Chương 13: Vụ án thứ 13 - Oan hồn chuồng thú
Mùa xuân năm nay không lạnh lắm.
Mùa đông vừa qua, nhiệt độ đã tăng lên vùn vụt, các loại vi khuẩn thối rữa nhanh chóng sinh sôi khiến tốc độ phân hủy của xác chết nhanh gấp mấy lần mùa đông. Cái mùa khiến cho giới pháp y phải đau đầu đã quay trở lại.
Mỗi lần phải đi công tác, chúng tôi đều chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, luôn mang theo mặt nạ phòng độc và rau mùi.
Chiếc xe đang chạy bon bon trên đường cao tốc. Ngắm nhìn những vạt hoa cải bát ngát ven đường cũng là một sự hưởng thụ. Nhưng trong đáy lòng tôi vẫn thấy nhói đau khi nghĩ đến người cha của cô gái bị hại trong cánh đồng hoa cải mấy năm về trước, không biết bây giờ đang sống ra sao?
Xe vừa xuống khỏi đường cao tốc, chiếc xe cảnh sát nhấp nháy đèn của Công an huyện Phổ Trấn đã đứng đợi ở đầu đường từ bao giờ.
“Chưa động đến hiện trường, nhân viên pháp chứng đang tìm vật chứng từ một số đồ vật.”
Bác sĩ pháp y Tiết bước lên chiếc xe cảnh sát của chúng tôi. “Vụ án lần này khá đặc biệt.”
Phổ Trấn là một huyện miền Nam, thuộc mười huyện giàu mạnh nhất trong tỉnh và trăm huyện giàu mạnh nhất trong nước. Những năm gần đây, kinh tế Phổ Trấn phát triển chóng mặt, đặc biệt là tốc độ mở rộng như vũ bão của ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp giải trí. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh giúp nhân dân được an cư lạc nghiệp. Bao nhiêu năm đi làm, tôi chưa bao giờ tới Phổ Trấn để điều tra hiện trường của một vụ án nào. Vì án mạng hay án gây thương tích ở đây cực kỳ hiếm hoi, thậm chí ngành pháp y Phổ Trấn còn phải kiêm nhiệm cả công tác điều tra, truy bắt đối tượng trộm cắp, lừa đảo.
Công tác kỹ thuật như con thuyền ngược dòng, không tiến sẽ lùi. Nếu rảnh rỗi lâu quá, trước tiên sẽ làm thui chột lòng tin. Sáng sớm hôm nay, sau khi vụ án xảy ra, bác sĩ pháp y Tiết, đội phó đội Cảnh sát hình sự Công an huyện Phổ Trấn đã lập tức gọi điện đến đường dây nóng xin sở Công an tỉnh hỗ trợ chỉ đạo mảng kỹ thuật hình sự cho vụ án mạng này.
Huyện lỵ Phổ Trấn chẳng hề thua kém bất kỳ một thành phố cấp địa khu nào về mặt kiến trúc đô thị. Trung tâm kinh tế toàn cao ốc, khu dân cư gạch trắng ngói đen, một sự kết hợp hoàn mỹ giữa hiện đại và hoài cổ, mang lại nét riêng biệt cho huyện lỵ này. Chỉ có duy nhất một khu dân cư ở phía đông thành phố vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà vẫn còn sót lại vài tòa nhà chung cư nhỏ cũ kỹ xây bằng gạch xanh có từ khi nhà nước mới được thành lập, hiện chỉ lác đác một vài hộ dân sinh sống.
Hiện trường án mạng chính là một trong số những tòa nhà chung cư gạch xanh này.
Những tòa chung cư cũ kỹ trông như trại lính, một hành lang dài chạy ngang nối liền vô số căn hộ, hai đầu trống trải thông thống gió, trông như cái ống nằm ngang, nên thường được gọi là “chung cư ống”.
Kiểu kiến trúc này vốn “thân thiện” hơn rất nhiều so với kiểu “lồng chim” hiện đại, hàng xóm sát vách như người một nhà, sớm tối đều trông thấy nhau, sống chan hòa cùng nhau. Nhưng vì khu nhà cũ kỹ này đã gần như hoang phế, giờ chỉ còn hai căn hộ ở tầng trệt có người ở, còn hiện trường vụ án ở một căn hộ trên tầng bốn. Trong thời buổi đầy cảnh giác hiện nay, khách trọ ở khu này chẳng ai quen biết ai nữa.
Chủ nhân của những căn hộ cũ kỹ ở đây hẳn đều đã chuyển sang những căn hộ mới rộng rãi, đẹp đẽ hơn, giấy tờ nhà chỉ còn là những tờ giấy chứng nhận nằm chờ đền bù khi tòa nhà bị giải tỏa.
Nghe nói từ năm ngoái, có một cô gái trẻ đến sống ở tòa nhà này, thường đi muộn về sớm, hàng xóm hầu như chẳng mấy khi chạm mặt nên không nhớ cô ta trông ra sao. Họ chỉ biết đó là một cô gái rất xinh đẹp, sành điệu, thích mặc quần áo trắng, bước đi nhẹ như không.
Hai tuần trước, khi ông Vương sống một mình ở tầng trệt thức dậy giữa đêm khuya, bỗng nghe loáng thoáng có tiếng khóc khe khẽ ở hành lang, khiến ông sợ đến toát mồ hôi lạnh, không dám đi vệ sinh nữa, cứ trùm kín chăn run cầm cập cả đêm.
Suốt mấy hôm sau đó, ông Vương và cặp vợ chồng trung niên sống cùng tầng trệt đều loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc trong đêm, lúc có lúc không, giống y như tiếng than khóc của oan hồn trong phim kinh dị.
Cả ba người đều nghĩ đến cô gái sành điệu mới chuyển tới vào hai tháng trước. Hay cô ta chính là ma nữ? Nếu không tại sao bước đi lại không có tiếng động? Tại sao lại mặc tuyền đồ trắng? Tại sao tối đến mới thấy ra ngoài? Và những tiếng than khóc ai oán ấy phát ra từ đâu?
Ông chủ căn hộ tầng bốn đang ở Bắc Kinh, không làm sao liên lạc được, sau khi ba người họ bàn bạc, cuối cùng vào một cái buổi chiều nọ, họ đã cùng nhau leo lên tầng bốn tối tăm u ám. Hành lang tầng bốn chồng chất rác rưởi, họ bước qua những đống rác, gõ cửa từng căn hộ.
Không phòng nào có người ở.
Kể cũng lạ, bắt đầu từ đêm hôm đó, họ còn không nghe thấy tiếng khóc than rùng rợn ấy nữa. Chắc là ma nữ đã sợ hãi bỏ chạy mất rồi. Vài hôm sau, mọi người cũng quên bẵng luôn chuyện ấy.
Cho đến hôm qua, khi ông Vương lại thức dậy giữa đêm khuya đi tiểu tiện, chợt loáng thoáng ngửi thấy mùi lạ ở cầu thang? Là mùi của hồ ly tinh? Ông Vương sực nhớ đến con ma nữ xinh đẹp kia, thế là lại chui vào trong chăn gắng nhịn tiểu mà run cầm cập cả đêm.
Sáng sớm, ba người sống ở tầng trệt lại gặp nhau bàn bạc. Họ đều ngửi thấy mùi xú uế bốc lên ở cầu thang. Nhớ đến tiếng khóc ai oán vào hai tuần trước, họ cảm thấy không thể chịu đựng nỗi khiếp đảm này thêm nữa, liền gọi cho 110.
“Sau đó thì sao? Cảnh sát đã phát hiện được gì?” Đại Bảo hẳn đang nghĩ rằng bác sĩ Tiết không nên úp mở vào đúng đoạn then chốt này.
“Sắp tới rồi, chúng ta đến xem sẽ rõ.” Bác sĩ Tiết nhíu mày nói.
Nhìn vẻ mặt của bác sĩ Tiết, tôi biết ngay hôm nay lại phải dùng đến mặt nạ phòng độc và rau mùi.
Quả nhiên, sau khi đi qua trung tâm huyện lỵ nhộn nhịp, chúng tôi đã trông thấy tòa nhà chung cư gạch xanh ấy.
Hiện trường nằm ở nơi khuất nẻo nên không có nhiều kẻ tò mò kéo tới xem. Dưới nhà đỗ mười mấy chiếc xe cảnh sát, vòng dây cảnh giới màu vàng tươi đã ngăn ông Vương và những người hàng xóm ở bên ngoài, chỉ có thể thò đầu ngó nghiêng. Chúng tôi vừa bước tới hành lang, thứ mùi hôi tanh của “hồ ly tinh” đã xộc lên nồng nặc.
Kinh nghiệm công tác nhiều năm đã mách bảo tôi rằng, đây chính là mùi xác chết phân hủy. Còn chưa lên tới tầng bốn, mùi hôi thối đã sặc sụa khắp cả cầu thang, thế là đủ biết tình trạng của thi thể ra sao.
Tuy bên ngoài trời nắng tưng bừng nhưng bên trong tòa chung cư sấp bóng mặt trời vẫn âm u tăm tối, những ngọn đèn cầu thang vàng vọt soi đường cho chúng tôi đi lên tầng bốn.
Rất nhanh, phán đoán của tôi đã được kiểm chứng.
Khi leo lên đến tầng bốn, chúng tôi trông thấy một nữ cảnh sát kỹ thuật cổ lủng lẳng máy ảnh đang ngồi thụp ở đầu cầu thang nôn ọe. Nhìn thấy bãi nôn của cô ta, ruột gan tôi cũng phải nhộn nhạo.
Bước vào hành lang tầng bốn, mùi xác thối lại càng kinh khủng, mấy nhân viên pháp chứng đi giày nhựa, đeo mặt nạ phòng độc đang quét dấu vân tay trên cửa chính.
Bác sĩ Tiết lấy từ trong cái túi nilon ra mấy đôi giày nhựa, đưa cho chúng tôi: “Đi vào đi, cho yên tâm.”
“Yên tâm?” Tôi cầm lấy đôi giày nhưng chưa thay ngay mà tò mò thò đầu vào trong xem thử.
Tôi không nhìn thấy tử thi trực tiếp.
Cấu trúc của chung cư rất đơn giản, mỗi một cánh cửa mở vào một gian phòng đơn, không thông nhau. Hiện trường nằm ở căn phòng chính giữa tầng bốn, cánh cửa chống trộm han gỉ và cánh cửa gỗ bong hết sơn đã bị cảnh sát cạy mở, trong phòng ruồi nhặng vù vù.
Đồ đạc trong phòng khá đơn giản. Một bệ bếp sơ sài, một giường đôi và một bàn ăn kê sát bức tường phía đông, gần bức tường phía tây đặt chiếc tủ lạnh. Đập vào mắt tôi là một cái lồng sắt nằm chình ình chính giữa căn phòng. Đúng thế, đó chính là loại lồng nhốt thú.
Trong lồng lờ mờ có một đống đen xì, bên trên có nhiều chấm trắng li ti, thoạt nhìn thì thấy cái lồng trống không, nhìn kỹ xuống dưới, mới thấy là một xác chết phân hủy cao độ đã trương phình.
Do bị thối rữa nghiêm trọng nên dịch phân hủy đã thấm đẫm ra ngoài quần áo, cộng thêm thi thể bị trương phình nên da và quần áo như dính chặt với nhau, nhuộm thành một màu, không thể nhìn rõ hình thù của bộ quần áo nữa. Còn những chấm trắng nhung nhúc khắp người chính là dòi bọ dày đặc.
Dịch phân hủy đã dềnh cả ra ngoài lồng sắt, gần nửa diện tích căn phòng giàn giụa thứ dịch lỏng màu xanh lét, lúc nhúc dòi bọ vẫn đang miệt mài hút lấy hút để trong bãi dịch lỏng.
Cuối cùng thì tôi đã hiểu tại sao lại phải “đi vào cho yên tâm”, xỏ giày nilon vào, chí ít cũng không phải lo dòi bọ leo lên giày chui vào trong ống quần.
Mùi hôi thối kinh khủng ngoài sức chịu đựng tấn công dữ dội vào lỗ mũi và các dây thần kinh khứu giác khiến tôi bất giác dụi mũi, vội vàng giật lùi ra ngoài, thay giày, đeo mặt nạ phòng độc.
“Đã xuất hiện cái lồng nhốt ở đây mà nạn nhân lại bị khóa chặt trong lồng, vậy thì đây rõ ràng là một vụ cố ý gϊếŧ người.” Chiếc mặt nạ phòng độc khiến cho giọng bác sĩ Tiết bé hẳn đi.
Tôi không nói gì thêm, đeo găng tay cao su, tiến vào hiện trường.
Lối đi từ cửa đến trung tâm hiện trường, tức cái lồng hôi thối, gần như không còn chỗ đặt chân. Dù tôi rất không muốn sát sinh, nhưng mỗi khi đặt chân xuống lại nghe thấy những tiếng bép bép của dòi bọ bị giẫm vỡ.
Tôi đi quanh cái lồng sắt hai vòng. Lồng sắt mỗi chiều cao rộng dài khoảng một mét, một phía có cánh cửa, trên cửa lủng lẳng một ổ khóa to đùng.
Tôi chỉ vào ổ khóa, hỏi Lâm Đào đang đứng bên cạnh: “Cậu xem có thể lấy được dấu vân tay trên đó không?”
“Có đấy, nhưng dấu vân tay không hoàn chỉnh, không có giá trị giám định.” Một nhân viên pháp chứng đứng bên cạnh lên tiếng.
Tôi lắc đầu thất vọng, hỏi tiếp: “Vậy những chỗ khác có lấy được không?”
“Trong phòng có quá ít đồ đạc, chúng tôi đang cố gắng.” Nhân viên pháp chứng nói.
“Cậu làm việc của cậu đi, tớ giúp họ.” Lâm Đào nhìn khắp xung quanh, nhận ra không có chỗ trống nào để đặt hòm đồ nghề nên đặt luôn cái hòm lên mặt bàn ăn đã xác nhận là không phát hiện ra dấu vân tay.
Tôi ngồi xuống, hỏi: “Thi thể ở bên trong, làm thế nào để đưa ra ngoài được?”
Bác sĩ Tiết nói: “Tôi đã cho người đến chỗ cứu hỏa mượn cưa điện về cắt khóa.”
Tôi gật đầu, chau mày quan sát thi thể bên trong lồng sắt.
Đầu thi thể tựa lên một vách lồng, hai chân gập lại. Không còn nhìn rõ mặt, vì gần như đã bị phủ kín bởi dòi bọ. Dòi bọ cứ nhung nhúc bò ra từ trong hốc mắt đã khô quắt và cái miệng há hốc, trông cứ như thi thể đang chảy nước mắt và nhả ra thứ gì. Tuy mặt nạ phòng độc đã ngăn chặn được mùi hôi thối nhưng tận mắt chứng kiến cảnh tượng ghê sợ này, tôi vẫn thấy tê dại cả đầu óc.
Mặt bên kia của cái lồng hình như có vết máu phun lên mắt lưới, nhưng đã bị phân hủy và hòa vào làm một với lớp gỉ sắt, không thể nhìn rõ được nữa.
“Đây là thi thể đàn ông.” Đại Bảo thò tay vào kéo thử quần áo của thi thể. “Bên ngoài mặc áo vest.”
Tôi gật đầu, phủi khẽ lên đỉnh đầu thi thể, mười mấy con dòi rơi xuống lả tả. Tôi nói: “Nhìn tóc cũng biết, nạn nhân cắt tóc húi cua.”
“Vậy em nói xem,” Đại Bảo hỏi, “là anh ta khóc lóc trước khi chte61, hay là sau khi anh ta chết đi có người đến khóc lóc?”
Chắc là Đại Bảo vẫn băn khoăn với tiếng khóc ma quái trong lời kể.
“Chắc chắn một điều là không phải anh ta khóc sau khi chết.”
Tôi luôn tin vào khoa học. “Tiếng khóc nghe thấy lúc nào, qua điều tra sẽ biết ngay thôi. Tiếng khóc xuất hiện vào trước hay sau khi nạn nhân tử vong có ý nghĩa rất quan trọng trong việc suy đoán nghi phạm, cho nên, điểm mấu chốt là phải xác định được thời điểm tử vong của nạn nhân.”
Đại Bảo gật đầu, tiếp tục quan sát tình trạng thi thể. Trong lúc đợi cưa điện được mang đến, tôi đi khắp quanh phòng xem có phát hiện được thêm gì khác không.
Đúng như nhân viên pháp chứng đã nói, trong phòng ngoài tủ lạnh, kệ bếp thì chẳng còn mấy đồ đạc, cho thấy khách trọ chỉ ăn và ngủ ở đây.
Tôi đi tới bên tủ lạnh, thấy đó là một tủ lạnh kiểu cũ, hai cửa mở hướng lên trên. Nhìn vào lớp bụi bên mép tủ lạnh thì hẳn là nó đã được kê ở đây nhiều năm rồi. Có vẻ như đây là đồ của chủ nhà chứ không phải của khách thuê phòng chuyển đến.
Tôi sờ vào tủ lạnh, thấy vẫn đang chạy, tủ lạnh hơi rung rung.
“Nạn nhân đã chết rất lâu rồi, chắc hung thủ cũng chạy trốn từ lâu nhưng quên rút điện tủ lạnh.” Tôi vừa nói với Đại Bảo, vừa kéo một cánh tủ lạnh lên.
Trong tủ lạnh, một cái đầu người đã đóng tuyết đang trợn trừng hai mắt nhìn tôi.
Tôi khựng lại một thoáng rồi kinh hãi giật lùi liền mấy bước, va phải Đại Bảo đang ngồi xổm bên cạnh lồng sắt. Chắc Đại Bảo đã trông thấy sắc mặt tái mét của tôi, liền hỏi: “Sao thế?”
“Kìa… Kìa…” Tôi chỉ vào cái tủ lạnh, đầu óc trống rỗng, lắp bắp không nói nên lời.
Đại Bảo nhìn tôi, rồi lại ngờ vực nhìn sang cái tủ lạnh, sau đó đứng dậy tiến lại gần, mở cửa tủ lạnh ra.
“Ối mẹ ơi!” Đại Bảo có vẻ gan góc hơn tôi, chưa đến nỗi mất hết hồn vía. “Ờ… ờ… vẫn còn một cái xác nữa!”
Lúc này, tôi cũng đã hoàn hồn, bèn quay sang nói với anh cảnh sát khu vực: “Có phát hiện bất ngờ.”
Trong tủ lạnh là một thi thể đàn ông đã đông cứng như que kem, cơ thể co quắp, đầu ngẩng lên, để lộ sắc mặt kinh hoàng.
Có lẽ đã bị đông lạnh khá lâu rồi nên xung quanh tử thi đã đóng tuyết dày cộp, dính liền với thành tủ. Mấy viên cảnh sát khu vực hợp sức định nhấc thi thể ra, nhưng lại lôi cả tủ lạnh lên. Không còn cách nào khác, đành phải ngắt điện đợi cho lớp tuyết đóng trên tử thi tan bớt.
“Đã… đã điều tra chưa?”
Tôi gắng trấn tĩnh lại, ngồi xổm xuống, nhặt lên một con dòi. “Các… các nhân chứng… nghe thấy tiếng khóc hôm nào?”
“Sao em… em lại nói lắp thế… thế?” Đại Bảo mắc cái tật cứ thấy người khác lắp bắp là anh ta cũng nói lắp theo.
“Sợ… sợ quá.” Tôi nói rồi quay sang nhìn điều tra viên.
Điều tra viên đang đeo mặt nạ cũng phải nôn khan ầm ĩ, ánh mắt tỏ rõ sự khó chịu khi bị tôi gọi vào phòng, nói: “Là hai ngày 24, 25 tháng trước, ngày 26 thì không nghe thấy tiếng khóc nữa.”
Tôi tính nhẩm, ngày 24 cách hôm nay đúng mười hai ngày.
“Thường thì ruồi nhặng sẽ đẻ trứng vào trong xác chết, mùa này thì chỉ khoảng hai tuần, trứng ruồi sẽ phát triển thành ấu trùng, sau đó bò vào chất dịch thối rữa xung quanh hoặc chui vào thi thể, hai tuần nữa sẽ lột xác thành ruồi.”
Tôi nói. “Trên nền nhà không hề có xác ấu trùng, dòi ở đây chắc mới là lứa đầu tiên.”
Đại Bảo cầm lấy con dòi đã bị tôi bóp chết, đo đạc rồi nói: “Căn cứ vào tốc độ sinh trưởng của ấu trùng ruồi nhặng, con dòi dài từng này chắc được khoảng mười ngày tuổi rồi.”
“Điều đó có nghĩa là,” tôi nói, “ngày 24, nạn nhân bắt đầu khóc lóc ở đây, sau ngày 26 thì không nghe thấy gì nữa, vì anh ta đã chết.”
“Tớ có một thắc mắc.” Lâm Đào chen vào. “Cậu nói xem, tại sao nạn nhân chỉ khóc mà không kêu cứu nhỉ?”
“Chắc chắn là bị hung thủ khống chế.” Đại Bảo bắt chước vẻ mặt hung hãn. “Mày kêu thì ông gϊếŧ!”
“Anh biết được là anh ta khóc hay là người trong tủ lạnh kia khóc?” Tôi chỉ vào cái tủ lạnh nói.
“Trọng điểm là tại sao lại khóc?” Đại Bảo giơ khuỷu tay chỉnh lại mặt nạ phòng độc.
“Hay là có ma nữ khóc thật nhỉ?” Lâm Đào lúc nào cũng mê tín. “Gϊếŧ người xong rồi nhỏ nước mắt cá sấu?”
“Trí tưởng tượng phong phú thật đấy.” Tôi nói. “Cậu chuyển nghề viết tiểu thuyết kinh dị đi.”
Lâm Đào đánh mông huých tôi một cái khiến tôi suýt nữa ngã nhào vào bãi dòi.
Tôi trừng mắt với Lâm Đào: “Cậu ở đây làm việc đi, phải tìm bằng được dấu vân tay đấy, tớ tới nhà xác. Thi thể có thể đưa đi được rồi chứ?”
Nhà xác Công an huyện Phổ Trấn.
Tôi và Đại Bảo hợp sức khiêng cái thi thể trong tủ lạnh vào bể rã đông trong phòng giải phẫu. Theo tốc độ rã đông bình thường, khoảng hai tiếng đồng hồ nữa chúng tôi mới có thể khám nghiệm thi thể này được.
Vì thế, chúng tôi phải đối mặt với cái thi thể thối rữa trương phình trước.
Quần áo đã bị nhồi căng bởi các bộ phận trương phình, không thể cởi bỏ theo cách bình thường, đành phải lấy kéo cắt.
Quần áo trên người nạn nhân không phải là hàng tầm thường, cộng lại ít nhất cũng hơn vạn tệ.
“Chà, đại gia đấy.” Tôi nói. “Riêng cái quần cũng phải mấy nghìn tệ.”
“Có ích gì không?” Đại Bảo chỉ vào đống phân vàng khè nhoe nhoét đầy đũng quần, nói. “Dính phải phân thì cũng ghê như nhau.”
“Đại tiểu tiện mất kiểm soát?”
Tôi nói. “Hiện tượng này thường gặp ở người bị tổn thương sọ não và ngạt thở cơ học.”
“Nhưng đầu, cổ đề không sao cả.” Vì không muốn ngửi thấy mùi hôi thối, bác sĩ Tiết cố nín thở đến nỗi mặt đỏ phừng lên.
Tôi không nói gì, thận trọng mổ tách phần cơ cổ và da đầu từng chút một. Vì tổ chức mềm đã bị thối rữa nên phần cơ đã ngả màu đen, dịch phân hủy xanh lét lõng bõng giữa cơ và da. Tôi cầm miếng vải gạc thấm sạch dịch phân hủy rồi quan sát, khẳng định nạn nhân đúng là không hề có tổn thương cơ học nào gây nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng tổ chức mềm ở mé ngoài đùi phải lại bị khoét mất một mảng lớn.
Đại Bảo ghé sát vào nhìn, kêu ré lên: “Ối mẹ ơi! Đây là tổn thương hình thành sau khi chết! Chẳng lẽ lại có ma nữ ăn thịt người thật!”
Tôi nghe Đại Bảo nói mà toát mồ hôi lạnh, nhưng không phải vì sợ ma quỷ gì, mà là vì thời đại này không thiếu những bài báo đưa tin về kẻ bệnh hoạn ăn thịt người. Tôi vội lấy vải gạc thấm khô vết thương, cầm kính lúp quan sát một lượt rồi nói:
“Chỉ giỏi hù dọa người khác là tài, nhìn vết răng mà xem, răng nhỏ và nhọn, chắc là bị chuột gặm đấy.”
“Thế thì còn đỡ. Nhưng, khắp người không có vết thương nào cả.” Đại Bảo chau mày. “Làm thế nào đây? Không thể xác định được nguyên nhân tử vong.”
“Có thể nói là thi thể bị phân hủy quá nghiêm trọng nên không thể tìm ra nguyên nhân tử vong được không?” Bác sĩ Tiết bắt đầu đánh bài chuồn.
Tôi lắc đầu, lật khoang bụng tử thi lên, bắt đầu sắp xếp lại phần ruột của nạn nhân. Lúc này, mùi hôi thối của xác phân hủy, mùi hôi hám của phân lại cộng thêm cái mùi ghê sợ của đường ruột đã phá vỡ giới hạn chịu đựng của bác sĩ Tiết, khiến anh ta mồ hôi như tắm, vội gỡ hết trang bị phòng hộ bỏ chạy ra khỏi phòng phẫu thuật.
Đại Bảo nhìn theo bóng bác sĩ Tiết, lắc đầu xem thường. Tôi cười nói: “Giới hạn chịu đựng cũng giống như tửu lượng vậy, cần phải rèn luyện từ từ.”
Dạ dày nạn nhân rỗng không, có những điểm xuất huyết lòa nhòa, ruột gần như không có gì.
“Biết anh ta tại sao lại chết rồi chứ?” Tôi quay sang hỏi Đại Bảo.
Đại Bảo gật đầu, chỉ vào phân dính trên đũng quần nạn nhân, nói: “Chỉ thấy thải ra không thấy ăn vào, chết vì đói.”
Tôi gật đầu, nói: “Hung thủ đã để nạn nhân đói khát cùng cực, kiệt sức, cộng thêm cơ thể bị mất nước nghiêm trọng, sốc mà chết.”
“Anh vẫn chưa hiểu,”
Đại Bảo nói, “một người đàn ông to cao thế này sao lại để người khác nhốt vào lồng, sau đó chết dần chết mòn vì đói khát mà không dám kêu lên một tiếng? Hung thủ là loại người thế nào vậy?”
“Khả năng kẻ này có súng.” Tôi nói. “Tất nhiên, không có vết đạn, em chỉ đoán mò thôi.”
Đại Bảo gật đầu: “Cũng hơi có lý, nếu không thì khó mà khống chế được một người đàn ông to con thế này.”
“Đâu chỉ có khống chế?”
Tôi cầm tay phải nạn nhân nhấc lên, nói. “Mà nạn nhân còn ngoan ngoãn giao nộp toàn bộ của nả trên người cho hung thủ.”
“Gì cơ?”
Đại Bảo ghé đầu nhìn xuống tay nạn nhân. “Em đã phán đoán ra tính chất vụ án nhanh thế cơ à? Dựa vào đâu mà bảo đây là một vụ gϊếŧ người cướp của?”
“Anh nhìn mà xem.”
Tôi đưa ngón tay quệt qua cổ tay nạn nhân, nói. “Tuy da nạn nhân đã bị trương phồng nhưng chỗ cổ tay này vẫn nhìn thấy mấy nếp nhăn trông rất ngay ngắn.”
“Hiểu rồi, đồng hồ.” Đại Bảo có vẻ như càng ngày càng nhanh trí.
Tôi nói: “Không chỉ ở đây, màu da ở gốc ngón giữa cũng khác, chắc lúc còn sống có đeo nhẫn. Điều đó có nghĩa là rất có thể nạn nhân đã tự nguyện tháo đồng hồ và nhẫn nộp cho hung thủ. Khiến cho anh ta sợ hãi đến vậy, hẳn là hung thủ phải có súng.”
Đại Bảo ngẫm nghĩ, vẫn chưa vững tâm, lại rạch mở lớp da ở cổ tay và cổ chân của nạn nhân ra, xác nhận rằng trước khi chết, nạn nhân không hề bị trói, nên việc tước đoạt của cải được tiến hành một cách tự nguyện.
“Nhưng kiểu gì thì cũng không phải là cầm súng uy hiếp đưa nạn nhân từ trung tâm phố huyện tới tận cái nơi khỉ ho cò gáy này được!” Đại Bảo nói. “Vì như thế, trên đường đi sẽ có rất nhiều cơ hội để chạy trốn.”
Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ rồi nói: “Thôi đừng nghĩ nhiều thế nữa, có khi là người quen gây án cũng nên.”
“Người quen cướp của?” Đại Bảo nói. “Có cần phải phức tạp thế không? Còn để người ta chết đói nữa.”
Tôi không nói gì, bắt đầu cầm cưa điện cưa lấy xương hông của nạn nhân. Dù sao, xác định được đặc điểm của nạn nhân, tìm được lai lịch thi thể mới là con đường nhanh nhất để phá án.
Sau khi xác định được độ tuổi, chiều cao và cân nặng của nạn nhân, chúng tôi bảo nhân viên kỹ thuật phụ trách chụp ảnh đang đứng bên cạnh gọi điện thông báo cho điều tra viên ở tiền tuyến. Phải tìm cho ra lai lịch thi thể thì vụ án mới có được bước đột phá.
Lúc này, cậu nhân viên chụp ảnh đã nôn ọe đến mặt mũi xanh xám, vừa nghe thấy yêu cầu của tôi, lập tức ù té chạy ra khỏi phòng mổ. Trong một không gian thế này, được hít thở mấy ngụm không khí trong lành đã là một đặc ân đối với cậu ta.
Khi đưa tử thi còn lại ra khỏi bể rã đông, thi thể đã mềm hoàn toàn. Căn phòng giải phẫu mới toanh cùng các thiết bị rã đông tân tiến đúng là đã hỗ trợ đắc lực cho chúng tôi.
“Tiền, cứ phải có tiền mới được.” Sắc mặt Đại Bảo tràn đầy ngưỡng mộ. “Em xem hiệu quả chưa kìa, đúng là tuyệt vời. Nguồn tài lực tốt, không bị ăn bớt, đã dùng đúng chỗ đấy.”
“Em chẳng nghĩ nhiều đến thế.”
Tôi ngắt lời Đại Bảo. “Anh hãy nhìn nạn nhân này mà xem, áo quần rách rưới, đến tất chân còn có mụn vá. Trời ạ, thời đại này rồi còn có người phải đi tất vá, đủ biết nghèo khó đến cỡ nào. Đối tượng cướp bóc lúc thì giàu sụ, lúc lại nghèo rớt mừng tơi, hung thủ là loại người gì không biết?”
Đại Bảo cúi đầu suy nghĩ về vấn đề mà tôi vừa đưa ra.
Tử thi đã mềm, cởi bỏ quần áo dễ dàng hơn nhiều. Tôi bày quần áo của nạn nhân xuống nền nhà, kiểm tra kỹ lưỡng các túi, hy vọng có thể tìm được thứ gì như chứng minh thư chẳng hạn.
Chẳng có cái chứng minh thư nào hết, nhưng tôi đã tìm được một tờ giấy trông như tờ biên lai. Vì thi thể bị đông cứng nên sau khi rã đông, tờ giấy đã bị thấm nước, chữ nghĩa lòe nhòe cả. Nhưng có thể thấy tờ biên lại được viết bằng giấy than, chắc là liên giao khách hàng. Phía dưới tờ giấy, tại phần người nhận tiền viết ba con chữ nguệch ngoạc:
“Lý Đại Trụ”.
“Lý Đại Trụ?” Tôi hỏi. “Chắc đây là tên của nạn nhân.”
Đại Bảo mừng rỡ, hét ầm lên gọi nhân viên kỹ thuật đang đứng ngoài cửa, yêu cầu cậu ta lập tức liên hệ với điều tra viên để điều tra nhân thân của người có tên Lý Đại Trụ. Cậu ta nghe nói có thể tiếp tục ở bên ngoài phòng giải phẫu gọi điện thì mừng như bắt được vàng.
Hai cổ tay của nạn nhân có vết trói bằng dây thừng, hai bên đầu gối có vết xuất huyết dưới da rõ rệt, đó là tổn thương bị khống chế điển hình. Nạn nhân tử vong do bị hành hung bằng dao, trên cổ bị cứa một nhát dao sâu đến tận cột sống cổ. Hai bên mép vết thương không hề có vết rạch thử, chứng tỏ đó là một con dao cực kỳ sắc bén, chỉ một nhát cứa đã cắt rời yết hầu nạn nhân. Động mạch cảnh và tĩnh mạch cảnh đều bị cắt đứt, khí quản cũng bị cứa đứt một nửa, một lượng máu lớn ộc xuống khí quản, sau đó lại bị ho sặc sụa mà phun ra, trên ngực áo nạn nhân có vết máu phun rất rộng.
“Tóc nạn nhân rụng mất một đám.”
Đại Bảo chỉ vào chỗ da đầu trọc lốc, nói. “Chắc là hung thủ bắt nạn nhân quỳ dưới đất, trói quặt hai tay, sau đó một tay túm tóc nạn nhân, một tay cầm dao, cứa một nhát sát hại. Nhưng vấn đề là tại sao không thấy có vết máu ở hiện trường nhỉ?”
“Ai bảo không có?” Tôi nói. “Trên lồng sắt có vết máu phun đấy thôi, tại lúc đó em không để ý, cứ nghĩ đó chỉ là vết gỉ.”
“Nhưng em nhìn thi thể mà xem, vết hoen tử thi rất nhạt, cho thấy bị mất máu khá nhiều.”
Đại Bảo nói, “vậy thì tại sao hiện trường lại chẳng có bao nhiêu vết máu?”
“Sao lại không có?”
Tôi nói. “Trên sàn nhà hiện trường đầy dịch phân hủy, anh nghĩ tất cả đều là chảy từ thi thể thối rữa ra chắc? Anh nhầm rồi, có một phần lớn trong đó là máu chảy ra từ người nạn nhân này, rồi hòa lẫn vào dịch phân hủy của thi thể kia, sau đó bị phân hủy đồng thời. Kết hợp với vết máu trên lồng sắt, về cơ bản có thể khẳng định, nạn nhân này bị sát hại ngay trước cái lồng.”
Đại Bảo gật đầu, nói: “Nhưng anh vẫn chưa thể liên kết hai cái chết này với nhau được. Không biết là do loại người thế nào gây ra đây?”
Tôi nhấc hai tay nạn nhân lên quan sát, nói: “Đúng là người lao động chân tay, anh nhìn hai tay xem, toàn vết chai.”
Đại Bảo giơ khuỷu tay đẩy phần kính trên mặt nạ phòng độc lên, nói: “Điểm này nói lên điều gì?”
Tôi ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, ngẫm nghĩ rồi nói: “Em đang nghĩ đến một chuyện, cái lồng sắt bí hiểm kia chắc chắn có thể nói lên điều gì đó. Nhưng em cần phải nhờ Lâm Đào kiểm chứng đã.”
Thi thể đã được đưa đi, nhưng chất dịch phân hủy nhầy nhụa khắp hiện trường vẫn tiếp tục bốc mùi hôi thối. Cái mùi gớm ghiếc cứ luẩn quẩn khắp đường cầu thang bưng bít của khu nhà, chỉ số buồn nôn vẫn không hề giảm.
Lâm Đào đang đứng tựa vào trước cửa cầu thang hút thuốc, mặt vàng khè, vẻ điển trai sụt giảm không ít. Chắc là mấy tiếng đồng hồ khám nghiệm hiện trường liên tục đã khiến cậu ta lử đử.
“Chỗ cậu xong rồi à?” Lâm Đào dụi mẩu thuốc, hỏi. “Nhanh ghê nhỉ?”
“Ừ, tớ vội đến đây để hỏi cậu một chuyện.” Tôi kéo Lâm Đào quay lại căn phòng hiện trường, đeo găng tay vào, nói. “Cái lồng sắt có vấn đề.”
Lâm Đào hiểu ý, cười: “Có vẻ như lần này chúng ta lại tư tưởng lớn gặp nhau rồi đấy.”
Cái lồng sắt có hình lập phương, mỗi cạnh dài hơn một mét, xung quanh không có điểm lắp ghép, có nghĩa nó là một khối liền.
Tôi cầm thước cuộn bằng thép đo độ rộng của căn hộ, nói: “Chỉ 80 centimet.”
Lâm Đào gật gù.
Đại Bảo ngơ ngác hỏi: “Thế… ý mọi người là sao?”
Tôi nói: “Anh có thể chuyển một vật hình lập phương mỗi cạnh dài hơn một mét qua cái cửa chỉ rộng tám chục phân hay không?”
Đại Bảo lay thử cái lồng, thấy rất chắc chắn, lại ngoái nhìn ra khung cửa sổ lắp chấn song bằng sắt, lắc đầu.
“Lồng sắt được hàn ngay trong phòng.”
Lâm Đào nói. “Sau khi hàn xong, căn phòng đã được quét dọn sạch sẽ, nhưng vẫn còn trông thấy những đốm cháy của súng hàn trên nền nhà.”
“Anh hiểu rồi!” Đại Bảo nói. “Để thực hiện hành vi phạm tội, hung thủ đã hàn cái lồng sắt này ngay ở đây.”
Tôi gật đầu, ít nhất bây giờ cũng có thể xác định được rằng hung thủ là một kẻ cướp của gϊếŧ người có kế hoạch.
“Đây đều là cây sắt đặc ruột, cái lồng phải nặng đến mấy chục cân đấy.” Lâm Đào nói với Đại Bảo. “Hơn nữa, anh có thể hàn từng cây sắt rời với nhau được khít nhau như thế này không?”
Đại Bảo ngơ ngác lắc đầu.
“Đúng thế!” Tôi phụ họa với Lâm Đào. “Chứ đừng nói là một cô gái.”
“Anh nhớ đến đôi bàn tay của thi thể trong tủ lạnh.” Đại Bảo nói. “Bàn tay toàn vết chai, chắc là một thợ hàn?”
Tôi và Lâm Đào nhìn nhau gật đầu.
“Nếu là vậy,”
Đại Bảo tiếp lời, “rất có khả năng đối tượng mang tên Lý Đại Trụ kia là đồng bọn với cô gái thuê phòng. Họ đã sát hại anh chàng nhà giàu, cướp bóc tài sản, sau đó do mâu thuẫn trong chia chác nên cô gái kia mới gϊếŧ hại kẻ đồng phạm.”
“Em thấy Đại Bảo phân tích rất hợp lý.” Tôi nói.
Lâm Đào nói: “Một cô gái mà gϊếŧ được một gã đàn ông cao to khỏe mạnh à?”
“Đúng thế.”
Tôi bổ sung. “Qua khám nghiệm tử thi, tôi nhận thấy trên người nạn nhân không có bất kỳ một vết khống chế nào, nhưng dấu vết bị cướp của lại rất rõ ràng. Vì lý do nào đã khiến cho nạn nhân răm rắp giao nộp tài sản, không có cả cơ hội kêu cứu hay chạy trốn? Tớ cho rằng có lẽ hung thủ có súng.”
“Ý cậu là cô ta có súng trong tay, dùng súng uy hiếp Lý Đại Trụ, sau đó cầm dao gϊếŧ hắn?” Lâm Đào cười nói. “Vậy thì không hợp logic.”
“Sao lại không hợp logic?” Đại Bảo phản bác. “Vì tầng dưới có người ở, nếu bắn sẽ phát ra tiếng động, dễ bị phát hiện chứ sao?”
Tôi lắc đầu, nói: “Nạn nhân trong tủ lạnh bị trói giật cánh khuỷu, quỳ dưới đất, bị hung thủ nắm tóc, cầm dao cứa cổ chết ngay. Nếu là cô gái gây ra thì cô ta vừa cầm súng uy hiếp, vừa nắm tóc, vừa phải cầm dao. Thế thì cô ta có mấy cái tay?”
“Đúng vậy!” Đại Bảo nói. “Nhưng chúng ta vẫn không thể giải thích tại sao cướp của mà lại lựa chọn hai đối tượng có tình hình tài chính khác xa nhau như thế?”
Tôi trầm ngâm một lát, nhún vai nói: “Em cũng chưa nghĩ ra đáp án nào hợp lý.”
Ba người chúng tôi lại im lặng.
Lâm Đào nói: “Đúng rồi, chúng tớ phát hiện ra mấy vết vân tay, xuất hiện ở các chỗ khác nhau tại hiện trường, rất khả nghi. Sau khi xử lý kỹ lưỡng, có thể dùng để đối chiếu. Vừa nãy, tớ bảo họ vào kho dữ liệu tiến hành đối chiếu rồi, nhưng chưa có kết quả.”
“Cũng xem như tin tốt lành, dù sao cũng là chứng cứ có sức thuyết phục.”
Tôi gật đầu, quay sang nói với điều tra viên. “Thế này vậy, một mặt cứ bắt đầu điều tra nhân thân của nạn nhân giàu có, mặc khác phải điều tra về Lý Đại Trụ và cô gái đã tiếp xúc với đối tượng. Ngoài ra, chẳng còn cách nào khác nữa. Nửa ngày còn lại, chúng tôi sẽ quay về suy nghĩ tiếp, sáng sớm mai gặp nhau.
Tuy phải liên tục chạy hiện trường án mạng nhưng vụ án Vân Thái vẫn thường xuyên ám ảnh tâm trí tôi. Đã phát hiện ra kiểu gen ADN lâu như vậy rồi mà mãi vẫn chưa thể tìm ra hung thủ. Nếu không từng bước thu hẹp phạm vi điều tra, muốn tìm được một kẻ thủ ác trong cả biển người mênh mông thật không phải chuyện dễ dàng.
Lâm Đào rất hiểu tâm trạng của tôi, cậu ta bước ra khỏi phòng tắm, vừa cầm khăn bông lau tóc vừa hỏi tôi: “Vẫn nghĩ đến vụ án Vân Thái à?”
Tôi uể oải gật đầu.
“Đến giờ có tiến triển gì không?” Lâm Đào hỏi. “Nói xem nào, về vụ án này, tớ vẫn chưa hiểu lắm.”
Tôi thở dài thườn thượt, nói:
“Là thế này. Bảy năm trước, năm năm trước, bốn năm trước và ba năm trước, mỗi năm đều xảy ra một vụ án xung quanh thành phố Vân Thái, căn cứ để xâu chuỗi chúng lại là trong cơ thể nạn nhân đều có phản ứng dương tính yếu với vết tϊиɦ ɖϊƈh͙ nhưng không hề có tinh trùng. Khoảng một năm trước, tại Long Đô lại phát sinh một vụ án, sở dĩ có thể xâu chuỗi được với các vụ án trước là vì tớ phát hiện ra cách thắt nút dây trói của bốn vụ án ở Vân Thái, đó là kiểu nút thắt rất đặc trưng. Nhưng lần này lại phát hiện ra tinh trùng trong thi thể, và xét nghiệm ra được ADN. Còn nữa, trong vụ án ở Long Đô, tớ lại phát hiện ra ở hiện trường có một dấu vết đặc biệt, cho thấy hung thủ có lẽ mặc đồng phục. Đã mấy tháng rồi, việc tìm ra người có ADN trùng khớp trong nhóm người mặc đồng phục tại các huyện thị của thành phố Vân Thái chắc là không đến nỗi khó khăn như thế chứ?”
Lâm Đào ngẫm nghĩ rồi nói:
“Người mặc đồng phục có quá nhiều, hơn nữa, chúng ta không thể bắt mọi đơn vị phát động xét nghiệm máu đồng loạt được, đúng không? Cho nên, chắc là không thể tìm ra dễ thế được đâu. Tớ thấy cậu nên xuất phát từ vấn đề tại sao ban đầu không có tinh trùng, về sau lại có tinh trùng, rồi tìm ra những nhóm đối tượng đặc trưng, mới có hy vọng phá án.”
Tôi gật đầu, nói: “Đúng vậy, vấn đề này tớ cũng nghĩ mãi không thông. Nếu dùng bαo ƈαo sυ thì không thể có phản ứng tϊиɦ ɖϊƈh͙ yếu. Nếu mắc chứng không có tinh trùng thì cũng phải để lại một lượng lớn dịch tiền liệt trong cơ thể nạn nhân. Nếu xuất tinh ra ngoài thì trên thi thể và hiện trường phải có vết phóng tinh. Nếu yếu sinh lý thì làm sao có thể cưỡиɠ ɦϊếp người ta được?”
Lâm Đào vò mái tóc ướt, vỗ vai tôi nói: “Đừng nghĩ nữa, đi ngủ đi, ngày mai chờ tin tốt đẹp.”
Trong phòng họp tổ chuyên án, ai nấy mặt mũi nặng trịch. Người ngẩng mặt nhìn trần nhà, người hai tay bóp đầu, người loay hoay nghịch điện thoại. Tôi vừa bước vào phòng đã cảm thấy hết sức nặng nề.
Tôi mấp máy miệng mấy cái, không dám lên tiếng, mắt nhìn chằm chằm vào giám đốc Hoa của Công an huyện Phổ Trấn.
Giám đốc Hoa thấy chúng tôi tới bèn kéo chiếc ghế bên cạnh tỏ ý mời chúng tôi ngồi đấy, rồi nói:
“Đã điều tra ra nhân thân của một trong trong hai nạn nhân, đúng là Lý Đại Trụ. Nhưng kết quả điều tra cho thấy, Lý Đại Trụ là thợ mộc, ngày ngày đẩy theo chiếc xe đạp treo biển thợ mộc đi dọc các con đường ở trung tâm huyện lỵ kiếm việc. Hôm nào cũng đi và về rất đúng giờ, chẳng bao giờ la cà ở đâu, cũng không có thói hư tật xấu gì. Là một người độc thân thật thà chất phác, một mình kiếm tiền phụng dưỡng mẹ già 70 tuổi. Sáng sớm ngày 25 ra khỏi nhà rồi không thấy quay về nữa.”
“Ồ?” Tôi cười gượng, nói. “Lúc trước tôi cứ tưởng anh ta là đồng bọn với cô gái thuê phòng, đến đó hàn cái lồng sắt rồi hợp sức gϊếŧ người cơ đấy.”
Giám đốc Hoa lắc đầu, nói: “Qua điều tra, chắc chắn anh ta không biết gì về kỹ thuật hàn xì, lại sống độc thân, còn chưa sờ đến cái mông đàn bà chứ đừng nói đến nhân tình nhân ngãi.”
Tôi nhăn mặt, cộng tác với ông cảnh sát hình sự ăn nói thô lỗ kiểu này, tôi thấy không quen.
“Ờ…” Đại Bảo đẩy gọng kính lên sống mũi, rụt rè hỏi. “Thế chưa điều tra ra nhân thân của nạn nhân giàu có à?”
Giám đốc Hoa nói:
“Tối qua đã cho điều tra thông tin nhân khẩu của những người mất tích khoảng nửa tháng lại đây trong toàn huyện và các vùng lân cận, phát hiện ra mấy người có điều kiện phù hợp. Nhưng sau khi điều tra lần lượt, đều đã loại trừ hết. Nửa đêm hôm qua, chắc là do đọc được thông báo tìm nhận thi thể của chúng tôi đăng trên trang Weibo, có một phụ nữ ở tỉnh lỵ đã liên hệ với chúng tôi, nói rằng chồng chị ta tên là Cố Vĩ Dân đến huyện chúng tôi công tác vào ngày 23, tối hôm đó thì mất liên lạc. Do Cố Vĩ Dân bình thường quen thói trăng hoa chơi bời nên chị ta cũng chẳng để tâm, cho đến hôm qua đọc được thông tin trên Weibo.”
Tôi gật đầu tán thành, Weibo đúng là hữu ích.
“Đang đợi xét nghiệm ADN!” Giám đốc Hoa nói. “Chắc cũng sắp có rồi.”
“Thích chơi bời à?” Tôi đang thầm nghĩ, Lâm Đào buột miệng nói liền. “Chẳng lẽ là mỹ nhân kế?”
Mỹ nhân kế? Dùng sắc đẹp để cài bẫy lừa tiền? Hai người nam nữ thông đồng với nhau, người nữ dùng sắc đẹp để cám dỗ nạn nhân, dụ tới chỗ ở của người nữ, sắp sửa mây mưa thì người đàn ông xông ra bắt quả tang rồi đe dọa, cướp bóc.
Lúc này, giám đốc Hoa nhận được điện thoại từ phòng Giám định ADN của Công an huyện gọi đến, xác nhận nạn nhân giàu có kia chính là gã đàn ông chơi bời Cố Vĩ Dân.
Cả tổ chuyên án xôn xao phấn khởi. Đã tìm ra lai lịch thi thể, đồng nghĩa với việc vụ án đã có thêm một bước tiến lớn.
Tôi không góp mặt vào những tiếng xôn xao. Cố Vĩ Dân và Lý Đại Trụ thuộc hai tầng lớp xã hội khác hẳn nhau, tại sao lại cùng bị hung thủ sát hại? Là trùng hợp, hay là Lý Đại Trụ đúng là một trong hai hung thủ? Nhưng anh ta đâu biết nghề hàn? Lẽ nào anh ta đang giấu giếm điều gì? Nhưng một người ngày nào cũng về nhà đúng giờ, sao lại phạm pháp được? Vô số câu hỏi cứ va đập uỳnh uỳnh trong tâm trí tôi nhưng lại không bật ra được kết quả nào.
“Mọi người đừng vội mừng.”
Giám đốc Hoa lên tiếng phá vỡ sự ồn ào, nói. “Giờ chúng ta lại phải bắt tay vào từ nhiều điểm hơn nữa. Đầu tiên, phải kiểm tra tài khoản của Cố Vĩ Dân. Nạn nhân ra ngoài công tác, không thể mang theo nhiều tiền mặt. Hung thủ đến cả đồng hồ, nhẫn cũng lấy hết, xem ra tất cả mọi thứ trên người nạn nhân đã bị chúng lột sạch sành sanh. Không thấy túi, ví của Cố Vĩ Dân đâu, bên trong chắc là có thẻ tín dụng. Tôi tin rằng hung thủ sẽ không bỏ qua số tiền trong thẻ tín dụng đâu.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Đại Bảo nói. “Nạn nhân bị bỏ đói đến chết, đủ biết phải chịu giày vò đến thế nào, khả năng duy nhất khiến hung thủ hành hạ Cố Vĩ Dân chính là muốn có mật khẩu thẻ tín dụng.”
“Vậy thì chỉ việc kiểm tra lịch sử giao dịch ở ngân hàng, đặc biệt là từ ngày 24 đến ngày 26, tìm kiếm kẻ đã giao dịch bằng thẻ tín dụng của Cố Vĩ Dân.” Giám đốc Hoa nói. “Không khó phải không? Lập tức điều tra!”
Nhìn mấy tốp điều tra viên tự tin bước ra khỏi phòng họp, tôi không nhịn nổi bèn hỏi: “Giám đốc Hoa, anh vẫn chưa nói về thân thế của cô gái thuê phòng.”
Giám đốc Hoa ngẩn người: “Ồ, ý anh nói là chỗ chủ nhà phải không? Đã điều tra ngay từ đầu rồi. Chủ nhà đúng là người kỳ quặc, không ở vùng này, cũng không giao nhà cho người thân hay môi giới. Ông ta nói có một cô gái đọc được tờ quảng cáo cho thuê nhà của ông ta, chẳng buồn trả giá, cứ thế gửi thẳng nửa năm tiền thuê nhà vào tài khoản cho ông ta. Ông ta nghĩ rằng cô gái này không thích phiền hà, liền gửi luôn chìa khóa nhà qua đường bưu điện cho cô ta. Coi như hợp đồng miệng. Đúng là chưa từng gặp chủ nhà nào lại đơn giản đến thế.”
“Gửi bưu điện?” Tôi nhướng mày. “Gửi đến đâu?”
“Một nhà trọ ở gần đây.” Giám đốc Hoa nói. “Hình như tên nhà trọ là Cao Trào thì phải. Đợi đến khi vụ án này kết thúc, tôi thấy chắc họ cũng đóng cửa luôn là vừa.”
“Vậy tên đăng ký là gì?”
“Chính vì họ không yêu cầu khai rõ thông tin khách trọ,” giám đốc Hoa bực bội nói,
“nên tôi mới bắt họ đóng cửa. Hỏi họ có nhớ một đôi nam nữ hoặc một cô gái sành điệu từng ở trọ tại đấy một thời gian không, họ nói ở đây cô nào cũng sành điệu cả. Mẹ kiếp! Chả hiểu nhà trọ hay nhà thổ nữa! Đã xem danh sách khách trọ, cũng điều tra rồi, chắc chắn cô ta không đăng ký số chứng minh thư hoặc đăng ký bằng chứng minh thư giả.”
Tôi lại gục đầu ủ rũ. Một manh mối tốt là thế lại đứt phụt mất rồi. Doanh nghiệp làm ăn ấm ớ, phạt là đúng.
Khổ sở chờ đợi suốt hai tiếng đồng hồ, tiền tuyến lại gửi về một tin tốt lành. Hai chiếc thẻ tín dụng của Cố Vĩ Dân đã bị người ta mang đến cây ATM nhiều lần để rút tiền từ ngày 24 đến ngày 26, nhưng vì mật mã nhập sai nên tiền trong thẻ không mất một xu nào.
Rõ ràng Cố Vĩ Dân yêu tiền hơn tính mạng, do không chịu cung cấp mật khẩu đúng nên mới bị bỏ đói đến chết. Nhưng cho dù nạn nhân có cho mật mã đúng cũng chưa chắc đã có thể thoát chết. Chắc là nạn nhân muốn kéo dài thời gian nhưng lại không thể chạy trốn hay cầu cứu thành công, xem ra hung thủ đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng.
Tôi phấn chấn trở lại: “Hiện giờ có hai vấn đề tôi cần nói rõ. Thứ nhất, hung thủ chắc chắn có hai người trở lên. Vì khi một hung thủ đi rút tiền, Cố Vĩ Dân hoàn toàn có thể tri hô kêu cứu, tại sao anh ta không hô lên? Vì còn có một người nữa đang canh chừng. Thứ hai, người đi rút tiền là nam hay nữ?”
“Lúc nào cũng là một cô gái sành điệu.” Giám đốc Hoa xác nhận.
Tôi nói tiếp: “Người còn lại rất có khả năng là một gã đàn ông biết hàn điện, đồng thời cũng là kẻ giữ súng. Chúng ta đã có ảnh chụp của cô gái tại cây ATM chưa?”
Giám đốc Hoa nói: “Tuy cô ta đều rút tiền vào ban đêm, nhưng không cần xử lý hình ảnh vẫn nhận diện rõ.”
“Vậy thì,” tôi nói, “giờ chúng ta hãy cầm ảnh của cô ta đi tìm ông chủ nhà trọ Cao Trào, lần này thì kiểu gì ông ta cũng sẽ phải nhận ra!”
Cả đám chúng tôi kéo đến nhà trọ Cao Trào, một nhà trọ cũ nát nằm trong một con ngõ tồi tàn, cũng là một nơi đầy rẫy tệ nạn.
“Tôi nhớ ra cô ta rồi!” Ông ta đã nhớ ra thật. “Cô ta ở trọ chỗ chúng tôi một thời gian, cùng với một người đàn ông.”
“Giờ còn ở đây không?” Tuyến thượng thận của tôi lập tức tiết ra lượng Adrenaline (Một loại hormone do tuyến thượng thận tiết ra khi cơ thể sợ hãi, tức giận, kíƈɦ ŧɦíƈɦ hay thích thú, khiến nhịp tim đập nhanh hơn) tăng vọt.
Ông chủ gật đầu: “Ở đây mấy ngày rồi, hôm qua tôi vừa trông thấy bồ của cô ta ra ngoài.”
“Phòng nào?” Các cảnh sát hình sự đứng quanh tôi rào rào móc súng.
Nào có mấy người được chứng kiến cảnh tượng này? Ông chủ nhà trọ sợ tái mặt, run cầm cập dẫn theo cả toán cảnh sát hình sự âm thầm áp sát phòng 203, sau đó ngoan ngoãn ngồi thu lu ở góc tường, không dám thở mạnh.
Trưởng nhóm trinh sát đạp một nhát bật tung cửa phòng, ập vào đầu tiên, bốn năm người bám sát theo sau.
Nhưng trong phòng lặng phắc, tử khí nặng nề, không một bóng người, ánh mắt của các điều tra viên tràn đầy thất vọng.
“Người đâu? Điều tra viên chính lôi cổ ông chủ vào phòng. “Ông bảo vẫn ở đây cơ mà?”
Ông chủ nhìn khẩu súng trong tay viên cảnh sát, nuốt nước bọt đánh ực, rối rít nói:
“Đúng là ở đây mà, mười ngày trước tới đây ở, không ra khỏi cửa, chỉ có gã bồ ngày nào cũng ra ngoài. Hôm qua gã bồ ra ngoài còn chưa quay về, chắc chắn cô ta chưa đi khỏi đây đâu. Phải đấy, chắc chắn là chưa ra khỏi phòng. Ngày nào tôi chẳng ngồi trông ở quầy bar, cô ta lúc nào cũng thơm nức mũi, nếu đi ra thì tôi phải biết chứ. À, nhưng nếu cô ta lén đi vào buổi tối thì cũng có lẽ là tôi không biết thật.”
“Rốt cuộc là ông có biết hay không?” Điều tra viên nghiêm giọng quát hỏi.
Tôi xua xua tay, hít ngửi mấy cái. Theo kinh nghiệm nhiều năm làm nghề pháp y, trong phòng hình như có mùi là lạ, pha trộn giữa hương nước hoa và mùi thối.
Tôi đi vòng quanh rồi đột ngột lật tung một tấm ván giường lên, gầm giường trống không. Tôi lại lật ván chiếc giường còn lại, thình lình hiện ra thi thể một cô gái mặc áo ngủ nằm dưới gầm giường.
Điều tra viên bàng hoàng kinh ngạc, ông chủ nhà trọ kinh hãi ngã phệt mông xuống đất.
“Ngay từ đầu tôi đã nghi ngờ cô gái sẽ bị diệt khẩu, đáng tiếc là chúng ta tới chậm hai ngày.” Tôi nói.
“Gã bồ đã gϊếŧ cô ta, đúng không?” Điều tra viên hỏi.
Tôi lấy ra đôi găng tay từ trong hòm đồ nghề, lật mí mắt của nạn nhân lên xem, rồi ấn ngón tay vào vết hoen tử thi, nói:
“Giác mạc đục vừa phải, ấn xuống vết hoen không thấy nhạt màu, hiện tượng co cứng bắt đầu giảm bớt, chắc đã chết một ngày trở lên.”
“Gã bồ cô ta rời khỏi đây vào hôm qua,” điều tra viên nói, “chứng tỏ hắn chính là nghi phạm số một.”
Tôi gật đầu, nói: “Ông chủ, ông còn nhớ người đàn ông đó hình dáng thế nào không?”
Ông chủ đờ đẫn gật đầu.
“Lập tức dẫn ông ta về tỉnh lỵ, mời chuyên gia đến vẽ mô phỏng chân dung đối tượng.” Tôi nói. “Chuyển thi thể về, chúng tôi sẽ khám nghiệm xem có phát hiện ra manh mối nào không. Còn nữa, sao trong phòng lại trống trơn vậy? Ít nhất cũng phải có quần áo của cô ấy chứ?”
Lão chủ len lén nhìn tôi một cái, nói: “Gã bồ lúc đi xách theo một cái túi to.”
“Thế mà ông cũng không hỏi?” Điều tra viên nói.
“Hắn nộp nhiều tiền đặt cọc rồi mà.” Ông chủ nói. “Không nợ tiền thì tôi không sợ hắn chạy làng.”
“Vấn đề là hắn đã chạy mất rồi!” Điều tra viên bực bội than thở.
Thi thể bình thản nằm trên bàn giải phẫu.
Tôi cầm tấm hình của người đi rút tiền ở cây ATM lên xem, giống hệt như nạn nhân.
“Đúng là mình làm mình chịu.” Tôi nói. “Cứ tưởng vơ được một khoản, lại bị chính đồng bọn bóc lột.”
“Bóc lột?” Đại Bảo hỏi.
Tôi gật đầu:
“Anh không thấy ngón tay của nạn nhân giống hệt như Cố Vĩ Dân à? Là ngón đeo nhẫn ấy, nhẫn bị lột mất rồi. Lỗ tai cô ta còn căng ra, có vết xây xước, cho thấy sau khi chết, cô ta đã bị giật mất hoa tai. Hung thủ cướp bóc cả đồ trang sức của một cô gái, cho thấy hắn khát tiền đến mức nào.”
“Hung thủ còn giấu giếm tử thi, cố tình kéo dài thời gian để bỏ trốn.” Đại Bảo nói.
Tôi kiểm tra bộ phận sinh dục của nạn nhân, không hề có tổn thương, cũng không có phản ứng với tϊиɦ ɖϊƈh͙, bèn nói: “Không quan hệ tìиɦ ɖu͙ƈ trước khi chết.”
“Ai bảo là không có?” Đại Bảo cầm lên một tờ giấy thử tϊиɦ ɖϊƈh͙, nói. “Mẫu vật lấy từ trong miệng có phản ứng dương tính với tϊиɦ ɖϊƈh͙.”
“Ái chà!” Tôi nhướng mày. “Anh đúng là cái gì cũng biết, thế mà cũng nghĩ ra được.”
Đại Bảo đắc ý: “Ờ… pháp y thì cái gì mà chẳng biết.”
“Có lẽ chúng ta đã thu được ADN của hung thủ.” Tôi nói. “Tiếp theo, cần phải tìm cách thu hẹp phạm vi điều tra.”
“Thực ra thì chỉ cần điều tra rõ lai lịch của cô gái,” Đại Bảo nói, “như vậy thì lai lịch của gã đàn ông sẽ rõ ngay thôi, hai người họ có quan hệ mật thiết với nhau mà.”
Tôi nói: “Dấu hiệu ngạt thở rất rõ ràng.”
Đại Bảo băn khoăn: “Hay là lúc làm chuyện đó bị cái đó chẹn cổ?”
Tôi lườm Đại Bảo: “Cái đó là cái gì? Anh nghĩ cái gì thế? Anh nhìn mà xem, niêm mạc môi miệng và răng nạn nhân đều bị xuất huyết, đây chính là đặc trưng của ngạt thở cơ học khi bị vật mềm bịt chặt mũi miệng.”
“Nguyên lý cũng na ná nhau cả thôi.” Đại Bảo cãi cố.
“Khác nhau nhiều chứ.” Tôi nói. “Nếu tử vong khi làm chuyện đó, cùng lắm chỉ là ngộ sát thôi. Còn thình lình bịt chặt mũi miệng khi nạn nhân không đề phòng, hoàn toàn không có dấu vết khống chế hay kháng cự, đây chắc chắn là cố ý gϊếŧ người.”
“Cũng chẳng quan trọng nữa.” Đại Bảo nhún vai, “hung thủ đã gϊếŧ người, bắt được kiểu gì cũng phải ăn đạn.”
Tôi không nói gì nữa, tìm kiếm một vài thứ có thể chứng minh lai lịch trên thi thể nạn nhân.
“Anh nói xem, trong cái huyện lỵ nhỏ bé này thì có được bao nhiêu tụ điểm giải trí trá hình nhỉ?” Tôi hỏi.
Mặt Đại Bảo nghệt ra: “Chắc cũng chẳng nhiều đâu. Có bao nhiêu nơi, đồn cảnh sát địa phương sẽ nắm rõ cả.”
Tôi bỏ găng tay và bộ quần áo giải phẫu, gọi cho giám đốc Hoa: “Giám đốc Hoa, nhờ anh phái điều tra viên mang ảnh của nạn nhân nữ tới một vài tụ điểm giải trí có gái mại dâm để hỏi xem có ai nhận ra nạn nhân không?”
“Em dựa vào đâu mà nói nạn nhân là gái mại dâm?” Đại Bảo hỏi.
Tôi chỉ vào đáy huyệŧ của nạn nhân, nói: “Anh nhìn cổ đáy huyệŧ mà xem, có thể khẳng định cô gái này chưa từng sinh nở, đúng không?”
Đại Bảo gật đầu.
Tôi lại đeo găng tay vào, vạch đáy huyệŧ ra, nói:
“Vậy tại sao trong đáy huyệŧ lại có vòng tránh thai? Em thấy cô gái mang vòng tránh thai là rất khả nghi, rất có thể là đã từng hoặc đang hành nghề đó. Chúng ta đừng quên, nếu vụ án này đúng như chúng ta phân tích, dùng mỹ nhân kế để cướp của, thì nơi thuận tiện để săn lùng mục tiêu nhất chính là những chỗ tệ nạn kiểu đó.”
“Reng reng reng…”
Chúng tôi còn chưa về đến khách sạn, điện thoại đã đổ chuông ầm ĩ, là giám đốc Hoa gọi tới:
“Tin tốt lành đây! Đã điều tra ra lai lịch của cô gái, Tiêu Mẫu Đơn, người huyện Dương Cung, làm tiếp viên ở một quán bar, thỉnh thoảng có đi khách.”
Sáng sớm, tôi đang ngủ thì bị Lâm Đào đá cho một cái, tôi ngồi bật dậy, uể oải vươn vai.
“Bắt được hung thủ rồi.” Lâm Đào miệng đầy bọt ngậm lúng búng cái bàn chải nói.
“Nhanh thế à?”
Tôi ngạc nhiên. “Mới tối qua biết được lai lịch của Tiêu Mẫu Đơn, hôm nay đã bắt được hung thủ rồi á?”
“Đúng vậy!” Lâm Đào súc miệng nói. “Tớ vừa nhận được điện thoại, nói là đã điều tra ra Tiêu Mẫu Đơn trước giờ chỉ chung thủy với một gã đồng hương, tên là gì nhỉ, hình như Dương Dũng thì phải. Chúng ta đoán không sai, hồi còn ở quê, Dương Dũng là thợ hàn điện.”
Tôi “ồ” lên một tiếng, hỏi: “Thế vừa nghe là thợ hàn đã bắt người luôn à?”
“Phải!”
Lâm Đào nói.
“Tớ cũng không ngờ họ lại hành động chớp nhoáng như thế, ngay chiều qua đi luôn đến huyện Dương Cung, sáng sớm nay chặn Dương Dũng tại nơi tạm trú của hắn ở quê. Nghe nói còn xảy ra đấu súng nữa đấy. Nhưng Dương Dũng chỉ có khẩu súng săn tự chế nên chẳng nhằm nhò gì, mới một chốc đã từ bỏ ý định kháng cự, bị bắt sống. Vừa nãy lúc tớ nhận điện thoại, họ đã thẩm vấn xong Dương Dũng ở ngay huyện Dương Cung rồi.”
“Khai cả rồi à?” Tôi phục sát đất năng suất làm việc của cảnh sát hình sự Phổ Trấn. “Đúng là có súng thật.”
Lâm Đào vuốt tóc, đắc ý nói:
“Việc này chúng ta cũng có công mà. Vì cậu phân tích rằng hung thủ có khả năng có súng nên cảnh sát mới nâng cao cảnh giác, không ai bị thương. Mấy vết vân tay tớ lấy được tại hiện trường, qua đối chiếu, đều là của Dương Dũng. Tuy chưa có kết quả ADN nhưng chứng cứ rành rành như thế, hắn có cãi đằng trời.”
“Tuyệt vời!”
Tôi nhảy phóc dậy. “Mau lên, nhờ họ fax biên bản hỏi cung về đây trước, tớ sốt ruột quá rồi, phải xem xem họ đã cấu kết với nhau gây án ra sao? Tại sao lại phải gϊếŧ Lý Đại Trụ? Rồi tại sao lại gϊếŧ hại lẫn nhau?”
Dương Dũng là trẻ mồ côi, hắn và Tiêu Mẫu Đơn cùng lớn lên trong cô nhi viện, là bạn thân từ tấm bé.
Dương Dũng có cái tật cứ cờ bạc vào là không còn màng đến chuyện gì. Vì muốn giúp Dương Dũng trả nợ bạc, Tiêu Mẫu Đơn đã rời khỏi Dương Cung tới huyện Phổ Trấn tìm việc. Thân gái dặm trường, chỉ một phút sa chân, cô đã trở thành gái bán hoa.
Số tiền mà Tiêu Mẫu Đơn gửi về tuy có thể tạm thời giúp Dương Dũng thoát khỏi cảnh nợ nần, nhưng mối nghi ngờ của hắn đối với Tiêu Mẫu Đơn cũng ngày một lớn dần. Rồi một hôm, Dương Dũng âm thầm tìm đến Phổ Trấn, bất ngờ ập vào nơi ở của Tiêu Mẫu Đơn.
Hắn nhìn thấy một gã to béo đang thô lỗ đè Tiêu Mẫu Đơn xuống giường.
Dương Dũng đánh cho lão một trận nhừ tử, tuyên bố sẽ giải kẻ cưỡиɠ ɦϊếp bạn gái mình tới đồn công an. Nhưng thật không ngờ, lão chẳng hề giải thích dài dòng, chỉ ném lại ba nghìn tệ rồi nghênh ngang bước đi, bỏ lại Tiêu Mẫu Đơn và Dương Dũng cứng họng nhìn nhau.
Vì vậy, Dương Dũng và Tiêu Mẫu Đơn đã phát hiện ra một cơ hội làm ăn.
Họ cùng thuê phòng, làm một cái lồng, Tiêu Mẫu Đơn phụ trách tìm kiếm con mồi thích hợp ở quán bar. Họ dự định đánh một quả lớn. Trước khi phát hiện ra Cố Vĩ Dân, họ chưa tìm được mục tiêu nào ra hồn.
Hôm ấy, Cố Vĩ Dân bị Tiêu Mẫu Đơn lừa đến phòng trọ, rồi bị Dương Dũng gí súng vào đầu, nhốt vào lồng sắt. Trong suốt hai, ba ngày bị giam nhốt, Dương Dũng và Tiêu Mẫu Đơn đã tra hỏi được cả thảy sáu, bảy mật khẩu từ miệng Cố Vĩ Dân. Mẫu Đơn phải ra ngoài sáu bảy lần, nhưng đều tay trắng trở về. Trong cơn giận dữ, Dương Dũng định đánh chết Cố Vĩ Dân, nhưng rồi lại không đành lòng từ bỏ hai tấm thẻ tín dụng màu vàng trông đầy hứa hẹn.
Chiều ngày 25, sau khi bàn bạc, Tiêu Mẫu Đơn lại đi ra ngoài lần nữa, lấy cớ là muốn đóng đồ gia dụng để lừa Lý Đại Trụ đang đi dọc đường tìm khách đến phòng trọ của mình, sau đó Dương Dũng đã gϊếŧ chết Lý Đại Trụ ngay trước mặt Cố Vĩ Dân.
Khi dòng máu nóng hổi từ trong động mạch của Lý Đại Trụ phụt thẳng vào mặt Cố Vĩ Dân, đúng là Cố Vĩ Dân đã sợ đến hồn bay phách lạc, thế nhưng chiêu gϊếŧ gà dọa khỉ của Dương Dũng lại chẳng thể dọa nổi anh chàng Cố Vĩ Dân vắt cổ chày ra nước. Cho đến lúc Cố Vĩ Dân bị sốc vì mất nước, sợ hãi và đói khát, Dương Dũng và Mẫu Đơn vẫn chưa có được mật khẩu thẻ tín dụng.
Lấy được một vạn tệ trong ví cùng với đồng hồ và nhẫn của Cố Vĩ Dân, Dương Dũng và Tiêu Mẫu Đơn không muốn ở chung phòng với hai cái xác nữa, liền vội vàng rời khỏi hiện trường.
Ở trong nhà trọ, Tiêu Mẫu Đơn cứ nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn khi Cố Vĩ Dân gϊếŧ chết Lý Đại Trụ là lại không sao chợp mắt được. Sau khi đấu tranh tư tưởng kịch liệt, cô ta bắt đầu khuyên Dương Dũng đến đồn công an tự thú.
Liên quan đến sự an nguy của chính mình, tình yêu chẳng là gì nữa. Vì thế, Dương Dũng đã nhân lúc Mẫu Đơn đang ngủ để gϊếŧ người diệt khẩu, nuốt gọn số tiền.
Hẳn là hắn không biết, thi thể cũng biết tố cáo; hẳn là hắn không biết, tất cả mọi hung thủ đều sẽ để lại vật chứng dấu vết. Hắn lại càng không thể ngờ được rằng, vừa trốn về quê nhà chưa được hai ngày, đội cảnh sát hình sự đã từ trên trời rơi xuống.
“Câu chuyện đúng là rất đơn giản.”
Tôi nhìn con dấu đỏ tươi cuối biên bản thẩm vấn, nói, “Chính nạn nhân oan uổng Lý Đại Trụ đã đánh lạc đường chúng ta. Anh ta thật đáng thương.”
Lâm Đào gật đầu:
“Làm việc xấu sẽ nhận phải quả báo. Dương Dũng và Tiêu Mẫu Đơn cũng vậy, Cố Vĩ Dân cũng vậy. Chỉ một quyết định sai lầm mà mất những ba mạng người.”