Jane Eyre - Charlotte Bronte

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Image



Jane Eyre

Charlotte Bronte

Thể loại: Tiểu thuyết
Người dịch: Nguyễn Tuyên

Jane Eyre là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nữ tác giả người Anh Charlotte Bronte thế kỷ 19. Tác phẩm nói về cuộc đời của một người con gái nghèo tỉnh lẻ đã kiên cường vật lộn với số phận phũ phàng để bảo vệ phẩm giá và tự khẳng định vị trí xã hội của mình bằng cuộc sống lao động lương thiện.
Với văn phong trữ tình, kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa nhân văn, hiện thực lãng mạn, bút pháp tinh tế điêu luyện, tác giả đã tạo cho tiểu thuyết một sức sống mạnh mẽ, sức cuốn hút thi vị và một vẻ đẹp thơ mộng.
Những chặng đường ta đã đi qua dù có nhiều sóng gió và khó khăn, ấy thế nhưng những khó khăn và sóng gió ấy nó cũng chỉ biến động trong khuôn khổ gia đình mà ta đang và đã sống. Nếu một ngày nào đó ta không còn có một gia đình, ta không còn được yêu thương, ta không còn một chỗ để bấu víu và nhất là ta không còn một con đường nào để đi thì ta sẽ ra sao. Có thể ta tuyệt vọng và rơi vào vực thẳm của khổ đau không còn lối thoát. Nhưng Jane Eyre thì lại khác.
Ngay từ nhỏ cô đã phải sống với sự ghẻ lạnh của dì và những trận đòn tai ác của cậu em. Rồi lại phải sống trong sự khắc nghiệt của tu viện Giáo hoàng bởi những quy định hà khắc giết dần đi ý chí và khát vọng của con người. Những tưởng rằng chừng ấy đau khổ đã đủ đến với cuộc đời của cô, nhưng không, bất hạnh còn ở phía trước. Ra khỏi tu viện, được đến dạy học cho một cô học trò nhỏ tại một dòng họ giàu có. Ở đây, cô đã gặp được một nửa của đời mình, nghĩ rằng hạnh phúc đã mỉm cười thế nhưng cô cũng phải rời xa nó bởi cá tính không muốn bị ràng buộc, không muốn bị phụ thuộc của mình. Cô lang thang vô định mà không có bất kì một nơi nào là đích đến. Cô đơn và tuyệt vọng. Thế nhưng bằng chính nghị lực sống và ý chí của mình cô đã đi qua mọi đau khổ bằng nước mắt để cuối cùng hạnh phúc cũng đến với cô khi cô gặp lại người yêu và sống êm ấm.

Jane Eyre được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1847 và đã được tái bản rất nhiều lần ở nhiều nước trên thế giới. Là một tác phẩm lãng mạn cổ điển, phảng phất màu sắc huyền bí của thể loại “tiểu thuyết gothic”, thể hiện những trải nghiệm cuộc đời của chính tác giả, Jane Eyre kể về số phận của một cô gái mồ côi đã biết vượt lên sự nghiệt ngã của cuộc sống, sự hà khắc của lễ giáo và đẳng cấp để tìm cho mình một hạnh phúc bé nhỏ…
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, anhhat26

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

CHƯƠNG 1


Không thể dạo chơi được ngày hôm ấy. Thực ra vào buổi sáng, chúng tôi cũng đã thơ thẩn lang thang suốt cả tiếng đồng hồ bên các lùm cây trụi lá, nhưng sau bữa tối (mỗi khi không có khách, bà Reed thường dọn cơm ăn sớm) thì gió đông chợt tràn về cuốn theo những đám mây tối sầm, rồi đến một trận mưa lạnh buốt đến nỗi chẳng có ai nghĩ đến việc bước chân ra khỏi nhà.
Nhưng tôi lại lấy thế làm vui, đơn giản là tôi vốn không thích những cuộc dạo bộ dài dài, nhất là vào những buổi chiều rét mướt. Quả thực tôi thấy sợ phát khiếp khi nghĩ đến lúc trở về nhà giữa cảnh chiều đông nhá nhem, ngón chân ngón tay cước giá tê tái, trong lòng khổ sở vì những lời mắng mỏ của chị * nuôi Bessie cùng sự tủi nhục vì lại thấy mình thấp hèn hơn cả Eliza, John và Georgiana Reed.
Những cái tên Eliza, John và Georgiana Reed tôi vừa nói hiện giờ đang túm tụm vây quanh bà mẹ trong phòng khách - người đang gác người trên chiếc tràng kỷ đặt cạnh lò sưởi. Trông bà có vẻ thật hạnh phúc với những đứa con yêu quấn quýt quanh mình - lúc ấy chúng chơi ngoan lắm cơ! Nhưng còn tôi, bà Reed không cho lại gần chung vui. Bà bảo "bà rất lấy làm tiếc khi phải cách ly tôi như vậy cho tới khi bà nghe chị Bessie nói, và tất nhiên là cả chính bà cũng nhận thấy tôi đã thực lòng cố gắng sống chan hòa và lễ phép hơn, có cách cư xử hoạt bát và đáng yêu hơn, nói tóm lại là một tính nết nhẹ nhàng hơn, thẳng thắn, tự nhiên hơn. Còn bây giờ thì bà phải tước bỏ của tôi những đặc quyền làm vui vầy trẻ nhỏ''.
- Mợ đã nghe chị Bessie nói những gì về cháu nào? - Tôi hỏi.
- Jane. Đừng có giở cái giọng lếu láo ra mà vặn vẹo tao, mà trẻ con cấm tiệt không được có cái kiểu vặn vẹo bề trên như thế. Tìm chỗ khác mà ngồi đi, chừng nào còn chưa biết ăn nói cho tử tế thì hãy cứ ngậm mồm ngậm miệng lại!
Tôi lẩn sang phòng điểm tâm nằm sát ngay bên phòng khách, trong đó có một tủ sách. Tôi để ý những cuốn có nhiều tranh ảnh, chọn ngay lấy một quyển và leo lên bậu cửa sổ, thu chân ngồi xếp bằng tròn như một người Thổ, rồi kéo tấm rèm dạ đỏ xuống cho thật kín.
Những tấm rèm đỏ tươi che kín tầm mắt bên phải tôi, còn bên trái là những tấm kính trong suốt khiến cho tôi cảm thấy mình được che chở, nhưng không bị ngăn cách với cảnh đất trời ảm đạm một ngày cuối năm. Dù xem sách, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn ngó nghiêng ngắm cảnh chiều đông. Bày ra trước mắt tôi là một màn sương mù nhạt nhòa phía xa xa, gần hơn nữa là một bãi cỏ ướt mềm dưới những lùm cây gục đầu vì bão tố dập vùi cùng những hạt mưa rơi không dứt, những trận cuồng phong gào rú thê lương.
Tôi trở lại với cuốn sách - cuốn Lịch sử các loài chim ở Anh quốc của Berwick. Bình thường, chẳng mấy khi tôi quan tâm đến những dòng chữ, nhưng có một số trang giới thiệu thì dù còn là trẻ con, tôi cũng chẳng thể bỏ qua như những tờ giấy trắng được. Đó là những trang nói về những nơi một số loài hải âu thường qua lại, “những mỏm đá và mũi đất đơn độc chơ vơ” chỉ dành cho những loài chim ấy làm tổ, về bờ biển Norway nhấp nhô những hòn đảo từ cực Nam, Lindesnes hay Naze, cho đến mũi Bắc...
Nơi biển Bắc mịt mùng sóng vỗ
Sôi sục quanh những hải đảo đơn côi
Của miền đất Thule xa xôi; và
Đại Tây Dương bạc đầu giữa trùng khơi
Đổ tràn vào Hebrides cùng phong ba bão tố.


Tôi cũng không thể bỏ qua những dòng nói về các bờ biển lạnh ảm đạm ở Lapland, Siberia, Spitzbergen, Nova Zembla, Iceland, Greenland, với "miền cực Bắc mênh mông và những vùng trời tăm tối hoang sơ quanh năm suốt tháng trập trùng sương tuyết - nơi có những cánh đồng băng rắn chắc tích tụ từ hàng trăm năm, bao phủ lấp lóa trên những đỉnh núi trùng điệp vây quanh miền Bắc cực và cũng là nơi hội tụ cái giá buốt vô cùng khắc nghiệt”. Tôi có một trí tưởng tượng riêng về những miền trắng chết chóc ấy. Nó u ám như những khái niệm mơ hồ vẫn chập chờn mông lung trong đầu óc con trẻ, nhưng lại ấn tượng đến lạ lùng. Những dòng giới thiệu gắn với những hình vẽ minh họa tiếp theo càng tăng thêm ý nghĩa cho mỏm đá đứng bơ vơ giữa biển sóng cồn mịt mù bụi nước, cho con thuyền tan vỡ trôi dạt trên bãi biển hoang vu, cho vầng trăng lạnh ghê người lấp ló sau những làn mây nhìn vào xác thuyền đắm.
Tôi không sao gợi tả được tình cảm trong lòng trước cái nghĩa địa câm lặng quạnh hiu với những mảnh bia đá khắc chữ, vòm cổng vào, hai thân cây trơ trọi, đường chân trời thấp tịt cùng dãy tường đổ vây quanh, và cảnh trăng lưỡi liềm mới nhú như muốn chứng thực cho một thời khắc hoàng hôn đang sắp qua đi.
Hai chiếc tàu dập dềnh một chỗ trên những làn sóng biển uể oải khiến tôi tưởng đó là những bóng ma biển.
Tôi lật nhanh trang có con quỷ buộc chặt cái bị vào lưng gã ăn trộm. Quả là một cảnh tượng thật hãi hùng đối với tôi!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Nhưng khủng khiếp hơn vẫn là con vật đen trùi trũi, đầu mọc sừng, ngồi ngất ngưởng trên mỏm đá giương mắt nhìn một đám đông vây quanh chiếc giá treo cổ phía đằng xa.
Mỗi bức tranh kể một câu chuyện; đối với sự hiểu biết và những cảm xúc còn non nớt của tôi thì đó thường là những chuyện huyền bí, nhưng bao giờ cũng rất thú vị, chẳng kém gì những mẩu chuyện mà thỉnh thoảng chị Bessie, khi thấy vui trong lòng, vẫn kể cho tôi nghe trong những buổi chiều đông. Thường thì mỗi khi đem chiếc bàn dùng để ủi quần áo vào gần lò sưởi trong buồng trẻ, chị lại bảo chúng tôi ngồi quây quần xung quanh rồi kể chúng tôi nghe những mẩu chuyện tình, chuyện phiêu lưu trong các thần thoại cổ và những ca khúc xưa, khiến chúng tôi không dứt ra được. Chị cũng hay kể những mẩu chuyện rút trong cuốn Pamela(1), và cuốn Henry, bá tước xứ Moreland(2).
1. Pamela: tác phẩm của nhà văn Samuel Richardson.
2. Henry, bá tước xứ Moreland: tác phẩm của John Wesley.

Trở lại bên khung cửa sổ, tôi cảm thấy vui vì có cuốn truyện Bewick đặt trên gối, ít ra là vui theo hoàn cảnh của tôi. Tôi chẳng sợ gì mà chỉ lo có người vào phá tan niềm vui nhỏ nhoi của mình, và điều đó đã đến quá nhanh. Cửa phòng điểm tâm bất ngờ mở toang.
- A! Bà già lầm lì đây rồi! - John Reed hét tướng lên nhưng rồi lại im bặt vì thấy hình như trong phòng chẳng có ai.
- Lạ thật, con ranh ấy biến đi đằng nào rồi không biết? - Nó lẩm bẩm rồi gọi ầm lên - Lizzy ơi! Georgy ơi! (tên hai đứa em) Con Jane nó không có ở đây. Chúng mày chạy ra bảo mẹ là nó đã chạy ra ngoài dầm mưa rồi nhé. Đồ thối thây!
"Mình kéo chiếc màn cửa thế mà lại hóa hay" - Tôi nghĩ và thầm khấn để nó đừng tìm ra chỗ mình trốn. Một mình thằng John thì làm sao tìm được chỗ của tôi. Nó không phải là loại nhanh nhẹn, sáng dạ. Còn Eliza thì khác, chỉ vừa thò cổ vào đã phán ngay một câu:
- Jack, thế nào nó cũng nấp sau rèm cửa cho mà xem!
Tôi vội chui ra ngay, vì cứ nghĩ đến đoạn bị cái thằng gọi là Jack ấy lôi xềnh xệch xuống là tôi
đã bủn rủn cả người.
- Có chuyện gì vậy, Reed? - Tôi lúng túng hỏi nó.
- Phải nói rằng: "Thưa cậu chủ Reed, cậu bảo gì ạ?”. Tao muốn mày lại đây. - Nó nạt nộ rồi ngồi phịch xuống ghế bành, tay ra hiệu cho tôi phải lại gần và đứng ngay trước mặt nó.
John Reed là một thằng học trò mười bốn tuổi, hơn tôi bốn tuổi vì hồi ấy tôi mới lên mười. So với tuổi thì nó là một thằng cao lớn, nước tai tái bệnh hoạn, khuôn mặt to bành bạnh và thô kệch, chân tay vụng về thô thiển. Nó quen thói phàm ăn tục uống, nên bị bệnh gan, mắt thì lờ đờ đùng đục, còn má thì phị ra như hai cái bị. Lẽ ra giờ này nó phải ở trường nội trú, nhưng bà Reed đã rước nó về nhà một, hai tháng, để "chăm nom cho sức khỏe mong manh" của cậu con trai quý tử. Ông giáo chủ nhiệm Miles đã nói như đinh đóng cột rằng sức khỏe của nó sẽ chẳng đến nỗi thảm hại như vậy nếu như ở nhà bớt gửi bánh kẹo cho nó đi một chút; nhưng đời nào bà mẹ lại chịu nghe theo cái ý kiến khắt khe như thế, bà chỉ nghĩ rằng thằng John bủng beo chẳng qua là vì chăm học hoặc cũng có thể là vì nhớ nhà quá đấy thôi.
Nhưng John đâu có yêu quý gì mẹ và các em nó. Còn tôi thì khỏi phải nói, tôi ghét nó đến tận xương tận tủy. Nó bắt nạt và hành hạ tôi như tra tấn, không phải vài ba lần mỗi tuần hay vài bữa mỗi ngày, mà là liên tục. Từng dây thần kinh của tôi đều khiếp sợ nó, từng đường gân thớ thịt trên người tôi đều rúm cả lại mỗi khi thấy nó đến gần. Những khi bị nó dọa dẫm, tôi bủn rủn hết cả người vì chẳng còn biết kêu ai. Đám gia nhân trong nhà chẳng ai muốn bênh vực tôi vì sợ làm phật lòng nó. Còn bà Reed thì giả mù giả điếc coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chẳng bao giờ bà trông hoặc nghe thấy thằng con quý tử nhục mạ tôi. Không ít lần nó hành hạ chửi bới tôi ngay trước mặt bà, nhưng thường thì nó hành hạ tôi sau lưng bà.
Theo thói quen nghe theo lời thằng John, tôi bước lại chỗ nó ngồi. Nó cố thè hết cỡ cái lưỡi đến ba phút trước mặt tôi tưởng chừng đứt cuống lưỡi đến nơi. Tôi biết sớm muộn gì thì nó cũng lại đánh tôi; dù sợ bị ăn đòn nhưng tôi vẫn cố mường tượng ra cái bộ mặt ngáo ộp mà nó sắp giở ra với tôi. Không hiểu nom nét mặt tôi, nó có đoán được tôi nghĩ gì không, chỉ biết rằng nó đã chẳng nói chẳng rằng, bất ngờ vồ lấy tôi rồi thượng cẳng tay, hạ cẳng chân đấm đá túi bụi vào người tôi. Tôi loạng choạng suýt ngã nhưng cũng kịp lấy thăng bằng và lùi xa chiếc ghế bành vài bước.
- Tao làm vậy cốt để trị mày vì cái tội lấc cấc với mẹ tao lúc nãy, - nó lên giọng - tội thập thò lẩn lút sau rèm cửa, và cả cái tội mày giương mắt nhìn tao vừa xong, đồ con chuột bẩn thỉu!
Bị nó rủa suốt ngày nên tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện cãi lại, mà chỉ lo làm sao chịu được trận đòn thế nào cũng xảy ra ngay sau những lời chửi rủa.
- Mày đang giở trò gì sau rèm cửa thế hả? - Nó hỏi.
- Tao đọc sách.
- Chìa quyển sách ra đây tao xem nào!
Tôi quay lại cửa sổ lấy quyển sách.
- Hạng như mày mà cũng đòi sách của chúng tao à? Mày là kẻ ăn bám nhà tao, mẹ tao bảo thế. Đến một xu dính túi mày cũng không có, bố mày chẳng để lại gì cho mày. Cái hạng mày lẽ ra phải đi ăn xin mới phải, chứ đâu lại được sống ở đây với con nhà sang trọng như chúng tao, ngồi ăn cùng chúng tao, mặc quần áo bằng tiền của mẹ chúng tao. Được đấy, thế nào tao cũng phải dạy cho mày cách lục lọi giá sách: đấy là sách của riêng tao, cả cái nhà này cũng là của tao, cùng lắm là trong vài năm nữa. Bước ra đứng cạnh cửa đi, nhớ là phải đứng xa cái gương và cửa sổ ra, biết chưa?
Tôi lầm lì làm theo lời thằng ôn mà chưa hiểu nó định làm gì mình. Nhưng khi thấy nó cầm quyển sách và đứng lấy đà chuẩn bị ném, tôi vội tránh sang một bên theo bản năng và hét ầm lên. Nhưng muộn rồi, cuốn sách đã liệng trúng người tôi, làm tôi ngã dúi dụi vào khung cửa đến toạc cả máu đầu. Bị đau điếng và kinh hãi đến cực độ (tiếp theo là những cảm giác khác), tôi uất ức hét lên:
- Đồ dã man cục súc, mày đúng là thằng giết người, tên đồ tể! Mày xem mày có khác gì bọn bạo chúa La Mã không?
Tôi đã đọc cuốn Lịch sử thành Rome của Goldsmith và sẵn có ý niệm về các nhân vật Neron, Caligula... thành ra tự trong đầu đã ngầm so sánh bọn này với thằng John, chứ thực ra tôi không hề nghĩ đến chuyện phải chửa rủa như vậy.
- Cái gì! Mày lải nhải cái gì! - Thằng John gào lên - Có phải nó dám nói với tao thế không? Eliza, Georgiana, chúng mày có nghe thấy nó nói gì không? Chẳng lẽ tao lại không đi mách mẹ được à? Nhưng trước hết...
Nó xông lại túm tóc, túm vai tôi. Được rồi, mày cứ hành hạ con chán sống này đi! Tôi thấy nó đúng là một tên bạo chúa, một thằng giết người. Vết thương trên đầu rỉ máu ròng ròng chảy xuống cổ gây cho tôi một cảm giác đau đớn át đi sự sự hãi, và tôi đã điên cuồng chống trả thằng Reed. Tôi không nhớ rõ tay mình đã làm những gì, chỉ thấy nó hét: “Đồ con chuột! Đồ con chuột!" và rống lên ầm ĩ. Nó đã có kẻ bênh vực ngay bên cạnh. Eliza và Georgiana lập tức chạy lên cầu thang tìm bà Reed. Bà xuất hiện ngay tại trận, theo sau là chị Bessie và cô đầy tớ Abbot. Họ nhảy vào can tôi và thằng Reed:
- Trời ơi! Chết thật! Nó dám đánh lại cả cậu Reed mới gớm chứ!
- Đã ai thấy cảnh tai quái thế này bao giờ chưa?
Rồi bà Reed ra lệnh:
- Lôi cổ nó vào phòng đỏ kia, khóa chặt cửa lại.
Bốn bàn tay lập tức túm chặt lấy tôi và lôi tuột tôi lên bậc cầu thang.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

CHƯƠNG 2


Tôi vùng vằng chống cự suốt dọc đường lên gác, đó là điều tôi chưa từng làm. Sự ngang bướng của tôi càng khiến Bessie và Abbot nghĩ không tốt về tôi. Thực ra thì tôi cũng có sỗ sàng, hay nói như người Pháp, tôi đã phát điên. Tôi hiểu rằng chỉ vì giây phút làm càn mà tôi sẽ phải hứng chịu bao nhiêu hình phạt. Và cũng như bất cứ một kẻ nô lệ nổi loạn nào khác, trong cơn tuyệt vọng, tôi thấy mình phải đi tới cùng.
- Giữ lấy tay con bé, chị Abbot, trông nó chẳng khác nào một con mèo điên.
- Rõ ràng là đồ không biết ngượng! - Chị đầy tớ rít lên - Cô quá lắm, Eyre ạ! Dám đánh lại cậu ấm, con trai ân nhân của mình, cậu chủ của mình!
- Cậu chủ ư! Hạng nó cũng đòi là ông chủ của em ư? Thế chẳng nhẽ em là đầy tớ của nó?
- Không, cô còn chưa bằng cả đầy tớ nữa là đằng khác, vì cô chỉ là một đứa vô tích sự. Đây, ngồi xuống đây mà ngẫm cho kĩ về cái tính đanh đá của mình.
Lúc ấy, họ lôi tôi vào căn phòng bà Reed vừa bảo và dúi tôi ngồi xuống một chiếc ghế đẩu. Máu trong người như sôi lên, tôi đứng phắt dậy như một chiếc lò xo, nhưng bốn cánh tay lại giữ chết lấy tôi.
- Nếu cô không chịu ngồi yên thì có lẽ phải trói cô lại vậy. - Bessie dọa tôi - Lấy cho tôi mượn đôi tất, chị Abbot, tất của tôi sự đứt mất.
Abbot cúi xuống cởi chiếc nịt ở bắp chân chắc lẳn của mình ra. Thấy họ làm thật và nghĩ đến chuyện bị làm nhục một lần nữa, tôi đành phải bớt hung hăng:
- Đừng cởi tất nữa, em sẽ không làm càn nữa đâu.
Như muốn đảm bảo cho lời hứa của mình, tôi ngồi yên, hai tay nắm chặt gờ ghế.
- Nhớ đừng có mà ngọ nguậy nữa đấy nhé. - Bessie nói và khi thấy tôi đã thực sự xuống nước, chị ta mới chịu buông tôi ra. Hai người đứng khoanh tay nghi ngờ nhìn thẳng vào mặt tôi, vẻ như vẫn chưa tin ở sự khuất phục của tôi.
Cuối cùng, Bessie quay sang bảo Abbot:
- Từ trước đến nay nó có làm thế đâu?
- Lúc nào mà nó chẳng thế. - Abbot đáp lại - Tôi vẫn luôn mồm nhắc bà chủ về con bé này, và bà ấy cũng đồng ý với ý kiến của tôi. Nó là một đứa gian xảo, tôi chưa từng thấy đứa con gái nào trạc tuổi nó mà lì lợm đến thế.
Bessie không nói gì, nhưng một lát sau thấy chị quay sang bảo:
- Cô phải hiểu rằng cô mang ơn bà Reed rất nhiều vì công bà nuôi nấng; nếu bị bà ấy đuổi khỏi đây thì cô chỉ còn nước là vào trại tế bần.
Tôi thật không biết nói thế nào trước những lời răn dạy nhạt nhẽo của Bessie. Đây không phải là lần đầu tiên tôi được nghe những câu nói như vậy, nó chẳng khác gì những kỷ niệm thuở thơ ấu non nớt vẫn thường gợn lên trong đầu tôi. Lời trách móc tôi là kẻ ăn bám đã thành một điệp khúc cay đắng văng vẳng mơ hồ bên tai tôi. Abbot phụ họa theo:
- Cô đừng lầm tưởng bà Reed tử tế nuôi nấng dạy dỗ cô cùng với cô cậu Reed mà nghĩ là mình ngang hàng với họ nhé. Rồi họ sẽ giàu sang, còn cô thì mãi vẫn chỉ là đứa chết cũng không có chỗ dung thân mà thôi. Việc của cô là phải biết nhún nhường và cố làm sao để tự vừa lòng với họ.
- Những điều chúng tôi nói chỉ cốt là để tốt cho cô thôi. - Bessie nói thêm, giọng đã dịu lại - Cô nên cố gắng làm sao trở thành một người sống có ích và dễ thương, chỉ có vậy cô mới còn chốn nương thân ở đây, chứ nếu cô cứ điên điên khùng khùng và cục cằn thô lỗ thì tôi tin là sớm muộn bà Reed cũng sẽ tống cô ra khỏi cửa.
- Chưa biết chừng còn bị Chúa trừng phạt nữa ấy chứ. - Abbot lại nói đế vào - Nó sẽ bị quật chết tươi giữa lúc nó giở thói điên khùng, và rồi đời nó sẽ đi về đâu chứ? Chị Bessie ạ, chúng mình xuống thôi. Chịu khó ngồi đây một mình mà cầu nguyện đi, cô Eyre ạ. Nếu cô không chịu ăn năn hối cải, thế nào quỷ dữ cũng sẽ chui xuống ống khói bắt đem đi đấy.
Hai người bước ra khỏi phòng rồi khóa chặt cửa lại.
Nơi tôi đang ngồi là một căn phòng để thừa. Hiếm khi, nếu không muốn nói là chưa bao giờ có người ngủ ở đấy, trừ những lúc có nhiều khách khứa đến lâu đài Gateshead. Nhưng đó lại là một gian phòng rộng và trang trọng nhất trong nhà. Giữa phòng là một chiếc giường có bốn chân bằng gỗ gụ to bự, với những tấm màn lụa màu đỏ thẫm dệt hoa văn nổi buông chùng xuống nom như một cái ngai thờ. Hai khung cửa sổ lớn luôn buông kín mành, bị những tràng hoa thêu và những tấm rèm cùng một loại vải che khuất một nửa. Thảm trải sàn màu đỏ thẫm, cuối giường kê một chiếc bàn trải tấm khăn đỏ thắm. Các bức tường được quét màu hồng nhạt. Tủ quần áo, bàn trang điểm và những chiếc ghế cổ đều được làm bằng gỗ gụ đánh bóng. Giữa đám đồ đạc câm lặng này nổi bật lên một đống đệm và gối vỏ trắng, ở trên giường được phủ một tấm ga Marseilles trắng như tuyết. Gần đầu giường kê một chiếc ghế bành rộng được đặt mảnh đệm cũng màu trắng nhưng ít nổi bật như đống đệm gối. Đằng trước ghế bành đặt một chiếc ghế để chân mà thoạt nhìn tôi cứ tưởng là một cái ngai màu xám nhợt.
Căn phòng lạnh lẽo vì ít khi có ánh lửa, lạnh lẽo vì cách xa cả nhà trẻ và nhà bếp; thâm nghiêm vì ít có dấu chân người. Chỉ đến thứ bảy hàng tuần mới có người vào lau bụi bặm bám trên các đồ vật. Ngay cả Reed cũng thỉnh thoảng mới ló vào xem mấy thứ cất trong chiếc ngăn kéo bí mật ở tủ quần áo, trong đó dể các loại giấy tờ, tráp đựng nữ trang của bà và một tấm ảnh nhỏ của ông chồng quá cố. Mấy thứ sau cùng tôi vừa kể có liên quan tới bí mật của căn phòng nhỏ đó.
Ông Reed mất đã được chín năm rồi, ông trút hơi thở cuối cùng trong căn phòng tôi đang ngồi đây. Căn phòng cũng chính là nơi đặt thi hài ông, và là nơi mấy người phu của nhà đón rước linh cữu ông đi. Từ ngày ông mất, căn phòng được biến thành nơi thờ tự nên ít có người bước chân vào.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Cái chỗ mà chị Bessie và chị Abbot cay nghiệt kia vừa dúi tôi ngồi xuống là một chiếc ghế đẩu có thùng thấp tè, kê cạnh lò sưởi lát đá cẩm thạch. Lù lù ngay trước mặt tôi là cái giường; bên phải là tủ quần áo khá cao, màu thẫm, cửa loang loáng phản chiếu méo mó lờ mờ các đồ vật; bên trái là hai khung cửa sổ nhỏ có rèm che kín. Giữa hai cửa sổ treo một tấm gương soi lớn phản chiếu cái vẻ thâm nghiêm trống trải của căn phòng và chiếc giường. Không rõ Bessie và Abbot lúc ra có khóa cửa buồng không; tôi đánh bạo đứng ngay dậy chạy ra xem. Trời đất ơi, không còn nhà ngục nào kiên cố hơn được nữa! Lúc trở về chỗ ngồi, tôi buộc phải đi ngang qua chỗ chiếc gương. Tôi liếc mắt nhìn vào gương và cảm thấy chiều sâu thăm thẳm của nó như làm tôi bị mê hoặc. Trong cái ảo ảnh kia, mọi vật đều lạnh lẽo và u tối hơn ở ngoài. Một cái bóng bé con kỳ quái đang nhìn tôi, bộ mặt cùng đôi tay trắng bệch hiển hiện trong bóng tối, đôi mắt long lanh đưa đi đảo lại sợ sệt nhìn những đồ vật im lìm bất động chung quanh, tạo cho tôi cảm giác mình đang đứng trước một bóng ma hiện hình. Tôi lập tức mường tượng ra đó là một trong những bóng ma nhỏ bé, nửa người nửa ngợm thường hiện lên trước mặt kẻ bộ hành lúc đêm hôm khuya khoắt giữa những thung lũng dương xỉ cô liêu, hoặc giữa những cánh đồng hoang vắng mà thỉnh thoảng tối tối chị Bessie vẫn kể cho tôi nghe. Tôi quay về chỗ ghế đẩu.
Tôi bỗng đâm ra mê tín, nhưng cũng chưa đến nỗi dị đoan khiến tôi mê muội. Dòng máu tôi vẫn còn nóng bừng bừng; tâm trạng bực bội của một kẻ nô lệ nổi loạn vẫn chưa dễ gì nguội đi trong lòng; tôi phải kìm bớt những hoài niệm miên man về quá khứ trước khi bị gục ngã bởi những lo sợ trước mắt.
Tính cục súc tàn bạo của thằng Reed, sự kiêu căng của mấy đứa con gái em nó, sự ghét bỏ của bà mẹ, và hành động theo hùa của đám đầy tớ trong nhà, vâng, tất cả đều quay cuồng trong đầu tôi như một cái giếng ngập ngụa. Tại sao tôi cứ phải chịu đau khổ, chịu hành hạ đọa đày mãi thế? Tại sao tôi không thể làm cho người khác vừa lòng? Tại sao người ta lại không có cảm tình với tôi? Trong khi con Eliza ngang ngạnh ích kỷ thì lại được người ta tôn trọng. Con Georgiana mất nết hư thân, một đứa gian dối, hỗn láo và hay sinh sự thì lại được họ chiều chuộng. Dường như sự xinh xẻo, đôi má hồng và những lọn tóc vàng óng của nó như đã đánh lừa con mắt của mọi người, khiến cho ai nhìn thấy cũng có thể bỏ qua mọi lỗi lầm cho nó thì phải. Còn cậu quý tử John thì khỏi phải nói: không một ai dám phật ý chứ chưa nói gì đến chuyện mắng mỏ nó, cho dù nó có vặn gãy cổ chim bồ câu, giết chết những con công non, suỵt chó xộc vào đàn cừu, ngắt tiệt cả những chùm nho trong nhà kính, bẻ sạch những mầm cây quý nhất trong vườn ươm đi nữa thì cũng chẳng sao. Nó còn gọi mẹ nó là "gái già" và thỉnh thoảng lại nhiếc móc bà vì cái tội nước da của bà đen khiến nó cũng bị đen lây. Nó chẳng coi những ý muốn của bà là cái gì, thậm chí còn xé rách và bôi nhem nhuốc vào áo lụa của bà, thế nhưng vẫn cứ là "cậu cưng của mẹ”. Còn tôi, có bao giờ tôi sơ ý phạm phải một lỗi tí ti nào đâu. Lúc nào tôi cũng cố gắng làm tròn bổn phận của mình, thế mà vẫn bị họ luôn mồm xỉ vả là ương ngạnh, rách việc, lén lút, lầm lì từ sớm đến trưa, từ trưa đến tối.
Đầu tôi còn đau nhức và rỉ máu từ lúc bị John đánh ngã; nó đánh tôi dã man thế mà không bị ai mắng. Còn tôi, chỉ vì dám kháng cự để tránh những lần vô lý sau, mà bị mọi người sỉ nhục đến thậm tệ.
"Thật là bất công, phi lý!'" Tôi tự lý luận bởi sự thôi thúc cay đắng của một sức mạnh bộc phát nhất thời. Và sự bồng bột ấy bỗng trở nên quyết liệt, xui khiến tôi nghĩ đến những mưu kế kỳ lạ để thoát khỏi cảnh áp bức không thể chịu nổi này bằng cách bỏ trốn, hoặc nếu không làm thế được, thì tôi cũng sẽ chẳng ăn uống gì nữa và cứ tự để cho mình chết.
Tôi thật sự khiếp nhược trong buổi chiều ảm đạm ấy! Đầu óc tôi sao mà rối bời, mà muốn nổi loạn đến thế! Tôi đang thực sự vật lộn với chính mình trong tối tăm ngu dốt và không thể trả lời cái câu hỏi lởn vởn không dứt trong đầu mình: tại sao tôi lại phải khổ như vậy? Giờ đây, khi một khoảng thời gian dài đã trôi qua, không nhớ là đã bao nhiêu năm, tôi mới thấu hiểu cảnh ngộ của mình.
Tôi bất hòa và khác biệt với hết thảy mọi người trong lâu đài Gateshead, chẳng có điểm gì hòa hợp với bà Reed, hay lũ con bà, hay bọn người đầy tớ mà bà đã chọn. Nếu họ không thích tôi thì tôi cũng chẳng việc gì phải yêu mến họ. Nhưng thực lòng mà nói, họ việc gì phải tỏ ra trìu mến một kẻ không thể nào có thiện cảm với một ai trong bọn họ; một kẻ khác hẳn họ về tính tình, khả năng, khuynh hướng; một kẻ vô dụng, chẳng làm được gì để phục vụ lợi ích của họ hoặc làm cho họ thêm vui lòng; một kẻ ăn hại luôn nuôi dưỡng trong lòng những mầm mống căm phẫn đối với cách đối xử của họ, coi thường những phán xét của họ.
Trong phòng đỏ ánh sáng ban ngày đã tắt. Lúc ấy đã quá bốn giờ, và ánh trời chiều đang ngả dần sang một màu mây khói ảm đạm. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng những hạt mưa rơi đập tí tách vào các ô cửa kính bên cầu thang, rồi tiếng gió rít qua những lùm cây sau nhà. Người tôi lạnh dần như cục đá, và rồi bao nhiêu can đảm trong tôi cũng biến đi đâu hết. Cái nhút nhát thường ngày, tính tự ti, sự chán chường bỗng chốc đổ ập ướt át trên đống tro của lửa căm giận đang lụi tàn. Ai cũng bảo là tôi hung ác, chưa biết chừng đúng thật. Việc gì phải nhịn ăn cho chết đói chứ? Hẳn đó là một tội lỗi: tôi đã đáng chết chưa? Hay cái hầm mộ dưới nhà thờ Gateshead là một nơi an nghỉ cuối cùng có sức quyến rũ những kẻ chán chường? Nghe nói hầm mộ ấy chính là nơi người ta đã chôn cất ông Reed. Nghĩ đến ông, tự nhiên tôi lại thấy sợ. Tôi không thể hình dung ông là người thế nào, chỉ biết ông là cậu ruột tôi - em trai của mẹ tôi, là người đã đem tôi về nhà nuôi khi tôi là một đứa trẻ côi cút, và trong lúc hấp hối, ông đã bắt bà vợ hứa rằng sau này phải nuôi dạy tôi như con đẻ. Có lẽ bà Reed luôn nghĩ rằng mình đã giữ đúng lời hứa, hay nói cách khác, bà đã thực hiện lời hứa với chồng một cách tốt nhất theo bản chất của mình. Nhưng nói cho cùng, sau khi chồng chết, việc gì bà phải thương yêu một đứa trẻ không còn quan hệ máu mủ gì với mình ở trong nhà? Thật là khó chịu khi phải nhìn một đứa trẻ con nhà người dưng nước lã giữa bầy con thân thương của mình chỉ vì một lời hứa miễn cưỡng với người quá cố như một sự ràng buộc không thể nào chấp nhận được ấy.
Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý niệm: tôi ngờ rằng - bao giờ cũng vậy - nếu còn sống, thế nào cậu Reed cũng đối xử tốt với tôi. Giờ đây, chốc chốc lại ngồi sợ sệt ngắm nhìn tấm gương trắng nhờ nhờ và những bức tường chìm trong bóng tối, tôi bắt đầu hồi tưởng lại chuyện đã được nghe về những người đã chết. Chuyện kể rằng nếu những ước nguyện cuối cùng của họ bị vi phạm khiến họ nằm dưới mồ không yên, thế nào họ cũng trở về dương gian để trừng phạt kẻ nuốt lời và trả thù cho những người bị ức hiếp. Tôi nghĩ rằng linh hồn ông Reed, bị dằn vặt vì cảnh bị ngược đãi của đứa cháu gái mình, hẳn sẽ chui lên khỏi mồ - dù dưới hầm mộ nhà thờ hay trong thế giới hư vô nào đó - và hiện ra ngay trước mắt tôi trong căn phòng này. Tôi quệt nước mắt, cố nén những tiếng nấc trong lòng vì sự những biểu hiện đau khổ sẽ đánh thức một giọng nói siêu phàm nào đó đến an ủi tôi, hay làm cho hiện ra trong bóng tối một khuôn mặt tỏa ánh hào quang và rạng rỡ niềm thương cảm cúi sát xuống người tôi. Đúng ra thì đó phải là nguồn an ủi, nhưng nếu là chuyện có thật thì chắc chắn tôi sẽ sự phát khiếp. Tôi ra sức xua đuổi ý nghĩ đó và cố giữ cho bình tĩnh trong lòng. Tôi ngẩng mặt hất ngược mớ tóc lòa xòa dưới trán và đánh bạo nhìn quanh căn phòng tối om. Vừa lúc đó có một vệt sáng không hiểu từ đâu rọi lên tường. Chẳng lẽ lại là ánh trăng chiếu qua mành cửa? Không thể, bởi ánh trăng bao giờ cũng đứng yên, đằng này lại chuyển động, hắt ngược lên trần nhà rồi lia loang loáng ngay trên đầu tôi. Chắc là ánh lửa chiếu vào từ một cây đèn lồng của ai đó đang đi ngang qua thảm cỏ. Nhưng thần hồn át thần tính, vốn đã sự sẵn sau những nao núng vừa rồi, tôi nghĩ vệt sáng đó chính là sứ giả báo hiệu trước một linh hồn sắp đến thăm tôi từ thế giới bên kia. Tim đập mạnh, đầu óc như có lửa, hai bên tai như có tiếng cánh chim vỗ, tôi ngỡ như có một cái gì đó đang đến bên cạnh mình. Cảm giác bức bối, ngột ngạt không thể chịu đựng nổi khiến tôi gào ầm lên và liều mạng chạy bổ ra cửa, mắm môi mắm lợi lay lắc ổ khóa một cách tuyệt vọng. Nhưng ngay lúc đó tôi nghe có những tiếng những bước chân đi dọc hành lang bên ngoài, rồi tiếng chìa khóa xoay loạch xoạch trong ổ. Bessie và Abbot bước vào.
- Eyre, cô ốm đấy à? - Bessie cất tiếng hỏi tôi.
- Cái gì mà ầm ĩ lên thế! Làm tôi sợ hết cả hồn! - Abbot gắt gỏng.
- Cho em ra ngoài! Để em vào nhà trẻ đi! - Tôi kêu van.
Chị Bessie lại hỏi:
- Để làm gì? Cô bị đau à? Cô đã lại nhìn ra cái gì phải không?
- Vâng, có một vệt sáng, cứ như ma sắp hiện về ấy. - Tôi nức nở và nắm chặt tay chị Bessie. Không thấy chị gạt ra.
- Nó giả bộ đấy! - Abbot ngoa ngoắt nói, giọng có vẻ kinh tởm - Tiếng kêu mới thật giống làm sao! Nếu nó đau ốm thật thì ai thèm chấp, nó chỉ quang quác lên cốt để bắt mình phải lên đây thôi; tôi thừa biết cái thói ranh ma của nó.
- Lại chuyện gì thế hả? - Một giọng khác hách dịch. Thì ra là bà Reed đang đi ngoài hành lang - Này hai chị, tôi đã bảo là nhốt con bé trong phòng cho đến khi tự tôi đến kia mà!
- Nhưng cô Jane gào to quá, thưa bà. - Bessie tần ngần đứng phân trần.
- Mặc xác nó! - Bà Reed rít lên - Buông tay Bessie ra! Con kia, mày không thể lừa ai được bằng cái trò mèo ấy đâu! Tao còn lạ gì bọn nhãi ranh như mày, tao phải làm cho mày hiểu rằng cái mẹo vặt ấy không ổn đâu. Biết điều thì hãy cứ ngồi trong đó thêm một tiếng nữa đi. Liệu cái thần hồn đấy, biết vâng lời thì hãy mong tao tha cho.
- Mợ ơi! Xin mợ thương cháu! Hãy tha lỗi cho cháu, cháu không chịu nổi như thế này nữa đâu. Cháu xin chịu phạt bằng bất cứ cách nào cũng được! Cháu sẽ chết mất nếu cứ...
- Im ngay! Cái thói táo tợn của mày thật đáng ghê tởm! - Chắc là bà ta thấy như thế thật. Trong mắt bà thì tôi là một kẻ biết đóng kịch quá sớm. Bà thực sự coi tôi như một đứa trẻ con nhiều đam mê độc ác, đồi bại và lừa lọc nguy hiểm.
Bessie và Abbot lui đi ra. Sốt ruột trước sự nem nép và những tiếng nức nở của tôi, bà Reed bất ngờ dúi mạnh tôi vào buồng và lập tức khóa cửa nhốt tôi bên trong mà không thèm nói thêm nửa lời. Nghe tiếng chân bà bước xa dần, tôi bỗng thấy sa sầm như sắp sửa ngất xỉu, không biết gì nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

CHƯƠNG 3


Điều tôi nhớ tiếp theo là khi sực tỉnh dậy, tôi có cảm giác như vừa trải qua một cơn ác mộng và trông thấy trước mặt một vệt sáng đỏ chói lòa đáng sợ với những đường rạch đen ngang dọc. Tôi cũng nghe thấy những âm thanh rỗng tuếch như bị tiếng gió rít hay tiếng thác đổ át đi. Sự lo lắng mơ hồ, cảm giác bấp bênh và sợ hãi đã làm cho các năng lực trong tôi trở nên hỗn loạn. Ngay sau đó tôi thấy hình như có ai đang nhẹ nhàng đỡ tôi ngồi dậy. Chưa bao giờ tôi thấy mình được nâng niu như thế. Tôi ngả đầu lên một chiếc gối hay có lẽ trên một cánh tay nào đó, trong người cảm thấy thật dễ chịu.
Chừng năm phút sau, đám mây hoang mang trong người tan dần, tôi nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường của mình, còn ánh sáng đỏ chói vừa nãy chính là ngọn lửa hắt ra từ nhà trẻ. Trời đã tối: một ngọn đèn cầy cháy chập chờn trên bàn, chị Bessie bưng cái khay đứng ở cuối giường, và một người đàn ông ngồi trên chiếc ghế bành đặt ngay sát chiếc gối tôi đang nằm và cúi xuống gần tôi.
Tôi bỗng cảm thấy trong lòng có một niềm an ủi khôn tả, một sự vỗ về êm ái là mình được che chở an toàn, khi tôi biết là có một người lạ trong phòng, một người không thuộc lâu đài Gateshead mà cũng chẳng có quan hệ gì với bà Reed. Tôi không nhìn chị Bessie (mặc dù sự có mặt của chị không làm tôi thấy gớm ghiếc như chị Abbot) mà quay sang nhìn kĩ khuôn mặt ông ta: thì ra là ông Lloyd, một thợ bào chế thuốc mà thỉnh thoảng bà Reed vẫn mời… mỗi khi trong nhà có gia nhân ốm (Còn đối với bản thân và mấy đứa con bà thì bà cho mời thầy thuốc tử tế).
- Nào, cháu có biết tôi là ai không? - ông ta hỏi tôi.
Tôi vừa nhắc tên ông vừa chìa tay ra. ông mỉm cười và nắm lấy tay tôi, nói: “Chỉ lát nữa là khỏe thôi” rồi ông đặt tôi nằm xuống giường và dặn Bessie phải chăm sóc tôi cẩn thận, đừng làm phiền tôi đêm đó. Sau khi dặn dò thêm vài câu và hẹn ngày mai quay lại, ông khép cửa ra về khiến cả căn phòng như tối sầm lại. Tôi nằm trên giường và lòng buồn rười rượi. Dẫu sao thì có ông bên cạnh tôi cảm thấy mình được che chở rất nhiều.
- Cô cảm thấy có thể ngủ được không? - Bessie hỏi, giọng khá dịu dàng.
Tôi ngập ngừng trả lời, vì sợ chị câu trước câu sau sẽ gắt gỏng với tôi ngay:
- Em sẽ cố gắng.
- Cô có muốn uống nước hoặc ăn một chút gì không?
- Không, cảm ơn chị Bessie.
- Vậy tôi đi ngủ nhé, quá nửa đêm rồi còn gì, nhưng nếu cần gì thì cứ gọi tôi một câu.
Sao tự nhiên lại tử tế thế không biết! Tôi bạo miệng hỏi một câu:
- Chị Bessie này, chị có biết em bị làm sao không? Hay là em bị sốt rồi?
- Tôi cho là cô phát sốt vì gào nhiều quá đấy mà. Nhưng chắc là sẽ khỏi ngay thôi.
Bessie về phòng dành cho các gia nhân ở bên cạnh. Tôi nghe thấy chị nói:
- Sarah này, sang ngủ với tôi bên nhà trẻ đi, tôi không dám ngủ một mình với con bé tội nghiệp đêm nay đâu. Không khéo nó chết mất. Chắc nó bị sốc vì ác mộng, hoặc vì đã trông thấy một cái gì đó. Kể ra bà chủ cũng hơi hà khắc với nó.
Sarah sang nằm với Bessie. Họ thì thầm với nhau suốt nửa giờ đồng hồ rồi mới ngủ. Tôi nghe câu được câu chăng, nên chỉ hiểu lõm bõm câu chuyện giữa hai người.
“Có ai đó vụt hiện ra trước mắt nó, trắng toát rồi biến mất… Một con chó to xù chạy nhào theo sau cái bóng… Ba tiếng đập mạnh vào cửa buồng… Một vệt sáng ngoài nghĩa địa, đúng ngay trên mồ của…”
Cuối cùng thì cả hai đều lăn ra ngủ, lửa trong lò sưởi và nến cũng tắt. Tôi thức trắng suốt đêm dài ảm đạm, cả tai, mắt và tâm trí tôi cứ căng ra vì những điều hãi hùng mà chỉ trẻ con mới cảm thấy.
Cũng may là sau sự việc xảy ra ở căn phòng đỏ, tôi không bị ốm nặng và lai rai. Chỉ có điều cú sốc đã làm cho thần kinh tôi phải chịu hậu quả đến tận bây giờ. Vâng, thưa bà Reed, chỉ vì bà mà thần kinh tôi khiếp đảm. Nhưng tôi phải tha thứ cho bà vì bà đâu có ý thức được việc mình làm. Khi làm tôi đau lòng, bà chỉ nghĩ làm vậy cốt để nhổ tận gốc rễ thói xấu của tôi thôi.
Trưa hôm đó, tôi vùng dậy mặc quần áo, quấn chiếc khăn choàng vào cổ rồi lặng lẽ sang ngồi bên lò sưởi trong buồng trẻ. Tôi cảm thấy người yếu đuối mệt mỏi, nhưng điều làm cho tôi tủi nhất là cảm thấy khổ sở về tinh thần, đến nỗi tôi chỉ còn biết lặng lẽ khóc thầm. Nước mắt chứa chan, tôi vừa lau giọt này thì giọt khác lại tuôn trào trên gò má. Vâng, lẽ ra tôi phải thấy vui, vì lúc này không có đứa nào trong gia đình nhà Reed có mặt. Chúng đã đi đâu với bà Reed. Abbot cũng đang ngồi khâu ở một buồng khác, còn chị Bessie thì bước qua bước lại xếp xếp dọn dọn đồ chơi và ngăn kéo, thỉnh thoảng mới thấy chị nói với tôi một câu, giọng dịu dàng khác hẳn mọi ngày. Lẽ ra tôi phải thấy mình đang được ở trên một thiên đường êm ả, vì hàng ngày tôi vẫn quen với cuộc sống nặng nề và tàn nhẫn, nhưng cơn sốc quá mạnh đã khiến tôi không thể vui lên được, dù là trong khung cảnh yên tĩnh như thế này.
Chị Bessie xuống bếp mang cho tôi cái bánh có nhân đựng trong một chiếc đĩa sứ bằng men sặc sỡ có vẽ hình một con chim đang làm tổ trên một tràng hoa hồng và nụ tầm xuân ở vườn địa đàng. Đó là cái đĩa tôi vẫn mê thích, vẫn ao ước được mó tay vào và nhìn cho thật kĩ, song tôi luôn bị cho là không xứng đáng được hưởng ân huệ đó. Vậy mà nay chiếc đĩa quý ấy đang được đặt ngay trên hai đầu gối tôi, và tôi đang được mời ăn tấm bánh thơm ngon đặt ngay trên đó. Quả là một ân huệ vô nghĩa! Cũng như phần lớn những ban phát tôi hằng mong đợi và luôn bị từ chối, ân huệ này đã đến quá muộn! Làm sao tôi có thể nuốt trôi tấm bánh ấy bây giờ? Cả bộ lông chim và màu sắc của những bông hoa in trên chiếc đĩa sứ kia đối với tôi lúc này dường như cũng trở nên phai úa đến kỳ lạ. Tôi đặt đĩa bánh sang một bên. Chị Bessie hỏi tôi có muốn đọc sách không. Từ sách có vẻ khích lệ tôi ngay lập tức, và tôi nhờ chị ra lấy cho tôi cuốn Những cuộc phiêu lưu của Gulliver. Tôi đã nhiều lần đọc đi đọc lại cuốn sách này mà vẫn cảm thấy thích thú. Tôi cho rằng đấy là cuốn sách kể về những chuyện có thực và thấy nó có sức lôi cuốn hơn cả chuyện thần thoại. Không ít lần tôi đã hoài công tìm kiếm các yêu quái tí hon ẩn giữa các chùm lá mao lương hoàng địa và những đóa loa kèn, dưới những cây nấm hay giậu trường xuân phủ kín những hốc tường cổ, để rồi phải buồn rầu mà kết luận rằng chúng đã rời bỏ nước Anh này để đến một miền đất man di mọi rợ nào đó, nơi có những cánh rừng hoang vu rậm rạp hơn và ít dấu chân người hơn. Trong khi đó, tôi vẫn nghĩ xứ Lilliput và Brobdignag là có thật trên thế gian này. Tôi tin rằng sẽ có một ngày, trong một cuộc phiêu lãng thật dài, tôi sẽ được tận mắt trông thấy ở một vương quốc tí hon những cánh đồng, nhà cửa và ngọn cây thấp lè tè, những con người bé tí hon, những đàn bò, bày cừu và nhiều giống chim nhỏ tí ti, và ở một xứ sở khổng lồ những cánh đồng lúa cao như cây rừng, những chú chó khổng lồ, những con mèo vĩ đại cùng những người đàn ông, đàn bà cao lớn như cái tháp. Vậy mà khi đã cầm quyển sách ấy trong tay, giở được vài trang tìm trong những bức tranh kỳ diệu sự bí ẩn vẫn lôi cuốn tôi từ trước đến nay, tôi chỉ thấy toàn là những điều nhàm chán đến lạ lùng. Người khổng lồ chỉ còn là những con yêu tinh hốc hác, người tí hon là những con vật độc ác và đáng sợ, còn Gulliver là một kẻ lữ hành bất hạnh, lạc lõng giữa những miền đất xa xôi nguy hiểm. Chẳng dám xem lâu hơn nữa, tôi gấp sách lại đặt lên bàn, bên tấm bánh ngọt vẫn còn nguyên trong đĩa.
Dọn dẹp xong xuôi, chị Bessie rửa tay rồi mở một chiếc ngăn kéo nhỏ chứa đầy những mảnh vụn lụa và xa tanh rực rỡ đủ màu sắc để chuẩn bị khâu một cái mũ mới cho con búp bê của Georgiana. Chị vừa làm vừa hát, lời bài hát rất quen thuộc với tôi:

Ơi những ngày ta sống phiêu lãng
Một thời dĩ vãng xa xôi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Tôi thường được nghe giai điệu ấy và lúc nào cũng thấy nó rất lôi cuốn, vì chị Bessie có chất giọng ngọt ngào - ít nhất là theo đánh giá của tôi. Nhưng lúc này, mặc dù giọng chị rất dịu êm, tôi vẫn cảm thấy trong giai điệu du dương ấy một nỗi buồn khôn tả. Đôi lúc bận bịu công việc, chị ngâm nga rất nhẹ và trầm điệp khúc Một thời dĩ vãng xa xôi nghe như một điệu nhạc điếu bi ai nhất. Chị hát sang một bài khác, bài này mới thật thê thảm:

Chân chồn gối mỏi đôi tay yếu:
Đường xa heo hút núi hoang vu;
Chiều buông đêm xuống cảnh liêu tịch
Lấp lối em đi kiếp lãng du.
Sao đời nỡ để em đơn côi
Giữa chốn tàn hoang sỏi đá phơi?
Người đời ghẻ lạnh, chỉ mong Chúa,
Dõi bước em đi giữa cảnh đời.
Đêm thanh gió cuốn nhẹ lắt lay
Trời quang mây tạnh ánh sao đầy.
Chúa ơn, phước lành xin che chở,
Cho em hy vọng kiếp sống này.
Dầu tôi ngã gục, cầu gãy ngang,
Lạc giữa đòng lầy, chẳng nắng tràn,
Chúa tôi vẫn rủ lòng ban phước
Che bóng em buồn kiếp lang thang.
Tôi lòng tâm tưởng thêm sức mạnh:
Dấu không chỗ dựa, chốn dung thân.
Nhưng nhà tôi - Trời, thế là đủ;
Chúa là bạn tôi, kẻ độc hành.


- Kìa, cô Jane, đừng khóc nữa. - Bessie bảo tôi khi vừa hát xong. Nghe câu nói của chị chẳng khác gì câu nói “Lửa ơi, đừng cháy nữa!”. Nhưng làm sao chị hiểu được sự cơ cực đang day dứt trong lòng tôi? Sáng hôm ấy, ông Lloyd lại đến.
- Ô kìa! Đã dậy được rồi kia à? - ông nói lúc đi vào nhà trẻ - Thế nào, chị bảo mẫu, cô ấy ra sao?
Bessie trả lời rằng tôi ổn cả.
- Nếu thế thì cô ấy trông phải vui hơn mới đúng chứ? Lại đây, Jane. Tên cháu là Jane, có phải không nhỉ?
- Thưa ông, vâng, Jane Eyre.
- Trông cháu như đang khóc thì phải, cháu có thể nói cho tôi biết tại sao không, Jane Eyre? Cháu có bị đau không?
- Dạ, không.
- Ồ, tôi cho rằng cô ấy khóc chỉ vì không được lên xe đi chơi với mấy cô chủ đấy thôi. - Chị Bessie nói chen vào.
- Chắc không phải thế đâu, cô ấy đâu còn trẻ con mà khóc lóc như vậy.
Tôi cũng nghĩ như ông, nên tôi tự ái trả lời ngay vì bị quy tội oan ức: “Còn lâu tôi mới khóc vì một chuyện như vậy! Tôi đâu có thích đi chơi xe, tôi khóc vì tôi thấy đời mình khổ, thế thôi.”
- Thôi, đừng khóc nữa đi! - Bessie nói.
Ông bào chế tốt bụng có vẻ như hơi bối rối. Tôi đứng trước mặt ông. Đôi mắt xám của ông tuy nhỏ và không sáng lắm, nhưng cũng đủ để tôi thấy là lanh lợi. Còn nét mặt, dù hơi thô nhưng lại toát lên vẻ nhân từ. Sau khi đã quan sát tôi thật kĩ, ông mới hỏi:
- Hôm qua có chuyện gì khiến cháu phát ốm lên như vậy?
- Cô ấy ngã đấy. - Bessie lại chêm vào.
- Ngã à! Cứ như con nít ấy! Bằng ngần này tuổi rồi mà đi đứng vẫn chưa vững hay sao? Cũng phải tám, chín tuổi rồi chứ ít gì.
- Cháu bị người ta đánh cho ngã, - thấy mình bị coi thường, tôi cãi luôn - nhưng không phải vì thế mà cháu ốm. - Tôi nói thêm, trong khi ông Lloyd kịp châm một điếu thuốc.
Lúc ông bỏ hộp thuốc lá vào túi cũng là lúc tiếng chuông báo giờ ăn của các gia nhân réo vang; ông hiểu hiệu chuông này. “Chuông gọi chị đấy, chị bảo mẫu ạ, - ông nói - chị có thể xuống đi. Từ giờ đến lúc chị quay trở lại, tôi sẽ có mấy lời với cô bé Jane này.”
Bessie định nán lại nhưng không thể được, vì ở lâu đài Gateshead, bữa ăn bao giờ cũng phải đúng giờ.
- Không phải cháu ốm vì bị ngã, vậy thì tại sao? - ông Llyoud chỉ hỏi tôi khi Bessie vừa đi khỏi.
- Cháu bị người ta nhốt vào một căn phòng có ma cho đến tận đêm.
Tôi thấy ông Llyoud chau mày mỉm cười: “Ma à! Thế đấy, rõ là con nít rồi còn gì! Cô sợ ma à?”
- Cháu sự cậu Reed hiện về. Cậu cháu chết ở trong phòng ấy, thi hài cậu được liệm ở đấy. Chị Bessie và mọi người, tất cả chẳng ai dám mò vào căn phòng này vào buổi tối, vậy mà cháu lại bị tống vào đấy, mà chẳng có đèn gì cả. Thật là độc ác, suốt đời cháu sẽ không bao giờ quên được chuyện này.
- Vô lý! Chỉ có thế mà phải khổ sở như vậy ư! Thế bây giờ, giữa ban ngày, cháu có sợ nữa không?
- Không, nhưng lại sắp tối đến nơi rồi, mà cháu còn cảm thấy không vui vì nhiều chuyện khác nữa.
- Lại còn chuyện gì nữa? Cháu thử kể xem nào.
Không hiểu sao tôi lại mong được trả lời cặn kẽ câu hỏi đó đến thế! Nhưng cũng thật khó nói nên lời! Trẻ con cũng có những cảm giác về tình cảm, nhưng lại thiếu khả năng phân tích, và nếu những phân tích phần nào tác động được vào đầu óc đi nữa thì chúng cũng chẳng biết phải diễn tả bằng lời như thế nào. Nhưng vì sợ làm lỡ cơ hội đầu tiên và duy nhất để thổ lộ cho vơi bớt nỗi lòng, sau một lúc im lặng vì xúc động, tôi trả lời thật lòng:
- Có điều là cháu không còn cha mẹ anh chị em nào cả.
- Nhưng cháu có một bà mợ tử tế và mấy đứa em họ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Tôi lặng cả người, nhưng rồi lại vụng về đáp lại:
- Nhưng chính thằng John Reed đã đánh cháu ngã chảy máu đầu, còn mợ Reed thì nhốt cháu vào căn phòng đó.
Lần thứ hai ông Llyoud rút hộp thuốc lá ra.
- Cháu không thấy Gateshead là một lâu đài rất đẹp sao? - ông hỏi - Cháu không thấy mình phải chịu ơn khi được ở một nơi tốt như vậy sao?
- Thưa ông, nhưng không phải nhà của cháu, và chị Abbot nói rằng ở đây cháu cũng chẳng hơn gì một con ở.
- Chà! Nhưng cháu không khờ dại đến nỗi muốn rời khỏi một nơi đẹp như thế này?
- Nếu có một chỗ nương thân khác thì cháu sẽ rất vui lòng từ bỏ nơi đây, nhưng cháu không rời khỏi Gateshead nếu chưa đủ khôn lớn.
- Có lẽ cháu có thể… ai mà biết được. Ngoài bà Reed ra, cháu còn họ hàng gì nữa không?
- Cháu nghĩ là không, thưa ông.
- Cả họ nội cũng không?
- Cháu không được biết, cháu có hỏi mợ Reed một lần, và bà ấy cho biết hình như cháu có một vài người họ hàng nghèo khổ, dòng họ Eyre, nhưng bà không biết gì về những người này cả.
- Nếu đúng có thế, cháu có muốn về với họ không?
Tôi lặng người suy nghĩ. Sự nghèo khó luôn là điều đáng buồn với người lớn và càng buồn hơn đối với trẻ con. Chúng không hiểu nhiều về sự chịu khó, tính cần cù, sự nghèo khổ đáng kính trọng; mà tiếng nghèo chỉ gợi lên cho chúng những hình ảnh quần áo rách rưới, ăn uống thiếu thốn, bếp nguội tro tàn, cư xử cục cằn và hàng loạt thói xấu khác. Cái nghèo đối với tôi còn đồng nghĩa với sự sa đọa.
- Không, cháu không thích sống với người nghèo. - Tôi trả lời.
- Ngay cả khi họ tốt với cháu, cháu cũng không thích sao?
Tôi lắc đầu vì không thể hiểu nghèo mà lại có đủ phương tiện để sống cho tốt được, và rồi lại phải học lời nói như họ, phải làm quen những cách xử sự của họ, không được giáo dục, lớn lên như những phụ nữ khốn khổ mà đôi lần tôi trông thấy họ cho con bú hay giặt quần áo trước cửa những túp lều của làng Gateshead. Không, tôi không đủ dũng cảm mua sự tự do bằng cái giá rẻ mạt như thế được.
- Nhưng chẳng lẽ họ hàng cháu đều nghèo đến thế sao? Họ có phải là dân lao động không?
- Cháu cũng không biết, mợ Reed nói với cháu là nếu có thì họ cũng chỉ là những kẻ ăn mày mà thôi. Cháu không muốn đi ăn mày.
- Thế cháu có muốn đi học không?
Tôi lại lặng im suy nghĩ. Tôi chỉ biết lờ mờ thế nào là trường học. Thỉnh thoảng chị Bessie cũng bảo rằng đó là nơi các thiếu nữ phải ngồi trên ghế gỗ, đeo bảng sau lưng và phải ngoan ngoãn biết điều. John Reed căm ghét nhà trường và có khi còn chửi cả thầy giáo, nhưng đó không thể là tấm gương để tôi noi theo. Và nếu những điều Bessie kể về kỷ luật trong nhà trường (mà chị biết qua những quý cô trong một gia đình chị từng làm con ở trước khi đến Gateshead) làm tôi kinh hãi bao nhiêu, thì những chi tiết về kết quả mà các thiếu nữ ấy đã đạt được lại hấp dẫn tôi bấy nhiêu. Bessie thường ca ngợi những bức tranh phong cảnh và hoa lá, những ca khúc họ hát, những vở kịch họ sắm vai, những chiếc túi xách họ đan, những cuốn sách tiếng Pháp họ có thể dịch. Chỉ mới nghe thế thôi tôi đã thấy rạo rực hết cả người rồi. Hơn nữa, trường học sẽ giúp tôi thay đổi hoàn toàn cuộc sống, vì tôi sẽ phải đi xa một chuyến, thoát ly hẳn lâu đài Gateshead và bước vào một cuộc đời mới.
- Cháu rất thích được đi học! - Tôi kết thúc những suy nghĩ của mình bằng một câu như vậy.
- Được, được. Ai biết được sau này sẽ ra sao. - ông Llyoud đứng dậy nói và lẩm bẩm một mình: “Cô bé này cần phải thay đổi không khí và hoàn cảnh sống. Nó đang bị suy nhược thần kinh nặng.”
Chị Bessie trở vào buồng, cùng lúc ấy có tiếng bánh xe lăn trên con đường rải sỏi.
- Bà chủ vừa về phải không, chị bảo mẫu? - ông Llyoud hỏi - Tôi cần nói chuyện với bà ấy trước khi rời khỏi đây.
Bessie dẫn ông sang phòng điểm tâm. Trong cuộc nói chuyện giữa ông và bà Reed, căn cứ vào những việc xảy ra sau này, tôi đoán là ông đã mạnh bạo đưa đề nghị cho tôi được đi học. Và đề nghị của ông có vẻ đã được chấp thuận ngay, vì vào một buổi chiều tối, trong khi cả Bessie và Abbot ngồi khâu ở nhà trẻ, tôi đã nghe thấy họ nhắc đến chuyện đó khi tưởng tôi đã đi ngủ rồi. “Chắc bà chủ cũng đang muốn tống khứ cái con của nợ ấy đi, lúc nào nó cũng như là đang rình mò mọi người và âm mưu cái gì đó.” Tôi tin là Abbot luôn coi tôi như một đứa trẻ hư thân mất nết.
Cũng vào dịp đó, qua câu chuyện của Abbot và Bessie, lần đầu tiên tôi được biết rằng cha tôi là một mục sư nghèo, mẹ tôi đã lấy cha tôi bất chấp sự phản đối của bạn bè, vì họ cho rằng lấy như thế không tương xứng, ông cụ Reed, tức ông ngoại tôi, tỏ ra rất tức giận vì thái độ ngang ngạnh của mẹ tôi, đã cắt đứt quan hệ máu mủ và không cho bà một xu nào. Lấy nhau được một năm thì cha tôi nhiễm bệnh sốt phát ban khi đi thăm người nghèo ở một khu chế tạo lớn, nơi bệnh dịch ấy đang hoành hành và cũng là địa phận cha tôi làm mục sư. Mẹ tôi lây bệnh từ cha tôi, và hai người chết cách nhau có một tháng.
Nghe câu chuyện, Bessie buông một tiếng thở dài: “Tội nghiệp Jane, kể ra thì con bé cũng đáng thương, chị Abbot nhỉ!”
- Đúng, - Abbot trả lời - nếu nó là một đứa trẻ xinh xẻo và ngoan ngoãn thì người ta cũng thông cảm cho cảnh ngộ đơn côi của nó, nhưng quả thực là người ta không thể thương được một con cóc như thế.
- Nhất định rồi. - Bessie tán đồng - Nếu một người xinh đẹp như cô Georgiana mà rơi vào cảnh ngộ ấy thì còn đáng thương hơn nhiều.
- Phải đấy, cô Georgiana mới là người để tôi ngưỡng mộ! - Abbot nồng nhiệt hưởng ứng - Đúng là một cô tiên bé nhỏ! Tóc buông dài này, đôi mắt thì xanh thăm thẳm, còn nước da thì khỏi phải nói, cứ là nõn nà như người trong tranh ấy! Bessie này, tự nhiên tối nay tôi thèm ăn thịt thỏ thế không biết.
- Tôi cũng vậy… với một củ hành nướng. Hay là ta xuống dưới nhà đi.
Và họ cùng đi xuống.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

CHƯƠNG 4


Từ lúc nói chuyện với ông Lloyd và lõm bõm nghe được câu chuyện ra Bessie và Abbot, tôi thấy có đủ lý do làm nên động cơ mong muốn khỏi bệnh. Có vẻ như đời tôi sắp có sự thay đổi, và tôi bắt đầu âm thầm hy vọng, chờ đợi. Nhưng ngày qua ngày, tuần lại tuần, dù đã bình phục như thường, mong ước của tôi vẫn chỉ là mong ước. Bà Reed thỉnh thoảng lại gườm gườm nhìn tôi bằng ánh mắt khắc nghiệt và hiếm khi thấy bà mở miệng nói với tôi một lời. Từ dạo tôi bị ốm đến giờ, càng ngày bà càng vạch ra nhiều ngăn cách giữa tôi và các con bà. Bà bắt tôi ngủ riêng ở một căn buồng nhỏ, phạt tôi chỉ được ngồi ăn một mình, còn ban ngày chỉ được chơi trong nhà trẻ trong khi mấy đứa em họ tôi được thoải mái chơi ngoài phòng khách. Dù không được nghe bà Reed đả động đến chuyện tống khứ tôi đến trường, nhưng tôi vẫn cảm thấy bà không thể nào chịu được tôi ở cái nhà này lâu hơn nữa. Giờ đây, càng nhìn thấy tôi, là bà lại càng tỏ ra căm ghét.
Rõ ràng là Eliza và Georgiana phải hết sức tránh nói chuyện với tôi theo lệnh của bà mẹ. Mỗi lần nhìn thấy tôi, thằng John lại trợn mắt đá lưỡi vào hai bên má, và có lần nó còn định nện cho tôi một trận nữa, nhưng thấy tôi có vẻ hung hăng và liều lĩnh như lần trước, nó lại thôi. Nó vừa bỏ chạy vừa ngoạc mồm ra chửi và gào ầm lên là tôi đã đánh nó giập máu mũi. Quả thực là tôi cũng có dang tay đấm cho nó một phát vào giữa mũi. Thấy nó có vẻ chùn bước vì quả đấm hoặc vì ánh mắt của mình, tôi nảy ra ý định nhân lúc đó cho nó một trận no đòn, nhưng nó đã kịp chạy lại với mẹ rồi. Tôi nghe thấy nó bù lu bù loa mách với bà Reed rằng “con ranh Jane Eyre bẩn thỉu” đã nhảy xổ vào nó như một con mèo điên. Bà Reed gạt phắt đi:
- John, đừng nhắc đến nó với mẹ nữa đi, mẹ đã bảo con không được lại gần nó kia mà. Nó đâu đáng để mình đếm xỉa. Mẹ không thích con và các em chơi với nó.
Đang đứng tựa vào lan can cầu thang ngay cạnh đấy, nghe hai mẹ con bà Reed nói, tôi điên tiết hét lên mà chẳng cần biết hậu quả ra sao:
- Chúng nó không đáng để cho cháu chơi thì có.
Dù là một người khá to béo, nhưng vừa nghe câu nói lạ lùng hỗn xược của tôi, bà Reed lập tức nhảy ngược lên cầu thang, quát tháo ầm ĩ và đẩy dúi tôi ngồi phịch xuống chiếc giường nhỏ trong nhà trẻ. Bà ra lệnh cho tôi không được rời khỏi chỗ và cấm tôi nói một lời nào trong suốt ngày hôm ấy.
- Nếu cậu Reed còn sống thì cậu ấy sẽ nói như thế nào với mợ đây? - Tôi buột miệng hỏi lại bà. Tôi nói buột miệng, vì dường như tôi không muốn nói thế mà tự nhiên lưỡi tôi cứ thốt ra: có một cái gì đó khiến tôi bật nên lời mà không thể kiềm chế được.
- Cái gì? - Bà Reed uất ức thốt lên, đôi mắt xám ngắt lạnh lùng và khắc nghiệt thường ngày của bà chợt có vẻ bối rối như sợ hãi. Bà buông tay tôi ra, nhìn tôi chằm chằm như thực sự không hiểu tôi là người hay là ma quỷ nữa. Tiện thể, tôi nói đại:
- Từ trên thiên đường, cậu Reed có thể biết hết mọi việc làm và ý nghĩ của mợ, cả cha mẹ cháu cũng thế. Tất cả họ đều biết mợ nhốt cháu suốt ngày và mong cho cháu chết đi thế nào.
Bà Reed như đã định thần lại, túm áo tôi lắc lấy lắc để, bạt tai tôi mấy cái rồi chẳng nói chẳng rằng, lừ lừ bước ra ngoài. Bessie lại bắt đầu lên lớp tôi bằng một bài về đạo đức suốt cả tiếng đồng hồ. Chị bảo tôi là đứa hung tợn, vô giáo dục chưa từng thấy ở một nhà nào. Tôi hơi tin tin, vì quả thực tôi cũng cảm thấy trong lòng mình chỉ toàn nảy sinh những tình cảm xấu xa.
Tháng mười một, mười hai và nửa tháng giêng lặng lẽ trôi qua. Lễ Giáng sinh và ngày Tết năm mới ở lâu đài Gateshead được tổ chức vui vẻ như thường lệ với những món quà biếu, những bữa tiệc và dạ hội liên miên. Dĩ nhiên là tôi bị gạt ra ngoài tất cả những cuộc vui đó.
Tôi chỉ dám mon men góp vui bằng cách đứng ngoài lầm lũi chứng kiến cảnh sắm sửa hàng ngày của Eliza và Georgiana, ngắm chúng lên xuống phòng khách, mặc những bộ cánh mỏng manh tha thướt, những dải thắt lưng đỏ chói, những lọn tóc uốn rất công phu, rồi lén nghe tiếng dương cầm và thụ cầm vẳng lên từ dưới nhà, tiếng bước chân qua lại của người quản gia cùng đám gia nhân, tiếng chạm cốc sứ và pha lê lúc người ta chúc tụng nhau, tiếng chuyện trò lúc được lúc chăng theo nhịp đóng mở của những cánh cửa. Khi đã hết hứng thú, tôi rời cầu thang, lủi thủi bước về buồng trẻ lặng câm hiu quạnh, nơi dù có phảng phất nỗi buồn nhưng không làm tôi cảm thấy buồn day dứt. Thực lòng mà nói thì tôi chẳng thích mò đến cuộc vui tí nào, vì có xuống tôi cũng chẳng được người ta chú ý, và giả sử Bessie có tử tế để mắt đến cái thân tôi, thì tôi vẫn cứ thích ngồi riêng với chị trong những buổi chiều tối âm thầm còn hơn là phải góp mặt ở những cuộc liên hoan để rồi bị bà Reed lườm nguýt bằng ánh mắt cay nghiệt trong buồng đầy các quý ông, quý bà lịch sự. Nhưng vừa mặc quần áo cho các cô chủ xong, theo thói quen, chị Bessie lại sà vào những chỗ náo nhiệt như nhà bếp hoặc buồng gia nhân cùng cây nến trên tay. Tôi chỉ còn biết đặt con búp bê lên đầu gối làm bạn, rồi ngồi chơi một mình cho đến lúc ánh lửa trong lò sưởi lụi tàn, nhưng vẫn không quên lấm lét đảo mắt nhìn quanh xem có ma hiện hình trong căn phòng u uất câm lặng hay không. Và khi than trong lò đã rạc tơi tả, tôi vội vàng cởi hết áo ngoài và chui tọt lên chiếc giường con, mong tránh xa bóng tối và cái lạnh càng nhanh càng tốt. Bao giờ tôi cũng đem theo con búp bê vào giường, bởi đã là con người thì phải có cái gì đó để yêu thương. Trong khi chẳng biết chọn vật gì xứng đáng hơn, tôi chỉ còn cách tìm niềm vui cho mình trong cái tình cảm âu yếm một con búp bê gỗ bé nhỏ, khoác bên ngoài một bộ đồ tơi tả như một con bù nhìn. Giờ đây, mỗi khi nhớ lại, tôi lại lấy làm lạ: tại sao mình lại thương yêu một thứ đồ chơi vô tri vô giác đến thế, tại sao tôi lại có thể tưởng tượng đó là một vật sống động và có tình cảm như thế. Tôi không thể đến với giấc ngủ nếu không ấp ủ nó vào lòng, chỉ đến khi thấy nó đã nằm ấm áp trong vòng tay che chở của mình, tôi mới bắt đầu thấy vui vui vì tin rằng nó cũng được chia sẻ niềm vui nỗi buồn với riêng tôi.
Thời gian như kéo dài vô tận trong lúc tôi nằm đợi tiệc tan và lắng nghe bước chân chị Bessie trên cầu than. Thỉnh thoảng chị vẫn lên gác tìm cái đê hoặc cái kéo, hay mang lên cho tôi một thứ gì để ăn tối - chẳng hạn chiếc bánh bao nhân ngọt hoặc chiếc bánh pho mát kem. Trong lúc tôi ăn, chị lặng lẽ ngồi giường đợi. Và khi tôi ăn xong chị đắp lại chăn cho tôi, hôn tôi hai lần và bảo: “Chúc Jane ngủ ngon”. Trước những cử chỉ dịu dàng ấy, tôi thấy dường như Bessie là người tốt nhất, tử tế nhất và đáng yêu nhất trên đời. Tôi chỉ mong chị sẽ dịu dàng đáng yêu như thế mãi, đừng xua đuổi mắng mỏ tôi hoặc bắt tôi làm những việc vô lý như một thói quen của chị. Tôi nghĩ rằng Bessie Lee hẳn phải là một cô gái có khả năng bẩm sinh. Chị luôn tỏ ra khéo léo trong công việc và lại có tài kể chuyện rất hấp dẫn, ít nhất là như vậy với ấn tượng chị để lại cho tôi trong những lúc kể chuyện trẻ con. Nếu hồi ức của tôi về nét mặt và dáng người Bessie là đúng thì chị cũng là một người xinh đẹp. Tôi còn nhớ chị là một phụ nữ trẻ măng, mái tóc óng ả, đôi mắt đen láy, nét mặt rất thanh tú, nước da mịn màng trắng trẻo, dáng người mảnh khảnh. Chỉ phải cái tội tính khí thất thường, nóng nảy, lại có những khái niệm mơ hồ về lẽ phải và sự công bằng. Song kể cả như vậy, tôi vẫn cảm thấy thích chị hơn hết thảy mọi người trong lâu đài Gateshead.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Ngày mười lăm tháng giêng, khoảng chín giờ sáng, chị Bessie xuống nhà điểm tâm, mấy đứa em họ tôi chưa thấy mẹ chúng cho gọi lên. Eliza đang đội mũ và mặc áo làm vườn để ra ngoài cho gà ăn, đó là việc nó rất thích. Nó cũng rất mê việc bán trứng cho người quản gia để dành tiền làm vốn riêng. Nó có máu buôn đi bán lại và ý thức kiếm tiền để dành dụm. Điều này không chỉ được thể hiện trong việc bán trứng và gà con, mà còn ở chỗ nó kì kèo giá cả với bác làm vườn về các loại giống hoa lá, chồi cây non, bởi theo lệnh bà Reed, bác phải mua cho cô chủ tất cả những gì mà cô ấy muốn bán. Eliza có thể bán cả tóc trên đầu nếu thấy là có lợi. Còn tiền thu được ư? Lúc đầu nó bọc tiền vào những mảnh giấy hoặc giẻ rách rồi bí mật giấu vào đủ các xó xỉnh. Kể từ khi mấy kho báu bị một chị người hầu trong nhà biết, nó sợ bị mất có ngày nên đành phải đem gửi mẹ, nhưng lại đòi lãi rất nặng - khoảng năm mươi hoặc sáu mươi phần trăm. Cứ ba tháng nó lại tính gốc lãi một lần rồi ghi ghi chép chép rất cẩn thận vào một quyển sổ nhỏ.
Georgiana ngồi trên một chiếc ghế cao đặt trước gương chải đầu, cài lên mái tóc những bông hoa giả và lông chim tìm thấy trong ngăn kéo ở gác xép sát mái nhà. Tôi bận dọn giường theo lệnh của Bessie, chị dặn tôi phải làm xong trước khi chị quay trở lại (thời gian này Bessie thường sai tôi làm phụ việc, để dọn dẹp trong buồng và quét bụi bàn ghế, v.v…). Sau khi trải nệm và gấp xong áo ngủ của mình, tôi lại gần bậu cửa sổ thu dọn vài quyển tranh và đống đồ chơi buông quăng bỏ vãi ngổn ngang; nhưng Georgiana lại ra lệnh cho tôi cứ để mặc những đồ chơi của nó ở đấy (vì bàn ghế, gương lược, đống tách trà đều là sở hữu riêng của nó], nên tôi cũng chẳng buồn dọn nữa. Hết việc, tôi phồng mồm thổi dạt những bông tuyết bám nhẹ trên cửa sổ, để trơ lại một khoảng trống nhỏ trên mặt kính, khiến tôi có thể nhìn ra bên ngoài, nơi mọi cảnh vật đều im lìm và tê liệt bởi sương sa giá rét.
Từ khung cửa sổ, tôi nhìn ra chòi canh của bác gác cổng và con đường dành cho xe ngựa. Đúng vào lúc thổi bạt lớp màng tuyết trắng bạc phủ trên mặt kính để nhìn ra ngoài, tôi bỗng thấy cánh cổng mở rộng, sau đó là một chiếc xe ngựa chạy vào. Tôi thờ ơ nhìn theo bóng chiếc xe. Chuyện xe ngựa vào lâu đài Gateshead không phải là hiếm, hơn nữa chẳng bao giờ có chiếc xe nào mang đến những người khách liên quan tới tôi cả. Chiếc xe dừng lại trước nhà, tiếng chuông ngoài cửa réo gắt gỏng, người khách được mời vào. Vẫn chẳng có gì liên quan gì đến tôi, nên hai mắt tôi như bị hút ngay vào một chú chim cổ đỏ vừa đậu trên một cành anh đào trụi lá mọc bên bờ tường cạnh cửa sổ, nó vừa cất tiếng hót lảnh lót. Đồ ăn sau bữa trưa của tôi vẫn còn trên bàn. Tôi bóp vụn một mẩu bánh rồi mở cửa ném ra ngoài. Vừa lúc ấy Bessie chạy lên cầu thang vào phòng trẻ.
- Cô Jane, cởi tạp dề ra đi, cô đang làm gì đấy? - Bessie hỏi - Sáng nay đã rửa mặt mũi chân tay chưa?
Tôi không trả lời ngay mà mở cửa sổ một lần nữa, vì tôi muốn con chim cổ đỏ chắc chắn nhận được những miếng ăn của mình. Cửa mở, tôi tung tiếp những mẩu bánh vụn trên, một ít vãi trên gờ đá, một ít vương trên cành anh đào, bấy giờ tôi mới khép cửa lại và trả lời:
- Chưa, chị Bessie ạ, em chỉ mới phẩy bụi đồ đạc xong.
- Cô thật là vô tích sự! Thế cô đang làm cái gì đấy? Trông mặt cứ đỏ bừng lên như buôn bạc giả ấy! Cô mở cửa làm gì nào?
Tôi không phải trả lời, vì hình như chị Bessie đang vội lắm, không có thì giờ nghe tôi phân trần. Chị kéo xềnh xệch tôi ra bồn nước, lấy xà phòng, khăn mặt rửa ráy cho tôi, tay chẳng nhẹ chút nào. Rồi chị lấy một chiếc bàn chải cứng chải đầu và cởi tạp dề cho tôi. Xong đâu đấy, chị lại vội vàng kéo tôi ra đầu cầu thang và bảo tôi phải xuống ngay, vì ở trong phòng ăn có người đang đợi tôi.
Tôi định hỏi xem ai, và có bà Reed ở dưới ấy không, nhưng chị Bessie đã vội bỏ đi. Tôi đành phải lò dò bước xuống. Đã gần ba tháng nay tôi không được gọi đến trước mặt bà Reed. Bị cấm ngặt bấy nhiêu ngày trong phòng trẻ nên các phòng điểm tâm, phòng ăn tối và phòng khách đã trở thành những chốn gớm ghiếc đối với tôi, khiến tôi rất sợ nếu phải bước vào.
Tôi hiện đang đứng giữa một căn phòng trống không; trước mặt tôi là cửa phòng điểm tâm, tôi dừng lại, rụt rè, run rẩy. Những lần bị trừng phạt vô lý hồi ấy đã biến tôi thành một con bé sao mà hèn nhát khốn nạn đến thế! Tôi sợ phải quay về buồng trẻ, và cũng chẳng dám tiến vào phòng khách, mà cứ lưỡng lự đứng im một chỗ đến mười phút. Chỉ đến khi có tiếng chuông gắt gỏng trong phòng điểm tâm tôi mới đưa ra quyết định: tôi phải vào.
“Lại còn ai gọi mình nữa nhỉ?” - Tôi tự hỏi trong khi hai tay ra sức vặn nắm đấm cửa trong vài giây - “Mình còn được gặp ai trong phòng, ngoài bà Reed nữa? Là ông hay là bà?” - Cánh cửa vừa hé mở, tôi hấp tấp bước vào và cúi chào thật thấp, rồi ngước mắt lên nhìn… một cái cột đen trũi! Hay ít ra là cảm giác thoạt nhìn của tôi về một cái bóng cứng đờ, gầy guộc, mặc đồ đen, đứng thẳng đuỗn giữa tấm thảm, bộ mặt tàn nhang chẳng khác nào một cái mặt nạ bằng gỗ đẽo được cắm trên một cái cột.
Như thường lệ, bà Reed vẫn ngồi bên lò sửa. Bà ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi lẳng lặng làm theo, rồi bà giới thiệu tôi với con người lạ mặt cứng đờ ấy đại loại như thế này: “Đây là con bé mà vì tôn trọng nó, tôi mới nói chuyện với ông”.
Ông ta, vì đó là một người đàn ông, từ từ quay đầu lại chỗ tôi đang đứng, dò xét tôi bằng hai con mắt xám xịt ẩn dưới hai hàng lông mày sâu róm, và ông trịnh thượng hỏi với một giọng trầm trầm: “Trông người nó bé quá! Thế nó bao nhiêu tuổi rồi?”
- Mười tuổi.
- Thế kia à? - ông ta hỏi lại và soi mói nhìn tôi thêm vài phút, vẻ như không tin.
- Cháu tên gì, cô bé?
- Thưa ông, Jane Eyre ạ.
Vừa trả lời, tôi vừa ngẩng lên nhìn ông ta: một người cao lớn, khuôn mặt bành bạnh, nói chung cả dáng người đều thô kệch và cứng nhắc.
- Được rồi, Jane Eyre, cháu có ngoan không?
Làm sao trả lời là có được trong khi những người xung quanh tôi đều nghĩ ngược lại: tôi im lặng. Bà Reed trả lời thay tôi bằng cái nhún vai đầy ý nghĩa: “Có lẽ ta đừng nên bàn đến chuyện đấy thì hơn, ông Brocklehurst ạ”.
- Quả thực tôi rất lấy làm tiếc khi phải nghe điều đó, nhưng tôi cũng cần nói chuyện với nó một lát chứ. - ông ta đáp lại và gập cái thân hình cứng nhắc ngồi xuống chiếc ghế bành đặt đối diện với bà Reed, bảo tôi: “Lại gần đây nào”.
Tôi bước qua tấm thảm tiến lại gần người đàn ông. Ông ta bắt tôi đứng ngay trước mặt mình. Eo ôi, lúc này mặt tôi đã ngang tầm với bộ mặt ông ta, một bộ mặt thật ghê gớm! Cái mũi thì to đùng! Và cả cái mồm nữa: hàm răng to tướng như răng ngựa mà lại vồ cả ra ngoài môi nữa chứ!
- Không có gì đáng buồn hơn là đứng trước một đứa trẻ hư thân mất nết. - Ông ta bắt đầu lên lớp - Còn tệ hơn nữa nếu đó lại là một đứa con gái. Cháu có biết những kẻ xấu sau khi chết sẽ phải tới đâu không?
- Xuống địa ngục. - Tôi đáp ngay như một tín đồ chính thống giáo.
- Thế địa ngục là như thế nào? Cháu có thể nói cho bác biết không?
- Một cái vạc lửa.
- Thế cháu có muốn rơi vào cái vạc ấy để bị thiêu mãi mãi không?
- Thưa ông, không.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

- Thế cháu phải làm gì để tránh rơi xuống đó?
Tôi nghĩ một lát rồi trả lời:
- Cháu phải giữ sức khỏe và không được chết.
- Làm thể nào để giữ sức khỏe được kia chứ? Ngày nào cũng có những đứa trẻ còn bé hơn cháu chết đấy thôi. Bác vừa phải chôn một đứa bé năm tuổi mới chết cách đây độ một, hai hôm, đó là một đứa con ngoan nên có lẽ bây giờ nó đã lên thiên đường rồi. Chỉ sợ nếu có sang thế giới bên kia, thì cháu cũng chẳng được như vậy đâu.
Không có cách nào làm cho ông ta hết ngờ vực, tôi chỉ còn biết cụp mắt nhìn xuống đôi bàn chân to tướng của ông trên thảm và thở dài, chỉ muốn nhanh nhanh thoát ra khỏi chỗ này.
- Hy vọng rằng cái thở dài này xuất phát từ đáy lòng cháu, và cháu đã biết hối hận vì đã luôn làm khổ vị ân nhân tốt tính của mình.
“Ân nhân! Ân nhân!” - Tôi thầm thốt lên trong lòng - “Tại sao ai cũng bảo bà Reed là ân nhân của mình chứ? Nếu vậy thì ân nhân cũng chỉ là một cái gì đó thật khó chịu mà thôi.”
- Sớm tối cháu có thường xuyên cầu kinh không? - ông ta hỏi tiếp.
- Thưa ông, có ạ!
- Cháu có hay đọc Kinh thánh không?
- Thỉnh thoảng ạ.
- Đọc vui vẻ chứ? Cháu có thích Kinh thánh không?
- Cháu thích sách Khải huyền, sách Daniel, sách Sáng thế ký, sách Samuel, một chút trong cuốn Exodus về người Do Thái, vài đoạn trong cuốn Các vị vua và Biên niên sử, và sách của Job và Jonah.
- Thế còn thánh ca thì sao nhỉ? Hy vọng là cháu cũng thích.
- Không, thưa ông.
- Không à? Hay nhỉ! Bác có một cậu con trai ít tuổi hơn cháu, nhưng nó đã thuộc làu làu sáu bài thánh ca, và nếu cháu có hỏi nó thích ăn một chiếc bánh hạnh nhân hơn hay là đọc một đoạn thánh ca hơn, thế nào nó cũng bảo: “Ồ, thánh ca chứ! Các thiên thần đều hát thánh ca mà! Ước gì mình được làm một thiên thần bé nhỏ dưới trần gian”. Thế đấy.
- Thánh ca thì có gì hay đâu. - Tôi cãi lại.
- Điều đó cho thấy cháu có lòng dạ không tốt, cháu phải cầu Chúa đổi cho một trái tim mới thật trong trắng; vứt bỏ trái tim bằng gỗ đá mà thay vào đó một trái tim bằng da bằng thịt đi.
Tôi đang định hỏi làm thế nào để thay được trái tim thì bà Reed xen ngang vào, bảo tôi ngồi xuống và tự mình nói chuyện.
- Ông Brocklehurst ạ, thiết tưởng tôi đã nói trong lá thư gửi ông ba tuần trước rằng con bé này hoàn toàn không có những tính nết mà tôi mong đợi. Nếu ông bằng lòng chấp nhận nó vào trường Lowood, thì tôi sẽ rất vui khi thấy bà giám thị và các cô giáo chú ý chặt chẽ đến nó, và đặc biệt là phải cảnh giác với cái tính xấu xa nhất của nó, ấy là cái tính trâng tráo. Tao nói ở đây ba mặt một lời, Jane ạ, để mày đừng hòng lợi dụng ông Brocklehurst.
Tôi có sợ và ghét bà Reed cũng chẳng oan, vì bản chất của bà là muốn làm nhục tôi đến phũ phàng. Chẳng bao giờ tôi thấy vui trong lòng khi có mặt bà. Cho dù tôi đã cẩn thận vâng lời, đã cố làm hài lòng bà đi nữa, thì tất cả mọi cố gắng của tôi cũng đều là công dã tràng và đều được bà đáp lại bằng những lời nhục mạ như vừa rồi. Bây giờ bà lại miệt thị tôi trước mặt một người lạ, khiến tôi như chết đứng tại chỗ đến nơi. Tôi nhận ra bà Reed đang dập tắt mọi hy vọng trong cái khoảng sinh tồn mới mà bà định đưa tôi vào. Dù không diễn tả được cảm giác của mình, tôi vẫn cảm thấy bà đang gieo rắc mối ác cảm và sự tàn nhẫn lên chặng đường tương lai của tôi. Tôi biết trong con mắt của ông Brocklehurst, tôi đã biến thành một con bé láu cá, độc ác. Làm sao xóa được sự bất công đó bây giờ?
“Quả thực là chẳng có cách nào cả” - Tôi thầm nghĩ và cố nén cho khỏi bật khóc, dù vẫn phải quệt vội mấy giọt nước mắt lăn dài trên gò má như một biểu hiện bất lực của nỗi lòng tủi hổ, ê chề.
- Đúng là chẳng còn gì buồn hơn khi thấy một đứa trẻ mới bé tí mà đã có tính trâng tráo. - ông Brocklehurst nói - Trâng tráo cũng chẳng khác nào lừa gạt. Rồi tất cả những kẻ tráo trở đều sẽ bị quẳng vào trong vạc lửa lưu hoàng nơi địa ngục. Nhưng bà Reed ạ, cô bé này sẽ được trông coi tử tế, tôi sẽ bảo cô Temple và các giáo viên khác.
- Tôi cũng mong nó sẽ được dạy bảo sao cho xứng với tương lai của nó. - Bà ân nhân của tôi nói tiếp - Sao cho nó thành người có ích, khiêm nhường; còn trong các kỳ nghỉ, xin phép ông cứ cho phép nó ở lại luôn Lowood.
- Thưa bà, bà quyết định như thế là hoàn toàn đúng đắn. - ông Brocklehurst quay sang đáp lời - Khiêm tốn là một ân huệ của Thiên chúa giáo, nó đặc biệt thích hợp với các trò ở Lowood. Bởi vậy tôi đặc biệt chú trọng đến đức tính đó trong việc giáo dục các học sinh. Tôi đã nghiên cứu cách tốt nhất để hạn chế cái tính kiêu ngạo của chúng. Và chỉ trong một hôm tôi đã có được một bằng chứng thú vị về thành công của mình. Hôm đó, sau khi cùng mẹ thăm trường về, con cháu thứ hai Augusta nhà tôi đã reo lên với tôi: “Ôi, ba ơi, trông các nữ sinh ở Lowood có vẻ thầm lặng và xuềnh xoàng quá! Tóc thì vuốt ngược ra sau hai tai, tạp dề thì khâu nổi ở bên ngoài - trông chúng chẳng khác nào con nhà nghèo khổ! Chúng cứ trố mắt nhìn áo của con và của mẹ, cứ như chưa bao giờ được trông thấy một chiếc áo lụa không bằng!”
- Tôi hoàn toàn tán thành điều đó. - Bà Reed đáp lời - Dù tôi có tìm khắp nước Anh, cũng khó lòng tìm được một chỗ nào có phương pháp giáo dục đúng đắn hơn đối với một đứa trẻ như con Jane Eyre này. Tôi thấy cần phải kiên định, ông Brocklehurst ạ! Kiên định ở mọi mặt.
- Thưa bà, kiên định là nhiệm vụ đầu tiên trong các bổn phận Thiên chúa giáo. Điều đó được thể hiện trong mọi bố trí sắp xếp ở nhà trường Lowood, từ ăn uống đạm bạc, áo quần giản dị, tiện nghi mộc mạc, đến thói quen cần cù và tích cực. Đó là nội quy hàng ngày của nhà trường và các cư dân trong đó.
- Thế thì tốt rồi, thưa ông. Vậy thì tôi có thể coi con nhỏ này đã được thừa nhận làm một học sinh của Lowood, và ở đấy nó sẽ được giáo dục phù hợp với hoàn cảnh và tương lai sau này của nó rồi chứ?
- Thưa bà, bà có thể tin như vậy. Nó sẽ được nhận vào vườn ươm chọn lọc đó. Tôi tin rằng nó sẽ tỏ ra biết điều khi được gửi gắm vào đó.
- Tôi sẽ gửi nó đến càng sớm càng tốt, ông Brocklehurst ạ, vì tôi xin đảm bảo với ông rằng tôi rất muốn trút bỏ cái gánh trách nhiệm đang ngày càng đè nặng lên vai mình.
- Tất nhiên, tất nhiên, thưa bà. Bây giờ có lẽ tôi phải xin phép đây. Khoảng một, hai tuần nữa tôi sẽ quay lại lâu đài Brocklehurst. Ông bạn thân của tôi, ông phó tổng giám mục, chắc sẽ chẳng chịu để tôi về sớm hơn. Tôi sẽ viết cho cô Temple vài dòng báo cho cô ấy biết sắp có một nữ sinh mới, để cô ấy có thể dễ dàng đón con bé. Xin tạm biệt bà.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

- Chào ông Brocklehurst, tiện thể nhớ cho tôi gửi lời thăm bà nhà và cô Brocklehurst, cô Augusta, cô Theodore, và cả cậu Broughton Brocklehurst nữa.
- Vâng, tôi xin nhớ. Này cháu gái, đây là quyển cẩm nang dành cho trẻ em, cháu chịu khó cầm mà đọc, nhất là phần: “Chuyện về cái chết bất ngờ và khủng khiếp của Martha G - một đứa trẻ hư, dối trá và lừa lọc”.
Dứt lời, ông Brocklehurst đưa cho tôi một quyển sách mỏng bìa khâu, rồi rung chuông gọi xe ra về.
Vậy là chỉ còn bà Reed và tôi. Mấy phút nặng nề trôi qua, tôi lặng im, mở to mắt ngắm bà ngồi khâu. Hồi ấy bà chừng năm sáu, năm bảy, vóc người lực lưỡng, vai vuông như đàn ông, rắn chắc, không cao lớn, tuy mập mạp nhưng không béo ục ịch. Bà có khuôn mặt khá to, hàm dưới nở bạnh ra cứng nhắc, trán thì ngắn tủn, cằm rộng và nhô, được cái mũi khá cân đối và cái mồm kéo lại. Dưới hai hàng lông mày thưa thớt là đôi mắt ác nghiệt, nước da đen nhờ nhờ, mái đầu nâu nâu vàng vàng như sợi đay. Chẳng thấy bà ốm đau bao giờ. Bà là người khôn khéo và chính xác trong cai quản công việc, giỏi việc nhà. Chỉ có các con bà là thỉnh thoảng mới tỏ ra coi thường và nhạo báng quyền uy của mẹ. Bà rất biết cách ăn mặc, biết chú ý đến điệu bộ cử chỉ để làm đẹp thêm cho mình.
Tôi ngồi trên một chiếc ghế thấp đặt cách ghế bành của bà vài bước, ngắm nghía hình dáng và dò xét nét mặt bà. Tôi cầm trong tay cuốn sách có đoạn kể về cái chết bất ngờ của một đứa trẻ dối trá, mà cảm nhận nó như một lời cảnh báo cho số phận con sâu cái kiến của mình. Những gì vừa xảy ra, những gì bà Reed vừa nói về tôi với ông Brocklehurst và toàn bộ nội dung câu chuyện giữa hai người, vẫn còn mới tinh, phũ phàng như một mũi kim chích thẳng vào ruột gan tôi. Tôi cảm thấy tất cả vẫn vẳng bên tai, thấy sự uất ức đang trào dâng trong lòng.
Đang mải khâu, bà Reed chợt ngừng tay và nhìn thẳng vào mặt tôi.
- Bước ra khỏi đây ngay, về buồng trẻ mà ngồi. - Bà ra lệnh cho tôi. Có thể là cái nhìn hay cử chỉ nào đó của tôi đã chạm nọc bà, nên giọng bà mới tức tối đến như vậy, dù đã cố nén cũng không được. Tôi đứng dậy đi ra cửa, nhưng nghĩ thế nào lại quay lại, bước ngang qua giữa phòng về phía cửa sổ, đến ngay cạnh bà.
Tôi phải nói cho ra nhẽ: tôi đã bị đối xử tàn nhẫn và bây giờ đã đến lúc phải phản ứng lại, nhưng bằng cách nào? Sức tôi liệu có đủ địch lại địch thủ của mình không? Tôi lấy hết sức bình sinh bật ra những nỗi niềm bị đè nén bấy lâu trong lòng.
- Cháu không phải là đứa trâng tráo, bởi nếu đúng như vậy thì cháu phải nói là cháu yêu mợ, nhưng đằng này cháu nói thẳng là cháu không yêu mợ kia mà. Nếu không kể thằng John, thì mợ là người cháu ghét nhất trên đời. Còn cuốn sách này, mợ có thể đem cho con gái của mợ, con Georgiana ấy, vì chính nó mới là đứa trâng tráo, chứ không phải là cháu.
Bà Reed vẫn ngồi khâu, đôi mắt lạnh lùng của bà nhìn tôi chòng chọc.
- Mày còn điều gì muốn nói nữa không? - Bà hỏi tôi như hỏi một người lớn có mâu thuẫn với mình, chứ không phải bằng cái giọng thường dùng với trẻ con.
Cả ánh mắt đến cách ăn nói của bà đều kích động trong tôi một mối ác cảm đối với bà. Toàn thân tôi run lên vì xúc động. Không thể kìm chế được, tôi tức mình nói liền:
- Tôi cảm thấy thật vui vì bà không có họ hàng gì với tôi. Từ nay trở đi, chừng nào còn sống trên đời này, thì chừng đó tôi sẽ không còn gọi bà là mợ nữa. Tôi cũng sẽ không bao giờ thèm đến thăm bà, kể cả khi đã lớn thành người. Nếu ai hỏi tôi có yêu quý bà không và bà đối xử với tôi như thế nào, thì tôi sẽ nói toạc ra rằng chỉ cần nghĩ đến bà thôi, tôi cũng đủ phát sốt lên rồi. Bao giờ bà cũng đối xử với tôi thật tàn nhẫn.
- Sao mày dám quả quyết với tao như thế hả, con ranh Jane Eyre kia?
- Tại sao ư, bà Reed? Tại sao tôi dám ư? Tại vì đó là sự thực. Bà nghĩ tôi sống không có tình cảm, không cần có tình thương, không cần được đối xử tử tế, nhưng làm sao tôi sống như vậy được. Chính bà mới là kẻ không có tình thương. Tôi sẽ ghi nhớ cho đến chết việc bà đã đẩy tôi dúi dụi vào phòng đỏ ra sao, rồi bà giam tôi trong đó như thế nào, mặc dù lúc đó tôi đã nài nỉ van xin, kêu gào thảm thiết: “Mợ hãy thương cháu, xin hãy thương cháu, mợ Reed ơi!”. Tôi bị bà phạt vạ khổ sở như vậy chỉ vì bị thằng con trai hỗn láo của bà vô cớ đánh tôi vỡ đầu. Nếu có người hỏi chuyện, tôi sẽ kể lại đúng như thế. Người ta cứ tưởng bà là một người tốt đẹp, nhưng thực ra bà chỉ là đồ tồi, đồ nhẫn tâm. Chính bà mới là kẻ tráo trở.
Sau khi xổ liền một tràng, nỗi lòng tôi như mở bung ra với một cảm giác tự do và đắc thắng kỳ lạ chưa từng thấy. Có vẻ như sợi dây trói buộc vô hình nào đó đã đứt tung để tôi đấu tranh cho một viễn tưởng tự do không chờ đợi của chính mình. Đó chẳng phải là một cảm nghĩ không có lý, vì trông bà Reed lúc đó có vẻ hốt hoảng thực sự. Mặc cho mớ vải khâu tụt khỏi đầu gối, bà ta giơ hai tay lên, người lắc lư như lên đồng, mắt mũi nhăn nhúm như sắp khóc.
- Jane, cháu bị sao mà ăn nói bừa bãi thế? Tại sao người cháu lại run bắn lên thế? Cháu có muốn uống nước không?
- Khỏi cần, bà Reed ạ.
- Cháu còn muốn điều gì nữa không, Jane? Thực ra mợ cũng rất muốn là người bạn của cháu.
- Vậy ư? Thế chẳng phải bà vừa nói với ông Brocklehurst rằng tôi là một đứa xấu xa, trí trá đó là gì? Rồi tôi sẽ nói cho mọi người ở Lowood biết bà là người thế nào và đã làm những việc tồi tệ ra sao.
- Jane ạ, cháu không hiểu được những điều mợ nói đâu. Trẻ con có lỗi thì phải sửa.
- Lỗi của tôi không phải là trâng tráo. - Tôi gào lên như một con điên.
- Nhưng cháu giận quá mất khôn, Jane ạ, cần phải bình tĩnh lại mới được. Còn bây giờ hãy về buồng mà nằm nghỉ đi một lát, cưng ạ.
- Tôi không phải là cưng kiếc gì của bà, tôi không thể nằm được. Hãy sớm tống cổ tôi đến trường đi, bà Reed, tôi chán ở đây lắm rồi.
“Đúng thế, kiểu gì cũng phải tống cổ nó đến trường ngay mới được” - Bà Reed lẩm bẩm một mình và nhặt lấy mớ đồ khâu, rồi bước vội ra ngoài.
Còn lại mình tôi như một kẻ thắng trận trên chiến trường. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt nhất và cũng là chiến thắng đầu tiên tôi giành được. Tôi đứng một lát trên tấm thảm, nơi ông Brocklehurst vừa đứng, tận hưởng cái cô đơn của người chiến thắng. Thoạt đầu, tôi còn mỉm cười với chính mình và cảm thấy thật vui, nhưng cảm giác này đã nhanh chóng dịu đi cùng sự sục sôi trong huyết quản của tôi. Một đứa trẻ không thể cãi vã với người lớn, cũng không thể bung ra sự tức giận bồng bột của mình như tôi đã làm, mà sau đó lại không cảm thấy dằn vặt vì hối hận. Lúc kết tội và đe dọa bà Reed, lòng tôi bùng cháy dữ dội như một đống lá khô, thiêu đốt phá phách tất cả. Nhưng khi ngọn lửa đã lụi tàn, thì đống lá ấy chỉ còn là một đám tro muội đen đủi, tượng trưng cho tâm trạng của tôi, sau nửa giờ im lặng suy nghĩ về cảnh ngộ và tình cảm yêu thương, ghét bỏ của mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Lần đầu tiên tôi thưởng thức sự trả thù, nó lâng lâng tựa như men rượu nồng, uống vào thấy lòng mình như ấm lên, nhưng sau đó lại là hương vị gay gắt, bỏng rát, khiến tôi cảm thấy như mình bị đầu độc. Tôi bỗng thấy muốn đến xin lỗi bà Reed quá, nhưng theo kinh nghiệm cũng như bản năng, tôi biết rằng làm như vậy chỉ càng làm cho bà thêm khinh bỉ mình, chưa biết chừng lại càng kích động tính nóng nảy của chính mình lên nữa ấy chứ.
Tôi muốn rèn cho mình một phẩm chất khác tốt hơn cái kiểu ăn nói phũ phàng; trau dồi một tình cảm khác đỡ khắc nghiệt hơn tính nóng nảy u uất. Tôi cầm lấy một cuốn sách - các mẩu truyện Ả rập - và cố gắng ngồi đọc. Nhưng rốt cuộc tôi không thể tập trung nổi, đầu óc cứ vơ vẩn hoài giữa mình và những trang giấy mà thường ngày tôi vẫn rất say mê. Tôi mở toang ô cửa kính phòng điểm tâm. Các lùm cây đứng lặng như tờ, sương muối xám xịt bao trùm khắp khu vườn mà không hề bị một cơn gió cuốn hay ánh mặt trời xua tan. Tôi khoác áo trùm kín đầu và cánh tay rồi bước ra một góc vườn yên tĩnh, nhưng lòng chẳng thấy vui khi ngắm những lùm cây im lìm, những trái linh sam rụng, những tàn dư lạnh lẽo của mùa thu, những chiếc lá vàng bị gió thổi dạt thành đống. Tôi dựa cổng nhìn ra cánh đồng hoang, không một bóng con vật, cỏ cây hoa lá thì trơ trụi. Đó là một ngày ảm đạm, bầu trời xám đục, mọi cảnh vật bị tuyết phủ trắng xóa. Những bông tuyết vẫn rơi rơi hoài. Lòng tôi buồn rười rượi, miệng lẩm bẩm không ngớt: “Mình phải làm gì đây? Mình phải làm gì đây?”
Chợt một giọng trong veo gọi tên tôi: “Cô Jane! Cô ở đâu đấy? Vào mà ăn đi chứ!”
Tôi nhận ra giọng Bessie, nhưng vẫn đứng nguyên tại chỗ. Chị bước nhẹ xuống lối nhỏ ra vườn.
- Cô buồn cười thật đấy. - Chị Bessie bảo - Tại sao nghe gọi mà cô vẫn không vào?
Tôi thấy sự có mặt của Bessie dễ chịu hơn những điều tôi đang nghĩ trong đầu, dù chị cũng là người hay nổi cáu. Quả thực là sau cuộc cãi lộn với bà Reed, tôi không còn để tâm đến tính nóng nảy thoáng qua của chị bảo mẫu, và tôi đã sẵn sàng tìm đến hơi ấm nơi tâm hồn trẻ trung của chị. Tôi dang tay ôm chầm lấy chị và nói: “Lại đây, Bessie, đừng mắng tôi nữa.”
Đó là một cử chỉ bộc trực và bạo dạn hơn tính nhút nhát thường lệ của tôi, và dù sao nó cũng làm chị hài lòng.
- Jane ạ, cô đúng là một đứa trẻ kỳ quặc! - Chị vừa nói vừa nhìn tôi - Một đứa trẻ lang bạt và đơn độc. Hình như cô sắp được đến trường rồi thì phải?
Tôi gật đầu.
- Thế cô không buồn vì phải xa chị Bessie tội nghiệp này ư?
- Bessie thì bận tâm gì đến em kia chứ? Chị vẫn chẳng mắng em luôn đấy thôi.
- Thì cô cũng kỳ lắm kia, lúc nào cũng sợ sợ sệt sệt, cô bạo dạn lên thì có sao nào?
- Thì sao ư? Để lại bị ăn đòn à?
- Đòn là đòn thế nào! Nhưng kể ra cô cũng bị đối xử tệ thật. Tuần trước, khi đến thăm tôi, mẹ tôi có bảo rằng bà chẳng hề muốn có một cô con gái rơi vào địa vị như cô. Thôi, ta vào đi, tôi có tin vui cho cô đấy.
- Em không nghĩ như vậy, chị Bessie ạ.
- Cái con bé này! Cô định nói gì vậy? Sao lại nhìn tôi buồn rười rượi thế kia! Thôi được! Trưa nay bà chủ và các cô Reed, cậu John sẽ đi uống trà ở nhà khác, còn cô sẽ ngồi với tôi. Tôi sẽ bảo chị đầu bếp làm cho cô một chiếc bánh, và sau đó tôi sẽ giúp cô một tay xem lại các ngăn kéo của cô, vì thế nào tôi cũng phải thu xếp hòm xiểng cho cô nữa. Bà chủ định cho cô rời Gateshead trong vòng một, hai hôm nữa, và cô có thể mang theo thử đồ chơi nào tùy thích.
- Bessie, chị hứa đi, từ giờ cho tới khi em đi, chị sẽ không mắng nhiếc em nữa chứ?
- Được, tôi hứa, nhưng với điều kiện cô phải là một cô bé thật ngoan và không việc gì phải sợ tôi nữa. Nếu tôi có lỡ gắt gỏng một chút thì cũng đừng vì thế mà giật mình. Không hiểu sao cứ thấy cô như vậy là tôi lại thấy bực mình.
- Em không nghĩ là em sẽ phải sợ chị mãi, chị Bessie ạ, vì dù sao thì em cũng đã quen với chị rồi, với lại rồi sẽ còn khối người khác để mà sợ nữa ấy chứ.
- Nếu cô sợ họ mãi thì thế nào họ cũng sẽ ghét bỏ cô cho mà xem.
- Cũng như chị, phải vậy không, Bessie?
- Tôi không ghét cô, thậm chí tôi tin rằng còn yêu cô hơn những người khác.
- Nhưng có bao giờ chị tỏ ra như vậy đâu.
- Cô cũng hay để ý đấy chứ! Cách nói chuyện của cô cũng thật là lạ. Cái gì khiến cô trở nên liều lĩnh và táo tợn như vậy?
- Cái gì à! Em sắp phải xa chị, vả lại…
Tôi định nói toạc ra chuyện xảy ra giữa tôi và bà Reed, nhưng nghĩ thế nào lại thôi vì thấy không nói gì là hơn cả.
- Xa tôi, chắc là cô vui lắm?
- Hoàn toàn không phải vậy, chị Bessie ạ. Ngay bây giờ em đã bắt đầu thấy hơi buồn.
- “Ngay bây giờ” và “hơi buồn”! Quý cô của tôi nói mà cứ bình thản như không ấy! Tôi dám chắc rằng nếu bây giờ tôi xin được hôn cô một cái, chắc gì cô đã đồng ý! Thế nào cô sẽ lại bảo rằng cô hơi không thích.
- Em sẽ hôn chị và sẵn sàng đón nhận nụ hôn của chị, chị cúi xuống một chút đi.
Bessie cúi thấp người xuống. Chúng tôi ôm hôn nhau, rồi tôi theo chị vào nhà, lòng nhẹ tênh. Buổi trưa ấy trôi qua thật nhẹ và êm ả. Chiều đến, Bessie kể mấy mẩu chuyện trong những câu chuyện hay nhất, và hát những bài ngọt ngào nhất mà chị biết cho tôi nghe. Tôi bỗng thấy cuộc đời như đang bừng lên những tia nắng ấm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

CHƯƠNG 5


Ngày mười chín tháng giêng, chuông đồng hồ vừa điểm năm giờ sáng thì chị Bessie bước vào buồng tôi với ngọn nến trên tay. Tôi dậy trước khi chị tới khoảng nửa giờ, đủ thời gian để rửa mặt, mặc quần áo dưới ánh trăng rọi qua ô cửa sổ nhỏ ngay cạnh giường. Hôm ấy, tôi rời Gateshead bằng xe ngựa. Bessie là người duy nhất dậy sớm, chị thắp đèn trong phòng trẻ và dọn bữa sáng cho tôi. Nhưng nào có mấy đứa con nít ăn được trong tâm trạng háo hức trước một cuộc đi xa, và tôi cũng chẳng phải là ngoại lệ. Thúc tôi ăn chẳng được, chị Bessie phải lấy giấy gói cho tôi một ít bánh quy và nhét vào trong một cái túi. Chị giúp tôi chỉnh lại quần áo và mũ mão, rồi quàng lên cổ một chiếc khăn choàng và cùng tôi ra khỏi buồng trẻ. Khi đi ngang qua cửa phòng bà Reed, chị hỏi tôi: “Cô có định vào từ biệt bà Reed không?”
- Khỏi cần, chị Bessie ạ. Tối hôm qua, khi chị xuống dưới nhà ăn tối, bà ấy đã vào buồng em và bảo sớm nay, lúc nào đi, em không cần phải gặp bà ấy hoặc mấy đứa em làm gì cho phiền phức. Bà ấy còn bảo rằng bà luôn là người bạn tốt nhất của em, đừng bao giờ quên nhắc đến bà và công ơn của bà.
- Thế cô đã nói gì?
- Chẳng nói gì cả, em trùm chăn kín mít rồi quay mặt vào tường.
- Như thế thì không được, Jane ạ!
- Được chứ, chị Bessie, bà chủ của chị không phải là bạn, mà là kẻ thù của em.
- Ô kìa, cô Jane, ai lại nói thế!
- Chào vĩnh biệt Gateshead! - Tôi cay đắng kêu lên lúc bước qua phòng lớn ra cửa trước.
Mảnh trăng khuất bóng giữa những đám mây khiến bầu trời tối sầm lại. Chiếc đèn lồng trên tay Bessie hắt ánh sáng mờ tỏ xuống những bậc thềm ẩm ướt và con đường rải sỏi còn đẫm tuyết tan. Bước vội xuống lối đi, cái giá buốt của một sớm mùa đông khiến tôi run cầm cập. Phòng bác gác cổng đã le lói ánh đèn, vợ bác đang nhóm lửa. Hòm hành lý của tôi đem xuống từ chiều hôm trước, đã được buộc dây cẩn thận và đặt ngay ngoài cửa. Đã sáu giờ kém ít phút! Và khi chuông đồng hồ vừa điểm sáu giờ được một lúc thì có tiếng bánh xe lộc cộc lăn trên đường. Nhìn ra cửa, tôi thấy có ánh đèn xe lắc lư nghiêng ngả trong bóng tối báo hiệu chiếc xe đang đến gần.
- Cô ấy đi có một mình thôi à? - Vợ bác gác cổng hỏi.
- Vâng!
- Đi bao xa?
- Năm mươi dặm.
- Xa quá nhỉ! Không hiểu sao bà Reed lại để cho cô ấy đi một mình xa như thế.
Chiếc xe bốn ngựa chở đầy khách dừng ngay trước cổng. Bác xà ích và tay áp tải giục mọi người nhanh tay chuyển hành lý của tôi lên xe. Tôi ôm níu lấy cổ chị Bessie để tạm biệt chị bằng những nụ hôn.
- Làm ơn để mắt tới cô ấy hộ tôi! - Bessie bảo tay áp tải khi anh ta bế thốc tôi vào trong xe.
- Được rồi, được rồi! - Tay áp tải trả lời và đóng cửa xe lại rồi hô to: “Đi thôi!”. Chiếc xe lập tức lên đường. Vậy là tôi phải giã biệt Bessie, giã biệt lâu đài Gateshead để tới một nơi xa xôi mờ mịt nào đó mà tôi chưa mường tượng nổi.
Tôi chẳng còn mấy ấn tượng về chuyến đi này, chỉ nhớ rằng ngày hôm ấy dài vô tận, như thể chúng tôi phải đi hàng trăm dặm đường. Xe chúng tôi qua một vài thị trấn, và rồi đến một thị trấn lớn thì dừng lại. Bầy ngựa được thả tự do, trong khi các hành khách được xuống xe ăn sáng. Tôi được dẫn vào một quán nhỏ, nơi tay phụ xe muốn tôi phải ăn một thứ gì, nhưng vì tôi không muốn ăn nên anh ta để tôi ngồi trong một căn buồng rộng thênh thang có hai lò sưởi ở hai đầu hồi, trên trần treo một chùm đèn, trên tường cao có một ban công nhỏ sơn đỏ để đầy nhạc cụ. Tôi tha thẩn trong phòng một lúc lâu, trong lòng trào dâng một cảm giác kỳ lạ, chỉ lo mình bị một kẻ lạ mặt bắt cóc giống như những câu chuyện chị Bessie thường kể cho tôi nghe bên lò sưởi. Cuối cùng thì tay phụ xe cũng quay lại bế xốc tôi lên xe trước khi leo lên chỗ ngồi của mình và rúc tù và inh ỏi. Chiếc xe tiếp tục nhẫn nại lăn bánh trên đường phố của thị trấn L(1).
1. có thể Charlotte Brontë ám chỉ thành phố Leeds.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Jane Eyre - Charlotte Bronte

Postby bevanng » 12 Feb 2022

Trời chiều chở nặng hơi sương ẩm ướt. Lúc chạng vạng tối, tôi cảm thấy mình đã xa Gateshead lắm rồi, bởi xe chúng tôi không còn qua các thị trấn. Mọi cảnh vật đều đã thay đổi, những ngọn đồi nhấp nhô xám xịt bao quanh chân trời, hoàng hôn buông dần… Chúng tôi xuống một thung lũng u tịch, chỉ có tiếng gió rít giữa các lùm cây khi màn đêm đã thực sự bao trùm lên vạn vật.
Tiếng gió ru khiến tôi chìm dần vào giấc ngủ, nhưng tôi cũng chẳng ngủ được lâu, vì tiếng bánh xe dừng bất chợt đã làm tôi choàng tỉnh. Cửa xe mở, một phụ nữ có dáng dấp của một đầy tớ đứng bên cạnh cửa. Tôi nhìn rõ khuôn mặt và quần áo chị ta nhờ ánh đèn hắt xuống từ trên xe.
- Trên xe có cô bé nào tên là Jane Eyre không nhỉ? - Chị ta hỏi. Tôi trả lời: “Có”, và được bế xuống xe. Đợi hòm hành lý của tôi được dỡ xuống hết, chiếc xe lại lập tức chuyển bánh.
Phải ngồi lâu quá, hơn nữa xe lại xóc và nhiều tiếng ồn, nên tôi thấy chóng mặt và ê ẩm hết cả người. Tôi định thần nhìn lại mình một lúc. Mưa, gió và bóng tối đè nặng lên cảnh vật xung quanh, song tôi vẫn lờ mờ nhận ra một bức tường có một ô cửa mở trước mặt. Đợi tôi bước qua cửa, người dẫn đường mới lặng lẽ khép cửa lại và bấm khóa cẩn thận. Trước mặt tôi là một tòa, hay nói đúng hơn là một dãy nhà - vì tòa nhà chạy rất dài - có nhiều cửa sổ, trong đó còn một vài cửa sổ vẫn còn ánh đèn. Chúng tôi bước vào một lối đi rải sỏi khá rộng, lõng bõng nước, dẫn tới một khung cửa. Chị người hầu dẫn tôi qua hành lang vào một căn phòng còn ánh lửa và để tôi một mình trong đó.
Tôi đứng hơ những ngón tay rét cóng trên ngọn lửa hồng và đảo mắt nhìn xung quanh. Không phải ánh đèn cầy, mà là ánh lửa bập bùng hắt ra từ lò sưởi soi sáng những bức tường dán giấy, những tấm thảm, rèm cửa sổ và các đồ đạc bằng gỗ gụ bóng lộn: đây là phòng khách, không được rộng rãi và tráng lệ như phòng khách ở Gateshead, nhưng cũng khá đủ tiện nghi. Tôi đang ngắm nghía bức tranh treo trên tường thì cánh cửa bật mở, một người cầm nến bước vào, và một người nữa đi theo sau.
Đi trước là một quý bà cao lớn, tóc sẫm, mắt đen, trán rộng và xanh xao. Bà khoác trên mình một chiếc khăn choàng, con người bà toát lên một vẻ nghiêm trang.
- Ai lại để con bé đi một mình thế này. - Vừa nói, bà vừa đặt cây nến lên bàn. Bà chăm chú nhìn tôi chừng hai phút, rồi nói tiếp:
- Tốt hơn hết là cho cô bé đi ngủ đi, trông nó có vẻ mệt mỏi lắm. Em có mệt không? - Bà hỏi và đặt tay lên vai tôi.
- Thưa bà, hơi mệt ạ.
- Còn đói nữa chứ! Cô Miler này, trước khi đưa cô bé đi ngủ, phải cho nó ăn một chút gì đã. Có phải đây là lần đầu tiên em xa cha mẹ để tới trường không?
Tôi giải thích cho bà biết là tôi không còn cha mẹ. Bà hỏi họ mất từ bao giờ, năm nay tôi bao nhiêu tuổi, tên gì, tôi có biết đọc biết viết không, và đã khâu vá được chưa. Bà vuốt nhẹ ngón trỏ lên má tôi và bảo bà “hy vọng tôi sẽ trở thành một cô bé chăm ngoan”, rồi giục tôi đi theo cô Miler.
Quý bà vừa hỏi chuyện tôi trạc hai mươi chín tuổi, còn người phụ nữ đi cùng tôi trẻ hơn độ vài tuổi. Điều đầu tiên tôi có ấn tượng về con người này là giọng nói, ánh mắt và dáng vẻ bề ngoài. Cô Miler chỉ là một người bình thường, nước da hồng hào, nhưng vẻ mặt vẫn mệt mỏi vì lo lắng, dáng dấp hành động tất bật như người con mọn. Trông cô có dáng là một nữ trợ giáo - quả thực về sau tôi biết đúng là như vậy. Tôi theo cô qua hết buồng này đến buồng khác, hết hành lang này đến hành lang khác, trong một khu nhà rộng rãi và khấp khểnh không đều. Thoạt đầu, khu nhà như chìm trong bầu không khí im lặng đến ghê người, nhưng sau đó, chúng tôi đến một nơi có những tiếng rì rầm của nhiều giọng nói. Chúng tôi bước vào một căn phòng chạy dài, ở mỗi đầu kê một chiếc bàn lớn, trên mỗi bàn có hai cây nến sáng tù mù, và ngồi trên hàng ghế dài quây xung quanh những cô gái trạc tuổi chín, mười đến hai mươi, ánh sáng lờ mờ của những ngọn nến khiến tôi tưởng trong phòng có nhiều người lắm, nhưng thực ra không đến quá tám mươi nữ sinh. Tất cả đều mặc cùng một kiểu: áo váy dài không tay kiểu Hà Lan, vải nâu, trông rất lạ mắt. Chúng tôi đến đúng vào giờ nghiên cứu, họ đang chuẩn bị bài ngày mai, và tiếng rì rầm tôi nghe được chính là tiếng họ lẩm nhẩm đọc bài.
Cô Miler ra hiệu cho tôi ngồi xuống một chiếc ghế gần cửa, rồi bước lên đầu phòng nói thật to:
- Các lớp trưởng, thu sách lại xếp vào chỗ đi nào!
Bốn nữ sinh lớn từ các bàn khác nhau cùng đứng dậy đi một vòng thu lượm sách vở và xếp lại một chỗ. Cô Miler tiếp tục ra lệnh:
- Các lớp trưởng đi dọn khay ăn tối đi!
Mấy nữ sinh lớn lập tức đi ra và quay trở lại ngay, trên tay mỗi người bưng một chiếc khay có chia từng suất một món ăn gì đó tôi không biết, giữa khay là một bình nước và một chiếc cốc vại. Họ đi một vòng chia từng phần cho từng bàn, ai khát thì lấy cốc mà uống chung nước trong bình. Đến lượt mình, tôi chỉ uống cho đỡ khát chứ không đụng đến phần ăn. Cảm giác mệt mỏi và xúc động khiến tôi không muốn ăn. Tuy nhiên, tôi cũng có dịp được thấy khẩu phần ăn của mỗi người là một chiếc bánh lúa mạch mỏng manh, được cắt sẵn làm nhiều phần.
Sau bữa ăn, cô Miler nán lại tụng kinh, còn các nữ sinh thì đi lên gác theo hàng đôi. Người mệt mỏi rã rời, tôi chẳng hơi đâu để ý xem phòng ngủ như thế nào, chỉ thấy nó cũng dài y như phòng học. Đêm nay tôi phải ngủ chung giường với cô Miler. Cô giúp tôi cởi áo ngoài. Ngả lưng rồi tôi mới đưa mắt nhìn quanh một lượt: mỗi giường đều có hai người nằm. Tôi nằm được khoảng mươi phút thì ngọn đèn duy nhất trong phòng phụt tắt. Tôi ngủ thiếp đi trong bóng tối câm lặng.
Đêm trôi qua nhanh, tôi mệt đến nỗi chẳng còn mơ được gì, chỉ tỉnh giấc có một lần khi nghe thấy tiếng gió gào rít từng hồi giữa cơn mưa như trút và cảm giác cô Miler vẫn nằm bên cạnh. Lúc tôi bừng tỉnh một lần nữa cũng là lúc một hồi chuông réo vang, các nữ sinh đều đã dậy và đang mặc quần áo. Một ngày mới chưa đến, căn phòng chỉ được chiếu sáng nhờ một, hai ngọn đèn leo lét. Tôi miễn cưỡng trở dậy, trời rét căm căm buộc tôi mặc quần áo cho thật nhanh và đi vội ra chỗ chậu rửa mặt, nhưng tôi cũng không thể rửa ngay được, bởi sáu người mới có một chiếc chậu đặt ở giữa phòng. Tiếng chuông lại réo vang như một hiệu lệnh buộc tất cả nữ sinh phải xếp hành đôi để xuống cầu thang, vào phòng học lạnh run và tối như hũ nút. Cô Miler đứng đọc kinh rồi ra lệnh:
- Ngồi vào lớp đi!
Mấy phút đầu giờ học, các học sinh nói chuyện rất ồn ào nhốn nháo, khiến cô Miler phải luôn mồm hô: “Trật tự!” và “Trật tự đi!”. Khi những tiếng ồn ào đã lắng xuống, tôi thấy các nữ sinh ngồi vào dãy bàn quây theo hình bán nguyệt, đối diện là bốn cái ghế tựa đặt bên bốn cái bàn nhỏ, ai cũng cầm trên tay một quyển sách. Bàn học sinh nào cũng đặt một cuốn sách to như cuốn Kinh thánh. Yên lặng được một lát, phòng học lại rộ lên những tiếng nói chuyện riêng. Cô Miler phải đến từng lớp để dẹp những tiếng rào rào như cái chợ đó.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 34 guests