập đến lệnh lang Lữ Lân. Tuy tuổi mới vừa mười hai, song nội công tỏ ra rất cơ bản, hơn nữa, tư chất ấy lại vô cùng tốt. Chính vì lẽ ấy nên tại hạ mới mạo muội tìm đến đây, mong thu lệnh lang làm môn đồ, và chỉ cần lệnh lang theo tại hạ về Võ Di Sơn độ năm năm, tại hạ sẽ mang hết sở học ra truyền dạy cho.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 03
Đường Dài Lại Lắm Chông Gai
Khách Điếm Tạm Trú Gặp Hai Yêu Tà


Trong võ lâm, việc sư phụ tìm môn đồ, cũng như việc môn đồ chọn lựa sư phụ là những chuyện rất thông thường, chẳng có chi là lạ lùng cả.

Hơn nữa, dù cho cha mẹ có là một bậc cao nhân, võ công tuyệt kỹ thì việc con cái họ đi tìm một vị sư phụ đức trọng tài cao để học hỏi thêm cũng là một chuyện rất thường có.

Với danh vọng cũng như võ công của Lục Chỉ Tiên Sinh, việc ngỏ ý muốn thu Lữ Lân làm môn đồ, thì thật ra cũng chẳng phải là việc mất mặt đối với hai vợ chồng Lữ Đằng Không. Đồng thời, chắc chắn lão ta cũng không đến nỗi đào luyện Lữ Lân thành một con người hư hỏng. Do đó, nếu Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương chưa phát giác được một xác chết trẻ thơ không đầu bên trong gian phòng đá bí mật của họ, và chưa thấy bàn tay sáu ngón in trên bức vách đá cạnh ấy, thì chắc chắn hai người sẽ xuống ngựa nghênh đón, tỏ ra hoan nghênh ý kiến của Lục Chỉ Tiên Sinh ngay.

Nhưng giờ đây mọi việc diễn biến lại xảy ra như thế này, nên cả hai vợ chồng đều không khỏi có ý nghĩ: "Phải rồi, giữa ta và bọn họ vốn không có oán thù chi, nhưng chắc chắn là do Lân nhi đã tạo ra kẻ cường địch này. Có lẽ vì bọn họ muốn thu Lân nhi làm môn đồ, nhưng Lân nhi đã tỏ ra phản đối, do đó, bọn họ mới giết chết cho hả cơn tức giận." Lữ Đằng Không chỉ nghĩ đến điều đó, song riêng Tây Môn Nhất Nương thì nghĩ xa hơn.

Bà ta cho rằng, sở dĩ kẻ thù của mình còn mang giọng lưỡi ấy là để phỉnh gạt mình, chính là muốn thăm dò xem mình có phát giác được xác chết của Lân nhi bên trong gian phòng đá bí mật ấy hay chưa? Nếu thế thì mình nên giấu mất việc đó, hầu chờ đợi thời cơ khi có đủ điều kiện, sẽ mang món nợ máu ấy ra thanh toán.

Do đó, Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng sâu hiểm nói:

- Nếu Lục Chỉ Tiên Sinh bằng lòng nâng đỡ cho đứa con trai của chúng tôi thì thật rất lấy làm cảm tạ. Nhưng hai vợ chồng tôi chỉ e là nó kém thông minh lại ngang bướng, khó bề dạy dỗ thành tài đó mà thôi! Lục Chỉ Tiên Sinh cất tiếng cười ha hả, nói:

- Lữ phu nhân hà tất phải khách sáo như thế! Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Hiện giờ, chúng tôi còn đang bận chuyện cấp bách, cần phải đến Tô Châu ngay. Một hôm nào khác, chúng tôi sẽ mang con trai chúng tôi đến Tiên Nhân Phong tại Võ Di Sơn trao cho tiên sinh dạy dỗ. Tiên sinh và những bằng hữu khác vui lòng chờ đợi vợ chồng chúng tôi tại Tiên Nhân Phong có được chăng? Lục Chỉ Tiên Sinh trầm ngâm trong giây lát, nói:

- Cũng được, nếu thế chúng tôi xin cáo từ vậy! Dứt lời, lão ta lại cúi gầm đầu lo đánh đàn trong khi bốn vó con lừa lại chậm chạp nện lốc cốc trên mặt đường. Riêng Thiết Đạc Thượng Nhân cũng rảo bước đi theo sát bên cạnh con lừa ấy. Chẳng mấy chốc sau bọn họ đã đi xuyên qua quan lộ, rồi lẩn khuất vào trong cánh rừng rậm cạnh đấy.

Tây Môn Nhất Nương chờ cho hai đối phương đi khuất dạng, mới cất giọng hầm hầm nói:

- Đợi một tháng sau, ta sẽ cho các ngươi chết không đất vùi thây đó! Lữ Đằng Không nói:

- Phu nhân, xem thái độ của bọn họ tựa hồ không hề biết chi cả! Tây Môn Nhất Nương cất giọng gay gắt nói:

- Rõ ràng đấy là do bọn họ đã hạ độc thủ, vậy tại sao lại không biết chứ? Sở dĩ bọn họ giả vờ như thế, lẽ tất nhiên là có mục đích chi mà chúng ta chưa rõ mà thôi.

Lữ Đằng Không vốn muốn lên tiếng nói: "Về cách đối nhân xử thế của Lục Chỉ Tiên Sinh ra sao, thì mình chưa được biết. Nhưng riêng về Thiết Đạc Thượng Nhân, rõ ràng là một người có tánh tình ngay thẳng, như vậy e rằng là họ chẳng phải giả vờ." Nhưng ông ta biết nếu mình nói lên lời ấy, chắc chắn sẽ bị vợ phản đối ngay, nên im lặng không nói chi cả. Sau đó, hai người bèn mở lương khô ra dùng qua loa, rồi lại hối hả lên đường. Khi trời ngã bóng hoàng hôn, cả hai đã thấy thấp thoáng trước mặt có một thị trấn lớn, khói nấu cơm chiều bay uyển chuyển, từ dưới đất bốc lên trời cao.

Giữa lúc hai người định cho ngựa đi chậm lại, hầu để người chung quanh không nghi ngờ và để ý tới mình, kẻo lại sinh ra lắm điều rắc rối. Bất thần ở phía sau nghe một chuỗi cười khanh khách lạnh buốt như giá băng. Cả hai đều nhanh nhẹn quay đầu nhìn lại, thì trông thấy ba gã đàn ông gầy đét, đang sử dụng khinh công chạy bay tới, đôi chân không hề chấm đất. Chỉ trong chớp mắt sau là cả ba đã vượt qua khỏi đầu ngựa của hai vợ chồng họ. Lúc ấy, cả ba bỗng quay đầu lại, nhìn thẳng vào hai vợ chồng Lữ Đằng Không một lượt.

Ba gã đàn ông cao gầy ấy lướt đi nhanh như gió, chứng tỏ bọn họ là những người có trình độ khinh công cao siêu tuyệt đỉnh. Vừa rồi, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không quay đầu nhìn lại và đã trông thấy điểm đó, nên lúc nào cũng lưu tâm theo dõi mọi cử chỉ của ba gã ta.

Do đó, khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy ba đối phương quay mặt nhìn thẳng vào phía mình, liền chú ý quan sát họ kỹ hơn. Nhờ thế hai người trông thấy ba đối phương đều có đôi mắt chiếu sáng lập lòe. Nhưng cả ba bỗng lại quay đầu nhìn về phía trước rồi tiếp tục lướt thẳng tới nhanh như gió hốt.

Thế là, chỉ trong chớp mắt sau, cả ba đã lẩn khuất giữa đám người đi đường và xe ngựa qua lại, không còn trông thấy đâu nữa.

Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng cười khanh khách. Đang định quay về Lữ Đằng Không định nói chi, bất thần lại nghe phía sau lưng có người lớn tiếng nói rằng:

- Làm ơn tránh đường! Làm ơn tránh đường! Nơi đây đã gần một thị trấn lớn, nên quan lộ rộng thênh thang, mặc dù người đi dập dìu, xe ngựa tấp nập, song vẫn có thể lưu thông dễ dàng, chẳng cần phải gọi người chung quanh tránh đường cả. Bởi thế khi Tây Môn Nhất Nương vừa nghe tiếng kêu ấy ở phía sau lưng mình thì không khỏi tức giận, bà quay mặt lại nhìn, thì thấy đó là một gã đàn ông to béo, trên vai đang gánh đá nặng nề.

Gã đàn ông ấy đi xiêu qua xiêu lại, sàng ngang như một con vịt. Hơn nữa, mặc dù hai bên đường còn rộng rãi, thế mà hắn ta vẫn cố bám sát theo mông con ngựa của Tây Môn Nhất Nương để kêu tránh đường.

Tây Môn Nhất Nương là người kiến thức rộng rãi, nên vừa nhìn qua gánh đá nặng nề mà gã đàn ông to béo ấy đang gánh trên vai ít nhất cũng có đến bốn trăm cân, thì tiên đoán hắn ta chẳng phải là một con người tầm thường. Hơn nữa, qua thái độ của hắn ta, Tây Môn Nhất Nương cũng biết chắc là hắn ta đang cố tình muốn gây rối với mình.

Tây Môn Nhất Nương đã đoán biết được, là trong chuyến áp tải chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ chắc chắn sẽ gặp rất nhiều cao thủ đón đường gây sự. Bà ta sở dĩ muốn cùng đi chung với Lữ Đằng Không mục đích cũng là để gặp gỡ những cao thủ ấy một lần cho biết.

Nhưng vì trước khi hai vợ chồng lên đường thì lại có một biến cố đau thương xảy đến.

Do đó, hiện giờ bà ta chỉ muốn làm thế nào áp tải chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ cho sớm, hầu được rảnh rang, đi tìm Lục Chỉ Tiên Sinh và số người của Thiết Đạc Thượng Nhân rửa sạch mối thù hận mà thôi. Do đó, bà ta hoàn toàn không còn ý định gây sự đánh nhau với những cao thủ đang theo dõi để mưu đồ cướp chiếc hộp gấm.

Chính vì lẽ ấy, nên mặc dù lúc bấy giờ Tây Môn Nhất Nương biết gã đàn ông to béo ấy muốn gây sự với mình, nhưng vẫn không cố chấp. Bà ta vội vàng giật mạnh cương ngựa, khiến con tuấn mã lách tránh về phía trong ba thước, nhường đường cho đối phương ngay.

Bởi thế gã đàn ông to béo ấy bèn gánh đá nặng nề lướt qua khe trống giữa hai vợ chồng bà ta, rồi tiếp tục đi nhanh về phía trước. Nhưng lúc hắn ta đi ngang Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không thì lại không ngớt ngó sang trái quay sang phải để nhìn kỹ hai người. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế bèn đưa mắt ra hiệu cho Lữ Đằng Không hãy cố dằn cơn tức giận, chớ gây sự làm gì. Do đó, Lữ Đằng Không cũng chỉ lạnh lùng đưa mắt nhận xét thật kỹ gã đàn ông to béo ấy mà thôi.

Khi ông ta trông thấy ở sau gáy của đối phương có một cục bướu to bằng nắm tay, màu đỏ hồng, trong lòng chợt nhớ ra một người nên không khỏi giật mình sửng sốt.

Giữa lúc ấy, gã đàn ông to béo ấy bỗng rảo bước lướt đi nhanh hơn. Chớ xem hắn ta to béo thục thịch mà lầm. Mặc dù hắn ta đang gánh một gánh đá hết sức nặng, song vẫn có thể lướt đi nhanh như bay, quả không ai có thể tưởng tượng được.

Do đó, chỉ trong chốc lát sau là hắn ta đã vượt qua rất nhiều xe ngựa đang đi trên đường, rồi lướt thẳng vào thị trấn mất dạng.

Lữ Đằng Không giật cương ngựa cùng sánh vai với Tây Môn Nhất Nương thong thả đi tới. Lão ta lên tiếng nói:

- Phu nhân, gã đàn ông to béo kia có phải chính là vị Chưởng môn của phái Thái Cực, tên gọi Phán Tiên Từ Lưu Bản, mà trong giới giang hồ đã đồn đãi ấy không? Tây Môn Nhất Nương khẽ gật đầu nói:

- Đúng thế! Ba gã đàn ông ấy vừa rồi rất giống Thái Sơn Tam Tàn. Ông chẳng trông thấy bên sườn họ đều có đeo một món binh khí kỳ hình dị tướng đó sao? Lữ Đằng Không như chợt nhớ ra nói:

- Phải rồi! Đấy đúng là Tam Tài Phiên của Hắc Thần Quân ở Thái Sơn đã truyền cho! Đôi mày rậm của Tây Môn Nhất Nương cau chặt lại nói:

- Chuyện này thật vô cùng quái dị! Thái Sơn Tam Tàn bấy lâu nay đã ỷ lại sư phụ của mình là Hắc Thần Quân, gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng Sơn Đông và Hà Bắc, khiến cho ngay đến nhân vật trong phe hắc đạo khi gặp họ cũng phải điên đầu. Do đó, bọn họ tìm đến đây để dòm ngó chiếc hộp này mưu toan cướp đoạt, cũng chẳng có chi là lạ. Song tại sao ngay như vị Chưởng môn phái Thái Cực là người thuộc về phe chính phái, thế thì vì lẽ gì cũng tìm đến đây để gây sự với mình? Lữ Đằng Không tức giận cười nhạt nói:

- Để mặc cho bọn chúng muốn làm gì thì làm, dù cho chúng ta có bị hại dưới tay bọn chúng đi nữa, thử hỏi khi bọn chúng đoạt được chiếc hộp gỗ không này, chúng có dùng vào chuyện chi được? Tây Môn Nhất Nương cũng có nghĩ điều đó, song bà ta lúc nào cũng tế nhị và sâu sắc hơn Lữ Đằng Không rất nhiều, nên liền hạ giọng nói nhỏ rằng:

- Ông chớ nên nói to như thế! Tối nay chúng ta cần phải xem lại kỹ lưỡng chiếc hộp gỗ đó, không biết chừng đấy là một chiếc hộp hai lớp, và chính giữa còn cất giấu một vật bí mật chi chăng. Nếu chẳng phải thế thì tại sao Tề Phúc lại bằng lòng thù lao trọng hậu như thế? Hơn nữa, những cao thủ trong hai phe chính tà, như Từ Lưu Bản và Thái Sơn Tam Tàn lại cùng một lúc chú ý theo dõi hành tung của chúng ta như thế? Trong khi hai vợ chồng đang nói chuyện, bất thần nghe ở phía sau có tiếng khóc to đầy ai oán vọng đến bên tai.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nếu họ bằng lòng đứng ra tổ chức môn phái, chắc chắn họ rất xứng đáng là một bậc tôn sư.

Thế nhưng tiếng khóc ai oán ấy lọt vào tai hai người thì cả hai không khỏi cảm thấy giật mình Chương hộp.

Bởi thế, cả hai nhanh nhẹn trấn tĩnh tâm thần, rồi quay đầu nhìn lại phía sau. Họ trông thấy có hai gã đàn ông mình mặc áo đại tang bằng vải gai, trong tay một người cầm gậy tang, và một người khác cầm ngọn phướn chiêu hồn. Đồng thời, trên cổ của hai người ấy lại có đeo một xâu giấy tiền vàng bạc, không ngớt tung bay theo chiều gió. Cả hai đưa đôi chân lảo đảo, vừa bước tới, vừa gào khóc hết sức thảm thiết.

Lối ăn mặc của hai người ấy chẳng những vô cùng quái dị, mà sắc mặt của họ lại trông tái nhợt, chẳng hề giống một con người đang sống trên dương trần.

Do đó, người đi đường đã đổ dồn đôi mắt nhìn chòng chọc về phía họ. Nhưng cả hai tựa hồ chẳng hề để ý đến việc ấy, vẫn một mực gào khóc không ngớt. Đồng thời, đôi chân loạng choạng của họ vẫn tiếp tục bước tới trước, khi đâm sang phải, lúc sang trái, chẳng xem ngựa xe đang đi trên đường vào đâu cả.

Chính vì vậy, nên trên đường cái quan chẳng mấy chốc là náo loạn cả lên, tiếng ngựa hí vang trời, khách bộ hành đổ dồn về một bên để né tránh.

Tây Môn Nhất Nương mỉm một nụ cười lạnh lùng, nhưng lại đưa mắt nhìn đi nơi khác, chẳng hề chú ý đến đối phương.

Trong lúc ấy, hai gã đàn ông mặc áo đại tang đó, bất thần nhắm về phía một con ngựa ô to lớn, đang đi cạnh đấy xông thẳng tới, khiến con ngựa kinh hoàng hí lên một tiếng dài, rồi đứng thẳng đôi chân sau, khiến một người đàn ông to lớn có dáng điệu giống như một vị tiêu sư đang ngồi trên lưng ngựa suýt nữa đã té phịch xuống đất.

Người đàn ông ấy hết sức tức giận, to tiếng mắng rằng:

- Hai gã láo xược và vô dụng kia! Dù cha các ngươi có chết đi nữa, cũng không nên gây náo loạn như thế này! Hai gã đàn ông mặc áo đại tang ấy, liền ngước mắt nhìn về phía người đàn ông ngồi trên lưng ngựa, trong khi miệng vẫn một mực gào khóc thực to. Tiếng khóc của họ nghe ồ ề như tiếng đồng la bể, thực hết sức ồn tai. Và bỗng cả hai lại cất giọng mếu máo, đồng thanh nói:

- Ở nhà chúng tôi quả cha chúng tôi đã chết, do đó, chúng tôi mới lỡ đụng vào ông, vậy ông chớ nên trách cho! Hai gã ta vừa nói nhưng vẫn đưa chân tiếp tục bước nhanh về phía trước. Tuy mới nhìn qua thì thấy họ ngã xiêu vẹo nhưng kỳ thực thì thân pháp của họ rất có chương thứ. Do đó, chỉ trong chớp mắt sau là cả hai đã vượt khỏi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.

Nhưng khi họ vừa đi ngang qua hai người thì quay lại nhìn mặt về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mỉm cười, trông vô cùng xấu xí. Sau khi cười xong, cả hai lại tiếp tục lướt nhanh về phía trước.

Tây Môn Nhất Nương thầm mắng rằng: "Hay lắm, tất cả bọn yêu nghiệt đều tập trung về đây cả rồi!" Giữa lúc bà ta còn đang nghĩ ngợi, bất thần nghe ở phía sau lưng có tiếng ngựa hí dài, đi đôi với một tiếng gào thảm thiết. Do đó, bà ta bèn nhanh nhẹn quay đầu nhìn lại, thấy khách bộ hành ở phía ấy đang rối loạn cả lên, vì con ngựa ô mà hai gã đàn ông mặc áo đại tang vừa chạm đến mình khi nãy, té lăn quay ra đất, miệng sùi bọt trắng, nằm yên không còn nhúc nhích nữa.

Riêng gã đàn ông to lớn, có dáng điệu như một tiêu sư nọ thì cũng đang lăn lộn cạnh đấy, miệng không ngớt kêu "Ối chao! Ối chao!" Và chẳng mấy chốc sau hắn ta cũng nằm yên, sắc mặt tái xanh như chàm, chứng tỏ đã tắt thở chết tốt rồi.

Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đều là người dấn bước giang hồ nhiều năm, nên vừa nghe qua tiếng gào khóc của hai gã đàn ông nọ, cũng như nhìn qua cách ăn mặc của chúng thì đoán biết được lai lịch của bọn chúng là ai rồi. Do đó, khi thấy người đàn ông ngồi trên mình con ngựa ô miệng mắng chửi hai hắn ta, thì đoán biết hậu quả sẽ vô cùng tai hại.

Nhưng Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vẫn không ngờ được, là mọi việc lại diễn biến quá nhanh chóng như thế, đồng thời, khi hai người đưa mắt nhìn kỹ vào khuôn mặt của gã đàn ông bất hạnh kia, thì đều không khỏi giật mình sửng sốt.

Thì ra, sắc diện của gã đàn ông ấy khi tắt hơi chết đi, trông có vẻ vô cùng đau đớn, mà cũng tựa hồ đã gặp phải một chuyện chi khủng khiếp phi thường.

Do đó, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không nhớ lại sắc mặt của Tần tiêu đầu sau khi đã chết. Họ thấy rất giống sắc mặt của gã đàn ông kia nên đều giật mình, không ngớt băn khoăn nghĩ ngợi.

Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không không ai bảo ai đều quay mặt nhìn về phía hai gã đàn ông mặc áo đại tang vừa bỏ đi, nhưng không còn thấy hình dáng của họ đâu nữa.

Lữ Đằng Không hạ giọng nói nhỏ rằng:

- Phu nhân, Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn đã sai hai đứa con yêu quý của lão ta đến đây, vậy e rằng chính lão ta cũng sẽ xuất hiện ngay bây giờ.

Tây Môn Nhất Nương khẽ gật đầu nói:

- Chúng ta vừa trải qua lộ trình chưa đầy hai trăm dặm, thế mà đã gặp biết bao nhiêu cao thủ hai phái chính tà, gồm có Thái Sơn Tam Tàn, Hắc Thần Quân, Phán Tiên Từ Lưu Bản, và cha con Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn. Như vậy, tôi tin rằng tất còn có kẻ theo dõi chúng mình, tất nhiên sẽ có nhiều trò vui mắt lắm! Lữ Đằng Không nghĩ một lúc rồi nói:

- Xem cử chỉ của bọn chúng, tựa hồ như bọn chúng biết đêm nay vợ chồng mình sẽ đến ngụ trong thị trấn này. Vậy chi bằng chúng ta nên đi vòng để tránh thị trấn đi, rồi tiếp tục lên đường bất kể đêm tối, hầu đánh lạc hướng chúng thì vẫn hay hơn.

Cá tính của Tây Môn Nhất Nương không lúc nào chịu thua đối phương, nhưng giờ đây vì bà đang bận tâm đến việc phục thù cho đứa con thơ yêu dấu, không muốn gây sự đánh nhau với người chung quanh, nên mới lên tiếng đáp:

- Ý kiến đó hay lắm! Thế là Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đi đến gần thị trấn, liền giật cương ngựa cho rẽ sang một con đường nhỏ, đi vòng để tránh thị trấn ấy.

Kế đó, bọn họ lại tiếp tục lên đường bất kể đêm khuya, và đã vượt qua một trăm dặm đường.

Đến bình minh ngày hôm sau, mặc dù Lữ Đằng không và Tây Môn Nhất Nương không cảm thấy mệt mỏi cho lắm, song hai con ngựa đã tỏ ra kiệt lực, không còn đủ sức tiếp tục đi nữa.

Trong đêm vừa qua, hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã đi vội tới Thẩm Dương Hồ và đến địa giới An Huy.

Lữ Đằng Không là người đã dấn bước giang hồ ba mươi năm, hơn nữa, vì làm nghề tiêu cục, nên khắp cả trời nam đất bắc, đâu đâu ông ta cũng có đặt chân đến. Do đó, ông ta biết chỉ cần tiếp tục đi về phía trước mấy dặm đường nữa là đến Kỳ Môn trấn rồi.

Kỳ Môn trấn tuy là một thị trấn tuy không to lắm, nhưng vì nơi ấy là một địa phương chuyên sản xuất trà đỏ, nổi tiếng khắp trong thiên hạ, nên những người lái buôn lúc nào cũng tới lui tấp nập.

Hai vợ chồng Lữ Đằng Không cũng bàn bạc với nhau định lấy ngày làm đêm, nên quyết định đến Kỳ Môn trấn để mướn phòng ngủ trọ.

Do đó, cả hai cùng giục ngựa nhắm ngay thị trấn phóng nhanh tới. Lúc vừa đến thị trấn, họ đã trông thấy có hai gã đàn ông ăn mặc theo lối tiểu nhị ở khách điếm, trong tay có xách lồng đèn. Cả hai chiếc lồng đèn dường như mới được thổi tắt. Chỉ cần nhìn qua dáng điệu mệt mỏi của hai gã đàn ông ấy thì ai cũng có thể đoán biết được là một đêm qua bọn họ đã thức trắng đêm để chờ đón một người nào đó.

Khi hai tên tiểu nhị vừa nhìn thấy Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương phi ngựa chạy tới thì liền nhanh nhẹn bước tới nghênh đón, lên tiếng hỏi:

- Nhị vị có phải là Lữ đại gia và Lữ phu nhân đó không? Lữ Đằng Không không khỏi giật mình nói:

- Đúng thế, tại sao ngươi biết được? Hai tên tiểu nhị vẫn giữ sắc tươi cười nói:

- Lữ đại gia là người diện mạo uy nghi khác thường, chỉ cần nhìn qua đã đoán biết được ngay. Chúng tôi phụng mệnh đứng đây chờ nhị vị đã suốt một đêm dài. Hiện giờ, tại khách điếm đã dọn sẵn hai gian phòng sạch sẽ, để mời Lữ đại gia đến đấy để yên nghỉ.

Lữ Đằng Không cảm thấy hết sức lạ lùng. Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương cũng có một cảm giác như vậy, nên gằn giọng hỏi:

- Ai đã bảo cho các ngươi biết là hai vợ chồng ta sẽ đến nơi này? Tên tiểu nhị ấy tươi cười đáp:

- Vị đại gia ấy có dặn con là tuyệt đối không thể nói cho ai biết tính danh và dung mạo của ông ta. Trong dịp đó, con có hỏi là nếu Lữ đại gia và Lữ phu nhân không bằng lòng đến tửu điếm ở thì sao, thì được vị đại gia ấy bảo: "Ngươi chớ nên e ngại điều đó, vì Lữ đại gia và Lữ phu nhân đều là bậc anh hùng cái thế, chả lẽ họ lại tỏ ra rụt rè hay khiếp sợ như một kẻ hèn nhát hay sao?" Vậy xin nhị vị hãy vui lòng theo con đến tửu điếm, vì chúng con đã chuẩn bị đâu vào đó cả rồi! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn nhau một lượt. Họ tự biết nếu đi theo hai tên tiểu nhị này về khách điếm, e rằng sẽ xảy ra nhiều điều rắc rối cho mình.

Nhưng qua lời nói rào trước đón sau của nhân vật không chịu để lộ tên họ ấy, nếu hai vợ chồng lão ta không tỏ ra có can đảm cùng đến đó thì chẳng hóa ra sau này nếu quần hùng biết được, thì sẽ chê cười cho hay sao? Họ nghĩ rằng, ở giữa một thị trấn náo nhiệt, hơn nữa, lại giữa thanh thiên bạch nhật như vầy chắc là không có chuyện chi to tát xảy ra. Do đó, cả hai bèn gật đầu nói:

- Được! Vậy các ngươi hãy dẫn đường cho chúng ta đi nào! Hai tên tiểu nhị nghe thế tỏ ra hết sức vui mừng. Chúng chia nhau mỗi tên dẫn một con ngựa cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi cùng rảo bước đi về phía trước.

Lúc ấy, trời vẫn chưa sáng tỏ, nên trên đường đi hãy còn vắng vẻ, ít người qua lại. Hai tên tiểu nhị dẫn Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đi qua một con đường lớn, rồi lại tẻ sang một khúc quanh, thì đã thấy một gian khách điếm đồ sộ trước mặt. Một tên tiểu nhị bèn lên tiếng nói:

- Đến kia rồi! Đấy chính là tửu điếm của chúng con! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vội vàng nhảy xuống khỏi lưng ngựa, đưa chân bước theo hai tên tiểu nhị đi thẳng vào bên trong. Ngay lúc ấy, lại có một số người khác bước ra nghênh đón họ, chứng tỏ những người trong gian khách điếm này đều được biết rõ lai lịch của họ từ trước.

Khi bước vào đến sảnh đường của gian khách điếm, họ lại tiếp tục vượt qua khu thiên tỉnh lộ thiên, thì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương được tên tiểu nhị đưa đến hai gian phòng rộng rãi ở hướng nam. Hắn đưa tay xô cửa phòng và nói:

- Xin nhị vị hãy bước vào, nếu có điều chi dạy bảo, xin nhị vị cứ gọi chúng con, vì từ tiền phòng cho đến tất cả chi phí lặt vặt, vị đại gia ấy cũng đã thanh toán cả rồi! Lữ Đằng Không hừ một tiếng, khoát tay nói:

- Chẳng có việc chi cả, vậy ngươi hãy lui đi, và nếu ta không gọi, chẳng được xông càn vào.

Vừa nói, hai vợ chồng Lữ Đằng Không cũng vừa bước thẳng vào phòng. Lữ Đằng Không khóa chặt cánh cửa phòng lại, đưa mắt nhìn quanh khắp bốn bên, thấy đây là một gian phòng bày trí rất thanh nhã, tại góc phía đông có để một chiếc giường to, ngay giữa phòng có để một bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn, trên mặt đá cẩm thạch, trông vô cùng xinh xắn.

Lữ Đằng Không sau khi quan sát qua, lại đi quanh gian phòng xem xét tỉ mỉ từng nơi một. Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương cũng phi thân lao thoắt ra ngoài cửa sổ, để nhìn xem chung quanh thực kỹ, song chẳng hề trông thấy có điều chi khác lạ cả. Hai vợ chồng Lữ Đằng Không đều không khỏi băn khoăn nghĩ ngợi, đoán chẳng ra nhân vật giấu tên ấy là ai, và y hành động như vậy là có dụng ý gì? Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không bèn cùng bước đến ghế ngồi yên xuống, và Lữ Đằng Không thò tay vào áo lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm ấy ra. Tây Môn Nhất Nương bèn thấm nước gỡ miếng giấy niêm phong, rồi lại quan sát bên trong rất tỉ mỉ. Kế đó, bà ta lại co tay khỏ nhẹ vào thân hộp, để xem chiếc hộp ấy có phải được đóng hai lớp không? Hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã xem xét kỹ lưỡng chiếc hộp bọc gấm đến nửa tiếng đồng hồ, nhưng hoàn toàn không nhận thấy có điều chi khác lạ, mà chỉ thấy nó y như bao nhiêu chiếc hộp thông thường khác mà thôi. Nhất là phía bên trong của chiếc hộp, Tây Môn Nhất Nương đã cố tìm xem có một dấu vết khả nghi nào chăng, nhưng vẫn tuyệt nhiên không thấy gì cả.

Nhưng nếu bảo chiếc hộp ấy không có điều chi khả nghi, cũng như không có điều bí ẩn nào, thì tại sao hai vợ chồng ông ta vừa lên đường, đã có bao nhiêu nhân vật giang hồ theo dõi? Hai vợ chồng Lữ Đằng Không nghĩ ngợi càng lâu thì càng hoang mang không hiểu ra sao cả. Cuối cùng, Lữ Đằng Không bèn cất kỹ chiếc hộp trở vào áo, và đang định lên tiếng gọi bọn tiểu nhị dọn cơm lên cho mình dùng, bất thần nghe tiếng gõ cửa, rồi có tiếng nói vọng vào rằng:

- Lữ đại gia, rượu thịt đã mang đến rồi đây! Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất giác lại đưa mắt nhìn nhau, và không khỏi có ý nghĩ là nhân vật bí mật nào đó, quả là một người vô cùng chu đáo. Lữ Đằng Không bèn lên tiếng đáp:

- Cứ tự tiện mang vào! Tức thì, cánh cửa phòng được xô rộng ra, và đã thấy viên quản lý cùng đi với hai tiểu nhị, khiêng một mâm thức ăn to bước vào. Đấy quả là một bữa cơm thịnh soạn. Bọn tiểu nhị dọn rượu thịt lên bàn, và bày ra ba cái chén cùng ba đôi đũa.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương không khỏi lấy làm lạ, nói:

- Còn có ai cùng dùng cơm nữa hay sao? Tên tiểu nhị kính cẩn đáp:

- Thưa vâng, còn có vị đại gia đã ra lệnh cho chúng con đón tiếp nhị vị ấy, và chỉ trong chốc lát đây, đại gia đó sẽ đến ngay.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, trong lòng không khỏi hết sức băn khoăn. Hơn nữa, họ lại sợ rượu thịt có bỏ thuốc độc, nên vẫn ngồi yên, không dám cầm đũa dùng trước.

Viên quản lý và hai tên tiểu nhị vừa lui ra chẳng bao lâu, thì hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã nghe từ bên ngoài có tiếng cười nói vọng đến rằng:

- Lữ Tổng tiêu đầu, Lữ phu nhân, vãn bối là Đoan Mộc Hồng xin bái kiến! Câu nói vừa dứt, cánh cửa phòng bỗng kêu lên kèn kẹt, và tự động mở toang ra, mặc dù lúc ấy trời không gió. Kế đó, lại trông thấy có một người đang cúi mình thi lễ, xá sâu tới đất.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, vì thấy hành động của con người bí mật ấy, tỏ ra kỳ quặc khó hiểu, nên trong lòng sẵn có ý thù địch. Do đó, cả hai không hề đáp lễ, mà chỉ cất giọng lạnh lùng nói:

- Bằng hữu chẳng cần phải quá thủ lễ! Khi người ấy ngửa mặt nhìn lên, thì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều sửng sốt...

Thì ra, người ấy tuổi thực trẻ, chỉ mới vừa mười sáu, mười bảy mà thôi, mình mặc một bộ y phục màu xanh theo lối nho sinh, có thêu nhiều nhành trúc xinh xắn. Trên khuôn mặt sáng rỡ như ngọc của người ấy, có đôi mày cao xếch thực dài, đôi mắt sáng ngời như sao, chiếc mũi dọc dừa xinh xắn, đôi môi đỏ hồng thực tươi, dáng điệu hào hoa phong nhã, trông thực vô cùng cao sang.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy đối phương lại chính là một thư sinh trẻ tuổi, thuộc hàng hiếm có trong đời, thì những ý nghĩ thù địch trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa. Do đó, Tây Môn Nhất Nương bèn dịu giọng nói:

- Tôn giá cho người đón chúng tôi đến đây, chẳng hay có việc làm quý hóa chi? Vậy, mong tôn giá vui lòng nói rõ ra cho? Người thư sinh trẻ tuổi, tự xưng là Đoan Mộc Hồng ấy, bỗng đỏ bừng sắc mặt, nói:

- Thưa, nhị vị tiền bối, có lẽ nhị vị không khỏi thầm khiển trách về chỗ hành động thiếu quang minh của tại hạ chăng? Đấy thật ra chỉ là một hành động bất đắc dĩ, vậy xin nhị vị tha thứ cho! Vừa nói, chàng thư sinh ấy vừa đi đến trước bàn, rồi thò tay nâng bầu rượu lên, rót đầy hai ly trước mặt Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.

Nhưng Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn ngồi yên, không bưng ly rượu lên uống. Bởi thế, người thư sinh trẻ tuổi ấy bèn mỉm cười, nói:

- Tại hạ tuy hành sự có chỗ quái dị khó hiểu, nhưng tuyệt đối không khi nào lại bỏ chất độc vào rượu để ám hại ai cả, vậy xin nhị vị hãy yên lòng.

Nói đoạn, người thư sinh trẻ tuổi ấy đỡ bầu rượu, rót cho mình một ly đầy, rồi ngửa cổ uống cạn ngay.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn ngồi yên như cũ, không bưng ly rượu lên uống.

Qua một lúc sau, Lữ Đằng Không bèn lên tiếng nói:

- Hà tất phải nói lôi thôi dài dòng, tôn giá có điều yêu cầu chi, xin cứ nói thẳng thắn ra là hơn.

Đoan Mộc Hồng để ly rượu trở xuống bàn, cất tiếng than dài một lượt, nói:

- Trong chuyến áp tải hàng này, nhị vị đích thân bước ra đảm trách, vậy có lẽ món hàng ấy là một vật vô cùng quan trọng chăng? Lữ Đằng Không cất giọng lạnh lùng, nói:

- Đúng thế! Đoan Mộc Hồng nói:

- Ngày hôm nay tại hạ đến đây, cũng chính vì món hàng nhị vị đang áp tải! Lữ Đằng Không đang định to tiếng gây sự với đối phương, nhưng Tây Môn Nhất Nương bỗng như có một ý nghĩ chi, bèn lên tiếng nói trước rằng:

- Nếu thế, chắc tôn giá được biết vật mà mình đang cần đến là vật chi chứ? Đoan Mộc Hồng đáp:

- Đây là lẽ tất nhiên. Nhưng nhị vị hiện giờ chưa được biết, tại hạ cũng không tiện nói ra. Xin nhị vị hãy tin, là tại hạ đến đây hoàn toàn có hảo ý, vậy nếu nhị vị bằng lòng trao món vật ấy cho tại hạ, thì nhị vị cứ tự nhiên mà đi lo công việc riêng của mình, chẳng ai cản trở chi cả! Tây Môn Nhất Nương vốn có ý đặt câu hỏi, để dọ dẫm xem trong chiếc hộp gỗ bọc gấm ấy là vật chi. Nhưng giờ đây nghe đối phương không bằng lòng nói rõ ra, trong lòng bà ta không khỏi tức giận, nói:

- Đối với chúng tôi, có lẽ không có điều chi khó khăn, nhưng chỉ e là ba người đồng hành với chúng tôi, lại không bằng lòng mà thôi! Đoan Mộc Hồng cất tiếng to cười ha hả, nói:

- Ba người bạn khó tánh ấy, có phải là hai thanh trường kiếm bên sườn của Lữ phu nhân, và thanh Tử Kim Đao trên lưng của Lữ tiêu đầu kia chăng? Riêng tại hạ đây cũng có sự chuẩn bị từ trước rồi.

Nói dứt lời, người thư sinh ấy bèn kéo vạt áo dài ra, lấy một vật chi có màu bạc sáng lóng lánh, để yên xuống mặt bàn.

Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn kỹ vật ấy, thì thấy đấy chính là một ngọn roi liên hoàn gồm chín khúc, màu bạc lóng lánh to cỡ đầu ngón tay, dài chừng sáu thước, bốn cạnh bén ngót như đao kiếm.

Lữ Đằng Không thấy Đoan Mộc Hồng lấy binh khí ra, bất giác cất tiếng cười ha hả, nói:

- Tiểu huynh đệ, có phải định dùng võ lực để cướp hàng chăng? Đoan Mộc Hồng nói:

- Nếu nhị vị không vui lòng tặng cho, thì tại hạ bất đắc dĩ phải ra tay cướp hàng đó! Từ tuổi tác cho đến giọng nói của Đoan Mộc Hồng, đều chứng tỏ cậu ta là một con cừu non, mới tập tành dấn bước giang hồ mà thôi. Trong khi đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, đều là cao thủ tên tuổi vang lừng trong cả võ lâm, vậy thử hỏi khi nào lại bằng lòng ra tay đánh nhau với một chàng thiếu niên miệng còn hôi sữa? Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, chẳng những không cảm thấy tức giận, mà trái lại còn tức cười nữa là khác, bèn lên tiếng nói:

- Tiểu huynh đệ, nếu thật sự muốn ra tay cướp hàng, thì tốt nhất nên gấp rút phi ngựa trở về, gọi cả các vị phụ huynh và sư trưởng cùng đến đây. Chúng tôi sẵn sàng ở yên tại nơi này chờ đợi, vậy tiểu huynh đệ nên đi ngay đi! Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng lại bừng đỏ, nói:

- Có phải Lữ Tổng tiêu đầu cho là tại hạ không đủ sức đánh nhau một trận chăng? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều phá lên cười to ha hả, và họ lấy tiếng cười ấy để thay thế cho câu trả lời của mình.

Nhưng nào ngờ tiếng cười chưa dứt, bỗng nghe từ bên ngoài gian sảnh đường của ngôi khách điếm, có tiếng gào khóc inh ỏi vọng vào.

Đoan Mộc Hồng nghe qua thì sắc mặt liền biến hẳn, nhanh nhẹn đứng phắt dậy siết chặt ngọn roi liên hoàn màu bạc vào tay. Đồng thời, cùng một lúc đó, cũng đã thấy trước cửa phòng có bóng người chập chờn, rồi lại thấy rõ hai gã đàn ông mặc áo đại tang bằng gai, tức hai gã con trai của Quỷ Thánh Thạnh Linh, mà người trong giới giang hồ gọi là Mang Sơn Song Quỷ, danh hiệu là Câu Hồn Sứ Thạnh Tài và Sách Mệnh Sứ Thạnh Phủ, đã đứng sừng sững tại đấy rồi.

Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng tràn đầy vẻ giận dữ, quát rằng:

- Hai người đến đây để làm gì? Thạnh Tài nghe hỏi thế, bèn cất giọng mếu máo nói:

- Hễ ai có mặt là được chia phần! Đoan Mộc Hồng giận dữ, nói:

- Việc này do ta xếp đặt và tiếp xúc trước tiên, vậy nếu các ngươi muốn chia phần, chả lẽ lại không kể đến chi thông lệ trong giới giang hồ hay sao? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe đôi bên đối đáp nhau, xem mình như một con dê non bị họ bắt sống rồi, nên không khỏi lỡ khóc lỡ cười.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều nghĩ rằng: "Tuy Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn, là người võ công cao tuyệt, có thể liệt vào hàng đệ nhất cao thủ trong võ lâm, nhưng chắc chắn không thể nào cao cường hơn được vợ chồng của ông ta. Hơn nữa, mặc dù Quỷ Thánh Thạnh Linh đã rèn luyện được mấy môn võ học quái dị của tà phái, và lại có mấy món ám khí rất lợi hại, song vợ chồng ông ta vẫn không hề khiếp sợ trước những thứ đó. " Riêng chàng thư sinh trẻ tuổi Đoan Mộc Hồng, thì vợ chồng Lữ Đằng Không tuy không hiểu rõ lai lịch ra sao, nhưng thấy rằng, dù cho đối phương có học võ công ngay từ trong bụng mẹ đi nữa, thì với tuổi mười lăm mười sáu ấy, tài nghệ chắc chắn vẫn không đáng họ để vào mắt.

Chính vì nghĩ như vậy, nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi tức cười thầm, nhanh nhẹn cùng đứng lên, lui xa độ một trượng, rồi mới cùng ngồi yên trở xuống ghế để xem đôi bên sắp sửa đánh nhau.

Lúc ấy, Sách Mệnh Sứ Thạnh Phủ cất giọng ngạo nghễ nói:

- Chính ngươi mới là kẻ không biết tôn trọng đạo nghĩa trong giới giang hồ, vì kẻ nào trông thấy được, tất nhiên kẻ ấy phải được chia phần, vậy ngươi có hiểu chưa? Đoan Mộc Hồng nạt rằng:

- Chia cho ngươi cái...

Chàng thư sinh ấy chỉ nói được ba tiếng, sắc mặt bỗng bừng đỏ, rồi im lặng không nói chi thêm nữa.

Lữ Đằng Không là một tay giang hồ lão luyện, nên nhìn qua thái độ ấy của Đoan Mộc Hồng, thì không khỏi sửng sốt. Vì lão ta biết Đoan Mộc Hồng định nói "Chia cho ngươi cái con khỉ mốc!" nhưng hai tiếng "khỉ mốc" quá thô lỗ, nên chàng ta không thể nói ra được. Như vậy, chẳng lẽ đối phương lại là gái giả trai hay sao? Lúc ấy, Mang Sơn Song Quỷ đồng thanh cất giọng cười khanh khách, nói:

- Nếu ngươi không bằng lòng chia phần, cũng chẳng sao, vì anh em ta sẽ nuốt trọn vậy! Câu nói vừa dứt, thì cả hai lại cất tiếng gào khóc đinh tai.

Tiếng huyên náo trong gian phòng đã làm cho mọi người chung quanh đều giật mình.

Do đó, bọn tiểu nhị ùn ùn kéo đến trước cửa phòng, thì Thạnh Tài đã vung ngọn Chiêu Hồn Phướn quét thẳng về phía ấy một lượt, khiến ba bốn tên tiểu nhị đồng loạt ngã lăn quay ra đất, gào la thảm thiết, rồi chết tốt ngay tức khắc.

Bởi thế, số người còn lại đều kinh hoàng thất sắc, ùn ùn bỏ chạy tán loạn, nào còn dám đến xem nữa? Hai anh em Mang Sơn Song Quỷ lại cất tiếng khóc to, khiến cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng không khỏi cảm thấy tâm trạng vô cùng Chương hộp, bất an.

Thì ra, sự gào khóc của họ, chính là một môn võ công tà phái vô cùng lợi hại, tuy có khác với môn võ công Hô Thần Khiếp Quỷ, nhưng thật ra cả hai cùng có một công dụng như nhau. Hai anh em hắn ta vì chưa có sự trui rèn thực cao sâu, trái lại, nếu là Quỷ Thánh Thạnh Linh đích thân sử dụng môn võ công đó, chắc chắn càng đáng sợ hơn gấp bao nhiêu lần.

Đoan Mộc Hồng thấy thế, bèn khẽ cau đôi mày, nói:

- Nếu bọn các ngươi muốn dựa vào tài nghệ quỷ quái ấy, để mong thủ thắng ta thì chẳng phải là nằm mộng hay sao? Thạnh Tài vừa gào khóc nghe thực vô cùng rùng rợn, vừa múa máy chân tay nhảy lên như điên cuồng. Trong khi đó, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay hắn ta, cũng không ngớt quét ra vun vút! Ngọn Chiêu Hồn Phướn ấy dài độ bốn thước, rộng độ một thước, may bằng một thứ vải gai, và bên trên vẽ chằng chịt vô số hình ma quái, trông thực vô cùng khủng khiếp.

Thế nhưng khi ngọn Chiêu Hồn Phướn ấy được vung lên dù tuyệt nhiên không hề nghe có tiếng gió rít, song kình lực cuốn ra ào ào, đánh vỡ tan bàn ghế chung quanh, hất bay cả vào chân tường. Ngay đến y phục trên người của Đoan Mộc Hồng cũng bị hất tung và giũ rèn rẹt, như đứng trước một cơn bão phong đáng sợ! Gã Thạnh Tài, tuy thân hình khi xiêu sang tả, lúc ngã sang hữu, nhưng chẳng hề tràn tới tấn công thẳng vào Đoan Mộc Hồng. Qua một lúc lâu, hắn ta mới gào khóc to rằng:

- Hãy nạp mạng lại đây! Dứt lời, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay của hắn liền được vung cao lên, rồi bắt từ trên nhắm giáng thẳng vào đầu của Đoan Mộc Hồng. Đồng thời, gã Thạnh Phủ cũng cất giọng ngạo nghễ quát:

- Hạy nạp mạng lại đây thôi! Tức thì, chiếc gậy tang đang cầm trong tay của hắn ta, cũng được vung lên vun vút, gây nên một vùng bóng xám chập chờn, nhắm đâm thẳng vào Khí Hộ huyệt ở dưới nách của Đoan Mộc Hồng nhanh như chớp.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn qua thế công của Mang Sơn Song Quỷ, thì không khỏi thầm lo sợ cho Đoan Mộc Hồng.

Vì Đoan Mộc Hồng tuy vừa rồi đã ăn nói có vẻ xấc láo đối với vợ chồng ông ta, nhưng vì cả hai đều có một ý nghĩ thương tiếc cho người tài hoa, nên e rằng chàng thư sinh trẻ tuổi ấy, sẽ bị thua thiệt dưới thế võ quái dị từ ngọn Chiêu Hồn Phướn và chiếc gậy tang của Mang Sơn Song Quỷ đánh ra, nên cả hai không ai bảo ai, tự động siết chặt một món ám khí trong tay, chuẩn bị nếu gặp trường hợp Đoan Mộc Hồng gặp nguy, họ sẽ ra tay tương trợ ngay tức khắc.

Ngọn Chiêu Hồn Phướn và chiếc gậy tang công tới nhanh như điện chớp, nhưng Đoan Mộc Hồng lại cất tiếng cười ha hả, rồi vung mạnh một cánh tay lên, tức thì, ngọn roi liên hoàn chín khúc màu bạc trong tay của chàng ta, liền ngân thành một tiếng loảng xoảng, đồng thời lóe lên một vầng ánh sáng màu bạc chói ngời, hoa cả mắt người chung quanh.

Cùng một lúc đó, thân mình của Đoan Mộc Hồng lại nhanh như chớp, luồn dưới ngọn Chiêu Hồn Phướn của đối phương lách tránh ra xa, đồng thời lại vung mạnh cánh tay lên một lượt. Thế là, chẳng những Đoan Mộc Hồng có thể lách tránh khỏi được cả thế công từ chiếc gậy tang của đối phương đang công tới, mà trái lại, ngọn roi liên hoàn còn quét ngược trở ra sau, nhắm phản công thẳng vào cánh tay phải của gã Thạnh Tài.

Thế võ ấy của Đoan Mộc Hồng, chẳng những biến hóa hết sức thần tốc, mà riêng về thuật khinh công và thân pháp của chàng ta, lại tỏ ra nhanh nhẹn và ngoạn mục vô cùng, quả ít thấy trong võ lâm.

Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi kêu thầm lên rằng: "Phi Yến Môn." Khắp trong võ lâm, có những môn phái đã dựa vào thuật khinh công độc đáo của mình để mệnh danh cho môn phái, nhưng bất luận là thuật khinh công của ai, cũng không thể sánh kịp với thuật khinh công của Phi Yến Môn cả. Vì chẳng những các cao thủ trong Phi Yến Môn có thể sử dụng thuật khinh công đến mức cao tuyệt, mà dáng điệu của họ lại trông ngoạn mục vô cùng, đó là điều mà cả võ lâm đều công nhận.

Giờ đây, Đoan Mộc Hồng đang lâm vào một trường hợp vô cùng hiểm nguy, nên đã nhanh nhẹn sử dụng thuật khinh công phi thân luồn dưới ngọn Chiêu Hồn Phướn của đối phương lướt thẳng ra xa để tránh. Vậy, nếu chẳng phải là nhân vật trong Phi Yến Môn, thì thử hỏi ai lại có được thuật khinh công kỳ tuyệt đến thế? Chính vì lẽ ấy, nên sự hoài nghi của Lữ Đằng Không cho Đoan Mộc Hồng chính là gái giả trai khi nãy, giờ đây đã trở thành khẳng định.

Vì kể từ khi Phi Yến Môn sáng lập tông phái, cho đến ngày hôm nay, trải qua một trăm bảy mươi mấy năm dài, nhưng trong môn phái tuyệt nhiên chẳng khi nào thu nhận một môn đồ thuộc phái nam, trái lại, họ chỉ thu nhận toàn môn đồ phái nữ mà thôi.

Hơn nữa, ai muốn xin vào làm môn đồ của Phi Yến Môn, thì phải tuyên thệ rất nặng nề trước di tượng của các vị Chưởng môn đời trước, là đã vào môn phái này rồi thì vĩnh viễn không lấy chồng. Chính vì lẽ ấy, nên các cao thủ thuộc nữ phái trong võ lâm, có đến gần phân nửa là người xuất thân từ Phi Yến Môn.

Đoan Mộc Hồng đã là người biết sử dụng thuật khinh công của Phi Yến Môn, vậy chắc chắn là gái giả trai, chứ chẳng còn chi nghi ngờ nữa! Lúc bấy giờ, ngọn roi liên hoàn trong tay Đoan Mộc Hồng đang quay vun vút, ánh sáng màu bạc lóe lên chập chờn khắp nơi, khiến cho hai gã Thạnh Tài và Thạnh Phủ bị đẩy lùi ra sau mấy bước.

Trong khi đó, thế lao tới của Đoan Mộc Hồng đang trên đà mạnh mẽ, nên xem ra chắc chắn chàng ta sẽ lướt thẳng ra khỏi phòng. Nhưng trong thực tế, chàng ta mới lướt ra xa độ ba bốn thước, bỗng nhiên thân người đứng yên lại, rồi nhanh nhẹn quay trở ra sau, vung ngược ngọn roi liên hoàn, nhắm ngay chiếc gậy tang của đối phương quét tới.

Lúc ấy, chiếc gậy tang đang lướt tới sát người của Đoan Mộc Hồng, và đấy chính là thế gậy thứ hai của gã Thạnh Phủ vừa công tới, sau khi thế gậy thứ nhất đã đánh hụt vào khoảng không.

Khi ngọn roi liên hoàn màu bạc trong tay của Đoan Mộc Hồng vừa quét tới, liền nghe một tiếng xoảng vang lên, và đã quấn chặt cứng lấy chiếc gậy tang của đối phương.

Qua tiếng ngân do hai làn sắt thép chạm gây nên, chứng tỏ chiếc gậy tang của gã Thạnh Phủ cũng được rèn bởi một thứ sắt thép tinh ròng, chứ không phải là một chiếc gậy bằng trúc hay bằng gỗ thông thường.

Khi hai món binh khí quấn cứng vào nhau, gã Thạnh Phủ bất thần phá lên gào khóc to hơn. Giữa tiếng khóc thê thảm rùng rợn ấy của hắn ta, lại có tiếng nói to rằng:

- Nạp mạng lại đây! Nạp mạng lại đây! Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng tỏ ra vô cùng chán ghét hai đối phương, nên cánh tay phải liền giật mạnh khiến cho gã Thạnh Phủ vì đang năm cứng chiếc gậy tang, liền bị kéo ngã chúi về trước một bước.

Sau khi ngọn roi liên hoàn và chiếc gậy tang quấn cứng vào nhau, hai đối phương đã cách nhau rất gần, do đó, lúc gã Thạnh Phủ ngã chúi tới, khuôn mặt tái nhợt không hề thấy một giọt máu tươi của hắn ta cơ hồ chạm thẳng vào khuôn mặt xinh đẹp của Đoan Mộc Hồng. Bởi thế Đoan Mộc Hồng lại cảm thấy hết sức ghê tởm, nên bất thần vung cánh tay trái lên một lượt, nhắm giáng thẳng vào lồng ngực đối phương một chưởng mạnh mẽ phi thường. Đồng thời cùng một một lúc với chưởng lực mãnh liệt cuốn tới, lại thấy có một luồng ánh thép màu đen lóe lên, tức thì, một món ám khí lợi hại cũng bay vèo về phía lồng ngực của đối phương.

Trong khi đó, gã Thạnh Tài đã lao thoắt đến sát bên lưng của Đoan Mộc Hồng. Thân pháp nhẹ nhàng không hề gây ra tiếng động. Đồng thời hắn ta cũng nhanh như chớp vung ngọn Chiêu Hồn Phướn lên, nhắm ngay đầu Đoan Mộc Hồng giáng thẳng xuống.

Khoảng cách giữa Đoan Mộc Hồng và gã Thạnh Phủ quá gần, nên món ám khí từ trong tay Đoan Mộc Hồng ném ra, lẽ tất nhiên là đã trúng thẳng vào người đối phương, không làm sao lách tránh được nữa.

Do đó, sau một tiếng phập, tức thì ai nấy đã trông thấy món ám khí ấy ghim giữa lồng ngực của gã Thạnh Phủ, và tiếp đó, lại nghe có một tiếng phình to, khiến gã Thạnh Phủ bị hất bắn ra sau nửa bước.

Thế nhưng chiếc gậy tang trong tay của Thạnh Phủ, vẫn còn được siết cứng, không chịu buông bỏ. Và chính vì thế, khi hắn ta bị hất lui ra sau nửa bước, thì đã kéo luôn cả Đoan Mộc Hồng theo. Do đó, ngọn Chiêu Hồn Phướn của gã Thạnh Tài vừa giáng xuống, lại đánh hụt vào khoảng không, mà chỉ có luồng âm phong cuốn tới, quét bay chiếc mão nho sinh đang dội trên đầu của Đoan Mộc Hồng mà thôi.

Thế là, ai nấy đều trông thấy một mớ tóc dài xinh đẹp như mây, xòa ra chấm tới vai Đoan Mộc Hồng. Quả đúng chàng là một người con gái.

Đoan Mộc Hồng trông thấy ngọn Yến Dĩ Tiêu của mình đã cắm phập vào lồng ngực của gã Thạnh Phủ, hơn nữa luồng chưởng lực của nàng cũng vừa đánh trúng thẳng vào lồng ngực của đối phương, vậy đáng lẽ đối phương đã bị trọng thương kiệt lực, vì luồng chưởng lực ấy đã làm cho mũi Yến Dĩ Tiêu gây thương tích nặng nề hơn. Nhưng đàng này gã Thạnh Phủ vẫn còn đủ sức để phản công trả lại, khiến nàng cảm thấy hết sức quái dị, không hiểu tại sao.

Tuy nhiên, Đoan Mộc Hồng đã đoán biết là mọi việc đang rất bất lợi cho mình, nên có ý định lách tránh ra xa để đối phó với mọi điều bất trắc. Song, đã chậm mất rồi...

Gã Thạnh Phủ liền cất tiếng gào khóc rằng:

- Ta trả lại ngọn tiêu thép này cho ngươi đây! Dứt lời, hắn phình lồng ngực trở ra, tức thì, qua một tiếng vèo, mũi Yến Dĩ Tiêu lập lòe ánh thép màu đen kia, liền từ lồng ngực của hắn ta bay thẳng trở ra như tên bắn, nhắm công vào lồng ngực của Đoan Mộc Hồng.

Qua sự diễn biến ấy, chẳng những Đoan Mộc Hồng không thể ngờ trước được, mà ngay đến Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng không thể nào tưởng tượng nổi.

Chừng ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mới nhớ lại là Quỷ Thánh Thạnh Linh có mấy môn võ công vô cùng quái dị, như Quỷ Khốc Thần Hiệu, thuật khinh công Quỷ Hành Không và một môn khác gọi là Quỷ Thân.

Thứ võ công gọi là Quỷ Thân ấy chính là một môn võ học rất khó rèn luyện được. Vì môn võ công ấy sử dụng một luồng chân khí âm nhuyễn cực độ, khống chế các bắp thịt trong toàn châu thân con người, làm cho cơ thể con người ấy trở thành mềm mại, phập phều, như bao bông gòn. Các binh khí thông thường, mặc dù có thể đâm vào cơ thể của người biết võ công ấy được, và thoạt nhìn cũng thấy như có thể đâm lủng vào sâu, nhưng kỳ thực thì đây chỉ vì cơ thể của họ quá mềm, nên nó hủng vào vậy thôi, chứ không hề gây thương tích gì được cho đối phương cả. Môn võ công ấy, chính là một môn võ công cao cường tuyệt đỉnh trong tà phái, nó cũng bắt nguồn từ một nguyên lý với Miên Công của Đạo giáo, và Bàn Nhược Nhuyễn Công của Phật môn. Chính vì thế, nên nó là một môn võ công hết sức khó trui luyện.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không thể tưởng tượng được là hai gã Mang Sơn Song Quỷ ấy sử dụng Quỷ Khốc Thần Hiệu một cách tầm thường như thế, mà lại có thể rèn luyện thành công môn Quỷ Thân.

Do đó, cả hai đành trố mắt nhìn chòng chọc vào mũi Yến Dĩ Tiêu đang bay vèo tới trước lồng ngực của Đoan Mộc Hồng, chứ không làm sao tiếp ứng cho kịp nữa Nhưng Đoan Mộc Hồng đã là nhân vật trong Phi Yến Môn, đâu phải là một tay tầm thường? Do đó, nàng vừa trông thấy tình trạng bất, lợi cho mình, liền buông ngọn roi liên hoàn trong tay rồi bất thần mọp sát thân người xuống, cơ hồ nằm ngang lên mặt đất, rồi phi thân vọt mình bay ra xa nhanh như gió cuốn.

Qua thế Lão Yến Mịch Thực ấy, chẳng những nàng đã sử dụng hết sức cao tuyệt, mà dáng điệu hết sức đẹp đẽ, quả chẳng khác chi một con chim én bay lướt trên mặt đất bằng.

Do đó, mũi Yến Dĩ Tiêu ấy đã bay vèo ngang đầu nàng, rồi lại nhắm ngay gã Thạnh Tài tiếp tục lướt tới.

Vì quá nguy cấp, nên Đoan Mộc Hồng phải buông bỏ ngọn roi liên hoàn của mình. Do đó, nàng cảm thấy vẫn còn ấm ức trong lòng, nên thân người vừa đáp yên lên mặt đất, đã nhanh nhẹn vung ngược một chưởng trở ra sau, nhắm giáng thẳng vào bắp chân của gã Thạnh Phủ. Hơn nữa, thế chưởng ấy nàng đã được giương thẳng năm ngón tay ra như năm cái móc thép, có dụng ý là sẽ bấu lấy bắp chân của đối phương.

Bởi thế, sau khi nàng chụp được bắp chân của gã Thạnh Phủ, vì lẽ đang còn trớn lướt tới, nên nàng đã kéo luôn đối phương theo, khiến hắn ta không còn đứng vững đôi chân được, té đánh phịch xuống mặt đất ngay.

Đoan Mộc Hồng sau khi đứng thẳng người lên, lại thuận tay chụp lấy chiếc ghế bằng gỗ tử đàn cạnh đấy, vung lên nhắm giáng thẳng xuống đầu của gã Thạnh Phủ đang té ngồi trên mặt đất.

Đoan Mộc Hồng mới vừa thoát khỏi cơn nguy hiểm, thế mà thế võ phản công của nàng lại tỏ ra hết sức gọn gàng lanh lợi, nhìn vào nhẹ nhàng như lưu thủy hành vân.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 04
Gọi Là Cảnh Cáo Lũ Gian
Tam Tàn Chiến Bại Đồi Hoang Hãi Hùng


Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn qua, thì đồng thanh buột miệng kêu lên rằng:
- Thế võ hay tuyệt! Ngay lúc ấy, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay của gã Thạnh Tài đã nhanh nhẹn đưa thẳng về phía trước, để đỡ mũi Yến Dĩ Tiêu. Thế là, sau một tiếng phập, món ám khí ấy đã đâm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn, nhưng rồi lại bị hất bật trở ra xa ngay tức khắc.

Cùng một lúc đó, chiếc ghế trong tay của Đoan Mộc Hồng cũng đang bắt từ trên cao lướt nhanh như chớp, nhắm giáng ngay đầu của gã Thạnh Phủ. Nhưng hắn ta chẳng phải là một nhân vật tầm thường, nên sau khi bị Đoan Mộc Hồng kéo té phịch xuống đất, liền nhanh nhẹn nhào lộn thân người nằm ngửa mặt nhìn lên, và vì thế, hắn đã trông thấy rõ chiếc ghế bằng gỗ tử đàn nặng nề đang nhắm giáng thẳng vào đầu mình. Do đó, hắn quát lên một tiếng to, rồi vung chiếc gậy tang trong tay lên, nhắm đập thẳng vào chiếc ghế ấy.

Thế là, qua một tiếng xoạc, chiếc gậy tang trong tay của Thạnh Phủ đã đánh vỡ làm đôi chiếc ghế đang giáng xuống, đồng thời, thế gậy của hắn ta vẫn còn đang ngon trớn, nên tiếp tục lướt tới, nhắm giáng thẳng vào đỉnh đầu của Đoan Mộc Hồng.

Ở trong trường hợp đó, Đoan Mộc Hồng phải chịu thiệt hơn. Vì nàng bị chiếc ghế che mất một vùng trước mắt, không còn trông thấy rõ đối phương đang vung chiếc gậy tang đánh tới, nên mãi đến lúc chiếc gậy tang sắp giáng đến mặt nàng, nàng mới hay được. Do đó, dù cho nàng có muốn lách tránh, cũng không còn kịp nữa...! Giữa cơn nguy cấp đó, Đoan Mộc Hồng bất đắc dĩ phải giương thẳng năm ngón tay ra như năm cái móc sắt, vận dụng chân lực nhắm chụp thẳng vào chiếc gậy tang của đối phương. Và xem chừng bàn tay của nàng cũng sắp chụp được vào bóng gậy chập chờn của Thạnh Phủ...

Nhưng ngay lúc ấy, Thạnh Phủ bỗng giật lùi chiếc gậy trong tay trở ra sau độ nửa thước. Chiếc gậy tang của hắn ta, tuy bên ngoài được quấn bằng một lớp vải trắng, nhưng kỳ thực, thì đó là một chiếc gậy thép tinh ròng, hơn nữa, trên thân gậy lại còn có vô số gai nhọn, có tẩm chất độc.

Chính vì vậy, khi hắn ta trông thấy Đoan Mộc Hồng vung tay chụp tới thì liền giật lùi chiếc gậy trở ra sau, thoạt nhìn như hắn ta sợ hãi tránh thế chụp của đối phương, nhưng thật ra là trong lòng hắn ta đang vô cùng vui thích, và làm thế để dẫn dụ Đoan Mộc Hồng chụp thẳng vào chiếc gậy của mình. Vì nếu đối phương chụp trúng vào những chiếc gai nhọn bằng thép trên thân gậy ấy, tất sẽ bị trầy da chảy máu ngay, và do đó, chất độc ngấm vào cơ thể, giết chết nạn nhân trong phút chốc.

Song Đoan Mộc Hồng là một con người lanh lợi sáng suốt, nên trông thấy mình vừa vung tay chụp tới, thì đối phương giật lùi chiếc gậy tang trở ra sau, thì liền đoán biết trên chiếc gậy ấy có điều chi đáng ngờ vực. Vì qua cử chỉ đó của đối phương rõ ràng muốn dẫn dụ nàng sa vào tròng.

Bởi thế, Đoan Mộc Hồng đã kịp thời thay đổi ý định, vận dụng thêm chân khí vào cánh tay, rồi nhanh nhẹn hạ thấp cánh tay xuống, đổi trảo thành chưởng, quét ngang một lượt, tạo thành một luồng kình phong mãnh liệt cuốn thẳng về phía đối phương. Do đó, sau một tiếng phình to, Thạnh Phủ đã bị trúng chưởng lực, thối lui ra sau một bước. Đoan Mộc Hồng liền thừa cơ điểm nhẹ đôi chân nhảy ra xa, rồi lại lấy mũi giày hất ngọn roi liên hoàn màu bạc của mình đang nằm trên đất lên, siết chặt vào tay như cũ.

Ba người đánh nhau trước sau chỉ bốn năm thế võ, nhưng vì đôi bên đều dùng các loại binh khí ngắn, nên bao nhiêu phần hiểm nguy nối tiếp diễn ra không ngừng, khiến người xem phải hoa cả mắt.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, đều không khỏi thán phục rằng: "Ôi! Quả đúng là tre tàn măng mọc, hậu sinh khả uý!" Nhìn qua trong võ lâm, Đoan Mộc Hồng và Mang Sơn Song Quỷ thật ra chỉ là hàng tiểu bối, tuổi chưa quá đôi mươi, thế mà võ công đã tiến tới một trình độ cao cường, có thể liệt vào hàng cao thủ bậc nhất trong giới giang hồ.

Lúc ấy, Đoan Mộc Hồng đã thu ngọn roi liên hoàn trở về, lắc đầu hất cho mái tóc dài xếp gọn cả ra phía sau. Vì vừa rồi chiếc mão nho sinh của nàng đã bị luồng âm phong từ ngọn Chiêu Hồn Phướn cuốn tới hút rơi, nên mái tóc huyền đã rũ xuống tới tận đôi vai, khiến nàng đã hoàn toàn bộc lộ là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, chẳng còn điểm nào giống tu mi nam tử nữa.

Sau khi hất gọn mái tóc, Đoan Mộc Hồng lại vung tay quét thẳng ngọn roi liên hoàn trở ra, khiến ánh sáng màu bạc lại lóe lên sáng ngời, trùm kín cả phía trước mặt, và nạt to rằng:

- Nếu các người muốn gây sự đánh nhau mãi, khi mọi việc ở đây xong xuôi, hãy coi chừng ta san bằng cái ổ yêu quái của các ngươi ở Bắc Mang Sơn thành bình địa đó! Mang Sơn Song Quỷ cất giọng ngạo nghễ cười ằng ặc. Tiếng cười của họ nghe chẳng khác nào tiếng gào khóc vừa rồi là mấy. Sau đó, cả hai lại đồng thanh nói:

- Chẳng biết khi mọi việc ở đây xong xuôi, thì quỷ cư của ta ở Bắc Mang Sơn thành bình địa, hay là Phi Yến Môn của ngươi ở Phi Yến Lãnh nhuộm đỏ máu tươi đó! Đôi mày liễu của Đoan Mộc Hồng liền nhướng lên cao nói:

- Cãi vã bằng lời nói với các ngươi không có ích lợi gì, vậy chúng ta hãy dùng binh khí để phân thắng bại được không? Thạnh Tài cất giọng ngạo nghễ, nói:

- Kẻ nào thắng thì được bảo vật, còn kẻ nào thua thì hãy mau rút lui! Đoan Mộc Hồng đáp:

- Tốt lắm! Tiếng nói vừa dứt, nàng đã phi thân bay vọt lên cao ba thước, trông thân hình nàng như đang đứng lơ lửng giữa khoảng không.

Thân pháp ấy chính là thế Nhũ Yến Ly Sào, một thế khó luyện tập nhất trong đường Phi Yến Thất Thức của Phi Yến Môn. Vì sau khi phi thân vọt thẳng mình lên cao, thì cả người Đoan Mộc Hồng lại đứng yên trên khoảng không trong giây lát, đồng thời, giữa giây phút chớp nhoáng đó nàng đã vung ngọn roi liên hoàn màu bạc quét ra vun vút, khiến ánh bạc lóe lên chói ngời nơi nơi. Nàng dùng thế Lao Yến Phân Phi, quét ra hai thế võ liên tiếp, nhắm công thẳng vào hai gã Thạnh Tài và Thạnh Phủ.

Bởi thế, hai đối phương liền cất giọng ngạo nghễ quát lên rằng:

- Tấn công thực phải lúc! Câu nói vừa dứt, cả hai liền nhanh nhẹn dang xa ngay tức khắc...

Nhưng cùng lúc đó, mọi người bất thần nghe có tiếng nổ ầm vang dội, đi đôi với một chuỗi cười dài đinh tay nhức óc, đang từ xa tiến đến gần. Và sau đó lại nghe có tiếng nói to rằng:

- Ai thắng thì được bảo vật, ai bại thì mau rút lui! Vậy bọn các ngươi hãy mau rút lui đi nào! Câu nói vừa dứt, thì trước cửa phòng đã thấy bóng người chập chờn, đồng thời, lại thấy kình phong cuốn tới ồ ạt, đi đôi với hai vầng ánh sáng màu xám xoay vun vút, gây thành tiếng nổ ầm ầm, bắt từ ngoài cuốn thẳng vào trong gian phòng, chẳng khác chi một cơn bão.

Gian phòng ấy tuy rộng rãi, nhưng chỉ trong nháy mắt sau là ai nấy đã thấy bốn bức tường chung quanh đều nứt rạn, cơ hồ như muốn sụp đổ tan tành.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn thấy đối phương tràn tới qua một uy thế mãnh liệt, táo bạo tới mức đó, thì liền không khỏi hãi kinh. Và sau đó, khi cả hai người định thần nhìn kỹ về phía trước, thì nghe ba tiếng bốp, bốp, bốp nối tiếp vang lên, rồi lại thấy rõ Đoan Mộc Hồng đã vung ngọn roi liên hoàn lên, giáng thẳng vào hai vầng bóng xám đang quay tít ấy ba thế võ. Và gã Thạnh Phủ cũng đang vung ngọn gậy tang lên công tới một gậy mãnh liệt! Sau khi nhân vật ấy dừng chân đứng yên, thì liền phát lên tiếng cười to ha hả. Tiếng cười của hắn ta rung chuyển cả gian phòng, khiến mái ngói tuôn đổ lào xào, lấp mất cả tiếng khóc gào ghê rợn của Mang Sơn Song Quỷ! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đến chừng đó mới trông thấy rõ nhân vật ấy chính là vị Chưởng môn phái Thái Cực, tức Phán Tiên Từ Lưu Bản. Và hai bóng xám chập chờn quay tít ấy, chính là hai gánh đá mà lão ta đã gánh trên vai! Mang Sơn Song Quỷ lúc ấy cũng đã thấy rõ được đối phương, nên đồng loạt thối lui ra sau mấy bước. Riêng Đoan Mộc Hồng cũng nhanh nhẹn xoay người lại, rồi nhảy tránh ra xa gần một trượng, nói:

- Từ bá bá, tại sao bá bá cũng tìm đến đây tham dự vào chuyện này? Phán Tiên Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, khiến mớ thịt phì nộn trên người ông ta không ngớt rung rinh, nói:

- A Hồng, sư phụ của ngươi cũng như gã lão quỷ ấy đều đi sai một nước cờ rồi. Vì chỉ phái mấy người đến như vầy, là mọi việc có thể thành tựu được hay sao? Đôi mắt đen láy của Đoan Mộc Hồng xoay qua một lượt, nói:

- Từ bá bá, xin bá bá hãy đẩy lui hai gã yêu tinh đáng ghét này đi đã, rồi tôi sẽ có lời giãi bày với bá bá sau! Thì ra, giữa Thái Cực Môn và Phi Yến Môn vốn có sự liên hệ với nhau rất sâu xa, nên Đoan Mộc Hồng vừa nhìn thấy Từ Lưu Bản là đã gọi là "bá bá" ngay.

Từ Lưu Bản đáp:

- Được! Dứt lời, ông ta bèn ngửa mặt nhìn lên, nạt to rằng:

- Hai tên quỷ con quỷ cháu các ngươi, còn nấn ná lại đây làm gì? Sao chưa chịu cút về ổ quỷ của các ngươi cho rồi! Thạnh Tài cất giọng lạnh lùng nói:

- Ông béo này là ai thế? Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, nói:

- Cụ cố béo của ngươi đây là người ở Song Trụ Phong tại Đông Thiên Mục, đi không đổi họ, ngồi không đổi tên, gọi là Từ Lưu Bản đây. Các ngươi hãy mau trở về nói với con quỷ già ấy, bảo là nếu muốn lũ quỷ con quỷ cháu của lão ta thật sự mặc áo tang sô để chịu tang cho lão ta, thì hãy tìm đến gặp ta được rồi. Sao các ngươi chưa chịu mau cút đi? Câu nói cuối cùng của ông ta đã sử dụng Thái Cực Chân Khí, nên tiếng nói đã vang rền như tiếng sấm nổ giữa khoảng không, làm cho tường nhà rung chuyển không ngớt.

Thạnh Phủ chờ Từ Lưu Bản nói dứt lời, thì mếu máo gào khóc to rằng:

- Ông mập kia, té ra lại chính là ông! Chả lẽ ông lại muốn gây thành mối thù oán với chúng tôi nữa hay sao? Từ Lưu Bản cười to, nói:

- Ai vì sợ bọn các ngươi có đông lũ quỷ con quỷ cháu, nên không dám gây sự với các ngươi, chứ còn ta thì chẳng hề sợ bao giờ! Thạnh Phủ đáp:

- Nếu ông không sợ chúng tôi, thì chúng tôi lại sợ ông hay sao? Từ Lưu Bản bước tới trước một bước, nạt rằng:

- Nếu các ngươi không chịu cút đi, đợi gánh đá trên vai của ta đè bẹp, thì các ngươi sẽ thật sự tìm đến ở chung với lũ quỷ bên dưới âm ty đó! Thạnh Tài bất thần vung ngọn phướn chiêu hồn lên, quất thẳng về phía trước không hề gây nên tiếng động. Từ Lưu Bản thấy thế, bèn quát rằng:

- Khá khen cho gã tiểu quỷ, chẳng biết chi là sống chết kia! Nói đoạn, lão ta bèn nghiêng vai quét gánh đá trên vai về phía trước, chạm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn nghe một tiếng ầm, khiến chiếc cán sắt của ngọn Chiêu Hồn Phướn bị xoay tít thành mấy vòng tròn to.

Thạnh Tài thét lên một tiếng dài, rồi nhảy lùi ra sau để tránh. Trong khi đó, Thạnh Phủ đã vung ngọn gậy tang lên, tràn thẳng về phía Từ Lưu Bản! Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, bèn quay lại Lữ Đằng Không nói nhỏ rằng:

- Tuy Mang Sơn Song Quỷ không thể đối địch nổi với gã béo họ Từ kia, nhưng gã họ Từ cũng không thể nhứt thời thủ thắng được, vậy chúng ta nên nhân cơ hội này rút đi là hơn.

Lữ Đằng Không cất tiếng tán đồng, rồi nhanh nhẹn vung chưởng đánh thẳng vào vách đá, và sau một tiếng nổ ầm to, tấm vách đá ấy liền bị luồng chưởng lực của lão ta đánh thủng một lổ.

Tức thì, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bèn nhanh nhẹn phi thân bay vọt qua lỗ thủng ấy, định lướt thẳng ra ngoài để bỏ đi...

Nhưng bỗng Đoan Mộc Hồng cất tiếng kêu to rằng:

- Xin nhị vị hãy chậm chân đã! Tây Môn Nhất Nương quay đầu ngó lại, trông thấy ngọn roi liên hoàn màu bạc trong tay của Đoan Mộc Hồng đã nhanh nhẹn quét tới nơi. Do đó, bà ta bèn cất tiếng cười nhạt, và không chờ cho Đoan Mộc Hồng tràn tới gần, đã vung một cánh tay lên, chớp nhoáng điểm vào Kiên Trinh huyệt của Đoan Mộc Hồng.

Bởi thế, huyệt đạo của Đoan Mộc Hồng liền bị khóa cứng, khiến nàng phải đứng trơ người, không nhúc nhích được nữa.

Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng lạnh lùng quát:

- Con bé kia! Ngươi nên an phận thủ thường là hơn. Lần này ta tha cho ngươi đó! Câu nói vừa dứt, bà ta bèn cùng Lữ Đằng Không lướt thẳng ra khỏi gian khách điếm, nhắm hướng ngoại ô lướt thẳng đi. Chẳng mấy chốc sau, hai ngươi đã lướt đi xa đến bốn năm dặm đường. Chừng ấy cả hai mới chậm bước đôi chân lại.

Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:

- Ông bảo có phải không? Chiếc hộp ấy tuy là chiếc hộp không, nhưng chắc chắn bên trong có điều gì bí mật. Nếu chẳng phải thế, thì Quỷ Thánh Thạnh Linh, Từ Lưu Bản và lão già dịch ở Phi Yến Lãnh ấy lại chú tâm đến thế? Lữ Đằng Không nói:

- Chúng ta hãy mau đến Tô Châu phủ, sẽ rõ mọi việc ngay! Hai người vừa nói chuyện, nhưng đôi chân vẫn tiếp tục lướt về phía trước, nên chỉ trong chớp mắt sau, là cả hai lại lướt qua một đoạn đường ba bốn dặm.

Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng giữa đỉnh đầu, hơn nữa hai người đang phi thân trên một con đường nhỏ, giữa đồi núi hoang vu rậm rạp, nên chẳng hề trông thấy có bóng người qua lại.

Trong khi cả hai đang tiếp tục lướt nhanh về phía trước, bỗng trông thấy có hai con tuấn mã đứng bên vệ đường, đang cúi gầm đầu ăn cỏ. Và Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, nói:

- Ủa! Đấy chẳng phải là hai con ngựa của chúng mình đó sao? Câu nói vừa dứt thì cả hai liền trông thấy từ trong đám cỏ hoang rậm rạp cạnh đấy, có ba gã đàn ông mặt áo đen, nhanh nhẹn nhảy thoát ra. Sau khi nhìn kỹ đối phương, hai vợ chồng Lữ Đằng Không thấy đấy chính là ba gã đàn ông gầy cao, mà họ đã gặp vào lúc hoàng hôn trên đường đi ngày hôm qua, tức Thái Sơn Tam Tàn! Ba gã đàn ông ấy liền đứng thành hàng chữ nhất, chặn ngang đường. Sau một tiếng quát to, bọn chúng bèn lên tiếng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, Lữ phu nhân, gia sư có ý định mời nhị vị cùng đến Vạn Hốt Cốc ở Thái Sơn một chuyến, nên mới phái ba anh em chúng tôi đến đây để nghênh đón. Vậy, giờ đây đã có sẵn hai con ngựa của nhị vị, xin nhị vị chớ nên chối từ, kẻo anh em chúng tôi lại không thể trở về bái mạng với gia sư! Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:

- Giữa ta và lệnh sư chẳng hề có giao thiệp với nhau, hơn nữa đôi bên chính tà có khác, vậy ông ấy muốn gặp vợ chồng ta để làm gì? Thái Sơn Tam Tàn nói:

- Việc đó, thật ra không phải là việc chúng tôi có thể hiểu được. Gia sư bảo chúng tôi đến nghênh đón nhị vị, đưa về Vạn Hốt Cốc mà thôi! Lữ Đằng Không gầm to rằng:

- Rõ là trò đùa! Bọn các ngươi xem vợ chồng ta là những nhân vật như thế nào, mà lại có thể nghe theo mệnh lệnh của kẻ khác? Mau tránh đường ra! Nếu Hắc Thần Quân muốn gặp ta, thì bảo lão ấy sau một tháng nữa, hãy đến thành Nam Xương là sẽ gặp được! Thái Sơn Tam Tàn nói:

- Gia sư chỉ dặn dò anh em chúng tô phải nghênh đón cho được nhị vị đến Vạn Hốt Cốc mà thôi.

Suốt mấy ngày hôm nay, trong lòng Lữ Đằng Không đang bực dọc, lúc nào cũng ấm ức, nhưng không có nơi để phát tiết được cơn tức giận. Giờ đây, ông ta nghe qua lời nói ấy, thì lửa giận liền cháy bừng bừng, vung tay lên tuốt lưỡi Tử Kim Đao xuống nghe một cái rẻng, đồng thời rùn thấp đôi chân, thủ bộ sẵn sàng ứng chiến. Chòm râu bạc dưới cằm của ông ta cũng không ngớt lay động, nên trông thần sắc uy nghi phi thường.

- Hãy xông vào đi nào! Thái Sơn Tam Tàn cũng vội vàng vung tay chụp vào sườn, mỗi tên tuốt lấy một món binh khí siết chặt vào tay. Những binh khí ấy có hình dáng giáo không ra giáo, đao không ra đao, tên gọi là Tam Tài Phiên, chỉ vì một món binh khí ấy, mà có đến ba công dụng.

Lữ Đằng Không trông thấy đối phương đã siết cứng binh khí vào tay, bèn quay đầu lại nói:

- Phu nhân, bà chẳng cần phải trợ lực với tôi, hãy để tôi thử bộ xương già này xem còn dùng được không, và xem có thể lo việc trả thù cho Lân nhi không? Câu nói vừa dứt, Lữ Đằng Không đã tràn tới nhanh như tên bắn, vung ngọn Tử Kim Đao lên, gây thành những vệt ánh thép màu tía lập lòe, trông chẳng khác chi một chiếc cầu vồng vắt ngang khoảng không. Đấy chính là thế Tam Thanh Nhất Can, và chỉ một thế đao mà đã nhắm chém thẳng vào ba người cùng một lúc.

Tức thì, sau ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng, thì đã thấy Thái Sơn Tam Tàn vung ba ngọn Tam Tài Phiên lên đỡ thẳng vào đường đao của Lữ Đằng Không vừa chém tới, khiến tiếng sắt thép va chạm ngân dài. Đồng thời, ba hắn ta cùng buột miệng thét lên một tiếng hãi kinh, rồi đồng loạt nhảy lui ra sau đến bảy tám thước, mới đứng vững đôi chân lại được.

Thái Sơn Tam Tàn chính là những tên môn đồ đắc ý nhất của Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc, tại vùng Thái Sơn. Võ công của ba gã ta cao cường không thua chi Mang Sơn Song Quỷ. Thế mà, chỉ một đường đao mãnh liệt, Lữ Đằng Không đã có thể hất bay cả ba người ra sau cùng một lúc! Lữ Đằng Không có vẻ vô cùng đắc ý, đưa tay vuốt râu và cất tiếng cười dài, nói:

- Thế nào, các ngươi còn muốn xông vào thử nữa thôi? Thái Sơn Tam Tàn cố gắng siết cứng lấy món binh khí của mình, mặc dù lúc ấy vì sức va chạm quá mãnh liệt, làm cho hổ khẩu tay của họ đã rách toạc, máu tươi tuôn dầm dề.

Vậy, thử hỏi cả ba nào còn dám xông vào đánh nhau nữa? Do đó bọn họ liền đưa mắt nhìn nhau một lượt, lên tiếng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu không nể tình cho, thì về sau hãy cẩn thận đề phòng! Lữ Đằng Không cất tiếng to cười ha hả, mắng rằng:

- Ta sẽ bầm nát ba tên súc sinh các ngươi thành ra một đống thịt vụn bây giờ! Vừa nói, lão ta vừa tràn nhanh tới trước, khiến Thái Sơn Tam Tàn đều kinh hãi, đồng loạt nhảy lui ra sau.

Lữ Đằng Không lại phá lên cười to ha hả, nói:

- Nhưng nếu ta giết chết ba tên súc sinh các ngươi thì trong võ lâm sẽ bảo ta sợ hãi trước Hắc Thần Quân, nên không dám cho các ngươi trở về báo tin. Vậy hãy mau cút đi cho ta! Sắc mặt của Thái Sơn Tam Tàn đang tràn đầy vẻ tức giận, nhưng nào dám gây sự đánh nhau nữa. Do đó, cả ba liền xoay lưng phi thân lướt đi vun vút, và khi đã lướt đi xa độ bảy tám trượng, lại quay đầu nói với rằng:

- Họ Lữ kia, mong rằng sau này chúng ta sẽ còn gặp nhau! Tây Môn Nhất Nương bèn phá lên cười dài, nói:

- Còn ta nữa đây! Dứt lời, ngón tay giữa của bà ta bèn búng ra, tức thì, ba tiếng rẻng, rẻng, rẻng nối nhau ngân dài, và ba ngọn phi tiêu thép bé nhỏ, theo đó bay vèo tới nhanh như điện xẹt.

Thái Sơn Tam Tàn chưa kịp nghĩ đến việc lách tránh, thì đã cảm thấy vành tai của mình bị đau buốt, vì ba ngọn phi tiêu bé nhỏ kia, đã bay vút đến cắt đứt một vành tay trái của bọn họ rồi! Lúc ấy, Tây Môn Nhất Nương đứng cách xa Thái Sơn Tam Tàn có đến bảy tám trượng, thế mà ba mũi phi tiêu thép của bà ta chẳng những bay vèo tới nhanh như điện chớp, mà còn chính xác phi thường. Như vậy, cũng đủ thấy thủ pháp sử dụng ám khí của bà ta đã tiến tới mức ai nghe nói cũng phải kinh hồn thất sắc.

Thái Sơn Tam Tàn cùng sờ vào vành tai phía trái, thấy máu đỏ nhuộm ướt cả bàn tay.

Do đó, cả ba chẳng còn dám nấn ná ở lại đây nữa, luống cuống bỏ chạy bay đi tuốt.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhờ thế lại tìm được hai con ngựa của mình, nên liền tra đao vào vỏ, phi thân lướt thẳng lên yên rồi giật mạnh cương ngựa phi nhanh tới trước.

Tuy hai vợ chồng Lữ Đằng Không đánh bại được Thái Sơn Tam Tàn, nhưng cũng tự biết từ nay, mình đã kết thành mối thù với Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc trong Thái Sơn. Song, cả hai đều ỷ lại võ công cao cường của mình, cũng như ỷ lại vào sự trợ lực của vô số cao thủ trong hai phe Nga My và Điểm Thương, nên mặc dù nghe lời đồn đãi Hắc Thần Quân vô cùng lợi hại, nhưng họ chẳng lấy đó làm điều lo ngại.

Ngày hôm ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã hối hả phi ngựa lướt đi đến chiều tối, và chẳng có việc chi rắc rối xảy ra.

Song, hai người vì không muốn gặp những điều rắc rối khác làm cản trở chuyến đi của mình, nên đêm ấy, họ không tìm đến ở trọ nơi khách điếm, mà trái lại tìm một nơi kín đáo giữa núi rừng hoang dã để yên nghỉ mà thôi.

Vào lúc nửa đêm, bỗng Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất thần nghe có tiếng ngựa hí dài, nên cả hai đều giật mình tỉnh giấc. Khi họ ngồi lên xem kỹ, thấy cách xa đấy độ bảy tám trượng đang có hai bóng người đang cố trì kéo hai con tuấn mã của mình.

Hai con ngựa ấy tuy không phải là giống ngựa tốt lắm, nhưng nó vẫn biết mến chủ, chẳng khi nào lại chịu nghe người xa lạ. Do đó, chúng đã cố trì kéo giằng co với đối phương, đồng thời lại giương cổ hí dài không ngớt.

Lữ Đằng Không trông thấy có kẻ lạ mặt cả gan dám đến trộn ngựa của mình, trong lòng hết sức tức giận, đang định đứng phắt dậy để bước tới trước, bất thần từ trong bóng đêm đã có một người lướt nhanh ra, bước đi nhẹ nhàng và tiến đến sát bên cạnh hai bóng người trộm ngựa ấy.

Liền đó, bóng đen nọ nhanh như chớp thò hai tay ra, nắm cứng lấy cổ của hai gã trộm ngựa xách bổng lên, quát to một tiếng, nói:

- Môn hạ của Quỷ Thánh mà lại hèn hạ đến thế này sao. Bọn các ngươi dám ra tay trộm cắp, quả là đáng tức cười! Quả là đáng tức cười! Dứt lời, bóng đen ấy bèn xách bổng hai gã trộm ngựa kia lên, bước thẳng về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương. Khi còn cách nhau độ bảy tám trượng nữa, thì bóng đen ấy lao thoắt đến nhẹ nhàng, trông chẳng khác nào lướt đi trên mặt nước.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều có kinh nghiệm giang hồ, nên vừa nhìn qua thế lướt tới của người ấy, thì đã biết ngay đối phương thuộc hàng cao thủ bậc nhất trong võ lâm. Do đó cả hai đều không dám chểnh mảng, vội vàng đứng phắt dậy, và người ấy cũng đã tiến đến trước mặt họ rồi.

Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương giương mắt nhìn kỹ, thì trông thấy bóng đen ấy là một người che mặt bằng một vuông lụa đen, nên không thể nhìn rõ được diện mục của đối phương như thế nào.

Nhưng riêng về hai gã đàn ông mà người ấy đang xách bổng trong tay, thì lại trông được rất rõ ràng. Đấy chính là hai gã đàn ông ăn mặc rất quái dị, một người thì ăn mặc giống như con Quỷ Bạch Vô Thường, và người khác, trông chẳng khác chi con Quỷ Hắc Vô Thường.

Thì ra, môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh rất đông, ngoại trừ hai đứa con trai của lão ta ăn mặc như kẻ có đại tang, lại còn có tám môn đồ yêu quý khác nữa. Trong tám môn đồ ấy, có hai tên ăn mặc như ngưu đầu mã diện, hai tên cải trang như loại tiểu yêu ở dưới địa phủ, hai tên khác lại ăn mặc như phán quan, và hai tên cuối cùng thì ăn mặc như con quỷ Vô Thường. Trong võ lâm người ta gọi chúng là Âm Thế Bát Quỷ.

Hai gã đàn ông này ăn mặc như quỷ Vô Thường nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa nhìn qua đã biết chúng chính là Bạch Vô Thường Thượng Bát và Hắc Vô Thường Thượng Hách. Võ công của hai hắn ta tương đương với Mang Sơn Song Quỷ, trong võ lâm cũng thuộc thành phần tương đối có tiếng tăm. Thế nhưng người che mặt nọ đã tóm lấy chúng một cách dễ dàng không thể tưởng. Như vậy, cũng đủ biết võ công của người ấy cao cường đến mức nào! Lữ Đằng Không to tiếng cười nói:

- Tại hạ xin đa tạ tôn giá, về chỗ đã bắt hai tên trộm ngựa này cho! Người che mặt cũng cất tiếng cười, đáp rằng:

- Hai gã này định gây thương tích cho đôi ngựa của các hạ, hầu sáng mai khi các hạ lên đường, thì hai con ngựa ấy sẽ bất thần té khụy, và thừa dịp đó bọn chúng tràn ra để xuống tay. Tuy các hạ chắc chắn không sợ chi tài nghệ yêu quỷ của lũ chúng, nhưng hành động hèn mạt ấy của chúng quả thực là đáng ghét. Các hạ cứ thử xem có phải không? Lữ Đằng Không nói:

- Lời của bằng hữu nói không sai tí nào cả. Bởi thế, cần phải trừng trị chúng để cảnh cáo mới được.

Người che mặt bèn buông lỏng hai bàn tay ra, đồng thời, lại nghe hai tiếng bốp, bốp nổi lên. Thế là Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều ngã chúi xuống đất, nằm sóng sượt.

Lữ Đằng Không khi thấy người che mặt vừa buông lỏng hai bàn tay ra, thì đã nhanh như chớp, ấn mạnh lòng chưởng vào Thiên Trụ huyệt trên gáy của họ. Do đó, chắc chắn Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều phải bị trọng thương, dù cho không chết, sau này cũng không mong chi xuất đầu lộ diện trong võ lâm để gây thêm tội ác, hành động ngang tàng nữa.

Tây Môn Nhất Nương cười, nói:

- Khoái lắm! Khoái lắm! Đối với lũ yêu quái này, cần phải trừng trị như vậy mới được! Người che mặt nói:

- Lữ phu nhân là người ghét cay ghét đắng phường gian ác, chứng tỏ lòng hào hiệp thực khó ai bì.

Người che mặt ấy xuất hiện một cách đột ngột, và đã sử dụng mấy thế võ kỳ tuyệt để đối phó với Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường, chứng tỏ võ công của ông ta cao cường tuyệt đỉnh. Nhưng vì ông ta dùng vải đen che kín khuôn mặt, đồng thời, y phục nếu so với những người khác, cũng không có chi khác biệt, nên vợ chồng Lữ Đằng Không chẳng làm sao nhận xét ra đối phương là ai cả. Hơn nữa, người ấy nói năng lại rất khách sáo, nên càng làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khó hiểu được đối phương là kẻ có ý định gì.

Lữ Đằng Không lên tiếng nói:

- Nếu không nhờ thủ pháp cao cường tuyệt đỉnh của tôn giá, thì cũng chẳng dễ chi trừng trị được hai con yêu này! Ông ta chẳng biết nói chi khác hơn là những lời khách sáo ấy. Lúc bấy giờ, Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường cũng đang lồm cồm bò dậy, nên người che mặt ấy đã quát rằng:

- Sao hai ngươi chưa chịu cúi lạy, xin lỗi Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân? Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường nghe thế, đều đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, không nói nên lời.

Vì bọn họ đều là số người có địa vị rất cao trong các môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh. Ngay trong võ lâm, bọn họ cũng là số người tương đối có danh vọng, thế mà ngày hôm nay lại bị thất bại ê chề, nên hoang mang chẳng hiểu tại vì đâu mà mình lại bị trọng thương đến mức ấy.

Tuy nhiên, họ đã tự biết đối phương chẳng phải là tay tầm thường, nên đứng sửng sờ trong giây lát, rồi liền nói ấp úng rằng:

- Anh em chúng tôi đã biết được Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân, chỉ riêng có các hạ, chẳng hiểu cao tính đại danh là gì? Người ấy cười nói:

- Bọn các ngươi tìm hiểu danh tánh của ta, thì có thể trở về sào huyệt, gọi Quỷ Thánh đến đây trả thù giúp cho được hay sao? Tên tuổi của ta không nổi bật lắm, nên chẳng làm thế nào bì kịp với Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân. Nhưng các ngươi chỉ cần trở về Bắc Mang Sơn thuật lại mọi việc đã gặp ngày hôm nay, có lẽ Quỷ Thánh còn nhớ ra được ta là ai.

Thôi, bọn các ngươi sao không chịu quỳ lạy, xin lỗi cho mau đi! Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường đang lâm vào khung cảnh bất khả kháng, nên vì sự sống còn, cả hai liền vâng lệnh xin lỗi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi quay lưng lủi đi mất.

Tây Môn Nhất Nương đứng bên cạnh, thấy người che mặt ấy không bằng lòng nói rõ danh tánh cho hai gã Hắc Bạch Vô Thường nghe, thì biết dù mình có hỏi đi nữa, chắc chắn cũng là vô dụng. Do đó, bà ta liền đi thẳng vào đề rằng:

- Giữa đêm khuya như thế này, tôn giá tìm đến đây chẳng rõ có việc làm quý hóa chi? Vậy, tôn giá cứ nói thẳng ra cho! Người ấy xoa đôi tay, dường như hết sức ái ngại và qua một lúc thực lâu mới đáp:

- Có phải nhị vị định đi đến Tô Châu phủ phải không? Lữ Đằng Không đáp:

- Đúng thế! Người che mặt ấy nói tiếp:

- Kim Tiên đại hiệp ở Tô Châu hiện trong nhà đang có biến cố to, vậy e rằng nhị vị tìm đến đó lại sẽ gây ra việc hiểu lầm không hay chăng? Giờ đây, tại hạ có một lời yêu cầu bất đắc dĩ, song chẳng rõ nhị vị có bằng lòng chấp nhận cho không? Lữ Đằng Không nghe qua câu nói của đối phương, tuy cảm thấy có lắm điều khó hiểu, nhưng vì thái độ của đối phương lúc nào cũng tỏ ra khách sáo, nên liền ôn tồn hỏi:

- Chẳng hay tôn giá có điều yêu cầu chi? Người ấy đáp:

- Trong chuyến đi này của các hạ, có lẽ chính là để áp tải một vật chi đó cho một khách hàng chăng? Chẳng hay các hạ có thể vui lòng cho tại hạ được xem qua vật đó không? Lữ Đằng Không trông thấy đối phương nói quanh nói quẫn, rồi cũng đề cập đến chiếc hộp gỗ kia, nên trong lòng không khỏi tức giận, cười nhạt đáp:

- Việc ấy không làm sao chấp nhận được! Người ấy bèn cất tiếng than dài, nói:

- Tôi cũng đoán biết trước, là Lữ Tổng tiêu đầu không khi nào chịu chấp nhận. Nhưng nếu tại hạ bằng lòng lấy một con người để đánh đổi vật ấy với Lữ Tổng tiêu đầu, thì chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có chịu không? Lữ Đằng Không không khỏi bắt tức cười thầm, nói:

- Tôn giá thật sự là ai thế? Tại sao lại cứ nói dài dòng và không đâu mãi thế? Nhưng Tây Môn Nhất Nương như chợt hiểu ra điều gì, bèn lên tiếng nói:

- Ông định dùng ai để đánh đổi chiếc hộp gỗ ấy với chúng tôi? Người ấy đáp:

- Người đó, chắc chắn nhị vị...

Câu nói mới đến đây, thì bỗng nghe từ phía xa có tiếng hú thật to, nhưng rất ngắn ngủi vang lên. Những tiếng hú ấy đã xé tan màn đêm, vọng đến nghe rõ mồn một! Người che mặt ấy bỗng nhảy lùi ra sau gần một trượng, nói:

- Những người đồng hành với tại hạ đang có chuyện cấp bách nên đã lên tiếng gọi, vậy tại hạ xin tạm cáo lui ngay bậy giờ! Tây Môn Nhất Nương vội vàng tràn ngay người tới trước quát rằng:

- Bằng hữu, nên nói cho hết lời rồi sẽ đi! Nhưng trong khi Tây Môn Nhất Nương còn đang lên tiếng nói, thì người ấy lại nhảy lui ra sau đến ba bốn trượng nữa. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, thì lại tiếp tục truy đuổi theo, Nhưng người ấy bỗng bất thần quét mạnh tới một chưởng, và Tây Môn Nhất Nương cũng đã kịp thời vung chưởng quét ra đỡ thẳng.

Thế là, qua một tiếng ầm to, hai luồng chưởng lực đã va chạm thẳng vào nhau. Tây Môn Nhất Nương cảm thấy đối phương có một nguồn nội lực vô cùng dồi dào, bà ta tuy có đủ sức đối địch, nhưng đối phương đã nương vào sự va chạm ấy, tiếp tục nhảy lui ra sau, rồi dùng một thân pháp nhanh chóng, cơ hồ chẳng phải là thân pháp của một con người nữa, nhanh nhẹn biến mất vào màn trời đêm.

Tây Môn Nhất Nương không khỏi sửng sốt, quay đầu lại nói:

- Tiếng hú vừa rồi nổi lên từ hướng nào, ông nghe rõ chăng? Lữ Đằng Không đáp:

- Dường như phía tây nam thì phải! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu thế, chúng ta hãy truy đuổi theo mau! Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:

- Hắn ta bỏ đi thì thôi, chúng ta còn đuổi theo hắn để làm gì? Câu nói của Lữ Đằng Không chưa dứt, thì Tây Môn Nhất Nương đã nhắm hướng tây nam lướt đi nhanh như một luồng gió hốt. Do đó, Lữ Đằng Không bất đắc dĩ cũng phải bám sát theo sau. Thân pháp của hai người cũng hết sức nhanh nhẹn, nên chỉ trong chớp mắt sau là đã lướt đến một đỉnh núi nhỏ rồi.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đứng trên đỉnh núi cao, nhìn trở xuống thì thấy khắp bốn bề, đâu đâu cũng tối đen như mực, nên chẳng biết cánh rừng chung quanh có loài cây chi.

Sau đó, hai người lại rảo mắt khắp bốn bên, cố quan sát địa hình thực kỹ, nhưng chỉ thấy giữa một cánh rừng rộng lớn đen ngòm, có một con đường hẹp duy nhất là có thể vượt qua được cánh rừng ấy mà thôi. Ngoài ra, chung quanh đấy không còn một con đường nào khác nữa.

Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay chỉ về phía con đường mòn nhỏ ấy, nói:

- Chúng ta hãy đi theo con đường mòn nhỏ ấy để truy đuổi theo kẻ địch mau! Lữ Đằng Không vẫn không hiểu mục đích của Tây Môn Nhất Nương muốn truy đuổi theo người che mặt ấy để làm gì, nên lên tiếng hỏi:

- Phu nhân, chúng ta đuổi theo hắn để làm chi chứ? Tây Môn Nhất Nương cất giọng bực tức nói:

- Chúng mình hãy truy đuổi theo hắn ta trước đã, và chờ khi đuổi kịp hắn tất sẽ rõ tại sao, chớ nên hỏi lôi thôi dài dòng nữa! Lữ Đằng Không nghe qua giọng nói ấy của vợ mình, thấy tựa hồ việc này như vô cùng quan trọng. Từ trước đến nay, lão ta biết bà vợ già của mình là người mưu trí phi thường, có lẽ còn cao vượt hơn lão ta nữa, nên chẳng dám hỏi thêm mà cùng nhanh nhẹn chạy trở xuống phía dưới chân núi ngay tức khắc.

Khi hai người lướt đến sát bìa rừng, và nhìn rõ những cây cối mọc um tùm trong cánh rừng ấy, thì không khỏi giật mình. Vì cả khu rừng to lớn ấy, đều mọc toàn cây gai góc chằng chịt. Những chiếc gai nhọn từ nhành cây nhô ra, dài có đến gần một tấc, trên mũi lại hết sức bén. Do đó, chớ nói chi là con người, mà dù là loài dã thú quen sống trong rừng, cũng không dễ gì vượt qua được cánh rừng đó.

Sau khi hai người tìm đến con đường mòn, thì thấy con đường ấy chỉ rộng độ một thước mộc, dù cho có lách mình để bước tới, thì e rằng y phục mặc trên người cũng sẽ bị gai góc móc rách toạc tất cả.

Tây Môn Nhất Nương tỏ ra do dự trong giây lát, nói:

- Nơi này chính là một địa điểm tốt để thử thách tài khinh công của người ta đây! Dứt lời, bà ta vận dụng chân khí trong người, phi thân bay vọt lên. Khu rừng đầy gai góc ấy, nhánh nhóc dính liền nhau chằng chịt, lá cây rậm đen như không hề có một khe trống, cơ hồ đến gió cũng không thể thổi lọt. Do đó, Tây Môn Nhất Nương vừa phi thân bay vọt lên đầu ngọn cây, liền sử dụng ngay thuật khinh công Thảo Thượng Phi, tiếp tục lướt tới nhanh như gió. Tuy dưới chân bà ta toàn là những gai góc bén nhọn, nhưng nhờ thân người của bà ta nhẹ như một con chim yến, nên chẳng hề gây được thương tích chi cho bà ta cả.

Lữ Đằng Không thấy vợ mình phi thân bay vọt lên cao, thì cũng vội vàng bám sát theo sau. Thế là, hai người một trước một sau, lướt đi nhanh như hai vì sao sa. Chỉ trong thoáng chốc đã lướt đi được hai ba mươi trượng rồi. Thế là, họ đã bắt đầu xâm nhập vào trung tâm khu rừng.

Nhưng giữa lúc hai người đang tiếp tục lướt tới, thì bất thần nghe có ba tiếng rít gió vèo vèo liên tiếp nổi lên, rồi lại trông thấy có ba đốm sao bạc, từ bên dưới cánh rừng bay vút lên theo hình tam giác, nhắm ngay lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương bắn tới.

Tây Môn Nhất Nương liền kêu to lên rằng:

- Này ông, hãy thận trọng đấy! Ba mũi ám khí nọ vốn đang nhắm tấn công ngay về phía Tây Môn Nhất Nương, thế mà bà ta lại lên tiếng gọi Lữ Đằng Không hãy thận trọng, nên mới nghe qua dường như hết sức vô lý. Song, kỳ thực thì tiếng kêu của bà ta vừa dứt, thì thân người bà ta đã lách ngang nhanh như chớp để tránh. Và trong giây phút ngắn ngủi đó, ba món ám khí màu bạc kia, đã lướt thẳng qua khỏi bà ta, rồi tiếp tục bay về phía trước nhanh như điện xẹt.

Lữ Đằng Không vốn đang bám sát theo sau Tây Môn Nhất Nương, nên khi Tây Môn Nhất Nương vừa lách mình tránh ngang, thì ba đốm sao bạc ấy đương nhiên nhắm ngay Lữ Đằng Không công tới.

Chính Tây Môn Nhất Nương đã thấy trước được điều đó, nên mới lên tiếng bảo Lữ Đằng Không phải cẩn thận đề phòng.

Lữ Đằng Không nhờ tiếng kêu ấy của Tây Môn Nhất Nương, nên đã sẵn sàng đối phó với mọi điều bất trắc. Bởi thế, khi thấy ba đốm sao bạc bay vèo tới nơi, thì lão ta đã chụp ngọn Tử Kim Đao tuốt ra khỏi vỏ nghe một tiếng rẻng, đồng thời nhanh như chớp, vung lên đỡ thẳng vào ba đốm sao bạc nọ. Tức thì, qua ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng đi đôi với ba đốm lửa đỏ lóe lên sáng ngời, ba món ám khí nọ đã bị hất bay cả ra xa.

Trong khi đó, đôi chân của Lữ Đằng Không vẫn tiếp tục lướt nhanh tới trước, chẳng hề chậm lại tí nào. Nhưng lão ta vừa quét rơi ba đốm sao bạc trước mặt, thì bất thần lại nghe dưới chân mình có một luồng gió lạ quét tới, nên vội vàng dừng chân đứng lại ngay tức khắc.

Chừng ấy, lão ta mới cảm thấy tại bắp chân bị đau buốt, và khi cúi đầu nhìn xuống, thì lại thấy có một cái móc thép sáng ngời như bạc, đang từ dưới cánh rừng thò lên, và chỉ còn cách xa ống chân của lão ta trong đường tơ kẽ tóc.

Bởi thế, nếu tài nghệ của Lữ Đằng Không chưa tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh, và do đó, không thể kịp thời dừng chân đứng yên lại, thì chắc chắn với thế lướt tới nhanh nhẹn của lão ta, tất chiếc móc thép sáng ngời kia, sẽ cắt đứt tiện đôi chân của lão ta rời khỏi thân người rồi.

Song, cũng may là lão ta đã phát giác kịp thời, nên dừng chân đứng yên lại ngay. Tuy nhiên, ngay bắp chân của lão ta, cũng bị mũi nhọn của chiếc móc thép ấy rạch đứt thành một đường dài, máu tuôn xối xả.

Lữ Đằng Không hết sức tức giận, liền vung ngọn Tử Kim Đao quét thẳng xuống phía dưới chân. Thế là, qua một tiếng xoạc, ngọn đao của lão ta cuốn thẳng về phía ấy nhanh như gió hốt, mãnh liệt như thủy triều dâng. Đồng thời, lão ta quát to rằng:

- Bằng hữu phương nào mà lại hành động mờ ám, thực không còn kể chi sỉ diện nữa.

Luồng đao phong của Lữ Đằng Không vừa cuốn qua, là một vùng nhánh nhóc cây rừng thực to đã bị quét đứt tiện, tuôn đổ lào xào. Đồng thời, móc thép sáng ngời ấy cũng thụt trở xuống mất hút.

Lữ Đằng Không vì dừng chân đứng lại đối phó với những trở lực ấy, nên Tây Môn Nhất Nương đã lẩn khuất giữa màn đêm không còn trông thấy đâu nữa.

Nhưng Lữ Đằng Không tạm thời không có đủ thời giờ để chú ý đến Tây Môn Nhất Nương, trái lại, lão ta nhanh nhẹn buông mình xuống phía dưới khu rừng, trong khi chân khí khắp người đều được vận dụng, nên chẳng những bảy mươi hai quan huyệt trong người lão ta được khóa cứng, mà cơ thể cũng trở thành hết sức cứng rắn, có thể lướt qua khỏi gai góc chung quanh một cách dễ dàng.

Do đó, số gai góc bén nhọn ấy, tuy đã làm rách toạc lớp y phục trên người lão ta, nhưng hoàn toàn không thể làm tổm thương mảy may đến da thịt của lão. Lữ Đằng Không sau khi đáp yên đôi chân tới mặt đất, bèn xông thẳng về phía trước, trong khi ngọn Tử Kim Đao trên tay cũng nhắm ngay nhành lá rậm rạp chung quanh quét vun vút, khi chém sang trái, lúc chặt sang phải, nên mặc dù cây rừng rậm rạp, mà lão ta vẫn có thể lướt tới trước nhanh nhẹn như con cá lội trong nước.

Khi lão ta tiến tới được chừng bốn năm trượng, bỗng thấy có một bóng người thấp thoáng ở phía trước, và cũng đang hành động như lão ta, để tiếp tục lướt tới.

Lữ Đằng Không bèn cất tiếng to cười ha hả, và cùng một lúc với tiếng cười, lão ta phi thân bay vọt lên khoảng cao, rồi bắt từ trên dùng thế Thiên Đăng Địa Liệt, vung ngọn Tử Kim Đao chém thẳng xuống nghe một tiếng vút, khiến ánh thép màu tía lóe lên chói rực như một chiếc cầu vồng ở giữa khoảng không.

Đường đao ấy là một thế tuyệt học của Lữ Đằng Không, có một uy lực vô cùng đáng sợ. Dù cho là một người bằng sắt đá đi nữa, cũng chắc chắn sẽ bị chém đứt lìa ra làm đôi! Trong cơn nguy cấp, bóng người ấy bèn nhanh nhẹn vung ngọn móc sắt đang cầm trong tay lên, để đỡ thẳng vào thế đao của Lữ Đằng Không...

Thế là, sau một tiếng xoảng, ngọn đao của Lữ Đằng Không đã chạm thẳng vào chiếc móc sắt của đối phương, khiến cái lưỡi bén của cái móc sắt, vốn đang quay về Lữ Đằng Không, đã bị áp lực của thế đao đè mạnh, nên bất thần đã quay ngược trở lại bóng người ấy.

Đồng thời, vì ngọn kình phong cuốn tới quá mạnh mẽ, nên lưỡi nhọn ấy bị hất bạt và cắm phập vào ngay đỉnh đầu của bóng đen nọ. Do đó, đối phương liền bị chết tốt dưới ngọn móc sắt trong tay của hắn ta.

Lữ Đằng Không chẳng ngờ đối phương lại quá tầm thường, không thể đỡ nổi một đường đao của mình như vậy. Do đó, lão ta không thể hối tiếc là mình đã sử dụng chân lực quá nhiều.

Nhưng Lữ Đằng Không nào biết trong cả võ lâm ngày nay, người am hiểu võ công tuy nhiều, nhưng số người có thể đỡ nổi đường đao ấy của lão ta, có lẽ chẳng vượt hơn ba mươi người.

Bởi thế, đối phương không phải là một cao thủ tuyệt đỉnh có võ công đứng hàng đầu trong giới giang hồ, thì bị chết thảm thiết như vậy là lẽ tất nhiên. Liền đó, Lữ Đằng Không nhanh nhẹn thò tay chụp xác chết, xách bổng lên xem kỹ lưỡng, thấy khuôn mặt của hắn ta đang nhuộm đỏ máu tươi, nên không làm sao nhận ra được đấy là ai nữa. Tuy nhiên, Lữ Đằng Không biết đấy cũng là một trong những nhân vật đang dòm ngó đến chiếc hộp gỗ mà mình đang lãnh áp tải.

Sau đó, Lữ Đằng Không bèn vung tay ném thẳng xác chết ấy ra, và bỗng lão ta trông thấy có một vật chi từ trong người xác chết đó rơi trở xuống mặt đất.

Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn hối hả tràn tới một bước, rồi lấy mũi đao hất mạnh vật ấy lên, chụp gọn vào lòng bàn tay xem kỹ qua, nên sắc mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc...

Thì ra đấy chính là một cái thẻ bạc, to độ bằng bàn tay, bên trên có khắc năm chữ: "Địa Hương Đường Chủ: Huỳnh". Và bề trái của tấm thẻ bạc ấy, lại có chạm một bó đuốc đang cháy đỏ rực.

Lữ Đằng Không xem qua tấm thẻ bạc ấy, lẽ tất nhiên đã hiểu đấy chính là tấm lệnh bài của mười hai Đường chủ trong phái Hoa Sơn. Như vậy, kẻ vừa bị lão ta chém chết ấy, chính là Địa Hương Đường chủ của phái này rồi.

Nếu thế, chả lẽ phái Hoa Sơn đã cho người theo dõi mình rồi chăng? Lữ Đằng Không vung tay ném bổng chiếc thẻ bạc ấy lên không, rồi lại vung đao chặt thẳng vào nó, và sau một tiếng kẻng, tấm thẻ bạc ấy đã bị hất bắn đi tít mù.

Sau đó, Lữ Đằng Không bèn nhanh nhẹn phi thân bay bổng lên, tiếp tục lướt thẳng về phía trước mặt, và chẳng mấy chốc lão ta đã gặp một con suối đang chảy róc rách giữa cánh rừng rậm rạp.

Nhưng Lữ Đằng Không chẳng hề trông thấy bóng dáng của Tây Môn Nhất Nương đâu cả, và cũng không thể đoán biết được bà ta đã bỏ đi về hướng nào.

Trong lòng của Lữ Đằng Không không ngớt nghĩ ngợi, là Địa Hương Đường chủ của phái Hoa Sơn đã xuất hiện tại nơi này, chả lẽ người che mặt vừa rồi lại chính là Liệt Hỏa Tổ Sư, tức vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn đấy chăng? Nhưng khi lão ta nhớ lại hình dáng của bóng người ấy, lại thấy hoàn toàn không giống nhau với Liệt Hỏa Tổ Sư của phái Hoa Sơn. Vì vị Chưởng môn phái Hoa Sơn chính là người Tây Vực, tóc đỏ như lửa, thân hình vạm vỡ to lớn, mỗi khi ra đi, dấp dáng rất uy nghi, tuyệt đối chẳng khi nào lại đi đứng một mình như vậy.

Nếu thế, Tây Môn Nhất Nương đã truy đuổi theo một nhân vật hoàn toàn không hiểu lai lịch, và chính vì vậy, cũng chắc chắn sẽ là một kẻ thù khó đối phó nhất. Do đó, Lữ Đằng Không lo ngại cho người vợ già của mình sẽ bị thiệt thòi vì cô thế chăng? Giữa lúc lão ta đang định tiếp tục phi thân lướt thẳng về phía trước để tìm Tây Môn Nhất Nương, bỗng nghe về phía bên kia bờ suối, có một người buột miệng kêu kinh ngạc rằng:

- Ồ! Và Lữ Đằng Không đã nhận ra được, đấy rõ ràng là tiếng của Tây Môn Nhất Nương, nên hối hả gọi:

- Nhất Nương, bà ở đó phải không? Bên kia bờ suối liền thấy có một bóng người di động chập chờn, và chỉ trong thoáng chốc, là Tây Môn Nhất Nương đã xuất hiện. Bà ta lên tiếng nói:

- Ông hãy mau qua đây, xem cái chi đây này! Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình được bình an vô sự, nên cũng tạm yên lòng. Lão ta khẽ nhún đôi chân vượt qua dòng suối, rồi buông mình đáp nhẹ xuống bên cạnh Tây Môn Nhất Nương, đưa mắt nhìn về hướng tay chỉ của bà ta, trông thấy trên một nhành tùng cổ thụ cao vút ở cạnh đấy, có một thanh đao sáng lập lòe ánh thép cắm cứng trên ấy. Do đó, Lữ Đằng Không buột miệng kêu thất thanh rằng:

- Ồ! Đấy chính là thanh đao bằng thép Miến Điện của Lân nhi.

Tiếp đó, lão ta lại bất giác kêu to rằng:

- Lân nhi! Lân nhi! Con ở đâu? Con ở đâu? Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:

- Chắc chắn là chỉ có thanh đao ở đấy thôi, chớ nào có Lân nhi đâu đấy mà kêu? Lữ Đằng Không hết sức thất vọng, nói:

- Phải rồi! Lân nhi nào còn sống trên dương trần này nữa! Hai người ngó mặt nhau im lặng một lúc lâu, không ai nói chi thêm nữa. Đã suốt mấy ngày qua, đây là lần thứ nhất hai vợ chồng Lữ Đằng Không lại nhắc chuyện đau lòng nhất trong đời họ.

Sự im lặng kéo dài thêm một lúc khá lâu, thì Tây Môn Nhất Nương mới cất giọng buồn bã nói:

- Bắp chân của ông làm sao thế? Lữ Đằng Không biết sở dĩ vợ mình hỏi thế, chính là có ý muốn đánh trống lảng, để mình không còn nhớ đến việc Lân nhi nữa. Vì đấy chính là một việc đau lòng nhất trong đời họ, chắc không còn việc chi đau lòng hơn nữa. Và dù cho họ là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nhưng đứng trên tình cảm họ vẫn biết đau xót như tất cả những bậc làm cha mẹ đã bị mất con.

Do đó, có lẽ Tây Môn Nhất Nương tự biết, nếu cứ gợi lại chuyện đau đớn ấy mãi, chắc chắn cả hai không làm sao chịu đựng nổi trước sự giày vò về tinh thần, và chắc chắn sẽ đưa đến tình trạng vì quá đau buồn mà bị nội thương chăng.

Lữ Đằng Không hiểu thế, nên cũng vội vàng quay sang chuyện khác, nói:

- Vừa rồi, có một gã đàn ông mai phục bên dưới cánh rừng, và đã dùng một cái móc thép bén quét vào đôi chân tôi, chỉ bị thương nhẹ, chẳng hại chi cả.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu thế, thì có lẽ kẻ ném ám khí vừa rồi cũng là người ấy chứ gì? Nhưng món ám khí của hắn ta sử dụng, rất giống loại ám khí riêng biệt của phái Hoa Sơn, có tên gọi là Ngân Hoàng Phi Tiêu.

Lữ Đằng Không nói:

- Đúng thế! Gã đàn ông ấy chính là người trong phái Hoa Sơn, và đã bị chết dưới thanh Tử Kim Đao của tôi rồi. Hắn ta là Đường chủ Địa Hương của phái ấy.

Tây Môn Nhất Nương gật đầu nói:

- Nếu thế thì hắn là Huỳnh Hán, Đường chủ Địa Hương rồi. Hắn ta từ trước đến nay vẫn sử dụng binh khí có hình dáng như một cái móc thép. Xem ra, số nhân vật của phái Hoa Sơn cũng đang theo dõi chúng ta đấy!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 05
Ngao Cò Trì Kéo Giằng Co
Tiêu Đầu Rảnh Trí Lại Lo Đăng Trình


Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thật ra đều có ý muốn vượt lên ngọn cây cao, để lấy thanh đao bé nhỏ bằng thép Miến Điện ấy xuống.
Nhưng vì cả hai đều sợ thấy vật lại nhớ người, khiến họ đau đớn trước cái chết thảm khốc của Lân nhi hơn, nên không ai đủ can đảm làm việc đó. Chính vì vậy, cả hai chỉ bàn bạc với nhau về những chuyện không dính dấp chi đến Lân nhi cả.

Sau đó, bỗng Tây Môn Nhất Nương cất tiếng cười khanh khách, nói:

- Xem ra, số nhân vật đang bám sát để theo dõi hành tung của chúng ta, gồm có cả hai phái chính tà, vậy chi bằng chúng ta chẳng nên đem chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ nữa, mà trái lại, dừng yên tại nơi đây để chờ họ, rồi đặt điều kiện cho họ cùng so tài với nhau, ai thắng thì được, ai bại thì lui. Như vậy, sẽ có một cuộc tranh giành vui mắt vô cùng, và ngay đến Phi Yến Môn và Thái Cực Môn, là hai môn phái từ bấy lâu nay có mối tương quan với nhau rất sâu sắc, cũng sẽ phải ra tay tương tàn vì chiếc hộp gỗ này! Lữ Đằng Không im lặng một lúc khá lâu, mới lên tiếng nói:

- Phu nhân... Chúng ta... vượt lên ngọn cổ thụ kia, để lấy thanh đao thép Miến Điện ấy xuống, được không? Tây Môn Nhất Nương cố giữ giọng bình tĩnh, đáp:

- Ông hãy đi lấy đi! Tuy lúc bấy giờ, trong lòng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đang vô cùng xót xa buồn bã, nhưng giữa vợ chồng họ, đã chung sống suốt mấy mươi năm dài, tình cảm đậm đà khắng khít, nên người này sợ người kia đau lòng trước việc mất con, do đó, bề ngoài cả hai đều cố giữ trầm tĩnh, để đối phương không vì thế mà càng đau lòng hơn.

Lữ Đằng Không nghe thế, bèn phi thân vọt thẳng lên ngọn tòng cổ thụ, trông thấy ngọn đao thép Miến Điện được cắm cứng trên cây, tại mũi đao còn có mang cả một tấm giấy nhỏ nữa...

Bởi thế, Lữ Đằng Không hết sức kinh dị, vội vàng thò tay giật mạnh thanh đao ra, rồi lại nhanh nhẹn đưa hai ngón tay kẹp lấy mảnh giấy, nhảy trở xuống đất, nói:

- Phu nhân, trên đầu lưỡi đao lại có cả một tấm giấy nữa đây! Tây Môn Nhất Nương bước nhanh tới, đưa mắt nhìn, thì trông thấy trên tấm giấy ấy có mấy mươi cái vòng tròn bằng mực đen, chứ tuyệt nhiên không có một chữ nào cả.

Nhưng số vòng ấy, to nhỏ đều suýt soát nhau, ngay hàng thẳng lối, chứng tỏ trên tấm giấy này trước đây đã có viết hai hàng chữ, và sau đó lại bị kẻ khác dùng mực để xóa đi thành những cái vòng tròn đen như vậy.

Lữ Đằng Không lật ngược trở ra sau, thấy mảnh giấy ấy hoàn toàn trắng bạch, không có một chữ nào khác cả.

Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi sửng sờ, ngơ ngác.

Vì bao nhiêu chuyện quái dị khó hiểu xảy ra liên tiếp suốt mấy hôm nay, và tấm giấy lạ lùng này, đối với họ quả là một câu đố nan giải.

Lữ Đằng Không lật qua lật lại lưỡi đao thép Miến Điện, xem xét kỹ một lúc sau, rồi đứng trơ người ra như một pho tượng đá. Và trước mắt lão ta từ từ hiện rõ hình ảnh lanh lợi khả ái của Lữ Lân, đang cùng tập dượt võ công với lão ta tại luyện võ sảnh. Do đó, đôi khóe mắt của lão ta bất giác đã ngấn ra hai hạt lệ nóng, rồi chẳng mấy chốc sau, đôi dòng lệ già nua ấy lại tuôn trào ràn rụa lên đôi má nhăn nheo! Giữa lúc Lữ Đằng Không đang cảm thấy lòng đau như xé, thì bỗng nghe có giọng nói dịu dàng của người vợ già vọng đến bên tai rằng:

- Này ông, chúng ta nên mau lên đường thôi! Lữ Đằng Không gắng gượng ừ một tiếng, rồi ngửa mặt nhìn lên. Lão ta sau khi đưa tay chùi nước mắt, thì thấy Tây Môn Nhất Nương đang xếp kỹ tấm giấy bỏ gọn vào áo, nên cũng hối hả giắt thanh đao thép Miến Điện bé nhỏ của Lữ Lân vào lưng.

Tây Môn Nhất Nương nhìn qua Lữ Đằng Không một lượt, mỉm cười nói:

- Y phục của ông hiện giờ đã thành những mảnh vải rách cả, vậy hãy đến thị trấn trước mặt, để mua một bộ y phục mới.

Lữ Đằng Không cũng gượng cười, nói:

- Phu nhân, vừa rồi bà có đuổi theo kịp người ấy không? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Không đuổi kịp.

Lữ Đằng Không lại hỏi:

- Tại sao phu nhân quyết tâm truy đuổi theo hắn ta? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Chả lẽ vừa rồi ông không nghe lời nói của hắn ta sao? Hắn ta bảo rõ ràng, là sẽ dùng một người để đánh đổi chiếc hộp gỗ bằng gấm của ta đang áp tải kia? Lữ Đằng Không nói:

- Phải đấy, nhưng việc đó thì có quan hệ chi? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Hắn ta đã biết chắc chắn là chúng ta không làm sao bằng lòng đưa chiếc hộp gỗ ấy ra, nhưng lại nêu điều kiện là sẽ đánh đổi bằng một người, thì đủ hiểu người ấy đối với chúng ta vô cùng quan trọng. Vì nếu chẳng thế, hắn ta đâu lại nêu ra điều kiện đó? Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:

- Những người trưởng thượng của ta hiện giờ đâu còn ai nữa, tất cả đều đã qua đời, còn con cháu thì...

Mới nói đến đây, lão ta bỗng im bặt, không làm sao nói được hết lời.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Phải đấy, chính vì lẽ ấy nên tôi mới truy đuổi theo để hỏi rõ lại hắn. Nhưng vì thân pháp của người ấy quá nhanh nhẹn, đến mức không ai có thể tưởng tượng nổi, nên không làm sao đuổi theo kịp hắn ta. Và khi mới vừa đến nơi này, bỗng tôi lại phát giác được thanh đao bé nhỏ bằng thép Miến Điện ấy.

Lời nói của Tây Môn Nhất Nương tuy quanh co kín đáo, nhưng Lữ Đằng Không cũng đã nhận ra được ngụ ý bà ta muốn nói gì. Do đó, Lữ Đằng Không đã hiểu được một người mà đối phương muốn mang ra đánh đổi chiếc hộp gỗ của họ, chắc chắn không ai khác hơn là Lữ Lân.

Tuy nhiên, lão ta cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, sợ người vợ già của mình lại đau lòng. Vì xác chết không đầu của Lữ Lân đã xuất hiện tại gian phòng đá bí mật của lão ta ở thành Nam Xương, vậy người ấy làm sao lại dùng Lữ Lân để đánh đổi chiếc hộp gỗ mà lão ta đang áp tải đây được? Bởi thế, lão ta chỉ còn cách dùng lời dịu dàng để an ủi vợ rằng:

- Phu nhân, người ấy đã dòm ngó đến chiếc hộp gỗ của chúng ta, thì tôi tin chắc rằng trên đường từ đây đi đến Tô Châu phủ, hắn ta sẽ lại tìm gặp chúng ta một lần thứ hai.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Đúng thế, người ấy khinh công cao cường tuyệt đỉnh, hiếm thấy trong đời. Thuật khinh công của hắn ta, ngay đến thuật khinh công Quỷ Hành Không của Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng không làm sao sánh kịp. Nhưng chẳng rõ vì lý do nào, hắn ta lại che kín cả khuôn mặt, nên không sao biết được hắn ta là ai? Lữ Đằng Không nói:

- Việc đó thực là quái dị, ngay đến tôi cũng không làm sao phán đoán được hắn ta là ai cả.

Hai người bàn bạc với nhau một lúc, thì bầu trời cũng đã bắt đầu bình minh. Do đó, cả hai không buồn trở lại để tìm hai con ngựa, mà tiếp tục nhắm hướng trước mặt phi thân lướt thẳng tới.

Suốt ngày hôm ấy, hai người chẳng hề gặp chuyện chi rắc rối xảy ra. Đêm đến, họ cùng vào khách điếm tại Quảng Đức trấn để ngủ trọ, và suốt đêm cũng chẳng có chuyện chi rắc rối. Đến sáng ngày hôm sau, họ lại tiếp tục lên đường. Vào hoàng hôn hôm ấy, họ đã đi tới biên cảnh Triết Giang. Thế là, chỉ còn một ngày đường nữa là họ sẽ đến Tô Châu phủ.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã bàn bạc kỹ với nhau, về kế hoạch trao chiếc hộp gỗ đến cho Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn tại Tô Châu phủ từ trước rồi.

Họ đã có ý định, là nếu có thể tìm hiểu được mọi bí mật về chiếc hộp gỗ ấy nơi Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn thì tốt, bằng không, họ cũng chẳng cần để tâm tới làm gì. Trái lại, họ sẽ cải trang giả dạng, không cho người chung quanh được biết chân diện mục của mình, rồi cả hai cùng âm thầm chia tay ra đi, một người đến núi Điểm Thương để mời vị Chưởng môn của phái này là Lăng Tiêu Yến, cùng với vị cầm đầu các cao thủ trong môn phái là Thần Thủ Kiếm Khách Khuất Lục Kỳ. Một người khác thì gấp rút trở về phái Nga My để mời các cao thủ tại gia của phái này.

Sau đó, họ sẽ cùng đến tập họp dưới chân núi Võ Di trong vòng một tháng tới đây, rồi cùng kéo lên núi để mở một trận huyết chiến với Lục Chỉ Tiên Sinh và số người của Thiết Đạc Thượng Nhân.

Ngày hôm ấy, vì họ muốn sớm đến Tô Châu, nên đã chọn đường tắt trong núi rừng để đi cho được nhanh hơn. Vùng ấy chính là miền bắc Triết Giang, núi non chập trùng khắp nơi nơi. Khi vào giữa trưa, họ đã vượt qua ngọn Bách Trượng Phong, và đến hoàng hôn thì đã tới Đông Thiên Mục.

Như vậy, chỉ cần họ đến được Tây Thiên Mục, thì đường đi sẽ trở nên bằng phẳng, vì nơi ấy đã rất gần Thái Hồ. Khi đến Thái Hồ, họ chỉ còn có nửa ngày đường nữa là đến được Tô Châu phủ.

Khi hai người đến vùng Đông Thiên Mục, và đi tới mới được non một dặm đường, bỗng trông thấy bên cạnh một dòng suối trong, có một gã đàn ông to béo đang nằm ngủ ngon lành. Gã đàn ông ấy nằm gối đầu lên một gánh đá nặng nề, nhưng xem có vẻ bình thản như nằm trên giường êm ấm.

Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy rõ đối phương chính là Phán Tiên Từ Lưu Bản, thì không khỏi giật mình. Cùng một lúc ấy, Từ Lưu Bản cũng đã đứng phắt dậy, cất tiếng cười ha hả, nói:

- Quả hai ông bà đã đi theo con đường này, đúng như mọi sự phán đoán của tôi.

Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng, nói:

- Tôi đi theo con đường này thì có sao không? Từ Lưu Bản cất tiếng cười vui vẻ, nói:

- Này Tây Môn Nhất Nương, song kiếm của bà khắp trong võ lâm ai ai cũng biết tiếng, do đó, Từ mỗ vốn không có ý muốn lãnh giáo làm gì. Nhưng nếu bà quyết lòng chỉ dạy, tất Từ mỗ phải cung nghênh vậy! Tây Môn Nhất Nương biết Từ Lưu Bản không phải là một nhân vật dễ trêu chọc, nên nhất thời cũng kiêng dè không dám gây sự với hắn ta, mà chỉ cười nhạt nói:

- Từ trước đến nay, Thái Cực Môn được ai nấy xem là một danh môn chính phái, thế chẳng ngờ Chưởng môn nhân ngày hôm nay lại làm những chuyện hèn hạ như thế này.

Từ Lưu Bản nói:

- Tôi có làm việc chi gọi là hèn hạ đâu? Có lẽ tôi ở đây đón đường nhị vị, thì chắc chắn sẽ có lợi cho nhị vị hơn. Vì nếu nhị vị tiếp tục đi về phía trước, thì gặp ông bạn ở Tây Thiên Mục ấy, còn sẽ rắc rối nhiều.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều biết đối phương bảo "ông bạn ở Tây Thiên Mục" ấy là ai rồi, nên trong lòng không khỏi hết sức băn khoăn, lo lắng.

Lữ Đằng Không nói:

- Ngay đến ông ấy cũng có ý muốn can dự vào chuyện riêng của chúng tôi nữa hay sao? Từ Lưu Bản gật đầu, định lên tiếng trả lời, thì bất thần nghe từ hướng tây có một giọng gào to rất quái dị vọng đến bên tai. Do đó, sắc mặt của Từ Lưu Bản không khỏi biến hẳn, nói:

- Hãy mau nhảy qua bên kia bờ suối.

Nói dứt lời, lão ta điểm nhẹ đôi chân, phi thân bay thẳng qua bờ suối bên kia.

Trong khi Từ Lưu Bản nhảy ngang qua dòng suối thì trong tay vẫn mang theo gánh đá nặng nề. Khi ông ta đáp yên đôi chân xuống đất, liền quay mặt nhìn lại, trông thấy Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn đứng yên một nơi không nhúc nhích, thì trên lớp da thịt béo trắng của ông ta toát ướt mồ hôi lạnh, nói:

- Tại sao nhị vị chưa chịu sang bên này? Lữ Đằng Không nghe tiếng gào quái dị ấy, cười không ra cười, khóc không ra khóc, khiến ai nghe cũng phải bắt nổi da gà, tựa hồ chẳng phải là tiếng của con người, mà dường như là tiếng của một loài nhạc khí chi tấu nên, quái dị không thể tả, trong lòng đã biết chuyện chi đang xảy ra rồi.

Do đó, Lữ Đằng Không bèn cất tiếng cười nhạt, nói:

- Sang bên kia bờ suối thì gặp cướp, ở bên này bờ suối thì gặp côn đồ, vậy thử hỏi chúng tôi sang bên ấy để làm gì? Từ Lưu Bản cuống quýt, nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, dầu sao với tôi nhị vị vẫn được nhiều điều dễ dàng hơn. Hơn nữa, tôi nào phải là trộm cướp đâu? Người bạn ấy một khi đến nơi, thì thử hỏi còn có lý do chi để biện bác với hắn ta được nữa? Giữa lúc đôi bên còn đang nói chuyện với nhau, thì tiếng gào quái dị ấy cứ mỗi lúc nghe lại càng quái dị hơn! Tây Môn Nhất Nương như có một ý nghĩ chi trong lòng, lên tiếng nói:

- Thôi, cũng được! Chúng ta hãy cùng nhảy sang bên kia bờ suối vậy.

Nói đoạn, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không liền cùng phi thân bay vọt sang bên kia bờ suối. Do đó, Từ Lưu Bản cảm thấy trong lòng như được nhẹ nhõm đi.

Sau khi Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vượt sang đến bờ suối phía đông, và quay mặt nhìn trở lại bờ suối phía tây, thì đã thấy có một người đang đứng sững. Người ấy có thân hình thực to, mình mặc một chiếc áo dài xanh, tà áo không ngớt tung bay theo chiều gió, có vẻ nhàn tản phong lưu vô cùng.

Nhưng trên vạt áo phía trái của người ấy, có thêu một chiếc đầu lâu bằng kim tuyến, không ngớt chiếu lập lòe ánh sáng mặt trời, nên ai nhìn vào, đều có cảm giác hắn ta là một nhân vật hung ác và gian manh.

Xem về tuổi tác, người ấy chỉ trên dưới bốn mươi, diện mạo đoan trang, duy có hai tia mắt là tràn đầy vẻ dâm tà, hung ác. Khi hắn ta đưa chân bước đến sát bờ suối, liền lấy bộ như định phi thân nhảy ngang qua.

Bởi thế, Phán Tiên Từ Lưu Bản bèn lên tiếng nói:

- Bằng hữu, chúng ta đã định rõ ranh giới, và đã giao kết là giữa Đông Thiên Mục và Tây Thiên Mục không hề xâm phạm lẫn nhau, vậy chả lẽ bằng hữu lại nuốt lời hứa ấy rồi hay sao? Người đàn ông đó cất tiếng cười hô hố, nói:

- Gã béo họ Từ kia, trong một trường hợp bất đắc dĩ người ta quên đi lời hứa một lần, chắc cũng chẳng có chi là quan trọng.

Từ Lưu Bản biến hẳn sắc mặt, xách bổng gánh đá nặng nề lên, nói:

- Trước đây, chúng ta đã vỗ tay để thề, là đôi bên không được vượt qua ranh giới của nhau để gây sự, nếu giờ đây bằng hữu nuốt lời hứa ấy, thì chả lẽ tôi lại sợ bằng hữu hay sao? Người đàn ông đó lại cất tiếng cười hô hố, nói:

- Phải rồi, tôi dù có vượt ranh giới, nhưng không gây sự là được, chả lẽ dòng suối này tôi không được phép bước sang hay sao? Từ Lưu Bản đưa mắt nhìn về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương một lượt, rồi bỗng nhảy lui ra sau độ một trượng, nói:

- Nhị vị này đã là khách quý của Đông Thiên Mục tôi, vậy nếu ông bạn có ý định gì về họ, thì xin mau nói thẳng ra là hơn.

Người ấy buột miệng úy lên một tiếng. Nhưng cùng một lúc đó, thân người hắn ta cũng đã bay vọt lên, rồi điểm nhẹ đôi chân lên mặt nước, tiếp tục lướt thẳng sang bên này bờ suối, nhẹ nhàng như một con chim én, khiến ai nấy đều không kịp trông thấy rõ đối phương hành động như thế nào. Sau khi bước đến nơi, người ấy bèn lên tiếng nói tiếp:

- Gã béo họ Từ kia, tại sao ông lại biết được ý muốn của tôi thế? Qua giọng nói của hắn ta, chứng tỏ hắn ta thật sự muốn xuống tay đối với Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy vậy đều cùng mỉm một nụ cười lạnh lùng, đưa chân tránh sang một bên.

Từ Lưu Bản trông thấy thế, sắc mặt có vẻ vô cùng căng thẳng. Ông ta chờ cho người ấy đứng yên đôi chân, bèn lên tiếng hừ một lượt, nói:

- Ông bạn thật sự muốn ra tay đánh nhau với họ hay sao? Người ấy quay về Từ Lưu Bản mỉm cười một lượt, rồi lại nhìn sang Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, cúi đầu thi lễ, nói:

- Từ bấy lâu nay, tại hạ nghe tên tuổi của Lữ tiêu đầu nổi vang như sấm, nhưng mãi đến ngày hôm nay mới được gặp mặt nhau, quả là quá muộn! Lữ Đằng Không biết hắn ta là một nhân vật tâm địa vô cùng sâu hiểm, không có việc chi mà lại không dám làm. Ngay đến Phán Tiên Từ Lưu Bản, là Chưởng môn của Thái Cực Môn, thế mà thấy đối phương xâm nhập vào vùng Đông Thiên Mục, tức một nơi hiểm yếu của Thái Cực Môn vẫn tỏ ra kiêng dè. Như vậy, dù cho vợ chồng của ông ta không phải sợ hãi chi trước hắn, nhưng nếu gây sự ra thì chắc chắn khó bề tiếp tục hành trình. Do đó, khi ông ta thấy đối phương đã có thái độ khách sáo với mình, vậy tại sao mình không tỏ ra khách sáo với đối phương. Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn đáp lễ, nói:

- Chả dám! Chả dám! Các hạ là người tên tuổi vang lừng, mới đúng là một bậc vô song trong thiên hạ! Sắc mặt người ấy khẽ biến đổi, hạ giọng nói:

- Chả lẽ Lữ Tổng tiêu đầu lại biết rõ tánh danh của tôi hay sao? Lữ Đằng Không nói:

- Tánh danh của các hạ, lẽ cố nhiên tại hạ hoàn toàn không được biết, nhưng trong võ lâm khi nhắc đến ba tiếng Kim Cô Lâu, thì có ai không biết? Người ấy cất tiếng cười hô hố, nói:

- Té ra là thế, nếu giữa chúng mình đã là người đồng thanh tương ứng, thì hôm nay tại hạ có một điều yêu cầu bất đắc dĩ, vậy chẳng hay các hạ có nỡ chối từ không? Lữ Đằng Không chưa kịp đáp lời, thì Tây Môn Nhất Nương đã gằn giọng nói:

- Kim Cô Lâu! Ông đã biết đấy là một điều yêu cầu bất đắc dĩ, tức một việc mà người ta không vui lòng lắm, vậy thử hỏi còn bắt buộc người ta phải trả lời làm gì? Kim Cô Lâu cất tiếng cười nhạt, nói:

- Chả lẽ ngay đến việc trình bày ý kiến của mình, Lữ phu nhân cũng không cho phép nữa hay sao? Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không nhất loạt thối lui ra sau hai bước, nói:

- Nếu thế, các hạ hãy nói ra nghe thử coi nào? Kim Cô Lâu nói:

- Nghe lời đồn đãi của mọi người, hiện nay Lữ Tổng tiêu đầu rời khỏi thành Nam Xương ra đi, chính là để áp tải một món vật vô cùng quan trọng đến Tô Châu. Và món vật ấy có tương quan rất lớn tới tại hạ, do đó, tại hạ muốn hỏi nơi nhị vị đôi điều, chẳng rõ nhị vị có vui lòng giải đáp hay không? Tây Môn Nhất Nương lúc nào cũng tỏ ra tế nhị hơn Lữ Đằng Không, nên vừa nghe qua lời nói ấy, đã thầm nghĩ: "Người này không tên không tuổi, mà nhân vật giang hồ chỉ dựa vào chiếc đầu lâu màu vàng thêu trên vạt áo phía trái của hắn ta, gọi hắn là Kim Cô Lâu mà thôi. Đại phàm những cao thủ trong võ lâm, ai nấy cũng đều được biết lai lịch và sư môn của họ cả. Chỉ riêng có gã Kim Cô Lâu này, thân thế thực hoàn toàn bí mật. Đấy là một chuyện lạ.

Năm năm về trước, trong võ lâm chẳng hề có ai được biết về người này, nhưng chỉ mới vào mùa thu trước đây ít lâu, hắn ta đã ra tay đánh trọng thương Hoắc Thị Thất Hổ, là những nhân vật tên tuổi lẫy lừng trong phe hắc đạo tại quan lộ Cam Lương. Và sau đó ba hôm, hắn ta lại đánh trọng thương Ngân Thương Trần Tổ Trạch ở Lan Châu nữa. Chính vì thế, Trần Tổ Trạch đã bị gãy cả hai giò, đành phải lui ra khỏi võ lâm không còn hoạt động được nữa.

Chỉ trong vòng có hai hôm, mà hắn ta đã đánh bại tám cao thủ trong hai phe chính tà, nên hắn ta càng trở thành là một nhân vật thần bí khó hiểu hơn.

Tiếp đó, hắn ta lại tiếp tục đi theo quan lộ Cam Lương, thẳng tiến về phía nam. Dọc đường hễ gặp nhân vật võ lâm nào, là hắn ra tay đối địch đánh nhau, và nhất nhất đều bị hắn ta đánh bại tất cả. Do đó, chỉ trong vòng nửa năm, là tên tuổi của hắn đã vang dội khắp nơi nơi.

Nhưng sau khi đến Tây Thiên Mục, thì chỉ còn nghe hắn đã gây sự tranh chấp với Thái Cực Môn mấy lần, rồi sau đó vắng bặt chẳng còn tin tức chi nữa.

Trong lòng của Tây Môn Nhất Nương vốn đang băn khoăn nghi ngờ về chiếc hộp gỗ mà hai vợ chồng bà ta lãnh áp tải, và mãi cho đến bây giờ, bà ta vẫn chẳng được biết trong chiếc hộp gỗ ấy đựng thứ chi.

Do đó, khi nghe nhân vật thần bí kia bảo món bảo vật ấy có liên quan với hắn, trong lòng bà ta không khỏi có ý nghĩ là có lẽ đối phương đã biết đây là vật chi rồi chăng? Hoặc giả đối phương đã biết lai lịch của gã đàn ông mang món hàng ấy đến và tự xưng là Tề Phúc nọ? Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương bèn cười tự nhiên, nói:

- Đáng lý các hạ hỏi, chúng tôi phải thành thật giãi bày. Nhưng vì việc này ngay đến chúng tôi cũng mù mờ, không biết mình đang lãnh áp tải vật ấy là vật chi cả! Kim Cô Lâu cũng cất tiếng cười, nói:

- Lữ phu nhân, việc ấy là một việc dễ dàng nhất trên đời này, vì chỉ cần mở nó ra xem, thì chẳng phải tự nhiên hiểu rõ hay sao? Sắc mặt Tây Môn Nhất Nương không khỏi biến sắc, nói:

- Lời nói ấy của các hạ không khỏi quá đáng hay sao? Vì chúng tôi đã hứa với người chủ là áp tải vật ấy đến Tô Châu, vậy đâu có lý nào dọc đường lại tự tiện mở ra xem như vậy? Kim Cô Lâu bỗng cất tiếng than dài một lượt, nói:

- Nếu nhị vị quá cố chấp như thế, tại hạ đành phải đắc tội rồi! Vừa nói, hắn ta vừa khẽ nhún đôi chân, khiến chiếc đầu lâu thêu trên áo cũng theo đó khẽ rung động. Vì vậy, diện mạo vốn rất đoan trang của hắn ta, đã vì chiếc đầu lâu màu vàng chớp lập lòe ấy, làm cho hóa thành một con người sâu hiểm và gian manh không tả xiết! Lữ Đằng Không cười lạnh lùng, nói:

- Trong chiếc hộp gỗ ấy, tôi không rõ có đựng một vật quý báu chi mà tất cả quần hùng trong võ lâm đều dòm ngó. Nhưng nếu các hạ giờ đây muốn ra tay chỉ giáo, thì xin các hạ cứ việc đánh trước đi nào? Nói đoạn, Lữ Đằng Không bèn đưa chân bước ngang, rồi rùn thấp thủ bộ theo thế tọa mã, đôi hàm râu bạc không ngớt bay phất phơ, đôi chân vững vàng như một quả núi, trông uy nghi đáng sợ.

Kim Cô Lâu buột miệng than rằng:

- Ai nấy đều đồn đãi Lữ Tổng tiêu đầu là một nhân vật số một trong nhóm đệ tử tại gia của phái Nga My, quả danh bất hư truyền.

Vừa nói, hắn ta vừa thong thả đưa chân bước tới trước. Nhưng hắn ta chỉ mới bước được hai bước, bất thần bên cạnh đấy lại có một luồng kình phong dấy động ào ào, vì gánh đá xanh của Từ Lưu Bản, đã được ông vung lên, chặn ngang trước mặt Kim Cô Lâu, không cho đối phương tiến bước. Do đó, mớ thịt nặng nề trên người của Từ Lưu Bản cũng không ngớt rung rinh. Ông ta quát to rằng:

- Bằng hữu, ông bạn thật sự muốn gây sự đánh nhau tại vùng đất Đông Thiên Mục này chăng? Tôi không cho phép ông bạn hành động như vậy! Kim Cô Lâu nói:

- Cũng được, nếu thế thì ta sẽ đánh đuổi ngươi trước! Câu nói vừa dứt, thì Kim Cô Lâu đã nhanh nhẹn vung tay ra, nhằm thẳng vào gánh đá của Từ Lưu Bản.

Từ Lưu Bản quát to lên một tiếng như sấm động tháng ba, trong khi đôi tay cũng đã nhanh nhẹn vung ra, đỡ mạnh gánh đá trở lên.

Trong thế đỡ ấy của Từ Lưu Bản, đã được ông ta vận dụng Thái Cực Chân Khí đến bảy phần mười sức mạnh trong người, có mục đích đối kháng lại với sức đè xuống của Kim Cô Lâu.

Nhưng bàn tay đang đè lên gánh đá ấy của Kim Cô Lâu vẫn không hề buông ra. Duy chỉ có điều là sắc mặt của hắn ta từ trắng trẻo đã trở thành đỏ hồng, và chỉ cần nhìn qua, cũng biết hắn ta đang vận dụng nội công để chống trả với Thái Cực Chân Khí của Từ Lưu Bản.

Bởi thế, mặt đá nơi hai người đang đứng, không ngớt chuyển nghe răng rắc, và chẳng mấy chốc sau, số đá vụn chung quanh bờ suối, đều bị họ giẫm nát thành bột! Lữ Đằng Không và Tây Nương Nhất Môn đều là những nhân vật rất có kinh nghiệm giang hồ, nên vừa nhìn qua là đã biết ngay hai đối phương tuy đứng cách nhau một cái gánh đá, nhưng đang bắt đầu đấu nội lực với nhau, và chắc chắn họ không thể nào phân thắng bại trong chốc lát được. Do đó, nếu hai người không bỏ chạy đi thì còn đợi chừng nào? Tây Môn Nhất Nương cất tiếng cười dài, nói:

- Xin nhị vị hãy ở lại đây thong thả so tài với nhau, còn chúng tôi không thể hầu được nữa.

Vừa nói, cả hai vừa sử dụng thân pháp bay vọt qua khỏi mặt suối rộng ngoài hai trượng, và chỉ trong nháy mắt, là đã lướt được sang đến bờ suối kia.

Khi hai người buông chân đáp yên xuống mặt đất, và đang định phi thân lướt thẳng tới trước, thì bỗng nghe Kim Cô Lâu cất tiếng gào to inh ỏi. Tiếng gào của hắn ta nghe chẳng phải là tiếng khóc, mà cũng chẳng giống tiếng cười, quái dị không thể tả. Đồng thời, lại nghe tiếp theo đó có một tiếng bốp vang lên...

Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều quay đầu nhìn lại, thì thấy gánh đá xanh của Từ Lưu Bản, vốn hai đầu đều có một tảng đá khổng lồ, to như một cái cối xay bột, đường kính rộng ngoài hai thước mộc, chính giữa dùng một cây sắt lớn để làm đòn gánh.

Thế mà, giờ đây chiếc đòn gánh sắt ấy đã cong, đồng thời, một tảng đá khổng lồ cũng bị vỡ ra làm năm bảy mảnh.

Tảng đá bị vỡ ấy, chính là tảng đá mà Kim Cô Lâu đã đè tay lên.

Liền đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bỗng lại trông thấy Kim Cô Lâu bất thần bay vọt thẳng lên khoảng không, trông chẳng khác nào một con chim én.

Qua sự diễn biến đột ngột đó, đã làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều kinh hoàng ngơ ngác. Vì một khi hai cao thủ đấu nội lực với nhau, nếu chưa thể phân thắng bại, thì rất khó bề dang ra xa nhau, và nếu kẻ nào thu nội lực trở về để lui trước, chắc chắn kẻ ấy sẽ bị thiệt hại nặng nề ngay.

Thế nhưng giờ đây Kim Cô Lâu chẳng hiểu đã dùng biện pháp chi, mà lại bất thần bỏ dở cuộc đấu nội lực, để phi thân bay vọt lên khoảng không một cách dễ dàng? Lúc ấy, sắc mặt của Từ Lưu Bản đang tràn đầy vẻ tức giận, quát to rằng:

- Chớ nên bỏ chạy! Kim Cô Lâu sau khi thoát ra khỏi sự giằng co với đối phương, liền nhắm phía bờ suối bên kia lướt thẳng tới, thân pháp hết sức nhanh nhẹn.

Nhưng Từ Lưu Bản đã kịp thời phi thân lướt theo, và thân pháp còn nhanh hơn cả gã Kim Cô Lâu nữa. Bởi thế, chỉ trong nháy mắt sau, ai nấy trông thấy dòng suối bắn nước lên tung tóe vì Từ Lưu Bản đã buông mình rơi xuống, đứng sững giữa con suối ấy. Đồng thời, hai tay ông ta vung mạnh gánh đá xanh lên, rồi nhằm ngay thân người của Kim Cô Lâu lúc ấy hãy còn bay lơ lửng trên không quét tới nghe một tiếng vút, đi đôi với một luồng kình lực như xô bạt được cả núi đồi.

Kim Cô Lâu cất giọng ngạo nghễ cười dài không ngớt, và giữa lúc thân hình hắn ta còn đang bay lơ lửng trên không, bất thần lại vận dụng chân lực, bay vọt thêm lên cao năm thước nữa.

Đáng lý thân hình của Kim Cô Lâu bay vọt được lên cao, thì gánh đá xanh khổng lồ của Từ Lưu Bản sẽ không làm sao đánh trúng hắn ta được. Nhưng vì thế võ ấy của Từ Lưu Bản, chính là thế Điên Đảo Càn Khôn, đồng thời lại được sử dụng toàn bộ Thái Cực Chân Khí thượng thặng trong người, dồn đầy vào gánh đá xanh ấy, nên mặc dù gánh đá xanh không thể đánh trúng được Kim Cô Lâu, song một luồng cuồng phong hết sức khủng khiếp, đã cuốn tới ầm ầm, trông thực vô cùng kinh sợ.

Bởi thế, thân người của Kim Cô Lâu đang bay lơ lửng giữa khoảng không, khó bề vận dụng chân lực để đối kháng, nên đã bị luồng cuồng phong đó đẩy lui thân người trở ra sau mấy bước.

Giữa lúc vô cùng nguy cấp, Kim Cô Lâu đã vung chưởng quét tới để đỡ thẳng vào luồng Thái Cực Chân Khí của Từ Lưu Bản, nhưng vẫn bị đẩy lui ba trượng, và rơi trở về bờ suối phía đông, không làm sao nhảy qua bên bờ phía tây được.

Mục đích của Từ Lưu Bản là muốn ngăn chặn không cho đối phương lướt khỏi bờ suối phía đông, và khi thấy hành động của mình đã đoạt được mục đích, nên cất tiếng cười to ha hả, khiến mớ thịt nặng nề trên người ông lại không ngớt rung rinh, nói:

- Bằng hữu, chớ mong chi nhảy khỏi con suối này được! Kim Cô Lâu cười, nói:

- Gã béo họ Từ kia! Ngươi hãy đứng yên giữa dòng suối ấy mà giữ, riêng ta không còn thời giờ để hầu nữa! Từ Lưu Bản nghe thế, không khỏi giật mình, nói:

- Ông bạn định đi đâu? Kim Cô Lâu cất giọng ngạo nghễ cười ha hả, đáp:

- Ở tại Song Trụ Phong, chẳng phải là nơi sẵn sàng chờ đón ta sát phạt hay sao? Song Trụ Phong chính là một địa điểm trọng yếu nhất của Thái Cực Môn, vì đệ tử ba đời của Từ Lưu Bản, gồm cả bảy tám mươi người đều tập trung ở tại Song Trụ Phong cả. Do đó, Kim Cô Lâu cho biết là sẽ xâm nhập vào Song Trụ Phong, tức là có ý bảo, hắn ta sẽ tới đấy tàn sát môn hạ của Từ Lưu Bản.

Hơn nữa, Từ Lưu Bản tự biết là trong Thái Cực Môn, chỉ có mình là đủ sức đánh cầm đồng với đối phương, còn thì tất cả môn hạ của ông ta, ngay như hai tên đệ tử kế nghiệp, võ công cao cường nhất, cũng không thể nào đối địch nổi với Kim Cô Lâu. Như vậy, nếu để hắn ta xâm nhập vào Song Trụ Phong ra tay sát phạt, thì chỉ e rằng Thái Cực Môn đành phải tan rã, không làm sao ngóc đầu lên được nữa.

Chíng vì vậy, nên trong lòng của Từ Lưu Bản hết sức cuống quýt. Tuy nhiên, ngoài mặt ông ta vẫn giữ vẽ điềm nhiên, cất giọng lạnh lùng cười khanh khách, nói:

- Nếu Song Trụ Phong là nơi để cho mọi người mặc tình ra vào, thì Thái Cực Môn đâu còn chỗ đứng trên võ lâm này nữa? Kim Cô Lâu nói:

- Nếu thế, thì gã béo họ Từ ngươi dám để mặc cho ta xâm nhập, không ngăn chặn hay chăng? Từ Lưu Bản đáp:

- Được rồi! Ông bạn cứ đi lên Song Trụ Phong, còn ta sẽ đến Tây Thiên Mục, hầu thăm viếng tôn giá một lần vậy.

Kim Cô Lâu nghe qua lời nói ấy, sắc mặt không khỏi biến hẳn, gằn giọng nói:

- Gã béo họ Từ kia! Lời nói ấy của ngươi là thực hay chơi? Từ Lưu Bản nghe thế, trong lòng không khỏi hết sức hoang mang, nghi ngờ. Vì đối với một nhân vật mà hành động cho đến lai lịch đều vô cùng thần bí như Kim Cô Lâu, thì ông ta lúc nào cũng muốn tìm hiểu những bí mật chung quanh hắn ta là kẻ đang ở sát nách mình.

Nhưng từ trước đến nay, Từ Lưu Bản vẫn không làm thế nào tìm hiểu được chi về hắn ta cả.

Kể từ lúc Kim Cô Lâu đến ở tại vùng núi này, thì hai bên đã gây sự đánh nhau mấy lần, nhưng đều bất phân thắng bại. Vì thế, nên đôi bên mới giảng hòa và lấy dòng suối nơi đây làm ranh giới, hứa hẹn sẽ bất tương xâm phạm, và suốt mấy mươi năm qua mọi việc đều được yên lành, mãi cho đến ngày hôm nay mới lại bắt đầu gây ra điều rắc rối.

Từ Lưu Bản thấy Kim Cô Lâu vừa nghe mình sẽ xâm nhập nơi cư trú của hắn ta, thì sắc mặt lộ vẻ kinh hoàng sợ hãi nên trong lòng hết sức lấy làm lạ. Do đó, ông ta cất tiếng cười nhạt, nói:

- Nếu ông bạn muốn xâm nhập Song Trụ Phong, lẽ cố nhiên tôi cũng phải đến tôn xá, gọi là bánh sáp đi bánh quy lại.

Kim Cô Lâu cất tiếng cười ngạo nghễ, rồi bất thần lao thoáng về phía Từ Lưu Bản. Thân pháp của hắn ta nhanh nhẹn đến mức không ai tưởng tượng nổi. Và khi hắn ta tràn đến sát bên cạnh bờ suối, liền vung chưởng lên nhắm quét thẳng vào giữa dòng suối, nơi có Từ Lưu Bản đang đứng.

Tức thì, nước suối bị luồng chưởng phong mãnh liệt quét bắn đi, gió mạnh cuốn tới ầm ầm, nhắm ngay thân người của Từ Lưu Bản công tới.

Kim Cô Lâu vừa đánh ra thế chưởng thứ nhất, rồi lại nhanh nhẹn bồi thêm một thế chưởng thứ hai, với mục đích khiến đối phương không trở tay kịp. Do đó, những bựng nước trắng xóa lại bắn lên nơi nơi, đồng thời, những viên đá tròn to bằng trứng ngỗng ở dưới lòng suối, cũng bị chưởng lực cuốn tung lên, bay vèo vèo, rồi bắn từ trên cao giáng ồ ạt trở xuống đầu Từ Lưu Bản! Từ lúc Kim Cô Lâu tràn người tới sát bên bờ suối, cho đến lúc hắn ta đánh dồn dập hai thế chưởng, làm cho bọt nước và đá vụn cuốn ồ ạt về phía Từ Lưu Bản, chẳng qua chỉ trong một khoảng thời gian nháy mắt mà thôi.

Nhưng Từ Lưu Bản tuyệt nhiên không hề để ý chi những mảnh đá vụn đang bắn về phía mình, dõng dạc đưa chân tràn về phía bờ suối, nơi Kim Cô Lâu đang đứng.

Lúc bấy giờ, khắp trong người của Từ Lưu Bản, đã được vận dụng Thái Cực Chân Khí che chở, nên những mảnh đá vụn chạm thẳng vào người ông ta, đều bị hất đi khắp bốn phía.

Riêng Kim Cô Lâu vốn muốn thừa cơ hội ấy, nhảy chồm qua bên kia bờ suối, nhưng đã bị Từ Lưu Bản kịp thời quát to, và vung gánh đá nặng nề quét tới chận mất lối tiến.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa xem đến đây, thì cũng đưa mắt nhìn nhau một lượt. Tây Môn Nhất Nương hạ giọng nói:

- Chúng ta hãy đi thôi! Lữ Đằng Không khẽ gật đầu, thế là cả hai âm thầm tiếp tục bước đi thẳng, giữa lúc Kim Cô Lâu và Từ Lưu Bản vẫn còn đánh giằng co với nhau.

Việc Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bỏ đi, cả Kim Cô Lâu và Từ Lưu Bản đều trông thấy rõ ràng, nhưng cả hai đều không làm cách nào truy đuổi theo họ được.

Vì Từ Lưu Bản nếu bỏ rơi Kim Cô Lâu lại đấy để lo truy đuổi theo vợ chồng Lữ Đằng Không, chắc chắn đối phương cũng sẽ truy đuổi theo, và do đó lại phải đánh nhau nữa. Đồng thời, Từ Lưu Bản cũng sợ đối phương có phục binh bên bờ suối phía tây. Riêng Kim Cô Lâu, thì lại càng không thể truy đuổi theo vợ chồng của Lữ Đằng Không được, vì hắn ta đang bị Từ Lưu Bản vung gánh đá nặng nề, chặn mất lối đi, không làm sao vượt khỏi được dòng suối.

Chính vì thế, nên cả hai liền giương tròn xoe đôi mắt, nhìn chòng chọc vào bóng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương càng chạy càng xa dần. Và chẳng mấy chốc sau thì cả hai đã lẩn khuất giữa núi rừng chập trùng.

Kim Cô Lâu không ngớt cất tiếng cười lạnh lùng, nói:

- Gã béo họ Từ kia, giữa ngươi với ta không làm sao cùng sống chung được nữa rồi! Từ Lưu Bản cũng biết, khi đã gây sự đánh nhau như vầy, tất nhiên là đôi bên đã trở thành cừu địch không đợi trời chung. Do đó, ông ta liền cất tiếng hú dài, khiến âm thanh bay lâng lâng ở giữa khoảng không, rồi truyền ra tận núi đồi xa tít. Khi tiếng hú vừa dứt, Từ Lưu Bản liền lên tiếng nói:

- Đúng thế, giữa đôi bên quả không làm sao cùng chung sống được nữa! Sắc mặt của Kim Cô Lâu trở thành âm u lạnh lùng, nói:

- Gã béo họ Từ kia, bộ ngươi tưởng ta đây thật sự sợ Thái Cực Môn của ngươi hay sao? Ta nói thật, nếu chẳng phải vì ta có lòng hiếu sinh, thì Thái Cực Môn của các ngươi đã diệt vong từ lâu rồi! Từ Lưu Bản cũng cất giọng lạnh lùng nói:

- Hiện giờ, nếu ông bạn muốn ra tay sát phạt, thì vẫn còn chưa muộn kia mà! Kim Cô Lâu cất tiếng to cười ha hả, đưa chân bước tới và đã bước thẳng xuống dòng suối.

Dòng suối ấy, sâu độ chừng hai thước mộc, nên đôi bên chỉ đứng ngập quá gối mà thôi.

Từ Lưu Bản trông thấy đối phương tràn tới, liền nhanh nhẹn vung gánh đá nặng nề lên, dùng thế Kiên Đảm Nhật Nguyệt đánh thẳng ra vun vút, gây thành hai đóa Như Ý Hoa màu xám, gió rít ào ào, nhắm ngay đôi vai phải và trái của Kim Cô Lâu giáng xuống! Kim Cô Lâu quát lên một tiếng to, trong khi cánh tay trái đã vung ra nhanh như chớp, giương thẳng năm ngón như những chiếc móc sắt, nhắm ngay gánh đá của Từ Lưu Bản chụp tới...

Gánh đá của Từ Lưu Bản vốn đang bắt từ trên cao sa xuống, nhanh chẳng thua chi gió hốt, sức mạnh như núi đồi sụp đổ, trong khi đó Kim Cô Lâu muốn dùng đơn chưởng bằng xương bằng thịt của mình để chụp lấy gánh đá quét tới mạnh có hàng ngàn cân ấy, quả là một chuyện không thể làm sao thực hiện được.

Từ Lưu Bản trông thấy đối phương thò tay chụp tới, liền vận dụng thêm Thái Cực Chân Khí, tràn nhanh đôi chân, xô thẳng gánh đá về phía trước, khiến cho dòng nước bị hất bay tung tóe, đi đôi với một luồng kình phong mãnh liệt, nhắm giáng thẳng vào người đối phương.

Nhưng bàn tay của Kim Cô Lâu bất thần hạ thấp xuống, trong khi năm ngón vẫn giương thẳng như năm chiếc móc, đổi hướng chụp về phía người Từ Lưu Bản.

Thế võ ấy, mới xem qua vô cùng thần kỳ, nhưng kỳ thực thì lại kém sáng suốt.

Vì mặc dù bàn tay của Kim Cô Lâu đã bỏ rơi không nhắm chụp thẳng vào gánh đá của Từ Lưu Bản nữa, mà trái lại diễn biến thế võ chụp thẳng vào lồng ngực của đối phương, song vẫn không làm sao tránh được hai gánh đá xanh sẽ giáng trúng mình, trước khi mình gây được thương tích cho kẻ địch. Như vậy, là mình đã thiệt hại to.

Từ Lưu Bản đang nghĩ thế, nên cất tiếng cười ha hả, đinh ninh rằng đối phương chắc chắn sẽ bị đánh bại...

Nhưng khi gánh đá của Từ Lưu Bản quét tới mặc dù đã đánh trúng vào đôi vai của gã Kim Cô Lâu nghe một tiếng phình to, song..

Với thế đánh ấy, chắc chắn có sức mạnh đến ngoài ngàn cân, nên dù gã Kim Cô Lâu không ngã ra chết tức khắc, ắt cũng sẽ bị trọng thương...! Nhưng nào ngờ đâu, gánh đá nặng nề từ trong tay của Từ Lưu Bản, sau khi đã giáng trúng thẳng vào vai của đối phương, ông ta mới kịp nhận ra, là trên người của đối phương, có một kình lực mềm dẻo, vừa mãnh liệt một cách quái dị, tự động đỡ thẳng ra, khiến gánh đá xanh bị hất bắn lên cao đến ngoài một tấc.

Trước đây, Từ Lưu Bản đã gây sự đánh nhau mấy lần với Kim Cô Lâu, nhưng đều giữ mức cầm đồng, không ai hơn ai kém. Do đó, trong lòng của gã Từ Lưu Bản mới có sự kiêng dè đối với gã Kim Cô Lâu này.

Nhưng đến ngày hôm nay, qua sức chịu đựng trước gánh đá xanh nặng nề của Kim Cô Lâu, ông ta mới biết được võ công của đối phương quả cao cường đến mức không thể tưởng tượng nổi.

Đứng trước thực trạng đó, Từ Lưu Bản đã biết nguy, nên vội vàng thu thế võ trở về.

Nhưng bàn tay phải của Kim Cô Lâu đã nhanh như chớp, quét đến trước lồng ngực của ông ta rồi.

Bởi thế, Từ Lưu Bản vội vàng thót mạnh lồng ngực vào, khiến lớp da thịt tại đấy tự nhiên biến đi ngay. Tức thì, qua một tiếng xoạt như tiếng xé lụa, vạt áo trước lồng ngực của Từ Lưu Bản, đã bị Kim Cô Lâu xé bứt đi một miếng to.

Chính vì thế, nên Từ Lưu Bản không còn dám tấn công ồ ạt nữa, trái lại đưa chân bước tránh sang ngang một bước, để thủ thế.

Cùng một lúc đó, bỗng nghe tiếng gào thét inh ỏi, rồi lại thấy từ hướng đông có mười bóng người đang phi thân lướt tới như bay. Trong tay số người đó, đều có cầm binh khí, kẻ đao kiếm, người giáo búa, ánh thép chiếu lập lòe.

Từ Lưu Bản trông thấy môn hạ của mình kéo đến nơi, thì tinh thần cũng trở thành phấn khởi hơn, quát to mấy lượt. Thế là, chỉ trong chớp mắt sau, số môn hạ của ông ta gồm tất cả mười lăm người, liền tràn tới vây chặt lấy Kim Cô Lâu vào giữa.

Đôi khóe miệng của Kim Cô Lâu hiện lên một nụ cười lạnh lùng, rảo mắt nhìn quanh khắp bốn bên, và bỗng bất thần nhảy lui ra sau, lướt đến sát bờ suối.

Nhưng mười sáu người đang vây chặt lấy hắn ta, cũng đã nhanh nhẹn di chuyển theo, rồi lại bao vây hắn ta vào giữa y như cũ.

Có điều là, mặc dù Kim Cô Lâu xê dịch thân mình nhanh nhẹn đến mức nào, hắn ta vẫn trông thấy hình bóng của Phán Tiên Từ Lưu Bản, đứng sừng sững trước mặt mình mãi, không làm sao lách tránh đi đâu cho khỏi.

Kim Cô Lâu thầm đếm đối thủ, thì thấy cả Từ Lưu Bản nữa, là gồm có mười sáu người, nên tự biết mình đang bị vây giữa Lưỡng Nghi Trận của Thái Cực Môn. Do đó, trong lòng cũng không khỏi thầm kinh hãi.

Lúc ấy, Từ Lưu Bản lên tiếng nói:

- Kim Cô Lâu! Hiện giờ ông bạn đang bị vây giữa Lưỡng Nghi Trận rồi, vậy nếu có thể phá vỡ được thế trận này, thì kể từ đây về sau, Thái Cực Môn chúng tôi sẽ dâng hai tay vùng đất Đông Thiên Mục này lên cho ông bạn, không cư trú ở đây nữa! Kim Cô Lâu chắp hai tay ra sau, ngửa mặt nhìn trời, im lặng không nói chi cả. Do đó, Từ Lưu Bản hết sức lấy làm hoang mang, không hiểu đối phương định giở trò gì. Song, ông ta vẫn tin tưởng Lưỡng Nghi Trận của mình vô cùng thần diệu, chắc chắn đối phương không làm thể nào thoát ra khỏi được, nên cũng vững lòng đứng yên chờ đợi mọi sự diễn biến sắp tới.

Do đó, đôi bên kéo dài tình trạng im lặng ấy một lúc khá lâu, Kim Cô Lâu mới bỗng thong thả cất tiếng nói:

- Gã béo họ Từ kia, hiện giờ hai vợ chồng họ Lữ ấy đã bỏ đi xa rồi, vậy chẳng rõ thật là các ngươi muốn đoạt lấy vật chi ở họ? Từ Lưu Bản thấy đối phương không chịu ra tay đánh nhau, nên hết sức ngờ vực, không biết đối phương đang mưu toan chuyện gì. Và khi nghe đối phương hỏi thế, ông ta bèn lên tiếng nói:

- Thế còn ông bạn? Ông bạn định cướp chi nơi họ? Kim Cô Lâu cất tiếng cười, nói:

- Món vật mà tôi muốn lấy nơi họ, thực đối với các ông không có dùng vào đâu được cả. Thế mà các ông lại tập trung số đông đến đây, để gây sự đánh nhau, thật quả là một điều lầm to! Từ Lưu Bản cất tiếng lạnh lùng, cười nói:

- Rõ là nói chơi thôi! Việc tôi lầm hay không lầm, thử hỏi có can dự chi đến ông chứ? Kim Cô Lâu bước tới, rồi bước lui mấy bước, nói:

- Nếu các ông không bằng lòng nói, tôi cũng không truy hỏi làm gì? Từ bấy lâu nay, Thái Cực Môn các ông vẫn ở yên tại vùng Đông Thiên Mục này, vậy thử hỏi tôi đâu lại uy hiếp để buộc các ông bỏ đi? Thôi, vậy chi bằng các ông hãy mở thế trận này ra, để chúng ta cùng đánh tay đôi với nhau được không? Từ Lưu Bản cất tiếng cười nhạt, nói:

- Phải đấy, chúng tôi mở thế trận ra, để cho ông bạn truy đuổi theo bọn họ phải không? Kim Cô Lâu tức giận nói:

- Gã béo họ Từ kia, các ngươi tưởng đâu ta không thể xông ra khỏi thế trận này chăng? Từ Lưu Bản nói:

- Đúng thế! Kim Cô Lâu phá lên cười to, trong khi thân người lại nhảy lùi ra sau, rồi cũng không buồn quay đầu ngó lại, vung tay chụp ngược về phía ấy nghe một tiếng vút! Nhưng Lưỡng Nghi Trận của Thái Cực Môn, chính là thế trận tối lợi hại của phái này, trận hình chuyển biến vô cùng kỳ ảo, không ai có thể ước lường trước được. Một khi kẻ cường địch bị vây vào giữa thế trận, hễ đứng yên thì thế trận cũng yên, hễ tràn tới tấn công thì thế trận cũng chuyển biến, đối phó kịp thời ngay.

Thân pháp của Kim Cô Lâu tuy hết sức nhanh nhẹn, nhưng hắn ta vừa xê dịch thân mình, trận pháp cũng chuyển biến ngay tức khắc. Do đó, hắn ta vừa mới vung tay chụp về phía sau lưng, Từ Lưu Bản đã đứng sững tại nơi ấy rồi. Đồng thời bàn tay của hắn ta chưa kịp chụp tới nơi, gánh đá xanh nặng nề đã quét tới, cuốn theo một luồng kình lực mạnh mẽ vô song.

Cùng một lúc ấy, lại thấy bóng người chung quanh di động chập chờn, rồi ba thanh kiếm lập lòe ánh thép, đồng loạt nhắm đâm thẳng vào cổ họng hắn ta.

Kim Cô Lâu liền trân mình quyết chịu đựng gánh đá nặng nề của Từ Lưu Bản đánh tới, và điềm nhiên vung hai tay chụp thẳng về phía ba thanh trường kiếm đang công tới nơi.

Nhưng chỉ trong chớp mắt sau, ba thanh trường kiếm sáng ngời ấy, đột nhiên biến mất. Và Từ Lưu Bản lại đứng sừng sững trước mặt lão ta, trong khi gánh đá nặng nề lại quét tới vun vút.

Kim Cô Lâu đã sử dụng trên mười thế võ vô cùng lợi hại để tràn tới tấn công như vậy, nhưng thế trận lúc nào cũng chuyển biến kịp thời, và do đó Từ Lưu Bản lúc nào cũng đứng sừng sững trước mặt hắn ta, không dễ chi đối phó! Bởi thế, Kim Cô Lâu vừa đánh nhau với đối phương, nhưng lại thầm tính toán trong lòng. Hắn ta thấy Lưỡng Nghi Trận gồm có tất cả mười sáu người, ngoài Phán Tiên Từ Lưu Bản và hai tên môn đồ kế nghiệp của ông ta kể là cao thủ, còn thì những người khác đều là đệ tử thứ ba của Thái Cực Môn cả. Như vậy, hắn ta có thể dùng lối đánh giằng co để tiêu hao nội lực của số người đó và chờ khi thế trận để lộ một sơ hở nào, hắn ta sẽ thừa cơ hội ấy mà phản công, để phá vỡ thế trận đi.

Vì đã có ý định như vậy, nên Kim Cô Lâu liền dùng lối đánh chậm chạp, một lúc lâu mới tấn công vào thế trận một lần, do đó chẳng mấy chốc thì đôi bên đã xê dịch đến sát bờ suối.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 6
Núi Hoang Thiếu Nữ Thoát Nạn
Từ Nay Vùng Vẫy Lên Đàng Xông Pha


Nhắc lại Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, khi thừa cơ Kim Cô Lâu và Từ Lưu Bản gây sự đánh nhau, bèn nhanh nhẹn bỏ chạy đi thẳng. Chẳng mấy chốc sau, cả hai lướt đi xa ngoài bốn năm dặm đường.
Khi nhìn lại về phía sau, chẳng còn trông thấy ai truy đuổi theo, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mới chậm chân lại. Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:

- Chiếc hộp gỗ bọc gấm này, chúng ta đã xem kỹ đến hai lần rồi, và chứng tỏ đấy rõ ràng là một chiếc hộp trống không, thế chẳng hiểu vì lẽ gì mà quần hùng võ lâm lại bám sát theo ta mãi? Lữ Đằng Không nói:

- Còn có một điều này mới thực đáng nghi ngờ. Ấy là việc chúng ta nhận lãnh món hàng áp tải quái dị này tại thành Nam Xương, chỉ mới cách nay có độ mấy hôm, thế chẳng hiểu tại sao nhân vật võ lâm khắp thiên hạ đều hay biết được tin ấy cả? Tây Môn Nhất Nương suy nghĩ một chốc, bỗng ồ lên một tiếng, nói:

- Tôi đã hiểu rồi! Lữ Đằng Không hỏi:

- Bà đã hiểu chi thế? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Chúng ta đã bị kẻ khác lợi dụng, để làm một cái đích nhắm của quần hùng võ lâm.

Chắc chắn người ấy có một vật chi vô cùng quan trọng, muốn đưa đến tận tay Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, nhưng lại sợ kẻ khác theo dõi cướp đi. Chính vì vậy, nên hắn ta mới giả vờ mang một món hàng đến, nhờ chúng ta áp tải, để ai nấy tưởng hắn đã trao vật ấy cho chúng ta rồi, nhưng kỳ thực, hắn ta lại sai một người khác bí mật lên đường, mang vật ấy đi.

Trong khi đó, tất cả quần hùng trong võ lâm đều chú ý vào chúng ta, và ùn ùn theo dõi hành tung của mình, giúp cho đối phương chuyển được món vật ấy đi một cách an toàn.

Lữ Đằng Không suy nghĩ một lúc thấy lời nói rất hữu lý, nên bất giác tức giận nói:

- Nếu thế, người mang chiếc hộp không này đến mướn mình áp tải, quả là một con người đáng ghét! Tây Môn Nhất Nương cười lạnh lùng, nói:

- Nhận tiền của người ta, mình phải gánh lấy cái họa cho người ta chứ sao, vậy còn bảo đáng ghét nổi gì? Lữ Đằng Không nghe thế, biết người vợ già của mình đang tỏ lộ sự bất mãn trước tánh tham tiền tài của mình, nên sắc mặt không khỏi bừng đỏ, nói:

- Chân tướng của việc này ra sao, chắc chắn không bao lâu nữa sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Vậy chúng ta không thể phán đoán một cách liều lĩnh được.

Tây Môn Nhất Nương cười nhạt, song im lặng không nói chi thêm. Trong sự im lặng đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều có ý nghĩ là suốt bao nhiêu năm qua, họ sống trong cảnh êm ấm an nhàn, nhưng bất thần bao nhiêu biến cố lại xảy đến dồn dập, và việc đã làm cho họ đau lòng nhất, chính là việc Lữ Lân bị đối phương sát hại. Do đó, cả hai đều cảm thấy hết sức đau khổ, rầu lo tràn ngập cõi lòng.

Song vì tình nghĩa vợ chồng giữa hai người từ trước đến nay luôn luôn đậm đà êm ấm, nên dù giờ đây gặp phải biến cố trên, họ vẫn nhẫn nhịn nhau, không ai đỗ lỗi cho ai, hoặc gây gổ với nhau.

Sau đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cùng im lặng tiếp tục lướt thẳng về phía trước.

Trên đường đi, trong lòng của hai người lúc nào cũng cảm thấy lo âu, buồn bã. Nếu họ không nghĩ đến cái chết vô cùng thảm thiết của Lữ Lân, thì cũng nghĩ đến chiếc hộp gỗ bọc gấm đầy thần bí mà họ đang lãnh áp tải. Hơn nữa, lúc nào họ cũng phải đề phòng những cao thủ võ lâm bất thần tràn ra tấn công.

Chính vì vậy, nên chẳng mấy chốc sau, dù trời đã ngã bóng hoàng hôn mà cả hai tựa hồ vẫn không hề hay biết. Mãi đến khi mây xám đã phủ kín không gian, Lữ Đằng Không mới giật mình nói:

- Phu nhân, tại sao chúng ta đã đi rất xa rồi, thế mà vẫn không thể vượt ra khỏi vùng Tây Thiên Mục? Tây Môn Nhất Nương ngửa mặt nhìn khắp bốn bên, thấy đâu đâu cũng có những ngọn núi cao chọc trời vây bọc, trong khi màn đêm đang từ từ buông rũ, không khỏi nghi là mình đã đi lạc đường rồi.

Lữ Đằng Không lại lên tiếng nói:

- Phu nhân, tại Tây Thiên Mục này, núi đồi chớm chở, trùng điệp, và là một địa phương khó tìm lối đi nhất. Hiện giờ trời đã sụp tối, nếu ta nhắm mắt đi liều thì chắc chắn sẽ bị lạc đường, vậy hãy tìm nơi yên nghỉ, chờ đến sáng sớm ngày mai, sẽ tìm lối đi cũng không muộn! Tây Môn Nhất Nương cất giọng bực tức nói:

- Nếu thế, chúng ta lại để cho tên lão tặc Lục Chỉ ấy sống thêm được một hôm nữa.

Thì ra, trong lòng bà ta không giờ phút nào lại không nghĩ đến chuyện xông thẳng lên Tiên Nhân Phong tại vùng núi Võ Di, để tìm Lục Chỉ Tiên Sinh, báo thù cho đứa con trai yêu quý. Do đó, bà ta hết sức nóng lòng, muốn hành động sớm ngày nào hay ngày đó.

Lữ Đằng Không cười đau đớn, nói:

- Khi chúng ta tìm đến Điểm Thương và Nga My, mời được các cao thủ trong hai phái này rồi, còn sợ gì không trả được mối thâm thù ấy nữa sao? Giữa lúc hai người đang chuyện trò, bỗng trông thấy từ phía xa, giữa khu rừng núi, bỗng có ánh đèn sáng lập lòe, nên cả hai đều không khỏi giật mình sửng sốt.

Vì giữa một vùng núi non hoang dại, đâu đâu cũng có tiếng sói đói tru dài, thực không ai có thể tưởng tượng được, lại có người dám cất nhà để ở.

Do đó, Lữ Đằng Không liền đưa mắt nhìn về phía Tây Môn Nhất Nương một lượt, nói:

- Phu nhân, nếu ở nơi này có nhà cửa dân cư, tại sao chúng ta không tìm đến để ngủ trọ một đêm cho khỏe? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Ông đã thế nào rồi? Suốt dọc đường, chúng mình gặp phải bao nhiêu chuyện rối, thế còn chưa đủ sao, mà còn định đi tìm thêm chuyện rối nữa? Lữ Đằng Không cất tiếng cười nhạt, nói:

- Phu nhân, có phải bà đã bị đám người ấy làm cho kinh hoảng rồi không? Kể từ lúc ở Nam Xương ra đi đến giờ, chúng ta đã gặp được bao nhiêu cao thủ và bọn họ đã gây tổn thất gì cho ta? Tây Môn Nhất nương cũng bật cười, nói:

- Thôi, tôi chiều theo ý ông vậy! Liền đó, hai người bèn nhắm ngay hướng có bóng đèn, tiếp tục đi nhanh tới. Và họ trải qua một đoạn đường chẳng bao xa, lại thấy tại nơi ấy có bốn ánh đèn, chứ không phải một.

Khi hai vợ chồng của Lữ Đằng Không đi đến gần thêm, trông thấy tại nơi ấy chính là một vùng núi có địa hình rất kín đáo, và sát bên một bức vách đá cao có một dãy nhà gồm đến tám chín gian. Đồng thời, những gian nhà đó đều được xây cất bằng những tảng đá to chắc chắn, cửa sơn đen, đang đóng kín mít.

Bốn ánh đèn mà hai người nhìn thấy được chính là từ bốn chiếc lồng đèn to treo trước cổng chiếu ra. Bốn chiếc lồng đèn ấy to một cách lạ lùng, màu vàng kim, hình dáng rất quái dị, thử nhìn qua thì không ai biết nó có hình dáng chi, nhưng một ngọn gió lùa nhẹ đến, khiến bốn chiếc lồng đèn ấy xoay tròn một vòng, người ta mới nhận ra được là nó làm theo hình dáng một chiếc đầu lâu khổng lồ! Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không khỏi giật mình.

Tây Môn Nhất Nương hạ giọng nói nhỏ rằng:

- Thực không ngờ chúng ta nhắm mắt đi càng, mà lại đi đến sào huyệt của gã Kim Cô Lâu.

Lữ Đằng Không gượng cười nói:

- Đây mới thực là một việc bất ngờ. Bốn chiếc lồng đèn này xem ra mới vừa được thắp sáng, vậy chả lẽ gã Kim Cô Lâu ấy đã trở về rồi chăng? Tây Môn Nhất Nương suy nghĩ một lúc, nói:

- Theo tôi, chưa hẳn đúng thế đâu. Vì nếu hắn đã trở về, chả lẽ chúng ta lại không gặp được hắn lúc đi dọc đường? Lữ Đằng Không nói:

- Vừa rồi, bà có nhớ là gã Kim Cô Lâu ấy đã bảo chiếc hộp gỗ của chúng mình lãnh áp tải có tương quan to tát đến hắn ư? Lúc bấy giờ, vì chúng ta chưa kịp hiểu ra, là mình đã bị người ta tìm cách trêu cợt, nên mới không bằng lòng nói trắng sự việc cho hắn biết, trong chiếc hộp trống trơn chẳng có đựng một thứ chi cả. Giờ đây, mình đã biết được dụng ý của kẻ mang chiếc hộp này đến mướn áp tải rồi, thực quả hết sức căm tức, vậy tại sao không tìm cách trả đũa đối phương cho hả giận? Do đó, mặc dù gã Kim Cô Lâu ấy có ở nhà hay không, chúng mình cũng bước vào xin ngủ trọ, rồi sẽ tùy cơ ứng biến sau.

Tây Môn Nhất Nương cười, nói:

- Hay lắm, chúng ta nên lấy hành động của người ấy, trừng trị trở lại người ấy cho đích đáng.

Vừa nói, hai người cũng vừa đưa chân bước thẳng đến phía cổng nhà. Nhưng cả hai vừa mới đến nơi, chưa kịp kéo cái khoen sắt trên cánh cổng để khua lên gọi cửa, bỗng nghe từ bên trong, có một giọng nói trong trẻo của một cô gái vọng đến rằng:

- Ai vừa đến thế? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không khỏi giật mình, vì vừa rồi hai người bước đi rất nhẹ, thế mà họ vừa mới bước đến trước cổng nhà, là người ở bên trong đã hay biết ngay. Như vậy, cũng đủ thấy nhĩ lực của cô gái ấy thực vô cùng thính nhạy.

Tây Môn Nhất Nương đưa mắt ra hiệu cho Lữ Đằng Không một lượt, nói:

- Chúng tôi là người đi lỡ đường, muốn tìm vào đây xin ngủ trọ một đêm.

Cô gái trong gian nhà im lặng một lúc thật lâu, mới lên tiếng đáp:

- Bà có thể đến được nơi này, vậy chắc chắn là người trong võ lâm chứ gì? Thế tại sao bà không tìm một nơi kín đáo ở ngoài để ngủ hoặc tiếp tục lên đường bất kể đêm khuya? Trái lại, tìm đến để ngủ trọ nơi này, chẳng phải tự mình đi tìm lấy chuyện rắc rối cho mình hay sao? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe giọng nói trong trẻo và dịu dàng của cô gái ấy, đoán biết tuổi cô ta cũng hãy còn rất nhỏ. Hơn nữa giọng nói của cô ta lại vô cùng buồn bã, ai oán, nên cả hai không khỏi hết sức lấy làm lạ.

Theo sự hiểu biết của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, từ trước đến nay Kim Cô Lâu chỉ đi đứng trong võ lâm một mình, không nghe ai nói là hắn ta có bạn tình. Vậy chả lẽ nơi này không phải là nơi cư trú của gã Kim Cô Lâu ấy hay sao? Nhưng nếu tại nơi đây không phải là nơi cư trú của Kim Cô Lâu, tại sao ở ngoài cổng lại có treo bốn chiếc lồng đèn hình đầu lâu như thế? Tây Môn Nhất Nương suy nghĩ một lúc, mới lên tiếng hỏi:

- Có phải vì không có chủ nhân ở nhà, nên cô không tiện lưu khách chăng? Cô gái bên trong cất giọng như rất kinh ngạc, nói:

- Ủa, tại sao bà lại biết được là không có chủ nhân ở nhà? Vừa nói đến đây, bỗng nghe bên trong gian nhà có tiếng lòi tói sắt kéo lết trên đất, khua nghe loảng xoảng không ngừng. Và chỉ trong chốc lát sau, thì tiếng động ấy đã tiến đến bên cửa, rồi mới dừng lại. Kế đó, lại nghe có tiếng lạch cạch, chứng tỏ cô gái ấy đang mở then cửa ra.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương vội vàng thò tay xô nhẹ cánh cửa, và khi cánh cửa đã mở rộng, thì bà ta không thể sửng sờ kinh ngạc.

Thì ra, bà ta đã trông thấy tại khung cửa, xuất hiện một người con gái trẻ tuổi, mớ tóc trên đầu cô ta óng mượt như những sợi tơ, xõa đến tận vai, đôi mày xanh biếc như xuân sơn, đôi mắt trong veo như thu thủy, chiếc mũi dọc dừa xinh như ngọc, khuôn mặt kiều diễm vô song.

Nhưng y phục trên người cô ta thì lại rách mướp, trên vai áo phía trái rách thành một lỗ to, khiến mớ da thịt trắng như tuyết cũng phơi bày cả ra ngoài. Hơn nữa, trên lớp da ấy, lại có vô số những lằn roi bầm tím chằng chịt, trông hết sức thương tâm.

Tất cả những việc đó đã là rất quái dị rồi, song còn có việc quái dị hơn, ấy là trên hai cổ tay của cô gái ấy, đều có hai cái vòng thép nặng nề khóa cứng. Đồng thời, dính liền với hai chiếc vòng thép ấy, là hai sợi lòi tói to cỡ bằng cổ tay, dài ba bốn trượng, dính liền với một cây cột bên trong gian nhà.

Tây Môn Nhất Nương đứng sửng sờ một lúc thực lâu, cũng không làm thế nào hiểu được lai lịch của cô gái trước mặt. Nhưng riêng cô gái khi nhìn thấy hai người, thì sắc mặt tràn nét vui mừng, thò đầu ra khỏi cửa, ngó quanh quất một lúc rồi hạ giọng nói:

- Nhị vị đây chắc là Lữ tiêu đầu và Lữ phu nhân vừa từ Nam Xương đến đây chứ gì? Thôi, xin mời bước vào mau! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy cô gái bị hai sợi lòi tói nặng nề, chắc chắn xích chặt vào cây cột, không thể bước đi xa hơn ba trượng, hay nhiều nhất thì chỉ bước đi ra khỏi cửa để thắp cháy bốn chiếc lồng đèn mà thôi. Thế nhưng cô ta lại biết rõ được lai lịch của họ, thử hỏi trong lòng hai người không lấy làm lạ sao được? Bởi thế, cả hai đều lộ vẻ do dự, chưa bước vào nhà ngay.

Cô gái ấy thấy thế, liền lên tiếng nói:

- Xin nhị vị hãy an lòng, tôi tuyệt nhiên không có ác ý chi đối với nhị vị cả.

Tây Môn Nhất Nương thong thả đưa một bàn tay lên, sờ nhẹ vào mớ tóc trên đầu cô gái, cười nói:

- Dù cho cô có ác ý đi nữa, tôi đây cũng chẳng hề khiếp sợ. Nhưng tại sao cô lại biết rõ được lai lịch của chúng tôi như vậy? Có phải gã Kim Cô Lâu ấy đã nói cho cô nghe không? Cô gái vừa nghe qua ba tiếng "Kim Cô Lâu", sắc mặt liền hiện vẻ kinh hoàng, nói:

- Hắn... Hắn ta ở đâu rồi? Tây Môn Nhất Nương trông thấy cô gái ấy hết sức xinh đẹp, tánh tình lại dịu dàng dễ thương, hơn nữa, lại thấy cô ta bị xích cứng để giam giữ trong nhà, và chắc chắn đã bị đối phương đánh đập giày vò vô cùng thống khổ, nên trong lòng không khỏi thương hại, nói:

- Hiện giờ hắn ta đang cùng đánh nhau với Từ Lưu Bản bên bờ suối cách đây khá xa, do đó, chắc chắn hắn ta chưa trở về ngay được. Nhưng dù hắn ta có về đi nữa, có chi đáng sợ chứ? Cô gái nghe thế, thì sắc mặt bình tĩnh trở lại hơn. Sau khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa chân bước qua khỏi cửa, thì cô ta vội vàng khóa cứng cánh cửa ấy lại. Trong lúc cô ta làm việc, thì hai sợi lòi tói sắt không ngớt khua loảng xoảng, nghe lạnh lùng ghê rợn vô cùng.

Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bước vào đến bên trong gian nhà, đưa mắt nhìn quanh, thì thấy sự bài trí thực là đơn giản, bàn ghế toàn làm bằng đá, trông xấu xí thô lậu không thể tả. Riêng cây cột dùng để xích cứng hai sợi lòi tói sắt ấy chính là một cây cột đúc bằng sắt rất nặng nề, không ai làm sao phá bỏ được.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương ngồi yên xuống ghế, thì cô ta lên tiếng nói:

- Thưa nhị vị, vãn bối có một việc muốn nhờ đến nhị vị giúp đỡ, chẳng rõ nhị vị có bằng lòng không? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Ngươi có việc chi, thì cứ nói thẳng ra nghe nào? Cô gái ấy bèn nghiêng tay lắng nghe sự động tĩnh chung quanh một lúc khá lâu, mới lên tiếng đáp:

- Hiện nay, vãn bối đang bị gã Kim Cô Lâu ấy bắt sống mang về đây, và phụ thân của vãn bối hoàn toàn không hay biết được việc đó. Vậy, nếu nhị vị vui lòng báo giúp tin cho phụ thân của vãn bối hay để đến cứu thoát vãn bối, ơn đức ấy vãn bối không lúc nào dám quên.

Lữ Đằng Không nói:

- Phụ thân của ngươi là ai? Cô gái cất tiếng than dài, nói:

- Nhị vị hiện giờ phải đi đến vùng Tô Châu phủ, vậy chừng ấy, xin nhị vị chịu khó đến vùng Kiếm Trì một chuyến, tất sẽ gặp được phụ thân của vãn bối ngay.

Lữ Đằng Không nghe thế, liền phì cười nói:

- Hồ Khưu Kiếm Trì chính là một nơi danh lam thắng cảnh ở bên ngoài thành Tô Châu, suốt ngày đêm du khách tới lui tấp nập, vậy thử hỏi chúng tôi làm sao biết được phụ thân của cô nương là ai? Cô gái ấy nói:

- Xin nhị vị hãy ngồi chờ trong giây lát! Nói đoạn, cô ta bèn đứng lên kéo lết hai sợi lòi tói sắt xiềng trên tay, đưa chân bước thẳng vào một cánh cửa cạnh đấy. Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy hai sợi lòi tói được cô ta kéo đi thực thẳng, trong lòng không khỏi thầm nghĩ: "Hai sợi lòi tói này nặng nề và dài đến ba trượng, vậy nào có dưới năm sáu trăm cân, thế mà cô gái ấy lại có thể kéo đi một cách quá dễ dàng, chứng tỏ cô ta là người có một trình độ nội công quả cao cường, chứ chẳng phải chơi." Trong khi hai người còn đang nghĩ ngợi, thì cô gái ấy lại bước trở ra, và trong tay đang cầm một vật chi.

Khi bước đến trước hai người, cô gái liền lên tiếng nói:

- Xin nhị vị khi đi đến vùng Kiếm Trì, hãy mở banh cái gói này ra, tất phụ thân tôi sẽ tìm đến để hỏi nhị vị.

Tây Môn Nhất Nương thò tay đỡ lấy cái gói trong tay của cô gái, và cảm thấy cái gói ấy rất nặng nề, nên cất tiếng hỏi:

- Phụ thân của cô có phải lúc nào cũng ở gần bên cạnh vùng Kiếm Trì ấy cả sao? Cô gái đáp:

- Đúng thế! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Trong gói này đã đựng vật chi thế? Vừa nói, bà ta vừa đưa hai bàn tay lên định mở ra xem.

Cô gái thấy thế, bèn lên tiếng nói:

- Lữ phu nhân, trước khi hai ông bà đi đến vùng Kiếm Trì, thì tuyệt đối không thể mở chiếc gói này ra được! Tây Môn Nhất Nương nghe nói thế, trong lòng hết sức không vui, quay đầu lại nói với Lữ Đằng Không rằng:

- Vừa rồi, chúng mình đã nhận một món hàng, mà ông khách gởi không cho phép mở ra xem. Nhưng đấy là việc áp tải ăn tiền, nên cũng có thể cho là được. Thế nhưng giờ đây, người ta có việc nhờ cậy đến mình, trao đồ vật cho mình mang đi giúp, mà lại không cho phép được xem qua là vật gì! Lữ Đằng Không cũng cảm thấy lời nói ấy của cô gái thực không hợp tình hợp lý chút nào. Nhưng lão ta liếc mắt nhìn, thì thấy vẻ mặt của cô gái đang đầy sợ hãi, luống cuống, thò tay ra như muốn lấy gói đồ ấy trở lại. Song, cuối cùng cô ta lại thụt tay trở về, trông rất đáng thương hại.

Bởi thế, Lữ Đằng Không bất giác cất tiếng cười, nói:

- Phu nhân, cô ấy tuổi hãy còn nhỏ, nên đối nhân xử thế không tránh được sự sơ sót.

Vậy, phu nhân chấp nhất cô ta làm gì? Thôi, hãy trả gói đồ ấy lại cho cô ta vậy! Sắc mặt của cô gái càng lộ vẻ cuống quýt hơn, đôi tròng mắt lóng lánh ánh lệ, nói:

- Chả lẽ nhị vị không bằng lòng giúp cho vãn bối hay sao? Lữ Đằng Không cười, nói:

- Có phải cô nương muốn chúng tôi báo tin cho lệnh tôn, để lệnh tôn tìm đến đây cứu thoát cô nương ra hay không? Đôi mắt cô gái ngấn lệ, khẽ gật đầu.

Lữ Đằng Không lại nói:

- Nếu thế, chi bằng giờ đây chúng tôi cứu thoát cô ra khỏi nơi này thì cũng thế thôi! Sắc mặt của cô gái thoáng hiện vẻ nghi ngờ, nói:

- Nhị vị nếu có thể báo tin giúp cho phụ thân tôi, đã là một việc khiến tôi cảm kích vô cùng rồi. Nếu nhị vị muốn ra tay cứu thoát tôi, thì thực không dám để cho nhị vị phải mạo hiểm đến thế! Lữ Đằng Không nói:

- Cứu cô nương thoát ra khỏi nơi này chẳng qua đắc tội với gã Kim Cô Lâu ấy mà thôi, vậy, có điều gì đáng sợ? Cô gái mấp máy đôi môi như định lên tiếng nói chi, nhưng rồi lại dừng. Tây Môn Nhất Nương nói:

- Chúng tôi cứu thoát cô nương ra khỏi nơi này, thật ra chẳng có chi là khó cả. Song, cô nương vốn thực là ai? Lệnh tôn danh hiệu gọi là gì? Cần nói thực cho chúng tôi được biết.

Cô gái đáp:

- Phụ thân tôi tên gọi Đàm Thăng, còn tôi gọi là Đàm Nguyệt Hoa.

Tây Môn Nhất Nương suy nghĩ một lúc, cảm thấy những nhân vật nổi danh trong võ lâm, chẳng có ai tên gọi Đàm Thăng cả. Và ba tiếng Đàm Nguyệt Hoa lại càng chưa được nghe ai nói đến bao giờ.

Song, bà ta nhìn qua sắc mặt của cô gái, thấy cô ta có vẻ mặt chẳng hề nói dối, nên liền lên tiếng hỏi:

- Lệnh tôn chắc chắn cũng là người trong võ lâm, vậy chẳng hay thuộc môn phái nào? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Xin Lữ phu nhân hãy tha thứ cho, vì phụ thân của vãn bối thuộc môn phái nào, thật sự vãn bối cũng hoàn toàn không được biết! Tây Môn Nhất Nương thầm nghĩ: "Tại sao suốt mấy ngày nay bao nhiêu chuyện quái lạ đến dồn dập với mình như thế? Trên đời nào có con cái lại không biết phụ thân mình là người thuộc môn phái nào?" Trong khi Tây Môn Nhất Nương đang định truy hỏi thêm, bất thần nghe Lữ Đằng Không quát lên một tiếng to, rồi giương chỉ điểm nhanh đến trước lồng ngực của Đàm Nguyệt Hoa...

Trong khi đó, Đàm Nguyệt Hoa vẫn giương tròn xoe đôi mắt bồ câu, ngó đăm đăm vào Lữ Đằng Không, hoàn toàn không có phản ứng chi cả! Sở dĩ Lữ Đằng Không bất thần ra tay điểm tới như vậy, chính là có mục đích muốn thử xem Đàm Nguyệt Hoa sử dụng thân pháp và võ công chi để đối phó, hầu lão ta sẽ dựa vào đó để tìm hiểu về lai lịch của đối phương.

Nhưng vì Đàm Nguyệt Hoa đứng yên không nhúc nhích, nên Lữ Đằng Không chẳng làm sao đoạt được ý định của mình. Do đó, ông ta vội vàng thu tay trở về, trong lòng không khỏi thầm khen ngợi thái độ bình tĩnh của Đàm Nguyệt Hoa.

Đồng thời, lão ta cũng đoán biết cô gái trước mặt mình, chắc chắn chính là một con người thông minh, mưu lược vô song. Hơn nữa, ông ta thấy dù cho nàng là người thuộc chính phái hay tà phái cũng mặc, bởi gã Kim Cô Lâu ấy chẳng phải là một con người tốt, vậy việc hắn bắt giữ nàng tại nơi này, vẫn là một việc đáng thương hại. Khắp trên người nàng lại có những vết roi bầm tím ngang dọc, chắc chắn chính là do gã Kim Cô Lâu ấy đã đánh đập gây thương tích cho nàng. Do đó, giờ đây lão ta bất ngờ đã gặp được nàng, vậy chả lẽ lại ngó lơ không ra tay cứu thoát giúp nàng hay sao? Bởi thế, Lữ Đằng Không liền cất tiếng cười, nói:

- Đàm cô nương, xin cô hãy yên lòng, nếu chúng tôi bằng lòng cứu nguy cho cô, thì lẽ tất nhiên chúng tôi sẵn sàng đương đầu với chuyện rắc rối đó! Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Nếu thế thì ơn đức ấy làm sao vãn bối báo đền cho xong! Lữ Đằng Không thò tay ra nắm lấy một cánh tay của Đàm Nguyệt Hoa, rồi đưa cao lên xem kỹ, và trong lòng không khỏi do dự.

Vì hai chiếc vòng sắt khóa cứng trên tay Đàm Nguyệt Hoa, chẳng những vô cùng rắn chắc, mà lại dầy có hàng nửa tấc mộc, trừ phi một thanh bảo đao hoặc bảo kiếm sắc bén, chém sắt như chém bùn mới có thể chặt đứt được, còn thì chắc chắn không có thứ gì chặt đứt được nó nữa cả.

Hơn nữa, dù cho có được một thanh bảo đao hoặc bảo kiếm sắc bén trong tay, mà hành sự nếu thiếu dè dặt, thận trọng, cũng rất có thể chặt đứt luôn cả hai cánh tay của nàng.

Bởi thế, Lữ Đằng Không sau khi đưa mắt nhìn tỉ mỉ, liền trầm ngâm nghĩ ngợi, không nói chi cả.

Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:

- Nếu hai cái khoen sắt ấy khó hủy, thì chúng ta tại sao không chặt đứt hai sợi lòi tói này? Câu nói ấy đã làm cho Lữ Đằng Không chợt tỉnh ra, do đó ông ta bèn thò tay nắm lấy sợi lòi tói to cỡ cổ tay người lớn, xem qua mấy lượt, rồi quay về Tây Môn Nhất Nương, nói:

- Phu nhân, hãy lấy thanh đao thép Miến Điện của Lân nhi ra! Tây Môn Nhất Nương biết thanh đao thép Miến Điện này chính là một thanh đao rất sắc bén, mà trước đây Lữ Đằng Không đã rèn cho Lữ Lân. Vậy, nếu dồn nội lực thượng thặng vào, dù cho sắt thép chi cũng có thể chặt đứt được dễ dàng, chẳng có gì là khó cả.

Bởi thế, bà ta liền thò tay vào áo, rút thanh đao ra nghe một tiếng rẻng.

Nhưng thanh đao ấy vừa mới thoáng hiện, thì Đàm Nguyệt Hoa bỗng ồ lên một tiếng dài, rồi kêu thất thanh lên rằng:

- Thanh đao ấy...! Song, nàng chỉ mới nói được có ba tiếng, bỗng lại im ngay. Tây Môn Nhất Nương nghe qua giọng nói mất tự nhiên ấy của nàng, liền cất tiếng hỏi:

- Thanh đao ấy làm sao? Đàm Nguyệt Hoa im lặng trong giây lát, mới lên tiếng nói:

- Thanh đao ấy có thể chém đứt được sợi lòi tói sắt hay sao? Tây Môn Nhất Nương biết câu trả lời ấy của Đàm Nguyệt Hoa hoàn toàn chẳng phải là câu mà nàng định nói vừa rồi. Hơn nữa, bà ta đang băn khoăn khó hiểu về chỗ thanh đao thép Miến Điện của Lân nhi tại sao lại xuất hiện giữa một cánh rừng rậm rạp, cách xa thành Nam Xương có đến mấy trăm dặm, nên đã quả quyết là thanh đao này chắc chắn có tương quan đến kẻ thù đã sát hại Lữ Lân. Do đó, Tây Môn Nhất Nương nào chịu bỏ qua dịp ấy, nên lại lên tiếng truy hỏi rằng:

- Này cô bé kia! Nếu cô muốn được chúng tôi cứu thoát ra, thì phải nói thật ra cho chúng tôi nghe tất cả! Sắc mặt của Đàm Nguyệt Hoa bỗng bừng đỏ, cúi gầm đầu xuống.

Lúc bấy giờ, Lữ Đằng Không trông thấy có điều lạ, nên vội vàng lên tiếng nói:

- Đàm cô nương, tôi không giấu chi cô, thanh đao này nguyên là của đứa con trai chúng tôi. Nhưng...

Tây Môn Nhất Nương không chờ cho Lữ Đàng Không nói hết lời, nhanh nhẹn trợn mắt nhìn thẳng về phía lão ta, ngụ ý không bằng lòng lão ta đem biến cố bất hạnh trong gia đình, nói ra cho người ngoài được biết. Do đó, Lữ Đằng Không bèn cất tiếng than dài, tiếp rằng:

- Nói tóm lại, thì trước đây cô nương hoàn toàn chưa hề được trông thấy thanh đao thép Miến Điện này lần nào. Vậy, nếu vừa rồi cô nương được chứng kiến việc chi, xin vui lòng thuật rõ lại đúng sự thật cho chúng tôi nghe qua, và càng tỉ mỉ càng tốt.

Đàm Nguyệt Hoa chờ cho Lữ Đằng Không nói dứt lời, đáp rằng:

- Trước đây ba hôm, vãn bối thật sự có trông thấy thanh đao thép Miến Điện này một lần! Quả tim của Tây Môn Nhất Nương không khỏi nhảy nghe thình thịch nói:

- Lúc đó thanh đao này đang ở trong tay ai? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Vãn bối thật sự không được trông thấy rõ ràng. Ba hôm trước đây, giữa lúc Kim Cô Lâu đang dùng roi da tra tấn vãn bối, để truy hỏi vãn bối về một điều bí mật, vì suốt nữa năm qua, hắn ta đã giam cầm vãn bối tại đây, tiếp tục hành hạ thân xác của vãn bối, chính là để truy hỏi điều bí mật ấy. Nhưng vãn bối nhất nhất không chịu nói ra...

Tây Môn Nhất Nương sốt ruột, nói:

- Cô hãy mau nói rõ về trường hợp của thanh đao thép Miến Điện này, chớ nên nói việc riêng của cô nữa.

Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng vâng lời, nói tiếp:

- Lúc ấy, trời đã nhá nhem tối, bỗng từ phía trước cửa có tiếng bánh xe lăn lộp cộp. Và chẳng mấy chốc sau, thì tiếng xe ấy đã dừng lại trước cửa nhà, rồi một người lên tiếng gọi to rằng:

- Tưởng huynh có ở nhà không? Kim Cô Lâu nghe qua tiếng gọi ấy, bèn mang vãn bối khóa kín vào một gian phòng bên cạnh. Kế đó, vãn bối nghe có tiếng mở cửa, rồi lại có tiếng người từ bên ngoài bước thẳng vào nhà. Cánh cửa phòng của vãn bối tuy đóng kín, nhưng nhờ có một cái lỗ trống để xuyên hai sợi lòi tói sắt qua, nên vãn bối vẫn có thể nhìn vào chiếc lỗ trống ấy, thấy rõ khung cảnh ở bên ngoài. Do đó, vãn bối trông thấy được dưới ánh sáng mờ mờ, Kim Cô Lâu đang cùng nói chuyện với người ấy. Chừng đó, vãn bối mới được biết gã Kim Cô Lâu ấy là người họ Tưởng, mà khắp trong võ lâm chẳng ai được biết cả.

Lữ Đằng Không nói:

- Nhưng người vừa vào ấy là ai thế? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Vãn bối chẳng hề trông thấy được diện mạo của hắn ta, bởi hắn ta đứng xoay lưng về cánh cửa phòng của vãn bối. Chỉ thấy hai người kề tai nói nhỏ với nhau một lúc thật lâu, nhưng vãn bối không nghe được họ đã nói những gì. Và ngay lúc ấy, bỗng có tiếng đàn từ ngoài vọng đến...

Đàm Nguyệt Hoa vừa nói đến đây, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cơ hồ giật mình nhảy nhỏm, nói:

- Tiếng đàn? Đàm Nguyệt Hoa tròn xoe đôi mắt trong veo như làn thu thủy, nàng như không hiểu vì lẽ gì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa nghe hai tiếng "tiếng đàn" lại tỏ ra kinh hoàng đến thế. Do đó, nàng khẽ gật đầu nói tiếp:

- Vâng, chính là tiếng đàn! Và tiếng đàn ấy nghe rất du dương, vui tai. Bởi thế, gã Kim Cô Lâu và nhân vật vừa bước vào liền nhanh nhẹn đứng lên ngay. Lúc ấy vãn bối mới được thấy một phía mặt của người đó, nên nhận ra hắn ta ăn mặc y phục rất sang trọng, nhưng trông giống như một gã quản gia.

Lữ Đằng Không lại giật mình, thầm nghĩ: "Chả lẽ đấy lại là Tề Phúc?" Đàm Nguyệt Hoa lại nói tiếp:

- Sau khi tiếng đàn ấy vào đến ngôi nhà, vãn bối định đưa mắt nhìn kỹ, coi người đàn ấy là ai. Song hoàn toàn không làm sao thấy được rõ. Đồng thời, ngay lúc đó, bỗng có ánh thép lóe lên, rồi lại thấy đấy chính là thanh đao này! Tây Môn Nhất Nương sốt ruột hỏi:

- Lúc ấy, ai đã cầm thanh đao? Đàm Nguyệt Hoa suy nghĩ một chốc, đáp rằng:

- Theo vãn bối nghĩ, có lẽ chính là người đánh đàn ấy. Vì vãn bối chỉ thấy có một bàn tay mà thôi, mà bàn tay ấy, lại có đến sáu ngón! Tây Môn Nhất Nương gầm lên một tiếng, rằng:

- Khá khen cho tên tặc tử đó! Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Vãn bối trước đây có nghe người ta đồn đãi, bảo là ở núi Võ Di tại Phúc Kiến, có Lục Chỉ Tiên Sinh là người rất thích đánh đàn, vậy có lẽ là ông ta? Tây Môn Nhất Nương nghiến răng trèo trẹo, nói:

- Lẽ tất nhiên là hắn ta rồi! Ngoại trừ hắn ta, còn ai nữa! Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Sau khi ánh thép của lưỡi đao vừa lóe lên, ba người lại hạ giọng nói nhỏ với nhau một lúc, song vãn bối cũng không hề được nghe rõ là họ nói chuyện gì. Kế đó, lại thấy Kim Cô Lâu đưa hai người khách bước ra cửa, và chẳng mấy chốc sau, lại nghe có tiếng bánh xe lăn lộp cộp trên mặt đường. Đồng thời, gã Kim Cô Lâu lại trở vào mở cửa phòng, cật vấn vãn bối, để tìm hiểu xem vãn bối có nhìn trộm bọn họ không? Nhưng vãn bối đã khôn khéo trả lời là hoàn toàn không biết chi đến chuyện đó, và nhờ thế hắn ta mới để yên cho.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Tôi xin đa tạ cô nương đã kể lại tỉ mỉ việc ấy! Nói đoạn, bà ta siết chặt thanh đao bằng thép Miến Điện vào tay, rồi nhắm ngay sợi lòi tói sắt đang xiềng cô gái chém vút xuống nghe một tiếng xoảng, tức thì lửa đỏ bắn ra tung tóe, và sợi lòi tói nặng nề rắn chắc ấy, cũng bị chém đứt lìa! Thanh đao bằng thép Miến Điện này, vốn không thể chém đứt được sắt thép, nhưng vì trong lòng của Tây Môn Nhất Nương tha thiết muốn cứu nguy cho Đàm Nguyệt Hoa, hơn nữa, vì lúc đó bà ta đã xem sợi lòi tói ấy như là kẻ thù địch đang đứng trước mặt, nên chỉ vung tay chém một đao là sợi lòi tói sắt đứt lìa, chỉ còn dính trong cổ tay của Đàm Nguyệt Hoa một đoạn dài non ba thước mộc mà thôi.

Đàm Nguyệt Hoa trông thấy sợi lòi tói sắt đã bị chém đứt, kêu to lên một tiếng đầy vẻ vui mừng. Kế đó, nàng thuận tay vung mạnh sợi lòi tói sắt ấy, rít gió vèo vèo, giáng thẳng vào một chiếc ghế đá cạnh đấy nghe một tiếng bốp, khiến chiếc ghế ấy bị đánh nát tan thành từng mảnh vụn.

Đàm Nguyệt Hoa tươi cười nói:

- Hay lắm! Đoạn lòi tói sắt này đã tự nhiên trở thành một món binh khí rất lợi hại. Lữ phu nhân hãy vui lòng chặt đứt sợi lòi tói bên cổ tay trái của vãn bối, cũng chừa lại một đoạn ba thước như sợi này! Lữ Đằng Không biết thanh đao thép Miến Điện của Lân nhì không phải là loại bảo đao có thể chặt sắt thép, mà kỳ thực vừa rồi Tây Môn Nhất Nương đã phải dồn nội lực vào lưỡi đao, nên mới có thể chặt đứt được như vậy. Do đó, sau một lần chặt đứt sợi lòi tói ấy, tất Tây Môn Nhất Nương đã bị hao hụt một số nội lực khá nhiều rồi. Bởi thế, Lữ Đằng Không chẳng muốn Tây Môn Nhất Nương lại bị hao hụt nội lực quá nhiều, nên lên tiếng nói:

- Phu nhân, hãy đưa thanh đao ấy cho ta! Tây Môn Nhất Nương liền nghe theo lời, trao thanh đao đưa vào tay Lữ Đằng Không.

Và sau khi Lữ Đằng Không siết chặt thanh đao vào tay, liền vận dụng chân khí vào lòng chưởng, rồi mới dồn nội lực xuyên qua cán đao, tràn ngập cả lưỡi đao, nhanh như chớp chém thẳng xuống sợi lòi tói sắt bên kia, chặt đứt lìa một cách ngon lành. Hơn nữa lưỡi đao vì đi quá mạnh, nên đã chém ngập xuống đến mặt chiếc bàn bằng đá. Lữ Đằng Không phải giật mạnh, lưỡi đao mới sút trở ra.

Đàm Nguyệt Hoa lại cất tiếng reo to vui mừng, đưa tay quấn gọn hai sợi lòi tói sắt ấy vào cánh tay, cúi mình lạy tạ Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, nói:

- Vãn bối xin đa tạ ơn cứu mạng của nhị vị. Bất luận thế nào, vãn bối cũng tuyệt nhiên không tiết lộ nhị vị đã vào gian nhà đá này để cứu thoát cho vãn bối, vậy xin nhị vị yên lòng.

Lữ Đằng Không cất tiếng cười, nói:

- Đại trượng phu hễ làm điều gì thì tự nhiên là dám thừa nhận điều ấy, vậy dù ngươi nói cũng không có chi là đáng sợ! Đàm Nguyệt Hoa mấp máy đôi môi, như định nói thêm việc chi, nhưng rồi bỗng lại im lặng không nói chi cả. Sau một lúc lâu, nàng mới lên tiếng nói rằng:

- Chả lẽ nhị vị định ở lại gian nhà này, để ngủ qua đêm nay hay sao? Lữ Đằng Không nói:

- Đúng thế! Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Tài nghệ của nhị vị cao cường đến mức ấy, lẽ cố nhiên là không sợ chi gã Kim Cô Lâu, nhưng chẳng rõ nhị vị có được biết sư môn của gã Kim Cô Lâu ấy là ai không? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, đều không khỏi lộ vẻ sửng sốt, nói:

- Chúng tôi hoàn toàn không được biết! Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Lúc vãn bối vừa mới bị bắt đem đến đây, gã Kim Cô Lâu chẳng hề dùng lòi tói sắt xích vãn bối lại, nên vãn bối được tự do đi lại bên trong gian nhà đóng kín cửa nẻo này. Do đó, vãn bối có thể đi khắp chung quanh, và đã vô tình phát giác được sư môn của gã Kim Cô Lâu. Vậy, mời nhị vị hãy theo vãn bối để xem đây này.

Lữ Đằng Không đang định đứng lên để bước theo Đàm Nguyệt Hoa, nhưng bỗng trông thấy sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương có điều lạ lùng, nên cũng không khỏi giật mình. Lúc ấy, Tây Môn Nhất Nương bỗng lên tiếng nói:

- Có người đến kia rồi! Đàm Nguyệt Hoa nghe thế, cũng không khỏi kinh hoàng thất sắc, buột miệng kêu lên một tiếng "ối chao", rồi nhanh nhẹn thò tay chụp lấy cái gói khi nãy, đưa chân lách thẳng vào gian phòng cạnh đấy, bỏ chạy đi mất.

Chẳng mấy chốc sau, Lữ Đằng Không đã nghe có tiếng chân bước càng ngày càng rõ, đồng thời, chứng tỏ đối phương đang lướt đi vô cùng nhanh nhẹn. Bởi thế, ông ta và Tây Môn Nhất Nương không khỏi đưa mắt, nhìn nhau một lượt, rồi lẹ làng đứng lên ngay.

Nhưng cả hai người chưa kịp ẩn kín thân mình, bất thần đã nghe một tiếng ầm, rồi cánh cửa gian nhà cũng đã bị đánh bật tung ra, kế đó, lại thấy có một bóng người lảo đảo, từ ngoài bước thẳng vào, mình mặc áo dài xanh chấm đất, trên ngực có thêu một chiếc đầu lâu vàng sáng lóng lánh. Thì ra, người ấy không ai khác hơn là gã Kim Cô Lâu! Sắc mặt của gã Kim Cô Lâu đang tái nhợt như một tờ giấy trắng. Khi hắn ta bước vào đến gian nhà, cũng chẳng hề để ý chi đến sự hiện diện của vợ chồng Lữ Đằng Không đang đứng cạnh đấy, mà chỉ bước thẳng đến trước một chiếc ghế, rồi buông người ngồi phịch xuống. Sau đó, hắn ta mới đưa mắt nhìn lên, xem kỹ qua hai sợi lòi tói sắt một lượt, sắc mặt vốn tái nhợt, lại càng tái nhợt đến đáng sợ, nói:

- Các vị... đã... thả cô ta đi rồi hay sao? Lữ Đằng Không nhìn qua dáng điệu của Kim Cô Lâu, trông thấy hắn ta tựa hồ đang bị trọng thương, nên trong lòng không còn kiêng sợ chi đối với hắn ta nữa, lên tiếng nói:

- Đúng thế! Đột nhiên, gã Kim Cô Lâu ụa lên một tiếng ho, rồi hộc ra một ngụm máu tươi đỏ ối, những ngón tay đều run bần bật, nói:

- Tại sao... các vị lại hành sự... lỗ mãng như thế? Lữ Đằng Không đoán biết câu nói ấy của đối phương là có một nguyên nhân gì, nên vội vàng lên tiếng hỏi:

- Cô gái ấy vốn thực là ai thế? Kim Cô Lâu cất tiếng than dài, đáp:

- Cô ta là người họ Đàm...

Nhưng hắn ta chỉ mới nói được có ba tiếng, bỗng dừng lại không nói chi thêm nữa, đưa tay khoát lên một lượt, rồi tiếp rằng:

- Giờ đây, cô ta đã trốn đi mất rồi, vậy còn đề cập đến cô ta làm chi nữa, vậy nhị vị hãy mau đi đi! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Không thể được! Chúng tôi còn phải hỏi rõ nơi ông một việc, ấy là vừa qua, có lẽ ông đã thấy tận mắt thanh đao bằng thép Miến Điện bé nhỏ này chứ? Sắc mặt của Kim Cô Lâu tràn đầy sắc kinh ngạc, nói:

- Ủa! Thanh đao này tại sao lại lọt vào tay của nhị vị? Tây Môn Nhất Nương cười nhạt, nói:

- Trong khi ông trông thấy được thanh đao này, thì nó đang ở trong tay ai? Kim Cô Lâu gắng gượng chổi người đứng lên, nói:

- Lục chỉ... Lục chỉ...

Hắn ta vừa mới nói được có bốn tiếng, thân người hắn bỗng té đánh phịch xuống đất, và không còn nhúc nhích nữa! Lữ Đằng Không vội vàng cúi người xuống nhìn, thấy đối phương đã ngất lịm đi, mạch trên cổ tay chỉ còn nhảy rất yếu ớt, chứng tỏ hắn ta đã bị thương rất trầm trọng, nhất thời không làm sao cứu tỉnh được.

Do đó, Lữ Đằng Không bèn quay mặt nhìn về phía người vợ của mình, trông thấy bà ta đang tức giận đến sắc mặt tái xanh, đứng sửng sờ như một pho tượng đá, nên vội vàng lên tiếng nói:

- Phu nhân, kẻ địch là ai? Chúng ta đã biết được rất rõ ràng, vậy chúng ta nên mau đưa chiếc hộp gỗ này đến nơi đến chốn, rồi sẽ định kế hoạch đã định mà hành sự! Tây Môn Nhất Nương thét lên một tiếng dài, nhanh nhẹn thu ngọn đao thép Miến Điện vào áo rồi cùng Lữ Đằng Không phi thân lướt thẳng ra khỏi gian nhà, tiếp tục lên đường bất kể đêm khuya.

Đến khi trời sắp bình minh, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã vượt ra khỏi vùng núi Tây Thiên Mục. Phía trước mặt của họ, đường sá đã trở thành bằng phẳng, nên hai người lại càng gia sức chạy nhanh như một ngọn gió hốt.

Chẳng mấy chốc sau, hai người lại vượt qua một đoạn đường dài ngoài mười dặm. Lúc ấy, trời đã hoàn toàn sáng tỏ.

Đột nhiên, giữa lúc hai người đang tiếp tục lướt nhanh đi, bất thần nghe từ trong cánh rừng cạnh đấy, có một tiếng gào thảm thiết vang lên. Đồng thời, lại thấy có một người đàn ông to lớn, từ trong cánh rừng ấy bị ném tung ra ngoài.

Khi gã đàn ông ấy từ trên cao rơi đánh phịch trở xuống mặt đất, đã tắt hơi chết tốt ngay! Tây Môn Nhất Nương vội vàng lướt nhanh đến, nhìn qua xác chết ấy thì không khỏi buột miệng ồ lên một tiếng dài, nói:

- Đây chính là Đào Đại Bằng, Đường chủ Thiên Hương Đường của phái Hoa Sơn! Dứt lời, cả hai ngước mặt nhìn lên, thấy trong cánh rừng có bóng người di động chập chờn, cùng vung vũ khí đánh nhau quyết liệt. Mặc dù vợ chồng bà ta không muốn gây sự rắc rối dọc đường, hơn nữa việc tranh chấp và đi đến phải dùng võ lực đánh nhau là việc rất thường xảy ra trong võ lâm, nên họ có ý định bỏ đi ngay...

Nhưng khi hai người nhìn rõ, lại thấy tại cánh rừng ấy, đang có đến bốn người vây đánh một người. Và người bị vây đánh kia, trong tay đang sử dụng một món binh khí hết sức quái dị, không ngớt vung lên vun vút, trông chẳng khác chi hai con rồng mun đang lồng lộn giữa khoảng không, khiến cho đối phương mặc dù đông hơn, song vẫn không làm sao áp đảo được người ấy.

Hơn nữa, khi hai người nhìn rõ hơn, thấy người bị vây đánh đó, không ai khác hơn người thiếu nữ vừa được họ cứu thoát, chính là Đàm Nguyệt Hoa! Bởi thế, trong lòng Lữ Đằng Không chẳng khỏi lấy làm kinh ngạc, nói:

- Phu nhân, vừa rồi gã Kim Cô Lâu ấy nghe chúng ta cứu thoát cô gái này thì có vẻ hết sức kinh hoàng, khiến cho thương thế của hắn ta càng trở thành nặng nề hơn. Như vậy, cô gái này chắc chắn là một nhân vật có lai lịch rất đáng kể, do đó tốt nhất chúng ta nên ẩn kín thân mình, để tìm xem thế võ cô ta sử dụng, hầu tìm hiểu lai lịch của cô ta ra sao. Khi nhận xét được rõ ràng, chúng ta sẽ tiếp tục lên đường được không? Tây Môn Nhất Nương đối với lai lịch của Đàm Nguyệt Hoa, trong lòng cũng đang lấy làm ngờ vực, nên nghe qua lời nói ấy của Lữ Đằng Không, bèn gật đầu tán đồng ngay.

Liền đó, hai người bèn nhanh nhẹn lướt tới trước cánh rừng rậm rạp, tìm nơi ẩn kín, rồi đưa mắt nhìn về phía những đối phương đang đánh nhau quyết liệt. Trước tiên, Tây Môn Nhất Nương lộ vẻ kinh hãi, nói:

- Võ công của con bé ấy quả là vượt ra ngoài sức tưởng tượng của mình. Vì bốn gã đàn ông đang vây đánh cô ta, đều là những nhân vật trong số mười hai vị Đường chủ trong phái Hoa Sơn cả! Vị thủ lãnh của phái Hoa Sơn là Liệt Hỏa Tổ Sư, chính là người có địa vị rất cao trong võ lâm. Hơn nữa, tài nghệ của lão ta cũng hết sức tinh tuyệt. Bởi thế, lão ta chính là một nhân vật tiếng tăm lẫy lừng trong giới giang hồ, từ trước đến nay ít khi nào bước ra đi đây đi đó. Thế nhưng tiếng tăm phái Hoa Sơn vẫn không hề bị suy giảm.

Sở dĩ được thế, chính là nhờ ở mười hai vị Đường chủ của phái này. Vì số người đó đều là số người võ công cao tuyệt, rất xứng đáng là những cao thủ võ lâm. Vậy nếu có ai đồn đãi ra ngoài, bảo là bốn vị Đường chủ của phái Hoa Sơn cùng vây đánh một cô gái, thật là mất mặt. Thế mà họ vẫn không làm sao áp đảo được đối phương, quả là một chuyện không ai có thể tin được cả.

Chính vì vậy, nên Lữ Đằng Không hết sức hãi kinh, đưa đôi mắt chú ý theo dõi, thấy đôi chưởng của Đàm Nguyệt Hoa bay vun vút giữa khoảng không, đánh ra toàn là những thế võ vô cùng quái dị, không hiểu đấy là một thứ chưởng pháp chi. Đồng thời, cùng một lúc với thế chưởng của nàng, hai sợi lòi tói sắt mắc cứng trên cổ tay của nàng, cũng không ngớt bay lồng lộn như hai con rồng mun! Hai sợi lòi tói sắt ấy, vì tự nhiên nó bay múa vèo vèo, chứ chẳng phải có đường thế chi cả, nên lại càng trở thành quái dị khó lường, đối phương không làm sao đề phòng cho được! Lữ Đằng Không lại đưa mắt nhìn về phía bốn vị Đường chủ của phái Hoa Sơn, trông thấy bọn họ đều đang có vẻ hết sức tức giận, sắc mặt tràn đầy sát khí, trong khi Đàm Nguyệt Hoa vẫn mỉm cười vui vẻ, thái độ tỏ ra hết sức ung dung! Hai vợ chồng Lữ Đằng Không theo dõi một lúc, thì bỗng thấy Đàm Nguyệt Hoa co một cánh tay lại, và bất thần quét thẳng sợi lòi tói sắt về phía chiếc chùy to lớn của một vị Đường chủ phái Hoa Sơn, đồng thời cả thân người nàng cũng tràn nhanh tới trước...

Tức thì, qua một tiếng xoảng to, chiếc chùy thép trong tay của đối phương đã bị sợi lòi tói của Đàm Nguyệt Hoa đánh tung lên khoảng không. Hơn nữa, cùng một lúc ấy, thân người nàng cũng đã tràn tới nơi, vung chưởng giáng thẳng vào lồng ngực đối phương! Bởi thế, gã đàn ông ấy liền buột miệng gào lên một tiếng thảm thiết, rồi bị hất bắn ra sau thực xa! Ba vị Đường chủ còn sống sót trông thấy thế, đều kinh hoàng thối lui ra sau mấy bước dài.

Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng trong trẻo cười khanh khách, nói:

- Thế nào rồi? Không đánh nữa hay sao? Một lão già có vẻ bình tĩnh nhất trong bọn, liền gằn giọng quát rằng:

- Con bé kia! Ngươi là môn hạ của ai thế? Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng cười, đáp:

- Các ông ngay đến việc dùng võ công để đánh nhau với tôi vẫn chưa có thể đánh thắng được, vậy còn hỏi tôi là môn hạ của ai để làm gì? Ba người các ông cần phải thật thà cút ngay về Hoa Sơn cho rồi, chớ mơ tưởng đến việc đón đường Lữ Tổng tiêu đầu để cướp hàng nữa! Nếu được thế, thì tôi sẵn sàng tha chết cho ba ông. Đồng thời, ba ông nếu muốn trở về gọi Liệt Hỏa Tổ Sư đến gây sự trả thù, thì cứ đi thẳng đến vùng Cô Tô mà tìm, hai cha con tôi thích phong cảnh nơi đó, nên chắc chắn là còn ở yên tới mấy tháng nữa! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, đã đoán biết được nguyên nhân nào Đàm Nguyệt Hoa lại gây sự đánh nhau với năm vị Đường chủ của phái Hoa Sơn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 7
Sa Vào Trong Ổ Ma Tà
Vợ Chồng Trúng Độc Thực Là Nguy Nan


Vừa rồi, Lữ Đằng Không đã hạ sát được gã Đường chủ Địa Hương Đường của phái Hoa Sơn trong một cánh rừng rậm rạp, do đó lão ta đã biết được, là phái này đang cho rất nhiều cao thủ đón đường ngăn chặn mình.

Bởi thế, giờ đây lão ta đã đoán biết, có lẽ năm gã đàn ông này, đang cùng nhau bàn bac kế hoạch đón đường vợ chồng lão ta để cướp món hàng áp tải, và bất ngờ bị Đàm Nguyệt Hoa gặp được. Nàng đã cảm kích trước cái ơn cứu mạng vừa rồi, nên mới gây sự đánh nhau với bọn họ.

Nếu đúng như thế, Đàm Nguyệt Hoa quả là một con người biết ơn nghĩa, và tâm địa thực tốt. Song, có điều là nàng ra tay sát phạt hết sức khắt khe, chẳng chịu để cho đối phương còn sống sót, nên cũng chứng tỏ con người nàng có phần nào hung tợn.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghĩ ngợi một lúc, bỗng Tây Môn Nhất Nương hạ giọng hỏi rằng:

- Ông có nhận ra chưởng pháp của cô ta là thuộc môn phái nào không? Lữ Đằng Không đáp:

- Thực là xấu hổ, tôi hoàn toàn không nhận ra được!

- Tôi cũng không thể nhận ra. Nhưng nếu nhìn xem thực kỹ, thứ chưởng pháp ấy hết sức thần kỳ, quả không ai có thể ước lường được mọi sự diễn biến của nó.

Lữ Đằng Không nói:

- Quả đúng như vậy. Nhưng thứ chưởng pháp ấy đáng lý ra phải nổi danh trong võ lâm mới phải, thế tại sao ngay cả chúng ta cũng không thể nhận ra lai lịch của nó được, quả là một chuyện hết sức lạ.

Giữa lúc hai người đang thì thầm nói nhỏ với nhau, thì nghe lão già trong số ba Đường chủ của phái Hoa Sơn còn sống sót lại lên tiếng nói:

- Nếu thế thì xin cô nương hãy xưng tánh danh cho chúng ta được biết! Đàm Nguyệt Hoa cười đáp:

- Tôi họ Đàm, tên gọi là Nguyệt Hoa, còn cha tôi là Đàm Thăng. Vậy các ông có nhớ không? Lão già ấy hừ một tiếng nói:

- Núi xanh không hề đổi, nước biếc không hề thay, vậy mong sau này chúng ta còn dịp gặp lại nhau.

Nói đoạn, lão ta cất tiếng hú dài, rồi dẫn hai đồng bọn quay lưng phi thân lướt đi mất hút. Xem ra, họ có vẻ vô cùng khiếp sợ, nên ngay đến xác chết của hai người đồng hành đang nằm sóng sượt trên đất, bọn họ cũng không màng tới việc mang đi chôn cất.

Đàm Nguyệt Hoa thấy ba người đã bỏ đi, thì sắc mặt tỏ ra vô cùng đắc ý, khẽ cất tiếng ca hát nghêu ngao, rồi lại nhảy tung tăng, nhắm phía ngoài khu rừng chạy tới. Xem thái độ của nàng hết sức thơ ngây, chứng tỏ là một con người tâm địa hoàn toàn trong trắng, chẳng hề biết tư lự bao giờ. Bởi thế, nếu ai nhìn vào cử chỉ ấy của nàng, thì không làm sao có thể dám ngờ được, là nàng vừa ra tay sát hại hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn.

Lữ Đằng Không có ý muốn bước ra để gặp nàng, nhưng Tây Môn Nhất Nương đã kịp thời ngăn lại. Bà ta chờ cho Đàm Nguyệt Hoa đi mất dạng, mới lên tiếng nói:

- Tuổi của con bé này thực là trẻ, thế mà võ công của nó không sút kém hơn chúng ta bao nhiêu. Hơn nữa, hiện giờ chúng ta chưa biết được lai lịch của nó, vậy chớ nên liên hệ với nó nhiều thì hay hơn.

Lữ Đằng Không nói:

- Tôi vì trông thấy võ công của nó rất cao tuyệt, nên mới muốn bước ra để ngỏ ý mời nó trợ lực cho mình một tay.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Nếu nó là người có dính dấp đến Lục Chỉ Tiên Sinh, thì chúng ta làm như vậy chẳng hóa tính già thành non hay sao? Lữ Đằng Không không ngớt lẩm bẩm hai tiếng "Đàm Thăng", nhưng với một con người lịch duyệt từ lâu khắp chốn giang hồ như lão ta mà không thể nào nhớ ra được là nhân vật võ lâm có ai tên tuổi như vậy cả.

Lẽ tất nhiên là các cao thủ trong võ lâm, hầu hết đều là số người không ai được biết tên tuổi thật sự của họ. Ngay như Lục Chỉ Tiên Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân, Liệt Hỏa Tổ Sư, và đến gã Kim Cô Lâu chẳng hạn, có ai được biết tên thật sự của họ đâu? Nhưng phàm những nhân vật như thế, thì dù mọi người không có ai có thể biết được tên họ thật sự của họ, nhưng về biệt hiệu của họ, thì lại nổi như cồn. Do đó, nếu chẳng phải Đàm Nguyệt Hoa cố tình giấu biệt đi biệt hiệu của phụ thân nàng, thì quả không còn một lý do nào để giải thích trường hợp ấy nữa.

Sau đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương sửa lại y phục, rồi mới bước ra đường tiếp tục đi tới. Mãi đến lúc trời nhá nhem tối, họ đã đi đến ven Thái Hồ. Và trong đêm đó họ tìm đến ngủ trọ tại một gian khách điếm, nhưng bình yên vô sự, chẳng có chuyện gì xảy ra.

Qua đến ngày hôm sau, họ tiếp tục men theo đường mòn bên bờ Thái Hồ đi tới, và đến chiều đã tới của thành Tô Châu.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương tuy là người dấn bước giang hồ từ lâu, song lúc họ còn đi đứng trong giới giang hồ, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đang xây dựng sự nghiệp ở tận vùng biên cương, nên họ chưa có dịp gặp mặt lần nào cả.

Nhưng sau khi họ đã bước chân vào đến cửa thành Tô Châu, nghĩ rằng Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, là một nhân vật tên tuổi vang lừng khắp võ lâm, do đó chắc chắn hỏi thăm đến là ai cũng biết được. Và cũng chắc chắn họ sẽ trao món hàng đến tận nơi một cách dễ dàng, rồi sau đó hai người sẽ chia tay ra đi, tìm đến phái Nga My và Điểm Thương để lo mời các cao thủ, hầu tiến hành việc trả thù cho đứa con trai yêu quý.

Vì nghĩ như thế, nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Hai người tiếp tục đi tới chẳng bao xa, thấy bên vệ đường có một tiêu cục, nên Lữ Đằng Không định bước vào hỏi thăm địa chỉ của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn xem ở nơi nào...

Nhưng ngay lúc ấy, bỗng họ trông thấy từ một khúc quanh trước mặt, có hai người mặc y phục ngắn, đưa chân bước nhanh tới. Hai người ấy nơi eo lưng đều có quấn một ngọn roi mềm màu vàng, sáng lóng lánh, nên khiến ai cũng phải để ý nhìn.

Khi bước đến trước mặt vợ chồng Lữ Đằng Không, hai người ấy liền đưa mắt nhìn kỹ từ đầu đến chân Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi bỗng vòng tay thi lễ, nói:

- Nhị vị có lẽ là người từ Nam Xương áp tải đồ vật đến đây chứ gì? Gia sư đã chờ đợi suốt mấy hôm rồi.

Tây Môn Nhất Nương quay về hai người ấy hỏi:

- Lệnh sư là...? Hai người ấy nhanh nhẹn đưa tay chỉ thẳng vào ngọn roi vàng và sáng lóng lánh của họ đang quấn trên eo lưng, ngắt lời đáp:

- Gia sư được mọi người gọi là Kim Tiên Chấn Càn Khôn họ Hàn tên Tốn.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, trong lòng hết sức vui mừng, vì họ khỏi tìm nơi hỏi thăm cho cực nhọc. Lúc đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bèn lên tiếng nói.

- Nếu thế, xin nhị vị dẫn đường cho! Hai gã đàn ông ấy cất tiếng vâng lời, rồi quay lưng bước.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bước theo sau, thấy họ chọn toàn là những con đường hẻm vắng vẻ để đi tới. Sau khi đi quanh co qua nhiều đoạn đường, cả đoàn đã đến trước một ngôi nhà rất to lớn.

Ngôi nhà ấy xem qua có vẻ trang nghiêm đồ sộ, ngoài cửa có một đôi sư tử đá thực to, cổng sơn son đỏ tươi, hai bên lại có người đứng canh gác, và nơi eo lưng cũng có quấn một ngọn roi vàng sáng lóng lánh như hai người dẫn đường.

Hai người đàn ông dẫn đường bèn bước nhanh tới, cất tiếng chào hỏi rồi nói:

- Hãy mau bước vào bẩm với sư phụ hay, là có Lữ tiêu đầu và Lữ phu nhân đến đây rồi! Hai gã đàn ông đứng canh gác trước cửa nghe thế, bèn nghe lời rồi hối hả đi thẳng vào trong.

Sau đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng theo chân hai gã đàn ông vừa rồi, bước thẳng vào trong ngôi nhà to lớn ấy. Bọn họ sau khi xuyên qua một cái thiên tỉnh, thì bước vào đến một gian sảnh đường rộng rãi.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương ngồi yên xuống ghế xong, thấy có người bưng trà thơm ngon để mời hai người giải khát. Và chẳng mấy chốc sau, lại nghe có tiếng giày bước nhẹ trên đất, rồi tấm sáo trước cửa liền được vén cao, từ ngoài bước vào một người đàn ông, thân hình to lớn, tuổi độ năm mươi, khí sắc oai vệ, da mặt đỏ hồng, đôi mắt sáng ngời, lên tiếng nói:

- Tại hạ là Hàn Tốn, nhị vị có lẽ đi đường xa mệt nhọc lắm! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy phong độ của Hàn Tốn thực không phải tầm thường, xứng đáng là bậc tôn sư trong võ lâm, nên vội vàng đứng lên đáp lễ, nói:

- Suốt dọc đường, chúng tôi đã gặp rất nhiều nhân vật giang hồ gây sự, định cướp đoạt món hàng áp tải. Nhưng cũng may mắn là chúng tôi vẫn đối phó được, và đi đến nơi này bình an! Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn liền vỗ tay lên trán, nói:

- Món vật ấy bị các cao thủ giang hồ dòm ngó, cũng là một việc tất nhiên. Do đó, áp tải nó đến đây quả là một chuyện không phải dễ.

Sau khi ba người đã ngồi yên xuống ghế, Lữ Đằng Không bèn thò tay vào áo, lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm ấy ra. Và Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn bèn đưa tay tới, định nhận lấy chiếc hộp về...

Nhưng Tây Môn Nhất Nương bỗng lên tiếng hỏi:

- Xin hỏi Hàn đại hiệp, trong chiếc hộp này đang đựng vật chi thế? Hàn Tốn lúc ấy nguyên đã đứng thẳng người lên, nhưng khi nghe Tây Môn Nhất Nương hỏi thế, lại ngồi trở xuống, đưa mắt nhìn thẳng vào chiếc hộp gỗ trong tay Lữ Đằng Không, nói:

- Xin nhị vị tha thứ cho, là tôi không thể nào nói thực việc này ra được! Nói dứt lời, lão ta đứng thẳng người lên định thò tay lấy chiếc hộp.

Tây Môn Nhất Nương trông thấy thái độ của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn có vẻ rất bồn chồn nên trong lòng không khỏi sinh nghi. Bà ta thầm nghĩ: "Chiếc hộp này được dùng một số tiền thù lao để mướn ta áp tải đến đây, mặc dù trên đường gặp bao nhiêu cao thủ đón cướp, song vẫn không thể cướp giật được. Ngày hôm nay, ta đã bình an áp tải đến nơi rồi, vậy còn ai có thể cướp đoạt được nữa, mà lão ta lại tỏ ra bồn chồn, nóng lòng như vậy?" Vì nghĩ thế, nên bà ta liền dùng khuỷu tay thúc nhẹ vào người Lữ Đằng Không, do đó, Lữ Đằng Không đã lãnh hội được ý nghĩ của người vợ mình, nên liền thụt bàn tay có cầm chiếc hộp gỗ định đưa tới cho Hàn Tốn trở lại.

Tây Môn Nhất Nương bèn lên tiếng nói:

- Hàn đại hiệp, nếu ông không tiện nói thẳng cho chúng tôi được biết về điểm ấy, thì chúng tôi cũng không hỏi thêm làm gì. Nhưng chúng tôi còn muốn tìm hiểu nơi Hàn đại hiệp một việc khác...

Trên nét mặt của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn thoáng hiện vẻ sốt ruột và cuống quýt, nhưng thái độ ấy chỉ thoáng qua rồi mất ngay.

Bởi thế, nếu ai không để ý đến, chắc chắn không làm sao nhận ra được.

Nhưng vì Tây Môn Nhất Nương đang có ý nghi ngờ về lão ta, nên đôi mắt của bà sắc bén như hai luồng điện lúc nào cũng chú ý theo dõi từng cử chỉ và thái độ một của đối phương, nên đã nhận ra ngay điều đó.

Người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy, lên tiếng nói:

- Còn việc chi cần chỉ giáo, xin Lữ phu nhân cứ nói thẳng ra! Tây Môn Nhất Nương nói:

- Trong chuyến áp tải chiếc hộp gỗ này đến đây, chúng tôi đã được một sự thù lao to tác hiếm có trong đời, vậy chẳng rõ ai đã bằng lòng đem những bảo vật quý giá vô song ấy để thù lao cho chúng tôi thế? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cất tiếng cười, đáp:

- Đấy chính là một người bạn cố tri của tôi, nhưng không tiện nói rõ tên ra.

Tây Môn Nhất Nương truy hỏi thêm rằng:

- Nếu thế, chắc Hàn đại hiệp có thể cho chúng tôi được biết họ của người ấy chứ? Hàn Tốn cất tiếng cười ha hả, nói:

- Việc ấy tuyệt đối không thể được. Giờ đây, Lữ Tổng tiêu đầu hãy trao chiếc hộp gỗ ấy đến cho tại hạ, rồi lưu lại chơi ít hôm được không? Tây Môn Nhất Nương vốn có ý định truy hỏi thêm một vài chuyện nữa để chứng thực mọi điều ngờ vực trong lòng của mình, vì bà ta rất hoài nghi về lai lịch của người đàn ông tự xưng Hàn Tốn trước mặt mình. Nhưng hỏi tới hỏi lui mãi vẫn không thể đi đến được một kết quả như ý định, vậy bà ta nào lại chịu trao chiếc hộp gỗ ấy cho đối phương? Trong khi Tây Môn Nhất Nương còn đang đắn đo, do dự, thì bỗng bà ta quay đầu ngó lại phía sau, thấy khắp chung quanh đang có trên mười gã đàn ông to lớn, đứng vây quanh thành một cái hình tròn, và tại eo lưng của mỗi người, đều có quấn một ngọn roi vàng lóng lánh. Do đó, Tây Môn Nhất Nương liền có một ý nghĩ lóe lên trong óc, và cũng do đó, bà ta đã bừng hiểu ra mọi lẽ.

Vì bà ta hiểu Hàn Tốn sở dĩ có biệt hiệu gọi là Kim Tiên Chấn Càn Khôn chính là do ở món binh khí mà Hàn Tốn đã sử dụng. Đấy là một ngọn roi vàng lóng lánh. Do đó, với tên tuổi lừng lẫy của Hàn Tốn trong võ lâm, một khi người ta nhìn thấy một ngọn roi vàng, thì tất nhiên là sẽ hiểu ngay đấy là Kim Tiên Chấn Càn Khôn rồi. Vậy, dù cho môn hạ của Hàn Tốn có dùng roi mềm đi nữa, cũng tuyệt nhiên không khi nào lại sử dụng một ngọn roi vàng y như chủ.

Thế nhưng số người hiện diện đang đứng chung quanh và ngay đến cả hai gã đàn ông gặp Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trên đường khi nãy, ai ai cũng quấn một ngọn roi vàng lóng lánh tại eo lưng. Qua hiện tượng ấy, người mới nhìn đến chắc chắn có thể hiểu đấy là số môn hạ của Hàn Tốn. Nhưng nếu suy xét kỹ hơn, thì đấy là một hiện tượng rất khả nghi, chứng tỏ đối phương đã cố tình làm thế, để đánh lừa người chung quanh, gây ra tình trạng vàng thau lẫn lộn! Tây Môn Nhất Nương vừa nghĩ đến đó, thì trong lòng đã có một sự khẳng định, cho rằng mọi điều nghi ngờ của mình hoàn toàn là có lý. Bởi thế, bà ta bèn thò tay ra, lấy chiếc hộp gỗ mà Lữ Đằng Không đang cầm về phía mình, rồi im lặng quay mặt nhìn lại, cất tiếng hỏi:

- Ngọn roi vàng của Hàn Tốn ấy, chẳng rõ nó nặng bao nhiêu cân? Lữ Đằng Không nghe qua câu hỏi ấy của Tây Môn Nhất Nương, không khỏi hết sức làm lạ, không hiểu vợ mình đang có ý định gì? Vì tại sao đứng trước mặt Hàn Tốn, mà bà ta lại gọi thẳng tên họ của người ta ra như thế? Giữa lúc Lữ Đằng Không còn đang ngơ ngác, bỗng nghe người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy, lên tiếng đáp:

- Ngọn roi ấy của ông ta...

Hàn Tốn mới nói được bấy nhiêu, bỗng im ngay tiếng nói lại. Và cùng một lúc đó, Tây Môn Nhất Nương đã bất thần quay mặt lại, nhìn thẳng vào mặt hắn ta, quát rằng:

- Ông là ai thế? Vừa nói, bà ta cũng vừa thảy chiếc hộp gỗ về phía Lữ Đằng Không, nói tiếp rằng:

- Hãy cất kỹ đã! Người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy, tỏ ra hết sức bình tĩnh, nói:

- Lữ phu nhân tại sao lại hỏi thế? Tại hạ chính là Hàn Tốn đây! Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng to, nói:

- Ông nếu là Hàn Tốn thì tại sao vừa rồi khi tôi hỏi ngọn roi của Hàn Tốn nặng bao nhiêu, ông lại bảo ngọn roi của "ông ấy"? Đồng thời, tại sao nơi eo lưng của số thủ hạ ông, ai ai cũng đều có quấn một ngọn roi vàng y hệt như nhau? Câu nói chưa dứt, thì ai nấy đều nghe một tiếng rẻng ngân dài, tức thì, cánh tay phải của bà ta liền vung lên, ánh thép chói lập lòe, vì thanh trường kiếm đã rời ra khỏi vỏ. Tiếp đó, bà ta lại vung thành những đóa kiếm hoa chói ngời, nhắm ngay lồng ngực của gã Hàn Tốn ấy đâm tới! Sắc mặt của Hàn Tốn liền biến hẳn, nhanh nhẹn nhún đôi chân nhảy vọt lên cao, trong khi một cánh tay cũng đã chụp lấy một chiếc ghế bằng gỗ tử đàn, nhắm ngay mặt Tây Môn Nhất Nương ném thẳng tới.

Nhưng lúc ấy Lữ Đằng Không đã kịp nhận ra cục diện chung quanh có điều rất khả nghi, nên vừa trông thấy đôi bên ra tay choảng nhau, cũng liền nhanh nhẹn đưa chân tràn tới, vung một chưởng quét thẳng ra, khiến luồng chưởng phong đã hất bay chiếc ghế tử đàn về phía khác.

Trong khi đó, thế kiếm của Tây Môn Nhất Nương vẫn tiếp tục công ồ ạt tới, với thế Lưu Tinh Cản Nguyệt đó, đầu mũi kiếm không ngớt rung lên, ánh thép chiếu lập lòe, nhắm ngay ngực Hàn Tốn đâm tới.

Hàn Tốn trông thấy thế, bèn thét lên một tiếng dài, rồi vung một cánh tay lên lưng, tuốt xuống một ngọn Điểm Can Phán Quan Bút, siết chặt giữa lòng bàn tay. Đồng thời, hắn ta cũng nhanh nhẹn vung thẳng ra, gây thành một vệt ánh thép màu đen chiếu ngời, nhắm ngay đầu mũi kiếm của Tây Môn Nhất Nương điểm tới.

Về kiếm thuật của Tây Môn Nhất Nương, có thể nói còn cao cường hơn cả vị Chưởng môn phái Điểm Thương và Thần Thủ Kiếm Khách Khuất Lục Kỳ, tức một cao thủ trong phái này nữa. Bởi thế, với đường Lưu Tinh Cản Nguyệt ấy, tiếp tục diễn biến thành ra nhiều thế và nhiều miếng võ khác nhau, khiến mũi kiếm lướt đi vèo vèo, nhanh nhẹn một cách thần kỳ, dù cho ai cũng khó bề chống trả nổi.

Nhưng gã Hàn Tốn ấy vung ngọn Phán Quan Bút đánh ra cũng hết sức kỳ ảo khó lường. Do đó, sau ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng, mũi Phán Quan Bút đã chạm thẳng vào mũi trường kiếm của Tây Môn Nhất Nương, khiến bà ta cảm thấy cổ tay bị ít nhiều tê dại.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương bèn vội vàng hạ thấp cánh tay xuống, trong khi đường kiếm diễn biến nhẹ nhàng, tiếp tục đâm thẳng về phía trước với thế Thôi Song Vọng Nguyệt, kiếm khí chói rực như một mống bạc. Đồng thời, bà ta nạt to rằng:

- Khá khen cho tên tặc tử kia! Ngươi là ai thế? Người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy vẫn im lặng không trả lời, trong khi ngọn Phán Quan Bút trong tay cũng đang bắt từ trên cao nhắm ngay sống thanh trường kiếm của Tây Môn Nhất Nương giáng xuống. Và khi ngọn Phán Quan Bút vừa chạm nhẹ vào lưng thanh trường kiếm, hắn ta đã đưa chân tràn tới, rồi lách ngọn Phán Quan Bút đâm rọc theo thân kiếm, nhắm điểm thẳng vào Dương Cốc huyệt của Tây Môn Nhất Nương nghe một tiếng vút.

Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng cười dài, nói:

- Thế võ hiểm hóc lắm.

Kiếm pháp của Tây Môn Nhất Nương quả đã tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh trong đời. Vì lúc nãy, khoảng cách giữa đôi bên hết sức gần, và có lẽ không xa hơn hai thước mộc, nên đáng lý ra thanh trường kiếm của bà ta khó bề thi thố, nhưng chẳng ngờ bà ta kịp thời thu cánh tay trở lại, rồi bất thần quét thẳng trở ra...

Thế là, sau một tiếng xoạc to, thanh trường kiếm trong tay của Tây Môn Nhất Nương đã gây thành một vầng ánh sáng tròn, nhắm ngay lồng ngực của gã Hàn Tốn ấy quét tới.

Với thế Đầu Thủy Kinh Thiên ấy, là một thế kiếm nhắm thủ thắng. Đối phương giữa cơn nguy cấp, chẳng những hết sức nhanh nhẹn, mà lại gọn gàng, ai nhìn đến cũng phải thầm khiếp phục.

Do đó, gã Hàn Tốn ấy liền quát lên một tiếng to, rồi nhanh nhẹn nhảy lui trở ra sau, trong khi lớp áo trước ngực đã bị mũi kiếm quét rạch toạc một đường dài, khiến lớp da thịt trước ngực đều lộ rõ ra ngoài. Và cũng chính vì thế, nên ai nấy đều trông thấy bên cạnh * của hắn ta, có xăm một chữ "Phán" to và xanh lè! Sau khi Tây Môn Nhất Nương và người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy đã ra tay đánh nhau, thì Lữ Đằng Không mới bừng hiểu rằng đây là một chuyện chi. Lão ta đoán biết là đã có người hiểu được vợ chồng lão ta không hề biết mặt Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, do đó, mới cải trang giả dạng, mạo nhận mình là Hàn Tốn để dẫn dụ hai vợ chồng lão ta đến đây.

Sở dĩ đối phương làm như vậy, chính là nhằm mục đích muốn cướp lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm vào tay mình, chiếc hộp gỗ mà suốt trên đoạn đường vạn dặm, đã có bao nhiêu cao thủ theo dõi, tìm đủ mưu mô để cướp đoạt, song vẫn không thể cướp đước Cũng may là Tây Môn Nhất Nương đã khám phá ra được mưu mô của đối phương, nếu không chắc chắn tên tuổi bấy lâu nay cũa Lữ Đằng Không đành buông trôi theo dòng nước chảy.

Tuy nhiên, lúc ấy trong lòng Lữ Đằng Không vẫn còn đang băn khoăn nghĩ ngợi, không hiểu người đàn ông cải trang làm Hàn Tốn ấy là ai, mà phong độ lại có vẻ cao sang, võ công trác tuyệt như thế? Do đó, mãi đến khi mũi trường kiếm của Tây Môn Nhất Nương đã rạch toạt được lớp áo ngoài của đối phương, để lộ ra một chữ "Phán" xâm ở trước ngực, thì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mới như hiểu rõ được mọi sự thực.

Bởi thế, cả hai người đều buộc miệng phá lên cười to khanh khách, nói:

- Té ra lại chính là các ngươi!

Tây Môn Nhất Nương đưa chân tràn tới trước một bước, và định tiếp tục vung thanh trường kiếm xông về phía đối phương, bỗng nghe có tiếng chuông đánh lên một tiếng boong.

Tức thì, số người đang đứng vây quanh cạnh đấy đều nhất loạt quỳ cả xuống đất, và cả người đàn ông tự xưng là Hàn Tốn kia, cũng vội vàng thối lui ra sau, đứng ngay ngắn có vẻ kính cẩn lắm.

Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không trông thấy vậy, thì trong lòng không khỏi hết sức hãi kinh. Bởi thế, Lữ Đằng Không liền vung tay lên vai, và sau một tiếng rẻng ngân dài, lão ta đã siết chặt thanh đao lưỡi mỏng như giấy vào giữa lòng bàn tay, sẵn sàng đối phó với mọi điều bất trắc.

Tây Môn Nhất Nương cũng nhanh nhẹn thối lui ra sau một bước, rồi hai người đứng đâu lưng vào nhau, để quan sát được khắp chung quanh dễ dàng hơn.

Liền đó, bỗng nghe có tiếng gào khóc văng vẳng bay đến bên tai. Tây Môn Nhất Nương bèn hạ giọng nói nhỏ với Lữ Đằng Không rằng:

- Hãy cẩn thận! Suốt dọc đường đi tuy chúng ta đã gặp nhiều kình địch có võ công cao cường, nhưng xem ra tình hình hiện nay, có lẽ chính là con quỷ già ấy sắp xuất hiện đây rồi! Lữ Đằng Không khẽ gật đầu, nói:

- Tôi hiểu rồi! Thì ra, vừa rồi Tây Môn Nhất Nương đã dùng thế kiếm Đầu Thủy Kinh Thiên rạch toạc được lớp áo trước ngực của gã đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy, nên đã thấy được trước ngực đối phương có xâm một chữ "Phán" to màu xanh, liền đoán biết được hắn ta chính là cao thủ môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn rồi.

Môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh chẳng những rất đông mà lại có rất nhiều cao thủ.

Ngoại trừ hai đứa con trai của lão ta là Câu Hồn Sứ Thạnh Tài và Đoạt Mệnh Sứ Thạnh Phủ ra, lại còn có những cao thủ mang chức vụ y như ở dưới Diêm Vương, nào là Tả Hữu Phán Quan, Ngưu Đầu Mã Diện, Dạ Sa Tiểu Quỷ, Hắc Bạch Vô Thường...

Mấy hôm trước đây, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã gặp một quái khách che mặt có võ công hết sức cao cường, ra tay đánh trọng thương Hắc Bạch Vô Thường đang mưu toan gây thương tích cho hai con tuấn mã của mình, nên họ biết là Quỷ Thánh Thạnh Linh đang phái rất nhiều người để theo dõi hành tung của họ.

Giờ đây, họ đã trông thấy rõ được trước ngực của gã đàn ông tự xưng là Hàn Tốn ấy, có xâm một chữ "Phán", hơn nữa, hắn ta lại dùng một ngọn Điểm Can Phán Quan Bút, chắc chắn hắn là một trong Tả Hữu Phán Quan, thuộc cao thủ môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh rồi, chứ không còn chi phải nghi ngờ nữa.

Tả Hữu Phán Quan là hai nhân vật có địa vị rất cao trong số thủ hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh, đồng thời, võ công lại cũng chẳng phải tầm thường, thế mà giờ đây, sau khi nghe được tiếng khóc nghẹn ngào ấy, y chẳng hề chi đến kẻ cường địch đang đứng trước mặt, vội vàng nhảy lui ra sau, đứng buông thõng đôi tay một cách nghiêm trang chờ đợi. Vậy, chỉ dựa vào đó cũng đủ biết nhân vật sắp xuất hiện ấy, phải là một nhân vật hắn ta kinh sợ vô cùng.

Từ bấy lâu này, Quỷ Thánh Thạnh Linh xây dựng căn cứ tại Bắc Mang Sơn, và nghiễm nhiên trở thành một tông phái. Đồng thời, lão ta rất ít khi giao thiệp với các môn phái lớn trong võ lâm, cũng như ít khi xuất đầu lộ diện trong giới giang hồ. Hơn nữa có thể nói lão ta gần như cắt đứt hẳn liên hệ với cuộc đời trần tục bên ngoài. Dưới Bắc Mang Sơn, có một địa huyệt thiên nhiên rất to lớn, nên lão ta đã dựa vào đó, xây dựng một Quỷ Cung rất chắn chắn và cũng vô cùng bí mật.

Số người sống trong Quỷ Cung ấy của Quỷ Thánh Thạnh Linh, nếu không có mệnh lệnh, tuyệt đối không được tùy tiện bước ra ngoài. Chính vì vậy, gã đàn ông to lớn tự xưng là Hàn Tốn này, đang đứng ngay ngắn để cung nghinh ai, cũng có thể suy đoán được rồi.

Giữa lúc Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đang thì thầm bàn tán kế hoạch đối phó với nhau, tiếng gào khóc ấy cứ mỗi lúc nghe một gần hơn. Và liền theo đó, lại thấy có bóng người di động chập chờn, rồi lại thấy có hai gã đàn ông mình mặc áo đại tang, từ ngoài phi thân lướt thẳng vào gian đại sảnh nhanh như gió lốc.

Hai gã đàn ông mặc áo đại tang ấy, sắc mặt trông vô cùng quái dị, một gã cầm gậy tang, và một gã khác tay cầm ngọn Chiêu Hồn Phướn.

Khi hai hắn ta buông đôi chân đứng yên xuống mặt đất, thì gã đàn ông tự xưng là Hàn Tốn vừa rồi, liền cất tiếng cung kính hỏi rằng:

- Thánh Quân tới hay chưa? Thì ra, hai gã đàn ông mặc áo đại tang ấy, không ai khác hơn là Thạnh Tài và Thạnh Phủ. Sau khi nghe câu hỏi của gã đàn ông đồng đảng, Thạnh Tài bèn đưa mắt nhìn về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương một lượt, nói:

- Thánh Quân đã đến rồi! Chỉ với năm tiếng ấy, mà hắn ta nói to với một giọng vừa bén nhọn, vừa cao vút, nghe xói xỉa vào màng tai mọi người.

Giữa lúc hai tiếng "đến rồi" của hắn ta hãy còn bay lâng lâng giữa gian đại sảnh, bất thần cả gian đại sảnh ấy, dường như đều bị chuyển động. Kế đó, ai nấy lại trông thấy hai gã đàn ông khác có thân hình vô cùng cao lớn, tay cầm đinh ba, ăn mặc như một cặp quỷ dạ xoa, từ bên ngoài chạy bay vào. Và tại phía sau của hai gã ấy, lại có một chiếc kiệu nhỏ, do bốn gã đàn ông lực lưỡng khác cùng khiêng đi nhanh tới.

Bên trên chiếc kiệu ấy, đang ngồi chễm chệ một quái nhân sắc mặt tái nhợt, đôi má hóp và không hề trông thấy một tí thịt, đôi mày xụ xuống như mày tang, đôi mắt hình tam giác sáng lập lòe, nhưng không làm sao đoán biết được tuổi độ bao nhiêu.

Quái nhân đó mình mặc một bộ y phục màu vàng, bên trên có thêu những con rồng lộn. Do đó, nếu không phải lão ta có một khuôn mặt xấu xí khó coi, thì thoạt nhìn qua, ai cũng lầm tưởng đấy là một vị hoàng đế! Bốn gã đàn ông lực lưỡng ấy khiêng thẳng chiếc kiệu vào giữa gian sảnh đường to, rồi mới cùng để yên xuống.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn nhau một lượt, trong lòng không khỏi thầm bảo: "Quả là một việc không ngoài sự phán đoán của ta. Quỷ Thánh Thạnh Linh là một bậc tông sư của một môn phái yêu tà, thế mà ngày nay cũng rời khỏi Bắc Mang Sơn xuất hiện đến nơi này!" Sau khi chiếc kiệu được để yên trên mặt đất, Quỷ Thánh Thạnh Linh liền đưa tay vén áo dài bước xuống. Tức thì, bốn gã đàn ông khiêng kiệu, bèn cùng nhanh nhẹn bước lui ra ngoài.

Quỷ Thánh Thạnh Linh nhìn thẳng về phía gã đàn ông tự xưng Hàn Tốn vừa rồi, hỏi rằng:

- Còn Tả Phán Quan đâu không thấy? Gã đàn ông ấy nhanh nhẹn bước tới một bước, cung kính đáp:

- Tả Phán Quan đã rời thành vào hôm qua, để đi tìm hiểu tung tích của hai người này, nhưng mãi đến bây giờ, vẫn chưa thấy trở về.

Trên khuôn mặt như xác chết của Quỷ Thánh Thạnh Linh chẳng hề trông thấy có một tí tình cảm. Lão ta cất giọng lạnh lùng hừ lên một lượt, nói:

- Mãi đến bây giờ chưa về? Gã đàn ông ấy lại lên tiếng đáp:

- Thưa, vâng! Quỷ Thánh Thạnh Linh bèn từ từ quay mặt nhìn về phía Lữ Đằng Không một lượt, nói:

- Quý khách đã đến nơi đây, tại sao không ngồi xuống ghế để đàm đạo? Lữ Đằng Không cất tiếng cười nhạt, nói:

- Họ Thạnh kia! Ông muốn giở trò chi thế? Hãy mau nói ra đi nào! Quỷ Thánh Thạnh Linh vẫn điềm nhiên như chẳng hề có việc chi xảy ra, nói:

- Kể từ lúc nhị vị bắt đầu lên đường tại thành Nam Xương, tôi đã phái nhiều người đón đường để chặn lấy nhị vị, nhưng nào ngờ nhị vị quả là người danh bất hư truyền, nên thủ hạ của tôi đều bị thất bại trở về. Chính về thế, nên hôm nay bất đắc dĩ, tôi mới đến đây, vậy xin Lữ Tổng tiêu đầu vui lòng trao cho chiếc hộp gỗ đang cất trong chiếc áo kia.

Sắc mặt của Lữ Đằng Không biến hẳn, nói:

- Lữ mỗ được người ta thù lao trọng hậu, để mang vật này đến trao tận tay cho Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, vậy làm thế nào lại trao cho ông được? Quỷ Thánh Thạnh Linh cất tiếng cười âm u, sâu hiểm. Tiếng cười của lão ta dồn đầy chân lực, khiến ngay như Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe qua, cũng không khỏi bắt rùng mình mấy lượt! Quỷ Thánh Thạnh Linh lại nói tiếp rằng:

- Nhị vị chả lẽ không nghe người xưa bảo, là làm dấu trên be thuyền để mò gươm chìm vào đáy nước, chính là một việc vô cùng ngu xuẩn hay sao? Hiện giờ, tính mệnh của nhị vị đang hết sức hiểm nguy, vậy chả lẽ còn nghĩ đến việc bảo vệ cái hộp gỗ ấy sao? Lữ Đằng Không tức giận, nói:

- Chúng tôi đang lâm nguy ở chỗ nào? Tại sao chúng tôi lại không thấy chi cả? Quỷ Thánh Thạnh Linh cất tiếng cười ngạo nghễ nói:

- Tôi đã từ Quỷ Cung ở Bắc Mang Sơn đến đây, vậy chả lẽ lại chịu về tay không hay sao? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, liền vận chuyển chân khí trong người, bảo vệ khắp châu thân. Do đó, sau một tiếng cười dài, Lữ Đằng Không bèn vung mạnh thanh đại đao đang siết chặt giữa lòng bàn tay nghe một tiếng vút, gây thành một vùng đao hoa sáng ngời, nói:

- Thạnh lão quỷ! Nhưng ta nhất định để cho ông phải chịu về tay không! Tiếng "không" vừa mới thốt ra khỏi miệng, thì thanh đại đao đã được lão ta vung lên sáng ngời như một chiếc cầu vồng, nhắm ngay đầu Quỷ Thánh Thạnh Linh chém xuống.

Quỷ Thánh Thạnh Linh vẫn mỉm một nụ cười sâu hiểm trên đôi khóe miệng, và chờ cho thế đao ồ ạt sắp giáng đến nơi, rồi mới bất thần khẽ xoay thân người. Tức thì, cả người lão ta cùng với chiếc ghế ngồi, liền nhanh nhẹn bay tránh ra xa ngoài ba thước.

Thế võ Trọc Lãng Quyển Địa ấy của Lữ Đằng Không thật vô cùng dũng mãnh và nhanh nhẹn, thế mà, Quỷ Thánh Thạnh Linh đã lách tránh hết sức kịp thời, nên khiến cho đường đao ấy của Lữ Đằng Không bị chém vào khoảng không! Đồng thời, vì thế đao đang chém tới quá nhanh, nên ai nấy đều ngỡ là lưỡi đao trong tay của Lữ Đằng Không chắc chắn sẽ chém thẳng vào sàn nhà...

Nhưng Lữ Đằng Không dù sao vẫn chẳng phải là một nhân vật tầm thường, trong đời ông ta đã sử dụng ngọn đại đao hết sức kỳ tuyệt, khắp võ lâm ít ai bì nổi. Hơn nữa, nội lực của ông lại tiến tới mức có thể thu hay phát nhanh nhẹn theo ý nghĩ trong đầu óc, nên vừa trông thấy thế đao bị chém hút vào khoảng không, liền gầm to một tiếng, tức thì thế đao liền diễn biến ngay tức khắc.

Do đó, lưỡi đao trong tay Lữ Đằng Không liền quét ngang nhanh như một luồng điện chớp, rồi lại bất thần diễn biến thế Trọc Lãng Quyển Địa thành ra thế Lôi Phách Trung Thiên, khiến ánh đao chói ngời hoa cả mắt mọi người, công tới chẳng thua gì sóng dậy triều dâng.

Quỷ Thánh Thạnh Linh vừa mới tránh khỏi thế đao thứ nhất của Lữ Đằng Không, bất thần lại trông thấy thế đao thứ nhì đã tới, nên vội vàng đè mạnh hai tay lên thành ghế ngồi, phi thân bay bỗng lên khoảng không, trông nhẹ nhàng như một cái hình nhân bằng giấy.

Chính vì thế, nên thế đao của Lữ Đằng Không không làm sao chém trúng được lão ta, trái lại, sau một tiếng phập to, ai nấy đều trông thấy chiếc ghế bằng gỗ tử đà mà Quỷ Thánh Thạnh Linh vừa ngồi đã bị đao thép trong tay của Lữ Đằng Không chém ngang làm đứt đôi ngon lành.

Quỷ Thánh Thạnh Linh sau khi từ trên cao buông nhẹ đôi chân đứng sững trên mặt đất, liền cất tiếng cười ha hả vang rền. Tiếng cười của lão nghe thật quái dị, khiến ai cũng cảm thấy Chương hộp trong lòng! Lữ Đằng Không biết Quỷ Thánh Thạnh Linh am hiểu mấy môn võ công của tà môn rất lợi hại, chuyên gây sự hoang mang sợ hãi cho đối phương. Do đó, ông ta bèn nhanh nhẹn đưa cao ngọn đao lên trước lồng ngực, và cố tự trấn tĩnh tâm thần mình.

Quỷ Thánh Thạnh Linh bèn lên tiếng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu quả là người có đao pháp như thần, thực làm cho tôi phải kính phục lắm. Nhưng chỉ đáng tiếc là Lữ Tổng tiêu đầu lại không thức thời vụ mà thôi.

Lữ Đằng Không tự biết, đứng trước một nhân vật cao tuyệt trong tà phái như vầy, chắc chắn rất khó bề thủ thắng được, và chỉ cần có thể lui ra khỏi nơi đây được an toàn, cũng là điều may mắn lắm rồi.

Do đó, Lữ Đằng Không chẳng trả lời câu nói của Quỷ Thánh Thạnh Linh, mà nhanh nhẹn bước lùi ra sau mấy bước, cùng đứng sát bên cạnh Tây Môn Nhất Nương để bàn bạc một lúc.

Tức thì, cả hai người bất thần quát to lên một lượt, trong khi Tây Môn Nhất Nương đã vung trường kiếm quét ra vun vút ba thế kiếm mãnh liệt, ánh thép chiếu ngời bao bọc khắp cả thân hình của hai vợ chồng bà ta. Đồng thời, cả hai lại nhanh nhẹn tràn thẳng về phía trước...

Liền đó, có hai gã đàn ông to béo đứng cạnh đấy, bèn xông thẳng ra để ngăn chặn Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương lại. Nhưng hắn liền bị Lữ Đằng Không vung thanh đao trong tay lên, rồi từ những khe hở của ngọn kiếm đang xoay vun vút, chém tới khiến cả hai đều bị trọng thương.

Thân pháp của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương hết sức nhanh nhẹn, lướt tới chẳng thua gì một ngọn gió lốc. Nhưng cả hai người đều không nhắm lướt ra phía cửa cái, mà trái lại, cùng nhắm lướt thẳng đến trước một tấm tường cạnh đấy.

Khi cả hai lướt đến nơi, Lữ Đằng Không bất thần gầm lên một tiếng to, vung chưởng trái quét thẳng vào tấm tường ấy.

Ý định của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương là xuất kỳ bất ý tràn đến trước bức tường này, rồi vung chưởng đánh thủng thành một lổ trống to, hầu cả hai thoát ra khỏi ngôi nhà, chứ không đi theo phía cửa cái có sự canh phòng cẩn mật của đối phương.

Ý định ấy của họ vốn có thể thực hành được, vì khi hai người tràn đến bức tường, Quỷ Thánh Thạnh Linh hãy còn đứng cách xa đến ngoài một trượng, xem ra lão ta không làm sao ngăn chặn họ kịp nữa. Nhưng nào ngờ giữa lúc Lữ Đằng Không mới vừa vung chưởng lên và chưa kịp đánh ra, đã nghe Quỷ Thánh Thạnh Linh bỗng quát lên một tiếng to rất lạ lùng.

Tiếng quát ấy của lão ta đã xé tan bầu không khí nặng nề trong gian đại sảnh, khiến cho tất cả môn hạ đang đứng chung quanh, ngoại trừ Thạnh Tài và Thạnh Phủ, còn thì đều ùn ùn chen lấn nhau chạy bay ra khỏi cửa.

Trong khi đó, cánh tay vốn đang dồn đầy chân lực của Lữ Đằng Không cũng bỗng nhiên bị ảnh hưởng của tiếng quát ấy, nên chân lực liền bị phân tán đi đến bảy phần mười.

Chính vì vậy, nên thế chưởng của Lữ Đằng Không quét ra, chỉ đánh vỡ lớp vôi ở bên ngoài tuôn đổ lào xào, chứ riêng bức tường thì không hề bị đánh thủng.

Lữ Đằng Không trông thấy thế, trong lòng vô cùng hãi kinh. Tây Môn Nhất Nương bèn lên tiếng nói:

- Để tôi đi đối phó với hắn ta, không cho hắn có đủ thời giờ gào la, sử dụng môn võ công yêu ma ấy nữa, còn ông thì lo dùng chưởng lực tiếp tục phá vỡ bức tường này.

Lữ Đằng Không liền lên tiếng tán đồng, rồi lại tập trung chân lực vào cánh tay. Nhưng vì lúc ấy lão ta đang lo lắng đến sự an nguy của người vợ già, và khi quay đầy ngó lại, trông thấy Tây Môn Nhất Nương đang vung lưỡi trường kiếm sáng ngời, đánh nhau quyết liệt với Quỷ Thánh Thạnh Linh. Trong khi đó, Quỷ Thánh Thạnh Linh xê dịch thân người nhẹ nhàng và nhanh như bay, đôi tay áo không ngớt phất phơ, trông chẳng hề khiếp sợ.

Bởi thế, thanh trường kiếm của Tây Môn Nhất Nương mặc dầu sử dụng hết sức chặt chẽ, lại đánh toàn những thế võ hiểm hóc khó lường, song vẫn không làm sao gây được thương tích cho đối phương! Lữ Đằng Không trông thấy vậy, trong lòng liền có ý nghĩ, là ở trong khung cảnh này, dù mình có đánh vỡ được bức tường đi nữa, vẫn e rằng không làm sao thoát khỏi nơi đây được. Vậy, chi bằng cả hai vợ chồng cùng tràn đến vây đánh đối phương, không biết chừng có thể thủ thắng, và do đó sự rời đi mới được dễ dàng hơn.

Vì nghĩ như vậy, nên Lữ Đằng Không bèn quát to lên một tiếng, nhún mạnh đôi chân lao thoắt về phía đối phương.

Hai vợ chồng của Lữ Đằng Không tuy theo học võ công với hai môn phái khác nhau, hơn nữa, một người sử dụng trường kiếm, còn một người lại sử dụng đại đao, nhưng vì đôi bên đã là vợ chồng trong mấy mươi năm dài, nên đều rất am hiểu lối đánh của nhau. Do đó, sự phối hợp giữa họ cũng tỏ ra rất ăn khớp.

Bởi thế, khi Lữ Đằng Không vừa lao mình đến nơi, đã vung ngay thanh đao chém tới nghe một tiếng vút. Và thế đao ấy của lão ta đã phối hợp rất tuyệt diệu với thế kiếm của Tây Môn Nhất Nương đang đánh tới. Chính vì vậy, nên bóng kiếm và bóng đao liền chập chờn dầy đặc cả khoảng không, kình khí trùm kín cả thân người của Quỷ Thánh Thạnh Linh, cơ hồ không còn một chỗ trống.

Hai vợ chồng Lữ Đằng Không trông thấy áp đảo được kẻ địch, trong lòng hết sức phấn khởi, đồng thanh quát to, rồi lại công tới ồ ạt. Xem ra, chắc chắn Quỷ Thánh Thạnh Linh đành phải bị thương dưới thanh đao và lưỡi kiếm của hai người, chứ chẳng còn cách nào khác hơn nữa...

Nhưng đột nhiên ngay lúc ấy, hai người bỗng cảm thấy có một luồng gió lạnh cuốn thẳng vào mặt. Và tuy luồng gió lạnh ấy không mạnh mẽ lắm, nhưng nó vừa cuốn tới, hai người đều ngửi thấy một mùi hôi thối như mùi xác chết bay thẳng vào mũi! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều hết sức hãi kinh, vội vàng vận dụng chân khí để khóa cứng thất khiếu trong người lại. Tuy nhiên, cả hai đều cảm thấy đầu óc choáng váng, và vì thế đường võ của họ đang sử dụng cũng bị chậm đi rất nhiều. Chính vì vậy, nên Quỷ Thánh Thạnh Linh mới nắm lấy sơ hở ấy, vung mạnh hai tay áo rộng, quét thẳng về phía đối phương, rồi nhanh nhẹn phi thân bay vọt ra xa giữa những luồng đao kiếm chằng chịt. Kế đó, lão ta cất tiếng cười ha hả, đầy giọng ngạo nghễ nói:

- Nhị vị hiện giờ đã bị trúng luồng Âm Thi Chưởng của ta rồi, vậy chả lẽ còn muốn tiếp tục đánh nhau nữa hay sao? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, đều không khỏi giật mình. Song, cả hai bèn nhanh nhẹn nhảy lùi ra sau, thử vận dụng chân khí trong người, thấy không có điều chi kỳ lạ cả, thì lại mừng thầm.

Nhưng cùng một lúc đó, họ bỗng cảm thấy trong lòng bào bọt như muốn ói, hết sức khó chịu.

Người luyện tập võ công, ngoại trừ trường hợp bị nội ngoại thương, còn thì rất ít khi sinh bệnh. Hơn nữa, một người có trình độ võ công cao tuyệt như Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, tuyệt đối không khi nào cảm thấy nhức đầu hay buồn nôn như thế này cả.

Do đó, hai người đã biết mình đang bị nguy, nhưng chả lẽ lại lên tiếng chịu thua đối phương hay sao. Bỏi thế, Tây Môn Nhất Nương bèn cất giọng lạnh lùng nói:

- Chẳng cần hiểu ông sử dụng thứ chưởng lực gì, ngày hôm nay nếu chúng tôi không rời khỏi được ngôi nhà này, thề sẽ không làm con người nữa! Quỷ Thánh Thạnh Linh cất tiếng cười ha hả, nói:

- Lẽ tất nhiên là hai người sẽ rời khỏi được nơi này, nhưng chắc chắn là do người ta khiêng ra! Ngụ ý qua câu nói của Quỷ Thánh Thạnh Linh rất rõ ràng, là muốn bảo hai người chắc chắn sẽ bị chết và sẽ bị người khiêng đi chôn.

Lúc ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy bụng dạ buồn nôn trong lòng mỗi lúc một trầm trọng hơn, nên chưa lên tiếng trả lời với Quỷ Thánh Thạnh Linh, bỗng đồng loạt nạt lên mấy tiếng! Do đó, trên sắc mặt tái nhợt của Quỷ Thánh Thạnh Linh hiện lên một nụ cười sâu hiểm, đầy vẻ đắc ý.

Tây Môn Nhất Nương không khỏi hết sức thầm cuống quýt nghĩ rằng: "Quả Quỷ Thánh Thạnh Linh là một nhân vật danh bất hư truyền. Giờ đây vì mình thiếu thận trọng, nên đã bị thiệt thòi trước đối phương, xem ra có lẽ khó bề thoát được vòng nguy hiểm." Vợ chồng của Tây Môn Nhất Nương tuổi đều trên sáu mươi, vậy còn có sợ chi chuyện sống chết, vì cái chết không ai làm sao tránh được cả. Tuy nhiên trong lòng họ còn có một điều ân hận, ấy là đứa con trai yêu quý của mình tuổi hãy còn bé thơ, mà lại bị người ta sát hại vô cùng thảm khốc. Vậy, nếu giờ đây cả hai đều bị chết cả đi, e rằng mối oán cừu ấy, chẳng còn người nào rửa sạch giúp cho nó nữa.

Khi nghĩ đến đó, Tây Môn Nhất Nương cảm thấy lòng căm hờn cháy lên ngùn ngụt. Bà ta chỉ tức giận vì mình không đủ sức để hủy diệt luôn cả tòa nhà đồ sộ này đi! Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương lại liếc nhìn thấy Quỷ Thánh Thạnh Linh đang chắp hai tay ra sau, thái độ coi ung dung nhàn tản, nên lửa giận lại càng cháy bừng bừng. Đồng thời, khi bà ta nhìn sang Thạnh Tài và Thạnh Phủ đang đứng đấy, thấy họ đang mỉm cười ngạo nghễ, trong lòng bỗng thoáng một sự quyết định, nên vội vàng lấy khuỷu tay thúc nhẹ vào người của Lữ Đằng Không một lượt. Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương là đôi vợ chồng sống tâm đầu ý hợp suốt mấy mươi năm dài, nên nhất nhất việc gì, họ cũng hành động ăn khớp với nhau. Do đó nhiều trường hợp, họ chẳng cần phải dùng lời nói để trao đổi ý kiến với nhau cho thực cặn kẽ, mà chỉ cần liếc mắt ra hiệu, hay lấy tay thúc vào người nhau, là cũng có thể cảm nhận được ý muốn của nhau rồi! Bởi thế, sau khi Tây Môn Nhất Nương đã thúc nhẹ vào người của Lữ Đằng Không, liền bất thần đưa chân tràn tới trước, rồi nhắm ngay gã Thạnh Tài lao thoắt tới, nhanh như một ngọn gió lốc.

Thạnh Tài trông thấy thế, liền vung mạnh ngọn Chiêu Hồn Phướn lên đánh thẳng vào đối phương nghe một tiếng vút! Thế lao tới của Tây Môn Nhất Nương, chính là một hành động rất quả quyết, trong một trường hợp định đoạt lấy sự thắng bại và sống chết, nên đã sử dụng toàn lực cũng như tài nghệ trong người mình, khiến thế lướt vô cùng nhanh nhẹn, không ai có thể lường được cả.

Mặc dù ngọn Chiêu Hồn Phướn của Thạnh Tài đã bắt từ trên cao ồ ạt giáng trúng thẳng vào bả vai phía phải của Tây Môn Nhất Nương, nhưng bà ta đã rùn thấp thân người xuống, và nhanh nhẹn lướt thẳng đến sát sau lưng của Thạnh Tài. Đồng thời trở cán gươm trong tay, nhắm ngay Khí Hộ huyệt ở phía nách của đối phương giáng mạnh tới.

Lúc bấy giờ, Tây Môn Nhất Nương đã dùng toàn bộ sức mạnh trong người để đánh ra thế ấy, nên dù cho Thạnh Tài, một con người võ công khá cao cường, nhưng thử hỏi làm sao có thể bì kịp với Tây Môn Nhất Nương? Hơn nữa, hắn ta tưởng đâu ngọn Chiêu Hồn Phướn của mình đã giáng trúng thẳng vào mặt đối phương rồi, thì dù cho đối phương không bị mất mạng ngay tất cũng bị trọng thương. Nhưng nào ngờ đâu Tây Môn Nhất Nương đã sử dụng nội gia chân lực, bố trí khắp châu thân, nên khi thấy ngọn Chiêu Hồn Phướn của Thạch Tài giáng tới, thì luồng chân lực ấy đã xô bạt được thế đánh của đối phương một cách dễ dàng.

Đồng thời, Tây Môn Nhất Nương cũng đã nương vào sức mạnh của ngọn Chiêu Hồn Phướn đánh ra, để tràn nhanh trước đúng theo ý định của mình. Do đó, khi bà ta vung gươm giáng thẳng vào người đối phương, thì đối phương không làm sao trở tay kịp. Chính vì vậy, nên Khí Hộ huyệt của Thạnh Tài đã bị bà ta chế ngự được trong một cái chớp mắt.

Liền theo đó, Tây Môn Nhất Nương đã nhanh nhẹn thò chụp lấy vai của Thạnh Tài, rồi lắc mạnh một lượt, khiến cho toàn thân của hắn ta bị rung chuyển mãnh liệt. Và sau một tiếng bốp, ai nấy liền thấy ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay Thạnh Tài đã buông rơi thẳng xuống mặt đất! Tây Môn Nhất Nương đã chế ngự được đối phương, ngước mắt nhìn lên, và trông thấy Lữ Đằng Không đang vung ngọn đao thép sáng ngời cả khoảng không, khiến gã Thạnh Phủ đứng cạnh đấy, bị ánh thép trùm kín khắp thân mình.

Nhưng cũng ngay lúc ấy, bà ta lại trông thấy Quỷ Thánh Thạnh Linh vung đôi chưởng chập chờn của lão ta.

Tây Môn Nhất Nương nhanh như chớp, vung cánh tay đang giữ thanh trường kiếm lên, chĩa thẳng mũi kiếm bén vào ngay họng của gã Thạch Tài quát to rằng.

- Thạnh lão quỷ! Nếu ông không chịu dừng tay lại, thì thằng ranh này sẽ mất mạng ngay.

Lời nói của Tây Môn Nhất Nương vừa thốt ra khỏi miệng, thì bỗng trông thấy ánh thép từ lưỡi đao của Lữ Đằng Không bỗng tắt phụt, đồng thời ông ta đã nhanh nhẹn thò một chưởng về phía trước, đè thẳng lên Mạng Môn huyệt tại lưng của gã Thạnh Phủ.

Nhưng cùng một lúc đó, Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng đã đưa chân tràn nhanh tới trước, rồi nhanh nhẹn thò một bàn tay ra, đè thẳng lên lưng của Lữ Đằng Không.

Thì ra, vừa rồi, cùng một lúc với Tây Môn Nhất Nương, Lữ Đằng Không đã lao thẳng về phía gã Thạnh Phủ, dùng thế Lạc Hoa Phi Dương tấn công về phía đối phương. Gã Thạnh Phủ trông thấy thế, bèn nhanh nhẹn vung chiếc gậy tang lên đỡ, thế là sau một tiếng xoảng, chiếc gậy tang trong tay gã Thạnh Phủ đã bị đánh bay ra tận đàng xa, trong khi Lữ Đằng Không lại vung tay đánh dồn dập tới ba thế võ khác. Bởi thế, gã Thạnh Phủ liền kinh hoàng thất sắc, có ý định bỏ chạy, nhưng đã bị Lữ Đằng Không kịp thời chế ngự ngay.

Song, Lữ Đằng Không vì nóng lòng muốn chế ngự cho kỳ được gã Thạnh Phủ nên không để ý tới việc Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng đã nhanh nhẹn tràn ngay tới, rồi dùng một thủ pháp y như mình, vung chưởng đè thẳng lên Linh Đài huyệt tại sau lưng của mình.

Lữ Đằng Không tự biết, chỉ cần Quỷ Thánh Thạnh Linh vận dụng nội lực ấn mạnh xuống, dù cho mình có võ công cao cường đến đâu, chắc chắn cũng không làm sao còn sống được nữa. Do đó, ông ta liền vận dụng chân lực dồn cả ra cánh tay phải, rồi quay đầu nhìn về phía Tây Môn Nhất Nương.

Lữ Đằng Không trông thấy người vợ của mình đang chĩa mũi kiếm bén vào cổ họng của gã Thạnh Tài, nên sắc mặt cũng trở thành bình tĩnh hơn, chòm râu bạc không ngớt bay phất phơ, cất tiếng cười ha hả nói:

- Tốt lắm! Lấy hai mạng để đổi một, Thạnh lão quỷ ngươi tất bị thiệt thòi hơn! Trên sắc mặt của Quỷ Thánh Thạnh Linh vẫn âm u lạnh lùng, buột miệng cười khanh khách, nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu! Đây chính là hai mạng đổi hai mạng đấy! Vừa rồi Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đã bị một luồng âm phong quét trúng, nên đã cảm thấy trong lòng bào bọt buồn nôn, nhưng vì họ bận tâm lo đối phó với kẻ thù, nên tạm thời quên đi sự khó chịu đó. Song, giờ đây khi họ đứng yên lại, bất thần đã cảm thấy trong lòng càng bào bọt nhiều hơn, mặc dầu đang buồn nôn, nhưng không làm sao nôn được, thực khó chịu vô cùng! Bởi thế, hai người biết câu nói "lấy hai đổi hai" của Quỷ Thánh Thạnh Linh quả không sai tí nào cả! Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương cất tiếng cười nhạt, nói:

- Thạnh lão quỷ! Tuy lấy hai đổi hai, nhưng từ nay ngươi sẽ tuyệt tự không còn ai nối dõi nữa! Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng đáp lại bằng một tiếng cười nhạt nói:

- Như nhau cả! Như nhau cả! Tuy Quỷ Thánh Thạnh Linh chỉ nói có sáu tiếng ngắn ngủi, nhưng đã làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều kinh hoàng thất sắc! Vì câu nói "như nhau cả, như nhau cả" ấy của Quỷ Thánh Thạnh Linh có ngụ ý là "ta đây bị tuyệt hậu, thì các người cũng thế thôi".

Bởi thế, đã chứng tỏ Quỷ Thánh Thạnh Linh hoàn toàn biết được về cái chết thảm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 08
Hàm Oan Khó Nỗi Giãi Bày
Hộp Không Bỗng Lại Có Ngay Đầu Người


Đối với việc hai vợ chồng Lữ Đằng Không phát giác được một xác chết trẻ thơ không đầu bên trong gian phòng đá bí mật của mình, tuy lúc bấy giờ cả hai đau đớn như xé can trường, nhưng sau đó, họ đều tuyệt nhiên im lặng, chẳng hề tiết lộ ra cho ai được biết cả.

Có thể nói biến cố bất hạnh ấy, ngoại trừ hai vợ chồng của Lữ Đằng Không ra, còn ngay đến số người trong Phi Hổ Tiêu Cục, cũng hoàn toàn không được biết.

Nhưng sự thực thì hai vợ chồng Lữ Đằng Không lại quên mất, là ngoài họ ra, còn hung thủ đã gây nên chuyện đó, tất nhiên cũng biết rõ mọi việc hơn cả họ nữa! Giờ đây, khi nghe câu trả lời ấy của Quỷ Thánh Thạnh Linh, Tây Môn Nhất Nương sau giây phút kinh hoàng, bèn gằn giọng quát rằng:

- Tại sao lão quỷ ngươi lại biết chuyện ấy? Quỷ Thánh Thạnh Linh cất tiếng cười khanh khách, giọng đầy ngạo nghễ nói:

- Tuy suốt tháng năm ở trong Quỷ Cung, nhưng mọi việc dù lớn dù nhỏ trong thiên hạ, ta đều được am tường tất cả! Tây Môn Nhất Nương nghĩ đến cái chết vô cùng thảm thiết của đứa con thơ thì máu căm hận sôi lên sùng sục, chẳng làm thế nào chế ngự được nữa. Do đó, bà ta cất giọng căm hờn nói:

- Thạnh lão quỷ! Như vậy, chứng tỏ ngươi cũng có nhúng tay vào việc này? Quỷ Thánh Thạnh Linh cất tiếng cười nhạt, đồng thời lão ta đang định lên tiếng đáp, bất thần nghe tiếng bánh xe lăn lọc cọc trên mặt đất từ ngoại vọng đến...

Qua tiếng bánh xe lăn ấy, tựa hồ đang chạy thẳng vào khu thiên tỉnh của ngôi nhà. Vì nếu không phải thế, tất tiếng động làm sao lọt vào tai mọi người đang đứng bên trong gian sảnh đường rõ ràng như vậy? Trong khi ấy, lại nghe từ bên ngoài có tiếng người quát to rằng:

- Ai thế? Tại sao dám xâm nhập ngang tàng như vậy? Nhưng cũng liền theo đó, mọi người nghe có tiếng la "ối chao", rồi lại nghe có tiếng thân người ngã đổ phịch phịch xuống mặt đất! Giữa lúc số người hiện diện tại gian sảnh còn đang kinh hoàng ngơ ngác, đã trông thấy trước cửa có bóng người di động chập chờn, và liền đó lại thấy có mấy người xông thẳng tới! Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn lên, vô cùng kinh ngạc. Vì người từ ngoài xông vào đầu tiên ấy, chính là một gã đàn ông ăn mặc sang trọng, diện mục thanh tú, có vẻ như một người quản gia. Và người ấy không ai khác hơn là gã Tề Phúc, kẻ đã mang chiếc hộp gỗ bọc gấm đến mướn lão ta áp tải trước đây nửa tháng.

Theo sau gã Tề Phúc, lại còn có bốn gã đàn ông khác ăn mặc theo lối gia đinh, rõ ràng là số người đã có đến thành Nam Xương trước đây.

Khi năm gã đàn ông đó bước thẳng vào đến gian đại sảnh, phía sau lưng họ có một số thủ hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh tràn theo và trong số đó có cả Hữu Phán Quan nữa.

Nhưng số thủ hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh chỉ đứng cách xa số người của Tề Phúc, bao vây thành một cái vòng tròn, chứ chẳng hề dám tràn tới để tấn công đối phương.

Thái độ của gã Tề Phúc trông hết sức bình tĩnh, ung dung. Hắn ta hướng về Quỷ Thánh Thạnh Linh thi lễ, nói:

- Tệ chủ nhân hiện đang ở ngoài xe, vậy chẳng hay Thạnh tiên sinh có muốn gặp gỡ chăng? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thầm đoán, có lẽ Quỷ Thánh Thạnh Linh sẽ nổi cơn tức giận, và tất phải ra tay trừng trị đối phương ngay. Vì võ công của gã Tề Phúc ấy rất tầm thường, chỉ cần Quỷ Thánh Thạnh Linh vung tay đánh ra một thế võ, cũng có thể hạ sát được Tề Phúc một cách dễ dàng, chẳng có chi là khó khăn cả.

Nhưng nào ngờ mọi việc lại diễn biến hoàn toàn trái hẳn với sự phán đoán của hai người. Vì lúc ấy chẳng những Quỷ Thánh Thạnh Linh không gây sự đánh nhau với gã Tề Phúc, mà trái lại chỉ cất giọng lạnh lùng hỏi:

- Giữa chúng ta đã có duyên gặp gỡ tại thành Nam Xương một lần rồi, vậy giờ đây còn gặp nhau làm chi nữa? Tề Phúc lại cúi người thi lễ, nói:

- Thạnh tiên sinh nếu không muốn thì cũng được, nhưng tệ chủ nhân có lời nhắc nhở, là Thạnh tiên sinh nên giữ đúng theo sự hứa hẹn tại Nam Xương trước đây, là tuyệt đối không ra tay cướp đoạt số hàng áp tải của Lữ Tổng tiêu đầu! Quỷ Thánh Thạnh Linh vốn có sắc mặt tái nhợt và lạnh lùng như một xác chết, trông hết sức đáng sợ, thế mà giờ đây lão ta lại trở thành tái xanh như chàm, nên trông càng đáng sợ hơn.

Qua một lúc khá lâu sau, lão ta bỗng cất giọng ngạo nghễ cười dài, rồi buông lỏng Lữ Đằng Không ra, xoay người nhắm ngay gã Tề Phúc lướt tới.

Nhưng gã Tề Phúc vẫn đứng trơ trơ không hề nhúc nhích, và khi Quỷ Thánh Thạnh Linh lao tới được nửa chừng, bất thần lão ta lại xoay mạnh giữa khoảng không một lượt, đổi hướng nhắm ngay Tây Môn Nhất Nương lướt thẳng tới.

Bởi thế, khi Tây Môn Nhất Nương hay kịp, không khỏi giật mình kinh hãi, chẳng hiểu đối phương định làm gì...

Thế là, sau một tiếng xoảng, mũi trường kiếm trên tay của Tây Môn Nhất Nương đã bị Quỷ Thánh Thạnh Linh co ngón tay giữa búng vèo tới, khiến nó bị xô bạt ra xa. Đồng thời, lão ta cũng nhanh nhẹn vung bàn tay trái lên, giương chỉ điểm thẳng vào Tam Giang huyệt tại lưng bàn tay đang đè trên vai Thạnh Tài của Tây Môn Nhất Nương, khiến cho bà ta mất hết tự chủ, buông lỏng năm ngón tay đang siết chặt đối phương ra Cùng một lúc đó, Quỷ Thánh Thạnh Linh lại co chân lên, hất gã Thạnh Tài bay ra thực xa, rồi lại nhanh nhẹn tràn theo, vung chỉ giải trừ huyệt đạo cho hắn ta! Sáu động tác của Quỷ Thánh Thạnh Linh, từ chỗ nhún chân lao thoắt về phía trước, rồi xoay mạnh thân người, giữa khoảng không, co tay búng vào lưỡi kiếm và điểm vào huyệt đạo trên lưng bàn tay của Tây Môn Nhất Nương, kế đó lại co chân hất bay gã Thạnh Tài, tràn theo giải trừ huyệt đạo cho hắn, quả nhanh nhẹn cơ hồ như dính liền với nhau làm một. Hơn nữa, hành động lại nhẹ nhàng như lưu thủy hành vân, chỉ trong chớp mắt, là lão ta đã cứu thoát được gã Thạnh Tài khỏi sự chế ngự của Tây Môn Nhất Nương.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương dù hết sức căm hận đối với Quỷ Thánh Thạnh Linh, nhưng trong lòng cũng không khỏi thầm thán phục tài nghệ cao cường của đối phương, và tự thấy xấu hổ về chỗ không làm sao bì kịp kẻ thù.

Trong khi đó, Quỷ Thánh Thạnh Linh sau khi cứu thoát được gã Thạnh Tài, bèn nhanh nhẹn xoay người trở lại, tiếp tục lướt thẳng đến gã Thạnh Phủ, nhẹ nhàng như một đợt khói mỏng.

Vừa rồi, khi Lữ Đằng Không cảm thấy có bàn tay đang đè mạnh lên lưng mình của Quỷ Thánh Thạnh Linh đã rút đi, vốn có ý định sẽ dồn nội lực vào chưởng phải, để ấn xuống cho gã Thạnh Phủ chết tốt ngay. Nhưng vì ông ta sợ làm thế, sẽ gây thành mối oán cừu sâu đậm với Quỷ Thánh Thạnh Linh, và do đó, sẽ làm trở ngại đến công việc chính của mình. Vì vậy, nên lão ta không khỏi đắn đo, do dự...

Nhưng chẳng ngờ giữa lúc Lữ Đằng Không chưa kịp có một quyết định dứt khoát, Quỷ Thánh Thạnh Linh đã quay trở về đến nơi, nhanh nhẹn thò một chưởng đè lên bả vai của gã Thạnh Phủ, rồi cất giọng lạnh lùng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, ông có muốn đấu nội lực với tôi không? Khi bàn tay phải của Quỷ Thánh Thạnh Linh vừa đè lên bả vai của Thạnh Phủ, Lữ Đằng Không thấy mình bị một luồng kình lực âm nhuyễn hết sức mạnh mẽ chạm vào, nên đã biết tài nghệ của Quỷ Thánh Thạnh Linh vô cùng cao tuyệt, đồng thời cũng đã rèn luyện thành công thứ võ học Canh Sơn Đả Ngưu ấy.

Do đó, nếu lúc bấy giờ Lữ Đằng Không vận dụng nội lực ấn mạnh vào người gã Thạnh Phủ, tự nhiên sẽ bị chạm thẳng vào luồng khí lực âm nhuyễn của Quỷ Thánh Thạnh Linh, và trở thành một cuộc đấu nội lực vô cùng ác liệt.

Chính vì vậy, nên Lữ Đằng Không buột miệng cười dài, nhanh nhẹn thu bàn tay trở về, rồi nhảy lui ra sau non một trượng.

Quỷ Thánh Thạnh Linh trông thấy thế, bèn chu đôi môi huýt lên một tiếng sáo dài, trong khi thân hình của lão ta cũng đã nhanh nhẹn nhắm ngay cánh cửa hông cạnh đấy, lướt thẳng tới như một cơn gió hốt.

Tức thì, Thạnh Tài, Thạnh Phủ và gã Quỷ Cung Hữu Phán cũng như tất cả những thủ hạ khác của Quỷ Thánh Thạnh Linh không ai bảo ai, đều ùn ùn phi thân bám sát theo sau lão ta. Hành động của họ mặc dù hết sức nhanh nhẹn, nhưng êm ru chẳng nghe một tiếng động khẽ. Do đó, dù cho là ở giữa ban ngày, nhưng không khí trong gian đại sảnh liền tràn ngập vẻ lạnh lùng, âm u đáng sợ! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thực không sao tưởng tượng nổi, là với một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy như Quỷ Thánh Thạnh Linh, long trọng rời khỏi Quỷ Cung ở Bắc Mang Sơn, kéo các cao thủ đến đây hành sự, thế mà chỉ qua vài lời nói nhẹ nhàng, đơn giản của gã Tề Phúc nọ, đã sợ hãi mà phải tự động rút lui! Bởi thế, hai vợ chồng Lữ Đằng Không đều sửng sốt đưa mắt nhìn đăm đăm theo Quỷ Thánh Thạnh Linh, và mãi đến lúc bọn họ cùng lẩn khuất vào cánh cửa hông bên cạnh đấy rồi, hai vợ chồng ông ta mới quay lại nhìn về gian đại sảnh. Nhưng lúc ấy bốn bên đều vắng ngắt, chẳng còn trông thấy một bóng người nào nữa cả! Đồng thời, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng đã nghe ở phía trước cửa, có tiếng bánh xe lăn trên đường. Vậy, thử hỏi cả hai nào lại chịu bằng lòng để cho gã Tề Phúc và bốn tên gia đinh ấy được ngang nhiên rời đi! Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cùng nhanh nhẹn phi thân lướt thẳng ra ngoài cửa cái, và khi đi đến đường đi thì họ trông thấy cỗ xe ngựa trang hoàng lộng lẫy, sơn son thếp vàng, nạm ngọc nạm châu ấy, đã bắt đầu quẹo qua một khúc quanh.

Tây Môn Nhất Nương siết chặt thanh trường kiếm vào tay gọi to lên rằng:

- Cỗ xe ngựa đằng trước kia, hãy mau ngừng lại đã! Cùng một lúc với tiếng gọi, đôi chân của bà ta đã điểm nhẹ lên đất, rồi phi thân vọt thẳng về phía trước. Và chỉ qua mấy lượt vọt lên rơi xuống, là bà ta đã tiến đến đoạn đường quanh ấy ngay. Lữ Đằng Không trông thấy Tây Môn Nhất Nương lướt đi, thì hối hả phi thân bám sát theo sau tức khắc.

Cỗ xe ngựa ấy, tuy có đến bốn con tuấn mã cùng kéo, nhưng vẫn không chạy nhanh cho lắm. Do đó, hai người xem ra chắc chắn sẽ đuổi kịp ngay. Nhưng nào ngờ giữa lúc Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đang vận dụng chân lực và sử dụng thuật khinh công đuổi gấp theo, bỗng nghe có những tiếng đàn du dương, vô cùng êm tai nổi lên, từ cỗ xe vọng đến.

Tiếng đàn ấy hết sức đột ngột, hơn nữa, nó chẳng khác nào tiếng đàn từ trên trời vọng xuống, không ai làm thế nào nhận định được nó từ đâu bay đến cả! Do đó, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đều sửng sốt, và đột nhiên cả hai lại thấy tâm thần như bắt đầu bay bổng lâng lâng, suýt nữa bị hôn mê đi. Vì vậy, cả hai thử hỏi nào dám tiếp tục truy đuổi theo cỗ xe ấy? Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bèn nhanh nhẹn lướt đến sát bức vách tường, dựa lưng vào để đứng vững thân người, rồi hối hả vận dụng chân khí để giữ cho tâm trạng được bình tĩnh, tập trung trở lại, hầu đối kháng với tiếng đàn quái dị ấy.

Qua một lúc sau, hai người nghe tiếng đàn mỗi lúc một nhỏ dần, nên mới cùng mở to mắt ra để nhìn, thì thấy trên đường đi đã vắng ngắt, chẳng còn thấy bóng cỗ xe ấy đâu nữa.

Do đó, hai người lại tiếp tục phi thân truy đuổi theo, nhưng sau khi lướt qua mấy đoạn đường dài, mà họ vẫn không hề trông thấy hình bóng của cỗ xe ấy đâu nữa cả.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương biết mình không làm thế nào truy tìm được cỗ xe ngựa đó, nên mới cùng dừng chân đứng lại. Lữ Đằng Không bất giác ụa lên mấy tiếng khô khan, rồi mới lên tiếng hỏi:

- Phu nhân, tiếng đàn vừa rồi có phải do Lục Chỉ Tiên Sinh đánh lên không? Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương đang tỏ ra hết sức hoang mang, ngờ vực, và qua một lúc khá lâu sau, mới lên tiếng đáp:

- Lục Chỉ Tiên Sinh đâu lại có một tài nghệ cao cường đến mức đó? Vì tiếng đàn mà hai người nghe qua khi nãy, chẳng những hết sức du dương nhẹ nhàng, mà bất luận ai khi nghe được vào tai, liền bị nó hấp dẫn ngay, khiến tâm thần lâng lâng bay bổng, rồi lần lần sa vào trạng thái hôn mê hỗn loạn. Tiếng đàn ấy, nếu đem so sánh với môn võ học tà phái Quỷ Khốc Thần Hiệu của Quỷ Thánh Thạnh Linh, còn lợi hại hơn gấp mấy lần.

Lục Chỉ Tiên Sinh tại núi Võ Di tuy là người rất có tiếng tăm trong võ lâm, xứng đáng là bậc tôn sư của một môn phái, nhưng bảo tiếng đàn của Lục Chỉ Tiên Sinh có thể làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bị bấn loạn tâm thần, suýt nữa ngất đi, chắc chắn không ai có thể tin được cả.

Lữ Đằng Không lại lên tiếng hỏi:

- Thế người ấy là ai? Tây Môn Nhất Nương đưa tay lên đè lấy lồng ngực, cố dằn cơn buồn nôn xuống, rồi lắc đầu cười nói:

- Việc ấy thì tôi không biết được.

Hai người đưa mắt nhìn nhau cười đau đớn, Lữ Đằng Không sờ chiếc hộp đang cất kỹ trong áo, thấy nó vẫn còn y nguyên tại đấy. Cũng vì chiếc hộp gỗ này, mà họ mới lặn lội cực nhọc đi đến đây, và đã kết thành bao nhiêu mối oán cừu với kẻ cường địch.

Giờ đây, họ đã đi tới được địa điểm cuối cùng, nhưng vẫn bị Quỷ Thánh Thạnh Linh dùng Âm Thi Chưởng quét trúng, khiến thất khiếu đều bị nhiễm độc, chẳng biết hậu quả sẽ thế nào. Do đó, hai vợ chồng Lữ Đằng Không cũng chỉ còn biết nhìn nhau cười đau đớn mà thôi.

Sau đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cùng đứng yên tại con đường hẻm vắng vẻ ấy, cố gắng vận dụng chân khí trong người, đồng thời dựa vào tài nghệ cao cường của mình, để chế ngự chất độc đang ngấm vào cơ thể. Do đó, họ cũng cảm thấy đỡ buồn nôn hơn khi nãy, và trong người có vẻ bình tĩnh hơn.

Bởi thế, cả hai liền cùng đưa chân bước ra khỏi ngõ hẻm vắng, đến những con đường to bên trong khu thành, để hỏi thăm địa chỉ của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn. Và sau đó họ lại tiếp tục đi qua mấy con đường nữa, thì đã tìm đến được trước cổng nhà của Hàn Tốn.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhận thấy khu nhà rất vắng vẻ nên lên tiếng kêu cửa một lúc, mới nghe có tiếng chân của một lão gia đinh bước ra. Và khi lão gia đinh ấy biết hai người khách lạ mặ muốn tìm gặp Hàn Tốn, thì khoát tay nói:

- Gia chủ của tôi gần đây luôn luôn đóng cửa tạ khách, vậy nhị vị đến đây thực là không phải lúc.

Vừa nói, lão gia đinh ấy vừa khép hai cánh cửa lại, định đóng kín. Nhưng Tây Môn Nhất Nương vội vàng thò tay đỡ lấy cánh cửa lại, nói:

- Ông hãy vào bẩm với Hàn đại hiệp, cho biết rằng chúng tôi đây là người họ Lữ, ở tại thành Nam Xương, đến đây có mục đích mang một món vật do một người họ Tề gởi, để trao tận tay cho Hàn đại hiệp. Như vậy, chắc chắn ông ấy sẽ tiếp chúng tôi ngay! Sắc mặt của lão gia đinh tựa hồ vẫn không chịu tin, nên nghiêng đầu suy nghĩ một lúc, nói:

- Nếu thế, xin nhị vị hãy đứng tại đây chờ đợi trong giây lát, tôi vào trong bẩm báo lại đã! Nói dứt lời, lão ta bèn khép kín cánh cổng, rồi khóa cứng chu đáo mới quay lưng bước thẳng đi.

Lữ Đằng Không hừ lên một tiếng, nói:

- Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn quả là người quá chểnh mảng với khách! Tây Môn Nhất Nương cười nói:

- Này ông, suốt trên đường đi, chúng ta đã gặp bao nhiêu chuyện quái dị, nhưng có lẽ những chuyện quái dị nhất đến giờ phút này vẫn chưa xảy ra! Lữ Đằng Không nói:

- Căn cứ vào đâu để nói thế? Tây Môn Nhất Nương đáp:

- Thì ông cứ xem vào tình hình này thì rõ, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn rõ ràng chẳng biết có ai gởi đến cho ông ta vật chi cả, vậy không phải là một chuyện vô cùng quái dị hay sao? Giữa lúc hai người đang nói chuyện với nhau, thì cánh cổng chuyển nghe kèn kẹt, rồi lại mở to ra. Lão gia đinh vừa rồi lại xuất hiện trước mặt hai người nói:

- Gia chủ của tôi bảo là nhị vị từ Nam Xương đến, đồng thời, là người họ Lữ, vậy chắc chắn là Lữ Tổng tiêu đầu và phu nhân ở Phi Hổ Tiêu Cục đấy chăng? Tây Môn Nhất Nương vội vàng đáp:

- Đúng thế! Lão già ấy lại nói:

- Vị chủ nhân của tôi bảo, từ bấy lâu nay ông ấy rất ngưỡng mộ đại danh của nhị vị, vậy đáng lý phải bước ra gặp nhị vị ngay bây giờ. Song vì gần đây ông ấy đã gặp chuyện không vui, nên bất đắc dĩ phải tạ khách, vậy mong nhị vị thông cảm cho.

Nói đoạn, lão gia đinh ấy đưa đôi mắt nhìn thẳng vào Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, như có ý bảo hai người nên rời đi là hơn. Do đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không khỏi kinh ngạc. Vì cả hai đã trải qua một đoạn đường vạn dặm, gặp không biết bao nhiêu hiểm nguy mới đi được đến nơi này, thế mà chủ nhân lại không tiếp họ, thử hỏi không lạ lùng và kinh ngạc sao được! Hơn nữa, vừa rồi họ lại trúng Âm Thi Chưởng của Quỷ Thánh Thạnh Linh và chẳng biết hung kiết thế nào. Thế mà, khi tìm được đến nhà, họ lại bị chủ gia khước từ không chịu gặp.

Bởi thế, Lữ Đằng Không tức giận nói:

- Đâu có việc gì quái dị đến thế? Tây Môn Nhất Nương vội vàng nói:

- Lão quản gia, có lẽ vừa rồi ông quên không nói cùng với Hàn đại hiệp là chúng tôi hôm nay tìm đến đây có mục đích mang một món vật do một người họ Tề đã gởi, và nhất định phải trao tận tay ông ấy chăng? Lão gia đinh ấy ồ lên một tiếng dài, rồi đưa tay vỗ nhẹ lên trán, cười nói:

- Tuổi tôi đã cao, nên thực là lẩm cẩm, vậy xin nhị vị hãy vui lòng đứng đợi trong giây lát đã! Nói đoạn, lão ta lại đóng kín cửa, rồi đi thẳng vào trong.

Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn về Lữ Đằng Không một lượt, nói:

- Ông bảo có phải chăng? Lữ Đằng Không nói:

- Thực là quái dị, suốt dọc đường chúng ta đã gặp chẳng biết bao nhiêu người ta ngăn chặn, chứng tỏ việc làm này của chúng ta rất nhiều người trong võ lâm được biết, thế mà chính người nhận lãnh món vật ấy, lại hoàn toàn không biết chi cả! Đôi mày của Tây Môn Nhất Nương cau chặt, nói:

- Một chiếc hộp gỗ trống không, thế mà các môn phái chính tà trong võ lâm thảy đều dòm ngó. Ngay như Phi Yến Môn cũng phái đệ tử ra tranh đoạt, còn người trong cuộc, lại chẳng hay biết chi cả. Hơn nữa, xem tình hình trước mắt, có lẽ gã họ Tề ấy đến Tô Châu trước hơn chúng ta, vậy thì tại sao hắn ta không đích thân mang theo chiếc hộp gỗ ấy, mà lại mướn chúng mình mang giúp hắn ta? Lữ Đằng Không nói:

- Bà không nhắc đến gã họ Tề ấy thì thôi, khi đã nhắc đến rồi, càng làm cho tôi ngờ vực hơn. Thử nghĩ, Quỷ Thánh Thạnh Linh là một nhân vật tên tuổi vang lừng, ai ai cũng kiêng nể, thế mà Tề Phúc chỉ nói qua mấy câu đơn giản, là lão ta đã bằng lòng rút lui ngay.

Vậy, bà thử xét gã họ Tề ẩn mặt kia, là một nhân vật như thế nào? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Việc đó thực không thể biết được, vậy chả lẽ gã họ Tề đó, lại là người đánh đàn ngăn chúng ta, không cho truy đuổi theo cỗ xe ngựa ấy hay sao? Lữ Đằng Không đang định lên tiếng nói tiếp, bỗng trông thấy lão gia đinh vừa rồi lại mở to cánh cổng ra, nói:

- Vị chủ nhân của tôi bảo là ông ấy hoàn toàn không có bạn bè nào họ Tề cả, và hơn nữa, lại càng không có ai gởi vật chi đến cho ông ấy, vậy có lẽ nhị vị đã lầm nhà rồi chăng? Lữ Đằng Không nghe thế, trong lòng lửa giận cháy lên bừng bừng, quát to rằng:

- Đâu có việc gì lạ thế! Chúng tôi nào lại lầm nhà? Cùng một lúc với tiếng quát, Lữ Đằng Không vung chưởng giáng thẳng vào cánh cổng nghe một tiếng bốp! Lúc ấy, người lão gia nhân đang đưa hai tay vịn lấy hai cánh cổng, do đó, khi hai luồng chưởng phong của Lữ Đằng Không vừa giáng trúng vào cánh cổng ấy, người lão gia nhân nọ đã bị hất lui ra sau ba bước dài. Đồng thời hai cánh cổng cũng được mở to ra.

Lữ Đằng Không bèn đưa chân bước thẳng vào trong, rồi to tiếng nói:

- Hàn đại hiệp! Chúng tôi vừa từ Nam Xương đến đây, dọc đường gặp không biết bao nhiêu điều gian nguy khổ, thế mà tại sao giờ đây ông lại chối từ, không chịu tiếp? Chúng tôi đang có việc cấp bách cần làm, vậy không thể nào nấn ná ở lại đây lâu hơn được.

Giọng nói của Lữ Đằng Không vang rền như tiếng hồng chung bay thẳng vào khu nhà nghe rõ mồn một.

Bởi thế, từ trong ngôi nhà to lớn ấy, bỗng có tiếng tằng hắng vọng ra, rồi lại nghe có tiếng người đáp rằng:

- Lữ Tổng tiêu đầu đã từ nơi xa tìm đến đây, vậy đáng lý Hàn mỗ cần phải ra tiếp kiến, nhưng vì trong những ngày gầy đây, Hàn mỗ đã gặp chuyện quá đau lòng, ngay đến việc ăn uống cũng không màng tới, nên thật khó bề tiếp kiến khách đến viếng được. Vậy, nếu sự thực có món vật chi cần gởi đến cho Hàn mỗ thì nhị vị vui lòng trao cho người lão bộc ấy được không? Giọng nói đó không to lắm, nhưng nghe rất rõ ràng và rất mạnh mẽ. Lữ Đằng Không hừ lên một tiếng nói:

- Hàn đại hiệp, chỉ e là những việc mà vợ chồng tôi vừa gặp phải, còn đau đớn hơn những việc xảy đến với tôn giá nữa. Riêng về món vật mà chúng tôi áp tải đến cho đại hiệp, các môn phái như Phi Yến Môn, Thái Cực Môn và những quái nhân trong võ lâm như Kim Cô Lâu, và Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn đều ùn ùn định đón đường cướp giật, vậy thử hỏi chúng tôi làm sao dám trao cho người khác một cách bừa bãi được? Câu nói của Lữ Đằng Không vừa dứt, chợt nghe tiếng phía trong nhà ồ lên một lượt, nói:

- Lại có việc như thế? Nếu vậy, thì vật ấy là vật chi? Tây Môn Nhất Nương cao giọng nói:

- Chính chúng tôi đang muốn hỏi ông vật ấy là vật chi đây! Tiếng nói trong nhà liền đáp rằng:

- Nhị vị xin chờ đợi trong giây lát, Hàn mỗ sẽ bước ra ngay.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương liền cùng bước thẳng vào gian đại sảnh, ngồi yên xuống ghế. Và chẳng mấy chốc sau, thấy từ bên trong có hai người bước ra. Đây là một người cao và một người thấp.

Người cao thì da mặt vàng như nghệ, đôi mày lưỡi kiếm cao xếch đến tận chân tóc, đôi mắt xem như mở và cũng như nhắm, trên người khoác một chiếc áo choàng, thần sắc có vẻ uể oải, còn người thấp ấy, chính là một cô gái tuổi nhỏ, khuôn mặt tròn trịa, mắt to sáng ngời. Khi vừa từ trong nhà bước ra, cô gái ấy đã xoay đôi tròng mắt trong veo và sáng lóng lánh, nhìn thẳng vào người của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, có vẻ rất lanh lợi và rất cảnh giác.

Cả hai người khi bước đến cửa, rồi dừng chân đứng lại trong giây lát, và người đàn ông gầy cao ấy liền gượng cười nói:

- Từ bấy lâu nay Hàn mỗ đã có lòng ngưỡng mộ đại danh của nhị vị, giờ đây xin nhị vị vui lòng tha thứ cho về chỗ Hàn mỗ đã có sự thất lễ.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn thấy người đàn ông ấy, tuy đang có vẻ mệt nhọc uể oải, nhưng qua lời nói không hề mất đi phong độ của một cao thủ võ lâm. Nếu đem so sánh với Quỷ Cung Hữu Phán Quan đã cải trang giả dạng làm Hàn Tốn vừa rồi, hoàn toàn trái ngược nhau.

Do đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương liền nhanh nhẹn đứng lên đáp lễ. Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nhướng to đôi mắt lên, và qua ánh mắt của ông ta, xem có vẻ như đang giật mình sửng sốt, nói:

- Nhị vị vừa rồi có đề cập đến Quỷ Thánh Thạnh Linh, vậy chả lẽ nhị vị đã ra tay đánh nhau với lão ta rồi hay sao? Lữ Đằng Không đáp:

- Chúng tôi vừa mới đến Tô Châu, lại bị môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh là Hữu Phán Quan cải trang giả dạng làm các hạ để phỉnh gạt chúng tôi, mưu toan đoạt mất món vật của chúng tôi mang đến đây. Nhưng bọn họ đã bị thất bại, và sau đó thì ngay đến Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng xuất hiện đến tại đó nữa.

Hàn Tốn bèn quay mặt nhìn về phía cô gái, nói:

- A Hà, con hãy bước vào trong thư phòng, lấy chiếc lọ bằng thủy tinh ra đây.

Cô gái ngước mặt nhìn lên, hỏi:

- Thưa cha, có phải chiếc lọ thủy tinh đựng những viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn đấy không? Hàn Tốn khẽ gật đầu nói:

- Đúng thế! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất giác đưa mắt nhìn nhau một lượt, vì trong lòng họ đều cảm thấy Hàn Tốn quả đúng như lời đồn đãi trong võ lâm, lòng hào hiệp hết sức đáng phục.

Vì những viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn ấy, chính là những viên thuốc vô cùng quý báu, do các bậc tiền bối dị nhân thuở xưa để lại. Những viên thuốc đó trước đây được cất giữ tại Thê Hà Động trong núi La Phù. Động đá ấy chính là một trong bảy mươi hai động đá thiên nhiên của đạo gia. Và khi mọi người phát giác được những viên thuốc Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn ấy, đã gây ra chẳng biết bao nhiêu cuộc chém giết tranh đoạt, nên ai ai cũng biết đấy là những viên thuốc quý báu nhất trong võ lâm.

Thế mà giờ đây Hàn Tốn vừa mới gặp mặt Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, nhận xét thấy hai người đã bị thương dưới Âm Thi Chưởng của Quỷ Thánh Thạnh Linh, lại sẵn sàng mang những viên thuốc ấy ra biếu cho, để họ chữa trị. Do đó, chỉ cần dựa vào sự kiện ấy, cũng đủ biết thái độ đối nhân xử thế của ông ta là thế nào? Cô gái ấy bèn cất tiếng vâng lời, rồi quay lưng đi thẳng vào trong.

Hàn Tốn lên tiếng nói:

- Nhị vị hiện đang bị trúng một thứ chất độc vô cùng nguy hiểm, vậy có lẽ chính là Quỷ Thánh Thạnh Linh đã gây ra...

Giọng nói của ông ta nghe hết sức thong thả, tỏ ra là một con người lúc nào cũng rất trầm tĩnh.

Chẳng mấy chốc sau, cô gái ấy đã từ trong bước trở ra, trong tay cầm một chiếc lọ thủy tinh, có thể nhìn thấy rõ được bên trong đang đựng hai viên thuốc màu xanh biếc, chẳng khác chi màu lá cây non sau cơn mưa. Hai viên thuốc đó to cỡ hạt trái nhãn.

Hàn Tốn thò tay nhận lấy chiếc lọ thủy tinh, nói:

- Rất may là tôi còn cất giữ hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn này. Vậy nhị vị hãy đi tìm nước suối mà uống vào thì chất độc sẽ được giải trừ ngay.

Vừa nói, Hàn Tốn vừa đưa chiếc lọ thủy tinh đến trước mặt Lữ Đằng Không.

Lữ Đằng Không vội vàng nói:

- Chúng ta lần thứ nhất mới được gặp nhau, thế mà các hạ đã ban cho một cái ân huệ quá trọng hậu, vậy về sau chúng tôi làm thế nào báo đáp được? Hàn Tốn gượng cười nói:

- Tên tuổi và lòng nghĩa hiệp của nhị vị đã được đồn đãi khắp xa gần. Do đó, Hàn mỗ hôm nay được gặp, trong lòng không khỏi thầm tiếc là quá muộn. Vậy nếu nói đến việc báo đáp thì có lẽ không thành vấn đề nữa! Lữ Đằng Không thò tay nhận lấy chiếc lọ thủy tinh cất gọn vào áo, nói:

- Hàn huynh thực là người quá tốt bụng, vậy hai vợ chồng tại hạ lúc nào cũng cảm ơn cái đức sâu xa này.

Nói dứt lời, Lữ Đằng Không lại từ trong áo lấy chiếc hộp gỗ ra, rồi bưng hai tay trao đến cho Hàn Tốn.

Nhưng trong khi lão ta vừa mới bưng gọn chiếc hộp gỗ ấy trên tay, thì không khỏi cảm thấy hết sức lạ lùng...! Vì trong chiếc hộp gỗ ấy về hình dáng to nhỏ cũng như về tấm giấy niêm phong bên ngoài vẫn y hệt như thuở nào. Nhưng về trọng lượng của nó thời giờ đây lại nặng hơn trước kia khá nhiều.

Chiếc hộp gỗ đó Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã có lén gỡ ra xem đến hai lần, và thấy đấy chỉ là một chiếc hộp trống không mà thôi. Thế nhưng giờ đây bỗng tự nhiên nó nặng hơn lên, chứng tỏ đấy chẳng phải là một chiếc hộp trống không nữa.

Chính vì vậy, Lữ Đằng Không chẳng cảm thấy quái dị sao được. Bởi thế, giữa lúc đôi tay của ông và vừa đưa ra, nhưng suýt nữa đã giật trở về.

Tuy trong lòng của Lữ Đằng Không đang cảm thấy tràn đầy kinh ngạc và ngờ vực, song khổ nổi chiếc hộp ấy đã lỡ trao đến tay của Hàn Tốn rồi. Hơn nữa, vì chiếc hộp ấy có giấy niêm phong hẳn Chương, vậy chả lẽ lại mở ra xem trước mặt Hàn Tốn hay sao? Bởi thế, Lữ Đằng Không chỉ còn cách quay mặt nhìn về phía Tây Môn Nhất Nương một lượt, nói:

- Phu nhân, câu nói vừa rồi của bà lúc còn ở bên ngoài có lẽ hoàn toàn đúng đấy! Lữ Đằng Không nói thế, chính là muốn ám chỉ câu nói vừa rồi của Tây Môn Nhất Nương, bảo là tuy hai vợ chồng bà ta đã gặp nhiều chuyện quái dị trên đường đi, song có lẽ một chuyện quái dị nhất hiện vẫn chưa xảy ra.

Nhưng mặc dù Tây Môn Nhất Nương lãnh hội được câu nói ấy của Lữ Đằng Không, song trong lòng vẫn băn khoăn, chẳng hiểu vì đâu ông lại lên tiếng như vậy? Tây Môn Nhất Nương tuy hết sức băn khoăn về điểm đó, nhưng ở trong khung cảnh trước mắt, bà ta không tiện lên tiếng hỏi cho cặn kẽ. Bởi thế bà ta chỉ đưa mắt ra hiệu, ngụ ý hỏi Lữ Đằng Không chuyện quái dị chi đã xảy ra. Và Lữ Đằng Không đã chu nhọn đôi môi, huớng về phía hộp gỗ mà Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đang bưng trong tay.

Do đó, Tây Môn Nhất Nương đã biết được mọi chuyện lạ lùng hiện đang ở nơi chiếc hộp gỗ ấy. Tuy nhiên, bà ta vẫn không hiểu được đấy là chuyện lạ lùng chi.

Giữa lúc hai người đang ra hiệu với nhau như vậy, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đã cất tiếng cười nhẹ nhàng nói.

- Có phải vật mà Lữ Tổng tiêu đầu nói, chính là chiếc hộp gỗ này không? Lữ Đằng Không vội vàng đáp:

- Đúng thế! Hàn Tốn có vẻ ngơ ngác, tỏ ra khó hiểu trước việc ai đã gởi chiếc hộp gỗ như thế này đến mình. Qua một lúc sau, ông ta mới lên tiếng nói:

- Tại hạ tuy là người giao thiệp rất rộng, nhưng nghĩ tới nghĩ lui mãi vẫn không làm sao nhớ ra là có người bạn nào họ Tề cả. Hơn nữa, chiếc hộp gỗ này khiến cho các cao thủ trong võ lâm ùn ùn kéo đến định ra tay cướp đoạt. Như vậy, vật đựng bên trong chắc chắn không phải là vật tầm thường! Riêng Lữ Đằng Không vừa rồi, thực không muốn trao chiếc hộp gỗ ấy đến tay Hàn Tốn chút nào cả. Vì ông ta cảm thấy chiếc hộp gỗ ấy, tại sao bỗng không lại trở nên nặng hơn, và bên trong chẳng rõ nó đã được đựng một vật chi rồi.

Lữ Đằng Không nhớ lại, suốt trên đường đi, ngoài dịp gã Quỷ Cung Hữu Phán Quan đã cải trang làm Hàn Tốn, đánh lừa ông ta vào tròng nên ông ta có lấy nó ra cho đối phương xem, còn thì lúc nào ông ta cũng cất giữ trong áo rất cẩn thận, tuyệt nhiên chẳng hề lấy ra cho ai xem cả. Hơn nữa, ông ta dám quả quyết, là suốt dọc đường đi, tuyệt đối không kẻ nào có thể thừa sự sơ hở của ông ta, để đánh tráo chiếc hộp, cũng như giở trò oái ăm chi đối với chiếc hộp này được cả.

Do đó, chỉ còn một trường hợp duy nhất mà đối phương có thể đánh tráo được, ấy là sau khi hai vợ chồng Lữ Đằng Không từ trong ngôi nhà to lớn bước ra, để truy đuổi theo cỗ xe ngựa sang trọng rồi bất thần lại nghe có tiếng đàn từ trên nền trời cao vọng đến, khiến cho tâm trạng của lão ta bàng hoàng lâng lâng, rồi từ từ như hôn mê bấn loạn không còn tự chủ được nữa. Chỉ có trong thời gian ngắn ngủi đó, kẻ thù mới có thể đánh tráo được chiếc hộp mà thôi.

Nhưng trong chiếc hộp gỗ này, người ta đã đựng vật chi thế? Lữ Đằng Không đang vô cùng băn khoăn, và cũng hết sức ngờ vực. Ông ta bực tức về chỗ không thể mở ngay ra được, để xem cho tường tận.

Hàn Tốn sau khi nhận lấy chiếc hộp gỗ, liền kê móng tay bén rạch đứt tấm giấy niêm phong, rồi từ từ giở nắp chiếc hộp ấy ra. Lúc bấy giờ, vì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đang cùng ngồi đối diện vói Hàn Tốn, nên khi nắp chiếc hộp được giở lên, đã che mất tầm mắt của hai người, khiến họ không làm sao nhìn rõ được bên trong chiếc hộp nữa.

Bởi thế, tuy hai người đều có ý muốn nhìn tận mắt, xem bên trong chiếc hộp ấy đựng vật chi, nhưng cả hai không tài nào nhìn thấy được.

Trong khi đó, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đã đưa mắt nhìn vào chiếc hộp một luợt, tức thì sắc mặt trở thành tái xanh như chàm. Đồng thời, cô gái đang đứng sau lưng ông ta cũng buột miệng ồ lên một tiếng, và mặt hoa liền biến sắc, thối lui ra sau một bước dài.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế trong lòng đều không khỏi hãi kinh. Vì hai vợ chồng ông ta không hiểu được Hàn Tốn đã nhận thấy vật chi trong chiếc hộp, mà đến đổi sắc mặt lại căm tức đến trở thành tái xanh như vậy? Sau đó, Hàn Tốn đã nhẹ tay đậy kín chiếc hộp lại, rồi để yên trên mặt bàn, quay đầu về phía con gái nói:

- A Hà, con hãy bước vào thơ phòng, lấy ngọn roi Kim Tiên của cha ra đây! Cô gái lên tiếng vâng lời, rồi quay lưng bước đi thẳng. Nhưng sau khi cô ta bước đi được vài bước, lại đưa mắt nhìn lườm về phía vợ chồng Lữ Đằng Không một lượt, có vẻ hết sức căm hận.

Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không trông thấy thế, đều ngơ ngác không hiểu ra sao cả. Trong lúc ấy, Hàn Tốn lại đưa bàn tay phải lên không ngớt xoa nhẹ lên nắp chiếc hộp gỗ. Và qua một lúc sau, thì đôi tròng mắt của lão ta lóng lánh ánh lệ, rồi tuôn trào ra, chảy dài xuống đôi má.

Thấy thế, Lữ Đằng Không hết sức hãi kinh, lên tiếng nói:

- Hàn đại hiệp, ông...? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn không đợi Lữ Đằng Không nói dứt lời, ra tay khoát một lượt, cắt đứt câu nói của Lữ Đằng Không, chẳng để cho ông ta nói thêm chi nữa.

Lữ Đằng Không trông thấy thế lại càng hoang mang, không hiểu ra sao cả, đưa mắt nhìn về phía Tây Môn Nhất Nương một lượt.

Lúc ấy, Tây Môn Nhất Nương cũng không ngớt xoa đôi bàn tay, tỏ ra hết sức áy náy, vì không rõ đã xảy ra một chuyện trọng đại chi rồi! Bởi thế, không khí trong gian đại sảnh nhất thời đã trở thành hết sức trầm mặc, chung quanh hoàn toàn tĩnh mịch, nặng nề đến đỗi ai nấy đều có cảm giác ngạt thở. Đồng thời, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương như cũng có cảm giác là một việc trọng đại chi đang sắp xảy ra! Chẳng bao lâu sau, cô gái từ bên trong bước trở ra gian đại sảnh, và để mạnh ngọn roi mềm màu vàng lên mặt bàn nghe một tiếng cộp.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn, thấy ngọn roi mềm ấy to một cách kỳ lạ, từ cán đến đuôi đều trong suốt, có màu vàng nhạt. Đồng thời, giữa màu vàng nhạt ấy, lại thấy có một đường kim tuyến to cỡ bằng đầu ngón tay, chạy dài từ cán roi đến đuôi roi, khi ẩn khi hiện. Bởi thế, chỉ cần nhìn qua là ai ai cũng có thể biết đấy là một ngọn roi quý báu, có một không hai trong võ lâm.

Hàn Tốn thò tay ra siết chặt lấy cán roi giữa lòng bàn tay rồi từ từ đứng thẳng người lên, cởi chiếc áo choàng đang khoác bên ngoài để xuống ghế, rồi vung mạnh cánh tay ra phía trước, khiến ngọn roi mềm cuốn đi theo một tiếng vút, gây thành một cái bóng tròn to! Kế đó, bỗng ông ta lại giương thẳng một ngón tay ra, chỉ vào Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nói:

- Từ bấy lâu nay, tôi rất ngưỡng mộ đao pháp như thần của Lữ Tổng tiêu đầu, và cũng như kiếm thuật siêu quần của Lữ phu nhân, vậy hôm nay tại hạ cũng sẵn sàng lãnh giáo.

Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất thần trông thấy Hàn Tốn siết chặt binh khí vào tay, nên hết sức lấy làm kinh dị. Giờ đây, họ bỗng lại nghe Hàn Tốn lên tiếng khiêu chiến thẳng thì trong lòng lại càng kinh dị không thể tả.

Vì mới vừa rồi, Hàn Tốn hãy còn lấy linh đơn ra biếu cho hai người, thế mà giờ đây bất thần lại khiêu chiến thẳng với họ. Hơn nữa, thái độ khiêu chiến của ông ta chẳng phải là có ý muốn dượt thử võ công của nhau nhằm mục đích dồi mài và học hỏi thêm, mà chính là khiêu chiến thật sự! Bởi thế, Lữ Đằng Không cảm thấy dù là một con người có tánh tình bất thường đến đâu, cũng không thể nào hành động như vậy được.

Chính vì vậy, Lữ Đằng Không vội vàng lên tiếng hỏi:

- Hàn đại hiệp, chúng ta mới lần đầu gặp mặt nhau, thế tại sao lại gây sự để đánh nhau như vậy? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn bỗng ngữa mặt cười như điên dại. Tiếng cười của ông ta tràn ngập sự căm tức, oán hờn, nói:

- Nhị vị lại không bằng lòng chỉ giáo cho hay sao? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Giữa chúng tôi và ông không oán không thù, tại sao lại phải đánh nhau? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn vẫn không ngớt giọng lạnh lùng cười khanh khách.

Trong khi đó, người con gái của ông ta đang đứng bên cạnh, bỗng lên tiếng nói:

- Thưa cha, cha còn nói dài dòng với họ để làm gì? Tại sao không chịu mau trả thù cho đệ đệ? Hàn Tốn gầm lên một tiếng, tức giận nói rằng:

- A Hà, lời nói của người phải lắm! Hai tiếng "phải lắm" vừa thốt ra khỏi miệng. Hàn Tốn đã đưa chân tràn ngay tới trước, trong khi ngọn roi mềm cũng được vung lên nghe một tiếng vút, nhắm ngay đầu của Lữ Đằng Không giáng thẳng xuống! Thế roi ấy của Hàn Tốn quả kỳ ảo không thể tả. Vì trong cái cứng rắn nó lại có cái mềm dẻo, trong cái mềm dẻo lại có cái cứng rắn, hỗ tương nhau một cách chặt chẽ phi thường. Hơn nữa, ngọn roi ấy trông tựa hồ như có sinh mệnh, nên lúc nào nó cũng chuyển mình, khiến ánh sáng vàng kim chớp lập lòe hoa cả mắt mọi người chung quanh, trông thực vô cùng đáng sợ.

Lữ Đằng Không nghe cô con gái của Hàn Tốn bảo cha nên ra tay trả thù cho đệ đệ, trong lòng lại càng hoang mang hơn nữa. Nhưng ngay lúc đó, ngọn roi của Hàn Tốn đã sắp cuốn đến nơi, không cho phép lão ta có thời giờ để giải thích chi thêm nữa! Bởi thế, Lữ Đằng Không hối hả lách mình tránh ngang nhanh như gió hốt, và đã tránh được thế roi ấy của đối phương.

Thế là, ngọn roi của Hàn Tốn đã quét thẳng vào chiếc ghế ngồi của Lữ Đằng Không.

Và có một điều hết sức lạ lùng, ấy là mặc dù ngọn roi giáng xuống hết sức mãnh liệt, song vẫn không hề nghe có một tiếng động nào cả. Trong khi đó, thì chiếc ghế ngồi ấy đã bị ngọn roi chặt đứt ngon lành ra làm hai mảnh, trông tựa hồ món vũ khí của Hàn Tốn đang sử dụng không phải là một ngọn roi mềm, mà chính là một thanh bảo kiếm có thể chặt đứt ngọt cả sắt đá vậy.

Lữ Đằng Không sau khi đã lách tránh khỏi thế công của đối phương, bèn lên tiếng nói:

- Hàn đại hiệp, hãy thong thả nghe sự giải thích của tôi đây.

Nhưng Hàn Tốn vẫn cất tiếng cười nhạt nói:

- Còn có điều chi để giải thích nữa? Dứt lời, ngọn roi trong tay ông ta lại quét tới nghe một tiếng vút, nhắm ngay eo lưng của Lữ Đằng Không công ra mãnh liệt.

Lúc bấy giờ, Tây Môn Nhất Nương đang đứng bên cạnh, cảm thấy không thể nào nhịn được nữa. Do đó, sau một tiếng rẻng, bà ta đã tuốt thanh trường kiếm ấy ra khỏi vỏ, rồi dùng ngay thế Lưu Tinh Cản Nguyệt, nhắm ngay ngọn roi vàng của Hàn Tốn chém thẳng tới.

Thế kiếm ấy của Tây Môn Nhất Nương có thể nói là nhanh nhẹn phi thường, nên đã chặn trúng thẳng vào giữa ngọn roi vàng của Hàn Tốn.

Nhưng Tây Môn Nhất Nương tuyệt nhiên không hề cảm thấy có sự va chạm nào, trái lại chỉ cảm thấy khi lưỡi kiếm chém trúng vào ngọn roi, thì nó lại mềm mại như chém vào một bao bông gòn vậy.

Trong khi đó, ngọn roi vàng trong tay của Hàn Tốn, vì bị luỡi kiếm của Tây Môn Nhất Nương chặt trúng vào giữa thân roi, nơi đầu ngọn roi bất thần cất cao lên, nhắm ngay cằm của Tây Môn Nhất Nương quét tới như gió cuốn.

Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, hối hả thối lui ra sau một bước, gằn giọng nói:

- Hàn đại hiệp có điều chi bất mãn thì xin ông hãy nói rõ, hà tất phải dùng vũ lực để đánh nhau như thế này? Sắc mặt của Hàn Tốn tràn đầy vẻ tức giận, cất tiếng hừ qua một lượt, và đang định đáp lời, nhưng cô gái nói mếu máo rằng:

- Thưa cha, cha có thể nhẫn nhịn được, chứ con không làm sao có thể nhịn được nữa! Câu nói vừa dứt, thì cô gái đã tràn nhanh tới như tên bắn, khi sắp lướt đến trước mặt của Tây Môn Nhất Nương thì nàng nhanh nhẹn vung một cánh tay lên. Tức thì, có ba đốm sao vàng bắn ra như những luồng điện xẹt.

Đồng thời, một cánh tay khác của nàng cũng đã chụp lên bả vai, và tiếp đó, lại thấy có một cái bóng màu đỏ, rít gió ào ào không ngớt.

Thì ra, lúc bấy giờ trong tay nàng đã siết chặt lấy một món binh khí vô cùng quái dị, nhưng vì món binh khí ấy đang được quét tới vun vút, nên không thể nhận rõ được đấy là món binh khí chi, chỉ thấy nó đang cuốn thẳng vào lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương mà thôi! Tây Môn Nhất Nương không làm thể nào ngờ được, là chẳng những bỗng không Hàn Tốn lại gây sự với vợ chồng mình, mà ngay đến cả cô con gái của ông ta cũng bất thần tràn tới tấn công như thế này. Do đó, khi trông thấy ba món ám khí bay vèo tới như điện xẹt, bà ta đã hối hả dùng thế Thiết Bản Kiều, ngã ngữa nửa thân người ra sau để tránh.

Nhưng món binh khí quái dị trong tay của cô gái, đã từ thế quét thẳng ra, diễn biến thành thế giáng mạnh xuống lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương, đi đôi thành một luồng kình lực mạnh mẽ phi thường.

Xem ra, Tây Môn Nhất Nương chắc chắn không làm thế nào tránh khỏi được. Nhưng thật sự thì về kiếm thuật, Tây Môn Nhất Nương đã tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh, nên cũng một lúc với thế Thiết Bản Kiều mà bà ta ngửa người ra để tránh, thanh trường kiếm cũng được nhanh nhẹn vung lên, nhắm đâm thẳng về phía trước.

Liền đó, ánh thép từ thanh trường kiếm của Tây Môn Nhất Nương đã lóe lên một lượt, rồi lại nghe một tiếng xoảng to nổi lên. Tức thì, cô gái ấy đã lảo đảo đôi chân, thối lui ra sau bốn năm bước dài.

Nhưng cũng cùng một lúc đó. Tây Môn Nhất Nương đã cảm thấy cánh tay cầm thanh trường kiếm của mình bỗng tự nhiên nhẹ hẳn đi. Đồng thời, lại thấy một vệt ánh sáng chói ngời bay xẹt thẳng vào cây cột gỗ trước mặt, chạm nghe một tiếng phập...

Khi Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn lên, mới thấy vệt ánh sáng ấy chính là một đoạn gươm của mình gãy ra, dài nửa thước mộc.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương không khỏi kinh hoàng, đưa mắt nhìn thẳng về phía cô gái, thấy món binh khí quái dị mà cô ta đang cầm trong tay, ngoại trừ chiếc cán dài độ hai thước mộc, còn phần đầu chính là một cái mâm tròn to, trực kính gần nửa thước, màu đỏ như lửa, thoạt nhìn chẳng khác chi vầng thái dương vừa mới nhô lên khỏi mặt biển. Hơn nữa, khắp chung quanh mâm tròn ấy, lại còn có mười hai chiếc răng vô cùng sắc bén.

Lúc ấy, tuy cánh tay của cô gái không hề chuyển động, nhưng chiếc mâm tròn màu đỏ vẫn đang xoay từ từ, khiến ánh thép sáng lên lập lòe.

Món binh khí quái dị ấy, nếu là người tương đối có kinh nghiệm trong võ lâm, nhìn qua là biết ngay lai lịch nó rồi. Đó chính là Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân, một món binh khí mà lão tiền bối nữ hiệp Hỏa Phụng Tiên Cô đã nhờ nó mà thành danh.

Món binh khí Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân ấy, có sở trường chặt gãy tất cả những binh khí và ám khí dễ dàng như trở bàn tay. Do đó, nó rất tiện lợi trong việc tấn công hay phòng thủ.

Hơn nữa, những cái răng bén nhọn chung quanh chiếc mâm tròn màu đỏ ấy, đều do loại sắt Huy Huyền Thiết rèn nên, do đó nó vô cùng sắc bén và hết sức rắn chắc, không có vật chi mà nó không chặt đứt ra được cả.

Món binh khí ấy đã ở trong tay của cô gái này thì tự nhiên cũng có thể hiểu được cô ta là người có mối tương quan rất sâu xa với Hỏa Phụng Tiên Cô.

Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương không khỏi hết sức tức giận cùng hết sức kinh hoàng.

Thì ra, Tây Môn Nhất Nương tuy là người võ công rất cao cường, và nếu đem các tay nữ hiệp trong võ lâm để so sánh với bà ta, thì bà ta đáng liệt vào nhân vật bậc nhất, bậc nhì chứ chẳng phải chơi. Nhưng Hỏa Phụng Tiên Cô cũng không phải là một nhân vật tầm thường.

Trước đây, Hỏa Phụng Tiên Cô chỉ hoạt động trong vùng phía bắc sông Trường Giang mà thôi. Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương là người gốc gác ở vùng Vân Nam, nên cả hai chẳng thể nào gặp được mặt nhau cả.

Nhưng trước đây mấy năm, Tây Môn Nhất Nương được người ta mời trợ lực để giải quyết một chuyện rắc rối, và do đó mới có dịp chạm mặt thẳng với Hỏa Phụng Tiên Cô, cũng được đối phương mời tới.

Hỏa Phụng Tiên Cô là người tính tình nóng nảy như lửa, trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương cũng chẳng phải là người rộng rãi chi, do đó, khi đôi bên vừa giáp mặt nhau, thì liền gây sự đánh nhau tức khắc. Tuy trong cuộc chiến ấy, đôi bên vẫn bất phân thắng bại, nhưng Tây Môn Nhất Nương đã bị Hỏa Phụng Tiên Cô dùng món binh khí Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đánh gãy liên tiếp ba thanh trường kiếm, đồng thời, lại bị bà ta mỉa mai cười cợt, tức giận hầm hầm bỏ đi.

Trong khi đôi bên chia tay nhau, vốn đã có hứa hẹn là sẽ tìm nhau một thời gian khác để tiếp tục so tài, nhưng vì sau đó, các nhân vật võ lâm hay được nên khuyên giải đôi bên nên bỏ qua sự hiềm khích ấy. Nhờ thế, khi hai người gặp mặt lại nhau, đành phải miễn cưỡng giảng hòa, không dùng võ lực để đánh nhau nữa.

Tuy nhiên mãi cho đến ngày hôm nay, trong lòng Tây Môn Nhất Nương vẫn còn cảm thấy hậm hực, chứ chưa thật sự xóa bỏ được.

Giờ đây, bà ta trông thấy món binh khí Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân của Liệt Hỏa Tiên Cô xuất hiện, thì trong lòng không khỏi bừng cháy lửa giận, cười nhạt nói:

- Con bé kia, món binh khí trong tay ngươi tuy sắc bén, nhưng nếu ngươi muốn dựa vào nó để hành động ngang tàng, thì e rằng tài nghệ của ngươi hãy còn kém cỏi.

Cô gái nghe thế, bèn cất tiếng hừ lên một lượt nói:

- Chỉ mới vừa đánh nhau trong một thế võ mà thanh trường kiếm của bà đã bị tôi chặt gãy lìa rồi, vậy còn khoác lác làm chi nữa? Tây Môn Nhất Nương hết sức tức giận, vung thanh kiếm gãy trong tay lên, định tràn thẳng về phía cô gái. Nhưng Lữ Đằng Không đã kịp thời đưa ngang lưỡi đao ra chặn bà ta lại nói:

- Phu nhân, hãy chậm đã! Tiếp đó, Lữ Đằng Không quay mặt về phía Hàn Tốn, nói:

- Hàn đại hiệp, chẳng hiểu vì lẽ chi mà hai cha con của đại hiệp lại dùng võ lực để đối phó với chúng tôi thế này? Chúng tôi đang muốn nghe sự giãi bày cặn kẽ của đại hiệp...

Cô gái ngắt lời rằng:

- Thưa cha, cha tuyệt đối chớ nên lầm mưu gian của bọn họ.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn hừ lên một lượt, nói:

- Tuy đứa con trai của tôi bất tài, nhưng dù sao nó vẫn là một đứa bé, thế tại sao nhị vị lại nỡ hạ độc thủ như thế này? Lữ Đằng Không hết sức kinh ngạc nói:

- Tại sao Hàn đại hiệp lại nói thế? Chúng tôi từ trước đến giờ nào có biết lệnh lang là ai? Hàn Tốn nói:

- Nhị vị bất tất phải chối tội, vậy chi bằng hãy dùng vũ lực để phân thắng bại là hơn.

Lữ Đằng Không bèn để mạnh ngọn đại đao trong tay lão ta xuống mặt bàn nghe một tiếng bốp, nói:

- Hàn đại hiệp, ông nói thế là sai rồi! Tuy chúng ta từ trước đến nay chưa có dịp nào được gặp mặt nhau, nhưng vẫn hết sức ngưỡng mộ đại danh giữa nhau. Hơn nữa, vừa rồi chúng ta lại được ông rộng lượng biếu cho hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn, trong lòng vô cùng cảm kích, vậy vì lẽ chi mà sát hại lệnh lang? Bên trong việc này, chắc chắn có điều ngộ nhận, do đó chúng tôi tuyệt đối không muốn đánh nhau với đại hiệp.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đưa nhìn trân trối về phía Lữ Đằng Không một lúc thực lâu, trông thấy Lữ Đằng Không đã buông vũ khí, đứng xuôi hai tay, chứng tỏ đối phương thật sự không muốn đánh nhau với mình nữa. Do đó, ông ta bèn cất tiếng than dài.

Cô gái trông thấy vậy, hối hả lên tiếng nói:

- Thưa cha, có phải cha đã tin lời họ rồi không? Hàn Tốn nghiêng đầu đáp:

- A Hà, con không được lắm lời nữa! Đôi mày liễu của cô gái ấy liền nhướng cao, sắc mặt tràn đầy vẻ tức giận nói:

- Thưa cha, nếu cha không bằng lòng trả thù cho đệ đệ, con nhất định phải trả thù cho em con! Hàn Tốn nói:

- Tại sao con biết cha không bằng lòng trả thù cho Hổ nhi? Liền đó, cô gái đã vung mạnh món binh khí Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân lên một lượt, khiến chiếc mâm tròn màu đỏ trên món binh khí ấy, liền xoay chuyển vun vút gây thành một luồng kình phong mãnh liệt, nói:

- Nếu thế, cha chớ nên nghe theo lời nói của kẻ thù nữa! Lữ Đằng Không thấy cô gái ấy ăn nói ngang tàng, không biết kể chi đến lẽ phải, và trước sau như một, vẫn nghi quyết cho vợ chồng ông ta là thủ phạm sát hại đứa em trai của nàng, nên trong lòng hết sức tức giận.

Nhưng thử hỏi với địa vị và tuổi tác của Lữ Đằng Không, nào lại đi chấp nhất gây sự đánh nhau với một cô gái như thế này? Do đó, Lữ Đằng Không cố đè nén cơn tức giận nói:

- Hàn cô nương, cô hà tất phải nóng nãy đến thế? Hãy chờ đợi tôi cùng nói chuyện rõ ràng với lệnh tôn, rồi sẽ đánh nhau cũng không muộn! Cô gái ấy giậm chân nói:

- Thưa cha, nếu có sư phụ con ở tại nơi này, chắc chắn mối đại thù có thể trả được ngay tức khắc! Tây Môn Nhất Nương nghe thế, trong lòng không khỏi tức giận, nên cười nhạt nói:

- Như vậy, cô hãy mau đi mời sư phụ cô đến đây đi! Cô gái nghe qua, khuôn mặt liền bừng đỏ vì tức giận, nói:

- Nếu thế thì hay lắm, vậy xin bà hãy ở lại chờ tôi! Nói đoạn, cô ta bèn quay lưng, nhắm ngay cửa cái lướt đi nhanh như gió...

Hàn Tốn vội vàng gọi to rằng:

- A Hà! A Hà! Nhưng cô gái đã sử dụng thân pháp lướt đi nhanh như bay, chỉ trong nháy mắt là mất dạng.

Hàn Tốn giậm chân, rồi lại khoát tay lên một lượt, nói:

- Xin nhị vị hãy đi đi, vừa rồi vì nhất thời tôi quá tức giận nên mới hiểu lầm nhị vị là kẻ thù địch đã sát hại con tôi. Giờ đây, sau khi suy nghĩ chín chắn lại, tôi mới thấy việc ấy hoàn toàn vô lý. Riêng A Hà là một đứa bé tính tình nóng nảy, nhưng sư phụ nó là Hỏa Phụng Tiên Cô lại càng nóng nảy gấp trăm lần, vậy nếu bà ấy đến đây, mọi việc sẽ càng trở nên rắc rối hơn. Do đó, nếu nhị vị nấn ná lại, chỉ gặp thêm nhiều điều phiền phức mà thôi.

Tây Môn Nhất Nương không khỏi giật mình, nói:

- Chả lẽ Hỏa Phụng Tiên Cô hiện đang ở đây hay sao? Hàn Tốn đáp:

- Bà ấy vì cần chỉ dạy thêm võ công cho A Hà, nên hiện đang cư trú tại đỉnh ngọn tháp Hổ Khưu.

Tây Môn Nhất Nương nói:

- Dù cho bà ta đến đây, thì chả lẽ lại ngang bướng vu khống chúng tôi là thủ phạm sát nhân hay sao? Lữ Đằng Không cũng nói thêm rằng:

- Đúng thế! Trước khi mọi việc được giải quyết minh bạch, chúng tôi tuyệt nhiên không khi nào lại chịu rời khỏi nơi này. Xin hỏi, lệnh lang đã bị sát hại từ lúc nào, và vì đâu đại hiệp lại nghi ngờ chúng tôi là kẻ hạ độc thủ gây ra việc đó? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cất tiếng than dài một lượt, và thái độ lại trở thành buồn bã ảo não như khi nãy. Ông ta buông người ngồi phịch trở xuống ghế, đưa tay xô mạnh chiếc hộp gỗ trước mặt về phía Lữ Đằng Không nói:

- Nhị vị hãy xem qua sẽ rõ! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn nhau một lượt, trong lòng tràn ngập bao nhiêu điều hoài nghi. Tây Môn Nhất Nương vội vàng thò tay kéo chiếc hộp gỗ đến sát trước mặt mình, rồi giở nắp ra xem...

Khi hai người cùng đưa mắt nhìn thẳng vào bên trong chiếc hộp, không khỏi kinh hoàng thất sắc.

Vì bên trong chiếc hộp gỗ ấy, rõ ràng đang có một cái đầu người. Và chiếc đầu người ấy diện mục trông hãy còn tươi như sống, và rất giống diện mục của Hàn Tốn, nhưng tuổi độ mới mười ba, mười bốn mà thôi.

Hơn nữa, chiếc đầu người đó lại được gói kỹ bằng một lá cờ tiêu cục, mà lá cờ tiêu cục ấy, lại chính là lá cờ Phi Hổ Tiêu Cục của Lữ Đằng Không.

Tây Môn Nhất Nương vội vàng đậy kín nắp hộp lại, đưa mắt nhìn thẳng vào Lữ Đằng Không, chẳng nói nên lời! Ngay lúc ấy, Hàn Tốn mới lên tiếng nói:

- Nhị vị đã hiểu rõ rồi, vậy giờ đây có lẽ đã biết vì sao vừa rồi tôi lại gây sự với nhị vị? Tây Môn Nhất Nương nói:

- Việc này quả không thể trách được các hạ. Nhưng riêng chúng tôi thật sự từ trước đến giờ, vẫn hoàn toàn chưa hề gặp được lệnh lang.

Lúc ấy, tâm trạng của Tây Môn Nhất Nương đang rối rắm như một cuộn tơ vò, vì trong chiếc hộp gỗ vốn trống không, thế tại sao bỗng lại xuất hiện một cái đầu người, mà cái đầu người ấy lại chính là đầu con trai của Hàn Tốn? Như vậy, chứng tỏ gã đàn ông tự xưng là Tề Phúc kia, khi mang chiếc hộp gỗ đến mướn áp tải, là hắn ta đã sắp đặt mọi kế hoạch trước rồi. Nhưng một cái đầu người, vì lẽ gì lại khiến cho bao nhiêu cao thủ võ lâm đều ùn ùn kéo nhau ra tranh đoạt? Trong lòng của Tây Môn Nhất Nương không ngớt băn khoăn, nghĩ ngợi. Nhưng dù bà ta cố moi óc phán đoán đến đâu vẫn thấy mọi việc rối rắm khôn cùng, không thể nào tìm ra được một manh mối hữu lý!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 09
Nỗi Oan Càng Giải Càng Oan
Thù Sâu Như Biển Đành Mang Vào Người


Tâm trạng của Lữ Đằng Không lúc bấy giờ cũng thế, ông ta nghĩ ngợi một lúc, bèn lên tiếng nói:

- Chắc chắn việc này có bàn tay của kẻ bí mật nào đó muốn gây thành mối cừu hận giữa chúng ta, do đó kẻ ấy mới bày ra một kế gian như vậy. Song, chẳng hay lệnh lang đã bị hại như thế nào? Hàn Tốn đưa tay chống cằm, nói:

- Độ nửa tháng trước đây, đứa con trai của tôi bất thần bị mất tích, và tôi đã đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng vẫn bặt vô âm tín. Trước đây ba hôm, bỗng nhiên có người đưa thư đến, cho biết là đứa con của tôi đã bị hại rồi. Bức thư ấy có một nội dung vô cùng kỳ quái, nên tôi đoán biết việc này có điều chi lạ lùng khó hiểu. Nhưng vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa thể nắm được một manh mối nào, nên vẫn không làm sao phán đoán được kẻ thù là ai. Chính vì thế, nên suốt những ngày gần đây, tâm trạng tôi lúc nào cũng rối rắm bất an, không muốn tiếp kiến ai cả. Mãi cho đến khi nhị vị tìm đến đây, tôi vẫn không có ý muốn ra gặp mặt, nhưng nào ngờ đâu lại phát giác được bằng cớ chắc chắn, là đứa con tôi đã thật sự bị hại như thế này. Ôi! Người vợ của tôi trước khi nhắm mắt lìa đời đã dặn dò đến trăm ngàn lượt, bảo tôi phải săn sóc những đứa con cho thực chu đáo, song chẳng ngờ Hổ nhi của tôi lại bị yểu tử như thế này! Vừa nói đến đây, Hàn Tốn bất thần vung tay lên đánh thẳng xuống mặt bàn một đấm, vang lên nghe một tiếng ầm, khiến chiếc bàn bị thủng thành một lỗ to.

Tây Môn Nhất Nương nghe Hàn Tốn nói đến đây, bỗng liên tưởng đến đứa con trai của mình là Lữ Lân, cũng bị hại y như trường hợp đứa con của Hàn Tốn, nên đôi mắt đã đỏ hoe, lóng lánh ánh lệ nói:

- Hàn đại hiệp, hoàn cảnh của chúng ta hoàn toàn giống nhau. Đứa con trai của chúng tôi cũng...

Tây Môn Nhất Nương vốn có ý muốn nói "cũng bị hại như vậy", nhưng câu nói cuối cùng của bà ta chưa thốt ra khỏi miệng, trong lòng bỗng có một ý nghĩ lóe lên, nên vội vàng thay đổi câu nói ngay, tiếp rằng:

- Hàn đại hiệp, chẳng hay sau khi nhận ra lệnh lang bị sát hại, đại hiệp có phát giác được tử thi hay chăng? Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn về Tây Môn Nhất Nương một lượt, tựa hồ thầm trách bà ta không nên đặt ra một câu hỏi như thế, trong khung cảnh mà Hàn Tốn đang bi thương cực độ. Nhưng Tây Môn Nhất Nương vẫn điềm nhiên, như không hề chú ý đến thái độ ấy của Lữ Đằng Không.

Hàn Tốn cất tiếng than một lượt, nói:

- Mãi cho đến ngày hôm nay, tôi mới được biết là nó đã thật sự chết rồi. Do đó, lẽ tất nhiên là chẳng hề phát giác được tử thi của nó! Lúc ấy, Lữ Đằng Không đã thầm đoán hiểu được dụng ý qua câu hỏi ấy của Tây Môn Nhất Nương, nên lên tiếng nói:

- Phu nhân, có phải bà muốn bảo là xác chết đứa bé thơ ở trong gian hầm đá bí mật của chúng ta ấy, chính là xác chết của Hàn công tử hay không? Tây Môn Nhất Nương chưa kịp lên tiếng trả lời, sắc mặt của Hàn Tốn đầy vẻ ngờ vực, hỏi:

- Lữ Tổng tiêu đầu, ông nói chi thế? Lữ Đằng Không đáp:

- Sau khi chúng tôi vừa nhận chiếc hộp gỗ này, có không biết bao nhiêu chuyện quái dị nối tiếp xảy ra...

Tiếp đó, Lữ Đằng Không bèn đem mọi việc mà vợ chồng ông ta đã gặp, cũng như việc phát giác xác chết một trẻ thơ không đầu tại gian hầm đá bí mật của mình, nói lại tỉ mỉ cho Hàn Tốn nghe.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn càng nghe giãi bày, sắc mặt lại càng nhăn nhó, trông vô cùng đáng sợ. Hàn Tốn chờ cho Lữ Đằng Không nói dứt lời, bèn gằn giọng hỏi vặn rằng:

- Lữ Tổng tiêu đầu, ông bảo là cánh cửa gian hầm đá bí mật ấy, chỉ riêng có hai vợ chồng ông mới mở ra được phải không? Lữ Đằng Không vì xét thấy mình hoàn toàn chẳng hề có làm chuyện chi ám muội, đáng hổ thẹn với lương tâm, nhất là ông ta hoàn toàn không có sát hại đứa con trai của Hàn Tốn, nên tuyệt nhiên không ngờ rằng những lời giải thích chân thành ấy của mình đã gây ra cho Hàn Tốn một sự ngờ vực sâu xa. Do đó, về trường hợp cánh cửa gian phòng đá bí mật, lão ta cho rằng chỉ riêng có hai vợ chồng lão mới mở được mà thôi, vô tình đã trở thành một điểm đáng ngờ vực, một sơ hở thuộc về tình ngay lý gian trong câu chuyện mà lão ta vừa trình bày. Bởi thế, lão ta vẫn giữ vẻ điềm nhiên đáp:

- Gian phòng đá ấy được xây cất vô cùng khéo léo, và thật sự là chỉ riêng hai vợ chồng chúng tôi mới có thể mở được cánh cửa bí mật ấy mà thôi! Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn phá lên cười ha hả như điên dại nói:

- Vừa rồi tôi ngỡ là tôi vì quá nóng nảy nên đã hiểu lầm nhị vị, nhưng giờ đây xem ra chắc chắn nhị vị là kẻ đã hạ độc thủ sát hại con tôi rồi! Lữ Đằng Không hết sức kinh ngạc, lên tiếng hỏi:

- Tại sao Hàn đại hiệp lại lên tiếng nói thế? Hàn Tốn gằn giọng quát:

- Nếu chẳng phải nhị vị đã hạ độc thủ, xác chết của đứa con trai tôi tại sao lại xuất hiện bên trong gian phòng đá bí mật mà chỉ riêng có nhị vị mới mở cửa được mà thôi? Lữ Đằng Không đáp:

- Đấy chính là xác chết của Lân nhi, đứa con trai yêu dấu của chúng tôi! Hàn Tốn cất tiếng ghê rợn cười dài, nói:

- Ông chớ nên biện bạch thêm nữa. Đứa con trai của các người chắc chắn đã được các người tìm một địa điểm kín đáo giấu đi, rồi bịa ra một câu chuyện như thế này để đến đây phỉnh gạt tôi. Nhưng các người không ngờ là trong câu chuyện bịa đặt ấy lại có sơ hở để cho người ta thấy được! Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đến chừng ấy mới kịp suy nghĩ chín chắn thêm, và do đó họ cảm thấy kẻ bày mưu để ám hại mình quả thực tâm địa vô cùng thâm độc.

Vì nếu vợ chồng Lữ Đằng Không chỉ mang chiếc hộp có đựng đầu người này đến giao cho khổ chủ, và nếu khổ chủ là người biết nhận xét chuyện phải trái, thì việc đó vẫn không đến nỗi sinh ra điều ngờ vực chi đối với vợ chồng ông ta. Nhưng đằng này, khi hai vợ chồng ông ta chân thành đem mọi sự thực nói rõ cho đối phương nghe, trái lại chính vì chỗ tình ngay lý gian ấy mang đến cho họ một nỗi hàm oan không thể giãi bày được.

Bởi thế, Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, lên tiếng nói:

- Đại hiệp, giữa chúng ta không oán không thù, vậy tại sao chúng tôi lại có thể hạ độc thủ như thế được? Chúng tôi không giấu chi ông, hai vợ chồng chúng tôi hiện nay đã nghi quyết, là Lục Chỉ Tiên Sinh ở tại núi Võ Di chính là kẻ thù sát hại đứa con thơ của chúng tôi.

Do đó, chúng tôi đã có ý định là sau khi mọi việc ở đây xong xuôi, sẽ chia tay nhau kẻ đến Nga My, người đến Điểm Thương để mời các cao thủ trong hai môn phái này, cùng kéo đến Tiên Nhân Phong trên núi Võ Di để rửa sạch mối thù ấy.

Lữ Đằng Không vừa dứt lời, và Hàn Tốn cũng chưa kịp nói chi thêm, ai nấy bất thần nghe có một tiếng phình to vang lên, đồng thời lại thấy từ bên ngoài cửa có một bóng người lao thoắt vào nhanh như gió lốc. Khi bóng người ấy vừa tràn đến nơi, là đã to tiếng quát rằng:

- Hàn Kim Tiên, ngay đến cái thù sát hại con dại của ngươi, mà ngươi cũng không muốn trả nữa hay sao? Ba người hiện diện trong gian phòng cùng định thần nhìn kỹ về phía bóng người mới xuất hiện, thì trông thấy đấy là một lão bà mình mặc y phục màu đỏ tươi, sắc mặt đang tràn đầy vẻ căm tức.

Lẽ tất nhiên là cả ba người đều nhận ra đối phương không ai khác hơn Hỏa Phụng Tiên Cô. Sau đó, từ ngoài cửa lại thấy một cô gái nối gót Hỏa Phụng Tiên Cô chạy bay vào, sắc mặt hầm hầm đầy vẻ giận dữ.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nhanh nhẹn đứng lên nói:

- Hỏa Phụng Tiên Cô, xin bà chớ nên nóng nảy, vì mối đại thù sát hại Hổ nhi của tôi, lẽ tất nhiên là phải trả, nhưng hiện giờ hai người họ vẫn chưa chịu nhìn nhận mọi việc làm của mình kia! Hỏa Phụng Tiên Cô cười nhạt nói:

- Bọn chúng lẽ tất nhiên là không khi nào chịu thừa nhận.

Tây Môn Nhất Nương nghe thế, cũng đáp lại một tiếng cười nhạt, nói:

- Nếu việc này do chúng tôi gây ra, tại sao chúng tôi lại không dám nhìn nhận, bộ chúng tôi sợ bà hay sao? Hỏa Phụng Tiên Cô tức giận, thét lên một tiếng to trong khi thân người cũng quay lại nhanh như chớp, vung chưởng đánh ra một tiếng vút, nhắm thẳng giáng xuống đỉnh đầu của Tây Môn Nhất Nương.

Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, cũng liền vội vàng vung chưởng lên, đỡ thẳng vào thế công của Hỏa Phụng Tiên Cô. Và sau một tiếng bình to, cả đôi bên đều bị hất bắn ra sau ba bước dài. Những tấm gạch lót trên mặt đất, nơi đôi chân của hai người đang đứng, đều bị bể ra thành từng mảnh vụn.

Lữ Đằng Không trông thấy đôi bên đã ra tay đánh nhau, trong lòng không khỏi hết sức cuống quýt. Vì bốn người có mặt trong gian đại sảnh này đều là lớp cao thủ hạng nhất trong võ lâm cả. Hơn nữa Hỏa Phụng Tiên Cô trước đây nguyên là nhân vật trong Phi Yến Môn, và dù hiện giờ bà ta đã thanh minh là tách rời khỏi môn phái này, nhưng chắc chắn số cao thủ trong Phi Yến Môn đều là người có cảm tình cá nhân rất sâu sắc, không khi nào lại chịu đứng khoanh tay nhìn Hỏa Phụng Tiên Cô phải đơn thân độc mã đối đầu với kẻ thù địch.

Thêm vào đó, Hàn Tốn cũng lại là người từ trước đến nay giao thiệp rất rộng rãi, bè bạn rải rác khắp trong thiên hạ.

Do đó, nếu giữa bốn người gây sự đánh nhau và trở thành kẻ thù địch, chắc chắn việc nhỏ sẽ thành to, lần lượt lôi kéo thêm một số đông nhân vật võ lâm khác vào chuyện rắc rối này.

Lữ Đằng Không thấy rằng hiện nay hai vợ chồng ông ta cần phải đến núi Võ Di để tìm Lục Chỉ Tiên Sinh hầu đánh nhau để thanh toán mối hận thù. Hơn nữa, số người của Quỷ Thánh Thạnh Linh, Kim Cô Lâu, Từ Lưu Bản chắc chắn không chịu để yên cho vợ chồng lão ta.

Thế mà giờ đây nếu gây thêm một số đối thủ mới nữa, chắc chắn mọi việc sẽ rắc rối vô cùng.

Bởi thế, Lữ Đằng Không xét thấy nếu mình không thể gỡ được nỗi hàm oan, và mọi việc cứ tiếp tục diễn biến bất lợi, tất nhiên là sẽ tạo nên một cuộc biến động to tát trong cả võ lâm, xảy ra bao nhiêu cuộc chém giết đẫm máu không biết sẽ kéo dài đến bao giờ mới kết thúc. Và một cuộc xô xát rộng lớn và đẫm máu như vậy, không biết chừng sẽ triền miên mãi mãi không có ngày chấm dứt cũng nên.

Vì nghĩ thế, nên trong lòng Lữ Đằng Không hết sức lo ngại. Ông ta xét thấy, nếu giờ đây mình kịp thời giải thích cho đối phương hiểu được rõ mọi sự hư thực, còn mong cứu vãn được tình thế. Do đó, ông ta bèn quát to lên một tiếng như sấm nổ:

- Hãy ngưng tay lại! Hỏa Phụng Tiên Cô cất tiếng cười nhạt, nói:

- Tại sao lại phải ngưng tay? Vì mọi chuyện diễn biến quá đột ngột và hết sức phức tạp, nên Lữ Đằng Không nhất thời luống cuống, chẳng biết phải lên tiếng giãi bày ra sao cả. Do đó, ông ta đứng sửng sờ một lúc lâu mới lên tiếng nói:

- Chúng tôi tực sự không hề sát hại Hàn công tử, vậy chả lẽ các người không chịu tin hay sao? Cô gái và Hỏa Phụng Tiên Cô đồng thanh quát:

- Lẽ tất nhiên là không khi nào tin! Xem ra, Hỏa Phụng Tiên Cô đã là người tính tình nóng như lửa, nhưng cô gái ấy lại còn có vẻ nóng nảy hơn gấp trăm lần! Lữ Đằng Không lại nói tiếp:

- Nếu thật sự chúng tôi đã sát hại Hàn công tử, đâu khi nào lại đi xa ngàn dặm, mang thủ cấp của Hàn công tử đến đây? Nếu một kẻ sát nhân lại hành động như vậy, chẳng hóa ra là một kẻ ngu xuẩn lắm hay sao? Câu nói ấy của Lữ Đằng Không hết sức hữu lý, và do đó cũng đủ chứng thực lão ta là một con người hoàn toàn vô tội. Nhưng nào ngờ Hỏa Phụng Tiên Cô vừa nghe qua, bèn cất giọng lạnh lùng hừ một tiếng trong mũi, nói:

- Ông nói hay lắm, song chẳng lẽ ông ra tay sát hại một mạng người, tuyệt đối chẳng còn có những kẻ chung quanh biết được hay sao? Chính vì lẽ ấy, nên vợ chồng ông mới bày ra kế này, mong tìm đến đây dùng lời lẽ gian ngoan xảo trá, phỉnh gạt chúng tôi để chối tội.

Nhưng mọi việc đâu lại dễ dàng như ông nghĩ! Cô gái đang đứng cạnh đấy cũng to tiếng nói:

- Không sai tí nào cả! Rất có thể bọn họ tìm đến đây định thừa cơ sát hại luôn cả tôi và cha tôi nữa.

Hỏa Phụng Tiên Cô nói:

- Rất có thể như vậy. Nhưng vì khi vừa đến đây, bọn họ biết được có sự hiện diện của ta nên không dám xuống tay làm liều, bất đắc dĩ phải dùng lời lẽ gian ngoan để chối tội đó mà thôi! Gữa hai thầy trò Hỏa Phụng Tiên Cô, kẻ xướng người h a, tỏ ra có một sự nhận định nhất trí, và cũng rất khẳng định. Bởi thế, Lữ Đằng Không đoán biết việc này vô cùng rối rắm và hệ trọng, nếu mình tỏ ra mất bình tĩnh, khiến sự việc diễn biến càng rối rắm hơn, không còn mong chi có sự dàn xếp ổn thỏa được nữa. Do đó, ông ta vẫn một mực cố đè nén cơn tức giận trong lòng, mong sẽ bình tĩnh giải thích cho đối phương thông cảm tình ngay lý gian của mình.

Nhưng riêng Tây Môn Nhất Nương vì là người nóng nảy, nên đã bừng bừng nổi giận, buột miệng mắng rằng:

- Chỉ khéo nói bá láp! Ai có sợ bà bao giờ đâu! Hỏa Phụng Tiên Cô nói:

- Đấy là lẽ tất nhiên! Nhưng chẳng lẽ bà đã quên việc ba lần bị đánh gãy đôi thanh trường kiếm trước đây rồi hay sao? Trước kia, Tây Môn Nhất Nương đã bị Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân của Hỏa Phụng Tiên Cô đánh gãy đôi thanh trường kiếm đến ba lần, nên trong lòng vô cùng căm tức, và cho đấy là một chuyện nhục nhã to tát đối với mình. Bởi thế, khi nghe Hỏa Phụng Tiên Cô nhắc đến chuyện ấy, không làm thế nào đè nén được lòng căm hờn, tức giận nữa. Trong khi ấy, cô gái đứng bên cạnh lại bất thần lên tiếng nói chêm vào rằng:

- Sư phụ, hôm nay bà ta lại vừa bị con đánh gãy thanh trường kiếm một lần nữa. Như vậy, trước sau bà ta đã bị gãy trường kiếm đến bốn lần kia! Câu nói của cô gái chẳng khác chi lửa đang cháy lại chế thêm dầu. Chính vì vậy nên Tây Môn Nhất Nương bất thần quát lên một tiếng căm tức, vung mạnh thanh trường kiếm bị đánh gãy mũi trong tay lên, khiến kiếm hoa lóe ra lập lòe sáng rực, nhắm khắp cả thân người của Hỏa Phụng Tiên Cô chụp thẳng xuống! Nhưng Hỏa Phụng Tiên Cô chẳng hề sợ hãi, cất tiếng cười ha hả, rồi cùng lúc vung hai tay áo rộng lên, vừa phản công vừa lách người để tránh thế kiếm của Tây Môn Nhất Nương.

Nhưng vì lúc ấy Tây Môn Nhất Nương đang sử dụng thế Thiên La Địa Võng nên bóng kiếm chập chờn nơi nơi, thế võ này vừa đi mãn thì thế võ kia lại nối tiếp theo, khiến từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, bốn phương tám hướng đâu đâu cũng có ánh thép chiếu ngời, đan dày đặc chẳng khác chi một mảnh lưới to, trùm kín cả người của Hỏa Phụng Tiên Cô, trông thực vô cùng nguy hiểm.

Bởi thế mặc dù thanh trường kiếm trong tay Tây Môn Nhất Nương bị đáng gãy đi một khúc mũi, nhưng vẫn nguy hiểm đáng sợ.

Hỏa Phụng Tiên Cô lúc ấy yếu thế hơn, vì trong tay chẳng hề có một món binh khí nào cả. Mặc dù thân pháp của Hỏa Phụng Tiên Cô hết ức nhanh nhẹn, đôi chưởng phản công nhẹ nhàng và linh động, nhưng khi thế kiếm của Tây Môn Nhất Nương vừa tạm dừng, thì ai nấy đã thấy một tay áo rộng của bà ta, cũng như một chòm tóc trên đầu đã bị lưỡi kiếm chém rơi xuống đất.

Bởi thế, Hỏa Phụng Tiên Cô thừa cơ hội Tây Môn Nhất Nương tạm dừng thế công, bèn nhanh nhẹn nhảy lùi ra xa, kêu to lên rằng:

- A Hà, hãy đưa Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đây cho ta! Cô gái nghe thế, bèn nhanh nhẹn trao ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đến cho Hỏa Phụng Tiên Cô ngay.

Tây Môn Nhất Nương cười nhạt nói:

- Bà định nhờ vào món binh khí để thủ thắng, vậy có lẽ đã khiếp sợ trước ta rồi hay sao? Sắc mặt của Hỏa Phụng Tiên Cô biến hẳn, quát rằng:

- Nếu thế, bà có dám đấu nội lực với ta không? Câu nói vừa dứt, thì Tây Môn Nhất Nương bỗng vung mạnh cánh tay ra, khiến thanh trường kiếm liền bay thẳng lên nóc nhà nghe một tiếng ào, rồi xuyên thủng lớp ngói tiếp tục bay đi mất.

Tây Môn Nhất Nương đáp ngay rằng:

- Có chi ta lại không dám? Hỏa Phụng Tiên Cô cũng liền trao ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân về cho cô gái đứng bên cạnh, rồi cả hai cùng đưa chân bước thẳng tới...

Thế là, sau một tiếng bình to, hai bàn tay của Hỏa Phụng Tiên Cô và Tây Môn Nhất Nương đã đè sát vào nhau. Và cuộc đấu nội lực đã bắt đầu...

Giữa hai người trước đây đã có thử sức với nhau một lần rồi. Trong lúc ấy Hỏa Phụng Tiên Cô nhờ có món binh khí lợi hại nên đã chiếm được phần ưu thế, nhưng riêng về mặt tài nghệ chân thực thì tỏ ra đôi bên tương đương nhau, không ai hơn ai cả.

Việc đó xảy ra cách đây đã nhiều năm, nhưng giờ đây xem ra tài nghệ của đôi bên vẫn tương đương như thuở xưa. Chính vì lẽ ấy nên Tây Môn Nhất Nương mới lên tiếng nói khích Hỏa Phụng Tiên Cô, để đối phương buông bỏ Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân để cùng nhau đấu nội lực.

Nhưng hai người nếu cùng đấu nội lực như vậy, kết quả mà ai nấy đều đoán trước được, ấy là chắc chắn cả hai đều bị bại vong như nhau, không làm sao khác hơn.

Lữ Đằng Không trông thấy thế, bèn quay mặt lại nói:

- Hàn đại hiệp, chẳng rõ ông có thấy được là trong việc này chúng ta hiện đang bị sa vào một âm mưu thảm độc của một đệ tam nhân không? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nguyên là một con người rất sáng suốt, nên vừa nghe qua câu hỏi của Lữ Đằng Không cũng không khỏi thầm giật mình. Do đó, ông ta nghĩ ngợi chín chắn một lúc rồi lên tiếng đáp:

- Lữ Tổng tiêu đầu, lời nói của ông quả chí lý lắm! Lữ Đằng Không thấy câu trả lời tỏ ra vô cùng sáng suốt ấy của Hàn Tốn, hết sức cảm phục, nói:

- Hàn đại hiệp, sự nhận xét bình tĩnh của ông thật đáng khiến cho mọi người phải khâm phục. Giữa chúng ta vốn không oán không thù, mà thật sự chỉ là bị kẻ khác lợi dụng thôi. Hiện giờ giữa hai bà ấy đã bắt đầu đấu nội lực với nhau rồi, chắc chắn sẽ đi đến một kết quả đôi bên đều bất lợi, vậy chúng ta nên vung chưởng quét ra để can cả hai được không? Hàn Tốn nói:

- Phải lắm, nhưng...

Hàn Tốn vốn có ý muốn bảo: "Nhưng vì cá tính của Hỏa Phụng Tiên Cô nóng nảy như lửa, do đó giờ đây bà ta khẳng định hai người là hung thủ sát nhân rồi, e rằng khó bề thuyết phục bà ta được".

Song chẳng ngờ Hàn Tốn vừa nói đến đó, bất thần đã nghe có một tiếng quát to như sấm nổ, chứng tỏ trong cuộc đấu nội lực giữa Hỏa Phụng Tiên Cô và Tây Môn Nhất Nương đã bắt đầu ngã ngũ, định đoạt kẻ thắng người bại.

Bởi thế, Lữ Đằng Không hết sức kinh hoàng, vội vàng quay đầu ngó về phía hai đối phương, trông thấy Tây Môn Nhất Nương đang loạng choạng thối lui ra sau ba bốn bước dài, rồi dựa người vào một góc cột mới đứng vững lại được. Hơn nữa lúc ấy sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương đã vàng nhợt như màu hoàng kim, trên khóe miệng đang trào máu tươi đỏ ối, chứng tỏ bà ta bị nội thương vô cùng trầm trọng.

Trong khi đó, Hỏa Phụng Tiên Cô trái lại vẫn đứng bình tĩnh như thường, buột miệng cười to ha hả, rồi lại đưa chân tràn tới, định vung chưởng giáng thẳng vào đầu của Tây Môn Nhất Nương.

Lữ Đằng Không trông thấy thế, thì trong lòng vừa hãi kinh lại vô cùng tức giận. Ông ta gầm lên một tiếng kinh thiên động địa, trong khi cánh tay phải cũng vung lên, tuốt lấy ngọn đao thép xuống, dùng ngay thế Na Tra Náo Hải công thẳng tới, khiến ánh đao chập chờn dày đặc cả khoảng không, nhắm khắp thân người của Hỏa Phụng Tiên Cô giáng thẳng xuống.

Hỏa Phụng Tiên Cô trông thấy thế, không khỏi hết sức hãi kinh, nhanh nhẹn nhảy lùi ra sau để tránh. Nhưng dù thân pháp của bà ta có nhanh nhẹn, nhưng vẫn chậm đi một bước rồi.

Bởi thế, trên vai của bà ta đã bị mũi đao bén rạch thành vết thương dài, máu tươi tuôn ra dầm dề, trông thực vô cùng kinh khiếp.

Do đó, Hỏa Phụng Tiên Cô quát to rằng:

- Ông định dùng sức mạnh của hai người để đánh nhau với một người hay sao? Lữ Đằng Không lúc ấy vẫn không làm thế nào hiểu được tại sao Tây Môn Nhất Nương lại bị bại trước Hỏa Phụng Tiên Cô một cách quá dễ dàng đến thế. Do đó ông ta hối hả đến cạnh Tây Môn Nhất Nương định xem qua, thì nghe Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:

- Đằng Không, tình nghĩa vợ chồng mấy mươi năm của chúng ta, đến ngày nay đã chấm dứt.

Lữ Đằng Không nghe vợ mình nói thế thì trong lòng cảm thấy đau đớn như dao cắt ruột. Nhưng ông ta cố đè nén sự đau đớn ấy xuống, lên tiếng hỏi:

- Phu nhân tại sao lại nói như vậy? Tây Môn Nhất Nương lại cười đau đớn, tiếp rằng:

- Tôi vừa rồi đã bị trúng Âm Thi Chưởng của tên lão quỷ họ Thạnh, do đó khi sử dụng đến toàn bộ nội lực trong người thì chất độc liền nổi dậy phá hoại tạng phủ, khiến chân khí trong người bị phân tán cả đi, nên mới... bị thiệt thòi to tát như vầy...

Lữ Đằng Không nói:

- Phu nhân, dù sao chúng ta cũng còn hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn kia. Như vậy, cho dù phu nhân có bị trọng thương nặng đến đâu, chúng ta vẫn không hề sợ.

Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương tràn đầy nét giận dữ, nạt rằng:

- Đằng Không, món linh dược ấy là của kẻ thù địch, vậy chúng ta có thể dùng nó hay sao? Câu nói vừa dứt, máu tươi lại trào ra hai khóe miệng bà ta, khiến hơi thở bà ta đã trở thành hổn hển, trong lòng như vô cùng thống khổ.

Tây Môn Nhất Nương đứng yên thở hào hển một lúc, lại lên tiếng nói:

- Đằng Không, ông nên nhớ, nếu Lân nhi may mắn... chưa bị sát hại, ông nên dạy nó phải trả mối thù của mẹ nó ngày hôm nay. Kẻ thù của chúng ta chính là Thạnh lão quỷ... và ba đối phương có mặt ở đây.

Lữ Đằng Không vội vàng ngắt lời:

- Phu nhân...

Nhưng ông ta mới chỉ nói được hai tiếng, Tây Môn Nhất Nương đã đưa tay ra hiệu ngăn câu nói của ông ta lại, rồi cất giọng mệt nhọc nói đứt quãng rằng:

- Nếu chẳng may Lân nhi bị hại thật sự rồi, thì việc báo thù... một mình ông phải gánh lấy. Các cao thủ trong phái Điểm Thương.. lẽ cố nhiên là khỏi cần bàn, nhưng ngay đến các cao thủ tại gia của phái Nga My, ông cũng phải vận động cho được họ cùng đến tiếp tay với ông nữa. Những người như Lục Chỉ Tiên Sinh ở núi Võ Di... hai cha con lão già họ Hàn này...

Hỏa Phụng Tiên Cô... và Thạnh lão quỷ... không thể để cho một tên nào còn sống sót! Giọng nói của Tây Môn Nhất Nương cứ mỗi lúc một yếu dần, chứng tỏ bà ta đang kiệt sức.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cuống quýt nói:

- Hãy mau mang hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn cho bà ta uống ngay cả vào! Nhưng Lữ Đằng Không vẫn đứng trơ trơ như hoàn toàn không nghe thấy câu nói của Hàn Tốn. Qua một lúc lâu sau, ai nấy bỗng lại nghe một tiếng loảng xoảng, thế là ngọn đao thép trong tay của ông ta cũng bị đánh rơi xuống sàn nhà, song ông ta cũng vẫn một mực đứng trơ trơ như chẳng hề hay biết chi ráo.

Hàn Tốn trông thấy thế, biết mọi việc đang diễn biến rất quái dị, nên nhanh nhẹn đưa mắt nhìn thẳng về phía Tây Môn Nhất Nương, trông thấy bà ta đang trợn to đôi tròng mắt, nhưng hai con ngươi hoàn toàn không còn ánh sáng nữa, chứng tỏ bà ta đã tắt hơi chết mất rồi.

Hàn Tốn trông thấy thế, không khỏi kinh hoàng. Vì ông ta đoán biết mọi sự thực ngày hôm nay dù cho có ra thế nào đi nữa, nhưng giờ đây đôi bên tất đã trở thành kẻ hận thù với nhau, và chắc chắn nếu không được rửa bằng máu tươi, mối thù này không làm sao thanh toán được.

Lúc bấy giờ, Hỏa Phụng Tiên Cô và cô gái ấy cũng đứng im lặng bên cạnh đấy, nên cả gian đại sảnh đã trở thành vô cùng tĩnh mịch, chỉ còn nghe được tiếng thở hổn hển của Lữ Đằng Không mà thôi.

Tuy nhiên, riêng đôi tai của Lữ Đằng Không cảm thấy cảnh vật chung quanh chẳng phải là tĩnh mịch như mọi người đã thấy. Trái lại bên tai của lão ta lúc nào cũng có tiếng ồn ào như sấm động.

Những tiếng ồn ào ấy chính là những lời trối trăn cuối cùng của Tây Môn Nhất Nương: "Đằng Không, ông nên nhớ, nếu Lân nhi may mắn chưa chết, ông hãy dạy nó rửa thù cho mẹ. Kẻ thù chính là Thạnh lão quỷ và ba người đang đứng trước mặt đây. Trái lại, nếu chẳng may Lân nhi bị sát hại đi rồi, mối thù này hoàn toàn tập trung vào một người ông.

Riêng các cao thủ trong phái Điểm Thương thì chẳng cần phải nói, mà đến các cao thủ tại gia trong phái Nga My, ông cũng cần mời họ đến tiếp tay với ông để thanh toán mối thù này.

Những người như Lục Chỉ Tiên Sinh ở núi Võ Di, hai cha con lão già họ Hàn, Hỏa Phụng Tiên Cô, và Thạnh lão quỷ, tuyệt đối không thể để cho một tên nào được sống sót." Những lời nói ấy cứ văng vẳng và lặp đi lặp lại mãi bên tai của Lữ Đằng Không.

Bởi thế, trong đầu óc của Lữ Đằng Không lúc nào cũng có tiếng động ầm ầm như tiếng sấm giữa mùa xuân. Và cuối cùng những lời trối trăn của Tây Môn Nhất Nương ấy lại tập trung thành những tiếng gào khủng khiếp rằng:

- Phải phục thù!

- Phải phục thù!

- Không thể để cho một tên nào được sống sót!

- Không thể để cho một tên nào được sống sót! Do đó, Lữ Đằng Không bất thần quay người lại, đôi mắt chiếu lập lòe những tia lửa căm hận, trông thực vô cùng kinh khiếp, khiến Hàn Tốn đang định bước tới để dùng lời an ủi ông ta phải kinh hãi lui ra sau một bước.

Trước mắt Lữ Đằng Không lúc bấy giờ chỉ còn một màu trắng toát rộng lớn, như một tờ giấy trắng khổng lồ, bên trên nổi bật hai chữ màu đỏ ối: "Phục thù!" Bởi thế, cả thân người của lão ta không ngớt lảo đảo, chẳng khác chi một người đang say rượu, loạng choạng đưa chân tràn tới trước một bước, trong khi đôi mắt sáng rực không ngớt ngó đăm đăm về phía Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn biết đứng trước tình trạng này, dù mình có lên tiếng khuyên giải Lữ Đằng Không cũng vô ích. Nhưng dù sao đi nữa, ông ta cũng phải cất lời an ủi đối phương, hầu làm tròn trách nhiệm của một con người biết lẽ phải. Do đó, ông ta gượng cười nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, tôi tin rằng kẻ sát hại đứa con dại của tôi chắc chắn không là ông.

Như vậy tất có một kẻ nào đó đứng trung gian để ly gián chúng ta.

Lữ Đằng Không đứng trơ người như một pho tượng, nghiêng tai lắng nghe lời nói của Hàn Tốn. Và chờ cho Hàn Tốn nói dứt lời, bỗng ông ta phá lên cười dài như điên dại.

Tiếng cười của Lữ Đằng Không nghe thực vô cùng rùng rợn, làm cho ba người trong gian đại sảnh đều không khỏi kinh hoàng thất sắc.

Nhưng chuỗi cười ấy phát lên được nửa chừng, giọng cười bỗng trở thành như gào khóc, nghe thực vô cùng thống thiết. Do đó, dù cho cô gái và Hỏa Phụng Tiên Cô, là người tin chắc Lữ Đằng Không là tên hung thủ sát nhân, nhưng trong lòng cũng không khỏi bùi ngùi xúc động.

Trong khi Lữ Đằng Không cất tiếng cười thống thiết như điên dại, thân người ông ta vẫn đứng trơ trơ không hề nhúc nhích. Và khi tiếng cười pha lẫn tiếng khóc ấy đến lúc thống thiết nhất, đôi tay của ông ta bất thần múa may lên vun vút, rồi chẳng mấy chốc sau, ông ta lại im bặt tiếng cười, và bất thần quát to lên một tiếng kinh khiếp, giương thẳng đôi cánh tay ra, nhằm ngay Hàn Tốn lao thoắt tới như một con thú dữ.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn trông thấy thái độ bất thường ấy của Lữ Đằng Không, đã có sự cảnh giác trước. Do đó khi nhìn thấy Lữ Đằng Không lao tới, Hàn Tốn vội vàng lách mình tránh ngang.

Thế là, mặc dù không thể chụp trúng được đối phương, nhưng sức lao tới như điên dại của Lữ Đằng Không vẫn lướt đi ồ ạt, không hề chậm bớt...

Trong khi đó, ngay ở trước mặt Lữ Đằng Không chính là một gốc cột thực to, nên Lữ Đằng Không đã xòe cả mười ngón tay ra như những cái móc sắt, rồi nhắm ngay gốc cột ấy chụp thẳng vào nghe tiếng phập, phập và ôm siết cứng ngắc gốc cột ấy lại.

Lữ Đằng Không nguyên là một nhân vật võ công cao cường tuyệt đỉnh trong võ lâm, hơn nữa, vì lúc bấy giờ tâm trạng của lão ta đang hết sức đau khổ, thần trí cơ hồ như đã hôn mê, nên đã vận dụng hết sức bình sinh trong người ra đôi cánh tay, chụp tới mạnh mẽ không thể tả.

Nhưng cũng chính vì chỗ ông ta đã sử dụng hết chân lực trong người, nên số chất độc Âm Thi Chưởng vừa rồi được ông ta dồn ép vào một nơi, giờ đây bỗng phân tán ra khắp cơ thể, nên khiến ông ta bị chất độc hành hạ, càng như trở thành điên dại.

Do đó, khi ông ta đã ôm siết cứng lấy gốc cột rồi, liền gầm lên ba tiếng thực to, đồng thời thân người cũng vận động toàn lực lay chuyển dữ dội, khiến gốc cột to hàng người ôm ấy cũng không khỏi chuyển mình nghe răng rắc, cơ hồ như đang lắc lư.

Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô đưa mắt nhìn nhau một lượt, và Hàn Tốn liền lên tiếng nói:

- Tiên Cô, Lữ bằng hữu nếu cứ để yên như thế này, thì chỉ e không làm sao sống còn được. Do đó, dù mọi việc thế nào đi nữa, chúng ta cũng cần phải cứu lấy ông ấy trước đã.

Cá tánh của Hỏa Phụng Tiên Cô tuy hết sức nóng nảy, nhưng dù sao bà ta vẫn là một hiệp khách mai danh thuộc lớp tiền bối, tên tuổi đã nổi khắp giang hồ từ bao nhiêu năm qua, do đó bà ta vẫn là người biết nhận định phải trái, chứ chẳng phải là kẻ chỉ biết hành động theo tình cảm mà thôi. Hơn nữa bà ta cũng thấy rằng Lữ Đằng Không từ trước đến nay có tên tuổi rất tốt trong võ lâm, đồng thời cũng lại là một trong những cao thủ tại gia của phái Nga My. Hơn nữa hiện giờ tuy Tây Môn Nhất Nương đã bị chết rồi, mọi chuyện rắc rối kể như đã xảy ra, thế nhưng nếu giờ đây lại để Lữ Đằng Không chết luôn nữa, thì tất chuyện sẽ càng hóa thành to hơn, không làm sao giàn xếp cho êm xuôi được.

Bà ta cảm thấy, dù cho nếu thật sự Lữ Đằng Không có là hung thủ sát hại đứa con thơ của Hàn Tốn đi nữa, vẫn nên cứu mạng cho ông ta trước, rồi nói chi sẽ nói sau, có lợi hơn.

Chính vì nghĩ thế, nên bà ta khẽ gật đầu nói:

- Đúng như vậy! Dứt lời, Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn Tốn liền đưa chân bước tới một bước, Hỏa Phụng Tiên Cô nhanh nhẹn thò một cánh tay vung chỉ định điểm thẳng vào Thiên Tĩnh huyệt của Lữ Đằng Không để cho ông ta hôn mê đi, hầu tiện việc tiến hành sự cứu chữa...

Nhưng bất thần ngay lúc ấy, người con gái đứng cạnh đó bỗng tràn tới chắn ngay trước mặt bà ta, rồi cất giọng trong trẻo kêu thét lên rằng:

- Thưa sư phụ...

Hỏa Phụng Tiên Cô vội vàng thu cánh tay trở về, nói:

- A Hà, con có điều gì cần giãi bày? Sắc mặt của cô gái ấy trở nên hết sức trang nghiêm nói:

- Thưa sư phụ, thưa cha, nếu sư phụ và cha cứu sống cho ông ta thì chắc chắn là không khi nào ông ta lại bằng lòng tha thứ cho chúng mình cả. Như vậy chúng ta hà tất phải tạo ra một mối họa to tát cho mình? Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn Tốn nghe thế, đều không khỏi giật mình.

Hai người đều biết lời nói của Hàn Ngọc Hà thực hết sức hữu lý, không còn chi xác đáng hơn. Nếu giờ đây họ cứ để mặc cho Lữ Đằng Không chết đi, dù lương tâm mình có bị cắn rứt về chỗ đã nhẫn tâm nhìn người khác lâm nguy mà không cứu, nhưng trên thực tế thì từ nay về sau, họ có thể trừ đi được một kẻ thù địch đáng sợ.

Trái lại nếu họ vì lòng nhân từ mà ra tay cứu nguy cho Lữ Đằng Không, cái chết của Tây Môn Nhất Nương dưới tay Hỏa Phụng Tiên Cô chắc chắn không khi nào Lữ Đằng Không chịu bỏ qua cho họ.

Hơn nữa, nếu mọi việc rắc rối cứ diễn biến tới mãi, sẽ chẳng phải chỉ đóng khung trong việc xung đột với Lữ Đằng Không mà thôi, chắc chắn sẽ đụng đến các cao thủ trong hai phái Nga My và Điểm Thương, cùng với các người bằng hữu chí thân của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nữa.

Lúc ấy, Lữ Đằng Không vẫn cất tiếng căm hờn gào thét inh ỏi, đồng thời lão ta cũng không ngớt đem toàn lực ra cố quật cây cột nhà khổng lồ đang được ôm chặt trong lòng.

Nhưng tiếng gào la của ông ta xem ra mỗi lúc càng yếu dần, cũng như sức lực mỗi lúc càng kiệt quệ đi, khuôn mặt méo xệch, trông hết sức đáng sợ.

Bởi thế ngay như Hàn Ngọc Hà là nột cô gái bé thơ, mà cũng có thể thấy rõ được Lữ Đằng Không hiện đang bước vào ngưỡng cửa Diêm Vương rồi, chẳng còn sống được mấy phút trên dương trần nữa.

Nhưng bỗng ngay lúc ấy, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn hạ giọng hỏi rằng:

- Này Tiên Cô, chúng ta có thể là hạng người ấy hay sao? Hỏa Phụng Tiên Cô đáp rằng:

- Lẽ tất nhiên là không phải! Tiếng nói sau cùng của bà ta vừa thốt khỏi miệng, cánh tay đã vung lên nhanh như điện chớp, điểm thẳng vào Thiên Tĩnh huyệt trên bả vai của Lữ Đằng Không.

Lúc bấy giờ, tâm trí của Lữ Đằng Không đang ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, đôi tay đang ôm siết lấy gốc cột nhà và nghĩ rằng đấy chính là kẻ thù của mình, nên cố đem tàn lực để hạ cho kỳ được. Trước mắt lão ta đang chập chờn hình bóng của những kẻ thù mà Tây Môn Nhất Nương vừa điểm danh: Lục Chỉ Tiên Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân, Hàn Tốn, Hỏa Phụng Tiên Cô, Hàn Ngọc Hà... Và lão ta có cảm giác là tất cả số kẻ thù ấy, hiện đều bị ông ta siết cứng giữa lòng.

Chính vì vậy nên lão ta cố đem hết sức bình sinh ra để siết thật chặt số kẻ thù ấy lại, hầu hạ sát không để cho một tên nào được còn sống sót.

Do đó sức ôm siết của ông ta mạnh mẽ không thể tưởng tượng, hơn nữa tâm thần của ông ta cũng đang tập trung vào một việc duy nhất ấy, nên không còn chú ý đến chuyện chung quanh. Nhờ thế, Hỏa Phụng Tiên Cô đã điểm vào huyệt đạo của ông ta một cách dễ dàng, không có chi là khó khăn cả.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cũng vội vàng đưa chân bước tới một bước, rồi dùng sức gỡ hai cánh tay của ông ta ra, rồi để ông ta nằm yên xuống mặt đất.

Khi ba người hiện diện đưa mắt nhìn về phía gốc cột gỗ khổng lồ, không khỏi kinh hoàng thất sắc. Hàn Ngọc Hà không ngớt chắc lưỡi, và ngay như Hàn Tốn cùng Hỏa Phụng Tiên Cô là người võ công cao cường có hạng trong võ lâm, cũng không khỏi thầm kinh hoàng.

Thì ra trên gốc cột gỗ rắn chắc ấy, chẳng những có mười dấu tròn to do mười ngón tay của Lữ Đằng Không đã cắm thủng vào, mà ngay đến nơi thân người của lão ta ôm siết lấy, mặt gỗ cũng bị lõm sâu đến ba tấc mộc, in rõ hình dáng của lão ta trên ấy.

Hàn Ngọc Hà trông thấy cha mình và sư phụ không bằng lòng nghe theo lời khuyên giải của mình, vẫn tiếp tục tiến hành việc cứu cho Lữ Đằng Không, chẳng kể chi sau này Lữ Đằng Không sẽ kêu gọi các cao thủ đến gây sự trả thù, trong lòng vô cùng khó chịu, nhưng vẫn đứng yên không dám lên tiếng nói chi cả.

Từ thuở nhỏ, Hàn Ngọc Hà đã mồ côi mẹ, nên được người cha hết sức thương yêu, nuông chiều. Do đó nàng đã phóng túng quen tánh, nên thử hỏi nào biết hành động cứu nguy cho Lữ Đằng Không của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô chính là một hành động cao thượng của một người nghĩa hiệp trong võ lâm? Liền đó, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nhanh nhẹn thò tay chụp lấy chiếc lọ thủy tinh đánh rơi trên mặt đất, rồi trút hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn ra giữa lòng bàn tay, hối hả cạy răng Lữ Đằng Không, nhét cả vào miệng cho ông ta nuốt xuống.

Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô tuy biết Lữ Đằng Không đang bị trúng chất độc rất nặng, nhưng với hai viên thuốc ấy, chắc chắn sẽ cứu nguy được cho ông ta, đồng thời cũng chữa lành được vết thương do chính ông ta tự gây ra nữa, nên cả hai đều yên lòng trước tính mạng của ông ta.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn sau khi đã nhét hai viên thuốc vào miệng cho nạn nhân uống, mới thở phì ra một hơi dài, đứng thẳng người lên...

Qua một lúc lâu, Hàn Tốn mới cất tiếng than rằng:

- A Hà, Tiên Cô, tôi tin rằng Lữ bằng hữu chẳng phải là người mất lương tâm, xuống tay hại kẻ khác một cách vô cớ.

Hỏa Phụng Tiên Cô im lặng không nói chi cả. Bà ta là người có cá tánh rất ngang bướng và cố chấp nên chắc chắn không khi nào lại chịu mở miệng nhận việc làm sai lầm của mình. Nhưng thái độ im lặng ấy của bà ta, cũng đã nói lên được sự tán đồng ý kiến của Hàn Tốn rồi.

Nhưng riêng Hàn Ngọc Hà bỗng lại lên tiếng nói:

- Thưa cha, nếu bảo ông ta không ra tay sát hại đệ đệ, thì tại sao ông ta lại có thủ cấp của đệ đệ mang đến đây? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn lắc đầu nói:

- Việc ấy rất khó nói! Dứt lời, ông ta lại quay mặt nhìn về phía Hỏa Phụng Tiên Cô hỏi:

- Tiên Cô, bà có cảm thấy là trong võ lâm vốn yên tĩnh từ nhiều năm nay đang sắp sửa xảy ra những cuộc xô xát đẫm máu không? Dù cho việc rắc rối giữa chúng ta và Lữ bằng hữu có được phơi trần ra ánh sáng đi nữa, thì chắc chắn giữa phái Nga My, Điểm Thương và Lục Chỉ Tiên Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân cũng tất sẽ gây thành những cuộc tranh chấp và xung đột đẫm máu.

Hỏa Phụng Tiên Cô vẫn im lặng không nói chi cả.

Do đó, Hàn Tốn lại đem mọi việc lạ lùng xảy ra tại Phi Hổ Tiêu Cục ở Nam Xương, cũng như việc Lữ Lân bị sát hại do Lữ Đằng Không vừa thuật lại khi nãy, nói lại đại lược cho Hỏa Phụng Tiên Cô nghe.

Bởi thế, Hỏa Phụng Tiên Cô bất giác cất tiếng than dài, rồi đưa chân đi tới đi lui mấy bước trong phòng.

Bà ta đưa mắt nhìn thẳng về phía Lữ Đằng Không, trông thấy sắc mặt của ông ta từ tái nhợt đã trở thành hồng hào, nên định sẽ vung chỉ giải huyệt đạo cho ông ta tỉnh lại.

Nhưng bất thần ngay lúc ấy, ai nấy đều nghe ở phía ngoài cổng có một tiếng ầm to, rồi lại nghe có giọng nói của một cô gái nạt lớn rằng:

- Giữa ban ngày ban mặt, mà sao lại đóng kín cổng như thế này? Hơn nữa tại sao lại bảo chủ nhân không tiếp khách? Chả lẽ ông ấy đang bận tiếp ma quỷ hay sao? Câu nói ấy khi vừa mới thốt lên, thì nghe văng vẳng tận bên ngoài cổng nhà, nhưng đến lúc câu nói vừa dứt, thì đã thấy trước cửa gian đại sảnh có bóng người di động chập chờn, và chỉ trong chớp mắt sau, ai nấy lại trông thấy có một người xuất hiện ngay trước mặt.

Hỏa Phụng Tiên Cô không khỏi bừng bừng nổi giận, quắc mắt nhìn thẳng về phía đối phương, và thấy đấy chính là một cô gái xinh đẹp, trên hai cổ tay có mang hai sợi lòi tói sắt to và nặng nề, nên không khỏi giật mình nói:

- Cô cũng đến đây để can dự vào chuyện không đâu này nữa sao? Cô bé ấy cười đáp:

- Té ra Hỏa Phụng Tiên Cô cũng có mặt ở đây nữa.

Vừa nói đến đây, cô gái đã nhìn thấy Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đang nằm sóng sượt ở dưới đất. Do đó, sắc mặt của cô ta liền biến hẳn, nhanh như chớp đưa chân tràn thẳng về phía Tây Môn Nhất Nương.

Cô gái ấy nhanh nhẹn cúi người sờ lên lồng ngực Tây Môn Nhất Nương, thấy trái tim đã ngừng đập, nên bất giác ngước mắt nhìn trở lên, và sắc mặt đã xanh như chàm. Liền đó, cô ta lại lướt đến sát bên cạnh Lữ Đằng Không, vung tay vỗ mạnh vào bả vai của ông ta, khiến Lữ Đằng Không giật mình kêu thét lên một tiếng thực to, chỏi mạnh đôi tay đứng phắt ngay dậy.

Nhưng mặc dù Lữ Đằng Không vừa được uống hai viên Cửu Chuyển Tiểu Hoàn Đơn, song nhất thời cơ thể vẫn chưa hoàn toàn bình phục. Vì vừa rồi lão ta đã bị tiêu hao rất nhiều nội lực trong việc ôm siết cây cột gỗ to, nên giờ đây vừa đứng phắt lên lại té phịch ngay trở xuống đất.

Cô gái trông thấy thế, bèn nhanh nhẹn tràn tới trước, đưa tay đỡ Lữ Đằng Không đứng lên, đồng thời vung mạnh cánh tay phải về phía trước một lượt, tức thì qua một tiếng kêu loảng xoảng, sợi lòi tói sắt trên cổ tay của cô ta đã chụp vào lưng dựa một chiếc ghế cạnh đấy. Tiếp đó cô ta liền giật trở về phía mình, khiến chiếc ghế cũng được lôi đến trước mặt cô ta ngay. Nhờ thế, Lữ Đằng Không liền được cô ta đỡ ngồi yên trên chiếc ghế ấy.

Sau khi Lữ Đằng Không đã nhận ra cô gái, bèn gượng cười đau đớn nói:

- Đàm cô nương, cô đến đây để làm gì? Thì ra cô gái ấy không ai khác hơn là Đàm Nguyệt Hoa, một người vừa được Lữ Đằng Không cứu thoát bên trong gian nhà riêng của Kim Cô Lâu tại Tây Thiên Mục.

Nghe qua câu hỏi của Lữ Đằng Không, đôi mày liễu của cô gái nhướng cao lên nói:

- Tôi đã đến chậm một bước, nên Lữ phu nhân đã chết mất rồi.

Lời nói ấy của cô ta đã làm cho số người hiện diện tại gian đại sảnh không ai là không khỏi kinh ngạc. Lúc bấy giờ, sự đau đớn trong lòng Lữ Đằng Không đã lắng dịu, không còn bồn chồn nóng nảy như vừa rồi, nên ông ta ngồi yên trên ghế, đôi dòng lệ già nua lăn dài ràn rụa xuống đôi má nhăn nheo nói:

- Đàm cô nương, tại sao cô lại biết được chúng tôi ở nơi này? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Việc này nói ra thì dài dòng lắm, vậy giờ đây ông nên đi theo tôi ngay đã.

Lữ Đằng Không ngồi yên trên ghế, cố vận dụng chân khí trong người, khiến máu huyết chạy thông khắp cả cơ thể, nên lần lần cảm thấy dễ chịu hơn. Ông ta đưa hai bàn tay chống lên thành ghế rồi đứng thẳng dậy, đôi mắt đỏ ngầu vì những tia máu, lên tiếng nói:

- Đàm cô nương, cô chớ nên nhúng tay vào chuyện thị phi này làm gì. Và hiện giờ tôi chưa thể đi được.

Sắc mặt của Đàm Nguyệt Hoa lúc ấy cũng tràn ngập vẻ đau thương, cảm động nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, tôi cũng biết được là ông nhất định phải rửa thù cho Lữ phu nhân.

Nhưng hiện nay thân người ông hãy còn yếu đuối, hơn nữa ba người này chắc chắn không chạy được lên trời đâu mà sợ. Vậy hãy để chậm lại ít hôm cũng chẳng ngại gì.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nghe thế, trong lòng không khỏi hết sức kinh ngạc.

Ông ta trông thấy cô gái đang đứng trước mặt, ăn mặc vô cùng quái dị, và lại là người xa lạ mà từ trước đến nay ông ta chưa hề gặp lần nào. Trong khi đó ông ta lại thấy Hỏa Phụng Tiên Cô dường như đã biết rõ lai lịch của đối phương, và dường như biết sau lưng cô ta lại còn có những bậc phụ huynh võ công cao cường trong giới giang hồ. Bởi thế ông ta không khỏi lo ngại, vì biết mọi việc đang bắt đầu rắc rối thêm.

Sau khi nghe qua câu nói ấy của Đàm Nguyệt Hoa, thì Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn Ngọc Hà đầu cất tiếng cười nhạt.

Lữ Đằng Không đưa đôi mắt đỏ ngầu đầy căm hận nhìn đăm đăm về phía ba người Hàn Tốn một lúc thật lâu, mới cất tiếng than dài rằng:

- Được, hãy để bọn họ sống thêm ít hôm nữa.

Nói đoạn, ông ta bèn đưa đôi chân loạng choạng cùng sánh vai với Đàm Nguyệt Hoa bước thẳng ra cửa.

Nhưng hai người vừa bước đến trước xác chết của Tây Môn Nhất Nương, bỗng Hàn Ngọc Hà bất thần vung ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân trong tay lên, chặn lấy lối đi của hai người, nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, nếu ông muốn đi thì cứ đi, nhưng trước khi đi tôi xin nhắc ông hiểu rõ việc này đã.

Cái chết của Tây Môn Nhất Nương nếu truy nguyên ra, chính vì bị trúng chất độc Âm Thi Chưởng của Quỷ Thánh Thạnh Linh. Nhưng nếu xét về nguyên nhân gần, thì thứ chất độc ấy sở dĩ nổi lên sát hại nạn nhân một cách mau chóng như vậy, chính vì chưởng lực của Hỏa Phụng Tiên Cô mà ra. Nhưng sở dĩ Hỏa Phụng Tiên Cô có mặt tại nơi này, lại là do Hàn Ngọc Hà đã kêu bà ta đến.

Bởi thế nếu truy nguyên về cái chết của Tây Môn Nhất Nương, thì Lữ Đằng Không càng căm hận Hàn Ngọc Hà hơn cả Hỏa Phụng Tiên Cô nữa.

Bởi thế vừa nghe qua câu nói ấy của Hàn Ngọc Hà, thì ông ta gằn giọng quát to rằng:

- Hãy cút mau! Hàn Ngọc Hà cau chặt đôi mày nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, xin ông nên biết vừa rồi nếu chẳng nhờ phụ thân và sư phụ tôi cứu nguy cho ông, chắc chắn giờ đây hồn ông đã du địa phủ rồi! Lúc Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn Tốn hợp lực cứu nguy cho Lữ Đằng Không, thì Lữ Đằng Không hãy còn mê man bất tỉnh nên hoàn toàn không biết chi về chuyện ấy. Giờ đây mặc dù lời nói của Hàn Ngọc Hà đều hoàn toàn đúng sự thực, nhưng thử hỏi với Lữ Đằng Không, một người đang tràn đầy ác ý và thù địch đối với cha con cô ta, làm sao lại bằng lòng chịu tin cho được? Bởi thế Lữ Đằng Không đã phá lên cười to nói:

- Nếu nói như vậy thì ta đây phải cảm ơn hai người ấy rồi! Câu nói ấy của Lữ Đằng Không hoàn toàn có một ngụ ý trái ngược và ai cũng có thể nhận ra ngụ ý ấy. Bởi thế Hàn Ngọc Hà không khỏi đỏ bừng sắc mặt nói:

- Thú vật còn biết báo ân thay, vậy thử hỏi một người có tên tuổi trong võ lâm như ông, bấy lâu mang tiếng tăm lừng lẫy mà không bằng thú vật hay sao? Trong võ lâm, địa vị của Lữ Đằng Không khá cao, bình nhật những cao thủ trong giới giang hồ không ai là không tỏ ra kính nể trước mặt ông ta.

Thế mà giờ đây ông ta lại bị Hàn Ngọc Hà mắng thẳng vào mặt như thế, thử hỏi không tức giận sao được.

Do đó cả thân người ông ta cơ hồ đều run bắn lên, nhất thời không nói nên lời.

Đàm Nguyệt Hoa đứng cạnh đấy, trong lòng hết sức bực tức, gằn giọng nói:

- Hàn cô nương, nếu cô còn lắm lời nữa, tôi không làm sao thủ lễ được! Hàn Ngọc Hà cười nhạt nói:

- Rõ là khôi hài, có ai bảo cô phải thủ lễ bao giờ đâu! Hai cô gái ấy đều là người xinh đẹp khả ái, nên mặc dù đôi bên đang tức giận, sẵn sàng gây sự đánh nhau, nhưng thái độ vẫn không quá hung hăng thô lỗ như những nhân vật võ lâm khác.

Đàm Nguyệt Hoa sa sầm nét mặt nói:

- Cô có bằng lòng tránh ra hay không? Hàn Ngọc Hà đưa ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân chỉ thẳng vào mặt Lữ Đằng Không nói:

- Muốn tôi tránh đường cho cũng không có chi là khó, chỉ cần ông ấy cúi đầu cảm tạ ơn cứu mạng của phụ thân và sư phụ tôi, tôi sẽ để yên cho hai người bước ra khỏi cửa.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đứng cạnh đấy, vội vàng lên tiếng quát rằng:

- A Hà, tuyệt đối không thể...

Hai tiếng "lắm chuyện" mà Hàn Tốn định nói lên, chưa kịp thốt ra khỏi miệng, bỗng Hỏa Phụng Tiên Cô thò tay kéo mạnh lấy tay áo của ông ta, rồi hạ giọng nói nhỏ rằng:

- Hàn đại hiệp, tạm thời chớ nên ngăn cản nó làm gì! Hàn Tốn quay đầu ngó lại, trông thấy Hỏa Phụng Tiên Cô đưa đôi mắt chiếu ngời ánh sáng nhìn vào người Đàm Nguyệt Hoa nên trong lòng đã đoán biết câu nói của bà ta là có một nguyên nhân chi, nên cũng im ngay câu nói dở dang lại, không nói tiếp nữa.

Đàm Nguyệt Hoa cất giọng lạnh lùng, cười nhạt liên tiếp nói:

- Tây Môn Nhất Nương đã bị thiệt mạng tại nơi này, vậy nếu chẳng phải vì hiện giờ Lữ Tổng tiêu đầu đang bị trọng thương chưa bình phục hẳn, chắc chắn tôi sẽ bắt ba người phải đền mạng ngay. Giờ đây tôi bằng lòng rút lui để cho các người có rộng thời giờ tìm thêm viện binh, vậy chả lẽ các người lại không biết điều lợi đó hay sao?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 10
Khó Đoán Mà Cũng Khó Buông
Cô Gái Lánh Địch Vì Tuân Lệnh Thầy


Sự đấu khẩu giữa Đàm Nguyệt Hoa và Hàn Ngọc Hà, dưới mắt người ngoài chỉ là một việc tất nhiên. Vì hai người tuổi tác xấp xỉ nhau, trình độ võ công cũng không chênh lệch nhau mấy, thế mà Đàm Nguyệt Hoa đã ăn nói lớn lối, khiến chẳng những Hàn Ngọc Hà nghe qua vô cùng tức giận, mà đến Hỏa Phụng Tiên Cô cũng không khỏi hết sức bất bình. Hơn nữa, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn là một người có sự tu dưỡng về cá tính rất thâm thúy, thế mà nghe qua lời nói ấy, trong lòng cũng không khỏi có phần khó chịu.

Chính vì lẽ ấy, nên Hàn Ngọc Hà đã tức giận cất tiếng to cười ha hả, nói:

- Chẳng sai tí nào cả! Chúng tôi quả là người không biết chi là chết sống, vậy tại sao cô không ra tay đánh nhau ngay bây giờ, hầu trả lại mối thù cho Lữ phu nhân? Đàm Nguyệt Hoa đưa chân bước tới một bước, nói:

- Nếu thế, cô hãy đỡ lấy thế võ đây! Nói dứt lời, Đàm Nguyệt Hoa liền xoay mạnh thân người, rồi nhún mạnh đôi chân lướt thẳng tới trước như một con én bay, chỉ cách xa nơi Hàn Ngọc Hà đang đứng độ bốn năm bước. Xem qua thế lướt tới của cô ta, tựa hồ hoàn toàn không muốn ra tay đánh nhau với đối phương, mà chính là muốn thừa cơ để vượt ra khỏi khung cửa vậy.

Bởi thế, Hàn Ngọc Hà liền xoay nhanh thân người lại, nạt rằng:

- Chớ mong chi bỏ chạy khỏi.

Tiếng quát vừa dứt, ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân trong tay của cô ta cũng được vung lên vun vút, rít gió vèo vèo, công thẳng về phía Đàm Nguyệt Hoa qua thế võ Hỏa Nha Song Phi, khiến món vũ khí ấy bay chập chờn giữa khoảng không, tựa hồ như tách ra làm hai cái.

Cùng lúc đó, bỗng thấy Đàm Nguyệt Hoa xoay nhanh người lại, rồi vung chưởng phải lên quét nhẹ về phía trước...

Trong khi Đàm Nguyệt Hoa vung chưởng quét nhẹ tới, thì cả thân người nàng vẫn tiếp tục lướt về phía trước, nên thế chưởng của nàng hoàn toàn không làm sao đánh trúng được Hàn Ngọc Hà cả.

Nhưng vì cánh tay của nàng vung lên, nên sợi lòi tói thép dính lủng lẳng trên cổ tay nàng cũng liền cuốn tới trước, rít gió ào ào, trông quái dị chẳng khác chi một con mãng xà lao mình ra khỏi sơn động, nhằm ngay ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân giáng thẳng tới.

Võ công của Hàn Ngọc Hà được Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô chỉ dẫn và huấn luyện, nên gồm thu cả hai sở trường của hai người, do đó, trình độ chẳng phải tầm thường. Thế nhưng đứng trước một thế công quá ư quái dị của đối phương, mà từ trước đến nay nàng chưa hề gặp được lần nào, nên không khỏi cảm thấy kinh hoàng luống cuống.

Thế là, chỉ trong chớp mắt sau, sợi lòi tói sắt ấy đã bắt đầu từ trên giáng thẳng xuống đến nơi. Và sau một tiếng xoảng do hai loài sắt thép va chạm vào nhau, Hàn Ngọc Hà đang định gằn mạnh cánh tay, để cho những cái răng bằng thép trên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân xoay mạnh, hầu khóa cứng sợi lòi tói thép của Đàm Nguyệt Hoa vừa công tới...

Nhưng nào ngờ đâu thế lướt tới của Đàm Nguyệt Hoa vẫn chưa dừng lại, nên sợi lòi tói thép vừa giáng trúng vào ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân, nó lại tiếp tục kéo thẳng về phía trước, nên Hàn Ngọc Hà không làm sao khóa cứng lấy được món vũ khí ấy của đối phương đúng theo ý định.

Do đó, Hàn Ngọc Hà không khỏi thầm kinh hãi. Mặc dù đôi bên chỉ mới đánh nhau một thế võ, hoàn toàn chưa thể phân được thắng bại, nhưng qua việc hai món binh khí va chạm thẳng vào nhau, mà ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân không thể chế ngự được món binh khí của đối phương như thế, cũng đã là một chuyện đáng kinh khiếp lắm rồi.

Vì một người có trình độ kiếm thuật cao như Tây Môn Nhất Nương, thế mà khi thanh trường kiếm vừa va chạm vào ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân, thì mũi kiếm đã bị đánh gãy lìa.

Trong khi đó, Đàm Nguyệt Hoa lại có thể thoát khỏi được thế công của món binh khí lợi hại ấy, vậy chả lẽ trình độ võ công của cô ta, lại còn cao cường hơn cả Tây Môn Nhất Nương nữa hay sao? Chính vì nghĩ thế, nên Hàn Ngọc Hà không dám tỏ ra xem thường đối phương, tập trung nhãn lực nhìn về phía địch, và thấy Đàm Nguyệt Hoa đang nhanh nhẹn xoay thân người, nhắm lướt thẳng đến sau lưng của mình thì trong lòng không khỏi bắt tức cười thầm.

Nàng liền giả vờ bước chậm lại, và thân người cũng vì đó tỏ ra như luống cuống mất linh động.

Do đó, chỉ trong chớp mắt sau, thì Đàm Nguyệt Hoa đã lướt đến sát sau lưng của Hàn Ngọc Hà. Và cùng một lúc đó, Hàn Ngọc Hà đã thét lên một tiếng to, rồi vung ngược cánh tay phải ra sau lưng, trong khi thân người vẫn đứng y nguyên như cũ...

Thế võ ấy của Hàn Ngọc Hà, chính là thế Đảo Phong Trợ Hỏa nên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đã lóe ánh sáng chói rực, vừa thủ mà lại vừa công, nên chẳng những khắp phía sau lưng của nàng được che chở kín mít, chẳng hề có một khe hở, mà đồng thời, những răng nhọn trên chiếc mâm tròn ấy cũng không ngớt xoay chuyển vun vút, nhắm ngay lồng ngực của Đàm Nguyệt Hoa công tới ồ ạt.

Đàm Nguyệt Hoa khi bước đến sát sau lưng của Hàn Ngọc Hà, thì liền gặp ngay thế võ kỳ tuyệt của đối phương công về phía mình. Nhưng nàng vẫn bình tĩnh như thường, cất tiếng cười to ha hả, đồng thời, cánh tay trái đã vung lên, nhắm quét thẳng một hư chưởng về phía lưng của Hàn Nguyệt Hà. Thế là, sợi lòi tói thép trong cổ tay của Đàm Nguyệt Hoa lại được bay tới giáng trúng thẳng vào ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân nghe một tiếng xoảng.

Do đó, những chiếc răng bén nhọn trên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân liền đứng yên lại, không xoay chuyển nữa, chứng tỏ nó đã khóa cứng được sợi lòi tói sắt trong tay của Đàm Nguyệt Hoa. Nhưng vì sợi lòi tói ấy quá to, nên những cái răng bén nhọn trên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân không làm sao cắt được nó nổi. Hơn nữa, vì ngay lúc ấy Đàm Nguyệt Hoa đã thừa cơ vung cánh tay phải lên, quét thẳng về phía trước...! Thế võ ấy của Đàm Nguyệt Hoa cơ hồ đã công ra cùng một lúc với việc ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân dính cứng vào sợi lòi tói sắt bên tay trái của nàng, nên ở phía dưới thân người của Hàn Ngọc Hà hoàn toàn sơ hở, không có chi che chở cả! Chính vì vậy nên Hàn Ngọc Hà liền cảm thấy bắp chân của mình bị tê buốt, vì sợi lòi tói trong cánh tay phải của Đàm Nguyệt Hoa đã quét trúng, rồi cuốn chặt lấy. Đồng thời nàng lại cảm thấy có một sức trì mạnh khiến đôi chân phải loạng choạng, mất hết cả tự chủ, té lăn quay ra đất ngay.

Hàn Ngọc Hà tuy té ra đất, nhưng ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân vẫn còn dính cứng trong cánh tay trái của Đàm Nguyệt Hoa. Do đó, Đàm Nguyệt Hoa cũng bị nàng trì mạnh về phía trước, khiến đôi chân mất thăng bằng, bất giác ngã chúi xuống đất.

Hỏa Phụng Tiên Cô trông thấy thế, hối hả kêu to lên rằng:

- A Hà, hãy mau buông tay ra! Nhưng Hàn Ngọc Hà vì chưa chịu thua đối phương, nên cánh tay phải vẫn nắm chặt lấy cán ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân và chưởng phía trái liền được vung lên, nhắm quét thẳng về phía Đàm Nguyệt Hoa nhanh như gió hốt.

Song giữa cơn nguy cấp, bỗng nàng cảm thấy sợi lòi tói đang quấn chặt trên bắp chân của mình buông lỏng ra. Và cũng chính sợi lòi tói sắt ấy, lại được Đàm Nguyệt Hoa nhanh nhẹn vung thẳng lên khoảng không, rồi bắt từ trên giáng trở xuống lần thứ hai, với một thế võ vô cùng ồ ạt.

Chính vì vậy, nên Hàn Ngọc Hà hết sức hãi kinh, vội vàng buông bỏ món vũ khí trong tay ra, nhào lộn đi xa non một trượng để tránh.

Liền đó, ai nấy đã nghe một tiếng phình to, tức thì, sợi lòi tói thép trong tay của Đàm Nguyệt Hoa đã giáng thẳng xuống sàn nhà, ngay nơi Hàn Ngọc Hà vừa nằm khi nãy, khiến bảy tám tấm gạch nơi ấy bị đánh nát tan, thủng thành một lằn sâu, trông vô cùng ghê sợ.

Chừng ấy, Hàn Ngọc Hà mới biết đối phương là một kẻ võ công vô cùng lợi hại, nên vội vàng chỏi tay đứng phắt dậy ngay.

Đàm Nguyệt Hoa với lượm ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân siết chặt vào giữa lòng bàn tay, rồi cười nhạt nói:

- Chỉ mới biết chút ít võ công, thế mà cũng muốn gây sự đánh nhau với người ta hay sao? Ha hả...! Khá khá...! Tiếng cười của Đàm Nguyệt Hoa chưa dứt, nàng đã vung mạnh cánh tay ném thẳng ra, khiến ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân bay vèo về phía trước như một cơn lốc. Và khi nó bay đi xa độ một trượng, giáng thẳng vào bức vách nghe một tiếng ầm, lún sâu vào tường đến phân nửa chiếc mâm tròn! Trong khi hai cô gái ra tay đánh nhau, Lữ Đằng Không đã bước tới bồng lấy xác chết của Tây Môn Nhất Nương lên, nên khi Đàm Nguyệt Hoa vừa ném bỏ ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân xong, liền cất tiếng nói to rằng:

- Lữ Tổng tiêu đầu, chúng ta đi thôi! Giờ đây xem còn có ai chặn đường chúng ta nữa cho biết.

Hàn Ngọc Hà cuống quýt kêu to lên rằng:

- Thưa cha! Sư phụ...! Ý định của Hàn Ngọc Hà là muốn kêu phụ thân và sư phụ mình tràn tới ngăn đối phương trở lại, không để cho Lữ Đằng Không và Đàm Nguyệt Hoa được tự tiện rời đi.

Nhưng khi tiếng kêu vừa dứt, nàng vội vàng đưa mắt nhìn lên thì không khỏi giật mình sửng sốt! Thì ra, nàng đã trông thấy sắc mặt của sư phụ mình, tức Hỏa Phụng Tiên Cô đang méo xệch, trông thật vô cùng xấu xí, hơn nữa cũng đang trở thành tái nhợt, rồi trong chốc lát lại biến thành xanh như chàm.

Trong khi đó, sắc mặt của cha nàng là Hàn Tốn tuy có vẻ điềm tĩnh hơn nhưng ông ta lại đứng trơ như một pho tượng, chẳng hề nhúc nhích.

Xem qua thái độ của hai người, tựa hồ họ đang đứng chứng kiến một chuyện chi thực đáng khiếp sợ. Bởi thế Hàn Ngọc Hà qua cơn kinh ngạc, vẫn trố mắt nhìn về phía người cha già và sư phụ, im lặng không nói lên được một tiếng nào nữa cả.

Nhờ thế nên Đàm Nguyệt Hoa và Lữ Đằng Không đều đã biến đi mất dạng.

Qua một lúc sau, Hàn Ngọc Hà vội bước thẳng đến trước mặt phụ thân và sư phụ, lên tiếng nói:

- Thưa cha, thưa sư phụ, nhị vị đã làm sao rồi? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cất tiếng than dài một lượt, trong khi Hỏa Phụng Tiên Cô vẫn một mực im lặng, chẳng hề đáp lại một lời. Hàn Ngọc Hà cảm thấy hết sức lạ lùng, nên lại lên tiếng hỏi:

- Thưa cha, nếu muốn để cho họ tự tiện rời đi cũng chẳng sao. Song chẳng rõ đã xảy ra chuyện chi rồi? Hàn Tốn vẫn đứng trơ trơ không đáp lại. Ông ta chỉ đưa một bàn tay lên vuốt nhẹ mái tóc của Hàn Ngọc Hà mà thôi. Qua một lúc khá lâu sau, ông ta mới nhìn về phía Hỏa Phụng Tiên Cô nói:

- Tiên Cô, theo ý tôi nên cho A Hà tạm đến lánh mặt nơi Phi Yến Môn trước đã.

Hỏa Phụng Tiên Cô khẽ gật đầu nói:

- Cũng được, nó chỉ cần cầm ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân của tôi đi đến đấy, chắc chắn Phi Yến Môn sẽ cho nó tạm trú chẳng hề từ chối.

Hàn Ngọc Hà tuy không biết đã xảy ra chuyện chi, nhưng qua lời đối đáp giữa hai người thì nàng đã đoán hiểu được mơ hồ là gia đình mình hiện đang gây thành một mối thù địch với một đối phương hết sức đáng sợ, nên phụ thân và sư phụ mình mới có ý bảo mình tìm đến Phi Yến Môn để tạm lánh mặt.

Hàn Ngọc Hà là người có cá tính nóng nảy và cứng cỏi không thua sút chi sư phụ nàng là Hỏa Phụng Tiên Cô. Do đó, nàng bèn lên tiếng nói:

- Thưa cha, con không bằng lòng đi đâu cả!

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn cất tiếng than dài, nói:

- A Hà, cá tính của con cha biết lắm, nhưng hiện giờ con tốt nhất nên nghe theo lời cha và Tiên Cô. Chớ nên bướng bĩnh thì cha vui lòng lắm.

Hàn Ngọc Hà nhận xét thái độ của hai người, thấy chắc chắn phụ thân và sư phụ mình nhất định bắt buộc mình phải rời đi, dù cho có cãi lại cũng vô ích. Do đó, nàng thấy rằng mình chỉ cần giả vờ bằng lòng rời khỏi nơi này, rồi sau đó có muốn đi đến Phi Yến Môn hay không là quyền của mình, không ai kiểm soát được. Bởi thế, nàng thấy rằng mình tạm thời tỏ ra ngoan ngoãn thì cũng không có chi đáng ngại cả. Vì vây, nàng liền khẽ gật đầu rồi ngửa mặt lên hỏi:

- Thưa cha, tại sao con nhất định phải đi đến Phi Yến Môn để tạm trú? Chẳng hay cha có thể cho con biết lý do chăng? Hàn Tốn lắc đầu một lượt rồi đáp:

- Rồi sau này con sẽ hiểu, giờ đây chớ nên hỏi nhiều là tốt hơn! Hàn Ngọc Hà nghe thế cũng không hỏi chi thêm nữa mà tỏ ra ngoan ngoãn đáp rằng:

- Nếu thế con phải bước vào trong để lo thu xếp hành trang rồi lên đường ngay.

Nói đoạn nàng bèn đưa chân bước thẳng đến bức vách tường, dùng sức giật lấy ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đang mắc cứng trên ấy ra, rồi lại quay lưng đi thẳng ra sau hậu đường.

Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn nhìn theo nàng một lúc rồi mới ngồi xuống nói:

- Tiên Cô, khi cô gái ấy vừa đến nơi đây thì thái độ của Tiên Cô tựa hồ như nhận ra được cô ta, là tại sao thế? Hỏa Phụng Tiên Cô khẽ cau đôi mày, thở phì một hơi dài, đáp:

- Trước đây độ hai tháng, lúc tôi ở trên đỉnh ngọn tháp Hồ Khưu, đã có lần được trông thấy cô ta cũng đi chơi với một thiếu niên trẻ tuổi ở tại vùng ấy. Lúc bấy giờ du khách tới lui tấp nập như mắc cửi, thế nhưng hai người họ lách mình giữa đám đông, lướt đi hết sức nhanh nhẹn tỏ ra có thân pháp tuyệt diệu vô song. Do đó tôi liền nhận ra bọn chúng là kẻ có tài khinh công thượng thặng, và cũng biết đó chính là Càn Khôn Nã Di Pháp. Đồng thời vì thấy bọn chúng tuổi còn quá nhỏ nên tôi có lên tiếng kêu bọn chúng lại. Và sau khi hỏi qua, tôi được biết bọn chúng là hai anh em ruột, người họ Đàm, hiện đang chơi ở Hồ Khưu để chờ phụ thân của chúng đến. Còn riêng cha chúng là ai thì dù tôi có khéo đến tận đâu chúng cũng không hề chịu nói ra. Sau đó, tôi lại có dịp gặp chúng mấy lần nữa. Nhưng những ngày gần đây, bỗng dưng cô gái ấy vắng đi thực lâu, chẳng rõ đã rời đi nơi nào, và khi nó tái xuất hiện thì cổ tay lại thấy lủng lẳng hai sợi lòi tói thép như thế. Nếu vừa rồi nó không sử dụng một thế võ quái dị, đánh ra một lúc hai cái lòi tói sắt như đã thấy, có lẽ tôi cũng không làm sao nhận ra được lai lịch và gốc gác võ công của nó.

Hàn Tốn lại cất tiếng thở dài nói:

- Nếu nói như vậy thì phụ thân của bọn chúng hiện nay không có mặt tại Cô Tô này? Hỏa Phụng Tiên Cô đáp:

- Có lẽ là thế. Hai anh em bọn chúng tuổi chưa đầy hai mươi mà về võ học đã cao cường đến mức đó, vậy có thể đoán được phụ thân của bọn chúng là một nhân vật danh bất hư truyền! Hai người nói đến đây liền im bặt, chẳng nói chi thêm nữa. Vừa rồi Hàn Ngọc Hà lấy cớ đi thu xếp hành trang, sửa soạn lên đường nhưng kỳ thực khi đã là người dấn bước giang hồ, thử hỏi đâu có hành trang chi rườm rà mà phải lo thu xếp? Sự thật là nàng đã mượn cớ đó để đi khỏi gian đại sảnh và khi khuất bóng liền tìm đến ẩn mình sau một bức màn để lắng tai nghe trộm câu chuyện giữa phụ thân và sư phụ mà thôi.

Bởi thế cuộc đối thoại giữa Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô đã bị nàng nghe rõ từng câu từng tiếng một. Nhưng cuối cùng nàng vẫn không làm sao tìm hiểu được việc chi đã xảy ra, và nhân vật mà hai người đề cập đến là nhân vật nào? Do đó nàng chỉ có thể hiểu được là hai anh em của cô gái vừa rồi thường xuất hiện tại vùng Hồ Khưu này mà thôi.

Hàn Ngọc Hà suy nghĩ đến đây thì trước mắt mình bất ngờ hiện lên hình bóng một con người nên thầm nói: "Chả lẽ lại chính là anh ấy sao?" Thì ra lúc bấy giờ trong đầu óc nàng đang hiện rõ lên một bóng người, và bóng người ấy là một chàng thiếu niên có thân hình mảnh khảnh. Tuy người của chàng ta có phần gầy yếu nhưng cũng chính vì đó mà làm cho chàng ta càng có vẻ anh tuấn và trang nhã hơn.

Những ngày gần đây Hàn Ngọc Hà luôn luôn theo Hỏa Phụng Tiên Cô đến trú ngụ tại một ngọn tháp cao, tọa lạc trong vùng Hồ Khưu để lo rèn luyện Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân Pháp.

Suốt trong khoảng thời gian nửa năm qua, cứ mỗi lần nàng đi đến Hồ Khưu, đều chọn lúc về đêm để cho số người chung quanh không để ý nghi ngờ.

Nửa tháng trước đây, mỗi lần nàng từ trên ngọn tháp cao ở Hồ Khưu vừa đi xuống hoặc đi đến bên cạnh Nhị Tiên Đình hay Hám Hám Gia đều cảm thấy có người đang âm thầm theo dõi ở sau lưng mình. Và người ấy không ai khác hơn là chàng thiếu niên mảnh khảnh nọ! Chàng thiếu niên ấy tại sao thường hay luẩn quẩn ở vùng đó để làm gì? Hàn Ngọc Hà cũng không làm sao biết được. Nhưng nàng nhìn qua dáng điệu của chàng, thấy chàng ta tựa hồ là một thư sinh nho nhã.

Hàn Ngọc Hà đã gặp mặt người thiếu niên ấy liên tiếp mấy lượt và đều trông thấy chàng mặc một bộ y phục màu xanh, tà áo rộng không ngớt tung bay theo chiều gió, trông dáng điệu thật hào hoa phong nhã, khiến con tim của nàng không khỏi nhảy rộn lên.

Tuy dáng điệu của người thiếu niên ấy có vẻ như một nho sinh trói gà không chặt, nhưng kỳ thực đôi mắt lại chiếu sáng ngời nên không làm sao che giấu được trước sự nhận xét của Hàn Ngọc Hà, và do đó nàng đoán biết chàng ta cũng là một nhân vật võ lâm.

Hàn Ngọc Hà nhớ thực rõ là đôi mắt sáng long lanh của chàng thiếu niên ấy, có lần vì nhìn thẳng vào mặt nàng mà đã tỏ ra luống cuống, nhưng cũng chính vì thế lại càng sáng lóng lánh hơn.

Tuy suốt nửa tháng gần đây, cứ mỗi đêm đi luyện võ công trở về, Hàn Ngọc Hà cơ hồ đều có gặp mặt chàng thiếu niên ấy. Nhưng giữa họ với nhau chẳng một lời chào hỏi hoặc nói với nhau một câu nào.

Hàn Ngọc Hà cũng không làm sao tìm hiểu được chàng thiếu niên ấy là nhân vật thuộc giới nào. Nhưng giờ đây nghe Hỏa Phụng Tiên Cô và người cha già đề cập đến hai anh em của cô gái qua câu chuyện, tự nhiên nàng bỗng liên tưởng đến hình bóng của chàng thiếu niên ấy ngay.

Sau đó Hàn Ngọc Hà âm thầm đi trở về phòng riêng của mình, vội vàng gói kỹ mấy bộ y phục, rồi giắt ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân lên vai, đưa chân bước thẳng trở ra gian sảnh.

Đến nơi, nàng trông thấy Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô vẫn ngồi im lặng, không ai nói chi cả. Hàn Ngọc Hà bèn bước đến trước hai người, cúi đầu thi lễ nói:

- Thưa cha, thưa sư phụ, Hà nhi xin giã biệt ra đi vậy.

Hỏa Phụng Tiên Cô khẽ gật đầu nói:

- A Hà, con đi đến dưới chân Phi Yến Phong tại Tần Lãnh, chắc chắn sẽ có người trong Phi Yến Môn bước ra đón đường tra vấn lai lịch của con, và chừng đó chỉ cần con đưa ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân ra và bảo là mình muốn ra mắt vị Chưởng môn thì tất sẽ được bọn họ dẫn đi ngay. Một điều con cần phải ghi nhớ cho kỹ là đến nơi nên nói rõ hiện giờ sư phụ đang bận viễn du khắp trong thiên hạ, nên mới bảo con tìm đến Phi Yến Phong để tạm tá túc, hầu lo việc rèn luyện võ công.

Lúc bấy giờ trong lòng Hàn Ngọc Hà hoàn toàn không có ý đi đến Phi Yến Môn, nên ngoài miệng chỉ vâng dạ chiếu lệ thôi. Sau đó nàng bỗng quay lưng bước thẳng về phía cửa cái, định rời nhà ra đi.

Nhưng nàng mới đi được mấy bước, bỗng nghe phụ thân gọi to rằng:

- A Hà! Hàn Ngọc Hà vội vàng nhìn lại, buột miệng kêu lên rằng:

- Thưa cha...! Tiếng kêu vừa dứt, nàng lại nhanh nhẹn nhún đôi chân nhảy thẳng vào lòng người cha già.

Khi nàng đưa mắt nhìn lại thì nhận thấy trên đôi khóe mắt của cha mình đang tuôn trào đôi dòng lệ nóng.

Từ trước đến nay, Hàn Ngọc Hà không khi nào trông thấy cha mình lại rơi lệ, nên nàng không khi nào tưởng tượng được là một người tên tuổi rung chuyển cả võ lâm, với một ngọn roi vàng đã làm cho tất cả nhân vật giang hồ đều kiêng nể, mà lại có thể rơi lệ thế này được.

Kể từ ngày đứa em trai của nàng bất thình lình bị mất tích, và cả gia đình nàng đều biết rằng việc ấy may ít rủi nhiều, nhưng phụ thân nàng chỉ lộ sắc trầm ngâm buồn bã suốt ngày mà thôi, tuyệt nhiên chẳng hề rơi lệ. Thế mà giờ đây cha nàng lại rơi lệ dầm dề.

Do đó, Hàn Ngọc Hà cảm thấy trong lòng hết sức đau xót, ngửa mặt nhìn thẳng vào người cha già hỏi:

- Thưa cha, cha khóc đấy à? Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn vội vàng cười gượng nói:

- Con bé ngốc kia, tại sao cha lại có thể khóc? Con chớ nên nói càn! Giọng nói của Hàn Tốn tỏ ra vô cùng bình thản, nhưng Hàn Ngọc Hà vẫn cảm thấy được là trong lòng phụ thân mình đang xúc động chưa từng có.

Với tâm linh sáng suốt và thông minh của nàng, đã giúp cho nàng cảm thấy hiện đang có một chuyện chi sắp xảy đến với cha mình. Và việc ấy chắc chắn là một việc vô cùng to tát, kinh thiên động địa, nhưng vì phụ thân mình sợ mình lo lắng nên mới giữ kín không nói ra mà thôi.

"Cha ơi! Cha ơi!" Trong lòng của Hàn Ngọc Hà không ngừng gào lên những tiếng vô cùng thống thiết, và nàng bỗng cảm thấy trong mắt bỗng nồng lên, cổ họng bắt đầu nghẹn ngào. Song nàng cố đè nén đôi dòng lệ lại, không để chúng tự tiện tuôn ra.

Hàn Tốn đưa tay vuốt mớ tóc óng mượt trên đầu nàng, nói gằn từng tiếng rằng:

- Này con, trong chuyến đi đến Tần Lãnh này xa xôi muôn dặm, vậy trên đường con tuyệt đối nhớ lấy là không thể gây sự đánh nhau với người chung quanh. Cá tánh của con ngang bướng nóng nảy, vậy con cũng cần phải sửa đổi mới được! Hàn Ngọc Hà nghe qua giọng nói ấy của người cha già thì cổ họng lại càng nghẹn cứng, cố gắng đáp rằng:

- Con đã hiểu rồi! Hàn Tốn dừng lại trong giây lát rồi lên tiếng nói tiếp:

- Sau khi con đến Phi Yến Môn tại Tần Lãnh, chớ nên phí thời giờ, trái lại phải cố gắng trau dồi võ công mới được. Những đường roi và những Luân Pháp, cũng như nội công tâm pháp mà cha và sư phụ đã truyền dạy cho con, thật sự con chỉ mới hiểu được rất nông cạn, cho nên cần phải tiếp tục khổ luyện hơn nữa. Nếu con chịu khó rèn luyện thêm ba năm nữa, chắc chắn sẽ có kết quả tốt. Riêng cha có lẽ không khi nào đến đấy để thăm con, và con cũng chớ nên thương nhớ đến cha và sư phụ quá nhiều. Ngọn roi vàng này cha đã sử dụng nó từ khi còn nhỏ, suốt mấy mươi năm nay chẳng hề rời khỏi thân người cha, và cũng chính là món báu vật quý báu nhất trong võ lâm. Nhưng hôm nay cha cho con.

Hàn Ngọc Hà nghe qua lời nói ấy của phụ thân, có cảm tưởng trong chuyến đi này sẽ là một chuyến đi vĩnh biệt, nên trong lòng hết sức xót xa bùi ngùi.

Nhưng dù sao nàng vẫn là một cô gái có cá tính cứng cỏi và ngang bướng nên cố gắng giữ đôi dòng lệ không cho tuôn trào ra khỏi khóe mắt. Nàng lên tiếng khẽ vâng lời, rồi đưa hai tay nhận lấy ngọn roi vàng định quấn vào lưng. Nhưng bỗng nhiên nàng chợt nhớ ra điều gì, bèn lên tiếng hỏi:

- Cha không cần đến ngọn roi này để phòng thân nữa hay sao? Hàn Tốn khẽ lắc đầu nói:

- Cha không cần đến nó nữa! Hàn Ngọc Hà ngửa mặt lên, đưa mắt ngó trân trân vào người cha già và nàng cảm thấy chỉ trong thoáng chốc mà phụ thân mình tựa hồ đã già nua đi rất nhiều. Kể từ ngày đứa em trai mình bị mất tích, cha nàng trở thành tiều tuỵ hơn xưa rất nhiều. Thế mà giờ đây, qua cơn xúc động to tát, sắc mặt của cha nàng lại càng già nua đi nhanh chóng hơn.

Bởi thế nàng không khỏi cất tiếng thầm than dài, rồi thong thả quấn ngọn roi vàng vào lưng.

Hàn Tốn cúi đầu nghĩ ngợi trong giây lát rồi nói:

- Ngoài ra còn đứa em trai của con...

Hàn Ngọc Hà là một người chị rất thương em, nên nghe cha mình nhắc đến đứa em bất hạnh, trong lòng lại càng bùi ngùi xót xa hơn. Do đó, hai dòng lệ lại trào ra đôi khóe mắt, khiến nàng phải hối hả quay mặt nhìn vào trong vách, nghiến chặt đôi hàm răng để cố đè nén sự xúc động.

Hàn Tốn cất giọng nghẹn ngào nói:

- Kẻ đã sát hại đứa em trai của con hiện giờ có thể quả quyết chẳng phải là Lữ Đằng Không. Nhưng kẻ ấy là ai, thực trong nhất thời cha chưa làm sao hiểu được. Vậy sau khi con đã học hỏi thành tài, thì chớ nên quên việc truy tìm manh mối để làm sáng tỏ việc này! Hàn Ngọc Hà khẽ gật đầu, nhưng yên lặng không nói chi cả. Hàn Tốn khoát tay lên một lượt bảo:

- Con hãy đi đi! Hàn Ngọc Hà ngoan ngoãn quay người bước thẳng ra khỏi cửa. Và khi đến khu thiên tĩnh thì đôi dòng lệ đang đọng lại trên hai khóe mắt của nàng tự nhiên tuôn trào ra như suối.

Nàng không đi thẳng ra cửa ngõ, trái lại, khẽ nhún đôi chân lao thẳng trở vào vườn hoa ở phía sau nhà rồi nhanh nhẹn lướt thẳng vào một cánh rừng trúc cạnh đấy, òa lên khóc vô cùng thống thiết! Hàn Ngọc Hà là một cô gái có cá tính cứng cỏi, bình nhật cho dù gặp phải sự khó khăn chi, nàng tuyệt nhiên không bao giờ rơi lệ. Nhưng giờ đây nàng cảm thấy trong lòng mình hết sức đau khổ, và niềm đau khổ ấy là một niềm đau khổ thật sự chưa hề có trong đời.

Do đó đôi dòng lệ của nàng tuôn trào ra như suối, không còn làm thế nào mà đè nén lại được nữa.

Nàng nhớ lại đứa em trai khả ái của mình, rồi lại nhớ đến những lời nói của phụ thân vừa rồi. Nàng thấy giọng nói của cha già khi nãy tuy có vẻ rất bình thản, song kỳ thực thì từng tiếng một đều khiến cho nàng phải xót xa đau đớn.

Chả lẽ phụ thân của nàng hiện đã gây thành mối cừu địch với một kẻ thù hết sức lợi hại và đáng sợ lắm hay sao? Rất có thể chính vì vậy nên ông ấy không còn thấy ngọn roi vàng dùng để phòng thân là cần thiết nữa, trái lại, chỉ còn cách bó tay chờ chết hay sao? Tuy Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô đều tuyệt nhiên không nói cho Hàn Ngọc Hà một điều chi khác lạ, nhưng qua lời nói của người cha già, nàng đã linh cảm được việc thống khổ trong việc sinh ly tử biệt! Bởi thế nàng không ngớt khóc to, và đã khóc vô cùng ai oán. Qua một lúc khá lâu sau, nàng mới im tiếng khóc và đứng thẳng người lên.

Khu rừng trúc ấy tọa lạc tại một góc vườn hoa phía sau nhà nàng, địa thế tĩnh mịch hẻo lánh, hơn nữa khu vườn hoa ấy lại to, trong nhà lại ít người. Nên lúc bấy giờ không ai phát giác được sự hiện diện của nàng tại đấy cả.

Nàng đứng trơ ra như một pho tượng và chẳng mấy chốc thì bóng hoàng hôn đã phủ kín cả vạn vật, màn đêm theo đó từ từ buông rũ khắp nơi nơi.

Hàn Ngọc Hà đưa tay sờ vào ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân vắt ở trên vai, rồi lại sờ vào ngọn roi vàng đang quấn trên eo lưng. Nàng nghiến chặt đôi hàm răng, vẻ mặt hiện sắc cương quyết không thể tả. Đồng thời nàng nhún mạnh đôi chân, phi thân vượt qua khỏi vòng tường.

Lúc bấy giờ, trong lòng nàng đã có sự dứt khoát ấy là tuyệt nhiên sẽ không đi đến Phi Yến Môn, mà trái lại sẽ đến Hồ Khưu hầu tìm hiểu cho rõ ràng lai lịch của Đàm Nguyệt Hoa mới được.

Bởi thế, sau khi vượt ra khỏi vòng tường, nàng liền nhanh nhẹn nhắm ngay phía ngoại ô tiếp tục đi nhanh tới.

Vùng núi Hồ Khưu lại có tên là Hải Dũng Sơn. Tuy đấy là một quả núi không cao lắm, nhưng lại chính là một vùng danh lam thắng cảnh tại Cô Tô này, nên suốt ngày du khách tới lui tấp nập, đông nghẹt chẳng lúc nào ngừng.

Theo tục truyền thì Ngô Vương Phù Sai trước kia bị chết mất mạng tại vùng núi Hồ Khưu này.

Tuy đấy là một vùng danh lam thắng cảnh, nhưng vì lúc ấy màu trời đã tối, du khách đã trở về thành nghỉ ngơi, nên trên đường đi thực vô cùng vắng vẻ.

Hàn Ngọc Hà sau khi vượt qua khỏi cửa thành được mấy dặm đường thì cảm thấy ngọn gió đêm đang thổi mát lạnh. Hơn nữa trời lại bắt đầu đổ mưa lất phất. Tâm trạng của Hàn Ngọc Hà vốn đang nặng trĩu, thế mà gặp khung cảnh âm u lạnh lùng này lại khiến nàng cảm thấy lòng ngực thêm nặng nề, cơ hồ suýt nữa nghẹt thở.

Tuy nhiên nàng vẫn một mực lướt tới như bay trên con đường vắng vẻ tĩnh mịch, và sau độ nửa tiếng đồng hồ, trước mặt nàng đã có thể trông thấy thấp thoáng ngọn tháp cao, đang đứng sừng sững trên đỉnh núi Hồ Khưu.

Bởi thế Hàn Ngọc Hà liền chậm đôi chân lại, thong thả tiến bước về phía trước mặt.

Nàng đã đến vùng núi Hồ Khưu, trong lòng cũng tha thiết muốn tìm hiểu rõ lai lịch về chàng thiếu niên mà suốt nửa tháng gần đây nàng thường gặp mặt về đêm, mỗi khi từ ngọn tháp cao trở về nhà. Nàng muốn tìm hiểu cho minh bạch người thiếu niên ấy có phải chính là người anh trai của Đàm Nguyệt Hoa hay không? Bởi thế nàng đưa chân bước thong thả, tiếp tục đi sâu vào vùng núi và chẳng mấy chốc sau là đã đến vùng phụ cận Kiếm Trì rồi.

Bỗng nhiên nàng trông thấy phía trước mặt mình có một bóng người bé nhỏ, thấp thoáng ở phía sau một tảng đá to. Lúc bấy giờ, chẳng những trời đã tối mịt mà lại còn đổ mưa lất phất, nên cả vùng núi Hồ Khưu vốn rất náo nhiệt về ban ngày, giờ đây cũng trở thành vắng vẻ tĩnh mịch. Do đó khi thấy có bóng người xuất hiện, Hàn Ngọc Hà không khỏi giật mình quát hỏi:

- Ai thế? Cái bóng đen bé nhỏ ấy vốn đã ẩn sau một tảng đá to, nhưng khi nghe tiếng quát tháo của Hàn Ngọc Hà lại bước ra lên tiếng nói:

- Đàm tỷ tỷ, có phải chị đã trở về đấy không? Đàm bá bá bảo tôi đến đây để chờ chị.

Hàn Ngọc Hà nghe thế, không khỏi lấy làm ngạc nhiên. Nhưng liền đó, bỗng trong đầu nàng thoáng hiện một ý nghĩ nên vội vàng quay mặt nhìn về phía sau và trông thấy chung quanh vắng ngắt, chẳng còn ai khác hơn bèn lên tiếng đáp:

- Đúng thế! Chính tôi đã về đến đây rồi, chẳng hay cậu ở đây chờ đợi lâu hay chưa? Hàn Ngọc Hà là một cô gái thông mình lanh lợi, nên vừa nghe qua câu hỏi của đối phương liền biết ngay đấy là một người thiếu niên. Hơn nữa vì bóng tối lờ mờ nên đối phương không thấy rõ mình là ai, lầm tưởng đấy chính là Đàm Nguyệt Hoa, mới lên tiếng hỏi như vậy. Do đó, nàng bèn tương kế tựu kế, cất tiếng mạo hiểm nhận mình là Đàm Nguyệt Hoa.

Chàng thiếu niên trước mặt nàng sau khi nghe được câu trả lời bèn lên tiếng nói:

- Đàm tỷ tỷ, chị lại có thể nhận ra được tôi, và chỉ cần nghe qua giọng nói của tôi là đã biết ngay tôi rồi.

Vừa nói, bóng đen ấy vừa bước thẳng đến trước mặt Hàn Ngọc Hà. Mặc dù lúc ấy trời tối đen như mực, nhưng khi người thiếu niên ấy bước đến sát bên cạnh, Hàn Ngọc Hà có thể trông thấy được diện mạo của đối phương. Nàng thấy người thiếu niên ấy cũng cao suýt soát như mình, nhưng sắc mặt thì hãy còn ngây thơ lắm.

Xem ra người thiếu niên ấy tuổi chừng mười bốn mười lăm mà thôi, nhưng khí sắc hiên ngang, đôi mắt sáng ngời, rất có tinh thần.

Hàn Ngọc Hà hoàn toàn không nhận ra người thiếu niên ấy là ai, nhưng cậu ta đã đứng yên tại đấy chờ đón Đàm Nguyệt Hoa, vậy chắc chắn là người có mối tương quan sâu xa với Đàm Nguyệt Hoa. Do đó, nàng muốn mạo nhận để khôn khéo dùng lời hỏi han, hầu tìm hiểu thêm về sự thật chung quanh Đàm Nguyệt Hoa mà thôi.

Bởi thế, nàng liền mỉm cười nói:

- Lẽ tất nhiên là tôi có thể nhận ra cậu ngay, vì ngoại trừ cậu đến đây đón tôi thì còn ai đón nữa? Người thiếu niên ấy cũng tươi cười và qua nụ cười của cậu ta, Hàn Ngọc Hà mới nhận thấy đối phương cũng là kẻ sắp bước vào giai đoạn trưởng thành. Người thiếu niên ấy nói:

- Đàm tỷ tỷ, vừa rồi Đàm bá bá bảo chị đi thăm phụ thân tôi vậy chẳng rõ phụ thân tôi đã đến vùng Cô Tô này chưa? Tôi đã rời khỏi nhà có nửa tháng rồi nên chắc chắn là cha tôi rất sốt ruột, và rất lo lắng. Vậy chẳng hay ông ấy có hỏi đến tôi không? Hàn Ngọc Hà trông thấy người thiếu niên trước mặt hoàn toàn không có vẻ nghi ngờ đối với mình, nên trong lòng hết sức vui mừng. Nhưng khi nàng nghe qua câu hỏi ấy của chàng thiếu niên, không khỏi thầm giật mình.

Bởi thế suýt nữa nàng đã buột miệng hỏi: "Cậu là ai thế?" Nhưng nàng đã kịp thời giữ câu ấy lại rồi giả vờ tươi cười nói:

- Ông ấy đã đến rồi. Lẽ tất nhiên là ông ấy rất nhớ mong cậu.

Người thiếu niên ấy vội vàng nói:

- Thế còn mẹ tôi cũng đến rồi chưa? Bà ấy có mắng tôi không? Hiện giờ hai ông bà ấy đang ở đâu? Chị có thể dẫn tôi đến gặp hai ông bà không? Hàn Ngọc Hà vừa rồi đã giật mình sửng sốt qua câu hỏi đầu tiên của người thanh niên xa lạ ấy vì thấy rằng hai tiếng "cha tôi" mà người thanh niên ấy hỏi tựa hồ muốn ám chỉ Phi Hổ Lữ Đằng Không. Nhưng lúc ấy nàng còn chưa dám quả quyết như vậy, và giờ đây, chàng thiếu niên ấy lại hỏi đến "mẹ tôi", nên Hàn Ngọc Hà lại càng hoang mang ngờ vực hơn nữa! Nhưng chỉ vì lúc ấy nàng đã mạo hiểm nhận mình là Đàm Nguyệt Hoa, nên không tiện hỏi rõ chàng thiếu niên trước mặt mình là ai. Do đó, nàng bèn cau đôi mày liễu, và một kế hay cũng liền thoáng hiện trong đầu óc, hạ giọng nói nhỏ rằng:

- Này tiểu huynh đệ, nơi đây chẳng phải là nơi nói chuyện, vậy cậu hãy mau theo tôi.

Dứt lời, nàng bèn thò tay kéo lấy chàng thiếu niên ấy, nhanh nhẹn cùng bước đi.

Hai người vừa bước đi được độ vài ba trượng, bỗng nghe từ phia sau lưng có tiếng bước hối hả vọng đến bên tai. Hàn Ngọc Hà vội vàng quay mặt nhìn về phía ấy, trông thấy có hai bóng người, một cao một thấp, đang chạy nhanh tới như gió hốt.

Bóng người cao lớn ấy, trong tay lại bồng lấy một người thứ ba, nên Hàn Ngọc Hà vừa nhìn qua liền biết đấy chính là Lữ Đằng Không đang bồng xác chết của Tây Môn Nhất Nương.

Như vậy bóng người kia chẳng cần hỏi, ai cũng biết được là chính là Đàm Nguyệt Hoa rồi.

Hàn Ngọc Hà trông thấy Đàm Nguyệt Hoa và Lữ Đằng Không lướt tới trong lòng không khỏi thầm giật mình. Vì nàng cảm thấy người thiếu niên đang đi sát cạnh mình cũng dường như đã trông thấy rõ được hai bóng người ấy, nên vội vàng kề miệng sát tai người thiếu niên ấy nói nhỏ rằng:

- Tiểu huynh đệ, số người ấy chẳng phải là số người tốt, vậy cậu tuyệt đối chớ nên lên tiếng nói chi cả! Người thiếu niên cũng hạ giọng đáp rằng:

- Đàm tỷ tỷ, trong số người đến ấy dường như có cha tôi thì phải? Qua câu hỏi ấy của người thiếu niên, Hàn Ngọc Hà đã bừng hiểu ra mọi việc. Đúng rồi, người thiếu niên này không ai khác hơn là đứa con trai duy nhất của Phi Hổ Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, tức là Lữ Lân.

Chính vì vậy, nên bao nhiêu ý nghĩ không ngớt nối tiếp hiện lên trong đầu óc của Hàn Ngọc Hà. Nàng nhớ tới đứa em trai của mình đã chết vô cùng thảm thiết, tuổi tác và vóc dáng cũng suýt như Lữ Lân, thế mà giờ đây em trai mình đã thật sự bị sát hại rồi. Và qua sự giãi bày của Lữ Đằng Không vừa rồi, ông ta đã cho biết là đứa con trai ông ta cũng bị mất tích! Thế nhưng giờ đây nàng đã được trông thấy tận mắt, chẳng phải đứa con trai của Lữ Đằng Không hiện vẫn còn sống nhăn, đứng sững bên cạnh mình sao? Do đó, trong lòng Hàn Ngọc Hà lại càng quả quyết vợ chồng Lữ Đằng Không là hung thủ sát hại đứa em mình, rồi mang thủ cấp tìm đến tận nhà, định sẽ ra tay sát hại luôn phụ thân của nàng và nàng nữa.

Giờ đây Lữ Lân bất thần xuất hiện tại vùng núi Hồ Khưu này đã là một bằng chứng để Hàn Ngọc Hà càng tin hơn ý nghĩ của mình là đúng, và xác nhận những lời nói của Lữ Đằng Không là hoàn toàn láo toét một cách bỉ ổi. Do đó lửa giận liền cháy bừng bừng trong nàng.

Nàng chỉ muốn vung chưởng lên để giáng thẳng xuống đầu Lữ Lân, hầu giết chết cậu bé ấy đi cho hả cơn căm hận.

Lúc bấy giờ Lữ Lân đang đứng sát bên cạnh nàng, hơn nữa cậu ta lại hoàn toàn không có sự đề phòng chi cả, do đó nếu nàng muốn giết chết cậu ta, quả hoàn toàn không có chi là khó khăn cả. Do đó cánh tay trái của nàng đã vận dụng chân lực và đang từ từ đưa lên.

Nhưng cuối cùng nàng không hề giáng xuống đầu đối phương. Vì lẽ thứ nhất nàng nghĩ rằng mình cần phải tìm hiểu nơi Lữ Lân về lý do nào đã khiến Lữ Đằng Không lại hạ độc thủ với đứa em trai của mình, trong khi hai nhà họ Lữ và họ Hàn hoàn toàn không oán thù chi cả.

Lẽ thứ hai là vì lúc ấy Đàm Nguyệt Hoa và Lữ Đằng Không cũng đã bước đến sát bên cạnh rồi, chắc chắn là nàng không thể giết chết Lữ Lân mà hai người ấy lại hoàn hoàn không hay biết.

Chính vì thế nên Hàn Ngọc Hà sau khi đưa cao cánh tay lên, liền biến chưởng thành chỉ, nhắm điểm thẳng vào nách của Lữ Lân một lượt! Lữ Lân đinh ninh cô gái đang đứng cạnh mình chính là Đàm Nguyệt Hoa. Hơn nữa, kể từ khi cậu ta mang ngọn đao thép Miến Điện vào sườn, rời khỏi Phi Hổ Tiêu Cục cho đến nay đã trải qua biết bao nhiêu trường hợp gian nguy khủng khiếp, và cuối cùng mới may mắn gặp được người mà cậu ta gọi là "Đàm bá bá" cứu nguy cho. Do đó, cậu ta không có điều chi nghi kỵ hay đề phòng đối với Đàm Nguyệt Hoa cả.

Nhờ thế nên Hàn Ngọc Hà vung chỉ lên là đã điểm trúng thẳng vào Đái Mạch huyệt của Lữ Lân. Và do đó Lữ Lân liền bị đối phương khóa cứng huyệt đạo, không còn làm sao cử động được nữa.

Hàn Ngọc Hà liền thò tay kéo lấy Lữ Lân ngồi bẹp xuống đất, rồi tìm nơi kín đáo để ẩn mình.

Hàn Ngọc Hà vừa làm xong mọi việc, Đàm Nguyệt Hoa và Lữ Đằng Không cũng đã bước đến nơi. Hai người dừng chân cách xa nơi trú ẩn của Hàn Ngọc Hà độ ngoài hai trượng.

Bởi thế, quả tim của Hàn Ngọc Hà không khỏi nhảy lên nghe thình thịch vì sợ đối phương phát giác được nơi lẩn trốn của mình. Sau đó nàng nghe Đàm Nguyệt Hoa lên tiếng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, tôi thấy ông không thể nào bồng mãi xác của Lữ phu nhân mà không chịu để xuống như vậy được. Vậy chi bằng ta nên chọn một địa điểm gần đâu đây để chôn cất bà ấy là hơn.

Lữ Đằng Không cất giọng khàn khàn nói:

- Không, tôi cần phải mang bà ấy đến phái Điểm Thương, để trao cho các cao thủ của phái này tìm nơi chôn cất tại vùng Vân Nam.

Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng than dài nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu, hiện giờ tôi thấy thương thế của ông cũng không còn chi đáng lo ngại nữa, vậy nếu ông quả quyết làm theo ý mình thì nên gấp rút đi ngay là hơn. Tôi không muốn làm mất thời giờ ông nhiều. Nhưng chả lẽ ngay đến việc gặp mặt phụ thân và ca ca của tôi ông cũng không bằng lòng nữa sao? Lữ Đằng Không nói đứt quãng rằng:

- Đàm cô nương... ý tốt của cô... thực tôi ghi nhớ mãi mãi trong lòng. Nhưng mối thù giết vợ con hiện đang sôi sục trong lòng tôi như lửa đốt, vậy không làm thế nào nán lại ở đây lâu hơn được! Đàm Nguyệt Hoa vội vàng nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu sao lại nói thế, trước đây nếu tôi không nhờ vợ chồng của ông có lòng hiệp nghĩa, ra tay giải cứu cho thì có lẽ mãi đến bây giờ tôi vẫn còn bị Kim Cô Lâu giam giữ tại Tây Thiên Mục. Chỉ có điều là...

Lữ Đằng Không ngắt lời nói:

- Đàm cô nương còn có việc chi muốn nói thêm? Đàm Nguyệt Hoa đáp:

- Lữ Tổng tiêu đầu, xin ông vui lòng bỏ lỗi cho về chỗ tôi nói thẳng việc này. Vào buổi chiều ngày hôm nay khi chúng ta vừa rời khỏi nhà của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, tôi đã phát giác được ngay có mấy cao thủ trong phái Hoa Sơn đang đi tới đi lui trước nhà của Hàn Tốn. Nhưng lúc ấy vì ông đang quá đau đớn và căm tức nên hoàn toàn không trông thấy được họ. Chính vì vậy nên tôi mới giả vờ đi một vòng to rồi tìm đến cánh rừng trúc ấy để ẩn mình, chờ cho trời tối mới đi đến đây. Vậy nếu ông chỉ đi một mình đến phái Điểm Thương và Nga My, e rằng trên con đường dịu vợi xa xôi ấy không làm sao tránh khỏi điều rắc rối cho mình.

Lữ Đằng Không cất tiếng cười to ha hả nói:

- Đàm cô nương, xin đa tạ sự lo lắng ấy của cô. Nhưng Lữ mỗ là người hãy còn một thanh bảo đao sắc bén, vậy đối với bọn vô danh tiểu tốt đó tôi vẫn không hề xem vào mắt.

Xin Đàm cô nương hãy nói lại với lệnh tôn và lệnh huynh về chỗ thất lễ của Lữ mỗ ngày hôm nay. Giờ đây tôi xin cáo lui ngay thôi! Câu nói vừa dứt, Lữ Đằng Không liền quay lưng lướt đi nhanh như gió và chỉ trong nháy mắt là đã lẩn khuất vào màn đêm, không còn thấy bóng hình đâu nữa.

Những lời đối đáp giữa hai người tuy không to lắm, nhưng vì lúc ấy đêm khuya canh vắng, chung quanh ngoài tiếng hạt mưa rơi lách tách, còn thì chẳng có tiếng động chi khác, do đó Hàn Ngọc Hà dù ở đó cách xa họ ngoài hai trượng song vẫn nghe rõ được mồn một, không thiếu sót một lời.

Chờ cho Lữ Đằng Không đã đi khuất bóng, nàng mới quay lại nhìn Lữ Lân, trông thấy người thiếu niên ấy đang giương mắt tròn xoe, chiếu ngời ánh sáng lập lòe như hai đóm lửa, khiến nàng không khỏi cảm thấy giật mình.

Hàn Ngọc Hà biết rằng lúc ấy Lữ Lân dù đã bị khóa cứng huyệt đạo, không còn nói chuyện được nữa nhưng cậu ta vẫn có thể nghe được câu chuyện giữa Lữ Đằng Không và Đàm Nguyệt Hoa.

Bởi thế chắc chắn cậu ta đã biết nàng không phải là Đàm Nguyệt Hoa, hơn nữa cũng biết rõ việc mẫu thân mình là Tây Môn Nhất Nương cũng đã bị mất mạng, nên trong lòng lửa căm hận đang bừng cháy.

Nhưng lúc bấy giờ Hàn Ngọc Hà cũng nhớ đến người cha già và sư phụ của mình đang âu sầu lo lắng, sẵn sàng bó tay chờ chết.

Còn đứa em trai của mình đã bị sát hại quá đau thương, trong lòng cũng tràn đầy sự căm tức. Do đó hai người giương mắt nhìn nhau chòng chọc, có vẻ đầy căm hờn, oán tức! Qua một lúc khá lâu sau, Hàn Ngọc Hà mới đưa mắt nhìn lên và thấy Đàm Nguyệt Hoa đang ngồi yên trên một tảng đá to.

Chẳng mấy chốc sau cô ta lại đứng lên đi tới đi lui, tỏ ra rất sốt ruột, dường như đang trông ngóng một người nào hẹn đến vậy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 11
Xuống Tay Khắc Nghiệt Ê Chề
Lăng Nhục Tiểu Hiệp Chẳng Hề Xót Thương


Hàn Ngọc Hà nín hơi theo dõi từng cử động của Đàm Nguyệt Hoa, và một lúc sau đã nghe ở góc tây bắc có tiếng hú trong trẻo vọng đến, rồi chẳng mấy chốc lại nghe thấy có tiếng ngâm thơ văng vẳng đến rằng: Rừng xanh phẳng lặng khói sương giăng, Núi lạnh trơ vơ vách đá thâm.

Bóng chiều trùm lầu vắng, Có người sầu mang nặng.

Thềm ngọc đứng thẩn thờ, Chim chiều bay hớt hơ...

Quy trình nơi nào nhỉ? Chòi trống trên lối đi.

Bài từ khúc theo điệu Bố Tát Man ấy của Lý Thái Bạch vừa mới ngâm xong, nơi đó đã xuất hiện thêm một bóng người.

Bóng người ấy có một thân pháp nhanh nhẹn ít thấy trong đời, hơn nữa lại lướt đi không hề nghe tiếng động. Nếu người ấy không to tiếng ngâm nga, cho dù có tiến đến sát bên mọi người, chắc vẫn không ai làm sao phát giác được.

Thì ra bóng người đến đúng là chàng thiếu niên trẻ tuổi mà suốt nửa tháng gần đây đêm nào nàng cũng gặp mặt. Đấy là một người cao mảnh khảnh, diện mục tuấn tú, mình mặc áo nho sinh màu xanh, trông nho nhã phong lưu, làm cho bất cứ một cô gái nào nhìn đến đều không khỏi xao xuyến bàng hoàng.

Khi người thiếu niên bước tới gần, Đàm Nguyệt Hoa bèn nhanh nhẹn tiến đến gọi to rằng:

- Ca ca! Hàn Ngọc Hà nghe thế không khỏi giật mình, vì nàng thấy sự ngờ vực của mình hoàn toàn đúng sự thực, chàng thiếu niên ấy rõ ràng là anh trai của Đàm Nguyệt Hoa.

Nhưng Hàn Ngọc Hà cũng biết được, kẻ phải làm cho người cha già và sư phụ kiêng sợ ấy không phải là hai người trẻ tuổi này, mà chính là phụ thân của họ, tức nhân vật mà Lữ Lân vừa gọi là Đàm bá bá.

Hàn Ngọc Hà im lặng không dám gây tiếng động, chú ý theo dõi từng cử động của hai người, và chẳng mấy chốc sau nàng thấy người thiếu niên ấy mỉm cười nói:

- Ủa, này muội muội, sao chỉ có mỗi một mình em ở đây thôi? Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng than dài nói:

- Lữ Tổng tiêu đầu đã bỏ đi rồi.

Chàng thiếu niên lên tiếng hỏi:

- Chả lẽ ông ấy vẫn còn ý định tìm đến nơi các cao thủ hai phái Điểm Thương và Nga My để cùng kéo đến gây sự với Lục Chỉ Tiên Sinh hay sao? Đàm Nguyệt Hoa nghe thế không khỏi ngạc nhiên nói:

- Đấy là lẽ tất nhiên, tại sao ông ấy không thể làm thế được? Chàng thiếu niên ồ một tiếng dài, hỏi:

- Này muội muội, em đã gặp phụ thân chưa? Đàm Nguyệt Hoa đáp:

- Em chưa hề gặp, hiện giờ cha đã đi đâu rồi? Người thiếu niên ấy giậm chân nói:

- Nguy mất rồi.

Đàm Nguyệt Hoa không khỏi cuống quýt nói:

- Ca ca, anh chớ nên nói theo lối nửa úp nửa mở như thế nữa, có chuyện gì hãy mau nói cho em được biết.

Chàng thiếu niên đáp:

- Hiện giờ nào còn thời gian để nói cặn kẽ cho em nghe? Chúng ta nên mau đuổi theo Lữ Đằng Không, để gọi ông ấy quay trở lại thôi.

Đàm Nguyệt Hoa chu nhọn đôi môi anh đào nói:

- Tại sao thế? Người thiếu niên nói:

- Đứa con trai ông ấy chẳng hề bị sát hại, do đó nếu chúng ta không đuổi kịp ông ấy để gọi trở về chẳng hóa ra ba môn phái Võ Di, Điểm Thương, và Nga My sẽ sanh sự chém giết đẫm máu lẫn nhau hay sao? Đàm Nguyệt Hoa không khỏi giật mình nói:

- Việc con trai của Lữ Tổng tiêu đầu không bị sát hại anh làm thế nào biết được? Xin anh hãy yên lòng vì ông ấy chưa đi bao xa đâu, vậy trước tiên anh nên nói cho tôi nghe cặn kẽ đã.

Chàng thiếu niên tươi cười đáp:

- Xem em cuống quýt mà bắt tức cười. Riêng mọi việc đã xảy ra như thế nào thật sự anh cũng chưa biết cặn kẽ, Chương chiều này khi em mới vừa đi đến nơi, chưa kịp nói cho anh hay là nhiều tháng nay em đã đi đâu biệt dạng và tại sao trên cổ tay lại có hai sợi lòi tói sắt đeo lủng lẳng như thế này, trái lại em vừa mới nghe anh bảo là vợ chồng Lữ Đằng Không đã đến nhà Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn và đôi bên chuẩn bị đánh nhau, vì chính mắt anh thấy cô con gái Hàn Tốn đến mời sư phụ là Hỏa Phụng Tiên Cô cùng đi, em đã cuống quýt rời đi ngay tức khắc. Nếu chẳng thế chỉ trong chốc lát sau tất em sẽ gặp được cha, và tất sẽ hiểu rõ từng chi tiết một trong vấn đề ấy rồi.

Đàm Nguyệt Hoa hừ một tiếng cười nhạt nói:

- Tại sao anh còn bảo tôi là quá cuống quýt? Đã thế mà anh cũng đã đến chậm một bước nên Tây Môn Nhất Nương đã bị thiệt mạng, nếu tôi chậm trễ hơn anh có lẽ Lữ Đằng Không cũng vong mạng rồi.

Sắc mặt của người thiếu niên ấy tràn đầy vẻ kinh hãi, nói:

- Muội muội, lời ấy của em là thực chứ? Đàm Nguyệt Hoa đáp:

- Tại sao tôi lại nói gạt anh để làm gì? Người thiếu niên cất tiếng than dài nói:

- Nếu thế giữa Lữ Đằng Không, Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô đã gây nên một mối thù sâu như biển, không thể nào dàn xếp nổi nữa rồi chăng? Đàm Nguyệt Hoa đáp:

- Lẽ tất nhiên.

Người thiếu niên ấy cúi gầm đầu đưa chân bước đi mấy bước, có vẻ như đang băn khoăn nghĩ ngợi một điều gì.

Lúc bấy giờ cơn mưa lất phất đã chấm dứt, trên nền trời mây đen đã tan, vầng trăng lại bắt đầu sáng tỏ, do đó Hàn Ngọc Hà trông thấy rõ sắc mặt của chàng thiếu niên ấy đang tràn đầy nỗi ưu tư lo lắng.

Chẳng mấy chốc sau, lại nghe Đàm Nguyệt Hoa lên tiếng nói:

- Ca ca, tôi nói thực cho anh nghe là trước đây tôi đã được vợ chồng Lữ Đằng Không ra tay cứu mạng cho, vì thế chẳng những giữa họ và Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn với Hỏa Phụng Tiên Cô đã trở thành thù địch, mà ngay cả tôi cũng có sự bất hòa với số người ấy nữa.

Chương chiều này tôi đã ra tay đánh nhau với con gái của Hàn Tốn tại nhà họ.

Người thiếu niên ấy lại càng lộ vẻ kinh hãi hơn, nhanh nhẹn thò tay chụp lấy tay Đàm Nguyệt Hoa hỏi rằng:

- Muội muội, em... em... em đã đánh thương cô ta rồi chăng? Hàn Ngọc Hà nghe thấy giọng nói của chàng thiếu niên ấy, chứng tỏ chàng đang hết sức lo lắng cho số phận của mình, nên trong lòng bất giác ngọt ngào như được ai tưới mật.

Nhưng khi nàng nghĩ lại mọi việc đã xảy ra, lại không khỏi bùi ngùi ngơ ngác.

Liến đó Đàm Nguyệt Hoa cất tiếng cười nhạt nói:

- Ca ca, có lý đâu tôi vừa mới xa anh mấy hôm mà anh đã làm quen được cô gái ấy rồi sao? Chàng thiếu niên đáp:

- Chẳng phải như thế, muội muội, có phải thật sự em đã đánh trọng thương cô ta rồi không? Đàm Nguyệt Hoa cất giọng lạnh lùng cười đáp:

- Nếu tôi đã đánh trọng thương cô ta rồi, anh định sẽ làm gì? Đôi mày lưỡi kiếm của chàng thiếu niên ấy liền nhướng cao, nói:

- Nếu em đánh trọng thương cô ta, anh phải cấp tốc mang thuốc chữa thương đến để cho cô ta uống.

Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Chỉ e rằng khi người ta biết được anh là người anh trai của tôi thì không chịu thụ ơn như vậy.

Người thiếu niên ấy cười đau đớn nói:

- Một tấm lòng chung thủy đá vàng, lúc nào cũng tỏ ra tha thiết với người ta, vậy tại sao anh mang thuốc cứu cho mà cô ta lại khước từ? Hàn Ngọc Hà núp bên cạnh đấy, nghe lời thiết tha của chàng thiếu niên, con tim lại không khỏi nhảy lên thình thịch, đồng thời đôi má cũng cảm thấy nóng bỏng.

Khi một người con gái đã biết một người thiếu niên nào đang yêu mình đều có cảm giác như vậy, cảm giác ấy là một tình cảm hết sức phức tạp, trong đó gồm vui thích xúc động phấn khởi, e thẹn ngọt ngào mà lại có sự sợ hãi nữa.

Hàn Ngọc Hà là một cô gái hãy còn trẻ, vậy thử hỏi nào có khác hơn được? Bởi thế nàng đưa đôi mắt nhìn sửng sờ về phía chàng thiếu niên trong lòng bất giác thầm kêu lên rằng: "Nếu anh mang thuốc chữa thương đến, tôi tất nhiên sẽ nhận ngay." Lúc ấy, bỗng sắc mặt của Đàm Nguyệt Hoa sa sầm hẳn nói:

- Ca ca, nếu nàng thật sự chết dưới tay tôi thật thì sao? Diện mục của chàng thiếu niên ấy trở thành tái mét, thối lui ra sau một bước, gằn giọng nói:

- Muội muội.

Đàm Nguyệt Hoa tựa hồ thấy sự trêu cợt của mình là quá đáng, vội tươi cười nói:

- Ca ca xem anh cuống quýt thực là tức cười, thôi anh hãy yên lòng, tôi chỉ cướp lấy ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luận trong tay cô ta mà thôi, ngoài ra tuyệt không làm trầy đến da cô ta nữa.

Chàng thiếu niên ấy thở phì ra một hơi nhẹ nhõm, rồi quay mặt lại nói:

- Muội muội thật là tinh nghịch. Này, chuyện không đâu chúng ta chớ nên nói dài dòng, vậy chúng ta hãy đuổi gấp theo Lữ Đằng Không trước đã, hầu cho ông ta biết là đứa con trai của ông ta không hề bị sát hại.

Đàm Nguyệt Hoa cũng lên tiếng:

- Cũng được.

Dứt lời hai người bèn quay lưng lướt thẳng về phía trước như hai vì sao sa, bọn họ vừa phi thân lướt đi nhưng cũng vừa tiếp tục trò chuyện.

Hàn Ngọc Hà chỉ còn nghe được mấy câu, hai người đã đi xa không còn làm thế nào để nghe được rõ nữa, nàng nghe chàng thiếu niên ấy nói:

- Cha vừa bảo là trong võ lâm chẳng mấy chốc nữa đây sẽ xảy ra nhiều chuyện biến động to tát. Do đó ông ấy vốn muốn ngăn chặn mọi biến động ấy lại, nhưng chỉ e thế cô sức yếu không làm sao ngăn chặn được...

Những câu nói sau cùng, Hàn Ngọc Hà không làm sao nghe được vì cả hai đã đi xa, tuy nhiên dưới ánh trăng sáng vằng vặc, nàng vẫn có thể trông thấy hai bóng người đang nhắm về phía trước tiếp tục lướt như bay.

Hàn Ngọc Hà vội đứng thẳng người lên, giương đôi mắt to ngó sửng sờ theo hình bóng chàng thiếu niên trước mặt. Và cũng chính lúc ấy nàng nghe văng vẳng có tiếng xe lăn lạch cạch trên mặt đường.

Thế là, chẳng mấy chốc sau Hàn Ngọc Hà lại trông thấy rõ một cỗ xe ngựa lộng lẫy sang trọng, từ phía xa chạy nhanh tới.

Lúc bấy giờ hai anh em của Đàm Nguyệt Hoa đã đi đến ngã tư đường và cỗ xe ấy cũng đang tiến đến đó nên đã làm cản trở lối đi của họ, đồng thời cùng một lúc ấy bỗng lại nghe có tiếng đàn vui tai từ đâu vọng đến văng vẳng.

Tiếng đàn ấy nghe thật là du dương nhưng không ai đoán biết được nó từ đâu vọng đến, tiếng đàn không to lắm nhưng ai cũng nghe rõ mồn một, không hề sót một tiếng trầm hay một tiếng bổng. Hơn nữa, sau khi có tiếng đàn nổi lên, cỗ xe ngựa dường như cũng chạy chậm lại.

Hàn Ngọc Hà khi nghe tiếng đàn lọt vào tai vốn cũng không lấy chi làm lạ nhưng ngay lúc đó, một chuyện lạ đã hiện ra trước mắt nàng.

Vì ngay khi tiếng đàn vừa nổi lên, chàng thiếu niên và Đàm Nguyệt Hoa bất thần xoay người lại, chạy thẳng về phía nàng đang ẩn mình khiến nàng không khỏi giật mình sửng sốt.

Tuy nhiên, Hàn Ngọc Hà vẫn hy vọng là được nhìn lại diện mục của chàng thiếu niên ấy, mặc dù nàng hoàn toàn không muốn trông thấy lại Đàm Nguyệt Hoa.

Trong khi nội tâm của nàng tràn ngập bao nhiêu sự mâu thuẫn, bỗng nàng nhận thấy hai anh em Đàm Nguyệt Hoa thật sự chẳng chạy về phía nàng đang đứng mà trái lại họ đang sử dụng một thân pháp hết sức nhanh nhẹn chạy thành một vòng tròn có trực kính rộng năm trượng.

Do đó, Hàn Ngọc Hà không khỏi kinh hãi thầm và khi nàng nghiêng tai lắng nghe kỹ hơn, cảm thấy tiếng đàn du dương kia dường như trong cỗ xe ngựa phát ra, song chỉ thoáng chốc sau, nàng lại có cảm giác từ trên trời cao bay xuống đồng thời cũng tựa hồ từ bốn phương tám hướng vọng về. Hàn Ngọc Hà nhìn thấy sắc diện của anh em Đàm Nguyệt Hoa chẳng hề có vẻ chi khác thường, song không hiểu vì lẽ gì họ vẫn một mực chạy thành vòng tròn to như thế? Đàm Nguyệt Hoa là một người có trình độ võ công khá cao cường, việc đó Hàn Ngọc Hà biết rõ hơn ai hết vì vừa rồi nàng đã ra tay đánh với đối phương, hơn nữa nàng cũng có thể đoán biết được người anh trai của Đàm Nguyệt Hoa chắc chắn võ công không sút kém hơn Đàm Nguyệt Hoa chút nào.

Do đó, có thể nói hai người đó tuy tuổi còn trẻ mà về phương diện võ học đã tiến đến mức cao cường, đáng liệt vào hàng đệ nhất cao thủ võ lâm.

Thế mà cả hai bây giờ không tự biết là mình đang chạy thành một cái vòng tròn, và chạy mãi một chỗ. Trái lại, có lẽ họ đinh ninh là mình đang sử dụng khinh công lướt nhanh về phía trước để truy đuổi theo Lữ Đằng Không.

Một sức mạnh vô hình chi mà có thể làm cho hai người có trình độ võ học cao cường đến mức ấy lại bị chế ngự trong khi họ chẳng hề hay biết? Chẳng lẽ sức mạnh ấy là tiếng đàn du dương kia hay sao? Hàn Ngọc Hà không khỏi hết sức kinh dị, nàng nghiêng tai chú ý lắng nghe tiếng đàn ấy, bất giác cảm thấy tâm thần bấn loạn Chương hộp lo âu, do đó nàng đoán biết được tiếng đàn ấy chính là do một nội gia cao thủ đánh lên, nên vội vàng tập trung tinh thần, điều hòa chân khí trong người để giữ tâm trạng bình tĩnh trở lại.

Khi nàng ngước nhìn lên trở lại, thấy hai anh em Đàm Nguyệt Hoa vẫn tiếp tục chạy thành vòng tròn như trước, còn riêng cỗ xe ngựa kia đã chạy thật chậm lại. Tuy cỗ xe vẫn tiếp tục chạy về trước mặt, nhưng nàng không hề nhìn thấy có ai cầm cương ngựa cả.

Hàn Ngọc Hà đoán biết những tiếng đàn ấy chẳng phải nhằm đánh lên để chế ngự nàng, nên nàng mới có thể trấn tĩnh được tâm thần của mình dễ dàng như vậy. Đồng thời nàng xét thấy hai anh em của Đàm Nguyệt Hoa chắc cũng không có gì đáng lo ngại vì phụ thân của hai người chẳng phải là một nhân vật tầm thường. Nếu chẳng phải vậy, người cha già và sư phụ của mình tại sao phải lo âu khiếp sợ sẵn sàng bó tay chờ chết như vậy? Vì nghĩ như thế nên nàng bèn có ý định bỏ đi, hầu thoát khỏi vòng nguy hiểm cho mình trước thì hơn.

Do đó nàng bèn vội vàng thò tay nhấc bổng Lữ Lân bước thụt lùi ra sau mười trượng, rồi nhắm ngọn núi Hồ Khưu chạy bay đi.

Khi Hàn Ngọc Hà đến bên dưới ngọn tháp cao trên đỉnh núi, đôi tai vẫn còn nghe tiếng đàn du dương bay vọng về không ngớt.

Liền đó bèn sử dụng khinh công nhảy vọt thẳng lên đỉnh ngọn tháp như một con chim bay và chỉ trong nháy mắt là nàng đã đáp yên được đôi chân trên tầng chót vót của ngọn tháp ấy.

Nơi đó chính là nơi gần đây Hỏa Phụng Tiên Cô làm chỗ náu thân nên Hàn Ngọc Hà tới lui luôn, khung cảnh chung quanh nàng hết sức quen thuộc, do đó khi đứng yên đôi chân, nàng bèn nhanh nhẹn xô một cánh cửa sổ, phi thân lao thoắt vào bên trong phòng rồi để yên Lữ Lân nằm xuống đất. Tiếp đó nàng hối hả quay người trở ra đưa mắt nhìn về phía ngọn núi.

Ngọn tháp ấy được xây cất trên đỉnh núi Hồ Khưu, hơn nữa đấy là một ngọn tháp rất cao, nên Hàn Ngọc Hà đứng từ trên nhìn xuống có thể trông thấy rõ xung quanh xa đến hàng mười dặm.

Do đó nàng thấy nơi nàng rời đi khi nãy, hai anh em Đàm Nguyệt Hoa vẫn tiếp tục chạy nhanh trên một cái vòng tròn, vì thế mỗi lúc nàng lại cảm thấy hết sức kinh dị.

Chính vì thế nàng tạm thời quên mất Lữ Lân đang nằm yên trên đất, trái lại chỉ chú ý hành động của hai anh em Đàm Nguyệt Hoa, và trải qua hơn một tiếng đồng hồ sau, nàng bỗng trông thấy từ trong mui cỗ xe ngựa có một cánh tay thò ra nẹt mạnh ngọn roi trên khoảng không nghe một tiếng bốp, khiến những con ngựa co vó chạy nhanh, bánh xe lăn trên mặt đường nghe lách cách.

Thế là cỗ xe nhắm phía trước lướt đi nhanh như gió và tiếng đàn cũng mỗi lúc mỗi một nhỏ dần, cuối cùng im bặt.

Bởi thế khung cảnh xung quanh lại trở về với sự tĩnh mịch, không còn nghe tiếng động chi khác nữa.

Khi tiếng đàn vừa im, hai anh em Đàm Nguyệt Hoa cũng liền dừng bước chân đứng lại cả.

Lúc bấy giờ, Hàn Ngọc Hà từ trên cao nhìn xuống, tuy nhìn rõ hai bóng người bên dưới nhưng vì khoảng cách xa quá nên chẳng làm thế nào nghe được rõ giữa hai người đang nói những gì.

Nàng chỉ thấy hai người đứng sửng sờ như thế một lúc thật lâu, rồi mới quay lưng nhắm phía trước mặt tiếp tục phi thân lướt đi nhanh như gió, chỉ trong nháy mắt mà đã lẩn khuất trong màn đêm.

Hàn Ngọc Hà đưa mắt nhìn theo bóng chàng thiếu niên ấy và chợt nhớ lại lời của chàng ta vừa rồi, trong lòng bất giác cảm thấy bùi ngùi như bị mất một vật chi quý báu.

Hàn Ngọc Hà đứng sửng sờ bên cửa sổ một lúc thực lâu, mới quay đầu nhìn lại bên trong gian phòng, lúc ấy trời sắp bình minh nên vầng trăng cũng đã lặn mất. Do đó bên trong gian phòng đã trở nên tối lờ mờ, không còn trông thấy rõ những vật chung quanh.

Hàn Ngọc Hà cất tiếng khẽ than thầm, rồi thò tay vào áo lấy chiếc bật lửa đánh cháy lên, hơn nửa năm nay, hàng đêm nàng cùng sư phụ đều đến nơi này tập luyện võ công, nên đối với mọi sự bày trí trong gian phòng nàng hiểu rõ như gian phòng riêng của nàng ở nhà vậy.

Tầng chót của đỉnh tháp này rộng không hơn một trượng vuông, bên trong bày trí lại vô cùng đơn sơ, gồm một chiếc bàn, một chiếc ghế ngồi và một chiếc giường ngủ mà thôi.

Sau khi đã bật cháy bật lửa lên, Hàn Ngọc Hà đưa cao cánh tay định thắp sáng ngọn đèn dầu trên bàn...

Nhưng khi chiếc bật lửa ấy vừa kê sát đến tiêm ngọn đèn, nàng bỗng kinh hoàng thất sắc đứng trơ ra như một pho tượng, đôi mắt của nàng giương lên tròn xoe, cả thân người nàng khẽ run rẩy, chiếc miệng anh đào há hốc. Nàng muốn gào to nhưng không làm sao gào thành tiếng, sắc mặt nàng hãi kinh và căm hận không thể tả.

Hàn Ngọc Hà đứng trơ ra một lúc thật lâu mới bỗng rùng mình một lượt, rồi vung tay ném mạnh chiếc bật lửa về phía trước, nhưng chiếc bật lửa đó rơi đúng vào đĩa đèn nên ngọn lửa bắt đầu cháy sang tiêm đèn khiến cho cả gian phòng đều được sáng tỏ.

Liền đó, Hàn Ngọc Hà bỗng lao thoắt về phía trước, gào to lên rằng:

- Cha! Cha! Thì ra, từ khi rời khỏi ngôi nhà của mình, Hàn Ngọc Hà lúc nào cũng đinh ninh người cha già và sư phụ mình là Hỏa Phụng Tiên Cô vẫn còn ở yên tại nhà, hơn nữa thang lầu dùng để lên xuống bên trong ngôi tháp hiện đã hư hỏng tất cả, do đó nếu muốn vượt lên tầng chót, tất phải dùng đến khinh công tuyệt đỉnh để trèo từ phía ngoài lên mà thôi, do đó nàng đinh ninh là trên tầng chót của ngọn tháp chắc chắn không có kẻ nào lên đến được cả.

Bởi lẽ đó khi vừa lên đến nơi, vì đang sốt ruột muốn theo dõi mọi hành động của anh em Đàm Nguyệt Hoa nên không thắp đèn sáng lên ngay. Thế nhưng ánh lửa vừa bùng lên khiến cảnh vật trong gian phòng được soi sáng, nàng bất thần lại trông thấy sát bức tường đã hiện ra một bóng người.

Bóng người ấy hết sức to lớn, chắc chắn không phải là Lữ Lân. Lữ Lân là một cậu bé có thân hình nhỏ thấp, đồng thời khi nãy bị nàng bỏ nằm trên đất, còn bóng người ấy chẳng những cao lớn mà lại đang đứng sững sát mặt tường.

Sau cơn kinh hoàng, Hàn Ngọc Hà đưa mắt chú ý nhìn kỹ bóng người ấy hơn, đã kinh hoàng đứng trơ người ra, không còn nhúc nhích được nữa.

Vì nàng đã trông rõ bóng người đang đứng sừng sững trước vách tường kia, tai tóc rối bời, trên lồng ngực có một vết thương to, máu tuôn ra dầm dề. Đôi tay chỏi vào vách tường để giữ vững thân người, đôi mắt giương tròn xoe, nhìn thẳng về phía trước. Do đó, Hàn Ngọc Hà khi vừa quay mặt nhìn lại, đôi mắt của nàng chạm thẳng vào đôi mắt đang giương to, nhưng hoàn toàn mất hết ánh sáng của bóng người ấy.

Hơn nữa cũng chính trong lúc ấy, Hàn Ngọc Hà lại nhận ra bóng người cao lớn kia không ai khác hơn là thân phụ của mình, tức Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn.

Hàn Ngọc Hà không làm thế nào có thể tưởng tượng nổi là cha mình lại bất thần xuất hiện nơi này, và đã bị trọng thương chết đi từ lúc nào.

Do đó, sau cơn kinh hoàng, nàng đã ném bỏ chiếc bật lửa đang cầm trong tay rồi nhắm ngay xác chết Hàn Tốn lao thoắt tới, nàng ôm siết lấy xác chết cứng đờ của phụ thân và qua một lúc thực lâu sau mới òa khóc to vô cùng thống thiết.

Người em trai của nàng đã chết giờ đây cha nàng lại chết đi, trong khi mẹ nàng mất sớm như vậy giờ nàng đã trở thành một con người côi cút bơ vơ trên cõi đời.

Bởi thế tiếng khóc của Hàn Ngọc Hà vừa to vừa đau đớn so với tiếng khóc của nàng lúc bên trong cánh rừng trúc Chương chiều này lại càng bi ai thống thiết gấp bao nhiêu lần.

Chẳng mấy chốc sau, ánh đèn bên trong gian phòng cũng trở thành lờ mờ nhợt nhạt, chẳng phải cây đèn ấy đã cạn dầu mà chính vì bên ngoài trời đã bắt đầu vào bình minh.

Màu trời đã sáng nên bên trong gian phòng nơi đỉnh tháp cũng đã trở thành lờ mờ nhợt nhạt, nhưng chẳng mấy chốc sau một vệt triều dương màu vàng kim đã từ ngoài chiếu vào gian phòng tĩnh mịch ấy.

Hàn Ngọc Hà nghẹn ngào đưa mắt nhìn lên, mớ tóc óng mượt trên đầu nàng đã rối phờ, đôi má ràn rụa nước mắt, trên cánh môi dưới của nàng đã hiện một làn nứt nẻ khá sâu, rớm máu đỏ hồng, chứng tỏ tâm trạng nàng đau đớn không thể tả.

Hàn Ngọc Hà đưa tay chỏi mạnh trên mặt đất, đứng thẳng người, rồi lại đưa tay vuốt lại mái tóc đang buông rũ ở trước mặt về phía sau, nàng cố trấn tĩnh lại tâm thần nhưng vẫn đứng trơ trơ ra như pho tượng.

Sau đó Hàn Ngọc Hà đưa mắt nhìn về bức vách nơi Hàn Tốn vừa đứng khi nãy, trông thấy hai chữ viết bằng chỉ lực rõ mồn một, ấy là một chữ Lữ và một chữ Đàm.

Ngoài ra, ở phía trên của hai chữ ấy độ ba thước còn có dấu một bàn tay và dấu bàn tay ấy đã ấn sâu vào vách đá đến non một tấc mộc, chứng tỏ một kẻ nào đó là nhân vật nội công cao cường tuyệt đỉnh hiếm có trong đời, hơn nữa cạnh dấu tay cái của bàn tay ấy lại còn có một ngón tay nhỏ mọc giơ ra nên bàn tay đó gồm sáu ngón.

Đôi dòng lệ vốn đã ngưng đọng của Hàn Ngọc Hà bỗng giờ đây lại tuôn rơi lả tả, nàng kêu thét lên rằng:

- Cha! Cha! Con đã biết rồi, kẻ giết cha chính là Lữ Đằng Không và Đàm lão tặc. Con biết rồi! Con biết rồi! Hàn Ngọc Hà chỉ chú ý nhìn đến hai chữ trước mặt, chứ hoàn toàn không để ý đến dấu bàn tay nọ vì hai chữ ấy ở đúng vào vị trí tả hữu cạnh hai bàn tay của Hàn Tốn chống vào tường khi nãy, do đó Hàn Ngọc Hà vừa nhìn qua tin chắc là trước khi chết phụ thân mình đã viết hai chữ ấy lại, hầu giúp cho những người chung quanh biết kẻ sát hại ông là người họ Lữ và họ Đàm.

Tuy vừa rồi Hàn Ngọc Hà đã chính mắt nhìn thấy Lữ Đằng Không bồng xác chết của Tây Môn Nhất Nương rời khỏi ngọn Hồ Khưu, nhưng vì quá căm hận trước cái chết của người cha già, nàng vẫn đinh ninh kẻ sát hại cha mình chắc chắn chính là Lữ Đằng Không chứ không còn chi đáng nghi ngờ nữa.

Vì nàng đối với Lữ Đằng Không đang có một sự căm hận đến tận xương tận tủy, và cho rằng tất cả những tai họa đến với gia đình mình đều do chính một tay lão gây nên.

Nàng đứng trơ trơ một lúc khá lâu, rồi bỗng từ từ quay đầu trở lại, đưa đôi mắt ngập đầy phẫn hận nhìn chòng chọc vào người Lữ Lân.

Lúc bấy giờ Lữ Lân đã bị nàng khóa cứng Đái Mạch huyệt nên vẫn còn nằm yên trên đất, tuy cậu ta có vận dụng chân khí trong người với ý định là tự giải trừ huyệt đạo cho mình nhưng vẫn chưa thể nào đạt được ý muốn.

Sở dĩ Lữ Lân không thể tự giải trừ huyệt đạo được là vì vừa rồi Hàn Ngọc Hà xuống tay nặng nề vì nàng đã biết rõ lai lịch của Lữ Lân. Về trình độ võ công của hai người vốn suýt soát nhau mà thôi, nhưng nhờ Hàn Ngọc Hà đã xuống tay trước, nên Lữ Lân muốn tự giải trừ huyệt đạo cho mình cũng không phải là chuyện dễ.

Hàn Ngọc Hà đưa mắt nhìn chòng chọc vào người Lữ Lân một lúc lâu, mới thò tay lên vai tuốt ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân xuống nhắm ngay lồng ngực Lữ Lân từ từ thấp từng tấc một.

Bởi thế lồng ngực của Lữ Lân không ngớt nhấp nhô theo hơi thở dồn dập, cậu ta đưa đôi mắt nhìn đăm đăm vào cái mâm đỏ rực trên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân và qua một lúc những mũi nhọn trên chiếc mâm tròn ấy đã xuyên thủng lớp ngoài, bắt đầu chạm đến da trên ngực của cậu.

Mãi đến lúc này, Lữ Lân cũng không thể nào đoán biết được cô gái xinh đẹp trước mặt mình tại sao lại có ý định sát hại mình như vậy, hơn nữa cô ta lại chính là ai? Nhưng Lữ Lân tự biết tính mệnh của mình hiện đang mong manh như chỉ mành treo chuông và biết không còn sống mấy lúc nữa, vì cậu ta trông thấy đôi mắt của đối phương tràn đầy căm hờn, vậy chắc chắn đối phương phải giết mình mới hả dạ. Cậu ta lại thấy đối phương chẳng những có ý định giết chết mình mà còn định bằm nát xác chết mình ra hàng trăm mảnh nhỏ mới hả cơn tức giận qua tia mắt nàng.

Bất luận là ai đứng trước cái chết, thì bản thân tự vệ của bản thể cũng tự nhiên sinh ra một sức mạnh không ai có thể giải thích được, do đó khi Lữ Lân biết được cánh tay của cô gái xinh đẹp ấy nếu ấn xuống thêm một chút nữa, món binh khí quái dị kia sẽ chuyển động và những mũi nhọn chung quanh tất sẽ giết chết mình không kịp trối.

Do đó, Lữ Lân cố vận dụng chân khí trong người, khiến xương cốt toàn thân cậu ta chuyển lên kêu nghe răng rắc.

Ngay từ lúc nhỏ Lữ Lân đã được cha mẹ truyền dạy cho cách rèn luyện nội công hai phái Nga My và Điểm Thương, hơn nữa, vợ chồng Lữ Đằng Không luôn luôn tìm những món linh đơn diệu dược nhằm giúp tăng cường công lực cho người để cho Lữ Lân uống, nên trong người cậu ta đã có sẵn một nguồn chân lực dồi dào. Giờ đây trước cơn nguy cấp, quyết định sự sống chết, Lữ Lân lại không còn sợ bị tiêu hao chân lực trong người, cấp tốc vận chuyển đến phá vỡ huyệt đạo đang bị chế ngự. Do đó, cậu ta bỗng thấy thân hình bất thần nhẹ nhõm vì huyệt đạo vốn bị khóa cứng đã được giải trừ.

Nhưng cùng lúc đó Lữ Lân bỗng cảm thấy trước lồng ngực chợt bị nhói đau, cậu ta kinh hoàng đưa mắt nhìn kỹ thấy một mũi nhọn trong món binh khí quái dị trong tay của đối phương đã ấn sâu vào da thịt trước lồng ngực mình đến non nửa tấc mộc.

Những mũi nhọn trên binh khí của Hàn Ngọc Hà dài đến ba tấc mộc nên nếu cắm ngập thì chắc chắn Lữ Lân sẽ mất mạng ngay.

Bởi thế, tuy lúc ấy Lữ Lân đã giải trừ huyệt đạo cho mình, nhưng cậu ta biết nếu mình để lộ việc ấy cho đối phương biết thì chẳng khác chi thúc giục đối phương sát hại mình sớm hơn mà thôi. Do đó cố trấn tĩnh thong thả nói rằng:

- Giữa tôi và cô nương hoàn toàn không quen biết nhau, vậy tại sao cô nương lại định sát hại tôi như thế? Tôi rất vui lòng nghiêng tai lắng nghe lời giải thích của cô nương.

Lúc đó, trong lòng Hàn Ngọc Hà đang tìm một cách chi để giết chết Lữ Lân thực chậm, khiến cho cậu ta phải kéo dài sự đau đớn trước khi tắt thở, chính vì vậy nên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân của nàng chỉ được ấn xuống từ từ. Nhưng bất thần nàng nghe Lữ Lân lên tiếng nói nên không khỏi giật mình sửng sốt và tự nhiên cánh tay cũng ấn mạnh xuống nhanh hơn.

Ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân trong tay Hàn Ngọc Hà vừa ấn xuống thì mũi nhọn đã cắm sâu vào da thịt trước lồng ngực Lữ Lân lại được ấn sâu thêm non nửa tấc mộc nữa, nhưng lúc ấy Lữ Lân đã đoán biết trước được là nếu mình lên tiếng bất thần nói chuyện với đối phương thì chắc chắn đối phương sẽ giật mình, và nếu tiếng nói của mình càng bình tĩnh thì đối phương lại càng kinh hãi hơn.

Bởi thế khi vừa cất tiếng xong, Lữ Lân đã vận chuyển chân lực vào cánh tay phải, vung chưởng hất ngược trở lên cùng một lúc với Hàn Ngọc Hà ấn mạnh ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân xuống.

Do đó, Hàn Ngọc Hà hơi kinh hoàng thất sắc và nàng thấy một luồng kình phong cuốn tới nên mất hết bình tĩnh, vội nhảy lùi ra sau để tránh.

Chính nhờ thế nên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân trên tay nàng cũng được nhấc bổng khỏi lồng ngực Lữ Lân.

Phút giây ngắn ngủi ấy chính là cơ hội tìm đường sống của Lữ Lân, nên cậu ta liền chỏi mạnh cánh tay trái xuống đất đứng phắt lên, đồng thời nhanh như chớp lách tránh ra xa ba thước nữa.

Cùng một lúc Hàn Ngọc Hà đã đoán biết sở dĩ Lữ Lân lên tiếng nói được chính là do cậu ta đã vận dụng chân khí giải trừ huyệt đạo cho mình, nên sau khi vừa nhấc bổng ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân ra khỏi lồng ngực Lữ Lân thì nàng lại nhanh như chớp dùng ngay thế võ Thiên Giáng Hỏa Vân, bắt từ trên giáng thẳng xuống đầu đối phương.

Nhưng khi ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân của nàng vừa giáng xuống tới nơi thì Lữ Lân đã kịp thời đè nén đau đớn nơi vết thương, lách mình tránh xa rồi.

Hàn Ngọc Hà vì quá căm giận trước cái chết thảm thiết của cha già, nên khi vung tay đánh ra chẳng những đã dùng một thế võ vô cùng hiểm hóc, mà còn sử dụng đến chín phần mười chân lực toàn thân, do đó sau khi ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân đánh hụt Lữ Lân thì tiếp tục giáng thẳng xuống sàn nhà, nghe một tiếng phập và đã lún sâu vào gạch đá phân nửa chiếc mâm tròn.

Lữ Lân sau khi lách ngang liền phi thân chụp ngay một chiếc ghế cạnh đó, rồi vung ngang quét thẳng về phía Hàn Ngọc Hà để phản công lại.

Lúc bấy giờ tuy vết thương ở ngực Lữ Lân chẳng phải nhẹ, nhưng vì cậu ta biết nếu không liều mạng đem hết sức bình sinh ra đối phó kẻ địch, chắc chắn không thể nào bảo toàn tính mạng cả. Do đó cậu ta không còn nghĩ ngợi đến điều chi khác, mà dốc hết sức bình sinh vung chiếc ghế công về phía đối phương, tuy thế đánh ấy thật sự chẳng phải là một thế võ chi, nhưng vì sức mạnh trên cánh tay của Lữ Lân quá to tát nên chiếc ghế đã rít gió ào ào, tạo nên một uy lực vô cùng khiếp sợ.

Hàn Ngọc Hà không còn đủ thời giờ để giật ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân trở về, hối hả nhảy lùi ra sau một bước để tránh, rồi thò tay vào sườn rút sợi roi vàng ra hối hả vung thẳng về phía trước.

Ngọn roi vàng ấy chính là một món binh khí đã khét tiếng bấy lâu trong võ lâm, khi được nàng vung ra, nó giương thẳng như một ngọn roi sắt, và khi cánh tay của nàng xoay thành một cái vòng tròn, ngọn roi đã được uốn cong như hình một cây cung, nhắm Lữ Lân quét tới với thế võ Hậu Nghệ Xạ Nhật vô cùng mãnh liệt.

Lữ Lân vừa trông thấy đối phương sử ngọn roi vàng ấy, không khỏi giật mình sửng sốt, kêu to lên rằng:

- Cô có phải là... con gái Hàn Tốn không? Câu nói chưa dứt, ngọn roi trong tay của Hàn Ngọc Hà đã bắt từ trên giáng xuống, quét ngang qua bả vai của Lữ Lân. Do đó chỉ sau một tiếng bốp, lớp áo trên bả vai của cậu đã bị rách toạc, mà làn da cũng bị ngọn roi gậy thành một vết bầm rớm máu.

Tuy nhiên, Lữ Lân vẫn nghiến chặt đôi hàm răng, cố đè nén sự đau đớn, tiếp tục lặp lại câu hỏi vừa mới rồi mấy lượt nữa.

Vì câu hỏi ấy trong trường hợp hiện nay quả thực có một tầm quan trọng vô cùng to tát.

Trong đầu hôm này, tuy Lữ Lân bị Hàn Ngọc Hà khóa cứng huyệt đạo, nhưng đôi tai của cậu vẫn còn nghe được lời nói chuyện giữa Đàm Nguyệt Hoa với Lữ Đằng Không, cũng như giữa Đàm Nguyệt Hoa với người anh ruột của nàng.

Nhờ thế Lữ Lân mới biết được mình đã nhận lầm cô gái trước mặt là Đàm Nguyệt Hoa, hơn nữa cậu ta cũng biết được người mẹ già thân yêu của mình đã bị giết chết tại nhà riêng của đại hiệp Hàn Tốn.

Lúc ấy, trong lòng cậu ta hết sức đau xót nhưng cậu ta vẫn không làm sao tưởng tượng nổi, cô gái chế ngự huyệt đạo mình lại chính là con gái của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Ngô Giang đại hiệp Hàn Tốn.

Mãi đến khi Hàn Ngọc Hà rút ngọn roi vàng trong lưng ra và Lữ Lân nhìn thấy ngọn roi có ánh sáng màu vàng kim lập lòe, mới chợt hiểu được lai lịch của đối phương.

Nếu cô gái này thật sự là con gái của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn thì cũng chính là kẻ thù địch bất cộng đái thiên của cậu ta.

Chính vì lẽ ấy nên mặc dù Hàn Ngọc Hà đã quất trúng vào người Lữ Lân một roi đau điếng, nhưng cậu ta vẫn cắn răng chịu đựng lặp đi lặp lại câu hỏi của mình, để tìm hỏi cho được lai lịch của đối phương.

Hàn Ngọc Hà nghe hỏi, cất tiếng cười dài đáp:

- Đúng thế, ta chính là con gái của Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn đây.

Câu nói vừa dứt, thì nàng lại rùn thấp đôi chân, tràn ngay người tới trước, vung ngọn roi quét ngang nghe một tiếng vút, khiến bóng roi cuốn tới cuồn cuộn, vì thế võ ấy chính là thế võ bí hiểm mà Hàn Tốn đã truyền dạy cho nàng, tức là một trong những thế hay nhất trong đường roi của Hàn Tốn, có tên gọi là Trọc Lãng Tề Thiên.

Bởi thế, bóng ngọn roi chập chờn giữa khoảng không trông chẳng khác chi những đợt sóng to ngoài biển cả, nối tiếp nhau cuốn tới ào ạt, gây nên một áp lực mà ai thấy cũng kinh tâm.

Trong khi đó, gian phòng trên đỉnh ngon tháp lại quá nhỏ, đồng thời Lữ Lân lại vừa bị ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân gây thương tích trước lồng ngực quá nặng nề, bả vai cũng vừa bị trúng một roi và bắt đầu sưng to lên, khiến cánh tay phía trái đau buốt không làm sao đưa lên nổi nữa, vậy thử hỏi cậu ta lách tránh đi đâu được? Chính vì vậy tiếng roi giáng trúng vào người cậu ta bốp bốp liên tiếp, thế là trong chớp mắt Lữ Lân đã bị Hàn Ngọc Hà đánh liên tiếp bảy tám roi, đau đớn đến nhào lộn trên mặt đất, trông thật vô cùng thảm khổ.

Nhưng Hàn Ngọc Hà tựa hồ như đã trở thành một người điên dại, tóc tai rối bời, đôi mắt hung ác, vung roi giáng xuống như mưa.

Lữ Lân không làm sao tránh được nên bị trúng ba ngọn roi đau thấu xương tủy và khi cậu ta lăn lộn đến sát bên ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân, nghiến chặt hàm răng, cố đè nén sự đau đớn trong người, giật mạnh món binh khí quái dị ấy lên đỡ thẳng vào đường roi do đối phương quét tới, thế là qua một tiếng xoảng, cậu ta đã đỡ được một đường roi vừa giáng tới của Hàn Ngọc Hà.

Hàn Ngọc Hà trông thấy thế bèn thu cánh tay trở về vung thành một vòng tròn, rồi chụp lấy đuôi ngọn roi siết cứng trong bàn tay, cất giọng lạnh lùng cười liên tiếp nói:

- Tên tiểu súc sinh kia, coi ngươi còn chạy đi đâu? Lữ Lân siết chặt ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân định đứng thẳng lên, nhưng khắp châu thân cậu ta đang đau buốt, đôi chân mềm nhũn nên vừa đứng lên đã lại ngã xuống đất. Lữ Lân đã cố gắng đứng lên liên tiếp mấy lần nhưng lại té trở xuống, không tài nào đứng vững được.

Lữ Lân cảm thấy sự đau đớn khắp châu thân cậu ta có thể chịu đựng được, trái lại những tiếng cười lạnh lùng và vô tình sắc bén như đao thép của Hàn Ngọc Hà không ngớt vang lên bên tai, khiến cậu ta có cảm giác như nó cắm phập vào lồng ngực mình. Do đó, cậu ta cố vận dụng hết chân lực trong người gắng gượng đứng trở lên một lần nữa, và lần này cậu ta đã đứng thẳng người lên được, mặc dù đôi chân không ngớt lảo đảo.

Liền đó Lữ Lân căm hận thét lên một tiếng dài rồi vung mạnh cánh tay ném mạnh ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân về phía Hàn Ngọc Hà, đồng thời nhanh như chớp xoay lưng nhắm hướng cửa sổ lao thoát đi.

Cử chỉ ấy của Lữ Lân chứng tỏ cậu ta nhất định tìm lấy cái chết để giải thoát sự đau khổ của mình.

Nhưng giữa lúc thân hình của Lữ Lân vừa từ trong cửa sổ bay vọt ra bắt đầu rơi trở xuống đất và chắc chắn sẽ tan thây nát thịt chết ngay, thì Hàn Ngọc Hà đã lanh lẹ lách mình tránh thoát ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân vừa ném tới, rồi đưa chân tràn thẳng đến cửa sổ vung ngọn roi quét thẳng ra ngoài nghe một tiếng vút, khiến đầu ngọn roi đã cuốn chặt vào người Lữ Lân.

Hành động của Hàn Ngọc Hà chẳng phải có mục đích cứu nguy cho Lữ Lân mà chính vì nàng không muốn để cho Lữ Lân rơi xuống đất, hầu được chết nát thây như vậy.

Riêng Lữ Lân khi vừa cảm thấy thân người mình đang bắt đầu từ trên cao sa xuống thì bất thần bị đầu ngọn roi quấn chặt lấy cổ của mình nghẹt cứng, không làm thế nào thở được, do đó cậu ta vội đưa hai cánh tay ra chụp lia lịa vào khoảng không và đã vô tình chụp trúng thành cửa sổ.

Rồi liền đó Lữ Lân lại nghe Hàn Ngọc Hà cất tiếng cười khanh khách và tung ngọn roi vàng vút xuống như búa bổ.

Vừa rồi, Lữ Lân sở dĩ dám tung mình ra khỏi cửa sổ quyết tâm tìm đến cái chết là vì cậu ta thấy không còn một hy vọng nào sống sót dưới bàn tay độc ác của đối phương nữa.

Tuy nhiên với một con người có cá tính quật cường như Lữ Lân, đấy chỉ là một hành động bất đắc dĩ mà thôi.

Nếu trong trường hợp khác, cậu ta thấy còn hy vọng bám víu lấy sự sống, chắc chắn không khi nào cậu ta hủy mình, vì hiện giờ cậu ta đang mang nặng mối thù sâu của mẫu thân, thử hỏi làm sao có thể hủy mình cho được? Chính vì lẽ đó nếu có một tia hy vọng nào để bám lấy cái sống, Lữ Lân quyết sẽ không hề buông bỏ và tia hy vọng đó đang đến với cậu ta.

Trong khi Lữ Lân bám chặt vào thành cửa sổ, cậu ta chỉ thấy đôi chân mình còn cách mái ngói cong ở tầng dưới độ nửa thước mà thôi, do đó cậu ta đoán biết nếu mình thận trọng buông đôi cánh tay ra và sử dụng thế Đảo Quải Kim Liêm cho thực khéo, dùng đôi chân móc lấy mái cong ấy, có thể đu người chui thẳng vào cửa sổ ở tầng phía dưới, trốn thoát khỏi bàn tay độc ác của Hàn Ngọc Hà.

Do đó Lữ Lân nghiến chặt đôi hàm răng, cố chịu đựng những ngọn roi đang từ trên tay của Hàn Ngọc Hà đánh vút xuống tới tấp, cậu ta đưa mắt nhìn kỹ hơn khung cảnh phía dưới chân, nhưng cũng ngay lúc ấy cậu ta bỗng cảm thấy khắp thân người đau buốt vì ngọn roi thứ hai của Hàn Ngọc Hà cũng vừa giáng trúng vào người.

Ngọn roi đã đánh đúng vào xương sống của Lữ Lân, trong khi đó những huyệt đạo nằm nối dài theo xương sống trên cơ thể con người đều lệ thuộc vào Đốc Mạch và cũng chính là những huyệt mạch vô cùng trọng yếu.

Hơn nữa, thế võ ấy của Hàn Ngọc Hà chính là thế Lưu Tinh Tam Tập, nên sau khi ngọn roi được đánh ra, đầu ngọn roi đã liên tiếp điểm đúng vào ba huyệt Đào Đạo, Trung Khu và Khí Dương, cứ mỗi lần đầu roi điểm đúng vào các huyệt đạo trên, đôi mắt Lữ Lân tóe lửa đỏ lòm nên cậu ta biết nếu mình không buông tay cho thân người rơi xuống, chắc chắn sẽ bị mất mạng vào ngọn roi kế tiếp của đối phương.

Chính vì vậy, Lữ Lân hít vào một hơi thật dài, rồi buông lỏng hai bàn tay đang nắm thanh cửa sổ để cho thân hình rơi thẳng xuống dưới, trong khi đó bàn chân phải của cậu ta đã nhanh chóng móc lấy mái ngói cong ở phía ấy, khiến cả thân người đu đưa lủng lẳng giữa khoảng không, rồi mới lấy đà lao thẳng vào cửa sổ của tầng dưới.

Nhưng khi thân hình của cậu ta vừa lướt khỏi cửa sổ để vào bên trong gian phòng, đôi chân không còn gượng đứng vững được nữa, nên đã té đánh phịch xuống sàn nhà. Đồng thời, cùng một lúc đó mái ngói cong vốn đã mục nát cậu ta vừa đu người cũng sụp đổ và rơi thẳng xuống mặt đất.

Cũng may là lúc bấy giờ trời mới vừa sáng tỏ nên chung quanh đấy chưa có bóng khách nhân, bằng trái lại thì chắc chắn đã có một số người bị trọng thương rồi.

Lữ Lân vừa té xuống sàn nhà thì tâm thần cơ hồ sắp ngất lịm đi, nhưng vì cậu ta tự biết mình không chụp lấy khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi này để tìm sinh lộ thì không làm sao thoát khỏi độc thủ của đối phương. Lữ Lân gắng gượng đứng thẳng người lên...

Nhưng cũng ngay lúc ấy, bỗng cả xương sống của cậu ta bất thần cảm thấy lạnh buốt vì bên trong gian phòng này có bảy tám pho tượng thần đang ngồi sừng sững, trông linh động như một con người sống, diện mục đều hết sức hung tợn.

Có một điều đã làm Lữ Lân cảm thấy hết sức lạ lùng, ấy là chung quanh gian phòng đâu đâu cũng bụi phủ, nhện giăng, nhưng riêng bảy tám pho tượng thần đó lại sạch sẽ, chẳng hề thấy một hạt bụi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 12
Gian Nguy Nhưng Được Thoát Nạn
Hổ Khưu May Mắn Gặp Hàng Thất Tiên


Trong khi Lữ Lân còn đang kinh ngạc, thì bỗng nghe có tiếng của Hàn Ngọc Hà quát to rằng:

- Khá khen cho thằng bé kia, ngươi tưởng có thể tìm đường thoát chết được hay sao? Ta chỉ e rằng ngươi càng chạy thì càng gần địa ngục hơn nữa! Tiếng quát vừa dứt, bỗng nghe có tiếng chân người nhảy mạnh lên sàn nhà, Lữ Lân đoán biết, dù cho mình có muốn thoát xuống tầng bên dưới thì cũng không làm sao kịp, nên bất đắc dĩ phải chạy thẳng dưới phía sau một pho tượng thần để lẩn trốn.

Nhưng cậu ta vừa mới ẩn kín thân mình, trong lòng không khỏi hối hận. Vì trên mặt đất trong gian phòng này, bụi bặm phủ lên một lớp thật dày, nên cậu ta đi đến đâu để dấu chân lại đó. Vì thế, một hàng dấu chân in rõ trên sàn nhà, tố cáo cậu ta hiện đang ẩn mình phía sau pho tượng thần ấy.

Như vậy, dù cho có lẩn trốn, song nào có khác đi vào con đường chết? Nhưng lúc bấy giờ dù Lữ Lân muốn tìm nơi khác để ẩn mình cũng không còn đủ thời giờ nữa, vì tiếng quát tháo của Hàn Ngọc Hà cứ mỗi lúc càng gần hơn.

Từ tầng chót của ngôi tháp, vốn đi xuống tầng kế đó tốn chẳng bao nhiêu thời giờ.

Nhưng nhờ ngôi tháp này quá cũ kỹ, không được ai tu bổ, nên cầu thang trên những tầng chót đã mục nát, không thể dùng được. Do đó, Hàn Ngọc Hà mới phải tìm lối để đi xuống, và nhờ thế nên mới có thời giờ để Lữ Lân tạm nghỉ như đã thấy.

Lúc ấy, Lữ Lân biết không làm sao thoát khỏi được tai ương sắp tới, nên trong lòng vô cùng cuống quýt. Vì vậy, ngay đến sự đau đớn khắp thân mình, cậu ta cũng quên tuốt đi...

Nhưng giữa cơn nguy cấp ấy của Lữ Lân, bỗng một chuyện lạ lùng xảy ra! Đối với chuyện lạ lùng đó, Lữ Lân cơ hồ không dám tin ở đôi mắt của mình. Cậu ta cho rằng vì mình đang bị trọng thương nên có lẽ đôi mắt bị hoa lên đi chăng? Nhưng sau khi Lữ Lân đưa đôi tay lên bợ lấy chiếc đầu lắc mạnh mấy lượt, mà vẫn trông thấy chuyện đang xảy ra trước mắt rõ mồn một, đúng là một sự thực! Thì ra, lúc ấy Lữ Lân đang trông thấy một pho tượng thần ngồi ở bên tay trái, bỗng đứng phắt dậy, và dùng một thân pháp vô cùng nhanh nhẹn, lướt đi khắp gian phòng một vòng, rồi mới đi thẳng đến trước khung cửa sổ. Cuối cùng, pho tượng thần đó bỗng nhún nhẹ hai đầu bàn chân, phi tân lướt trở về vị trí cũ.

Động tác của pho tượng thần ấy quá nhanh nhẹn, nên Lữ Lân vẫn đinh ninh là đôi mắt mình bị hoa, chứ không phải có thực. Nhưng khi cậu ta cuối đầu nhìn xuống sàn nhà, mới chịu tin là pho tượng thần ấy quả có bước đi như mình đã thấy.

Vì những dấu chân của cậu ta để lại trên sàn nhà vừa rồi, giờ đây đã được hoàn toàn xóa mất, hơn nữa lại có một hàng dấu chân mới, đi thẳng đến trước khung cửa sổ.

Lữ Lân nhìn qua, đoán biết được sở dĩ pho tượng thần ấy làm như vậy là muốn đánh lạc hướng đối phương, để khi đối phương tìm đến đây, nhìn thấy hàng dấu chân ấy, tưởng cậu đã nhảy qua khỏi cửa sổ trốn đi mất rồi! Giữa lúc Lữ Lân còn đang nghĩ ngợi, bất thần nghe một tiếng ầm to vang lên sát bên tai, rồi lại thấy Hàn Ngọc Hà một tay siết chặt ngọn roi vàng, còn một tay khác nắm cứng ngọn Liệt Hỏa Tỏa Tâm Luân từ ngoài lao thoắt vào giữa phòng. Sự căm hờn, lòng thù hận đã làm cho một cô gái vốn xinh đẹp như tiên nga đã trở thành một con người hung tợn như ác quỷ! Lữ Lân trông thấy thế, bèn nín hơi ngồi yên, không hề dám nhúc nhích! Hàn Ngọc Hà sau khi tiến thẳng vào nhà, bèn đưa mắt quét qua nhìn khắp bốn bên, trông thấy hàng dấu chân in trên mặt đất đi thẳng đến phía cửa sổ, nàng cũng vội vàng đưa chân bước thẳng về phía ấy.

Lữ Lân trông thấy thế, không khỏi thầm vui mừng, thở phào ra một hơi nhẹ nhõm.

Nhưng bất giác Hàn Ngọc Hà dường như không trông thấy có dấu vết gì khả nghi bên ngoài, nên quay mặt về phía trong.

Những pho tượng thần đang ngồi chung quanh đấy, chỉ to cỡ một con người thực mà thôi, nên Lữ Lân không khỏi thầm sợ hãi, e rằng Hàn Ngọc Hà nếu để ý quan sát kỹ, sẽ phát giác được mình đang núp ở phía sau lưng một pho tượng.

Nhưng ngay lúc đó, bỗng một chuyện lạ nữa xảy ra! Vì pho tượng thần mà Lữ Lân đang ẩn mình tại sau lưng, bỗng di động đôi cánh tay áo rộng của ông ta che phủ cả thân mình của Lữ Lân, không làm sao trông thấy được nữa.

Do đó, Hàn Ngọc Hà nhìn quanh vẫn không thấy có điều chi khả nghi, bèn hừ lên một tiếng qua giọng mũi, nói:

- Thằng ranh đáng ghét kia! Xem ngươi trốn thoát đâu cho biết? Dứt lời, nàng liền giậm chân, lao thoắt thân người lướt ra khỏi gian phòng, nhắm gian phòng phía dưới lướt tới.

Khi Hàn Ngọc Hà đến tầng tháp phía dưới, trông thấy khắp nơi bụi phủ cao có hàng tấc mộc, và hoàn toàn chẳng có dấu vết của con người lui tới. Bởi thế, nàng không khỏi lấy làm lạ, thầm nghĩ: "Lữ Lân đang bị trọng thương như thế, chắc chắn không thể hành động tài tình đến mức chẳng lưu lại một dấu vết chi khả nghi." Bởi thế, Hàn Ngọc Hà lại hối hả phi thân xuống dưới tầng phía dưới, và thấy ở đấy đang có một số tăng nhân bắt đầu tụng niệm kinh sớm, khói hương nghi ngút, tiếng mõ trong ngần nổi lên đều đều. Và khi số tăng nhân ấy trông thấy Hàn Ngọc Hà xuất hiện, đều quay về phía nàng khẽ gật đầu thi lễ, hỏi rằng:

- Tiên Cô vẫn được mạnh khỏe chứ? Qua câu hỏi bình thản ấy của số tăng nhân hiện diện, chứng tỏ họ hoàn toàn không hay biết chi về chuyện đáng khiếp sợ đã xảy ra trên tầng chót của ngọn tháp cả.

Hàn Ngọc Hà đang cuống quýt, không có thời giờ để nói dài dòng với số tăng nhân này, nên hối hả lên tiếng hỏi:

- Các vị có trông thấy một chàng thiếu niên, dáng điệu sợ hãi, bỏ chạy ngang qua đây không? Số tăng nhân hiện diện liền lộ sắc ngạc nhiên, nói:

- Thiếu niên? Nào có thấy đâu? Hàn Ngọc Hà vội vàng bước đến cửa sổ, đưa mắt nhìn xuống đất, vẫn không thấy xác người, nên trong lòng hết sức hoang mang.

Do đó, nàng đứng ngây người ra một lúc, rồi bay vọt ra ngoài, vượt thẳng trở lên tầng trên.

Những tăng nhân ở trong ngôi tháp này đều biết rõ Hỏa Phụng Tiên Cô đến ẩn mình trên tầng chót của ngôi tháp. Nhưng họ biết đấy là một bậc dị nhân trong võ lâm, và cũng đã trông thấy cách đi đứng của Hỏa Phụng Tiên Cô, nên đối với việc tới lui của Hàn Ngọc Hà hằng ngày không cho là chuyện lạ. Trái lại, lúc ấy ai nấy vẫn điềm nhiên lo tụng niệm kinh sáng mà thôi.

Hàn Ngọc Hà lướt đến tầng phía trên, và xem xét kỹ qua một lượt, rồi phi thân vượt lên tầng trên nữa. Nhưng khi đến gian phòng có bảy tám pho tượng thần ngồi khi nãy, nàng bỗng không còn trông thấy những pho tượng ấy đâu nữa, mà gian phòng đã hoàn toàn trống trơn.

Thấy thế, Hàn Ngọc Hà đoán biết mình đã lầm mưu của kẻ khác rồi, nên lại càng cuống quýt hơn. Nàng cất tiếng thét dài, nói:

- Lũ chuột ở phương nào đến, vậy có thể bước ra cho ta gặp không? Nhưng nàng quát to liên tiếp mấy lượt, chỉ thấy đâu đâu vẫn im phăng phắc, chẳng hề có tiếng ai trả lời cả.

Hàn Ngọc Hà bỗng nhớ lại xác chết của phụ thân mình hãy còn nằm ở trên tầng chót của ngôi tháp, nên lo lắng sẽ bị kẻ thù địch có hành động thất kính chăng. Do đó, nàng hối hả vượt lên tầng chót, thấy xác chết của người cha già đã được ai mang đặt nằm yên ngay ngắn trên giường, và tại miệng vết thương có lưu lại một tấm giấy, nên nàng hối hả bước tới nhặt tấm giấy lên xem qua. Nàng thấy có một dòng chữ xinh đẹp như phượng múa rồng bay, viết rằng: "Vết thương của Hàn huynh là do Hổ Trảo Câu gây ra, vậy chẳng hề có dính dấp chi đến kẻ khác, mong nữ hiền điệt chớ truy đuổi theo người tốt là hơn." Bên dưới tấm giấy ấy, không có ký tên chi cả, mà chỉ có bảy món vật tượng trưng.

Hàn Ngọc Hà xem qua, thấy bảy món vật ấy gồm có một cái hồ lô, một cái ống sáo, một cây bút lông, một quyển sách, một chiếc quạt xếp, một cái vòng bằng sắt, và một tấm thẻ thép hình tam giác.

Bảy món vật ấy tiêu biểu cho cái chi, thực Hàn Ngọc Hà hoàn toàn không được biết mảy may nào. Nhưng vừa rồi nàng đã gặp ở tầng dưới ngôi tháp này, có độ bảy tám pho tượng thần ngồi chung với nhau, song vì nàng quá hối hả, nên không hề nhìn kỹ các pho tượng thần ấy, cũng không hề đếm kỹ xem có tất cả là bao nhiêu pho. Giờ đây, bỗng nàng trông thấy trên tấm giấy có vẽ bảy món vật khác nhau, vậy chắc chắn đấy là những món vật tiêu biểu cho từng người một trong số các pho tượng thần ấy.

Riêng về số người ấy là ai, nàng thực hoàn toàn không được biết.

Lúc bấy giờ, vì Lữ Lân đã trốn thoát, nên nàng đang vô cùng bực tức, do đó, chẳng hề chú ý đến câu nói trong tấm giấy kia đã bảo là cha nàng bị chết dưới một món binh khí gọi là Hổ Trảo Câu.

Trái lại, Hàn Ngọc Hà chỉ đinh ninh là bảy người giả làm bảy pho tượng thần khi nãy đã cứu thoát Lữ Lân rời khỏi nơi đây rồi, nên trong lòng hết sức bực tức, vò mạnh tấm giấy và xé thành từng mảnh vụn. Nhưng nàng biết giờ đây mình không làm sao truy đuổi theo kịp kẻ địch nữa, nên đành gục đầu xuống xác chết của người cha già gào khóc vô cùng thảm thiết.

Suốt đêm qua, nàng đã gặp bao nhiêu biến cố, và những biến cố đó đã đưa đến cho nàng bao nhiêu sự đớn đau không thể tả. Bởi thế, nàng chỉ gục đầu xuống khóc mãi, và cuối cùng ngất lịm đi lúc nào không hay. Mặc dù suốt đêm qua nàng chẳng hề bị ai gây thương tích, hơn nữa, nàng ngất lịm đi cũng chẳng mấy chốc, thế nhưng khi bừng tỉnh trở lại, thì thấy mình đã bị kẻ nào đặt nằm yên trên mặt đất, và thân người cũng không còn cử động được nữa.

Bởi thế, Hàn Ngọc Hà hết sức cuống quýt, nàng mở to đôi mắt ra nhìn, nhưng thấy trước mắt chỉ một vùng đen tối mù mịt, chẳng hề có một tia sáng.

Lẽ tất nhiên, màu đen ấy không phải là màu đen giữa đêm khuya, mà chính là màu đen của một tấm vải đen, do ai đó đã trùm kín lấy mặt nàng.

Hàn Ngọc Hà hoang mang, không biết hiện giờ mình đang ở nơi đâu, nên trong lòng càng sợ hãi hơn. Nhưng ngay lúc ấy, bỗng có tiếng đàn tình tang vọng đến sát bên tai nàng mấy lượt. Tiếng đàn ấy rất ngắn, và chỉ trong khoảnh khắc là im lặng, không còn nghe thấy chi nữa. Đồng thời, bỗng nàng lại nghe có một giọng ấm áp cười to ha hả.

Sau đó, gian phòng trở lại tĩnh mịch như cũ, chẳng hề nghe có tiếng động chi khác lạ.

Và qua một lúc khá lâu sau, Hàn Ngọc Hà mới cố gắng vận dụng chân lực trong người, để giải trừ huyệt đạo khắp cơ thể.

Tức thì, nàng vội vàng ngồi dậy, gỡ tấm vải đen che mặt xuống. Nàng thấy mình vẫn ở yên tại gian phòng trên đỉnh ngọn tháp, và xác chết của người cha già vẫn nằm yên bên cạnh đấy.

Bên ngoài, ánh thái dương đang chiếu rọi khắp nơi nơi, và đã vào giờ ngọ đúng trưa.

Đối với tiếng đàn mà Hàn Ngọc Hà vừa nghe lọt vào tai khi nãy, khiến nàng hết sức ngờ vực, hoang mang. Nàng đưa mắt nhìn kỹ về phía xác chết Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, trong lòng càng buồn bực đau đớn không thể tả.

Qua một lúc lâu sau, nàng mới bất chợt nhớ cha già mình đã chết ở nơi này, thế còn sư phụ hiện ở đâu? Sư phụ cũng đã chết mất rồi? Nếu chẳng thế, tại sao khi nàng rời khỏi nhà ra đi, hai người vẫn còn ở yên tại đấy, thế mà trong đêm nay, phụ thân nàng lại bị mất mạng tại nơi này, còn sư phụ thì chẳng thấy hình bóng đâu cả? Hàn Ngọc Hà vừa nghĩ đến đây, nhanh nhẹn đứng phắt ngay dậy, kéo một chiếc mền đắp kín xác chết của người cha già, rồi vội vàng nhảy xuống mấy tầng tháp, tiếp tục đi theo thang lầu đến tận mặt đất, rồi bước ra khỏi cửa ngôi tháp ấy. Nàng hối hả nhắm phía thành Cô Tô chạy bay đi, và khi đến trước cổng nhà cũng không gõ cửa, hối hả nhún mạnh đôi chân phi thân vọt thẳng vào trong.

Cả một khu nhà rộng lớn như thế, mà giờ đây đã trở thành hoàn toàn tĩnh mịch, chẳng hề nghe một tiếng động nào. Hàn Ngọc Hà to tiếng gọi tên của lão quản gia, nhưng vẫn không thấy ai đáp lại cả. Do đó, nàng lại gọi tên sư phụ, nhưng chung quanh vẫn tĩnh mịch, chẳng khác chi một nơi không người.

Khi nàng đưa chân bước vào gian đại sảnh, thấy cảnh vật tại đây vẫn y hệt như lúc nàng bước chân rời khỏi nhà ra đi, chẳng có sự thay đổi nào dù thực nhỏ nChương.

Hàn Ngọc Hà lại đi quanh khắp khu nhà một lượt, nhưng chẳng hề trông thấy một bóng người, ngay đến lão quản gia cũng mất biệt.

Bởi thế, Hàn Ngọc Hà không khỏi thầm nghĩ: "Chả lẽ sư phụ mình hiện giờ vẫn chưa đến, và gặp một kẻ thù quá ư lợi hại, nên đã đi mời thêm cao thủ để tiếp tay với bà? Sư phụ là người có mối tương quan sâu xa với Phi Yến Môn, nếu bà ấy ra đi, tất đi đến Phi Yến Môn chứ không đi đâu khác nữa." Nhưng liền đó, bỗng những ý nghĩ khác lại đến với nàng, và tự nhiên lật đổ những giả thuyết mà nàng vừa đặt ra.

Vì Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn và Hỏa Phụng Tiên Cô cùng hiện diện tại ngôi nhà, để cùng đối phó với kẻ địch. Như vậy, tuyệt đối không khi nào có kẻ địch đến mà Hỏa Phụng Tiên Cô lại bỏ đi như thế. Hơn nữa, Hàn Tốn lại không phải chết ở trong ngôi nhà này, mà lại chết tại gian phòng trên tầng chót của ngọn tháp, trên đỉnh Hồ Khưu Sơn. Đồng thời, trước khi chết, Hàn Tốn lại còn viết hai chữ lưu lại.

Hàn Ngọc Hà đứng sửng sờ trong giây lát, nghĩ đến hai chữ "Đàm" và "Lữ" mà cha mình đã viết trên vách trước khi nhắm mắt, trong lòng lại càng băn khoăn nghĩ ngợi nhiều hơn.

Nàng cảm thấy chữ "Lữ" ấy, chắc chắn là muốn ám chỉ Lữ Đằng Không, và chữ "Đàm" ấy, không cần nói, cũng đủ biết là muốn ám chỉ người cha già của anh em Đàm Nguyệt Hoa.

Nghĩ đến đây, trong đầu óc của Hàn Ngọc Hà lại hiện lên nét mặt tuấn tú xinh đẹp của chàng thiếu niên mảnh khảnh mà nàng thường gặp gần đây. Bởi thế, trên đôi khóe miệng của nàng lại hiện lên một nụ cười buồn bã đầy đau khổ. Vì chàng thiếu niên ấy rõ ràng đã có lòng yêu nàng, và nàng đối với chàng ta cũng rất có thiện cảm. Mọi việc nếu diễn tiến bình thường, giữa hai người rất có thể sẽ được sum họp theo ý muốn. Nhưng giờ đây thì còn nói chi khác hơn được? Nàng nghĩ đến đây, trong lòng lại quyết định đêm nay sẽ trở lên núi Hồ Khưu một lần nữa. Dù cho nàng không thể tìm được lai lịch của kẻ thù, ít nhất nàng cũng nhân đó mang xác chết của người cha già trở về tìm nơi an táng. Và sau khi an táng cha già xong xuôi, nàng mới tính tới việc trả thù sau.

Nghĩ thế, nên nàng buồn bã ngả người nằm yên trên giường, song đôi mắt vẫn mở to.

Trải qua những biến cố vô cùng đau thương, và cũng vô cùng đột ngột này, đã làm cho nàng không còn muốn ăn uống, và cũng không thể ngủ yên được nữa.

Bởi thế, suốt ngày nàng đã thao thức mãi, và cuối cùng đêm tối cũng sắp đến.

Đêm nay, bầu trời cũng nặng trĩu, mây đen như đêm vừa qua, nhưng mưa lại nặng hạt hơn.

Hàn Ngọc Hà lấy xong hai món binh khí, bèn nhắm phía tây bắc phi thân lướt ra khỏi ngôi thành. Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, nàng đã tiến đến vùng phụ cận núi Hồ Khưu.

Lúc ấy, mưa mỗi lúc lại càng to hơn, y phục của Hàn Ngọc Hà đều bị ướt đẫm, song nàng hoàn toàn chẳng biết chi cả.

Hàn Ngọc Hà chỉ hy vọng là mình có thể gặp lại được hai anh em của Đàm Nguyệt Hoa hầu dò xét về phụ thân của họ, xem là một nhân vật như thế nào, để tiện việc tính tới chuyện phục thù sau này.

Bởi thế, khi Hàn Ngọc Hà đi đến địa điểm mà nàng và Lữ Lân đã ẩn mình trong đêm vừa qua, bèn dừng chân ngồi yên sau một tảng đá to, để mặc cho mưa dồi gió dập, không tìm nơi trú ẩn chi cả.

Mãi đến giữa đêm khuya, Hàn Ngọc Hà mới trông thấy có hai bóng người đầu đội nón tre, mình khoát áo tơi, từ xa chạy bay tới với một thân pháp vô cùng nhanh nhẹn. Do đó, chỉ trong chớp mắt sau, hai bóng người ấy đã lướt tới nơi, rồi liền dừng chân đứng yên cả lại.

Tuy hai người ấy đầu đội nón rộng vành, mình khoát áo rộng thùng thình, nhưng Hàn Ngọc Hà nhìn qua thân pháp của họ, liền đoán biết ngay đấy chính là hai anh em của Đàm Nguyệt Hoa.

Bởi thế, nàng bèn nín thở, không hề dám nhúc nhích, cốt đứng yên hầu theo dõi hành động của hai người.

Chẳng mấy chốc, nàng đã nghe Đàm Nguyệt Hoa lên tiếng nói:

- Quái lạ thực! Chẳng hiểu cha đã đi đâu rồi, tại sao đêm nay vẫn chưa thấy cha tới? Chàng thiếu niên lên tiếng đáp:

- Muội muội, em lo lắng là cha bị kẻ khác ám hại hay sao? Đàm Nguyệt Hoa tươi cười nói:

- Lẽ tất nhiên cha không làm sao bị kẻ khác hại được. Vì trên đời này chắc chắn số người có thể đỡ nổi mười thế Hổ Trảo Câu của cha chẳng có là bao. Nhưng muội chỉ lấy làm lạ là tại sao cha đã hẹn mà không đến? Hàn Ngọc Hà chưa nghe hết lời nói của Đàm Nguyệt Hoa, nàng đã giật mình nhảy nhỏm! Hổ Trảo Câu! Chỉ với ba tiếng ấy, mà nó chẳng khác chi mũi tên nhọn cắm phập vào lồng ngực nàng.

Nàng liền nhớ ngay đến dòng chữ viết trong tấm giấy để trước ngực xác chết của cha nàng, đã có nói rõ rằng: "Vết thương của Hàn huynh, chính là do Hổ Trảo Câu gây ra..." Trước đây, nàng đã có ý nghi ngờ chữ "Đàm" mà cha nàng viết lại trên bức vách, chính là muốn ám chỉ ai rồi, nhưng giờ đây khi nghe qua câu nói của Đàm Nguyệt Hoa thì sự nghi ngờ ấy của nàng đã trở thành một sự khẳng định! Bởi thế, máu nóng liền sôi lên sùng sục trong lòng, nàng căm tức vì không thể nhảy thoắt ra, vung ngọn roi vàng lên vút thẳng vào hai đứa con của kẻ thù cho hả cơn tức giận.

Nhưng vì nàng tự biết một mình chắc chắn không là địch thủ của hai người trước mặt. Hơn nữa, nếu bảo nàng xuống tay đối với chàng thiếu niên tuấn tú và mảnh khảnh kia, thì chẳng rõ nàng có đủ can đảm không? Do đó, trong lòng nàng không khỏi hoang mang do dự.

Tiếp đó, chàng thiếu niên ấy đã lên tiếng nói:

- Phụ thân không đến, lẽ tất nhiên là người đã bận chuyện chi rồi. Muội muội, em chớ nên cho là những người có võ công cao cường trong đời này đều toàn là những người thành danh cả. Như trong đêm vừa qua, chúng mình đã gặp phải một chuyện hết sức lạ lùng, vậy chả lẽ em quên mất rồi hay sao? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Anh không nhắc tới thì thôi, mà khi đã nhắc tới thì trong lòng muội lúc nào cũng hết sức tức giận! Chàng thiếu niên cất tiếng cười nói:

- Muội muội, em tức giận nào có ích lợi chi. Tiếng đàn ấy có thể làm cho thần trí chúng ta bị hỗn loạn, và chắc chắn trong khi chúng ta cùng đua nhau chạy thành một cái vòng tròn, và chính mình hoàn toàn không hay biết, người đánh đàn ấy có muốn hại mình thực dễ như trở bàn tay. Ôi thế mới biết về mặt võ học, thực mênh mông như biển cả, không biết đâu là bờ bến.

Đàm Nguyệt Hoa liền nói:

- Ca ca, đêm nay nếu chúng ta chờ cha không thấy đến, theo ý muội, chúng ta chớ nên ở lại núi Hồ Khưu này chờ đợi nữa. Trái lại, nên cấp tốc đến núi Võ Di, hầu chờ cho Lữ Đằng Không mời cao thủ trong hai môn phái ấy đến để gây sự đánh nhau với Lục Chỉ Tiên Sinh, chúng ta sẽ tìm cách giãi bày mọi lẽ cho họ nghe, hầu ngăn chặn cuộc xô xát ấy thì hơn! Chàng thiếu niên nói:

- Muội muội nói nghe dễ quá! Hôm qua, chúng ta vừa có ý định truy đuổi Lữ Đằng Không, bất thần nghe tiếng đàn từ trên trời vọng xuống, khiến chúng ta mãi chạy vòng quanh, mất hơn cả tiếng đồng hồ, nên sau đó không làm thế nào truy đuổi theo ông ấy nữa.

Chỉ dựa vào việc đó, cũng thấy chuyện này lắm điều quái dị chứ chẳng phải tầm thường. Hơn nữa, Lữ Lân còn sống trên đời này, huynh chỉ nghe phụ thân nói lại mà thôi. Lúc ấy, phụ thân sau khi đã nói cho anh được biết về việc đó thì hối hả ra đi nên anh không hề gặp được mặt Lữ Lân. Như vậy, đến chừng đó, khi đôi bên đã dàn thành thế trận sẵn sàng đánh nhau, chúng ta bước ra giãi bày vắn tắt, thử hỏi Lữ Đằng Không và các cao thủ của hai môn phái ấy có bằng lòng chịu tin hay không? Đàm Nguyệt Hoa cất giọng giận dỗi nói:

- Nếu nói như anh, chúng ta đâu còn làm chuyện chi được nữa? Người thiếu niên đáp:

- Cũng không phải như vậy. Giờ đây tất nhiên chúng ta cần phải đi đến núi Võ Di, và nếu họ không chịu tin ở lời mình, chúng ta có thể nói thẳng cho họ biết danh hiệu lẫy lừng trước kia của phụ thân, có thể họ sẽ tạm dừng tay, chưa vội đánh nhau cũng không chừng! Đàm Nguyệt Hoa vỗ tay vui mừng nói:

- Ý kiến đó hay lắm! Vậy chúng ta nên đi ngay, không cần ở đây chờ đợi thêm nữa! Người thiếu niên cười đáp:

- Muội muội rõ là một người nóng nảy, lúc nào cũng cuống quýt! Đàm Nguyệt Hoa cười đáp:

- Ca ca, huynh chớ nên cười muội, vì tối đêm qua khi mới vừa nghe tôi đánh trọng thương con tiện tỳ họ Hàn ấy, anh đã tỏ ra cuống quýt đến mức nào? Giờ đây, chúng ta có cần đến nhà họ Hàn từ biệt không? Chàng thiếu niên ấy vung tay tát thẳng vào người của Đàm Nguyệt Hoa, nhưng Đàm Nguyệt Hoa đã nhanh nhẹn tránh khỏi. Vì thế, hai người lại phá lên cười ngoặt ngoẽo.

Hàn Ngọc Hà nghe tiếng cười giòn đầy vui vẻ của hai người, lửa giận không khỏi cháy bừng bừng trong lòng, mỗi lúc càng to, càng nóng rực. Nhưng nàng cố đè nén sự căm hận xuống, tiếp tục theo dõi hai người.

Chàng thiếu niên lại lên tiếng nói:

- Chúng ta cần phải lưu lại đây ít dòng chữ để cha biết được là chúng mình đi về đâu.

Nếu cha có thể mang cả Lữ Lân theo đi đến đấy, chẳng phải là một việc hay lắm sao? Đàm Nguyệt Hoa nói:

- Phải, huynh nói có lý lắm! Dứt lời, hai người đưa mắt nhình quanh khắp bốn bên một lượt, và trông thấy tảng đá to nơi có Hàn Ngọc Hà ẩn mình ở phía sau, liền vội vàng đưa chân đến trước mặt tảng đá ấy...

Hàn Ngọc Hà trông thấy hai người đi thẳng về phía mình đang ẩn thân, vội vàng nín thở và thu nhỏ thêm thân người lại để lẩn trốn cho thật kín! Tảng đá ấy chỉ độ bốn năm thước bề dày, nên khi anh em Đàm Nguyệt Hoa bước đến trước tảng đá, Hàn Ngọc Hà có thể nghe rõ được hơi thở của họ. Đồng thời, sau đó nàng lại nghe có tiếng sột soạt nổi lên, chứng tỏ hai người đang dùng một món binh khí chi để khắc thành chữ trên mặt đá.

Qua một lúc, bỗng nghe Đàm Nguyệt Hoa lên tiếng nói:

- Ca ca, để muội khắc tên bên dưới đã! Kế đó, Hàn Ngọc Hà lại nghe có tiếng sột soạt liên tiếp nổi lên, và chẳng mấy chốc Đàm Nguyệt Hoa lại nói:

- Xong rồi, khi cha đến đây, chắc chắn sẽ trông thấy dòng chữ của chúng ta.

Dứt lời, hai người bèn quay lưng lướt đi nhanh như gió. Hàn Ngọc Hà ẩn kín thân mình mãi cho đến khi hai bóng người đã lẩn khuất giữa màn đêm mới đứng dậy bước ra. Nàng đến trước tảng đá to ấy xem qua, thấy có hai dòng chữ khắc sâu độ ba phân rằng: "Kính thưa cha, các con đã đi đến núi Võ Di, vậy mong cha cũng mau đến đó.

Con: Dực Phi, Nguyệt Hoa kính bút." Hai chữ "Nguyệt Hoa" ấy khắc cạn hơn hai dòng chữ trên độ một phân, chứng tỏ người anh trai của nàng, tức Đàm Dực Phi, là một người có nội công cao cường hơn nàng rất nhiều.

Hàn Ngọc Hà đứng im lặng trước tảng đá to ấy thực lâu, rồi mới có một quyết định là nàng cũng sẽ tìm đến Võ Di Sơn! Sở dĩ Hàn Ngọc Hà có quyết định như vậy, chính vì nàng cho rằng: Hiện nay, Lữ Đằng Không đang tìm đến Võ Di Sơn để gây sự và chắc chắn người cha già của Đàm Dực Phi và Đàm Nguyệt Hoa cũng đã tìm đến đó để tiếp tay. Như vậy, tức có hai kẻ đại thù đã giết cha nàng đồng thời xuất hiện tại núi Võ Di cả.

Nàng thấy rằng, tuy Lục Chỉ Tiên Sinh và số người Thiết Đạc Thượng Nhân là những nhân vật không phải dễ trêu chọc, hơn nữa, giữa họ và nàng cũng chẳng có mối tương quan nào, nhưng nếu nàng tìm đến đấy để trợ lực với họ chống lại kẻ thù địch, chắc chắn họ sẽ hoan nghênh ngay. Như vậy, không biết chừng trong chuyến đi núi Võ Di này, nàng có thể trả được mối thù cho cha cũng nên.

Vì thấy có hy vọng trả được mối đại thù, nên Hàn Ngọc Hà cảm thấy vô cùng phấn khởi. Nàng đã đội mưa đi ngay đến ngọn tháp trên đỉnh núi Hồ Khưu và hối hả mang xác cha trở về nhà.

Qua ngày hôm sau, nàng mua sắm áo quan lo việc tống táng người cha rất chu đáo.

Sau khi chôn cất ở phía sau vườn hoa, Hàn Ngọc Hà lại khóc to vô cùng thống thiết, rồi thu xếp hành trang cấp tốc đi thẳng về phía Võ Di Sơn.

-oOo-

Nhắc lại Lữ Lân trong đêm vừa qua đã mạo hiểm nhảy xuống tầng dưới của ngôi tháp để lẩn trốn, may được một pho tượng thần dùng tay áo rộng của mình để che chở, nên mới thoát được độc thủ của Hàn Ngọc Hà.

Lữ Lân trước tiên thấy hết sức kinh hãi qua hiện tượng quái dị ấy. Cậu ta không hiểu vì lẽ gì một pho tượng thần mà biết cử động. Nhưng Lữ Lân là một cậu bé rất thông minh, nên sau khi quan sát qua một lượt, liền biết ngay những pho tượng thần đang đặt xung quanh đấy đều là người thực chứ chẳng phải gỗ đá! Hơn nữa, Lữ Lân thấy số người ấy đã bằng lòng che chở cho mình, vậy chắc chắn họ không khi nào lại sát hại mình. Do đó, cậu ta cảm thấy an lòng hơn. Suốt đêm qua, Lữ Lân bị hành hạ vô cùng ác độc, khắp thân mình đều bị mang thương tích, song vì cần tìm một con đường thoát chết nên cậu ta mới gắng gượng giữ được sự tỉnh táo như đã thấy. Song, giờ đây cậu ta thấy mình đã được sự che chở, chắc chắn đã thoát khỏi sự hiểm nguy, nên bất giác đôi mắt tối sầm, rồi ngất lịm hẳn đi.

Trong khi Lữ Lân bị ngất lịm, chính lúc ấy Hàn Ngọc Hà phi thân lướt thẳng xuống tầng tháp phía dưới, và lúc ấy, bảy pho tượng thần đang ngồi quanh đấy bất thần đứng cả lên. Bọn họ đã sử dụng một thân pháp nhanh nhẹn như bay, ùn ùn lướt thẳng lên tầng trên.

Trong lúc ấy, một pho tượng trong bọn đã bồng lấy Lữ Lân lướt đi.

Những người ấy chỉ lưu lại trên tầng chót của ngọn tháp trong một khoảng thời gian rất ngắn, rồi lại sử dụng thuật Bích Hổ Du Tường bò theo vách tháp trở xuống đất, tiếp tục sử dụng khinh công lướt đi như gió.

Tất cả mọi việc ấy Lữ Lân đều hoàn toàn không hay biết chi cả. Mãi đến khi cậu ta bừng tỉnh trở lại, thấy thân mình không ngớt lắc lư, nên vội vàng mở mắt nhìn, và thấy mình đang nằm yên trong một khoang thuyền rộng rãi.

Khi Lữ Lân bừng tỉnh trở lại, cậu ta cảm thấy khắp châu thân đâu đâu cũng đau buốt, không làm sao chịu nổi. Do đó, cậu ta bất giác cất tiếng khẽ rên rỉ.

Liền đấy, bỗng có một người từ ngoài khoang thuyền thò đầu vào, nói:

- Thằng bé kia, ngươi đã tỉnh lại rồi đấy phải không? Có lẽ giờ đây ngươi đang đói, vậy có cần ăn chút ít thức ăn chi không?

Người ấy là một người to béo, nhưng diện mục hiền hòa, trông rất dễ mến. Lữ Lân đưa tay chỏi lên ván thuyền định ngồi dậy, nhưng vì cử động ấy đã làm cậu ta cảm thấy toàn thân ê ẩm, đau đớn không thể tả, nên bất giác lại buộc miệng rên rỉ.

Người đàn ông to béo ấy lắc đầu một lượt nói:

- Thằng bé kia, dù thân người của ngươi đang bị đau đớn thật, nhưng chiếc đầu hãy còn dính liền với cổ, vậy thì có chi lại phải kêu la? Lữ Lân buông người nằm yên trở xuống khoang thuyền, cắn chặt đôi hàm răng, không hề rên la nữa. Người đàn ông to béo trông thấy thế, bèn đưa một ngón tay cái ra, nói:

- Thằng bé ngươi quả đúng là một đứa bé đầy đủ can đảm, tốt lắm!

Khi người đàn ông ấy đưa cánh tay lên, Lữ Lân trông thấy tại cổ tay của ông ta có đeo một chiếc vòng bằng sắt, độ to chừng ngón tay, bề kính rộng độ hai tấc mộc.

Lữ Lân nằm yên trong giây lát, lại nghe người đàn ông to béo ấy cất tiếng nói:

- Ngươi chớ nên cuống quýt, những người bạn của ta đều đi tìm thuốc về để chữa trị cho ngươi, và trong chốc lát đây tất cả sẽ trở về ngay. Thương thế của ngươi tuy trầm trọng, nhưng may công lực của ngươi khá cao sâu, nên vẫn không có chi đáng ngại đâu! Lữ Lân gắng gượng lên tiếng đáp:

- Tôi xin đa tạ ơn cứu mạng của các vị! Người đàn ông to béo ấy nhìn thẳng về phía Lữ Lân, nheo đôi mắt một lượt, rồi bỗng thò tay lấy một cái mặt nạ bằng đồng đen để cạnh đấy đeo lên mặt, và nhanh nhẹn gỡ xuống, nói:

- Ngươi trông thấy như vậy có khiếp không? Thì ra, chiếc mặt nạ bằng đồng đen ấy trông vô cùng hung tợn, và đấy chính là diện mục mà Lữ Lân trông thấy trong bảy pho tượng thần ở tại ngôi tháp đêm vừa qua.

Lúc bấy giờ, tuy khắp trên thân mình cũng như tâm trạng của Lữ Lân đều đang vô cùng đau đớn, nhưng vì thấy cử chỉ khôi hài của người đàn ông to béo kia, cũng không khỏi bật cười, nói:

- Tôi không khiếp sợ đâu, nhưng chẳng rõ vì lẽ gì các vị tiền bối lại cải trang thành những pho tượng thần ở trên ngôi tháp để làm chi vậy? Người to béo cất tiếng than dài một lượt, nói:

- Việc này nếu nói ra thì rất dài dòng, vậy chờ khi ngươi hoàn toàn bình phục, ta sẽ thong thả nói lại cho ngươi biết cũng không muộn. Giờ đây, ngươi nên nhớ kỹ là chớ nên tức giận, vì tức giận thì thương thế ngươi sẽ trầm trọng thêm lên.

Lữ Lân khẽ gật đầu, tỏ ý vâng lời. Cậu ta đưa mắt ngó ra ngoài mui thuyền, thấy một bên khói sóng mịt mù, chính là mặt hồ mênh mông, và một bên khác là bờ hồ, có rừng dương xanh um, phong cảnh vô cùng đẹp đẽ.

Lữ Lân nhìn qua khung cảnh xung quanh, rồi quay về người đàn ông to béo ấy, nói:

- Chẳng hay các vị tiền bối danh hiệu gọi là chi? Người đàn ông to béo ấy cất tiếng cười ha hả, nói:

- Anh em của ta gồm có đến bảy người, vậy nếu nói danh hiệu cả ra, tất ngươi không làm sao nhớ cho hết được! Lữ Lân vừa nghe đối phương bảo nhóm ông ta gồm có đến bảy người, trong lòng chợt nhớ ra điều gì, buột miệng hỏi:

- Nếu thế, có phải các ông chính là Trúc Lâm Thất Tiên, mà trong giang hồ đồn đãi bấy lâu nay đấy chăng? Lữ Lân tuy chưa hề dấn bước giang hồ, nhưng vì cha mẹ cậu ta đều là những tay giang hồ lão luyện, tên tuổi vang lừng khắp cả võ lâm, nên lẽ tất nhiên cha mẹ sẽ nói cho cậu biết về lai lịch cũng như tánh danh của những nhân vật có tên tuổi khắp võ lâm hiện nay.

Do đó, cậu ta vẫn còn nhớ là cha mình có nói rõ, trong võ lâm ngoài các môn phái ra, lại còn có bảy cao thủ mà tánh tình cũng như hành động rất hợp nhau, nên tự cho mình cũng như Nguyễn Linh, Kê Khang... cuối đời nhà Tấn, mà trong sử sách gọi họ là Trúc Lâm Thất Hiền, nên mới cùng tự xưng là Trúc Lâm Thất Tiên.

Hành tung của bảy người này không nhất định, khi thì cùng ở trên một chiếc thuyền con, thả xuôi dòng khắp sông hồ, sống lênh đênh hàng năm, khi thì tìm đến vùng núi rừng xinh đẹp để ẩn tích.

Bảy người họ, ai ai cũng đều có tuyệt nghệ, và tuyệt đối không khi nào câu thúc bởi những lễ tục của người đời. Nếu ai gặp được mặt, mà biết khôn ngoan dùng cái lễ của người đệ tử để tương kiến, chắc chắn sẽ được lợi ích cho mình không nhỏ.

Chính vì Lữ Lân còn nhớ lại những lời nói của người cha mình, nên giờ đây cậu ta mới có thể đoán ra được lai lịch của Trúc Lâm Thất Tiên.

Người đàn ông to béo ấy sau khi nghe qua câu nói ấy của Lữ Lân bèn tươi cười đáp:

- Thằng bé ngươi khá lắm, chúng ta chính là Trúc Lâm Thất Tiên! Lữ Lân thật sự không làm thế nào biết được là trước đó cậu ta mang thanh đao bằng thép Miến Điện bên sườn ra đi là do chứng kiến một vị tiêu sư mang thương tích khắp người vừa bước vào cửa tiêu cuộc là đã tắt hơi chết tốt, rồi sau đó chẳng những chính cậu ta gặp thêm bao nhiêu chuyện quái dị đến dồn dập với mình, đồng thời ngay như cha mẹ cậu cũng đang gặp bao nhiêu chuyện quái dị không kém.

Bởi thế, cậu ta không làm thế nào ngờ được là cha mẹ mình sau khi phát giác được một xác chết bé thơ không đầu ở tại gian hầm đá bí mật, đã cho là cậu ta bị đối phương sát hại rồi. Đồng thời, cũng vì cha mẹ cậu phát giác một bàn tay sáu ngón in sâu trên vách đá, nên đã đinh ninh kẻ sát hại cậu ta chính là Lục Chỉ Tiên Sinh, chứ không còn ai khác hơn nữa.

Bởi thế, cha mẹ cậu tất nhiên đã xem Lục Chỉ Tiên Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân và Trúc Lâm Thất Tiên là kẻ thù không đội trời chung với mình.

Hơn nữa, Lữ Lân cũng không làm sao biết được là ngay đến Trúc Lâm Thất Tiên cũng hoàn toàn không hay biết chi về việc Lữ Đằng Không mời các cao thủ hai phái Điểm Thương và Nga My định kéo nhau lên núi Võ Di để gây sự với Lục Chỉ Tiên Sinh.

Giờ đây, Lữ Lân biết mình được Trúc Lâm Thất Tiên cứu nguy cho nên trong lòng hết sức vui mừng, và hoàn toàn an tâm... Nhưng khi cậu ta nhớ đến việc mình rời khỏi nhà, chưa kịp gặp lại được cha mẹ, chẳng ngờ trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, người mẹ già thân yêu của mình đã trở thành người thiên cổ. Do đó, khi cậu ta nhớ đến sự cách biệt tưởng chừng là tạm thời, song chẳng ngờ thành vĩnh quyết, trong lòng hết sức đau xót, bùi ngùi.

Lữ Lân là một đứa bé rất hiếu thảo, nên càng nghĩ thì lại càng thấy đau đớn, không bút mực nào tả xiết. Đôi mắt cậu ta vì thế đã đỏ hoe, và long lanh ánh lệ.

Lúc ấy, người đàn ông to béo kia đã trở ra ngoài khoang thuyền nên chỉ còn một mình Lữ Lân mà thôi. Cậu ta đưa mắt nhìn thẳng về phía khói sóng mờ mịt trên mặt hồ, liên tưởng đến những việc đã xảy ra.

Thì ra, Lữ Lân sau khi đeo ngọn đao thép Miến Điện vào sườn và rời khỏi tiêu cục ra đi, liền rảo bước nhắm hướng mà số người trong tiêu cục đã nói để truy đuổi gấp theo cỗ xe ngựa nọ. Nhưng cậu ta đã đi đến ngoại ô, mà vẫn không hề trông thấy cỗ xe ngựa ấy đâu cả, hơn nữa, cũng không hề tìm ra một manh mối chi khả nghi.

Do đó, Lữ Lân tưởng đâu mình đã chậm hơn đối phương một bước rồi, và chắc chắn cỗ xe ngựa ấy đã bỏ đi xa. Song, giữa lúc cậu ta đang có ý định quay trở về tiêu cục để cùng bàn bạc với cha mẹ, rồi sẽ tìm cách ứng phó sau, bất ngờ cậu ta nghe văng vẳng có tiếng bánh xe lăn từ phía chân thành vọng đến.

Lữ Lân là một cậu bé rất khôn ngoan, nên vừa nghe được tiếng xe chạy lọt vào tai, đã vội giấu kín thanh đao bằng thép Miến Điện, nhanh nhẹn bước đến một lùm cỏ dại cạnh đấy để ẩn kín thân người. Cậu ta từ trong lùm cố đưa mắt nhìn ra, thấy đấy là một cỗ xe ngựa trang hoàng lộng lẫy, sơn son thếp vàng, màn gấm buông rũ, chung quanh có nạm hạt kim cương lóng lánh, và do những con tuấn mã kéo chạy như bay về phía ngoại ô.

Bởi thế, trong lòng Lữ Lân hết sức vui mừng, cậu ta chờ cho cỗ xe ngựa chạy ngang qua nơi mình ẩn trốn, bất thần khẽ nhún đôi chân, phi thân vọt thẳng lên phía sau cỗ xe ngựa nhẹ nhàng như một con chim bay. Cậu ta bám lấy mui xe, không hề nghe thấy một tiếng động khẽ.

Lữ Lân tuy là một cậu bé hết sức can đảm, nhưng ở trong khung cảnh ấy, tâm trạng cũng không khỏi vô cùng Chương hộp, căng thẳng, mặt khác thò tay lấy thanh đao thép Miến Điện ra, sẵn sàng đối phó với kẻ địch, nếu có xảy ra những chuyện bất trắc chi.

Sau khi Lữ Lân nhảy lên cỗ xe ngựa, cỗ xe ấy vẫn tiếp tục chạy về phía trước, không hề dừng lại. Và chẳng mấy chốc sau, là đã vượt ra khỏi cửa thành, rồi tiến tới ven một con sông lớn.

Khi đến ven sông, cỗ xe ngựa ấy liền dừng đứng yên lại.

Bởi thế, tâm trạng của Lữ Lân lại càng hết sức căng thẳng. Vì cậu ta trông thấy cỗ xe ngựa đứng yên trên ven sông, đinh ninh rằng người trong xe sẽ tìm đường vượt qua sông, và cũng tức là người ấy sắp xuất hiện.

Do đó, Lữ Lân ép sát thân người vào mui xe, có ý là không cho đối phương trông thấy được mình. Nhưng cậu ta chờ đợi một lúc thật lâu, mà vẫn chẳng hề thấy có sự động tĩnh nào cả.

Bởi thế, Lữ Lân hết sức lấy làm lạ. Và lúc ấy cậu ta đang bám sát phía sau cỗ xe, tức là nơi có một khung cửa sổ được che kín bằng một bức màn thêu kim tuyến lóng lánh. Do đó, Lữ Lân chờ đợi mãi một lúc thực lâu, mà vẫn không nghe có sự động tĩnh nào, bèn dùng mũi đao thép Miến Điện từ từ khoát bức màn lộng lẫy ấy lên, rồi đưa mắt nhìn thẳng vào bên trong cỗ xe...

Nhưng liền đó, Lữ Lân không khỏi hết sức kinh ngạc, vì bên trong cỗ xe hoàn toàn trống không, chẳng hề thấy có một bóng người nào! Vì thấy cỗ xe trống không, nên Lữ Lân trở thành bạo dạn hơn. Cậu ta vận dụng chân khí trong người, rồi vọt mạnh đôi chân, lướt thẳng vào trong mui xe. Khi đôi chân cậu ta đứng yên xuống, thấy hết sức mềm mại, chứng tỏ bên dưới cỗ xe được lót bởi một tấm thảm êm ái. Cậu ta trông thấy bên trong mui xe ánh sáng chỉ lờ mờ, và thoang thoảng bên mũi một mùi thơm lạ lùng, nghe như mùi thơm của loài xạ hương.

Liền đó, Lữ Lân bèn vén cao mấy bức rèm xung quanh lên, để cho ánh sáng từ bên ngoài lùa vào, rồi mới xem qua thực tỉ mỉ sự trang trí bên trong mui xe. Cậu ta thấy bên trong cỗ xe trang hoàng hết sức lộng lẫy. Cạnh bên một chiếc cẩm đôn, lại có để một cái trường kỷ bằng gỗ tử đàn, khảm ngọc xanh vô cùng xinh đẹp.

Bên trên chiếc trường kỷ bằng gỗ tử đàn, lại có để một cái lư hương bằng ngọc xanh bé nhỏ, có cả một khoanh nhang cháy đỏ, khói hương bay lên uyển chuyển, tỏa mùi thơm thoang thoảng khắp nơi.

Hơn nữa, Lữ Lân lại thấy bên cạnh chiếc lư hương ấy, có để một cây đàn cổ, dài độ ba thước, rộng độ nửa thước, màu đen bóng ngời.

Ở tại tiêu cục của cha cậu, bọn người làm công mỗi khi rảnh rỗi đều thích đánh đàn để giải trí. Lữ Lân thường ngày vẫn trông thấy chiếc đàn của họ dùng, đều gồm có bảy dây mà thôi. Thế nhưng chiếc đàn cổ này lại có rất nhiều dây. Cậu ta đếm kỹ qua, thấy nó gồm đến hai mươi mốt sợi dây tất cả. Những sợi nhỏ trông như một sợi tóc, và những sợi to thì bằng cả ngón tay.

Lữ Lân nhìn qua một lúc, trong lòng hết sức lấy làm lạ, nên đưa tay khảy nhẹ vào những sợi dây đàn ấy một lượt...

Nhưng mặc dù ngón tay của Lữ Lân đã chạm vào sợi dây đàn, song vẫn hoàn toàn không nghe tiếng đàn nổi lên.

Bởi thế, Lữ Lân thầm nghĩ: "Ta đã khảy khá mạnh, thế mà vẫn không sao khiến cho những dây đàn ngân lên thành tiếng. Vậy người chơi đàn này tất phải có một sức mạnh phi thường!" Lữ Lân dù sao cũng là một đứa bé, nên lúc nào cũng có tánh hiếu kỳ. Do đó, cậu ta liền vận dụng chín phần mười chân lực ra hai ngón trỏ và giữa, rồi nhắm một dây đàn to nhất khảy mạnh vào...

Lần này, sợi dây đàn liền được lay động, và ngân lên thành tiếng. Nhưng tiếng đàn ấy lại vang rền như tiếng sấm nổ giữa trời cao.

Lữ Lân không làm thế nào tưởng tượng nổi là sợi dây đàn ấy lại có thể gây thành một âm vang to lớn như vậy, nên không khỏi kinh hoàng thất sắc, đồng thời cả thân người cậu ta cũng bị hất ngã xuống sàn xe ngay.

Cùng một lúc với tiếng đàn ngân lên, bỗng Lữ Lân lại nghe tiếng vó ngựa nện vang bên tai, và cỗ xe không ngớt lắc lư thực mạnh mẽ, trong khi tiếng bánh xe lăn rào rào vang dội, chứng tỏ cỗ xe đang chạy về phía trước mặt như bay. Tuy Lữ Lân không được chính mắt trông thấy cỗ xe chạy nhanh đến mức nào, nhưng qua sự lắc lư dữ dội của cỗ xe, cậu ta cũng đoán biết tốc độ mà cỗ xe đang vượt tới chắc chắn nhanh nhẹn đến mức không làm sao nhanh nhẹn hơn được nữa.

Chừng ấy, Lữ Lân mới bừng hiểu ra là tự mình đã gây đại họa đến cho mình. Do đó, cậu ta cố gắng đứng lên, dù đôi chân không ngớt lảo đảo. Cậu ta đã trải qua lắm sự khó nhọc mới bò được đến phía trước cỗ xe, thò tay trì mạnh sợi cương ngựa, giữ cho những con ngựa đứng yên lại, không chạy tới trước nữa.

Nhưng những con tuấn mã lúc bấy giờ đang giương cao bờm lông trên cổ, miệng phun bọt trắng, co bốn vó chạy ào ào như điên, vậy thử hỏi cậu ta làm sao trì cương cho nó đứng yên được? Bởi thế Lữ Lân đã ra sức trì sợi cương càng mạnh hơn, và vì thấy không hiệu quả, nên sức trì của cậu ta mỗi lúc càng mạnh. Thế là, chỉ trong thoáng chốc sau, qua hai tiếng bực, bực, cậu biết hai sợi cương ngựa đã bị đứt lìa! Sau khi hai sợi cương bị đứt đi, cỗ xe lại chạy tới càng nhanh hơn. Vì vậy, Lữ Lân chỉ còn nghe hai bên tai mình tiếng gió rít vèo vèo. Cậu ta đưa mắt nhìn về hai phía tả hữu, thấy cánh rừng hai bên chạy cuồn cuộn về phía sau, như một dòng nước chảy xiết. Do đó, Lữ Lân lúc ấy tuy muốn nhảy đại xuống khỏi cỗ xe, nhưng vừa nhìn qua tốc độ của cỗ xe đang tiến, tự biết nếu nhảy xuống chắc chắn là phải bị trọng thương ngay.

Lữ Lân thực không làm sao có thể tưởng tượng được là vì mình nhất thời quá hiếu kỳ đối với cây đàn cổ nọ, và đưa tay khảy mạnh vào một sợi dây đàn mà lại đưa đến hậu quả nghiêm trọng như vầy.

Chẳng mấy chốc sau, y phục của Lữ Lân đều ướt đẫm mồ hôi lạnh. Nhưng sức lướt tới của cỗ xe vẫn vun vút không hề chậm bớt tí nào. Cỗ xe ấy một mực nhắm hướng bắc và theo ven sông lướt đi, mặc cho Lữ Lân gào la inh ỏi! Thế là, cỗ xe ấy tiếp tục chạy suốt trong vòng ba tiếng đồng hồ, và mãi đến lúc trời đã hoàng hôn, Lữ Lân mới trông thấy về phía trước mặt, nước biển mênh mông dính liền với chân trời, chứng tỏ cỗ xe sắp tiến đến một cái hồ rất lớn.

Lúc đó, bóng tịch dương đang chiếu rọi trên mặt nước xanh, xung quanh cảnh vật xinh đẹp không thể tả. Lữ Lân vì từ nhỏ trưởng thành tại thành Nam Xương nên vừa nhìn qua mặt hồ mênh mông ấy, đã biết ngay đấy là Thẩm Dương Hồ rồi! Khi những con tuấn mã kéo cỗ xe chạy đến sát bên ven hồ, nó mới dừng chân đứng lại.

Nhưng liền đó, chúng đã khụy bốn chân té nằm trên đất, miệng phun bọt trắng, trông mệt nhọc không thể tả. Nếu không có chiếc hồ rộng chắn ngang trước mặt, có lẽ những con ngựa ấy đã chạy bay mãi cho đến khi kiệt lực té lăn quay ra đất chết tốt mới thôi! Lữ Lân trông thấy chỉ trong phút chốc mà con ngựa có thể kéo cỗ xe chạy từ Nam Xương đến Thẩm Dương Hồ, nên trong lòng không khỏi hãi kinh. Vì từ Nam Xương đến Thẩm Dương Hồ ít nhất cũng ngoài một trăm dặm đường. Như vậy cũng đủ thấy những con ngựa kéo xe này chính là những con thiên lý mã vô cùng quý giá.

Qua một lúc kinh hoàng, Lữ Lân vội vàng nhảy xuống cỗ xe. Cậu ta trông thấy màu trời từ hoàng hôn lộng lẫy chuyển thành xám xịt, và chẳng mấy chốc sau, màn đêm đã buông rũ khắp nơi.

Lữ Lân cảm thấy cỗ xe ngựa này quả là một cỗ xe vô cùng quái dị và cũng vô cùng thần bí, nên cậu ta chẳng dám nấn ná lại lâu. Do đó, cậu ta bèn quay lưng, nhắm hướng thành Nam Xương chạy bay đi, có ý định sẽ trở về nhà, nói lại cho cha mẹ nghe mọi việc của mình vừa gặp, đồng thời hỏi rõ lai lịch của chiếc đàn quái dị kia.

Nhưng chẳng ngờ cậu ta vừa chạy đi được bảy tám dặm đường, bỗng nghe từ phía sau lưng có bánh xe lăn lạch cạnh đuổi theo. Lữ Lân không khỏi giật mình, nhưng nghĩ rằng có lẽ đấy là một cỗ xe của ai khác, đang có việc gấp nên không kể đêm khuya tiếp tục hành trình.

Do đó, cậu ta cũng cảm thấy an lòng, không quay đầu ngó lại.

Thế nhưng sau khi Lữ Lân tiếp tục đi tới trước độ non một dặm đường nữa, mà vẫn thấy cỗ xe ấy bám sát theo sau lưng mình, không nhanh hơn mà cũng không chậm hơn. Vì thế cậu ta bất giác quay đầu ngó lại, và do đó, mồ hôi lạnh lại toát ra khắp cả người! Vì cỗ xe ngựa đó chẳng phải là một cỗ xe khác, mà đúng là cỗ xe vừa rồi! Đồng thời, lúc ấy ở phía trước cỗ xe, có một người mình mặc áo đen, tay cầm roi ngựa, điều khiển cỗ xe đi tới.

Giữa màn đêm đen tối, trông thấy cỗ xe ấy chẳng khác chi một con quái vật khổng lồ, nên cậu ta không khỏi thầm kinh hoàng, vội vàng quẹo sang con đường khác để tránh. Song cỗ xe ngựa cũng liền nhanh nhẹn bám sát theo cậu ta, nhắm ngay người cậu ta lướt nhanh tới.

Lữ Lân trông thấy thế, không khỏi hết sức hãi kinh, nhanh nhẹn rút ngọn đao thép Miến Điện đeo bên sườn ra nghe một tiếng rẻng, siết chặt cán đao giữa lòng bàn tay, quát rằng:

- Này, bộ ông không có mắt hay sao? Trước đầu xe có người, tại sao ông không chịu tránh? Câu nói của Lữ Lân chưa dứt, thì cỗ xe ngựa ấy đã đứng yên lại, đồng thời lại nghe người ngồi trước đầu xe cất tiếng hừ lạnh một lượt. Tiếng hừ ấy của hắn ta, khiến ai nghe lọt vào tai, cũng phải bắt rùng mình rởn óc.

Lúc ấy khoảng cách giữa Lữ Lân và cỗ xe rất gần, nên cậu ta có thể trong thấy thấp thoáng diện mục của người ngồi trước cỗ xe. Hắn ta là kẻ có sắc mặt tái nhợt, cơ hồ chẳng hề có một tí máu tươi, đôi tròng mắt đứng yên một chỗ, chẳng hề thấy lay động, nhưng lúc nào cũng chiếu ngời ánh sáng lạnh buốt! Lữ Lân càng nhìn vào đối phương, càng kinh sợ hơn nữa, do đó cậu ta bắt buộc thối lui một bước, nói:

- Ông... ông là ai thế? Người ấy cất giọng lạnh lùng cười khanh khách, rồi vung ngọn roi ngựa trên tay lên một lượt. Ngọn roi ngựa đó trông mềm mại, chẳng khác gì lá liễu tháng năm, không ngớt run rẩy giữa khoảng không, rồi nhắm ngay thân người Lữ Lân vút tới! Lúc bấy giờ, Lữ Lân vì không đề phòng, hơn nữa, thế roi của đối phương vô cùng kỳ tuyệt, nên không làm sao có thể tránh khỏi được. Do đó, Lữ Lân cảm thấy trên bả vai bị đau buốt, và ngọn roi đã vút trúng thẳng vào người cậu ta.

Chính vì vậy nên Lữ Lân hết sức tức giận, vung ngọn đao thép Miến Điện đang cầm trong tay, dùng thế Nhất Trụ Kình Thiên nhắm ngay ngọn roi ngựa quét tới.

Nhưng người mặc áo đen ngồi trên đầu xe chỉ cần khẽ lắc qua bàn tay cầm ngọn roi, tức thì ngọn roi đã uyển chuyển lách khỏi ngọn đao của Lữ Lân, rồi nhân đà đó, lại cuốn thẳng về phía cổ tay của cậu ta.

Tức thì, Lữ Lân lại cảm thấy cổ tay của mình bị đau buốt, và tự nhiên buông lỏng năm ngón ra, khiến ngọn đao thép bị đánh rơi xuống mặt đất.

Lúc bấy giờ, vầng trăng đang từ từ nhô lên khỏi ngọn núi cao, chiếu sáng vằng vặc khắp mọi nơi.

Lữ Lân thấy mình chỉ mới đánh nhau với đối phương qua hai thế võ, là đã bị rơi mất binh khí rồi, nên không khỏi kinh hoàng thất sắc, vội vàng rùn thấp thân người, nhào lộn và lăn thẳng ra ngoài xa một trượng. Chừng ấy, cậu ta đứng phắt dậy, nhắm ngay ngọn đao vừa rơi nhảy tới...

Lữ Lân đã dùng thuật dương đông kích tây, để phỉnh gạt sự chú ý của đối phương, và do đó cậu ta chụp được ngọn đao thép Miến Điện trở vào tay. Nhưng cũng cùng ngay lúc đó, cậu ta cảm thấy trên lưng mình lại bị đau buốt, vội vàng nhào lăn ra xa để tránh.

Song, Lữ Lân sau khi nhào lăn ra độ một trượng, bất thần cảm thấy có một luồng sức mạnh hết sức êm dịu, chặn lấy cả thân người mình lại, không làm thế nào tiếp tục nhào tới trước được.

Bởi thế, Lữ Lân hết sức kinh hoàng, vội vàng đưa mắt nhìn lên, thấy lúc ấy mình đã lăn sát đến bên cạnh ba gã đàn ông có thân hình to lớn.

Ba gã đàn ông ấy ăn mặc hết sức giản dị, đầu đội mão, mình mặc y phục theo lối cổ, sườn đeo trường kiếm lủng lẳng. Chính một người trong bọn họ đã chặn Lữ Lân lại, rồi dùng mũi bàn chân hất vào thân người Lữ Lân một lượt, khiến cậu ta bị hất bay bổng lên, và khi rơi xuống, đứng sững cách xa họ độ ngoài một trượng.

Lúc bấy giờ, Lữ Lân không biết chuyện chi đã xảy ra, mà cũng không biết mình đang gặp số người nào.

Liền đó, cậu ta nghe một trong số ba người ấy, đưa mắt nhìn thẳng vào phía cỗ xe, vòng tay thi lễ nói:

- Chẳng hay trong cỗ xe ấy đang chở cao nhân nào? Vậy ông có thể nói rõ cho biết không? Người mặc áo đen ngồi trước cỗ xe ngựa, từ từ quay mặt nhìn lại, nhưng đôi tròng mắt vẫn cứng đờ không hề lay động. Người ấy sau khi nhìn thẳng vào ba người mới xuất hiện một lúc, bỗng thét lên một tiếng dài, song vẫn không trả lời sao cả. Tiếng thét ấy của hắn ta khiến ai nghe lọt vào tai cũng đều phải rùng mình! Ba người đàn ông to lớn ấy liền nhất loạt đưa chân bước lên một bước, đồng thanh nói:

- Nếu ông không bằng lòng nói rõ, tôi bắt buộc phải mở màn xe, xem qua cho biết!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 13
Ma Cầm Mấy Tiếng Tình Tang
Võ Đang Tam Kiếm Tương Tàn Khiếp Thay


Lữ Lân đối với ba gã đàn ông cao lớn ấy tuy hoàn toàn chẳng hề được biết, song vì cậu ta cảm kích trước cái đức tương trợ cho mình nên định lên tiếng bảo với họ là trong cỗ xe trống trơn, chứ chẳng hề có ai cả.

Nhưng Lữ Lân chưa kịp nói nên lời bỗng trông thấy tấm màn trên xe được khoát lên, rồi từ phía trong có một người nhảy thẳng ra ngoài.

Bởi thế Lữ Lân không khỏi hết sức ngạc nhiên vì chính cậu ta vừa rời khỏi cỗ xe chẳng bao lâu, thế chẳng hiểu tại sao trong cỗ xe lại có người? Vừa rồi cỗ xe ấy đã truy đuổi theo Lữ Lân đã là một chuyện hết sức lạ lùng, thế mà bây giờ lại có người từ trong mui xe nhảy ra nên lại làm cho cậu ta kinh dị không thể tả.

Khi Lữ Lân định thần nhìn lại thấy người từ trong mui xe nhảy ra, cách ăn mặc theo như người quản gia thái độ hết sức ung dung, diện mục đoan trang, xem ra có vẻ đứng đắn, hoàn toàn khắc hẳn với gã đàn ông mặc áo đen có diện mục hung tợn đang ngồi trước cỗ xe.

Người đàn ông ăn mặc theo lối quản gia ấy vừa bước ra bên ngoài, bèn hướng về ba người thi lễ nói:

- Tôi là Tề Phúc, chẳng hay ba vị muốn gặp chủ nhân tôi để làm gì? Người đàn ông đứng giữa lên tiếng hỏi:

- Chúng tôi đây là ai có lẽ ông đã biết rồi chứ? Tề Phúc mỉm cười đáp:

- Tại hạ rất vui lòng nghiêng tai lắng nghe.

Ba gã đàn ông liền hiện sắc tức giận, người đứng chính giữa gằn giọng nói:

- Ông đã dám ngồi cỗ xe này để đi gây sự khắp nơi, vậy có lẽ gia chủ của ông cũng là người tương đối có danh vọng, thế tại sao lại không nhận ra được chúng tôi? Lữ Lân lúc đầu không hiểu tại sao họ lại lộ vẻ tức giận nhưng sau khi nghe qua câu nói trên, cậu ta mới bừng hiểu ra nguyên nhân. Cậu ta nghĩ rằng: "Ba người đàn ông này chắc chắn là người rất có tên tuổi, nên đinh ninh là Tề Phúc phải biết được mình nhưng khi nghe qua câu nói của Tề Phúc, tỏ ra hắn hoàn toàn không biết họ, nên họ mới tức giận như vậy." Vì nghĩ thế nên Lữ Lân lại chú ý nhìn kỹ về phía ba người, cố tìm hiểu xem họ là ai, và qua một lúc sau, cậu ta không khỏi băn khoăn tự hỏi, chả lẽ ba người đàn ông này chính là Võ Đang Tam Kiếm tức nhóm người tên tuổi vang lừng trong võ lâm đây hay sao? Phái Võ Đang cao thủ quả thực vô cùng đông đảo nhưng nếu xét về trình độ võ công, phải kể Võ Đang Tam Kiếm là số người được ai nấy nhìn nhận là cao cường nhất vì một khi họ ra tay đánh nhau với ai, thì lúc nào cũng liên kết ba thanh trường kiếm rất chặt chẽ không khi nào đối phó đơn độc bao giờ.

Hơn nữa, kiếm thuật của họ đã rèn luyện chính là Thiên, Địa, Nhân, Tam Tài Kiếm Pháp.

Kiếm pháp ấy là thứ kiếm pháp quán tuyệt trong võ học, khét tiếng một thời, nhưng lúc ấy Tề Phúc vẫn mỉm cười nói:

- Tại hạ từ trước đến nay lúc nào cũng theo sát gia chủ bôn ba bốn phương, nên đối với những nhân vật hữu danh trong võ lâm thật ra ít được biết đến, vậy mong ba vị lượng thứ cho.

Cả ba người đàn ông ấy sắc mặt đang tràn đầy nét tức giận, trái lại Tề Phúc vẫn một mực tươi cười. Ba người ấy đồng thanh hừ lên một lượt nhưng im lặng không nói chi cả, chắc họ là những người không quen xưng tên xưng tuổi trước mặt người khác, nên im lặng một lúc lâu bèn lên tiếng nói:

- Nghe đâu có một chiếc hộp gỗ tương quan rất chặt chẽ với cỗ xe ngựa này, vậy ba anh em chúng tôi muốn xem thử chiếc hộp gỗ ấy.

Giọng nói của ba người đàn ông nọ tỏ ra rất ngang bướng nhưng Tề Phúc vẫn điềm nhiên không hề lộ sắc tức giận chi, hắn ôn tồn đáp:

- Ba vị đến thực là không may, vì chiếc hộp gỗ ấy vừa được dùng một số tiền thù lao trọng hậu mướn Lữ Tổng tiêu đầu tại Phi Hổ Tiêu Cục trong thành Nam Xương áp giải đến thành Cô Tô rồi. Do đó hiện giờ nó không có trong cỗ xe này.

Vì sự vệc diễn biến có liên quan đến cha mình nên Lữ Lân lại càng tập trung tinh thần chú ý theo dõi, để tìm hiểu xem đấy là chuyện gì.

Ba gã đàn ông nọ nghe qua liền đồng thanh cất tiếng cười to nói:

- Cái trò của ông có thể phỉnh gạt được người khác, nhưng chắc chắn không thể phỉnh gạt được ba anh em chúng tôi đâu.

Sắc mặt của Tề Phúc thoáng hiện vẻ ngạc nhiên nói:

- Chẳng hay ba vị nói thế là có ý chi? Người đàn ông đứng giữa cất tiếng cười dài nói:

- Các ông rêu rao khắp nơi bảo là chiếc hộp gỗ ấy đã được trao cho Lữ Đằng Không áp tải đi, và như thế tất nhiên đã làm cho cao thủ của các môn phái chú ý đến, ùn ùn bám sát theo Lữ Đằng Không, nhưng trong khi đó thật sự chiếc hộp gỗ vẫn còn ở trong tay các ông, phải thế không? Tề Phúc tươi cười nói:

- Ba vị đều hiểu sai rồi, chiếc hộp gỗ ấy thật sự đã trao cho Lữ Đằng Không và việc đó thì thật sự ai ai cũng được biết.

Ba người đàn ông ấy đồng loạt tràn tới một bước, rồi bất thần nghe ba tiếng rẻng, rẻng, rẻng ngân dài, đồng thời lại thấy có ba ánh thép chớp lên sáng rực. Thế là ba thanh trường kiếm của ba người đã được tuốt ra khỏi vỏ và nhanh như chớp đưa thẳng về phía trước. Tiếp đó thân hình của ba người cũng nhanh nhẹn di động khiến ba thanh trường kiếm chiếu sáng lập lòe, gát tréo nhau thành một cái hình tam giác, vây chặt Tề Phúc vào chính giữa.

Ba người đàn ông ấy ra tay nhanh nhẹn đến mức không ai có thể tưởng tượng nổi, và thế kiếm của họ tỏ ra quái dị đến cực độ.

Lữ Lân tuy còn nhỏ tuổi, nhưng mẹ của cậu ta là Tây Môn Nhất Nương thuộc hạng có kiếm thuật cao cường trong võ lâm, nên mỗi khi truyền dạy kiếm pháp Điểm Thương cho cậu ta đều có đề cập đến các kiếm pháp của các môn phái khác.

Do đó, Lữ Lân đối với việc nhận xét kiếm pháp hay dở tỏ ra rất sáng suốt và rất chính xác, vì thế khi trông thấy ba người đàn ông ấy vừa vung kiếm lên, Lữ Lân đã biết ngay kiếm pháp của họ có một trình độ thâm sâu đáng sợ.

Ba người đàn ông ấy sau khi vậy chặt được Tề Phúc vào giữa ba thanh trường kiếm, sắc mặt cũng liền sa sầm ngay.

Nhưng Tề Phúc vẫn một mực tươi cười lên tiếng nói:

- Ba vị vậy chặt lấy tại hạ là có ý chi? Ba người đàn ông ấy đều cất tiếng cười nhạt đồng thanh nói:

- Gã họ Tề kia, ngươi thật sự chẳng phải họ Tề đâu, trái lại chính là Tôn Sơn, tức Huyền Hương Đường Đường chủ trong phái Hoa Sơn. Vậy chúng ta có nói sai không? Khi Tề Phúc từ trong xe nhảy ra đến giờ, lúc nào sắc mặt cũng tươi cười, nhưng giờ đây khi nghe qua câu nói của ba người ấy thì sắc mặt không khỏi khẽ biến đổi, nhưng hiện tượng ấy chỉ thoáng hiện qua trong giây lát, y lại giữ vẻ bình tĩnh và ung dung như trước ngay, lên tiếng nói:

- Tại hạ may mắn giữ chức vụ Huyền Hương Đường Đường chủ trong phái Hoa Sơn chỉ trong vòng một ngày liền thoát ly khỏi môn phái ấy ngay, thế mà ba vị vừa nhìn qua là đã nhận ra được ngay tại hạ, thực là đáng khâm phục lắm.

Ba người đàn ông ấy đồng thanh cất tiếng cười to nói:

- Mười hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn có một địa vị khá cao trong võ lâm vậy chẳng hiểu vì lẽ gì hôm nay ông lại hạ mình làm một tên gia nô như thế? Tề Phúc thản nhiên đáp:

- Con người ai có phận nấy, vậy xin ba vị chớ nên tò mò làm gì.

Ba người đàn ông ấy lại đồng thanh cười to nói:

- Ngươi chớ nên giở trò nhằm phỉnh gạt ai nữa, vị chủ nhân của ngươi là ai? Có phải chính là lão già Liệt Hỏa trong phái Hoa Sơn ấy không? Nói mau.

Lữ Lân nghe đến đây đã quả quyết ba người đàn ông ấy chính là Võ Đang Tam Kiếm chứ không còn ai khác, vì chủ nhân của phái Hoa Sơn là Liệt Hỏa Tổ Sư, thuộc loại người có địa vị rất cao trong võ lâm. Thế nhưng qua lời nói của ba người đàn ông ấy, chứng tỏ họ chẳng hề xem Liệt Hỏa Tổ Sư vào đâu cả.

Lúc ấy Tề Phúc đã lên tiếng nói:

- Ba vị lại nói sai nữa rồi, vì gia chủ tuyệt đối chẳng phải là Liệt Hỏa Tổ Sư.

Thì ra người đàn ông đang đứng giữa trong bọn ấy, không ai khác hơn là Mạc Bá Vân, tức người anh cả trong Võ Đang Tam Kiếm.

Trong khi Mạc Bá Vân định lên tiếng hỏi thêm nữa, bỗng thấy Mạc Trọng Phong, tức người em thứ hai trong Võ Đang Tam Kiếm đang đứng ở cạnh phía trái lộ vẻ sốt ruột nói:

- Đại ca chớ nên nói dài dòng với hắn ta làm gì nữa, trong phái Hoa Sơn môn nhân hết sức phức tạp, kẻ giỏi người dở không đều nhau, vậy chúng ta nên trừ quách hắn đi, rồi nói chi thì sẽ tính sau.

Người em thứ ba trong Võ Đang Tam Kiếm là Mạc Quý Vũ cũng lên tiếng nói:

- Phải đấy, hắn ta nào có chủ nhân chi đâu, đây chẳng qua là do hắn giở trò, hơn nữa món vật được cất giấu bên trong chiếc hộp gỗ ấy chắc chắn là chẳng phải vật tầm thường, vậy chúng ta lại để rơi vào tay người khác hay sao? Mạc Bá Vân bèn đưa mắt nhìn về phía hai người em ra hiệu một lượt, gằn giọng nói:

- Ngươi đã nghe rõ hay chưa? Tề Phúc cười lơ đễnh nói:

- Nếu ba vị muốn ra tay đánh nhau thì tại hạ thực chẳng còn biện pháp nào khác hơn, nhưng tại hạ xin nói trước là nếu gây sự đánh nhau bằng võ lực và khi ba vị chịu thiệt thòi to, chừng ấy chớ nên trách tại hạ.

Tề Phúc vừa nói dứt lời, gã đàn ông có diện mạo hung tợn đang ngồi trước cỗ xe bỗng cất giọng lạnh lùng cười to lên khanh khách, tiếng cười của hắn đã nối tiếp theo sau câu nói của Tề Phúc, nên vừa nghe qua mọi người có thể lầm tưởng đó là chính là tiếng cười của chính gã Tề Phúc.

Trong khi tiếng cười của gã đàn ông hung tợn ấy vẫn còn bay lâng lâng giữa bầu trời đen tối, Võ Đang Tam Kiếm đã bắt đầu mở cuộc tấn công, do đó ba thanh trường kiếm chiếu ánh thép chói ngời ấy liền xoay tròn nhanh về phía người của Tề Phúc một lượt. Hành động của họ quá nhanh nhẹn không làm sao tưởng tượng nổi, và sau khi xoay quanh Tề Phúc một vòng cả ba liền đưa chân bước lùi ra xa ngay.

Chừng ấy ai nấy đều trông thấy tại thân trên giữa và dưới của Tề Phúc, mỗi nơi đều có một vết thương to, máu tươi tuôn ra dầm dề.

Nhưng Tề Phúc vẫn đứng điềm nhiên như thường, chẳng có ý muốn phản công trả lại đối phương, vì thật ra dù cho Tề Phúc có muốn chống trả lại vẫn không làm sao có đủ thời gian để phản công trước thế kiếm nhanh nhẹn tuyệt vời của đối phương cả.

Lữ Lân đứng cạnh đấy trông thấy thế trong lòng không khỏi cảm thấy bất bình.

Vừa rồi khi gã đàn ông có diện mạo hung tợn ngồi trước cỗ xe kia đã ra tay đánh thẳng vào người cậu ta mấy roi đau thấu xương tủy, hơn nữa Tề Phúc là người có dính dấp đến vụ sát hại một tiêu sư trong Phi Hổ Tiêu Cục và trong khi đó Võ Đang Tam Kiếm lại có cái ơn giải vây cho cậu ta, thế nhưng cậu ta là người có tính tình ngay thẳng hào hiệp, nên không khi nào lấy tình cảm cá nhân để xét đoán sự việc chung quanh.

Chính vì vậy, khi cậu ta thấy ba người bao vậy đánh một thì trong lòng hết sức bất bình, cậu ta không hề suy nghĩ gì hơn buột miệng quát to lên rằng:

- Ba người mà tính đánh một người vậy còn ra thể thống cái chi nữa? Nếu muốn đánh nhau, một chọi một cho rõ ràng hầu phân định ai cao ai thấp.

Võ Đang Tam Kiếm quay đầu nhìn về phía Lữ Lân, đôi mắt tràn đầy tức giận.

Trong khi đó thì Tề Phúc trái lại, mỉm cười nói:

- Ông bạn nhỏ kia, tôi xin cảm ơn lời nói ngay thẳng và đầy nghĩa khí của ông bạn, nhưng nên nghe theo lời tôi, tránh ra xa khỏi nơi này mau.

Lúc ấy Lữ Lân nhìn thấy thái độ bình thản của Tề Phúc trong lòng hết sức khâm phục, và tin chắc rằng hắn ta chính là một con người vô cùng cứng cỏi, không biết khiếp sợ trước mọi hiểm nguy.

Lữ Lân dù sao hãy còn nhỏ, nên nào có thể biết được vốn dĩ Tề Phúc tỏ ra bình tĩnh như vậy là vì đoán biết trước được nếu mọi việc diễn biến thêm, tất sẽ có lợi cho mình.

Do đó, Lữ Lân lắc đầu đáp rằng:

- Tôi không tránh đi đâu cả.

Tề Phúc thấy thế, nhìn về phía gã đàn ông đang ngồi trước cỗ xe rồi liếc mắt ra hiệu một lượt, tức thì gã đàn ông ấy cất tiếng cười, và bất thần phi thân bay bổng lên không, nhào lộn thân người một vòng bắt đầu từ trên sa thẳng xuống phía mặt đất, nhưng trong khi thân người hắn ta vẫn còn lơ lửng giữa khoảng không đã rút ngọn roi ngựa vung nghe xoạc xoạc quét nhắm về phía Lữ Lân.

Thân pháp của gã đàn ông ấy trông xinh đẹp tuyệt vời, đồng thời thế võ của hắn ta cũng hết sức nhanh nhẹn, quả là chưa từng thấy, chưa từng nghe trong đời.

Lữ Lân vừa rồi đã bị hắn vung roi ngựa đánh đau điếng, nên giờ khi trông thấy hắn ta lại tràn về phía mình vung roi đánh tới, trong lòng không khỏi kinh hãi, vội vàng điểm nhẹ hai bàn chân lên đất rồi nhảy lùi ra xa để tránh.

Trong khi đó tiếng roi rít trong gió nghe vèo vèo và đầu ngọn roi không ngớt cách trước mặt cậu ta độ ba bốn tấc mộc, khiến Lữ Lân phải thối lui liên tiếp hai trượng mới tránh khỏi thế công của đối phương. Chừng ấy gã đàn ông hung tợn mới vọt người nhảy lùi trở ra sau và chỉ qua ba lần vọt lên rơi xuống, thân hình của hắn ta lại nhẹ nhàng rơi trở lại đầu cỗ xe, trông chẳng khác chi một độn khói.

Lữ Lân thở phì ra một hơi dài dựa lưng vào một gốc cây cổ thụ, đứng yên đưa mắt chăm chú nhìn về phía trước, cậu ta trông thấy ba mũi trường kiếm trong tay Võ Đang Tam Kiếm đang chĩa thẳng về người Tề Phúc, nhưng Tề Phúc vẫn đứng bình tĩnh một cách lạ lùng.

Lữ Lân đoán biết được vừa rồi gã đàn ông cao lớn kia sở dĩ tràn tới vung roi tấn công về phía mình, thật sự là chẳng có ý muốn sát hại mình chi cả mà chỉ là tuân theo mệnh lệnh của Tề Phúc đuổi mình ra khỏi vòng chiến của họ mà thôi.

Giờ đây Lữ Lân trông thấy Tề Phúc lại lọt vào vòng vây của ba người đàn ông nọ thì trong lòng vẫn tỏ vẻ hết sức bất bình, do đó khi ngọn roi của đối phương vừa thu trở về, cậu ta lại có ý muốn đưa chân tràn tới trường, nhưng bất thần trong lúc ấy cậu ta đã nghe thấy tiếng đàn vui tai và hết sức du dương nổi lên.

Lữ Lân nghe thế không khỏi giật mình, vì ngay lúc ấy cậu ta đã nghĩ đến cây đàn hết sức quái dị trong cỗ xe ngựa kia, cũng như đã nhớ đến việc vừa rồi mình dùng sức khảy mạnh vào sợi dây đàn to nhất trên chiếc đàn ấy khiến nó ngân lên những âm thanh vang rền làm cậu ta phải kinh hồn khiếp vía.

Giờ đây, Lữ Lân nghe tiếng đàn du dương như từ trên trời cao vọng đến, song vì cậu ta trông thấy chung quanh đấy không còn ai khác hơn nên biết chắc chắn tiếng đàn ấy là từ trong cỗ xe vọng ra chứ không còn đâu nữa.

Căn cứ vào sự thực đó, chứng tỏ ngoài Tề Phúc ở trong xe, còn một người thứ hai chưa lộ diện.

Lữ Lân vừa nghĩ ngợi nhưng cũng vừa đưa mắt chú ý theo dõi mọi việc đang diễn ra trước mắt mình, cậu ta trông thấy tiếng đàn vừa nổi lên thì ba thanh trường kiếm trong tay của Võ Đang Tam Kiếm cũng liền được vung lên sáng ngời, bắt đầu mở cuộc tấn công ngay.

Bởi thế Lữ Lân không khỏi lo ngại cho số phận của Tề Phúc, nhưng khi cậu ta nhìn kỹ lại thì cơ hồ không còn tin vào đôi mắt mình nữa.

Thì ra, lúc bấy giờ không rõ Tề Phúc đã làm cách nào mà thoát được ra khỏi vòng vây của ba thanh trường kiếm và đến ngồi ung dung sát bên cạnh gã đàn ông hung tợn trước đầu cỗ xe.

Bởi thế ba thanh trường kiếm của Võ Đang Tam Kiếm đang múa vun vút, dùng toàn những thế võ cao sâu kỳ tuyệt, song chẳng phải để tấn công vào kẻ địch mà chính là đang cùng đánh nhau giữa bọn người mình.

Lữ Lân là một cậu bé có trình độ nhận xét kiếm thuật, nên nhìn qua những diễn biến của ba người, thấy rõ cả ba đều sử dụng những đường kiếm hiểm hóc nhất, ác độc nhất nhằm sát hại người trước mặt mình chẳng hề nương tay chút nào.

Do đó, Lữ Lân không khỏi cảm thấy hết sức kinh dị, có thể nói sự kinh dị lúc ấy trong lòng cậu ta là một sự kinh dị chưa từng có từ trước đến nay.

Vì Võ Đang Tam Kiếm là ba anh em ruột thịt, hành động lúc nào cũng dính liền với nhau, chẳng khác chi cùng chung một cơ thể, như vậy chắc chắn không khi nào họ tự ra tay tương tàn với nhau như thế cả.

Nhưng giờ đây mọi việc đang diễn ra trước mắt chính là một sự thực hoàn toàn, cả ba người họ đang sử dụng thế kiếm lợi hại nhất để đánh nhau quyết liệt. Do đó ánh thép lóe lên sáng ngời nơi nơi, lưỡi kiếm rít gió nghe vèo vèo, khi lướt sang trái, khi cuốn sang phải, kiếm hoa lên làm hoa cả mắt người chung quanh nên đến hình bóng ba người họ cũng không thể nhìn rõ được nữa.

Đấy quả là một cuộc ác chiến hy hữu trong võ lâm.

Lữ Lân đứng trơ người ra một lúc khá lâu, bỗng nghe tiếng đàn dồn dập hơn, âm thanh sầm sập chẳng khác nào có thiên binh vạn mã đang tiến quân, khiến tâm trạng của Lữ Lân cũng khỏi Chương hộp kinh hoàng.

Cùng một lúc với tiếng đàn dồn dập ấy, ba thanh trường kiếm trong tay Võ Đang Tam Kiếm cũng được sử nhanh hơn, do đó Lữ Lân không khỏi giật mình thầm nghĩ: "Chả lẽ tiếng đàn ấy lại có thể làm cho Võ Đang Tam Kiếm mất hết trí khôn mà hành động điên dại như thế sao?" Nếu sự thực đúng như vậy, tiếng đàn ấy là một thứ võ công chi mà lại có vẻ tà môn đến vậy? Giữa lúc Lữ Lân đang nghĩ ngợi, bỗng nghe một tiếng xoảng ngân dài, tức thì một trong Võ Đang Tam Kiếm đã vuột tay đánh rơi kiếm ra xa, đồng thời vì thế cả bọn ba người cũng dừng tay lại trong phút chốc.

Và trong phút chốc ngắn ngủi ấy, người vừa bị đánh rơi thanh kiếm kia liền nhanh nhẹn thối lui ra sau một bước, trong khi hai người còn lại đã đưa chân dõng dạc bước tràn tới vung thanh trường kiếm sáng ngời lên, rồi kẻ tả người hữu cùng nhắm ngay lồng ngực của người kia đâm thẳng tới.

Thế là gã Mạc Quý Vũ, tức người em thứ ba trong Võ Đang Tam Kiếm, cũng là người vừa vuột mất thanh kiếm ấy đã gào lên một tiếng thảm thiết, khiến ai nghe lọt tai cũng kinh hồn thất sắc, rồi ngã xuống đất chết tốt ngay.

Hai người còn lại sau khi rút thanh trường kiếm ra khỏi xác của Mạc Quý Vũ lại cùng đánh nhau một cách dữ dội, do đó chẳng mấy chốc sau kiếm thế của hai người chậm lại, có lẽ cả hai đã bắt đầu kiệt sức.

Lúc ấy, tiếng đàn dồn dập từ cỗ xe ngựa phát ra ấy cũng im hẳn, rồi cỗ xe ấy bỗng nhanh nhẹn lướt thẳng về phía trước.

Mặc dù tiếng đàn đã im, nhưng hai người trong Võ Đang Tam Kiếm vẫn tiếp tục đánh nhau thêm mấy thế kiếm hiểm hóc nữa và mãi đến lúc cỗ xe ngựa đã lẩn khuất giữa màn đêm thì hai người mới dừng tay lại.

Lúc ấy Lữ Lân tuy đứng cách xa họ, nhưng vẫn có thể trông thấy họ được. Cả hai sau khi dừng tay buông rơi thanh trường kiếm trên đất, vội chạy đến ôm chầm lấy nhau nhưng cũng liền sau đó cả hai bỗng lảo đảo đôi chân, rồi té khụy luôn xuống đất! Lữ Lân biết mọi việc mình chứng kiến hôm nay là một việc vô cùng trọng đại, song cũng vô cùng quái dị chưa từng có trong võ lâm. Do đó, cậu ta vừa thấy hai người đó ngã khụy xuống đất vội vàng chạy bay lại đến nơi.

Khi Lữ Lân đưa mắt nhìn kỹ hai người, thấy ở dưới nách họ đều có một vết thương to, vô cùng nặng, có lẽ vừa rồi qua những thế hiểm hóc sau cùng, cả hai đã gây thương tích cho nhau, nhưng kiếm pháp họ quả tuyệt vời nên Lữ Lân không trông thấy mà thôi.

Khi Lữ Lân phát giác được họ đang bị trọng thương nặng nề thì không khỏi kinh hoàng, đứng sững người như pho tượng.

Giữa lúc đó một người trong bọn họ gắng gượng lên tiếng nói:

- Người... bạn... nhỏ... xin vui lòng báo tin... cho quần hùng của Võ Đang... nói ba chúng tôi...

Người ấy vừa nói đến đây đã trợn to đôi mắt và cả hai đều tắt thở chết tốt.

Lữ Lân trông thấy thế không khỏi cảm thấy kinh hãi, vì cậu ta thấy rằng Võ Đang Tam Kiếm là số người rất có tên tuổi trên võ lâm, thế mà giờ đây lại bị chết đi một cách hết sức mờ ám và nếu chẳng phải chính mình được mục kích mà chỉ nghe người khác nói lại cũng không làm sao dám tin được.

Tuy lời trối trăn cuối cùng trước lúc lâm chung của họ chưa được giãi bày đến nơi đến chốn, nhưng Lữ Lân vẫn đoán biết được ý họ là muốn mình tìm đến quần hùng phái Võ Đang báo tin về cái chết ngày hôm nay của họ.

Lữ Lân đứng bên cạnh xác chết của ba người một lúc thật lâu, thầm nghĩ rằng: "Việc đến phái Võ Đang để báo tin là việc tất nhiên ta phải đi rồi, song giờ đây, ta nào có thể để xác chết của ba người họ phơi mãi giữa rừng hoang như thế này được?" Bởi thế cậu ta bèn dùng ngọn đao Miến Điện moi huyệt để chôn xác chết, song cậu ta vừa mới moi được một cái bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy đến nơi, cứ mỗi lúc một gần và khi tiến sát bên cạnh cậu ta liền dừng đứng yên lại.

Lữ Lân vội quay đầu nhìn về phía ấy, thấy trên lưng ngựa có một gã đàn ông mặc y phục ngắn, hối hả từ trên nhảy xuống rồi chạy bay đến bên cạnh ba xác chết nhìn qua một lượt.

Sau đó gã đàn ông ấy bất thần lao thoắt về phía Lữ Lân nạt to rằng:

- Khá khen cho tên tiểu tặc, tại sao ngươi dám sát hại ba vị sư bá của ta? Cùng một lúc với tiếng quát gã đàn ông ấy đã vung ngọn đại đao lên nhắm ngay đầu Lữ Lân chém vút tới.

Lữ Lân trông thấy thế không khỏi tức giận, nhưng cũng vừa tức cười, cậu ta không thể ngờ được là trong một môn phái to lớn như Võ Đang mà lại có những phần tử ngờ nghệch như thế này, tuy nhiên vì quá cấp bách nên cậu ta cũng nhanh nhẹn vung ngọn đao thép Miến Điện lên, dùng thế Song Phong Thám Vân đỡ thẳng tới.

Thế là sau một tiếng xoảng, hai ngọn đao thép đã va thẳng vào nhau. Ngọn đao trong tay của Lữ Lân là một ngọn đao rèn bằng thép Miến Điện thứ tốt, mặc dù chưa sắc bén đến mức chặt đứt nổi những loại thép thông thường, nhưng nó vẫn vô cùng rắn chắc.

Bởi thế khi hai ngọn đao va vào nhau, thì chẳng những gã đàn ông nọ bị hất lùi ra sau ba bước, mà lưỡi đao của hắn ta cũng bị thanh đao của Lữ Lân chém mẻ đi một miếng to.

Gã ấy không khỏi kinh hoàng, thối lui liên tiếp đến sát bên cạnh con ngựa, rồi nạt to rằng:

- Tiểu tặc ngươi danh hiệu là chi thế? Lữ Lân đáp:

- Tôi họ Lữ, tên chỉ có một chữ Lân.

Gã đàn ông ấy tỏ ra ngơ ngác trong giây lát, vì hai tiếng Lữ Lân thật ra trong giới giang hồ chẳng ai biết tới. Do đó, hắn ta lại lên tiếng hỏi:

- Thế phụ thân của ngươi tên gọi là gì? Lữ Lân thẳng thắn đáp:

- Gia phụ là Phi Hổ Lữ Đằng Không.

Gã đàn ông ấy quát to một tiếng, rồi phi thân vọt thẳng lên lưng ngựa nói:

- Thì ra lão tặc đã sát hại ba vị sư bá của ta.

Câu nói chưa dứt, hắn đã giật mạnh cương ngựa, khiến con tuấn mã liền co bốn vó chạy bay về phía trước.

Lữ Lân trông thấy thế không khỏi giật mình, nghĩ rằng: "Nếu việc này không giãi bày cho minh bạch thì phụ thân mình và phái Võ Đang tất sẽ sinh mối oán thù và sẽ không biết đến chừng nào mới thanh toán được." Do đó Lữ Lân hối hả điểm mạnh đôi chân xuống đất, rồi vọt người truy đuổi theo thật gấp, cậu ta nhanh nhẹn thò tay ra nắm lấy đuôi ngựa, kêu to rằng:

- Võ Đang Tam Kiếm vừa rồi đã tự tàn sát lẫn nhau mà thiệt mạng.

Nhưng người ngồi trên lưng ngựa đã nhanh nhẹn quay đao lại chặt xuống nghe một tiếng roạt, khiến đuôi ngựa bị chặt đứt lìa.

Lữ Lân vốn đang nắm chặt đuôi ngựa của đối phương nên khi đuôi ngựa vừa bị chặt đứt và con ngựa phi nhanh về phía trước thì không khỏi té đánh bịch xuống đất một cách đau điếng.

Trong khi đó người ngồi trên lưng ngựa to tiếng:

- Ngươi chớ nên nói bá láp, ngươi hãy bảo Lữ lão tặc đợi yên đấy mà chờ các cao thủ Võ Đang rồi đây sẽ tự tìm đến lão ta.

Lữ Lân mặc dù bị té xuống đất, nhưng nhờ cậu ta lanh lợi nên đã kịp thời nhảy vụt trở lên, song khi ấy con ngựa đã chạy bay đi thật xa rồi, không làm sao đuổi theo kịp nữa.

Lữ Lân biết gã đàn ông ấy gọi Võ Đang Tam Kiếm là sư bá, tất võ công rất tầm thường, vì chắc chắn y là lớp tiểu bối trong phái Võ Đang mà thôi. Nhưng nếu hắn vuột đi khỏi nơi này, từ đây về sau sẽ có lắm chuyện rắc rối xảy ra.

Bởi vậy cậu ta không khỏi thầm hối hận về chỗ vừa rồi mình mới gặp đối phương lần đầu mà đã nói rõ lai lịch của mình và cha cho đối phương nghe.

Lữ Lân đứng ngây người ra một lúc, rồi mới quay lại hối hả đào huyệt chôn cất Võ Đang Tam Kiếm thực chu đáo. Cậu ta nghĩ rằng: "Việc cấp bách nhất là phải trở về nhà, để nói lại mọi việc đã xảy ra cho cha mẹ mẹ nghe, rồi sẽ định cách đối phó sau." Lúc bấy giờ đêm đã khuya, nhưng Lữ Lân vẫn không ngại đường xá nguy hiểm, nhắm hướng thành Nam Xương chạy bay đi.

Cậu ta chạy chẳng được bao lâu, bất thần trông thấy ở phía trước mặt có bóng người đứng lố nhố chắn ngang giữa đường, nhưng những bóng người ấy trước sau vẫn im lặng và không hề nhúc nhích.

Suốt nửa đêm qua cậu ta đã gặp bao nhiêu chuyện lạ lùng xảy đến với mình, thế mà giờ đây không ngờ lại gặp thêm chuyện rắc rối nữa, do đó khi vừa trông thấy bóng người lố nhố giữa màn đêm, cậu ta không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng vì sức lướt của cậu ta quá nhanh nên chỉ trong chớp mắt sau là đã lướt sát đến bên cạnh số người ấy rồi.

Giữa lúc Lữ Lân định lướt mắt nhìn lên để xem cho kỹ đấy là số người nào, bỗng những bóng đen ấy hối hả tránh ra hai bên vệ đường, đồng thời lại nghe có tiếng rơi rào rào, như có vật chi sa từ trên cao xuống ngay đầu cậu ta...

Lữ Lân biết nguy, nên vội vàng rút thanh đao thép Miến Điện ra vung lên đỡ, nhưng cậu ta cảm thấy ngọn đao lướt đi nhẹ nhàng như chẳng hề đụng phải vật chi, cho nên lại càng kinh hãi hơn.

Và ngay lúc ấy thì cậu ta đã cảm thấy đôi mắt tối sầm lại vì tựa hồ đã bị một vật chi trùm kín cả đầu lẫn người.

Bởi thế Lữ Lân buột miệng kêu rằng:

- Bằng hữu ở phương nào mà lại ra tay ám toán tại hạ như thế? Tiếng kêu của cậu ta vừa dứt, liền nghe khắp tám phương bốn hướng có giọng cười âm u lạnh lùng không ngớt nối tiếp nhau nổi lên, giữa những tiếng cười ấy tựa hồ có lẫn những tiếng khóc ai oán, nghe thực ghê rợn. Tiếp đó cậu ta lại nghe có người lên tiếng nói rằng:

- Chừng về đến nơi ngươi sẽ biết, giờ đây ngươi sốt ruột làm gì? Lữ Lân cảm thấy hết sức tức giận, nhưng vì lúc ấy cậu ta cảm thấy khắp người mình như có một vật chi trùm kín lấy, tựa hồ đấy là một mảnh lưới dùng để lưới cá, nên vội vàng cố sức giãy giụa. Nhưng chỉ mới giãy được mấy lượt, cậu ta lại cảm thấy dưới nách tê buốt và huyệt đạo đã bị đối phương khóa cứng rồi.

Tiếp đó, Lữ Lân lại nghe có tiếng người nói:

- Thằng bé này đã lọt vào tay chúng mình thì còn sợ chi ông già nó không mang chiếc hộp gỗ ấy ra để đánh đổi.

Câu nói vừa dứt lại nghe có tiếng người khác nói tiếp rằng:

- Đấy là lẽ tất nhiên, nhưng theo ý kiến của Giáo chủ thì tốt nhất mình nên mang nó về Quỷ Cung ở Bắc Mang Sơn đã, rồi muốn tính sao thì tính.

Câu nói ấy vừa dứt, nghe có nhiều người đồng thanh nói:

- Phải đấy.

Tức thời, Lữ Lân cảm thấy thân người mình đã bị một gã đàn ông lực lưỡng kẹp lên, rồi chạy bay về phía trước. Cậu ta mở mắt nhìn ra, thấy đâu đâu cũng tối đen, không làm sao nhận được phương hướng và cũng không làm sao nhận được người đang kẹp mình lướt đi là kẻ có diện mạo như thế nào.

Nhưng Lữ Lân sau khi được nghe ba tiếng Bắc Mang Sơn, trong lòng không khỏi giật mình vì Bắc Mang Sơn chính là nơi cư trú của Quỷ Thánh Thạnh Linh, một nhân vật số một số hai trong tà phái.

Qua một lúc khá lâu, Lữ Lân lại mở mắt nhìn, trông thấy bên ngoài đã trở thành màu sáng, chứng tỏ trời đã bắt đầu sáng. Cậu ta cố sức vận chuyển chân lực nhưng vẫn không làm sao tự giải trừ huyệt đạo cho được, do đó cậu ta chỉ còn cách nằm yên nghe theo số mệnh mà thôi.

Suốt ngày hôm ấy, Lữ Lân bị đối phương kẹp cứng tiếp tục chạy bay về phía trước.

Đến tối, bọn chúng vẫn tiếp tục hành trình, nhưng bỗng có một người lên tiếng nói:

- Chớ để thằng bé ấy chết vì đói, vậy chúng ta nên giải trừ huyệt đạo cho nó đi.

Một người khác đáp:

- Hãy yên lòng, với số người đông như thiên la địa võng chúng ta chắc chắn dù cho có giải trừ huyệt đạo nó cũng không làm sao trốn thoát được đâu.

Lữ Lân nghe thế không khỏi thầm vui mừng và liền đó cảm thấy có người vỗ mạnh vào lưng mình, tức thì cả thân người cậu ta liền nhẹ nhõm, tứ chi liền cử động lại như thường.

Do đó, Lữ Lân vội vàng vung hai cánh tay lên, nhưng vẫn không làm thế nào thoát được mảnh lưới đang trùm kín thân hình.

Bỗng cậu ta nghe có người lên tiếng nói:

- Thằng bé ngươi chớ nên giãy giụa, vì làm thế chỉ tự tìm cái khổ cho mình mà thôi! Lữ Lân cảm thấy không còn hy vọng nào để thoát thân được, nên chỉ mỉm cười đau đớn, nằm yên nghe theo số mệnh.

Cậu ta thầm nghĩ bụng rằng: "Đây chắc chắn là họa chớ không phải là phúc, mà đã là họa rồi thì không làm sao trốn cho thoát được. Vậy ta cứ nằm yên để chờ xem bọn chúng mang ta đến đâu cho biết." Chẳng mấy chốc sau, Lữ Lân cảm thấy có người nhét vào cho mình một mớ lương khô, nên vội vàng chụp lấy và ăn ngấu nghiến vì cậu ta đã quá đói bụng rồi, và sau đó cậu ta liền nằm yên ngủ một giấc dài suốt cả đêm.

Qua ngày thứ hai, khi Lữ Lân vừa cảm thấy khát nước liền được đối phương nhúng người mình vào một dòng nước trong nên há miệng ra uống một bụng no cứng. Sau đó, Lữ Lân vẫn thấy đối phương tiếp tục đưa mình đi tới, khi mở mắt nhìn ra thấy chung quanh màu xám cậu ta biết là ban ngày và khi thấy đâu đâu cũng tối như mực biết đấy là ban đêm mà thôi.

Cuộc hành trình ấy kéo dài đến bốn ngày liền.

Qua ngày thứ tư, Lữ Lân vẫn không biết đối phương đã thay đổi người nào mang mình đi và cũng không hiểu họ mang mình đi về đâu cả. Suốt bốn ngày liền cậu ta bị đối phương nhốt kín trong một túi vải, nên có cảm giác là mình hoàn toàn cách biệt thế giới bên ngoài.

Tuy nhiên, Lữ Lân biết chẳng phải chỉ có một người mang mình vượt qua hành trình dài như vậy, trái lại số người ấy đã chuyền tay nhau đưa cậu ta đi. Nhưng giữa bọn họ chẳng hề nói chuyện chi với nhau nên Lữ Lân không thể nào tìm hiểu được một tí manh mối về họ.

Suốt bốn ngày liền, Lữ Lân chỉ đoán biết được là đối phương mang mình đi thực xa, có lúc cậu ta nghe tiếng bánh xe lăn ầm ầm, thân hình lắc lư tựa hồ như bọn chúng đã dùng xe để chuyên chở mình, song có lúc cậu ta lại nghe có tiếng vó ngựa lộc cộc và lại cảm thấy mình như đang bị đối phương để nằm yên trên yên ngựa. Trái lại, cũng có lúc cậu ta cảm thấy thân người mình được nằm yên trên một vật chi rất vững vàng, thỉnh thoảng lại lắc lư, chứng tỏ đối phương đang chuyên chở mình bằng thuyền.

Nhưng đặc biệt là ngày cuối cùng, Lữ Lân luôn cảm thấy thân người mình luôn luôn chao động, tựa như đối phương đang kẹp cậu ta đi trên con đường núi hết sức gồ ghề.

Lúc ấy Lữ Lân hoàn toàn không còn ý nghĩ tìm cách thoát thân nữa, mà chỉ nhắm mắt đánh liều cho số mạng mà thôi.

Mãi đến tối ngày thứ tư, Lữ Lân bỗng thấy đối phương dừng yên lại không tiến tới nữa, đồng thời sát bên tai cậu ta lại nghe có tiếng gió thổi ào ào và tiếng gió ấy có vẻ hết sức lạnh lùng và buồn thảm.

Do đó, Lữ Lân thấy rằng có lẽ nơi đó chính là một vùng đất heo hút gió, vì nếu chẳng phải thế thì tiếng gió đâu lại nghe thảm não đến mức đó.

Lữ Lân trong lòng đang phập phồng lo sợ là mình sẽ lại gặp biến cố chi khác xảy ra nữa chăng, nên nằm yên lắng tai nghe không hề dám nhúc nhích.

Tiếp đó cậu ta bỗng thấy thoáng trước mặt mình có một vầng ánh sáng lóe lên, ánh sáng ấy chẳng phải có màu xám mông lung như ánh sáng giữa ban ngày mà trái lại có màu vàng nhợt nhạt, xem như là một bó đuốc.

Lữ Lân tuy trông thấy trước mặt mình đã có ánh sáng hiện lên, nhưng cậu ta vẫn không làm sao nhìn rõ được cảnh vật chung quanh.

Chẳng mấy chốc sau cậu ta nghe thấy tiếng sắt thép chạm nhau thực to, tựa hồ có một quả búa lớn đang nện thẳng vào một cái chuông nghe boong boong, âm thanh ấy làm cho ai nghe lọt vào tai cũng không khỏi phập phồng kinh hãi.

Lữ Lân không hiểu chuyện chi xảy ra và cũng không biết việc ấy ảnh hưởng chi đến bản thân, do đó cậu ta chỉ còn cách nằm yên lắng nghe và chờ đợi mọi biến cố mà thôi.

Lại trải qua một lúc lâu Lữ Lân bỗng nghe có tiếng kêu kèn kẹt nổi lên liên tiếp rồi cậu ta lại cảm thấy thân người hình như được nhấc bổng lên cao bước tới mấy bước. Và trước mắt cậu ta vẫn đen tối mịt mù rồi nghe như có tiếng gió lạnh thổi vi vu khắp châu thân làm cho cậu ta không khỏi rùng mình mấy lượt.

Sau khi đối phương nhấc bổng cậu ta bước về phía trước chẳng bao lâu bỗng cậu ta nghe một tiếng ho rất lạ lùng lọt vào tai.

Lúc ấy Lữ Lân có cảm giác là chung quanh mình khung cảnh hết sức âm u lạnh lùng, tựa hồ như đối phương đưa mình vào một sơn động tối tăm ẩm thấp, thế mà bỗng nhiên cậu ta lại nghe có tiếng người ho nên không khỏi có một cảm giác sợ hãi khó tả.

Vì tiếng ho ấy chẳng những lạnh lùng đến khiến người nghe phải rùng mình rởn óc, mà có vẻ trống rỗng vô vị không thể tả, chính vì vậy đã khiến cho Lữ Lân bất giác rùng mình mấy lượt.

Kế đó, Lữ Lân bỗng lại thấy như thân người mình bị đối phương bỏ yên xuống đất và phía da mặt tiếp xúc với mặt đất, thấy lành lạnh như chạm trúng vào giá băng.

Kế đó Lữ Lân nghe thấy tiếng bước chân đi thực khẽ, rồi sau đó chung quanh lại im phăng phắc, bởi thế Lữ Lân đoán biết hiện giờ chỉ còn một mình mình ở tại đó mà thôi. Và khi cậu ta nghĩ tới đó, trong lòng không khỏi tràn ngập sự sợ hãi.

Lữ Lân tuy còn nhỏ tuổi nhưng bình nhật thường được cha mẹ kể lại những chuyện về các bậc anh hùng hào kiệt trong võ lâm, thêm nữa hàng ngày cậu ta luơn tiếp xúc với những người làm việc tại Phi Hổ Tiêu Cục, tức những nhân vật thuộc hàng cao thủ võ lâm nên ý nghĩ rất cứng cỏi, lòng dạ vô cùng can đảm, khác những đứa trẻ tầm thường.

Chỉ căn cứ vào việc Lữ Lân dám mang thanh đao Miến Điện rời khỏi tiêu cục để tìm hung thủ sát hại Tần tiêu đầu thì cũng đủ thấy lòng can đảm và ý chí cứng cỏi của cậu ta.

Vì thế nên suốt mấy ngày hôm nay mặc dù cậu ta đã gặp bao nhiêu biến cố hãi hùng, lọt vào tay của kẻ địch nhưng không lúc nào cậu ta tỏ ra khiếp sợ cả.

Thế nhưng giờ đây Lữ Lân lại có cảm giác sợ hãi.

Tiếng ho lạnh lùng và cả tiếng trống rỗng vừa rồi cũng như cảm giác cho rằng xung quanh đây là một nơi tối đen ẩm thấp chính là nguyên nhân đã làm cho Lữ Lân phải sợ hãi.

Cậu ta thậm chí có ý nghĩ chẳng lẽ mình đã chết thật rồi hay sao, nơi này chắc là âm ty địa phủ đây chăng? Cảm giác sợ hãi ấy mỗi lúc một xâm chiếm tâm hồn của Lữ Lân mạnh mẽ hơn, nên cậu ta không thể nằm yên được nữa, trái lại cậu ta cố ngoi người đứng thẳng lên.

Lúc bấy giờ Lữ Lân vẫn đang bị đối phương trùm kín thân người bằng một chiếc túi vải, song chẳng hề bị khóa cứng huyệt đạo nên cậu ta vẫn có thể cử động dễ dàng.

Bởi thế Lữ Lân vừa đứng thẳng thân người lên, bỗng thấy chiếc túi vải trùm kín thân người mình tự nhiên tuột xuống mặt đất.

Tức thì Lữ Lân đưa chân bước tới một bước là đã ra khỏi chiếc túi vải ấy thật dễ dàng, đứng trước hiện tượng đó Lữ Lân không khỏi cảm thấy vô cùng quái dị và vô cùng mừng rỡ.

Cậu ta sở dĩ cảm thấy quái dị bởi vì không hiểu số người đã đưa mình đến đây tại sao lại bỏ rơi mình lại nơi này đi đâu mất hết cả, đồng thời cậu ta cảm thấy vui mừng vì cho rằng mình thoát khỏi chiếc túi vải này, sẽ khôi phục lại sự tự do cá nhân hay ít nhất cũng có thể tự tìm hiểu được nơi đây là nơi nào.

Bởi thế cậu ta cố trấn tĩnh tinh thần, đưa tay sờ vào sườn, tuốt lấy ngọn đao thép Miến Điện siết chặt giữa lòng bàn tay, quét mắt nhìn khắp bốn bên quan sát, nhưng cậu ta chỉ cảm thấy gió lạnh đang từ phía ngoài thổi nhẹ nhàng tới khiến khắp châu thân đều bị giá rét, tựa hồ đang đứng giữa một vùng tuyết băng mà thôi.

Ngoài ra, khắp bốn bên đâu đâu cũng tối đen như mực, không còn trông thấy một vật chi nữa cả.

Lữ Lân bèn cất tiếng gọi to lên mấy lượt để tự trấn tĩnh tinh thần, và cũng dựa vào đó để củng cố thêm lòng can đảm của mình. Song cậu ta chỉ nghe thấy tiếng Chương âm vọng về không ngớt, chứng tỏ nơi cậu ta đang đứng chính là một sơn động trống không.

Qua một lúc khá lâu sau, đôi mắt của Lữ Lân cũng quen dần với bóng tối nên có thể nhìn thấy mập mờ cảnh vật gần chung quanh, do đó sau khi cậu ta quay người nhìn kỹ về phía sau, mồ hôi lạnh bất giác toát ra khắp cả người, khiến toàn thân đều cứng đờ, cơ hồ không còn nhúc nhích được nữa.

Thì ra lúc ấy Lữ Lân trông thấy khắp bốn bên đều có bóng người đứng sừng sững, dày đặc cao thấp không đều nhau và cách mình cũng chẳng bao xa.

Lữ Lân vốn đinh ninh nơi mình đang đứng chính là một cái sơn động trống không, ngoài mình ra không còn ai nữa, nên vừa rồi cậu ta mới sợ hãi như vậy.

Nhưng giờ đây khi phát giác được khắp chung quanh mình lại còn có vô số người đang đứng sững, im lặng không nói một tiếng, mà cũng không hề cử động, cậu ta lại còn sợ hãi hơn gấp trăm ngàn lần.

Bởi thế khắp cả người của Lữ Lân bỗng nóng ran lên, đôi tay mềm nhũn khiến cậu ta có cảm giác thanh đao thép Miến Điện tựa hồ nặng đến hàng ngàn cân, không làm thế nào cầm vững trong tay được nữa. Đồng thời quả tim cậu ta cũng nhảy dồn dập, cơ hồ sắp tung khỏi lồng ngực thoát ra ngoài.

Qua một lúc sau, Lữ Lân mới từ từ trấn tĩnh lại được, cậu ta bất thần quát to một tiếng, rồi vung mạnh ngọn đao thép Miến Điện trong tay ra, dùng thế Hoành Phong Tà Vũ, trước tiên quét ngang, rồi sau đó lại chém xéo về bóng người đứng gần nhất.

Ngọn đao thép Miến Điện của Lữ Lân có hình dáng hoàn toàn giống ngọn Tử Kim Đao của Lữ Đằng Không, song chỉ có điều nhỏ hơn một tí mà thôi. Hơn nữa đao pháp của cậu ta được sự chân truyền của người cha già mình, trình độ rất đáng kể nên đường đao đánh ra chẳng những vô cùng nhanh nhẹn mà còn vô cùng chuẩn xác.

Bởi thế nên thế đao Lữ Lân vừa chém ra là đã lướt sát tới trước mặt của bóng người ấy rồi.

Nhưng chẳng hiểu vì cớ gì bóng người ấy vẫn đứng trơ trơ, không hề nhúc nhích và tựa hồ không có ý định lách tránh.

Thế là chỉ trong một nháy mắt, Lữ Lân liền nghe một tiếng xoảng vang lên, vì ngọn đao thép Miến Điện trong tay cậu ta đã chém trúng thẳng vào bóng người ấy rồi.

Tiếp liền theo tiếng xoảng ấy, Lữ Lân lại trông thấy một chuỗi lửa lóe lên sáng ngời, tuy những đốm lửa ấy rất bé nhỏ, nhưng giữa khung cảnh tối tăm mịt mờ này nó cũng có thể soi sáng cảnh vật xung quanh.

Lữ Lân nhờ ánh sáng bé nhỏ ấy đã trông thấy bóng người đang đứng trước mặt, nên đôi tay mềm nhũn bất giác buông rơi ngọn đao thép nghe loảng xoảng, rồi té khụy luôn xuống đất.

Cậu ta đưa hai tay lên bụm mặt, gào to lên rằng:

- Cha ơi! Má ơi.

Tiếp đó, Lữ Lân hối hả đứng lên, thối lui ra sau liên tiếp mấy bước dài. Nhưng cũng liền ngay lúc ấy, cậu ta đã đụng thẳng vào một bóng người cạnh đấy, nên lại hối hả quay phắt người lại, đưa hai tay sờ soạng để tìm lấy ngọn đao thép Miến Điện vừa đánh rơi.

Do đó, Lữ Lân đã tìm lại được ngọn đao của mình, siết chặt vào tay, song lúc ấy cậu ta hoàn toàn không đủ can đảm để đứng thẳng người lên nữa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Lục Chỉ Cầm Ma Nghê Khuông

Postby tuvi » 15 Apr 2022

Hồi 14
Thần Bút Lo Việc Chữa Thương
Thất Tiên Hợp Lực, Chân Truyền Võ Công


Thì ra Lữ Lân vừa rồi vung ngọn đao thép chém thẳng trúng vào bóng đen gần mình nhất và khi ánh lửa lóe lên để cậu ta thấy rõ được diện mạo của đối phương, cậu ta không khỏi hết sức kinh hoàng.

Nhưng sau đó cậu ta nghĩ lại, thấy lưỡi đao của mình khi chạm trúng vào người đối phương lại lóe lửa đỏ lên như vậy, tất con người ấy không phải bằng xương bằng thịt, vì chỉ khi nào lưỡi đao chạm vào đá mới có hiện tượng bắn lửa như thế mà thôi.

Bởi thế chứng tỏ bóng người mà cậu ta vừa chém trúng chính là hình nhân bằng đá chứ không phải một con người thật sự. Do đó bao nhiêu sự sợ hãi của cậu ta liền tiêu tan cả đi.

Song, qua ánh lửa lóe lên vừa rồi, Lữ Lân đã thật sự trông thấy khuôn mặt người ấy hết sức khủng khiếp, dù là trong một cơn ác mộng cậu ta cũng chưa từng thấy được một khuôn mặt khủng khiếp đến mức ấy bao giờ.

Khuôn mặt của bóng người ấy hoàn toàn không giống một khuôn mặt do sắt đá chạm nên, mà rõ ràng là một khuôn mặt bằng da bằng thịt.

Hơn nữa, nếu hỏi khuôn mặt ấy đáng kinh khiếp đến mức nào, nhất thời dù là ai cũng không nói rõ ra được cả, chính vì thế nên khuôn mặt ấy càng dễ khiến cho người nhìn phải bắt rùng mình rởn óc. Vì nó tái nhợt đến mức không thể tưởng tượng, lại hoàn toàn không có một tí tình cảm, lạnh lùng như gỗ đá.

Một khuôn mặt như thế, dù cho ở giữa ban ngày nơi một khu chợ náo nhiệt, mà thoạt mới nhìn qua người ta cũng không khỏi phải kinh hoàng thất sắc, phương chi nó lại ở trong một khung cảnh hoang vu vắng vẻ như thế này.

Lữ Lân sau khi siết chặt ngọn đao thép Miến Điện vào tay, vẫn đứng trơ người ra, không biết hành động sao cho phải...

Giữa lúc ấy, bỗng nhiên cậu ta lại nghe có tiếng cười khanh khách, hết sức lạnh lùng, từ bốn phương tám hướng vọng đến.

Tiếng cười ấy thực không thể đoán đích xác nó từ đâu phát ra, mới nghe qua như từ xa vọng đến, nhưng nếu quay đầu nhìn lại, tựa hồ từ cửa miệng tái nhợt của khuôn mặt ghê rợn ấy phát ra.

Bởi thế Lữ Lân không khỏi hết sức kinh hoàng và qua một lúc khá lâu, cậu ta buột miệng kêu lên được bốn tiếng:

- Ông... là ai thế?

Câu hỏi của Lữ Lân vừa dứt, tiếng cười lạnh lùng và hết sức trống trải ấy bỗng dưng im phắt lại, đồng thời Lữ Lân như thấy trước mặt mình bừng sáng lên.

Lúc bấy giờ, Lữ Lân biết mọi việc mình đang mục kích là những việc vô cùng quái dị và nếu sau này mình thoát khỏi được vòng nguy hiểm, đem kể lại cho người chung quanh nghe, chắc chắn cũng không ai sẽ chịu tin lời bao giờ.

Hơn nữa, Lữ Lân cũng tự biết hiện nay chắc chắn không ai ra tay cứu nguy cho mình được, mà chỉ còn trông mong ở sự cố gắng tự giải cứu của chính mình mà thôi, do đó Lữ Lân cố trấn tĩnh tinh thần, ngửa mặt nhìn thẳng lên để quan sát cho thực kỹ khung cảnh trước mắt.

Nhưng khi cậu ta đưa mắt nhìn kỹ thì lại càng kinh ngạc hơn.

Thì ra, cách xa về phía trước mặt Lữ Lân độ năm sáu trượng, lúc ấy có một ngọn đèn sáng, không ngớt chập chờn lưng lửng giữa khoảng không. Ngọn đèn ấy có một màu xanh lục, trông chẳng khác chi một ngọn đèn ma nên làm khung cảnh đen tối bên trong sơn động lại càng có vẻ âm u đáng sợ hơn.

Song, dù cho ngọn đèn ấy có màu chi đi nữa, nó vẫn là một ngọn đèn sáng, do đó cảnh vật chung quanh đã có thể thấy rõ ràng. Vì vậy Lữ Lân nhận định được nơi mình đang đứng là đâu.

Quả nhiên, cậu ta thấy nơi ấy chính là một cái sơn động to lớn, bốn bên vách đá phản chiếu ánh sáng màu xanh lục, nên trở thành lóng lánh, song khắp nơi đều hoàn toàn trống không.

Những bóng đen lố nhố đông đặc đã làm cho Lữ Lân toát mồ hôi lạnh vừa rồi, cũng như khuôn mặt vô cùng khủng khiếp mãi mãi in trong tâm trí cậu ta khi nãy giờ đây, tự nhiên đã biến mất đi đâu cả.

Do đó, Lữ Lân không khỏi hoài nghi những hiện tượng khi nãy, rất có thể chỉ là ảo giác của mình mà thôi.

Nhưng cậu ta lại tự thấy rằng tất cả mọi việc mà mình được mục kích hoàn toàn là sự thực, chứ không phải ảo giác vì những hiện tượng ấy đã lưu lại trong tâm não cậu ta một ấn tượng thực sâu sắc, nếu là ảo giác chắc chắn không khi nào nó có thể lưu lại cho cậu ta một ấn tượng sâu sắc đến vậy.

Lữ Lân lại cố trấn tĩnh tinh thần, và nghĩ đến trong sơn động này nếu có người nào ho và kế đó lại nghe có tiếng người cười, tất nhiên là phải có người ở. Vậy chẳng cần biết kẻ ấy là ai, nếu giờ cậu ta tỏ ra khiếp sợ chẳng hóa ra làm trò cười cho đối phương hay sao? Chính vì nghĩ thế nên Lữ Lân cảm thấy bạo dạn hơn, to tiếng nói:

- Nơi đây là nơi nào? Các ông mang tôi đến đây là có ý chi? Mau thả tôi ra ngay.

Lữ Lân đã lặp đi lặp lại mấy lượt câu nói của mình, nhưng liền đó tiếng cười khanh khách lạnh lùng lại nổi lên liên tiếp, đồng thời ngọn đèn màu xanh lục âm u kia cũng nhảy múa chập chờn như càng nhanh nhẹn hơn.

Lữ Lân trông thấy ngọn đèn ấy có thể bay lơ lửng chập chờn giữa khoảng không, đã là hết sức quái dị, thế mà giờ đây nó bất thần nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn, trong lòng cậu ta lại càng kinh hãi.

Qua một lúc sau, chuỗi cười lạnh lùng ấy bỗng im hẳn rồi nghe thấy một giọng nói hết sức trống rỗng, rằng:

- Ngươi có phải là Lữ Lân không? Khi tiếng nói ấy vừa vang lên, ngọn đèn màu xanh lục trước mặt nhảy múa càng thêm nhanh nhẹn hơn nữa.

Lữ Lân nhờ ánh sáng ngọn đèn, cậu ta đưa mắt chú ý nhìn kỹ khắp trong sơn động, nhưng thấy đâu đó vẫn trống trơn, hoàn toàn không có một bóng người nào cả.

Hơn nữa, theo sự nhận xét của Lữ Lân tiếng nói ấy đã phát ra từ ngọn đèn xanh lục trước mặt mình.

Nếu bảo ngọn đèn mà có thể nói chuyện được, thực là một việc quá hoang đường, nhưng vì Lữ Lân đã mục kích bao nhiêu chuyện quái đản không thể tưởng tượng, nên đối với việc ấy cậu ta vẫn không cảm thấy lạ lùng chi cả.

Bởi thế cậu ta bèn ưỡn ngực đứng thẳng lên nói:

- Đúng thế, tôi là Lữ Lân. Ông là ai thế? Giọng nói ấy lại cất tiếng cười lạnh lùng nói:

- Ta là ai chẳng phải ngươi đã trông thấy rồi hay sao? Vậy hà tất ngươi phải hỏi nhiều như thế? Lữ Lân chú ý nhận xét thật tỉ mỉ phương hướng của giọng nói ấy, nhưng vẫn không làm thế nào xác định được nó từ đâu phát ra.

Song qua ngụ ý của câu nói, tựa hồ đối phương tự nhận mình chính là ngọn đèn chập chờn kia, bởi thế Lữ Lân tức giận nói:

- Ông giả quỷ giả thần như thế là có mục đích gì? Giọng nói ấy cất to tiếng cười ha hả nói:

- Lữ Lân người biết biết tính mạng của ngươi hoàn toàn nằm trong lòng bàn tay ta không? Lữ Lân to tiếng đáp:

- Khéo nói bá láp, tại sao không lộ mặt để so tài với tôi? Giọng nói ấy liền đáp:

- Võ công của ta đã tiến tới mức xuất quỷ nhập thần, ngay đến việc ta ở đâu ngươi cũng không thể nào biết được, đồng thời vừa rồi ta đã hóa thân ra thành trăm ngàn bóng người rồi lại biến đi trong thoáng chốc, vậy ngươi thử nghĩ ngươi có thể đối địch nổi với ta hay không? Lữ Lân tuy tuổi còn nhỏ, nhưng không để cho kẻ khác phỉnh gạt được mình như bao nhiêu cậu bé khác, do đó lúc bấy giờ cậu ta đoán biết võ công đối phương quả cao cường đến mức không ai có thể tưởng tượng nổi, nhưng cậu ta lại biết rằng câu nói: "hóa thân làm trăm bóng người" ấy, chính là một câu nói dối đầy xảo trá, chẳng làm thế nào tin được.

Bởi thế Lữ Lân bèn cất tiếng cười nhạt nói:

- Ông chớ nên khoác lác một cách lớn lối, tôi không khi nào tin là có như vậy đâu.

Giọng nói ấy dừng lại trong giây lát, rồi lại lên tiếng tiếp rằng:

- Ta hỏi ngươi, chẳng hay ngươi có muốn ra khỏi sơn động này để trở về đoàn tụ với cha mẹ ngươi không? Lữ Lân nói:

- Lẽ tất nhiên là tôi muốn, ông hãy mau thả tôi ra.

Giọng nói ấy lại tiếp:

- Đâu lại dễ dàng như thế được? Trước tiên ngươi hãy bằng lòng hứa với ta một việc, ta mới chịu thả ngươi ra.

Lữ Lân tuy vừa đối đáp với giọng nói ấy, nhưng một mặt vừa chú ý quan sát thật kỹ mọi mặt chung quanh.

Do đó, cậu ta cảm thấy ngoài những hiện tượng quái dị khiến ai nhìn thấy cũng kinh tâm vừa rồi, còn thời giờ đây đâu đâu cũng trống không, chẳng có điều chi đáng ngờ cả.

Lữ Lân cảm thấy hiện giờ trước mặt mình chỉ có một điều quái dị duy nhất, ấy là ngọn đèn ấy không ngớt nhảy múa tung tăng, không khi nào chịu đứng yên, làm cậu ta có cảm giác hoa cả mắt mà thôi.

Do đó, Lữ Lân tựa hồ đã bình tĩnh hơn, lòng can đảm của cậu ta cũng như được củng cố lại, vì thế khi nghe giọng nói nọ bảo mình phải hứa với đối phương một việc mới bằng lòng thả mình ra, cậu ta bèn đáp:

- Đấy là chuyện gì, ông hãy nói cho tôi nghe thử đã.

Giọng nói ấy đáp:

- Cha mẹ ngươi...

Lữ Lân không chờ đối phương nói dứt lời, bèn nhanh nhẹn khẽ nhún đôi bàn chân vung ngọn đao thép Miến Điện lên, dùng ngay thế Lưu Tinh Cản Nguyệt lao thoắt về phía trước nhắm ngay ngọn đèn đang nhảy múa quét tới.

Thì ra, Lữ Lân một mặt nói chuyện với đối phương, song mặt khác cũng thầm có sự quyết định, sự quyết định ấy là cậu ta thà bị đối phương nhốt mãi ở trong sơn động đen tối này, song nhất định phải tìm hiểu cho kỳ được nguyên do nào đã khiến cho ánh lửa đèn nọ không ngớt chập chờn nhảy múa. Do đó, cậu ta đã vung đao lên chém tới nhanh như gió hốt.

Song, giọng nói ấy chỉ dừng trong giây lát, và khi thấy ngọn đao của Lữ Lân sắp chém đến nơi, ngọn đèn nọ đã bay bổng lên nóc động, tức thì lại nghe thấy có tiếng cười to rằng:

- Thằng bé đáng ghét kia, ngươi muốn đối địch với ta, quả nằm mộng giữa ban ngày.

Lữ Lân vội dừng chân đứng lại, ngửa mặt nhìn lên, thấy nóc động cao đến ba trượng, cậu ta xét thấy tài khinh công của mình không làm sao vọt người lên được đến trên đó, nên đành lên tiếng đáp rằng:

- Tôi rất chán ghét ánh lửa chập chờn kia, nhưng giờ thì ông hãy nói tiếp đi nào.

Vừa nói, nhưng Lữ Lân đã toan tính hành động kế tiếp, hầu đối kháng với kẻ thù.

Giọng nói ấy bèn nói tiếp rằng:

- Gần đây cha mẹ ngươi đã bằng lòng nhận áp tải cho người ta một món vật đến Cô Tô, món vật ấy có lẽ ngươi cũng được biết rồi chứ? Lữ Lân nghe qua không khỏi giật mình, cậu thầm nghĩ rằng: "Té ra đối phương bắt sống mình mang tới nơi này, lại chính có tương quan đến việc ấy." Bởi thế cậu ta bèn lên tiếng hỏi:

- Nếu tôi được biết thì sao? Giọng nói ấy đáp rằng:

- Nếu ngươi biết thì tốt lắm, nơi đây ta có một phong thư trao cho ngươi, để ngươi mang đến trao cho cha mẹ ngươi. Sau khi ngươi rời khỏi nơi này, phải lập tức đi tìm cha mẹ ngươi ngay, đồng thời phải đưa phong thư đến tận tay họ trước khi họ đến Cô Tô. Bằng trái lại, chắc chắn ngươi không làm sao thoát được cái chết.

Lữ Lân nói:

- Như vậy không được, vì hiện nay tôi chẳng rõ tôi đang tại đâu, hơn nữa tôi biết rằng nếu cha mẹ tôi bắt đầu lên đường, chắc chắn rằng ông bà đi rất nhanh, vậy tôi làm sao theo kịp trước khi hai ông bà đi đến Tô Châu? Giọng nó ấy cất tiếng cười to ha ha đáp:

- Điều đó không cần chi ngươi phải lo ngại, vì suốt ngày hôm nay ngươi đã được người đưa đi một hành trình dài, do đó hiện nay ngươi đang ở gần thành Tô Châu rồi, vì thế ngươi chỉ cần ra khỏi sơn động này, đi chẳng mấy chốc sẽ đến ngoại ô thành Tô Châu và ở đấy chờ đón cha mẹ ngươi là được.

Lữ Lân đứng trơ người ra một lát, trong lòng không ngớt băn khoăn về chỗ chỉ nghe được tiếng nói của đối phương chứ không nhìn thấy thấy con người của đối phương ra sao cả, vì lúc ấy trong ngôi sơn động tối này, ngoài đốm lửa màu xanh lục chập chờn và bản thân cậu ta ra, còn thì chung quanh đều trống trơn, không biết đối phương ẩn mình nơi nào.

Trong khi đó, tiếng nói của đối phương rõ ràng là trong sơn động phát ra, nên lại càng làm cho Lữ Lân lấy làm la, bởi thế cậu ta thầm nghĩ: "Tại sao mình không lên tiếng hứa với đối phương, để chờ cho đối phương đưa phong thư ra, nhân đó mình sẽ trông thấy được hình dáng của hắn, để xem hắn ta là một con người như thế nào?" Hơn nữa, dù sao cậu ta cũng cần thoát khỏi sơn động tối tăm này và khi gặp được cha mẹ mọi việc sẽ được cha mẹ cậu lo.

Bởi thế Lữ Lân bèn khẽ gật đầu đáp:

- Được, tôi xin hứa với ông việc đó, vậy phong thư ở đâu, ông hãy đưa cho tôi đi nào.

Giọng nói ấy trả lời rằng:

- Thằng bé kia, ngươi đã vào sơn động này rồi, kể như ngươi đã bị trúng một loại chất độc vô cùng nguy hiểm, vậy nếu ngươi định giở trò chi với ta chắc chắn ngươi sẽ bị mất mạng một cách vô cùng đau đớn.

Lữ Lân sốt ruột nói:

- Nhưng bức thư ấy đâu nào? Gọng nói ấy đáp:

- Ngươi sốt ruột chi thế? Lữ Lân đinh ninh rằng khi đối phương trao phong thư ra cho mình, chắc chắn phải xuất hiện để chàng ta trông thấy, nhưng nào ngờ việc quái dị lại xảy ra ngay lúc ấy, vì khi tiếng nói của đối phương vừa dứt bỗng từ trên nóc sơn động đã thả xuống một phong thư màu đỏ từ từ bay nhẹ nhàng, rớt xuống mặt đất.

Lữ Lân trông thấy thế không khỏi sửng sốt, đứng trơ người ra một lúc lâu không nói chi được cả.

Giọng nói ấy lại vọng đến rằng:

- Ngươi hãy mau nhặt phong thư, rồi đi theo con đường này để ra khỏi sơn động.

Mãi đến giờ phút này, Lữ Lân vẫn không làm sao biết được số người mang mình đến đây là ai, cũng như người đang đối thoại với mình là người nào. Do đó cậu ta chỉ có cách nghe theo lời của đối phương, cúi người nhặt lấy phong thư rồi đứng thẳng lên. Sau đó cậu ta bỗng thấy ánh đèn từ trên cao hạ thấp xuống, và chỉ còn cách mặt đất một trượng, rồi từ từ di động về phía trước. Thế là Lữ Lân liền hối hả rảo bước đi theo sau.

Cậu ta đi tới chẳng bao lâu và sau khi đã qua đến bảy tám khúc quanh, trông thấy trước mặt mình có một khung cửa bằng sắt, Lữ Lân chưa kịp thò tay xô cánh cửa nặng nề thì nó đã tự động mở toang ra, đồng thời ánh đèn nọ cũng chớp lên rồi tắt mất.

Lữ Lân tuy đã gặp bao nhiêu chuyện quái dị vừa xuất hiện bên trong sơn động, nhưng cậu ta xét thấy bản thân mình chưa hề bị đối phương gây thương tích chi cả, thế mà qua câu nói của người bí mật bên trong sơn động, bảo là cậu ta hiện nay đang trúng phải một độc chất vô cùng nguy hiểm, vậy chẳng biết đó là sự thực hay chỉ là một sự đe dọa mà thôi? Song dù sao đi nữa khi đã thấy một con đường thoát thân rồi, nên cậu ta vội vàng nhún mạnh đôi chân lao thẳng ra khỏi khung cửa sắt.

Và khi thân người của Lữ Lân vừa lướt ra khỏi khung cửa sắt ấy chẳng bao lâu, bỗng nghe một tiếng rầm to vọng đến, bởi thế cậu ta không khỏi giật mình, quay đầu nhìn lại và một lần nữa cậu ta hết sức kinh hoàng hoảng hốt.

Thì ra lúc bấy giờ cậu ta không còn trông thấy cánh cửa sắt ấy ở đâu nữa cả, mà nơi ấy chỉ có tảng đá gồ ghề y hệt như những nơi khác trong núi. Hơn nữa bên trên những tảng đá ấy lại có cỏ mọc um tùm tốt tươi.

Lữ Lân đưa mắt nhìn khắp chung quanh, thấy mình đang đứng trên một đỉnh núi cao lắm và cạnh đấy có một con đường mòn dẫn thẳng xuống núi.

Lúc bấy giờ trăng đêm sáng vằng vặc, sao thưa không ngớt nhấp nháy đầy trời.

Lữ Lân bất giác nói lẩm bẩm một mình rằng:

- Chẳng lẽ ta đang nằm mộng hay sao? Tuy cậu ta nói lẩm bẩm một mình, nhưng nào ngờ có kẻ lên tiếng đáp ngay câu nói của cậu ta, rằng:

- Ngươi chẳng phải nằm mộng đâu.

Gọng ấy ở sát bên cạnh Lữ Lân nên cậu ta không khỏi kinh hoàng, quay phắt người lại rồi vung ngọn đao thép Miến Điện trong tay quét thẳng về phía đó nghe một tiếng vút.

Nhưng thế đao của cậu ta mới đi nửa chừng, bất thần không còn nghe tiếng gió rít, mà cũng không thể tiếp tục quét tới được nữa, chứng tỏ nó đã bị đối phương kẹp cứng rồi.

Bởi thế Lữ Lân vô cùng kinh hãi, vội đưa mắt nhìn kỹ lại, quả nhiên trông thấy mọi việc đang xảy ra trước mắt đều không ngoài sự xét đoán của cậu ta.

Vì ngay lúc ấy có một thân hình cao lớn, mặt được che kín, mình mặc y phục đen, dùng hai ngón tay trỏ và giữa kẹp cứng lấy ngọn đao thép Miến Điện của cậu ta.

Lữ Lân trông thấy vậy, cố sức giật mạnh ngọn đao thép trở về nhưng không làm sao giật thoát ra được.

Người ấy bèn lên tiếng nói:

- Ngươi hãy yên lòng, ta không khi nào sát hại ngươi đâu, nếu ta thật sự muốn sát hại ngươi thì với trình độ võ công của ngươi thử hỏi nào đỡ nổi một thế đánh của ta chứ? Lữ Lân nghe giọng nói của đối phương hết sức ôn hòa, nên cũng thấy đỡ lo, nhưng vì cậu ta mới ra khỏi ngôi sơn động bất giác lại gặp phải một nhân vật che mặt như thế này, nên trong lòng không khỏi hết sức kinh dị lên tiếng hỏi:

- Ông... ông có phải là người đã lên tiếng nói chuyện với tôi bên trong ngôi sơn động ấy không? Người che mặt cất tiếng cười đáp:

- Tất nhiên là không phải, ta đây họ Đàm, vậy ngươi hãy gọi ta là Đàm bá bá được rồi.

Lữ Lân nói:

- Chả lẽ ông có quen biết với phụ thân tôi hay sao? Người che mặt khẽ lắc đầu nói:

- Ta hoàn toàn không được quen biết trước với lệnh tôn, nhưng ta lớn tuổi hơn ngươi nhiều, vậy chả lẽ đến hai tiếng "bá bá" mà ngươi cũng không chịu gọi hay sao? Nói đoạn, người ấy bèn buông lỏng hai ngón tay đang kẹp chặt lấy ngọn đao thép ra, do đó Lữ Lân vội vàng thu ngọn đao trở về, rồi đeo gọn vào sườn. Cậu ta thấy đối phương không có ác ý muốn sát hại mình, nhưng vì chưa tìm hiểu được lai lịch đối phương nên lại lên tiếng hỏi:

- Đàm bá bá, thế bác làm sao biết được là tôi không phải đang nằm mộng? Chả lẽ bác cũng từ bên trong sơn động ấy ra hay sao? Nếu tôi chẳng phải nằm mộng, tại sao cánh cửa sắt vừa rồi tôi vừa bước ra khỏi là không còn trông thấy nó nữa? Người che mặt đáp:

- Nếu nói trắng ra, việc ấy chẳng có chi lạ lùng cả vì bên ngoài khung cửa sắt ấy được nghi trang bằng một tảng đá to rất khéo léo, nên khi cánh cửa đóng kín lại người ngoài nhìn vào chẳng thể trông thấy được một điểm nào khả nghi.

Lữ Lân ồ lên một tiếng dài nói:

- Té ra là thế, nhưng này Đàm bá bá, tại sao vừa rồi bên trong ngôi sơn động, tôi được thấy có rất đông người thế mà chỉ trong chớp mắt sau là số người ấy lại biến đi đâu mất cả? Người che mặt cất tiếng than dài đáp:

- Việc ấy ta cũng không biết được rõ ràng, nhưng ta tin chắc rằng mọi việc ngươi vừa mục kích được chẳng phải là một hiện tượng do quỷ thần chi làm ra cả.

Lữ Lân mỉm cười đáp:

- Lẽ tất nhiên, tôi cũng biết đấy không phải là những trò trêu cợt của quỷ thần, vì nếu đối phương là quỷ thần tại sao còn bảo tôi phải mang thư đến cho cha mẹ tôi nữa? Đôi mắt sáng của người che mặt nhìn chăm chú vào Lữ Lân một lúc nói:

- Quả cọp cha thì không sinh chó bao giờ, mọi việc mà ngươi mục kích bên trong ngôi sơn động khi nãy chắc chắn hết sức quái dị, thế mà ngươi lại tỏ ra chẳng hề biết kinh khiếp như vậy, cũng đủ thấy ngươi là kẻ bạo dạn can đảm hơn nhiều đứa bé khác.

Lữ Lân nhớ lạ vừa rồi, khi vừa nhìn thấy những việc quái dị bên trong ngôi sơn động ấy đã sợ đến toát mồ hôi lạnh khắp người, nên không khỏi thẹn thầm, sắc mặt cũng bừng đỏ như gấc.

Người che mặt lên tiếng nói:

- Nhân vật bên trong ngôi sơn động ấy tuy ta đã biết được, song vẫn không làm sao có thể nói rõ cho ngươi biết ông là người như thế nào. Giờ đây chẳng hay ngươi có bằng lòng đưa bức thư mà ông ta bảo ngươi mang về đưa cho cha mẹ cho ta xem qua? Lữ Lân lộ sắc đắn đo nói:

- Đàm bá bá, bác...

Người che mặt cất tiếng cười nói:

- Ngươi hãy yên lòng, vừa rồi ta đã bảo là không khi nào có ý hại ngươi đâu, vì nếu ta có ý hại ngươi, ta chỉ cần dùng vũ lực đoạt lấy phong thư ấy, chắc chắn ngươi vẫn không làm sao đối kháng lại được với ta. Giờ đây chỉ cần ngươi trao lại bức thư ấy cho ta, chẳng những ngươi hoàn toàn vô hại và ngay đến phụ mẫu ngươi cũng rất có lợi kia.

Lữ Lân nghe thế, trong lòng không khỏi thoáng có một ý nghĩ, nên lên tiếng hỏi:

- Hiện giờ cha mẹ tôi đang ở đâu? Người che mặt đáp:

- Hai ông bà ấy hiện đã rời khỏi thành Nam Xương, nhưng chắc chắn trên đường đi họ bị nhiều người gây sự lắm, do đó hành trình không khỏi chậm trễ. Hiện giờ ta cần phải đi gặp bọn họ để báo cho họ biết là đại họa sắp đến với bọn họ rồi.

Lữ Lân nghe thế không khỏi hết sức kinh hoàng nói:

- Sắp có đại họa đến với cha mẹ tôi à? Nhưng cậu ta lại lắc đầu nói tiếp rằng:

- Không thể có như vậy được, vì hai ông bà là người có trình độ võ công hết sức cao thâm, vậy thử hỏi còn biết sợ ai nữa? Người che mặt cất tiếng than dài, đưa một bàn tay lên vỗ nhẹ vào lưng Lữ Lân:

- Tuổi ngươi hãy còn nhỏ, nên có rất nhiều việc ngươi chưa được biết, lần này trong việc ấy sẽ lôi kéo đến nhiều bậc cao thủ thượng thặng trong võ lâm, do đó nếu cha mẹ ngươi không kịp thời rút khỏi ra vòng thị phi, e rằng khó tránh khỏi cái họa diệt thân đấy.

Lữ Lân là đứa bé thông minh, hơn nữa qua lời đối thoại với người che mặt, cậu ta đã nhận ra đối phương chính là một bậc trưởng thượng có tánh rất trung hậu chứ chẳng phải là người có lòng dạ xấu xa, bởi thế cậu ta mới vội vàng lên tiếng:

- Đàm bá bá, việc mà bác nói đến ấy có phải là việc cha tôi nhận áp tải một món vật cho người ta để đưa đến Tô Châu đấy không? Người che mặt khẽ gật đầu đáp:

- Đúng thế, chính là việc ấy, ôi cha mẹ ngươi đã bị danh vọng làm hại, và nếu chẳng phải thế đâu dễ chi bị kẻ khác lợi dụng, để đi mạo hiểm đi đứng giúp cho đối phương như vậy? Lữ Lân tuy đã biết vật ấy từ lúc đầu, nhưng đối với toàn bộ việc ấy cậu ta vẫn không làm sao hiểu rõ, nên vội vàng nói:

- Đàm bá bá, sự thực là việc chi thế? Chẳng hay bác có thể nói rõ cho tôi nghe được không? Người che mặt đáp:

- Hiện giờ ta vẫn chưa hoàn toàn biết rõ được, nhưng ta tin rằng tất có ngày mọi việc sẽ được phơi trần ra ánh sáng.

Lữ Lân nghe giọng nói của người che mặt tỏ ra hết sức trịnh trọng, nên cũng thấy không tiện hỏi thêm chi.

Người che mặt lại nói tiếp:

- Ngươi hãy đưa phong thư ấy cho ta xem đã.

Lữ Lân suy nghĩ một lúc mới thò tay vào áo lấy phong thư ra.

Người che mặt nhận lấy phong thư rồi nhanh nhẹn xé ra nghe một tiếng roẹt, rút tờ thư bên trong phong bì ra, ngoắt Lữ Lân đến nói rằng:

- Ngươi cũng bước đến đây cùng xem với ta.

Lữ Lân vội vàng bước đến, đưa mắt nhìn thấy trên tờ giấy ấy có viết mấy dòng chữ rất ngay ngắn rằng: "Kính gởi Lữ Tổng tiêu đầu, Hiện nay ông đang nhận lời áp tải cho người ta một món hàng quan trọng, và với uy danh của ông, thật ra tại hạ tuyệt nhiên không dám có ý nghĩ liều lĩnh.

Song, hiện nay lệnh lang đang trúng một chất độc vô cùng nguy hiểm, khắp trong thiên hạ chắc chắn không ai có thể giải trừ nổi, vậy nếu ông bằng lòng trao món vật đang áp tải cho lệnh lang mang đến đây, tôi sẽ vui lòng giúp lệnh lang giải trừ ngay. Trái lại, ắt hẳn tính mệnh của lệnh lang sẽ bị nguy hiểm.

Mong ông hãy suy nghĩ cho thật chín chắn, tuyệt đối chớ nên để lỡ thời giờ. Và mọi việc xảy ra xin hỏi lệnh lang thì sẽ biết rõ." Lữ Lân xem qua không khỏi sửng sốt, đứng trơ ra một lúc thực lâu mới lên tiếng hỏi:

- Đàm bá bá, tôi thật sự đã bị trúng độc chất rồi hay sao? Người che mặt khẽ gật đầu đáp:

- Lẽ tất nhiên không thể có việc ấy được, vì theo như ta được biết, người ấy có lòng dạ thực tốt, không đến đỗi lại xuống tay hại ngươi như vậy.

Nói đoạn, người che mặt lại cất tiếng than dài, rồi nói lẩm bẩm như chỉ để một mình ông ta nghe rằng:

- Ta ngỡ là ông ta nhiều năm qua đã mất hết ý chí hào hùng thuở trước, nhưng chẳng ngờ ông ấy lại còn muốn xuất đầu lộ diện để hoạt động nữa.

Lữ Lân đưa mắt chăm chú nhìn vào người che mặt nói:

- Đàm bá bá, bác đang nói về ai thế? Người che mặt cất tiếng than đáp:

- Chẳng có chi cả. Riêng phong thư này ngươi cũng chẳng cần trao cho cha mẹ ngươi nữa.

Lữ Lân hỏi:

- Nếu vậy tôi cũng sẽ chẳng gặp phải điều chi hại đấy chứ? Lữ Lân nhớ lại những việc mình vừa mục kích được bên trong sơn động, tỏ ra hết sức quái đản đáng khiếp sợ, nên trong lòng hãy còn phập phồng, nhưng người che mặt đã tươi cười nói rằng:

- Ngươi hãy yên lòng, ta không khi nào gạt ngươi đâu, giờ đây ngươi hãy theo ta đến gặp cha mẹ ngươi đã.

Lữ Lân vui mừng đáp:

- Nếu thế, có lẽ cha mẹ tôi hiện giờ ở gần đây hay sao? Người che mặt đáp:

- Đúng thế, ngươi hãy theo ta rồi sẽ rõ.

Dứt lời ông ta bèn thò tay ra kéo lấy một cánh tay của Lữ Lân, nhanh nhẹn chạy bay về phía trước.

Lữ Lân bị người che mặt kéo chạy như bay, hai bên vành tai gió rít vèo vèo, và chẳng mấy chốc sau cả hai đều dừng chân đứng yên lại.

Người che mặt bỗng lên tiếng ngạc nhiên nói:

- Ủa...! Ngươi hãy đứng yên chờ ta một chốc và tuyệt đối không nên lên tiếng nói, hoặc hành động chi cả.

Lữ Lân biết người che mặt này chính là một bậc võ lâm tiền bối, nên cậu ta đã đặt hoàn toàn tín nhiệm vào đối phương, bởi thế điều chi Lữ Lân cũng nghe theo lời, vội vàng tìm đến sau một gốc cây to ẩn kín thân mình.

Người che mặt nói vừa dứt lời, liền chạy bay về phía trước, vì lúc ấy ông ta trông thấy hai người ăn mặc vô cùng quái dị, đầu đội mũ cao, trông chẳng khác chi hai con quỷ vô thường, đang hành động có vẻ thập thò như muốn làm điều chi bất lương.

Do đó, người che mặt bèn nhắm ngay hướng chúng lao thoát tới, rồi chộp cổ xách bổng chúng lên một cách dễ dàng, thì ra hai gã đàn ông ăn mặc như hai con quỷ vô thường ấy chính là môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh tên gọi là Hắc Bạch Vô Thường.

Lúc bấy giờ sự thực thì Lữ Lân chỉ đứng cách xa Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không đến nửa dặm đường, nhưng chỉ đáng tiếc là Lữ Lân hoàn toàn không hay biết việc đó, và ngay đến Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng thế.

Lữ Lân thấy người che mặt đã lướt đi thì đứng yên một chỗ, không hề dám nhúc nhích, và qua một lúc khá lâu, bỗng cậu ta nghe về phía hướng sơn động mà cậu ta vừa thoát khi nãy có năm tiếng hú trong trẻo, ba dài hai ngắn vọng đến bên tai.

Những tiếng hú ấy xé tan sự tĩnh mịch của đêm khuya, bay lâng lâng giữa khoảng trời cao, khiến ai nghe đều không khỏi giật mình kinh hãi.

Giữa lúc tiếng hú ấy chưa dứt, Lữ Lân đã trông thấy người che mặt phi thân lướt tới nhẹ nhàng như một đợt khói, thân pháp của ông ta nhanh nhẹn không thể tả, nên chỉ trong chớp mắt sau là đã tiến đến trước mặt Lữ Lân, hối hả nói:

- Mau! Ngươi hãy chạy mau! Mau lên! Lữ Lân nghe qua giọng nói của ông ta, có vẻ như đang hết sức sợ hãi, không biết đã xảy ra việc chi rồi, vội vàng lên tiếng hỏi:

- Đàm bá bá, giờ đây không đi gặp cha mẹ tôi hay sao? Người che mặt đáp:

- Tạm thời chúng ta chớ nên gặp mặt họ thì hơn, ngươi hãy mau đi một mình tới Tô Châu trước, và khi đến được Tô Châu rồi ngươi cũng chớ nên đi đứng bừa bãi, trái lại hãy nên lợi dụng đêm tối, đi gấp đến ngọn núi Hồ Khưu và tìm đến một tảng đá to nhất ở trên ngọn núi ấy ngồi yên chờ đợi. Khi ngươi trông thấy có một người con gái đi tới thì nên biết người con gái ấy chính là con ta, nó tên gọi là Đàm Nguyệt Hoa. Ngươi nên nói cho nó biết là ngươi được ta bảo đến đó ngồi chờ để gặp nó, tất nó sẽ xếp đặt mọi việc giúp cho ngươi. Trên đường đi chớ nấn ná để mất thời giờ, vậy ngươi hãy mau đi đi.

Người che mặt hối hả nói xong, bèn nhún đôi chân lao thoắt đi như một cơn gió hốt, chỉ trong nháy mắt là đã lướt đi xa ngoài ba trượng.

Lữ Lân nghe giọng nói của người che mặt tỏ ra mọi việc đang xảy đến vô cùng nghiêm trọng, hơn nữa giọng của ông ta lại có một sức uy nghi khiến người nghe không dám cãi lại, do đó Lữ Lân bèn đắn đo trong giây lát, rồi nhằm hướng Tô Châu chạy như bay.

Sau khi vượt đi chẳng bao xa, Lữ Lân chợt nhớ lại vừa rồi người che mặt có bảo, là ông ta dẫn mình đi gặp mặt cha mẹ mình, vậy chắc chắn cha mẹ mình cũng ở gần đâu đây chứ chẳng xa, nếu hai ông bà có ý định đi đến Tô Châu, đôi bên đều cùng một đường, vậy sao ông không để lại một mảnh giấy hầu báo cho hai ông bà biết hướng mình đi để khỏi lo lắng? Vì nghĩ thế nên Lữ Lân bèn thò tay vào áo, lấy ra một tấm giấy nhỏ, rồi lai dùng một chiếc bật lửa đốt cháy thành than một que cây khô, viết lên mặt giấy rằng: "Cha má, hiện con đang đi đến Tô Châu, vậy xin cha má chớ quá lo lắng. Lân nhi kính bút." Sau khi viết xong, Lữ Lân bèn leo lên một ngôn cây cao cạnh đấy, định gắn mảnh giấy ấy vào một cành cây, nhưng cậu ta lại sợ bị gió thổi bay đi nên mới thò tay vào sườn lấy thanh đao thép Miến Điện ra, cắm chặt mảnh giấy ấy vào thân cây cho thực chắc.

Lữ Lân đoán biết, nếu cha mẹ mình đi ngang qua đây chắc chắn sẽ gặp thanh đao và mảnh giấy và do đó sẽ biết phương hướng của mình đi, không còn lo ngại cho mình nữa.

Khi mọi việc xong xuôi, Lữ Lân bèn nhảy xuống khỏi ngọn cây, rồi hối hả đi thẳng về hướng Tô Châu bất kể ngày đêm. Sau khi Lữ Lân đã đi, quả nhiên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương phát giác ngọn đao thép Miến Điện và tấm giấy mà cậu ta để lại.

Nhưng cả hai ông bà đều không thể đọc được những chữ của Lữ Lân viết, vì lúc ấy đã có kẻ xóa mất dòng chữ ấy trước rồi.

Kẻ đã bí mật xóa mất dòng chữ lưu bút của Lữ Lân, tựa hồ muốn làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều hiểu lầm là hiện nay Lữ Lân không còn sống trên dương trần này nữa.

Riêng Lữ Lân suốt trên đường đi Tô Châu, vì cậu ta là một cậu bé, nên cũng không ai chú ý đến và khi tới thành Tô Châu, cậu ta bèn nghe theo lời dặn dò của người che mặt, tìm đến tảng đá to trên ngọn núi Hồ Khưu, để ngồi chờ cô gái tên họ là Đàm Nguyệt Hoa.

Chẳng mấy chốc sau, quả nhiên Lữ Lân trông thấy một cô gái hối hả chạy bay bay đến nơi, vội tưởng đối phương là Đàm Nguyệt Hoa, nhưng chẳng ngờ cậu ta đã gặp Hàn Ngọc Hà, nên mới chịu bao nhiêu sự bạc đãi như đã nói.

-oOo-

Lữ Lân nằm yên trong khoang thuyền, nhớ lại mọi việc đã xảy ra sau khi mình rời khỏi nhà ra đi, trong lòng cảm thấy vô cùng rối rắm, thực chẳng khác chi một cuộn tơ vò, không biết đâu là manh mối.

Hơn nữa, trong cuộc đánh nhau với Hàn Ngọc Hà ở trên ngọn tháp cổ, cậu ta bị trọng thương khắp cả thân mình, nên ê ẩm đau đớn không thể tả xiết, do đó cậu ta bất giác cất tiếng rên rỉ.

Tiếng rên của Lữ Lân vừa cất lên khỏi miệng, người đàn ông to béo lại thò đầu vào khoang thuyền cười nói:

- Thằng bé kia, trong lúc ngươi còn ở ngọn tháp trên núi Hồ Khưu, xem ngươi có vẻ cứng cỏi gan dạ lắm, thế tại sao giờ đây lại cất tiếng rên la? Ngươi không thể chịu nổi sự đau đớn chăng? Lữ Lân nghe thế, sắc mặt không khỏi bừng đỏ đáp:

- Này chú béo, số người của chú đã cứu tôi đến nơi này, song chẳng biết có thể chữa được thương thế của tôi không? Người đàn ông to béo cười ha hả đáp:

- Chỉ khéo hỏi bá láp.

Lữ Lân nghe qua câu trả lời ấy, ngơ ngác không hiểu ý nghĩa ra làm sao, trong khi cậu ta định lên tiếng hỏi, người đàn ông to béo ấy đã nói tiếp rằng:

- Bảy anh em chúng ta tuy không có tài quán tuyệt thiên ha, nhưng nếu không thể chữa lành thương thế tầm thường của ngươi, còn đáng là gì nữa? Lữ Lân nghe thế mới tạm yên lòng, đồng thời cậu ta đang định lên tiếng nói chuyện tiếp, bỗng nghe từ trên bờ hồ có người cao giọng hát rằng: "Thuở trước Trúc Lâm xưng Thất Hiền, Rượu say nằm ngửa chửi đời điên.

Ngày nay Trúc Lâm xưng Thất Tiên, Ngao du đây đó vui triền miên! Ngài chẳng thấy: Lạc cảnh kẻ mê là khổ hải, Bi thương người ngộ ấy niềm vui? Khổ vui tuy khác nhưng là một, Mê, ngộ dù hai ấy một thôi!" Ngoài người cao giọng cất tiếng ca ra, Lữ Lân còn nghe có một số người nữa đang vỗ tay làm nhịp, đồng thời lại nghe có tiếng giày cỏ bước trên đất nghe lẹp xẹp rất đông. Và chẳng mấy chốc sau, tiếng động ấy cứ mỗi lúc nghe một gần hơn.

Lữ Lân nghe lời ca tỏ ra rất nhẹ nhàng thoát tục, đoán biết sáu người khác trong nhóm Trúc Lâm Thất Tiên đã về đến nơi, song lúc ấy cậu ta đang nằm trong khoang thuyền, nên không làm sao trông thấy rõ họ được.

Liền đó tiếng ca bỗng dừng lại, rồi nghe có người nói:

- Đại ca, mấy món thuốc đã tìm đủ cả đây rồi, giờ thì đến lượt anh lo sắc vậy.

Người đàn ông to béo ở dưới thuyền lên tiếng hỏi:

- Về đến nơi sao các ngươi không xuống thuyền, còn ở trên bờ chờ chi nữa? Vẫn giọng nói khi nãy đáp:

- Người chủ trên ngôi tháp ở Hồ Khưu mà chúng ta gặp trong đêm qua, chắc chắn đêm nay lại đến tìm chúng ta, vậy chả lẽ chúng ta không bàn cách đối phó hay sao? Người đàn ông to béo cười nói:

- Giữa thanh thiên bạch nhật, ánh thái dương chiếu rọi ấm áp như thế này, mà lại lo nghĩ đến chuyện tối nay làm gì cho mệt? Kế đó, lại nghe có người cất tiếng cười to hả hả nói:

- Này, anh hãy chụp lấy, đây chính là thứ rượu Nữ Nhi Hồng đó.

Tức thì lại nghe một tiếng phịch, Lữ Lân đoán biết dường như số người ở trên bờ đã ném xuống thuyền một vật chi.

Lữ Lân nghe lời đối thoại giữa đôi bên, tỏ ra rất thanh cao nhàn tản, khiến bao nhiêu phiền muộn trong lòng cậu ta cũng tiêu tán cả đi, đồng thời cậu ta thấy nếu đem thái độ ấy của Trúc Lâm Thất Tiên so sánh với những việc thần bí quái đản mà cậu ta đã gặp trong ngôi sơn động nọ, cũng như khung cảnh đáng khiếp sợ ở trên đỉnh ngọn tháp Hồ Khưu, quả cách biệt nhau một trời một vực.

Do đó, trong lòng Lữ Lân không khỏi hết sức ngưỡng mộ, tạm thời quên mất bao nhiêu sự đau đớn trong người, cậu ta gắng gượng chỏi đôi tay đứng lên, rồi lần theo bàn ghế bước ra trước cửa thuyền, cậu ta đưa mắt nhìn về phía bờ hồ, trông thấy có sáu người cao thấp không đều nhau đang đứng yên tại đấy.

Thái độ của sáu người ấy trông hết sức khoan thai vui vẻ, nhàn tản ung dung, xem ra không có gì bận tâm cả, riêng người đàn ông to béo dưới thuyền đang bưng một cái hồ lô màu đỏ tía, há họng uống từng ngụm nghe ừng ực.

Lữ Lân vừa mới bước đến cửa mui thuyền, thì đã có người trông thấy được lên tiếng nói:

- Thằng bé kia, sao ngươi không nằm yên dưỡng thương, đi đứng làm chi thế? Người ấy vừa dứt lời liền đưa chân bước thẳng lên mũi thuyền.

Tuy lúc bấy giờ, người ấy vốn đang đứng trên bờ, còn chiếc thuyền mặc dù đậu sát mé nước, song hãy còn cách bờ khoảng bảy tám thước, thế mà người ấy không hề nhún chân nhảy, mà cũng không hề lao người lướt đi, trái lại chỉ bước nhẹ nhàng là đã bước lên mũi thuyền rồi.

Khi bước đến gần Lữ Lân, người ấy bèn thò tay chộp lấy Lữ Lân, xách bổng ra khỏi mui thuyền, do đó Lữ Lân cảm thấy khắp cả người đều bị đau đớn không thể tả.

Tuy nhiên, cậu ta vẫn nghiến chặt đôi hàm răng chịu đựng, chẳng hề lên tiếng rên la, dù khuôn mặt đã méo xệch, trông vô cùng xấu xí.

Lữ Lân cố nhịn đau, đưa mắt nhìn kỹ người ấy, trông thấy đối phương có vẻ nho sinh, mình mặc áo dài xanh đã bạc màu.

Và khi người ấy xách bổng Lữ Lân lên cao, bất thần buông lỏng năm ngón tay ra khiến cậu ta từ trên té ầm trở xuống ván thuyền.

Tuy người ấy không hề dùng sức mạnh ném Lữ Lân xuống, nhưng vì lúc ấy khắp người Lữ Lân đang mang thương tích, nên vừa té xuống mặt thuyền, cả thân người đều đau đớn không thể tả, cơ hồ từng đốt xương một đang rời ra, đôi mắt té lửa suýt ngất lịm.

Nếu Lữ Lân không biết số người chung quanh chính là những người đã cứu thoát mình ở ngọn núi Hồ Khưu, có lẽ cậu ta đã nghĩ người thư sinh này đang có ác ý muốn sát hại mình chăng? Nhưng Lữ Lân tin chắc rằng Trúc Lâm Thất Tiên đã cứu mình thoát nạn, vậy tuyệt đối không khi nào họ xuống tay hạ sát mình bao giờ.

Song nhìn qua hành động của người thư sinh này thì cậu ta không khỏi hoang mang, không hiểu đối phương có dụng ý chi.

Tuy nhiên, cậu ta vẫn một mực cắn chặt lấy vành môi dưới, cố gắng đè nén cơn đau buốt trong người, chẳng hề rên la một tiếng nào cả.

Người thư sinh ấy trông thấy thế, bèn lộ sắc tươi cười nói:

- Thằng bé ngươi quả là cứng cỏi, gan dạ hiếm có lắm.

Vừa nói, nhưng người ấy vừa dùng đầu bàn chân hất mạnh Lữ Lân bay bổng lên cao ba thước, đồng thời sau khi cả thân người Lữ Lân bay bổng lên, ông ta lại không thò tay chụp lấy mà trái lại nhảy lùi ra xa.

Lữ Lân trông thấy thế, không khỏi sợ hãi, thét lên một tiếng thất thanh vì cậu ta nghĩ rằng: "Nếu mình té trở xuống mặt ván thuyền một lần nữa, chắc chắn không tài nào chịu đựng nổi sự đau đớn." Do đó, cậu ta đang định xoay mạnh đôi chân để gắng gượng đứng vững trên mặt ván, hầu tránh khỏi bị té như khi nãy...

Song, ngay lúc ấy thì năm người còn đứng trên bờ, bỗng đồng thanh nói to lên rằng:

- Thằng bé kia, ngươi chớ nên hành động liều lĩnh vì nếu ngươi chịu đựng nổi mọi sự đau đớn đến với ngươi, là một dịp may hiếm có đối với ngươi rồi đó.

Lữ Lân nghe thế như chợt hiểu ra điều gì, nên không dám cử động thân người, để xuôi tay chân té ầm trở xuống mặt ván thuyền một lần nữa.

Lần này, cậu ta cảm thấy bị té càng nặng nề hơn khi nãy, nên khắp thân người đau đớn vô ngần.

Lữ Lân vốn không có ý muốn cất tiếng rên la, nhưng vì quá đau đớn, nên hai dòng lệ tự tuôn trào rồi buột miệng kêu lên "ối chao".

Lúc ấy, người thư sinh nọ bèn cất tiếng cười, rồi thò tay vào áo lấy ra một cây bút lông dài chừng một thước mộc, cán bút do loài trúc tía làm nên.

Đầu bút lông ấy có ngòi bằng lông, dài độ một tấc, trông vô cùng mềm mại.

Sau đó, người thư sinh bèn vung bút lên, quét thẳng về phía trước mặt Lữ Lân, tức thời Lữ Lân cảm thấy những sợi lông nhỏ rức trên đầu ngọn bút không ngớt chớp thành một vầng ánh sáng lập lòe trước mặt, và nhằm điểm thẳng vào mười tám huyệt đạo trên khắp khuôn mặt cậu ta, chiều dọc bắt đầu từ Thượng Tinh đến Thừa Tương, chiều ngang từ huyệt Ty Trúc Phong ở phía tả sang đến huyệt Ty Trúc Phong ở phía hữu.

Bởi thế, Lữ Lân cảm thấy trên mỗi huyệt đạo nơi đó, đều đang có một cảm giác tê dại.

Song, sau cảm giác ấy, cậu ta lại cảm thấy khắp thân người ấm áp như ánh nắng mùa xuân chiếu rọi, rồi lan ra khắp châu thân, nhẹ nhàng sảng khoái không thể tả.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 49 guests