Ký ức Hakodata
Kết thúc kì thi đầu tiên cũng là lúc hai đứa được nghỉ Giáng Sinh và năm mới. Vào buổi tối ngày hai mươi, chúng tôi bắt xe bus đêm đi Aomori và Hokkaido. Lịch trình chỉ vỏn vẹn sáu ngày năm đêm. Chuyến đi ngắn ngủi nhưng bù lại, tôi có hai đêm ở cạnh cô ấy trên xe bus. Cô ấy uống thuốc chống say, lên xe đã bắt đầu li bì. Tôi ngồi ghế bên cạnh, ghế xe nhỏ và chật, cả đêm không dám cựa mình cho chú chim sẻ bên cạnh tựa vào tay ngủ ngon lành. Khi cô ấy áp chiếc má bầu bĩnh và mềm mại vào cánh tay của tôi, trái tim dường như đang cựa quậy. Tôi tháo một bên tai nghe, khẽ khàng đút vào một bên lỗ tai nhỏ xinh của cô ấy. Ở đâu đó trong thẳm sâu, tôi hi vọng cô ấy sẽ nghe được giai điệu thầm kín mà cháy bỏng của “Lemon”:
(Quá khứ đen tối ấy của anh tưởng như đã chôn giấu không thể nói ra, có lẽ anh sẽ mãi ở trong bóng tối nếu như em không xuất hiện…)Xe đến ga Aomori lúc sáu giờ kém, tiếng người lái xe vang lên trên loa, tôi giật mình tỉnh giấc, nhìn xuống bên cạnh thấy cô ấy vẫn ngủ ngon lành. Tôi khẽ khàng gọi, cô ấy mơ màng mở mắt rồi phấn khích reo lên:
“Anh đến Aomori rồi. Em muốn đi xem Hakkodamaru trước, sau đó đi thành cổ Hirosaki, rồi thăm quan Sannai Maruyama. Còn gì nữa nhỉ? À đi ăn táo ở Hirosaki Apple Park rồi uống rượu táo ở A factory.”
“Trước tiên em hãy gấp chăn, đi giày vào trước khi tài xế tống cổ chúng ta xuống xe.”Tôi đã đến Aomori nhiều lần trong suốt những năm tháng một mình ở Nhật, nó chưa bao giờ có gì đó quá hấp dẫn với tôi. Nhưng sau hôm nay, mọi thứ có lẽ sẽ khác đi rất nhiều. Xuống khỏi xe thì trời đổ mưa rét buốt, nhiệt độ xuống dưới âm độ, xem ứng dụng thời tiết báo hai ngày mưa tuyết. Cô ấy có vẻ tiu nghỉu. Chúng tôi vào Lawson mua đồ ăn sáng. Một tháng đến Nhật, cô ấy chỉ toàn ăn cơm nắm và bánh mì, không ăn được đồ gì khác. Nếu không kịp nấu cơm, có khi cô ấy ăn táo hoặc chỉ uống sữa đi học. Ngày mới đến, trông cô ấy còn khá mũm mĩm, có đôi phần trẻ con, bây giờ chiếc xương quai xanh đã hằn rõ sau lớp áo nỉ dày, nhưng vẫn may, đôi má bầu bĩnh không thay đổi nhiều lắm. Tôi lấy một cốc cà phê đen không đường cho mình và trà sữa trân châu cho cô ấy, nhưng khi đem ra, cô ấy liền đổi lấy phần của tôi. Tôi nhấp thử một ngụm trà sữa nhỏ, cảm thấy cái vị ngọt ấy thật khó nuốt, không hiểu vì sao đám con gái thích thứ với thứ nước có phần giả tạo này như thế. Cuộc đời là một ly cà phê thẳm sâu và đắng chát mùi vị cô độc.
Cô ấy cắm ống hút, hút một hơi hết sạch. Tôi bật cười, không có ai uống cà phê như vậy cả. Rồi cô ấy quay ra nhìn tôi, tóm lấy cốc trà sữa trên tay, thêm một hơi nữa, cốc trà sữa cạn đáy.
“Đắng và ngọt. Đây gọi là đời đấy ạ.”
“Em có thể uống cà phê sữa.”
“Em thích cà phê đen đá, cũng rất thích trà sữa, nhưng không có hứng thú với những thứ nửa nọ nửa kia.” - Người nghiện cà phê có nhiều loại, nhưng người thật sự thích cà phê thì chẳng bao giờ thích bỏ gì cả.
Chúng tôi thuê hai phòng trong một khu nhà gỗ nằm bên núi. Nếu Yamagata giống như một Sa Pa lặng lẽ thì Aomori hệt như Đà Lạt thơ mộng của những ngày tháng xưa cũ. Aomori bình dị với vẻ đẹp trong trẻo và nguyên sơ làm tôi nhớ về vẻ đẹp của Đà Lạt trong ký ức bảy tuổi đã mờ. Mưa và tuyết khiến kế hoạch của chúng tôi hoàn toàn bị phá hỏng. Chúng tôi ở trong căn phòng gỗ nhỏ suốt hai ngày chỉ để nhìn mưa rơi qua ô cửa kính, phía khoảng sân bên ngoài có cây anh đào trụi lá, nhưng chủ nhà đã treo lên những cái ô nhiều màu sắc, nhìn từ xa như những cây nấm nhỏ mọc giữa trời. Dưới thân cây đặt một pho tượng phật nhỏ, mắt nhắm, an nhiên giữa đời. Căn phòng của cô ấy nhỏ nhất nhưng ấm áp, tôi chọn nó bởi nó áp mái và là phòng duy nhất có thể nhìn ra hai phía. Trái nhà sau nhìn ra núi, núi thoai thoải phủ trắng bởi tuyết không thấy người, chỉ có tiếng gió rít qua khe vọng vào vách núi, tiếng quạ thê lương và tiếng cây xào xạc. Cô ấy nói đó là thứ thanh âm của cô độc. Hai ngày chỉ nằm cuộn chăn, đốt củi, nhìn trời lúc chuyển xám cô đơn lúc trắng trong tuyệt vọng, mưa rồi tuyết, hóa ra, bình yên cũng có lúc đáng sợ như vậy. Buổi tối đầu tiên về phòng, chúng tôi đi siêu thị, mua mì cay về nấu một nồi lớn rồi tranh nhau gắp. Cô ấy ăn cay rất giỏi, thách tôi thi cùng, kết quả, cô ấy nước mắt nước mũi tùm lum, bỏ dỏ nửa bát mì, còn tôi vẫn ăn thản nhiên. Có lẽ, cô ấy quên mất tôi là người gốc Huế, không nên thách người Huế ăn ót.
Tám giờ tối, chúng tôi ra ga, ngồi chờ lên tàu di chuyển tới Hakodate. Trước khi rời khỏi Aomori, chúng tôi nướng cá và uống rượu táo. Chim sẻ tóc nâu uống khá nhiều nhưng không biết say, còn chê tôi mua rượu dởm. Tôi cũng không say, một người biết uống rượu từ năm mười một tuổi thì dễ gì say nhưng mùi hương của thảo mộc trên tóc cô ấy làm tôi chếnh choáng thật khó chịu. Ngồi trên tàu cô ấy ngủ, chỉ có tôi còn thao thức bên cạnh. Đầu cô ấy ngoẹo về phía thành ghế, có vẻ rất khó chịu. Tôi đưa tay trái ra, nhẹ nhàng đặt đầu cô ấy tựa lên tay của mình. Bất ngờ, cô ấy mở tròn mắt nhìn tôi rồi xoay người nằm xuống, đầu gối lên đùi tôi một cách đầy thoải mái. vẫn là mùi của cỏ cây phảng phất trong không khí làm tôi tê dại.
Mười giờ ba mươi đêm Noel, chúng tôi đến Hakodate. Lần thứ ba, tôi trở lại thành phố này, nhưng là lần đặc biệt nhất, tôi chưa từng đi cùng ai đến đây trước kia. Cô ấy giống tia nắng sớm, mỏng manh nhưng mạnh mẽ và dứt khoát len lỏi vào thế giới của tôi từng chút, từng chút một. Tôi rít một hơi dài, mùi khét của bạc hà xộc vào mũi làm cay mắt nhưng tỉnh táo. Cô ấy đứng bên kia đường, ngơ ngác như chim sẻ sau màn mưa, ngơ ngác vì mới tỉnh ngủ, ngơ ngác vì cảnh vật lạ lẫm, ngơ ngác vì điều gì nữa, tôi không biết. Nhưng tôi ước gì đôi mắt tròn xoe đang ngơ ngác ấy sẽ dừng lại nơi vị trí mà tôi đang đứng. Đêm Giáng Sinh, tất cả đều thong thả, người qua lại đều có đôi có cặp cười nói, đều sum vầy trong niềm hạnh phúc và ấm áp của gia đình, có hai chiếc bóng đổ xuống lòng đường lặng lẽ. Tôi hút hết điếu thuốc, tiến về phía bên kia đường, cô ấy vẫn đứng tựa người vào cột đèn, mái tóc xoăn dày như sóng nước xõa tung trong gió. Cô ấy đội một chiếc mũ beret xinh xắn màu nâu, hòa vào màu tóc vốn có, mọi thứ ăn nhập với nhau làm tôi khựng bước. Cô ấy ngoảnh lại, nhìn tôi toét miệng cười:
“Anh uống bia ăn khoai lang nướng bao giờ chưa?” - Tôi lắc đầu.
“Để em làm host đêm nay.”
“Em tự tin đấy nhỉ!”
“Xời ơi, anh hãy bớt tinh vi đi Min ạ.” - Tôi vui vui khi cô ấy gọi tên tôi thay vì là Senpai một cách xa lạ.
“Liệu có vinh hạnh sử dụng đến 10 hộp Berberin mà quý phụ mẫu đã chuẩn bị không cô nương?”
“Anh sợ thì thôi, em ăn hết đừng có xin.”Nói rồi cô ấy đút tay vào túi áo hùng hổ bước về phía trước, không thèm nhìn lại phía sau. Tôi mỉm cười, con chim sẻ cố chấp ấy đã bao giờ sợ điều gì. Hakodate về đêm lung linh và nhộn nhịp, thấp thoáng cảnh sắc cổ kính của Châu Âu và huyền bí của Châu Á cũng chính thế mà nó có màu huyền ảo trong những truyện cổ ngàn lẻ một đêm. Tôi bước đi đằng sau cô ấy, giọng hát của Teshima Aoi như vang lên ở đâu đó:
(“Con thuyền trôi nổi trên mặt biển lấp lánh
Mùi hương của hàng thông xanh biếc
Nhưng điều đó lại thật buồn
Dù giờ đây chỉ còn mình em lẻ loi
Nhưng em vẫn biết rằng mình có thể tự làm được mọi thứ.”)Cô ấy lấy điện thoại, gõ tìm kiếm gì đó. Tôi im lặng bước theo. Một cửa hàng, à đúng hơn, là một xe đẩy bán khoai nướng và bánh bạch tuộc nướng bốc khói nghi ngút ở cuối đường. Cô ấy phấn khích vỗ tay chạy đến. Sau đó, một bịch to đầy ắp khoai lang nướng nóng hổi tỏa mùi thơm ngào ngạt nằm trên tay, chúng tôi ghé qua FamilyMart mua bia. Cô ấy không lấy bia lon mà chọn bia chai, mười hai chai Sapporo loại 650ml, nồng độ 7%, tôi nhìn cô ấy với ánh mắt nghi hoặc. Cô ấy lè lưỡi, búng tay rồi thanh toán. Mười hai giờ, tiếng chuông nhà thờ điểm vang, tôi và cô ấy ngồi bên ghế đá bóc khoai ăn ngấu nghiến. Vị khoai ngọt bùi hòa vào vị đắng của bia, nghĩ là không hợp mà hóa ra đồng điệu biết nhường nào. Cô ấy luôn làm những điều lạ lùng mà tuyệt vời khiến người khác phải bất ngờ.
Cô ấy vẫn lặng lẽ bóc khoai, dưới ánh đèn đêm, trên nền tuyết trắng, đôi má hồng hào mịn màng như phát sáng. Bất giác, tôi đưa tay chạm vào bên khóe môi, cô ấy thoáng rùng mình. Những ngón tay run rẩy mà cố chấp nhích dần lên cái má tròn tròn ấm áp.
“Gì vậy?”
“À, có vết nhọ ở đây.” - Tôi đứng dậy, quay vội về phía khác.
“Này ăn gian vừa thôi.” - Tôi ừ hứ, cô ấy đã nhảy đến gần, đột ngột kiễng lên, một mùi thảo mộc sượt qua mũi làm tôi cồn cào. Tôi cao một mét bảy mươi tám, còn cô ấy chỉ ước chừng khoảng một mét năm mươi tư, năm lăm. Con chim sẻ ấy cứ loi choi kiễng chân nhảy nhảy cố tóm gì đó, không biết rằng có người đang phải cố gắng kiềm chế.
“Em dùng dầu gội gì vậy?”
“Hử? Dove. Làm sao?”
“Không. Anh thấy giống mùi cứt trâu.”
“Này, có ai bảo anh không những xấu người còn mất nết chưa?”
“Không. Họ khen anh đẹp trai, tử tế, tài năng.”
“Ối dồi, buồn nôn quá.”“Ha ha.” - Tôi chụm hai chai bia lại để mở, những ngụm bia đắng chầm chậm chảy xuống cổ, thấm vào từng mạch máu, lan tỏa khắp cơ thể làm sức nóng bừng lên, tôi cố gắng nhìn ra phía khác. Cô ấy vẫn cắm cúi ăn khoai. Con chim sẻ này, ăn gì không ăn, chỉ toàn đòi ăn mấy món rẻ tiền.
“Min…”
“Ừm…”
“Anh có bao nhiêu bạn gái?”
“Gì?”
“Là có bao nhiêu mối tình?”
“Không ai cả.”
“Lại phét.”
“Còn em?”“Một.” - Tôi không hỏi, cô ấy nghiêng đầu uống một hơi gần hết một chai bia mới.
“Min, anh có bao giờ muốn có một mối tình không ràng buộc không?”
“Là sao?”
“Là chỉ yêu nhau thôi, là yêu nhau như người tình. Là bên nhau mãi mãi nhưng không kết hôn, không sinh con.” - Tôi quay người lại, nhìn sâu vào cô ấy. Ánh trăng đêm ấy sáng vằng vặc, những ngọn đèn đường đêm ấy lung linh ngàn sắc, nhưng tất thảy thu lại trong ký ức đẹp đẽ mà ít ỏi của tôi chỉ là một đôi mắt nâu tròn xoe, lấp lánh và ngọt ngào nhìn tôi đầy kiên định.
Là người tình sẽ luôn yêu nhau như thuở đầu tiên.
Là người tình sẽ luôn bên nhau bất kể thế giới ngoài kia có ngoảnh mặt đi chăng nữa.
Là người tình sẽ luôn đi cùng nhau đến bất cứ nơi đâu mình thích.
Là người tình sẽ nắm chặt tay nhau trên đường phố đông, sẽ hôn nhau khi mình muốn không ngại ngùng.
Là người tình sẽ không nói yêu nhau mãi mãi nhưng là yêu thoải mái hết mình.
Nhưng là người tình để nếu một ngày mình hết yêu nhau thì cũng không cần vướng bận mà ra đi đúng không em?