Côn Luân - Phượng Ca

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 79: Nhân Mệnh Chí Trọng (Mạng người là quan trọng nhất

Đợi ba người đi xa dần, Tiêu Thiên Tuyệt mới cùng Trung Điều Ngũ Bảo bước ra khỏi lùm cây. Lão cau mày hỏi:

– Năm tên ăn hại, tại sao lại rơi vào tay Hạ Đà La?

Năm huynh đệ đưa mắt nhìn nhau, Hồ Lão Nhất nhăn nhó kể:

– Chúng con đi tìm đại ca…

Tiêu Thiên Tuyệt buông thõng:

– Lương Tiêu ấy hả?

Ngủ Bảo gật đầu, Hồ Lão Vạn hậm hực nói:

– Hắn chẳng biết coi trọng nghĩa khí, lúc ở Lâm An đã lột truồng chúng con, đem treo cả bọn lên cây. Chúng con bàn bạc kỹ rồi, lần tới bắt được hắn thì cũng phải lột quần treo lên cây.

Hồ Lão Thiên phụ họa:

– Đúng lắm đúng lắm! Tồi tệ hơn nữa là sau đó hắn giả vỡ chết đuối khiến bốn đứa kia khóc như bảo gan xé ruột…

Cả bốn đồng thanh:

– Bố láo, đứa nào khóc?

Hồ Lão Thiên ho khan:

– Tất nhiên không phải Hồ Lão Thiên này rồi. Mấy hôm trước, nghe nói đại ca bị người ta vây đánh ở Bách Trượng Bình, chúng con bèn đến giúp hắn.

Cả bốn bắt bình đồng thanh:

– Không phải, đến để treo hắn lên.

Hồ Lão Thiên cười xòa:

– Đúng đúng! Nào ngờ không gặp được đại ca, thay vào đó lại đụng đầu Hạ xú xà và mụ già nọ. Hạ xú xà vốn đã có hiềm khích vái chúng con từ trước, bèn động thủ ngay, e hèm, sau đó, e hèm… sự việc như thế đấy.

Tiêu Thiên Tuyệt khoát tay áo:

– Được, các ngươi cần tìm ai thì đi mà tìm, cút hết đi!

Năm tên nhìn nhau, không dám chống lệnh, đành lủi thủi cất bước. Tiêu Thiên Tuyệt trông theo Hiểu Sương, nghĩ bụng: “Ngoài sư phụ và Gia Luật Sở Tài, đời này lão phu chưa chịu ơn ai bao giờ. Ngờ đâu hôm nay được tiểu hòa thượng tương trợ, sau lại được tiểu cô nương giải độc, nhất định phải nghĩ cách đền đáp. Bản lĩnh hai đứa tuy chẳng đến nỗi kém cỏi, nhưng lòng dạ hiền hậu nhân từ, làm sao chống chọi nổi thế gian hiểm ác, lão phu phải kín đáo đi theo bảo vệ chúng mới được“. Họ Tiêu bình thời rất rạch ròi chuyện ân oán, kẻ thù thì nhất định phải trả thù thật tàn bạo, còn ân nhân thì phải đem hết sức ra mà báo đáp, chủ ý đã định, lâo bèn lặng lẽ đi theo ba người.

Lại nói, kỵ binh Tinh Tuyệt chiến đấu đến lúc vầng dương hạ xuống chân trời phía tây mới thu quân. Người Tinh Tuyệt may mắn giành phần thắng trong cuộc chiến, nhưng tổn thất cũng rất nặng nề, thương vong quá nửa, tuy rằng ca khúc khải hoàn trở về, nhưng mặt mũi ai nấy lầm lì, chẳng hề có nét vẻ gì là mừng rỡ. Phong Liên theo những người ở nhà ra đón, cố gắng nở nụ cười, nhưng không giữ nổi, cuối cùng lao vào lòng Thiết Triết bật khóc.

Âu Luân Y hạ lệnh thu nhặt thi thể của người trong tộc để an táng. Họ đào các huyệt nông hình thanh kiếm rồi xếp thi thể nằm thành hình kiếm, trên trán dán một mẫu kiếm nhỏ cắt từ lá cỏ, rồi đặt người quá cố xuống huyệt, đầu quay về dãy Côn Luân. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn hỏi:

– Lễ an táng này có hàm nghĩa gì?

Phong Liên nói:

– Tộc Tinh Tuyệt coi kiếm là thần, sau khi chết cũng vẫn bầu bạn với kiếm như thuở sinh thời.

Lương Tiêu nhớ ra rằng ở các nóc lều đều có khắc tiêu ký hình kiếm, tự nhiên ngờ ngợ một điều, bèn hỏi:

– Nhưng vì sao ngưòỉ Tinh Tuyệt đều dùng đao, không ai dùng kiếm cả?

Phong Liên giải thích:

– Kiếm là thần, chi có một thanh, nhưng nội nói, không ai trong tộc Tinh Tuyệt xứng đáng sử dụng nó.

Lương Tiêu định hỏi kiếm thần ở đâu, nhưng lại nghĩ đó là bí mật riêng của dân tộc người ta, đành kiềm chế không đả động tới.

Đúng lúc đó, một lão già ôm bộ giáp trụ bước đến, run run nói:

– lầy Côn Luân, đây là bộ giáp trụ do chính tay ta rèn để tặng A cổ con trai ta. Nơi nào được che chắn bằng lần giắp này thì nơi đó trường mâu sắc nhọn nhất cũng không xuyên thủng nổi, nhưng… nhưng người Mông cổ đã bắn mù mắt con ta… – Nói tới đây, lệ già chan chứa, lão đặt bộ giáp trụ vào lòng Lương Tiêu. – Ta tặng nó cho ngươi, mong rằng thần kiếm sẽ phù hộ cho ngươi bình an.

Lương Tiêu không biết làm sao, đành nhận lấy, những người khác cũng lục tục tiến lại, kẻ tặng mã đao, kẻ tặng trường mâu, đều là di vật của người đã chết, Lương Tiêu đành nhận lấy tất cả, đặt xuống bên cạnh mình, chỉ chốc lát đã được một đống. Đương lúc buồn rầu thể lương, đằng xa bỗng vọng đến tiếng trẻ con khóc. Lương Tiêu đưa mắt nhìn thì thấy một đứa bé gái đứng trơ trọi trên dốc núi, đang thút thít khóc hờ. Phong Liên sa nước mắt:

– Cha nó đã tử trận, mẹ cũng trúng tên chết rồi.

Lương Tiêu nín lặng hồi lâu rồi trèo lên dốc núi, muốn ngắt một bông hoa càí lên tóc đứa bé, nhưng tìm mãi chỉ thấy cỏ cây rậm rạp, chẳng có bóng dáng một bông hoa rừng nguyên vẹn nào, gã đành ngắt một nhánh cỏ rồi tiện tay dắt một con ngựa non lại gần đưa cho nó. Cô bé ngẩn người, tự nhiên nhào vào lòng Lương Tiêu khóc rầm ri, Lương Tiêu xót xa ngước nhìn bầu trời đầy sao, cay đắng nghĩ: “Vì sao con người cứ tàn sát lẫn nhau như vậy? Thiên hạ rộng lớn thế kia mà không có cách nào để chấm dứt chiến tranh hay sao?“. Gã càng nghĩ càng thắc mắc, lòng nhức nhối vô cùng.

Ầu Luân Y và Thiết Triết bàn định xong, triệu tập mọi người thông báo:

– Hoa ban báo bị đánh bại, nhưng chắc chắn Hải Đô sẽ không dừng tay ở đây đâu. Hắn có mười vạn thiết kỵ, chúng ta không sức nào chống đỡ nổi, chỉ còn cách dời đến Kiếm Cốc.

Ai nấy quay về tiếp tục thu dọn đồ đạc, hôm sau, bịn rịn để lại mộ phần của người thân, họ lùa bò dê lên hướng tây bắc, Lương Tiêu và Thiết Triết dẫn chiến binh đi bọc hậu. Thiết Triết rất ít chuyện trò, Lương Tiêu bận suy tư nên cũng không nói gí, vì vậy bầu không khí dọc đường rất trầm lắng.

Đi được hơn hai mươi ngày, chẳng biết đã xuyên qua bao nhiêu sơn cốc, vượt qua bao nhiêu đỉnh non, một hôm, chợt thấy phía xa có một ngọn tháp trắng vươn thẳng lên trời, người Tinh Tuyệt từ già đến trẻ đều hớn hở reo mừng:

– Kiếm tháp! Kiếm tháp!

Âu Luân Y dõi mắt nhìn ngọn tháp hình kiếm, cảm khái nói:

– Một trăm năm rồi, không ngờ chúng ta vẫn còn quay lại đây.

Họ đi vòng qua sườn núi, phía trước hiện ra một cây cầu lớn bện bằng dây sắt, chăng ngang vực sâu muôn thước, mé bắc cầu có một khe núi hẹp, nước cuồn cuộn chảy ra, đến miệng khe thì đổ ùm xuống thành một dòng thác trắng xóa réo ào ào. Mọi người lần lượt rời yên cương, đắt ngựa đi bộ vào. Dây sắt cầu đã lốm đốm n nhưng vẫn rất chắc chắn, ngần ấy người ngựa bước lên mà chiếc cầu không hề rung rinh, đủ thấy người thợ làm cầu năm xưa đã hao tâm tổn sức đến nhường nào. Xuyên qua khe núi hẹp, họ tiến vào một sơn cốc rộng rãi, bốn bề trập trùng núi non xanh mướt mắt, ngọn cao ngọn thấp đứng chen nhau, thác nước rải rác đó đây, chảy từ nơi cao xuống thấp, tụ thành một cái hồ lớn ở giữa cốc. Lương Tiêu ngắm cảnh mà bâng khuâng mơ màng: “Người ta thường nói “trăm khe dào dạt khoe vẻ đẹp, muôn non chất ngất đua màu tươi”, dùng tả cảnh này tình này thì quả là thích hợp“.

Người Tinh Tuyệt dựng lều làm trại trên bãi cỏ cạnh hồ, ổn định sinh hoạt. Vì đã đến được nơi an toàn nên ai nấy vui vẻ khác thường, họ kéo nhau đến chân tháp, mở tiệc thâu đêm suốt sáng, Lương Tĩêu thoái thác không được, cũng đành theo Phong Liên đi uống rượu. Đương khi nam phụ lão ấu hát ca nhảy múa quanh đống lửa, chợt dàn nhạc tấu lên một chặp rồi dừng, không gian chìm trong tĩnh lặng, Lương Tiêu đưa mắt nhìn. Thiết Triết bước ra khỏi đám đông, khuôn mặt uy nghiêm. Ai nấy ngẩn ra một lúc rồi tiếng hoan hồ nổi lên rầm rộ, Phong Liên bấm Lương Tiêu, nhí nhânh nói:

– Cha sắp hát đó! Từ ngày mẹ mất, cha chưa hát lại lần nào.

Thiết Triết đứng giữa bãi, vóc dáng cao lán đổ bóng lên thân tháp. Y ngửa mặt nhìn trời đêm và cất tiếng hát, giọng hát ngân dài như chim ưng chao cánh giữa trời, vút cao rồi liệng thấp, lay động tâm hồn người nghe, Lương Tiêu buột miệng tán thưởng:

– Giọng ca hay quá!

Bài hát của Thiết Triết hùng hồn trầm bổng chan chứa niềm tôn kính, tựa như đang tụng ca ai đó. Người Tinh Tuyệt lắng nghe với nét mặt trang nghiêm, vài ba người cũng khe khẽ hát hòa theo. Đó là một khúc ca cổ của người Tinh Tuyệt, ca từ thâm trầm khúc chiết, Lương Tiêu không hiểu gì cả, chỉ nghe được mỗi hai chữ “Côn Luân”, tiếng ca cất cao, lông lộng tận chân mây. Ánh mắt mọi người đồng thời đổ dồn vào Lương Tiêu, gã rất ngạc nhiên, đúng lúc đó Thiết Triết cúi đầu về phía gã, đoạn trở lui vào đám đông như cũ. Người Tinh Tuyệt nhất tề hoan hô, nhạc cụ lại tấu lên, giai điệu sôi nổi tràn trề, réo rất lôi cuốn. Phong Liên bỗng đứng dậy bước vào giữa bãi, đám đông vỗ tay cười vang.

Phong Liên mỉm cười duyên dáng, uốn hông, mũi chân nhún nhảy theo nhịp điệu, xoay trái, xoay phải, rồi tăng dần tốc độ, múa nhanh đến mức mũi chân gần như không chạm đất, y hệt cỏ bông bay bổng, bông tuyết la đã, thỏ chạy không nhanh bằng, gió lốc còn quá chậm. Mọi người theo dõi bằng ánh mắt ngời sáng, ai nấy hứng khởi hoan hô nhiệt liệt, Lương Tiêu cũng cảm thấy dễ chịu trong lòng, bụng bảo dạ:

“Mẹ ta từng kể về điệu vũ Hô toàn (Hô toàn vũ là điệu múa xoay của Khang Quốc nay là Sarmarkanđ, Uzbekiztan, du nhập vào Trung thổ và trở nên thịnh hành dưới thời nhà Đường), chắc là nó đây, muôn vòng vạn vòng, xoay mãi không ngừng, quả nhiên danh bất hư truyền“. Vừa nhớ tới mẹ, bất giác bao nhiêu hứng thú đều tan biến, gã thở dài, cầm bát rượu lên uống cạn rồi định rút lui, chợt thấy Phong Liên vừa quay tít vừa di chuyển về phía mình, ánh mắt long lanh, làn da hồng hào, khuôn ngực phập phòng, cô vươn tay kéo áo gã. Lương Tiêu ngơ ngác, xung quanh bỗng lặng hẳn đi, ai nấy nhìn hai người với vẻ mặt khác thường. Phong Liên bặm bặm môi, khẽ bảo:

– Đừng ngây ra the! Nhảy với tôi nào!

Lương Tiêu đã chực từ chối, nhưng bắt gặp ánh mắt tha thiết của người thiếu nữ, gã lại không muốn làm cô mất hứng, đành bước ra theo. Những tiếng hoan hô nổi lên lác đác trong đám đông, nhưng chỉ chốc lát là tắt đi ngay, Lương Tiêu mang máng cảm thấy một thứ gì đó là lạ pha vào bầu không khí đang sôi nổi, bèn ngừng chân. Tiệp Tô đứng bật dậy, răng nghiến trèo trẹo. Phong Liên phớt lờ, giục Lương Tiêu:

– Mau lên!

Lúc này Lương Tiêu đã nhận ra rõ ràng có điều gì đó không ổn, gã đang ngần ngừ, Tiệp Tô đã lên tiếng: “Khoan đã!”, đoạn nhấc hai thanh mã đao, sải bước tiến đến, ném một thanh xuống bên chân Lương Tĩêu, rành rọt bảo:

– Tây Côn Luân, ta khiêu chiến với ngươi!

Chẳng là, tộc Tinh Tuyệt có tục kén chông bằng Hô toàn vũ. Hễ một cô gái mời chàng trai cùng múa Hô toàn mà chàng trai lại nhận lời, thì khi điệu nhạc kết thúc, họ có thể chọn nơi xây tổ uyên ương, kết thành phu phụ được ngay. Lương Tiêu đoán hiểu sự tình, cau mày đứng im. Phong Liên mai mỉa:

– Tiệp Tô! Hoa ban báo có ngoại hiệu là đệ nhất dủng sĩ núi Côn Luân mà còn không đỡ được một nhát mâu của lầy Côn Luân, ngươi thắng được chàng chăng?

Tiệp Tô nghiến răng cười ghê rợn:

– Không có nàng, ta thà mất mạng dưới đao của hắn còn hơn.

Mọi người xung quanh nín thở, không gian lặng đi như chết, chỉ có tiếng gió đùa hiu hiu trên mặt hồ sóng gựn lăn tăn. Âu Luân Y cũng phải đứng dậy, nhưng không nói năng gì được, vì Tiệp Tô là chiến binh, theo phong tục Tinh Tuyệt, chiến binh đã khiêu chiến, không ai được ngăn cản, lão chỉ biết lo lắng mà thôi. Sự kiêu dũng của Lương Tiêu đã được chứng mình, Tiệp Tô thành thạo đao pháp, nhưng so ra cũng còn kém gã rất xa. Phong Liên không chịu đựng nổi thái độ ngoan cố của Tiệp Tô, đành ngừng múa, tức đến nỗi nước mắt trào ra như mưa.

Lương Tiêu nín lặng chốc lát, rồi chậm rãi cúi xuống nhặt thanh mã đao lên. Trái tim mọi người đều nảy thon thót, Phong Liên nhíu mày, ngập ngừng toan nói rồi lại thôi. Tiệp Tô siết cứng thanh mã đao trong tay, tập trung tinh thần cao độ, đôi mắt tròn dữ tợn trừng trừng nhìn tình địch. Lương Tiêu ngó thanh đao một chốc, bỗng thở dài:

– Ngươi dám chiến đấu vi ái tình là rất bản lĩnh rồi, không cần đấu nữa, coi như ta thua.

Lời gã thốt ra khiến tất cả sừng sốt Phong Liên chết điếng, ánh mắt thất vọng rõ rệt. Lương Tiêu ném thanh đao xuống đất, quay mình bỏ đi.

Rời khỏi đám người, gã trèo lên một ngọn núi, phóng mắt nhìn ra xa, núi non nhấp nhô lờ mở trong màn đêm, trái tim gã cũng phập phòng không yên. Chợt có tiếng bước chân vang lên sau lưng, Lương Tiêu không ngoái đầu, chỉ thở dài:

– Tộc trưởng cũng lên đây à?

Âu Luân Y mỉm cười, ném cho gã một bì rượu. Hai người uống rượu trong im lặng một lát, Âu Luân Y bỗng cất tiếng hát, giọng hát hào sảng, vang vọng khắp không gian, chính là khúc ca mà Thiết Triết: đã hát lúc trước. Hát xong, lão cười nói:

– Tây Côn Luân, ngươi có biết đó là bài hát gì không?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Không, Âu Luân Y cười nói:

– Dịch theo Hắn ngữ thì là:

Cây cỏ xanh xanh, bạn từ xa tới, hoa rộ khắp núi, trăng sáng ngập trời. Ánh xuân rạng tươi,, chỉ ngời một thoáng, tình ta sâu lắng, giữ mãi ngàn đời. Mây trắng chơi với, chỉ trong chớp mắt, tình ta bền chặt, muôn thu tốt lành. Cây cỏ xanh xanh, khách từ xa tới, lòng như nắng mới, rộn ràng reo vui, Giai nhân cười tươi, thiếu niên vui vẻ, khách là ai thế, nói để người hay: Sừng sững phía tây, Côn Luân hùng vĩ!

Giọng lão sang sảng, phát âm rõ ràng tròn vẹn. Lương Tiêu thở dài:

– Hóa ra tộc trưởng đã đoán được từ đầu?

Âu Luân Y vỗ tay cười:

– Ngươi là người Hắn, đúng không?

Lương Tiêu đáp:

– Cũng không hoàn toàn.

Âu Luân Y cau mày:

– Tức là không phải?

Lương Tiêu uống một ngụm rượu, thong thả đáp:

– Mông hay Hắn, tộc trưởng để ý làm gì, chỉ cần coi tại hạ như bằng hữu là được rồi.

Âu Luân Y cười:

– Cứ như ý ngươi, thì ra lão phu đã quá câu nệ thói thường.

Ngừng một lát, lão thở dài.

– Tây Côn Luân, vì sao ngươi lại từ chối giao thủ với Tiệp Tô, chưa đấu mà đã nhận thua rồi? Ở Tinh Tuyệt, cách xử sự như thế bị khinh thường lắm đó.

Lương Tiêu nhướng mày:

– Đại trượng phu có việc nên làm, có việc không nên làm.

Âu Luân Y thở dài:

– về lý là vậy, nhưng chỉ tủi cho con bé Phọng Liên, ta nhận ra, nó thật tâm dành tình cảm cho ngươi đấy.

Lương Tiêu xua tay:

– Trái tim tại hạ đã có chủ rồi, không thể làm Phong Liên lỡ làng được. Hai người đều đường hoàng thẳng thắn, trò chuyện một lúc, Âu Luân Y đã hiểu rõ ý Lương Tiêu, dành chỉ bùi ngùi thở dài, không khuyên lơn thêm gì nữa.

Gió đêm táp vào mặt họ lạnh buốt. Lặng lẽ uống rượu một lúc, Âu Luân Y bỗng nói:

– Lão phu muốn rèn cho ngươi một thanh kiếm.

Lương Tiêu ngớ ra, sực nhớ lời Phong Liên lúc trước, vội chối từ:

– Không dám.

Âu Luân Y cười nói:

– Dám quá đi chứ, so với Cùng Nho Công Dương Vũ, có khi ngươi còn xứng đáng hơn.

Lương Tiêu ngỡ ngàng:

– Tộc trưởng quen Công Dương tiên sinh à?

Âu Luân Y tủm tỉm cười:

– Quả nhiên ngươi có liên quan đến hắn. Chà, điểm mặt Trung thổ chỉ có mấy vị cao nhân đó thôi, bởi hạng tầm thường làm gì có ai bồi dạy nổi tài năng kiệt xuất như ngươi. Lão phu ren kiếm nửa đời người, được cả thảy sáu thanh kiếm, hễ rèn ra một thanh mới là phải hủy hoại thanh trước đó đi. Nay chỉ còn một thanh Thanh Li mà Công Dương Vũ đang giữ…

Lương Tiêu sửng sốt thật sự:

– Rèn một thanh, hủy một thanh, lẽ nào tộc trưởng…

Âu Luân Y không đợi gã nói hết, đã mỉm cười ngắt lời:

– Hai chữ Luân Y trong tiếng Tinh Tuyệt có nghĩa là “thần long”, năm xưa ta hành tẩu ở Trung thổ, rất ngưỡng mộ tiên hiền Âu Dã Tử (Âu Dã Tử là người nước Việt, sống cuối thời Xuân Thu đầu thời Chiến Quốc, thủy tổ nghề rèn kiếm Trung Hoa)

Lương Tiêu vội vàng đứng dậy:

– Tài rèn kiếm của Âu tiền bối vô song vô đối, vang danh Trung thổ, vãn bối ngưỡng mộ đã lâu.

Âu Long Tử bật cười:

– Thôi không khiêm tốn với ngươi nữa. Nói thực chứ, ta mà tự nhận mình là thứ hai thì chắc đời này chẳng còn ai dám nhận là thứ nhất.

Chỉ có điều trong hai mươi năm trở lại đây, ta không hề đúc một thanh kiếm nào cả, có lẽ kỹ năng cũng mai một đi rồi.

Lương Tiêu hỏi:

– Vì sao? Phải chăng Thanh Li đã đạt tới mức cực phẩm, tiền bối không thể tạo ra được một thanh kiếm nào xuất sắc hơn nó nữa?

Âu Long Tử lắc đầu:

– Không phải, nếu thiếu kiếm khách thì có đúc ra kiếm nhà giới cũng vô dụng mà thôi. Kiếm là vật có tính linh, người đúc kiếm, nhưng kiếm cũng chọn người sử dụng, không có thần khí thì làm sao chế ngự nổi kiếm thần của tộc Tinh Tuyệt này?

Lão mỉm cười nhìn Lương Tiêu.

– Kiếm khí của ngươi rất dày, ta nhận ra ngay, dù ngươi không dụng kiếm.

Trước cặp mắt thâm trầm như muốn soi thấu tâm can người ta, Lương Tiêu đâm mất tự nhiên, Âu Long Tử bỗng phá lên cười, chống tay nhôm dậy, giọng cảm thán:

– Thật không ngờ đến tuổi xế bóng về chiều, Âu Long Tử còn gặp được một nhân kiệt xứng với thanh Thiên Phạt kiếm.

Lương Tiêu lẩm bẩm:

– Thiên Phạt kiếm ư?

– Đúng vậy, – Âu Long Tử tò ra phấn khích. – Thiên phạt tức là thay trời hành đạo. Thế gian rất nhiều kẻ ác, giết mãi không hết, hãy dùng máu bọn ác đồ đó tế lưỡi kiếm sắc của ta.

Tim Lương Tiêu nhảy thót lên cổ, Âu Long Tử lại nói:

– Từ ngày mai, ta và Thiết Triết sẽ vào ở Kiếm tháp để rèn kiếm. Có điều, tộc Tinh Tuyệt coi kiếm như thần, thần mới xuất hiện thì thần cũ phải diệt vong, ngươi nhớ dùng Thiên Phạt chặt gãy Thanh Li kiếm của Công Dương Vũ.

Lương Tiêu lắc đầu:

– E rằng vãn bối không đủ sức đâu, mong tiền bối cân nhắc.

Âu Long Tử mỉm cười:

– Đôi mắt ta không chỉ biết xem tướng kiếm mà còn biết nhìn người, ta nói ngươi được, tức là ngươi đủ sức, vì vậy mới ngông cuồng lấy hiệu là Âu Long Tử.

Tìm được chủ nhân của thanh kiếm mớỉ, Âu Long Tử hân hoan vô cùng vừa đi xuống núi vừa cười ha hả.

Lương Tiêu nhìn theo cho đến khi nhà rèn kiếm tài ba khuất dạng, lại ngồi lặng hồi lâu, trái tìm lạnh buốt: “Ta là kẻ phạm tội tày trời, lấy tư cách gì mà thế thiên hành đạo? Đao kiếm ra đời chỉ để sát phạt, Âu tiền bối nói kiếm khí của ta rất nặng, phải chăng ám chỉ toàn thân ta đầy sát nghiệt, hai tay ướt đẫm máu tanh?“.

Nỗi đau đớn chua xót choán hết tâm can, gã cảm thấy chán ghét ghê tởm bản thân không để đâu cho hết, chỉ muốn nhảy xuống vực sâu cho xong mọi chuyện, nhưng ngẩng đầu lên, trông thấy vầng trăng tròn trặn với ánh sáng ôn nhu vời vậ, mọi ý muốn hủy thân bỗng tiêu tan. Gã ngắm mặt trăng một chốc rồi lững thững xuống núi, bỏ lại sau lưng Kiếm cốc tươi đẹp, vẫn vơ đi mãi về hướng tây.

Bước theo hướng mặt trời lặn hơn hai mươi ngày, nhứng bãi cỏ chăn càng lúc càng thưa thớt, thay vào đó là đường sá và lái thương cưỡi lạc đã. Nghe họ nói tiếng Hồi Hồi, Lương Tiêu hỏi thăm mới biết đây là Y Nhĩ hãn quốc, đất nước mà thân đệ Hốt Tất Liệt là Húc Liệt Ngột xây dựng nên sau khi hủy diệt vương triều A Bạt Tư, mở rộng lãnh thổ ra bốn phương, đông đến Nê Bạc Nhĩ, tây đến Đại Mã Thị Cách (Nê Bạc Nhĩ là phiên âm từ Nepal Đại Mã Thị Cách là phiên âm từ Damascus, thủ đô Syria ngày nay).

Lương Tiêu long đong gió bụi suốt mấy tháng trời thì đến được Mã La Gia. Hôm ấy là một ngày mưa rào, những dây mưa trắng to như gân bò quất rát rạt vào mặt gã, phố xá quạnh vắng, chẳng có ai đi lại. Lương Hêu ướt như chuột lột, bì bõm lội nước đi tìm, đến một lúc ngẩng đầu lên thì thấy xa xa trong mưa thấp thoáng một nóc tháp tròn cao vút.

Lương Tĩêu gõ cổng tháp, xưng tên họ. Người gác cổng thấy quần áo gã rách rưới thì rất nghi ngờ, làu bàu mấy câu rồi đóng sập cửa lại. Một lúc sau, đương khi Lương Tiêu bắt đầu nóng nảy sốt ruột thì bên trong có tiếng bước chân, rồi cổng lớn mở toang. Lan Á lao ra, mình bận áo sa, mắt ngập đầy sửng sốt. Lương Tiêu nhìn nàng, muốn cười mà ngực tắc nghẹn, không sao cười nổi. Hai bên nhìn nhau hồi lâu, Lan Á bỗng rởm nước mắt, bước hẳn ra trời mưa:

– Vì sao hôm nay ngươi mới tới?

Lương Tiêu nghe ra ý trách cứ, toan hỏi cho rõ thì Lan Á đã bật khóc:

– Thầy tạ thế rồi còn đâu!

Nàng vừa dứt lời, trời bỗng nổi sấm ùng ùng như muốn đánh thủng màng nhĩ người ta, mây đen cuồn cuộn, mưa như thác đổ, trút sầm sập xuống đầu hai người. Lương Tiêu nhìn Lan Á, bao nhiêu hăm hở bị rút dần, rút dần theo cơn mưa xối xả, một mối tiếc hận mênh mang bỗng tràn ngập tâm hồn.

Lan Á khóc đến rã rời cả người mới ngẩng đầu lên, thấy mặt Lương Tiêu tái mét, nàng chạm vào tay gã thì nhận ra tay giá như đồng, liền lau nước mắt, hốt hoảng hỏi:

– Ngươi làm sao vậy?

Lương Tiêu lắc lắc đầu, chợt cảm thấy trời xoay đất chuyển, hai mắt tối sầm, một cơn mê man bất thần nhấn chìm tn giác gã.

Chẳng biết bao lâu, Lương Tiêu mới thoát khỏi bóng tối êm dịu, cảm thấy thân thể nóng như nằm lò, hai mắt sưng húp không mở nổi mi, chỉ biết thi thoảng có thứ gì mát rượi ấp vào mặt mũi chân tay, bên tai loáng thoáng tiếng người thì thào, nói từ gì đó nghe như là “đá chườm”, Lương Tiêu gắng cựa quậy cho tỉnh táo, lại lẳng lặng vận khí chạy hết hai vòng toàn thân, mồ hôi đổ ra như tắm, chẳng bao lâu thân thể mát dần, đúng lúc bị ai đó ấn vào ngực, gã him mắt nhìn. Một thiếu nữ đẹp tuyệt trần, tóc vàng đổ xuống vai như suối chảy, đang đặt tay lên ngực gã. Lương Tiêu tự dưng chột dạ, hướng mắt xuống hạ thân thì kinh hoàng thất sắc, nhận ra mình đang lõa thể nằm tênh hênh trên một chiếc giường thêu. Lương Tiêu sợ phát khiếp, vội vàng tìm cách che đậy rồi gắng gượng ngồi dậy. Thiếu nữ hơi giật mình vì cử động đột ngột của gã, nhưng mau chóng đổi ra vui vẻ:

– ông tỉnh rồi ư?

Lương Tiêu bối rối hỏi:

– Tại sao lại thế này?

Thiếu nữ cười đáp:

– Ông bị ốm, người nóng như nung, may mà Lan Á đại nhân xin được đá ở chỗ Đại hãn về chườm cho, ông mới giảm sốt đó.

Lương Tiêu tinh tỉnh trong người, ngẫm lại là do gã tự phụ nội công cao cường, chẳng thèm giữ gìn sức khỏe, cứ khinh suất dãi nắng dầm mưa, màn trời chiếu đất hết ngày này qua tháng khác mà không nghĩ rằng thời tiết hàn thử là do thiên nhiên tạo ra, thuần sức con người không thể nào chịu đựng nổi, huống hồ lòng dạ gã đang đau thương chống chếnh, tự nhiên tạo cơ hội cho tà khí thâm nhập. Trầm ngâm hồi tâu, gã hỏi:

– Lan Á đâu?

Thiếu nữ đáp:

– Đại nhân túc trực ba ngày ba đêm, mệt quá nên bảó tôi đến thay một lát – Cô ta mỉm cười đầy ngụ ý. – Nếu ông muốn thì tôi đi gọi đại nhân dậy.

Lương Tiêu vội can:

– Thôi, bộ dạng ta thế này, để cô ấy trông thấy thì còn ra sao!

Thiếu nữ cười khúc khích:

– Trời ơi, có gí đâu, ba ngày ba đêm nay, lúc nào cảnh tượng này chả sờ sờ trước mắt chúng tôi!

Lương Tiêu xấu hổ quá, mặt đỏ lựng, hạ giọng hỏi khẽ:

– Này cô người ngợm ta mồ hôi mồ kê bẩn thỉu quá, có chỗ nào để rửa ráy không?

– Có đó, – Thiếu nữ đáp. – Phòng tắm ở dưới lầu.

Lương Tiêu bảo:

– Cô lấy hộ ít quần áo, để ta tự đi tắm.

Thiếu nữ chúm chím cười:

– Quần áo của ông vừa bẩn vừa hôi, bọn tôi vứt quách đi rồi.

Lương Tiêu chẳng biết làm thế nào, đành xuống nước nhờ vả:

– Thế cô lấy một bộ y phục nam nhân ra cho ta mượn.

Thiếu nữ lắc đầu:

– Chỗ này toàn đàn bà con gái, lấy đâu ra y phục nam nhân mà cho ông mượn.

Lương Tiêu mới ốm dậy, đầu óc vẫn còn lơ mơ không biết làm thế nào khác, đành xé một mành thảm trải nhà quấn quanh hông. Thiếu nữ vừa dẫn đường vừa cười khanh khách. Họ đi dọc hành lang, gặp rất nhiều cái đầu nhô ra từ các cửa phòng hai bên. Đài thiên văn Mã La Gia là nơi tập trung hiền triết của Y Nhĩ hãn quốc, những người đang chứng kiến bộ dạng mất mặt của Lương Tiêu đều là bậc học giả có danh tiếng, nhưng họ chỉ tủm tỉm cười, có người hỏi:

– An Cát Nhĩ, con ma mãnh kia, lại đang trêu ghẹo người ta đấy phải không?

Lương Tiêu nghe vậy mới biết mình bị thiếu nữ này chơi xò, vừa ngượng vừa tức, tiến thoái lưỡng nan, chỉ muốn giẫm vỡ sàn nhà mà chui xuống nhưng nào có được, đành gắng làm mặt dày lướt qua những ánh mắt chăm chú. Cuối cùng cũng đến được phòng tắm, thiếu nữ ngoảnh đầu lại cười hỏi:

– Có cần tôi hầu ông tắm rửa không?

Lương Tiêu vội khước từ:

– Không cần, xin cô nương cứ đi lo việc của mình.

Thiếu nữ cười hì hì, mở cửa đi ra.

Lương Tiêu tắm qua tắm quýt một lúc, đầu QC thư thái dể chịu hơn, nhớ lại cảnh vừa rồi, càng ngẫm càng dở cười dở khóc. Một lát sau, có người giúp việc đưa quần áo đến, Lương Tiêu mặc vào rồi ra khỏi nhà tắm. Thiếu nữ tóc vàng đã đứng ngay ngoài cửa:

– Lan Á đại nhân đang đợi ông trong phòng.

Lương Tĩêu gắng giữ bình tính:

– Phiền cô nương dẫn đường.

Thiếu nữ nghiêng đầu nhìn gã, cười hì hì:

– Lan Á đại nhân nói đúng, ông là người tốt, tôi đùa cợt ác như vậy mà ông không hề tức bực.

Nói rồi cô nhún nhảy đi trước, Lương Tiêu nghiến răng nghiến lợi, nén giận đi sau.

Một lát sau, hai người vào tới sảnh, giữa nhà trải thảm thêu, sắp đầy hoa quả thịt thà. Lan Á đang ngồi yên lặng một bên, y phục thanh nhã, làn da trắng mịn, chân mày cong cong như vẽ, ánh mắt lúng liếng. Thấy Lương Tiêu mặt mày hồng hào, đoán chừng đã khỏe, nàng mỉm cười nói:

– An Cát Nhĩ là người pháp Lan Khắc (Tức Franks, tiền thân của dân tộc Pháp ngày nay) , làm nữ tÿ của ta đã lâu, được ta nuông quá nên sinh hư, toàn thích chọc ghẹo người khác, nếu có chỗ nào làm ngươi mếch lòng thì xin lượng thứ cho.

Lương Tiêu liếc sang bên, thiếu nữ tóc vàng đang thò đầu vào cửa, thè lưỡi trêu chọc gã rồi lại rút đầu ra. Hai người nhìn nhau một lúc lâu, vẻ mặt đều hơi khác lạ, cuối cùng Lan Á không nhịn được, bật cười khúc khích. Lương Tiêu nhớ lại tình cảnh vừa rồi, thầm nghĩ mình tính tình ranh quái, thường chỉ trêu ghẹo người khác, hôm nay lại bị một tiểu cô nương dị tộc quay như chong chóng, ngẫm thật khôi hài, không nhịn được cũng bật cười ha hả. Hai năm qua, chưa lúc nào gã được cười sảng khoái như thế, tự nhiên bao nhiêu mối buồn bực u hoài trong lòng đều tiêu tan quá nửa. Rượu thịt thơm ngào ngạt đầnh thức cơn đói trong bụng, gã bèn nhặt con dao cong bằng bạc xắn cái đùi cừu đã quay vàng ruộm, tống vào mồm nhai ngấu nghiến.

Lan Á nhìn gã ăn hùng hục, trong mắt thoáng ánh thương xót, nàng hơi cúi người về đằng trước, nhẹ nhàng hỏi:

– Ngươi đi bộ sang đây à?

Lương Tiêu gật đầu. Lan Á thở dài:

– Tội vạ gì mà phải hành hạ bản thân như vậy? À, A Tuyết đâu, sao không thấy muội ấy đến?

Con dao trong tay Lương Tiêu ngừng lại, gã thở dài:

– Muội ấy mất rồi!

Lan Á hé miệng, nhưng không nói nổi lời nào, cặp mắt đẹp mở to, tay nắm chặt lần vài trên đầu gối. Căn phòng bỗng chốc rơi vào tịch mịch, chỉ có tiếng cười của An Cát Nhĩ văng vẳng vọng tới từ một nơi nào đó, rồi tan loãng đi như khói mòng sương mờ.

Lan Á gắng trấn tình, chăm chú nhìn Lương Tiêu hồi lâu rồi ngập ngừng:

– Thế… mặt ngươi…

Lương Tiêu đáp gọn:

-… bị kẻ thù rạch.

Thấy gã tỏ ra không muốn nói nhiều về việc ấy, Lan Á bèn đổi đề tài:

– Dù thế nào chăng nữa, ngươi đến đây là tốt rồi. Lúc lâm chung sư phụ có để lại một đề bài, nếu ngươi có hứng thì giải thử xem.

Lương Tiêu vẫn thường nghĩ ngoài Nạp Tốc La Đinh ra, trên đời chẳng còn ai sánh kịp mình về tài toán, khổ nỗi gã đến muộn, vị đại trí giả ấy đã quy tiên, trong lòng vẫn tiếc nuối khôn nguôi, nay nghe vậy thì phấn chấn khôn tả, bèn đứng ngay dậy hỏi dồn:

– Để bài thế nào?

Thái độ nôn nóng của gã khiến Lan Á phải bật cười:

– Ngươi vẫn cứ nóng nảy như trước, chẳng thay đôi chút nào, được rồi, theo ta lại đằng này, Lúc bấy giờ trời vừa chạng vạng, bóng tối lan dần trong ngọn tháp, Lan Á giơ cao một đốm lửa nhỏ như hạt đậu, dẫn Lương Tiêu trèo lên những bậc thang xoắn dẫn tới tầng hai. Họ tiến vào một phòng tròn rộng rãi, Lan Á châm đốm lửa lên vách tường, căn phòng lập tức sáng trưng như ban ngày. Nơi chân tường có dựng một cái cân tiểu ly cao đến đầu người, đầu bên trái treo một tảng đá khiến cán cân trĩu hẳn xuống. Cân tiểu ly vốn là dụng cụ mà các học giả Hồi Hồi thường dùng khi luyện kim, nhưng to đến mức này thì thật hiếm thấy. Sau cái cân là hai cánh cửa đá khép chặt, trên mặt đá lốm đốm có khắc một dòng chữ Hồi. Lan Á trỏ dòng chữ:

– Đề bài đấy.

Lương Tiêu lầm nhẩm đọc:

– Bên trái cân có một tảng đá to, trên bề mặt khắc dấu sinh mệnh. Không được di chuyển tảng đá, hãy chọn lấy một quả cân trong phòng đặt vào đĩa bên phải, sao cho hai bên cân thăng bằng, Lương Tiêu những tưởng Nạp Tốc La Đinh là bậc trí giả một thời thì phải ra đề bài hóc búa và rất mực thâm trầm, nào ngờ lại là đề toán do lường đơn giản thế này, tự dưng gã đứng ngây ra mà nhìn cánh cửa.

Lan Á nghiêm nghị nói:

– Lương Tiêu, đây là một bài toán để mở khóa, nếu ngươi làm cái cân thăng bằng, cánh cửa đằng sau kia sẽ tự khắc mở ra.

Lương Tiêu hỏi:

– Mở cửa đá ra làm gì?

Lan Á hỏi lại:

– Thế ngươi đến Mã La Gia làm gì?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Ta định thách thức trí giả Tây phương, nhưng Nạp Tốc La Đinh có còn nữa đâu.

Lan Á cúi đầu hồi lâu rồi ngẩng lên, hai mắt đỏ hoe:

– Đã vậy, ngươi càng phải giải đề này. Chỉ có điều, hễ đưa quả cân lên đĩa mà không đúng, dù chi một lần, là ngươi thua.

Nghe giọng điệu và thấy thái độ Lan Á có vẻ khác thường, Lương Tiêu ngạc nhiên tự nhủ: “Nạp Tốc La Đinh đã chết, còn ai để ta học hỏi nữa sao?“.

Trù trừ một thoáng, gã bước tới gần, lúc đó mới thấy trên tảng đá khắc một hàng chữ Hồi Hồi, vết dao còn mới: “Sinh mệnh của ta“.

Ở góc tường gần đó xếp la liệt chừng một trăm quả cân lớn bé đủ cỡ, chất liệu thì vô cùng phong phú, ngoài vàng, bạc, đồng, sắt, chỉ, còn có gỗ, sứ và các hợp kim. Quả nào cũng khắc văn tự Hồi với rất nhiều nội dung: nào là “quốc gia”, “dân tộc”, nào là “giàu có”, “thắng lợi”, chẳng thiếu điều gì. Lương Tiêu đang chăm chú xem, Lan Á lại lên tiếng:

– Ngươi trông đây đã!

Lương Tiêu ngoảnh đầu lại. Lan Á đang cầm trên tay một bình pha lê thót bụng chứa đầy cát, nàng trở đầu cho cát qua lại, ánh mắt lộ vẻ tinh nghich:

– Ta bắt đầu tính giờ, trước khi cát rơi hết mà ngươi không tìm ra đáp án thì coi như ngươi thua.

Lương Tiêu vốn mẫn tiệp, dù phải tính toán chuyện ngay trước mắt hay xa tận chân trời thì cũng chỉ búng ngón tay là xong, chưa bao giờ vấp phải khó khăn. Ngờ đâu Nạp Tốc La Đinh không hề đề cập đến tính toán, mà lại ra một bài đố mẹo quái dị không đầu không cuối, hơn nữa lại giới hạn thời gian giải đáp. Có nhẽ nào thế? Lương Tiêu hơi bức xúc, nhưng thấy cát chảy nhanh quá, tự nhiên không dám chậm trễ, gạt mọi suy nghĩ vẫn vơ để tập trung vào đề bài.

Gã tự nhủ: “Chắc chữ Hồi khắc trên quả cân chỉ để tung hỏa mù đánh lạc hướng, trọng lượng mới là điều then chốt. Nhưng ở đây nhiều quả cân như vậy, chất liệu lại đa dạng nhường kia, làm sao ta kịp ước tính ra trọng lượng trước khi cát chảy hết?“.

Càng nôn nóng tìm lời giải, gã càng hiểu ra chỗ lắt léo của đề bài, mồ hôi túa đầm đìa, nhưng bẩm tính cứng cỏi, nếu chưa đến bước đường cùng thì nhất định không chịu nhận thua, gã bèn ngồi xổm xuống lựa chọn các quả cân, nhấc nhấc thử đoán trọng lượng.

Cát chảy rào rào, chỉ tích tắc đã rút hơn một nửa.. Lương Tiêu vò đầu bứt tai mà không tìm ra cách làm, bắt đầu rối trí, bèn quẳng quả cân bạch ngọc đang cầm rồi đứng lên, khoanh tay tự nhủ: “Lựa chọn tỉ mẩn thế này thì dẫu cát chảy hết ta cũng khó lòng tìm được quả cân thích hợp. Trận đấu trí này, ta thua mất rồi“.

Gã không kìm được tiếng thở dài, ngoảnh lại nhìn Lan Á, định thừa nhận thất bại, nhưng bắt gặp đôi mắt đẹp, môi son he hé, vẻ mặt vừa mong đợi vừa thấp thôm của nàng, gã lại cúi đầu thở dài, không sao thốt nổi nên lời. Thình lình, một ý nghĩ lướt qua trong trí khiến Lương Tiêu giật mình, gã ngẩng phắt đầu lên nhìn Lan Á. Ánh mắt và vẻ mặt khác thường của gã làm nàng rợn người, vô thức bước lùi lại sau. Như thể bị cử động của nàng thức tỉnh, Lương Tiêu chạy ào lại. Lan Á vừa kịp thấy người nhẹ bỗng thì đã nằm gọn trong vòng tay Lương Tiêu.

Nàng kinh ngạc hỏi:

– Ngươi làm gì vậy?

Rồi toan giãy ra, nhưng sự va chạm với lông ngực và vòng tay đàn ông rắn rõi khiến trái tim nàng đập nhanh hơn, tứ chi bủn rủn, không còn chút sức lực nào nữa, chiếc đồng hồ cát tuột xuống đất, vỡ tan làm muôn mảnh vụn. Lương Tiêu nhấc bổng Lan Á lên, chạy phăm phăm lại chỗ chiếc cân, đặt nàng lên đĩa, cán cân bập bênh một lúc thì dừng, hai bên thăng bằng. Gần như cùng lúc, hai cánh cửa đá xịch mở sau một tiếng kẹt.

Lương Tiêu nhìn khoang cửa, thở dài:

– Thì ra là vậy.

Lan Á sửng sốt hỏi:

– Làm sao mà ngươi đoán được? Thầy ta nói, nhất định ngươi không đoán ra.

Lương Tiêu thở dài:

– Có lẽ thầy cô nói đúng đấy. Nếu là hai năm về trước thì đúng là ta không đoán nổi, có điều, vừa rồi trong lúc lựa chọn các quả cân, ta ngẫu nhiên nhìn thấy trên mặt chúng có rất nhiều chữ, chỉ thiếu một chữ là“sinh mệnh“.

Lan Á nói:

– Nhưng nội dung đó đã được khắc trên tảng đá mà.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Trung thổ có câu nói thế này: “Tính mệnh con người là quan trọng“. Nước có thể mất, nhà có thể tan, sự sản có thể tuột tay, vương giả một đời cũng có lúc thành xương khô xương héo, chỉ riêng con người là đông đảo, mãi mãi không bao giờ mất. Nói đến đây, gã lộ vẻ nghiêm trang.

– Cũng chỉ có tính mệnh con người mới so sánh được với tính mệnh con người, ở đây ngoài ta ra, chỉ còn có cô mà thôi…

Lan Á gật đầu tán thưởng. Chừng như nghĩ ra điều gì, Lương Tiêu lại nói:

– Dường như ngụ ý của sư tôn là: nếu con người hiểu rằng mọi cá nhân đều bình đẳng, biết quý trọng lẫn nhau, trên thế gian sẽ không còn thù oán, không còn chiến tranh nữa.

Lan Á gật đầu thở dài:

– Ngươi nói đúng lắm,

Nàng hơi cúi mình, trỏ tay về phía cửa đá.

– Trong đó là bảo khổ của đức A La vĩnh hằng, chứa đựng tất cả những thành quả trí tuệ của các hiền triết.

Lương Tiêu chăm chú nhìn, thấy thấp thoáng hàng chông sách, mùi da dê ngai ngái xộc lên khiến gã rạo rực.

Lan Á kính cần nói:

– Thầy đã đặn, chỉ người biết tôn trọng sinh mệnh mới đủ tư cách tiếp cận kho báu đó. Lương Tiêu, ngươi đã tìm được chìa khóa, hãy bước vào, thách thức các tiên hiền bằng cách giải đáp những câu đố hóc búa của họ!

Lương Tiêu bồi hồi một lúc, chợt thở dài:

– Lan Á, sư tôn không chỉ uyên bác mà còn rộng rãi độ lượng hiếm thấy, Lương Tiêu không được gặp mặt người, thật tiếc hận suốt đời.

Lan Ấ cười buồn:

– Sinh mệnh con người là cái quý giá nhất. Đó chính là điều người giác ngộ lúc lâm chung, tiếc rằng quá muộn.

Lương Tiêu nghĩ: “Con chim thoi thóp, tiếng hót bi ai, người ta hấp hối, lời nói thực lòng. Khổ nỗi trên đời không còn mấy người hiểu được iý lẽ giản đơn này nữa“. Gã ngước mắt lêri ngơ ngẩn nhìn lối vào âm u.

Lương Tiêu ở lại Mã La Gia, bầu bạn với đi thư của các hiền triết, dần dần lĩnh ngộ được vô vàn kiến thức đông tây kim cổ. Lan Á gặp lại Lương Tiêu thì vô cùng mãn nguyện, không muốn rời xa gã một chút nào, sớm sớm chiều chiều nàng quanh quẩn bên gã, chăm lo săn sóc từ miếng àn giấc ngủ. Có lúc đêm xuống, Lương Tiêu trèo lên đỉnh tháp, hết ngắm tinh tú trên trời lại dõi mắt về phương đông xa xôi. Gả cứ nhin trân trối như thế suốt cả đêm, mãi cho đến khi trăng mờ sao nhạt, sương đẫm đầy người mới lặng lẽ về phòng. Lan Á rất lấy làm lạ, nhưng không tiện gặng hỏi.

Nhật nguyệt hết sáng lại mờ, thời gian trôi qua đài thiên văn nhanh hơn bao giờ hết, bấm đốt ngón tay thì Lương Tiêu đã ở lại Mã La Gia được hơn ba năm.

Một hôm, khi dương quang mới hé lộ, Lan Ấ bưng thức ăn điểm tâm đến cho Lương Tiêu như thường lệ. Khi đầy cửa đá, nàng kinh ngạc nhận ra căn phòng đã được thu dọn gọn gàng sách xếp từng giá ngay ngắn, nhưng lặng ngắt không một bóng người, trên một mặt tường có viết mấy hàng chữ Hắn, mỗi chữ àn sâu vào lòng đá đến cả nửa tấc:

Thời gkn như tên bắn, thấm thoắt đã ba năm. Lúc trước lòng nặng tâm sự nên sang phương tây cho khuây khỏa. Bẩm tính ngu độn, đọc hết sách tiên hiền mà chỉ hiểu lõm bõm. Thời gian qua, sớm chiều được cô chăm nom săn sóc, e ngại cảm kích mà không có gì báo đáp. Người đời có tụ rồi có tan, giống như sương sớm rõ xuống rồi bay hơi, đành gạt nước mắt giã biệt, lặng lẽ ra đi.

Thư bất tận ngôn, Lương Tiêu kính dâng ba lạy.

Nét chữ mạnh mẽ phóng khoáng, chính là thủ bút của Lương Tiêu. Lan Á lặng người đứng nhìn hồi lâu, tay bỗng buông lỏng, khay sứ tuột xuống vỡ choang thành muôn mảnh nhỏ.

Lương Tiêu chuyển hướng về nam, đi ròng rã hơn nửa tháng thì ra tới biển. Ngọn hải đăng cao tận chân mây hiện ra lừng lững trước mặt gã, nhưng trải qua khói lửa chiến tranh, nó đã bị hủy hoại thành ra đổ nát tàn tạ....Lương Tiêu đứng lặng trước biển, mặc cho hơi gió mằn mặn táp vào mình, ngắm ngọn tháp mà cảm khái cho sự hưng vong khó lường ở đời.

Ngọn hải đăng không còn nguyên vẹn, gã cũng chẳng kiên nhẫn mà thưởng ngoạn nữa, lại vượt biển xuống nam, mấy ngày sau thì tiến vào một sa mạc, chỉ thấy rất nhiều tháp đá vươn lên nhọn hoắt giữa biển cát mênh mông, gió lạnh cắt cứa da thịt, kêu hù hù đây đó như quỷ khóc.

Lương Tiêu nhặt một hòn đá nhám, lấy đao khắc hình một thiểu nữ mặt tròn, chân mày rất mảnh. Gã ngẩn ngơ ngắm, nhìn hồi lâu rồi chôn nó xuống bãi cát trước tháp, mặc cho gió thôi cát hất, gã cứ làm thật chậm như muốn kéo dài công việc. Ánh trăng xanh mờ kéo doãng dài cái bóng của Lương Tiêu, trông cô đơn khôn tả bên những ngọn tháp nhọn hùng vĩ vĩnh hằng.

Ở lại Ai Cập mấy tháng, Lương Tiêu lại ngồi thuyền vượt biển đến đảo La Đắc Tư (Đảo Rhodes Hy Lạp, nơi có Tượng thần Mặt trời Helios, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại) , chưa đến gần đã trông thấy rất nhiều chiến hạm không rõ là của những nước nào đang giao tranh kịch liệt. Mặt biển êm ả và lặng sóng, khác hằn với biển cả Trung thổ. Giän mái chèo của các chiến hạm. lúc lên lúc xuống hệt như những con sâu khổng lồ đang ngoằn ngoèo bò trên mặt gương màu tím. Các thuyền buôn đều nghỉ đỗ tại đảo để tránh bất trắc, đợi đến khi chiến sự bình yên sẽ lại khởi hành.

Chập tối hôm sau, Lương Tiêu đến được ngoại thành Nhã Điển (Athen). Gã trèo lên một quả đôi thấp, dõi mắt nhìn về phía tường thành thì chỉ bắt gặp một bãi rộng hoang vu, những cột đá trắng khổng lồ gãy đổ ngổn ngang trên các sườn núi, trông như đám chiến binh tử trận, vầng thái dương đỏ ối chìm dần xuống trời tây, dưới chân đôi xôn xao tiếng mục đồng lùa đánh gia súc quay về, một gã du ca ôm thất huyền cầm (Đàn lyre) nghêu ngao đàn hát. Lương Tiêu nghe hồi lâu, mãi cho đến khi tiếng ca xa hẳn, một cảm giác mất mát chợt bóp nhẹ trái tim, gã thở dài, xốc áo đi tiếp về hướng tây.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 80: Thiên Lang Khiếu Nguyệt (Sói tru trăng)

Ngày tháng thấm thoắt thoi đưa, nhật nguyệt như bóng câu qua cửa, chỉ chớp mắt mà bảy năm nữa lại trôi đi.

Nắng lửa trên đầu, cát bỏng dưới chân, sóng nóng cuồn cuộn bốc cao như ngọn lửa không màu giữa đất và trời. Gió lúc mạnh lúc yếu, cuốn theo vô vàn hạt cát li ti táp vào mặt một người tóc nâu. Hắn dắt lạc đã, bước thấp bước cao trong sa mạc. Thình lình hắn dừng lại, dõi nhìn những lớp cát trồi lên sụt xuống tầng tầng, lòng không nén nổi lo âu. Thiếu niên da trắng tóc vàng theo sau hắn cũng bắt chước dừng lại, mở bì rượu tu ưng ực.

Người tóc nâu bực bội ngoái đầu bảo:

– Lô Bối A, uống ít chứ! Chúng ta đang mắc kẹt trong sa mạc đấy, biết chưa?

Thiếu niên quẹt miệng, ấm ức trả lời:

– Nốt ngụm này thôi, không uống nữa đầu!

Cậu ta vung tay ném bì rượu lên lưng lạc đã, nào ngờ vắt không chắc, bì rượu rơi đánh bộp xuống đất, rượu đỏ chảy ra ông ộc, thấm ngay vào lòng cát. Thiếu niên vội cúi xuống nhặt, nhưng không kịp nứa. Người tóc nâu nổi điên, gầm lên:

– Đồ chết rấp! – rồi giằng lấy bì rượu thì thấy chỉ còn non nửa.

Lô Bối A tái mặt, quay mình chạy luôn. Người kia buột miệng chửi thề, tuốt loan đao đuổi theo, la hét ầm ĩ:

– Ngươi chạy đi, chạy đi! Đồ trời đánh thánh vật, chạy nữa đi!

Mặt cát tơi mềm khiến chân họ lún sâu xuống, di chuyển hết sức khó khăn. Đột nhiên Lô Bối A hụt chần ngá nhào, người tóc nâu túm ngay được, kể lưỡi đao sáng loáng vào cần cổ trắng trẻo của cậu ta. Lô Bối A giãy giụa:

– Thả ta ra, thả ta ra!

Người tóc nâu dùng chuôi đao giã lên cánh tay thiếu niên, mắng:

– Làm thịt ngươi, càng bớt một miệng tranh uống nước!

Lời lẽ tuy tàn nhẫn nhưng ngọn lửa rừng rực trong mắt hắn lại dịu đi. Dù đang đau đến tái người, Lô Bối A vẫn nhận ra sự tương phản đó, biết rõ người bạn đồng hành đã nguôi giận, cậu tinh nghịch nói:

– Giết đệ rồi còn ai bầu bạn cho huynh khuây khòa? Đệ bị chém là yên phận đệ, nhưng rồi huynh cũng buồn tẻ đến chết ấy chứ!

Người tóc nâu hừ một tiếng, hầm hầm đút đao vào vỏ:

– Quần vô lại, ngươi mà còn phạm lỗi lần nữa là ta cho một nhát…

Hắn vung tay lên như thể dọa dẫm. Lô Bối A thè lưỡi:

– Huynh chẳng nỡ chặt đầu đệ đâu.

Người tóc nâu cười nhạt:

– Không chặt được đầu thì ta xẻo con chim của ngươi thay vào.

Lô Bối A đỏ lựng cả mặt, suỵt một tiếng, người tóc nâu tỉnh bơ:

– Như thế thi khỏi rước Tô Phi Á về dinh nhỉ? Hay là để ta thay ngươi cưới nàng vậy…

Hắn vừa nói vừa thô lỗ liếc nhìn hạ thân Lô Bối A, gã thiếu niên tự dưng ớn lạnh, kêu lên:

– Câm mồm đi, đồ đều!

Người tóc nâu cười hềnh hệch, chợt ồ một tiếng, trỏ tay ra xa:

– Ngươi trông Ida!

Lô Bối A đang tức anh ách, bèn vùng vằng bảo:

– Nhìn cái con khỉ…

Nhưng cuối cùng không nén được tò mò, cậu vẫn lén ngước mắt trông. Một chấm đen thoắt ẩn thoắt hiện trong dòng cát chảy cuồn cuộn, lướt như bay tód chỗ họ. Lô Bối A ngạc nhiên kêu lên: “Đó là… “, nhưng chưa dứt câu đã bị người tóc nâu ấn đầu kéo nằm xuống. Hắn lẹ làng rút đao ra, khẽ khàng nói nốt:

-… thổ phỉ sa mạc!

Chấm đen nọ lướt vẻo vẻo, càng lúc càng to, đủ để họ nhận ra hình dáng một người đàn ông. Lô Bối A phập phòng lo lắng, nói một cách khó nhọc:

– Chỉ… chỉ có một tên, sợ gì chứ?

Người tóc nâu bực mình nạt:

– Đừng lảm nhảm, tuốt đao ra.

Lô Bối A nín thở, nằm sấp xuống dưới lạc đã, trừng trừng quan sát.

Người nọ càng lúc càng tới gần. Đó là một hắn tử mặc áo dài màu xám, ngoài vận áo nịt bằng lông chôn đen, di chuyển trong tư thế lom khom, chân giẫm trên một dụng cụ quái dị, hình dáng như xe trượt tuyết nhưng to rộng hơn nhiều, bên trong cố những cánh tay đòn nổi Hên tiếp nhau, bên ngoài bọc vò sắt. Người nọ cầm thêm hai thanh sắt dài nhỏ, mỗi lần chống xuống, lớp vỏ sắt lại xoay rẹt rẹt, đưa cái xe trượt lướt đi hơn một trượng. Bọn Lô Bối A chưa từng nhìn thấy vật gí kỳ quái như thế bao giờ, thành thử hồi hộp đến nỗi mồ hôi rịn ra ướt đẫm lòng bàn tay.

Hắn tử áo xám liên tục chống mạnh hai ống sắt, trồi lên sụt xưống như trôi trên đống cát chảy của sa mạc, áo và tóc bay lất phất. Khi tới gần lạc đã, hắn dừng xe đứng thẳng dậy. Lô Bối A chăm chú quan sát, những tưởng bộ dạng hắn phải xấu xí hung hăng, nhưng không ngờ người đó mắt đẹp mày thanh, dáng điệu từ tốn ung dung, dưới lớp râu quai nón mọc rậm rì bên má có lờ mờ một đường sẹo dài mảnh. Lô Bối A đang nghệt mặt ra nhìn, một luồng gió mạnh bỗng lướt ào qua bên mình cậu. Người tóc nâu đã vung loan đao chạy ra, chém thẳng vào mặt kẻ mới đến. Tựa hồ bất ngờ vì dưới bụng lạc đã có người ẩn nấp, hắn tử áo xám ồ lên một tiếng, khẽ xoay nghiêng mình khiến lưỡi đao chệch đi trong gang tấc. Người tóc nâu chém hụt, lại trở đao đâm xéo về. Hắn tử áo xám không buồn đón đỡ, chỉ bước chệch ra chỗ khác, người tóc nâu trượt đích lần thứ hai, liền xoay phắt mình lại thủ thế. Bấy giờ người áo xám đã nhặt cái bì da mà Lô Bối A đánh rơi lúc trước, hít hít ngửi ngửi rồi kê lên miệng uống ưng ực chỗ còn thừa.

Người tóc nâu phát hoảng, lần thứ ba vung đao nhào tới. Đúng lúc đó một thanh loan đao đâm ngang ra, chặn đứng thanh đao của hắn lại. Người tóc nâu bực tức thét:

– Lô Bối A, ngươi lại làm trò ngu xuẩn gì nữa thế?

Lô Bối A đỏ mặt, lắc đầu:

– Đệ thấy hắn không giống đâu.

– Không giống gì cơ?

– Không giống thổ phỉ sa mạc.

Người tóc nâu cáu bẳn:

– Ngươi chả hiểu cái quái gì!

Lô Bối A ấp úng nói:

– Đệ thấy không giống thật mà.

Trong lúc hai người cãi cọ, hắn tử áo xám chỉ mải uống rượu. Người tóc nâu tần ngần quan sát một lúc rồi hạ loan đao xuống.

Hắn tử áo xám tu ưng ực, uống sạch bách rồi quẳng cái bì đa, cười ha hả:

– Ba ngày rồi mới được nếm rượu, thống khoái thật! Còn nữa không?

Người tóc nâu xẵng giọng:

– Hết rồi.

Hắn tử áo xám nhìn từ đầu xuống chân hắn, đột ngột chuyển từ tiếng Hồi Hồi sang tiếng La Tinh:

– Nghe khẩu âm, chắc các ngươi là người Nhiệt Na Á (Tức Genoa, một tính miền bắc nước Ý)?

Người tóc nâu ngạc nhiên lắm, máy móc đáp:

– Phải, chúng ta là thương nhân Nhiệt Na Á. Trên đường sang Hoa Hạ làm ăn thì gặp đạo tặc, bạn buôn bị đánh tan tác hết cả. Thôi, ở đây không còn rượu đâu, ngươi đi mau đì.

Lô Bối A bỗng chen vào:

– Tháp Ba La, huynh nói dối, chúng ta còn bốn bì rượu, đủ uống hai ngày trời nữa kia mà…

Tháp Ba La tức ứ cổ, chỉ muốn nện cho Lô Bối A một trận thừa sống thiếu chết. Ở đại mạc, nước uống quý hơn vàng, có khi chỉ vì một giọt nước mà người ta sẵn sàng giết hại kẻ khác, thế mà mới gặp cái tên áo xám khả nghi kia, chưa biết tốt xấu thế nào, gã thiếu niên nhanh nhẩu đoảng ấy đã đi lật tẩy mình, thật không biết cân nhắc lợi hại gì hết. Tháp Ba La vừa thét mắng, vừa siết chặt chuôi đao, gườm gườm giám sát nhất cử nhất động của kẻ lạ mặt.

Người áo xám mỉm cười:

– Đồ keo kiệt, nếu ta đổi nước lấy rượu, ngươi có đồng ý không?

Tháp Ba La đưa mắt soi mới từ hai tấm áo đơn đến chiếc xe trượt trống không của đối phương, cười khẩy mà rằng:

– Lấy đâu ra nước trên sa mạc này, ngươi định lừa ai đấy?

Người áo xám nói:

– Chẳng phải thánh đồ Ma Tây cũng tìm được nước trong biển cát lầy Nại đó ư (Ma Tây: phiên âm từ Moses (tiếng Việt hay đọc là Môi-sẽ), người lãnh đạo dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập. Tây Nại tức Sinai. Tích Moses tìm được nước sa mạc có chép trong Kinh Cựu ước)?

Thượng đế đời nào vứt bỏ tôi con của người?

Tháp Ba La nghe vậy bỗng sinh thiện cảm, giọng nói nghiêm túc hẳn lên:

– Ngươỉ… cũng kính Chúa ư?

Người áo xám chẳng ư chẳng không, ngẩng trông mặt trời, ngắm bóng dưới chân, bấm tay tính toán một hồi rồi ngồi thụp xuống, sục tay cào bới nền cát. Chỉ chốc lát, một cái hố sâu đã hiện ra, hắn lục lấy một nén hương trong ngực áo, miết haì ngón trỏ và giữa tạo lửa thắp hương. Đợi cho khói nhẹ tỏa lên, hắn cắm cây hương xuống hố, cởi tấm áo nịt ngoài bịt kín miệng hố không cho khói luồn ra.

Bọn Lô Bối A cùng trố mắt ngạc nhiên trước những hành động kỳ quặc ấy. Tháp Ba La từng trải đã nhiều, tức thì nghi ngờ ngập lòng: “Phải chăng hắn là tín đồ dị giáo? Phải chăng việc làm quái lạ kia là nghi thức trước khi giết người?“.

Càng nghĩ càng sợ hãi, mồ hôi vã đầm đìa, đã mấy lần Tháp Ba La định tuốt đao ra, nhưng thấy thái độ của hắn tử nọ vô cùng điềm tĩnh thản nhiên, tự dưng hắn mất hết dũng khí, tay chân mềm nhũn cả.

Tháp Ba La đang rối bởi với muôn vàn nghi vấn, từ đống cát đằng xa bỗng phun lên một tia khói trắng mỏng. Người áo xám cười nói:

– Có rồi! – đoạn nhặt bì da chạy đến chỗ bốc khói, sục hai tay xuống cát đào lia lịa như hai lưỡi cuốc.

Khi một cái hố sâu nữa hiện ra, hắn ấn miệng bì da xuống như thể múc nước, chỉ lát sau đã trở lại, đưa bì cho Lô Bối A:

– Đợỉ cho lắng là uống được.

Lô Bối A đón cái bì, tay trĩu xuống. Cậu lắc thử, nghe bên trong có tiếng ọc ạch thì vui mừng nói:

– Nước, Tháp Ba La, nước!

Tháp Ba La thô bạo giằng lấy bì nước, ghé lại gần mũi ngửi, quả nhiên hơi ẩm man mát phả vào mặt, hắn trợn tròn mắt, lắp bắp:

– Lạ… lạ quá, ngươi là ảo thuật sư à?

Hắn tử áo xám cười khẽ:

– Ảo thuật đâu mà ảo thuật, chỉ là mẹo dân gian Trung thổ thôi. Nước đằng kia kia, nếu ngươi không sợ ta bỏ thuốc độc thì cứ việc lại mà múc.

Xấu hổ vi bị nói trúng tim đen, Tháp Ba La đỏ bừng mặt. Lô Bối A còn ít tuổi, chưa có thói quen nghi kỵ đề phòng, chẳng vặn vẹo đến nửa câu, liền cầm hết mấy chiếc bì rỗng chạy ra chỗ cái hố. Chỉ thấy nước dâng ăm ắp và đang liên tục tuôn trào lẫn với cát mịn óng ánh, Lô Bối A múc luôn tay, nước dưới đáy hố vẫn trào lên ùng ục, chỉ thoáng chốc mặt nước đã ngang miệng hố. Lô Bối A múc đầy các bì da rồi hớn hở quay lại. Tháp Ba La đón lấy bì nước, uống liền mấy ngụm mới tin là thật, bèn tháo một bì rượu trên yên lạc đã đưa cho người áo xám, nói rành mạch:

– Dân làm ăn rất trọng chữ tín, chúng ta xin dùng rượu đổi lấy nước.

Hắn tử áo xám gật đầu:

– Nói đúng lắiTL người làm ăn phải có tác phong của người làm ăn, – rồi nhận bì rượu, buộc vào thắt lưng.

Lô Bối A bật ngón tay cái, nói giọng khâm phục:

– Tìm được nước giữa biển cát, tiên sinh quả là tài ba! Nhân tiện, tiên sinh… có thể dẫn chúng tôi ra khỏi sa mạc này được không?

Người áo xám im lặng ngồi xuống, uống ưng ực một lúc mới đứng dậy:

– Ra khỏi đây không khó, nhưng người buôn bán nên có tác phong của người buôn bán.

Sau vụ tìm nước, Tháp Ba La đã tín nhiệm người lạ mặt lắm rồi, bèn rộng rãi hứa:

– Nếu ngươi đưa được chúng ta ra khỏi sa mạc, ta sẽ chia cho ngươi ba phần mười hàng hóa.

Người áo xám hững hờ nói:

– Ta lấy hàng của ngươi làm gì? Ta dẫn đường, ngươỉ trả công ta bằng rượu, như thế là thỏa đáng nhất.

Tháp Ba La không ngờ việc thương lượng đơn giản đến vậy, sợ đối phương đổi ý nên chấp nhận ngay:

– Thỏa thuận thế, đưa chúng ta đi, ba bì rượu này sẽ là của ngươi, Người áo xám không nói năng gì nữa, chất chiếc xe trượt lên lưng lạc đã, lại cởi bì rượu vừa đi vừa uống. Hai người kia lùa ngựa và lạc đã theo sau, chân bước cao bước thấp, cát rơi rào rào mỗi lúc họ rút chân. Người áo xám sải bước rất rộng, di chuyển mà không gây ra một tiếng động nào, thi thoảng hắn bấm đốt ngón tay, ngắm trời ngắm đất. Họ đi được chừng nửa canh giờ thì màn chiều buông xuống, không khí đang nóng hầm hập bỗng chuyển lạnh căm căm, gió rét bắt đầu gào rú, càng về khuya càng giá buốt hơn. Trời đêm trong vắt, không một gợn mây, tựa như cái lông lưu ly đen đậy xuống mặt đất. vầng trăng lẻ loi treo im lìm nơi trời tây, tròn trăn và vằng vặc sáng, đổ xuống mặt cát một thứ bụi mờ pha xanh như mộng như ảo, trông cảnh vật thật thanh bình.

Lô Bối A chật chưỡng dắt lạc đã, khó khăn lắm mới theo kịp người áo xám. Hắn cầm bì rượu trên tay, ba bước tu một ngụm. Thấy rượu gần cạn, Lô Bối A bèn lân la gạ chuyện:

– Tiên sinh là người phương Đông, là lữ khách phải không?

Người áo xám ư hữ. Lô Bối A gật gù:

– Tửu lượng tiên sinh cao thật. Chi tiếc rượu này là do người Báo Đạt ủ, không ngon bằng rượu nho đỏ chính cống của quê hương tôi.

Người áo xám mỉm cười:

– Ta đã từng đến Nhiệt Na Á rồi, rượu ngon, thịt bê mềm non. Có điều, uống rượu ở đại mạc bản thân nó đã chứa đựng một thứ tư vị đặc biệt mà người ta không tìm thấy khi uống ở bất cứ nơi nào khác, tư vị ấy lại không hề phụ thuộc vào loại rượu.

Lỗ Bối A hiểu ra, vỗ trán đánh bộp:

– Đúng quá, bánh mì đen khi đói mèm ngon gấp vạn lần thịt bê lúc no nê.

Đang mải nói chuyện, Lô Bối A bỗng vấp chân ngã dúi xuống cát, khi ngẩng đầu lên thì bắt gặp một bộ hài cốt trắng ởn, cái đầu lâu nhe ra hai hàm răng, đôi hốc mắt trống rỗng chĩa vào cậu ánh nhìn tăm tối. Lô Bối A rùng mình ớn lạnh, vừa sợ vừa tức, bèn tung chân đá văng bộ xương đi thật xa, khi chạm đất, nó vỡ vụn thành muôn ngàn mảnh. Trút giận xong, Lô Bối A vỗ tay nói:

– Cho ngươi biết thế nào là cản đường ta.

Người áo xám bình thản nhìn, nghi bạng: “Đúng là trẻ con, chẳng hiểu gì về nỗi khổ nhân gian. May mà gặp được ta đấy, chứ một dúm tuổi như ngươi, chưa ra khỏi sa mạc có khi đã cùng cảnh ngộ với bộ xương khô này rồi. Người đời nói phi thương bất phú, rồi lại nói thiên hạ rối ren vì toàn kẻ hám lợi, nhưng đã mấy ai biết đi buôn khổ sở nhường nào, và mấy ai biết cát kia đã chôn vùi bao nhiêu xương trắng của thương nhân?“. Bất giác liên tưởng chuyện cũ, hắn ngẩng đầu lên thở dài, vẻ mặt ảm đạm:

Trẻ trung chẳng biết mùi buồn khổ,

Dạo bưôc cao lầu, Dạo bước cao lầu,

Bởi đặt đôi vẫn phải gượng sầu.

Sao nay phiền muộn đong đầy dạ,

Lạt chằng nên câu, Lại chẳng nên câu.

Vơ vẫn khen thu, gió đầu đâu. (Bài từ theo điệu Thái tang tử. Tác già là Tăn Khí Tật, tự Ấu An, hiệu Giá Hiên, người Sơn Đông. Từ của ông hào hùng bi tráng, nay còn lưu lại 12 quyển Giá Hiên trường đoán cú)

Từ của Giá Hiên thật là hay, người lại ung dung phóng khoáng, uống rượu kỳ say mới dừng, chẳng phải là thống khoái lắm ư?

Lô Bối A nghe mà ù ù cạc cạc, bèn hỏi:

– Tiên sinh nói gí vậy?

Người áo xám buồn buồn đáp:

– Tiện miệng bâng quơ dăm ba câu thôi. À, ngươi còn ít tuổi, vì sao đã phải li tán quê hương đi tha phương cầu thực thế này?

Lô Bối A đỏ mặt ngượng ngập:

– Tôi… cần kiếm tiền… để cưới Tô Phi Á. Gia đình nàng giàu có lắm, nếu tôi cứ mãi khổ rách áo ôm thì đừng mong rắp ranh bắn sẻ.

Người áo xám cau mày:

– Muốn kiếm tiền thì ở nhà cần cù làm việc chẳng yên ổn hơn ư, tội gì phải dấn thân vào hành trình gian nan muôn trùng, đường xá xa xôi hiểm trở?

Lô Bối A lắc đầu:

– Ở nhà muốn phát tài khó lắm! Chuyến này mang sản vật Trung thổ về bán thể nào cũng kiếm được nhiều tiền, lúc đó tôi sẽ cầu hôn với Tô Phi Á.

Người áo xám nghĩ: “Đi đi về về cũng mất bao nhiêu nãm tháng, con gái có thì, chưa chắc người ta đã kiên tâm đợi đến ngày ngươi trở lại đâu… “. Tuy nghĩ vậy, nhưng hắn kiềm chế không nói ra, chỉ lặng lẽ bước.

Quá nửa đêm, sắc trời sáng dần, trảng cát trước mặt họ bắt đầu lún phún cỏ xanh. Biết rằng đã ra khỏi sa mạc, hai người khách thương đều vui sướng đến điên cuồng, Tháp Ba La quỳ sụp xuống, kính cần ngửa mặt lên vạch tay làm dấu chữ thập, Lô Bối A thì hò la phấn khích, nhảy lộn nhào mấy vòng liền.

Người áo xám đợi cả hai nguôi cơn kích động, mới nói:

– Từ đây về phía đông bắc, có nước nhiều, đất đai phì nhiêu, chắc không thiếu người và gia súc, hành trình sẽ bớt gian nan. Ở đời chuyện hợp tan là lẽ thường, chúng ta chia tay ở đây thôi.

Hắn dợm quay đi, Tháp Ba La vội chạy ào tới:

– Tiên sinh đã cứu mạng chúng tôi, không biết phải báo đáp thế nào cho đủ đây?

Tháp Ba La quỳ một gối xuống định hành lễ, người áo xám bèn phất tay áo. Bị một sức mạnh vô hình ghìm lại, Tháp Ba La không sao quỳ được. May đã mấy lần chứng kiến tài nghệ của người lạ mặt nên hắn cũng không kinh hãi đến độ phải thét toáng lên, nhưng mối ngờ vực trong lòng thì không sao gạt bỏ nổi:

“Người này biết làm phép thật rồi, rốt cục hắn là tôi con Thượng đế hay là ma quỷ tà giáo?“.

Tháp Ba La đang phập phòng lo sợ, người áo xám lại nói:

– Theo thỏa thuận, ta dẫn đường có nhận thù lao, cũng là ông đưa khúc giò bà thò chai rượu cả thôi, vậy là công bằng. Người làm ăn phải có tác phong của người làm ăn, hai bên không mắc nợ nhau, đừng đa lễ thế!

Tháp Ba La thừa biết ba bì rượu của mình chẳng qua chỉ là chút đền đáp rất nhỏ nhoi, chẳng thấm tháp gí so với ơn cứu mạng của người ta. Nhưng đối phương đã khẳng khái như vậy, hắn cũng không tiện khách sáo nữa, bèn tạ ơn rồi đứng dậy.

Lô Bối A còn ít tuổi, sôi nổi nhiệt tình, tuy chỉ gần gũi người áo xám một đêm nhưng đã sinh lòng quý mến khí độ hòa nhã thâm trầm của hắn.

Nghĩ đến việc phải chia tay, cậu chỉ cúi đầu im lặng, mắt có nét bịn rịn. Người áo xám nhận ra, mỉm cười nghĩ bụng: “Đứa bé này trọng tình trọng nghĩa, quả không uổng duyên tn ngộ“.

Hắn mỉm cười, vỗ vỗ vai cậu ta rồi xoay mình đi, chợt nghe văng vằng tiếng sói tru, bèn liếc mắt trông thì thấy một con sói vàng nhô lên đỉnh đôi phía xa, đôi mắt xanh lè hung tợn nổi bật dưới ánh trăng nhạt sắp tàn. Lô Bối A choáng váng giật lui mấy bước, thốt lên hãi hùng.

Người áo xám cau mày: “Sao lại nhát gan quá thế… “.

Chợt nhận ra Tháp Ba La cũng đứng bất động, mặt trắng nhợt miệng há ra, hai mắt trân trối nhìn con sói vàng, người áo xám rất lấy làm ngạc nhiên, bèn nhặt một viên đá nhỏ định ném đuổi, con sói vàng đã quay đầu chạy biến đi như làn khói. Tháp Ba La hoàn hồn ngồi phệt xuống đất, răng đánh lập cập:

– Đến rồi… ác ma đến rồi…

Lô Bối A cũng lán đùng ra, người run bần bật.

Người áo xám thắc mắc:

– Ác ma gì cơ?

Tháp Ba La run rẩy đáp:

– Chính là ác ma đã giết chết các bạn buôn của chúng tôi. Khi khởi hành ở thành Triệt Nhĩ Mã Hãn (Samarkand, thành phố lớn thứ hai ở Uzbekistan và từng là trung tâm giao thương trên Con đường Tơ lụa, nối liền Tây phương với Trung Quốc), cả đoàn có hơn ba trăm người, nào ngờ nửa đường lại gặp chó sói…

Người áo xám cau mày:

– Sói ư?

Tháp Ba La suy sụp thấy rõ:

– Đêm hôm đó, bốn phương tám hướng rộ tiếng sói gào, cũng chẳng biết là bao nhiêu con nữa, chỉ thấy đàn đàn lũ lũ sài lang lúc nhúc kéo đến, bất kể người ngựa lạc đã, gặp gì ăn nấy. Tôi dẫn Lô Bối A chạy thẳng vào sa mạc mới thoát được sự truy đuổi của chúng. Trong đoàn còn một người chú họ của Lô Bối A, nhưng bây giờ chẳng rõ sống chết thế nào…

Hắn nuốt nước bọt một cách khó nhọc, chật vật nói tiếp.

– Ngờ đâu chúng lại đến nữa…

Lô Bối A nhảy nhổm dậy, nghiến răng trèo trẹo:

– Liều mạng với chúng!

Người áo xám chống cằm tư lự:

– Cứ cho là vậy đi, nhưng vừa rồi chẳng qua mới có một con sói vàng, tại sao phải sợ hãi đến thế?

Tháp Ba La vội nói:

– Tuy chỉ một, nhưng có khi chính là con tiền trạm cho cả đàn. Chẳng biết đường nào mà lần đâu.

Người áo xám bật cười:

– Sói chứ người à, làm gì biết tính toan chu đáo như vậy?

Tháp Ba La cau rúm mày, tựa hồ đang cân nhắc một điều bí mật, cuối cùng hạ giọng thổ lộ:

– Tiên sinh chưa biết đấy thôi, kẻ cầm đầu đàn sói đó là một con người.

Người áo xám ngạc nhiên:

– Lại thế nữa cơ à? Người và sói khác loài, khi nào ăn ở chưng đụng như vậy được?

– Nghe đồn hấn đã bán linh hồn cho quỷ sứ để đổi lấy bản lĩnh điều khiển đàn sói, chuyên đi tàn sát sinh linh và đánh cướp các khách thương.

Người áo xám lắc đầu:

– Lời đồn thì tin làm gì, thảo nguyên rộng lớn bao la, beo báo cáo chôn đầy ra, trông thấy chó sói cũng chẳng có gì là lạ. Ở, nhưng mà đã vậy thì tốt nhất là chúng ta nên đi chung, tiện bề chiếu liệu lẫn nhau.

Tháp Ba La và Lô Bối A được hắn dẫn ra khỏi sa mạc, vốn đã thập phần tín nhiệm, nay nghe vậy đều mở cở trong bụng: “Người này hành xử hơi bất thường, nhưng bản lĩnh lợi hại như vậy, có hắn bầu bạn là yên tâm rồi“.

Đi thêm một lúc, họ bắt đầu gặp những bãi cỏ chăn tươi tốt. Đến khi mặt trời đứng bóng, phía trước bỗng xuất hiện một kỵ sĩ, Tháp Ba La thấy quen mắt quá bèn chú ý nhìn xem, bỗng rạng rỡ mặt mày, gọi toáng lên:

– Phất Lôi Đức! Phất Lôi Đức!

Lô Bối A cũng mừng đến phát khóc, vẫy tay gọi í ới:

– Đường thúc, đường thúc!

Kỵ sĩ nọ đã nhận ra, bèn giục ngựa phi nước đại. Đó là một người râu tóc đỏ rực, eo hùm lưng gấu, vóc dạc cao lớn khác thường, trên trán có ba vét cào, máu chảy đầy mặt. Tới nơi, hắn nhảy ào xuống ngựa, dang đôi cánh tay hộ pháp lông lá ôm chặt lấy Lô Bối A, nước mắt giän giụa:

– Ta tưởng các ngươi chết rồi, ta tưởng các ngươi chết rồi…

Hai chú cháu gặp lại nhau sau kiếp nạn, cùng khóc nức lên. Tháp Ba La đứng nhìn, cũng cảm động sụt sịt.

Khóc một lúc, họ kể lể nỗi niềm từ khi ly biệt, Phất Lôi Đức nóỉ:

– Ta được ông già A Mạc kéo chạy trốn, nhưng hàng họ mất trắng, Nghe giọng hắn đầy vẻ chán nản, Tháp Ba La an ủi:

– Còn người còn của. Người chết vĩnh viễn không thể hồi sinh, chứ hàng mất lại mua được hàng mới ngay ấy mà.

Phất Lôi Đức gật đầu đáp phải, lúc này một đoàn người đã theo đến nơi, Phất Lôi Đức trỏ một lão già:

– Đây là A Mạc lão bá, người Đột Quyết, nếu không có lão bá thì chúng ta đã mất mạng rồi.

Tháp Ba La đưa mắt nhìn, thấy đó là một lão già nhỏ thó nhưng quắc thước, da dẻ đỏ đắn, râu ria trắng bông, đầu quấn một cái khãn vành hoa hòe hoa sói. Bên cạnh lão lèo tèo chừng mươi mười lăm người, trông thật là thảm hại so với lực lượng hùng hậu mấy trăm lái buôn và vài ngàn ngựa, lạc đã lúc xuất phát.

Buồn bã mắt một lúc, Tháp Ba La gắng trấn tĩnh lại, nhân đó giới thiệu hắn tử áo xám với mọi người. Ai nghe kể việc đào nước trong sa mạc cũng phải kinh ngạc, A Mạc chằm chằm nhìn hắn tử nọ hồi lâu, chợt hỏi:

– Lấy nước trong cát nguyên là mặt pháp của các đạo sĩ người Hắn, thực hiện được nhờ đặc tính thông khí của núi non đầm bãi, làm sao ngươi cũng biết cách ấy?

Câu này lão ta nói bằng tiếng Hắn, giọng rất vang. Người áo xám có vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ cười:

– May rủi, may rủi cả thôi, chứ đâu phải chỗ nào cũng đào được nước.

A Mạc nghe lối nói vô thưởng vô phạt không chịu trả lời thẳng vào câu hỏi thì có phần phật ý, lại gặng:

– Xin hỏi quý tính đại danh?

Người áo xám mỉm cười:

– Tên tuổi hèn mọn, chả bõ nhắc đến.

A Mạc nhìn hắn từ đầu xuống chân, không nói thêm gì nữa.

Mọi người bàn luận một hồi, nhận ra ai cũng mất hàng hóa, nhưng thứ quan trọng nhất là châu báu thì vẫn còn nguyên trong người, bèn bàn định rằng đợi vào Trung thổ sẽ gom chung lại bán, quay vòng vài năm lấy lãi, khi nào gom đủ vốn buôn sẽ mua thật nhiều hàng hóa mang về phương Tây. Phất Lôi Đức phấn chấn hẳn lên, vỗ mạnh vào vai Tháp Ba La:

– Lão đệ nói đúng lắm, còn người còn của, thương nhân già dặn thừa sức nhân giống một đồng vàng thành hàng trăm hàng vạn đồng khác.

Mọi người cười rộ, không khí trở nên hào hứng sôi nồi, Tháp Ba La vui vẻ hưởng ứng:

– Tôi có một vị biểu huynh tên là Mã Khả Ba La đang buôn bán ở Trung thổ, ông ấy quen biết rất nhiều quan viên và thương nhân Thát Đát, chúng ta đến đó nhờ cậy, chắc chắn mọi việc sẽ thuận lợi hơn.

Ai nấy mừng rỡ, hớn hở khen hay. A Mạc hừ một tiếng:

– Đừng ham hố vội, chỗ này vẫn còn là địa bàn của Thiên Lang Tử. Giữ được tính mạng thì hãy hí hớn chuyện làm ăn.

Lời nói hệt như thanh đao chẻ đầu mọi người làm tám mảnh rồi xối một thùng nước đá vào vậy, bao nhiêu phấn khởi hi vọng của bọn lái buôn bỗng chốc nguội lạnh, họ thẩn thờ nhìn nhau, chẳng nói chẳng rằng. Người áo xám bèn hỏi:

– Thiên Lang Tử là cái gì vậy?

A Mạc nín lặng, sắc mặt u ám, trèo lên lạc đã đi trước tiên, những người khác im lìm theo sau. Tháp Ba La ngoảnh sang nói khẽ:

– Thiên Lang Tử là kẻ điều khiển bầy sói, mọi người đều e dè khi nhắc đến cái tên này.

Người áo xám gật đầu, tự nhủ: ‘Thiên Lang Tử là một tự hiệu tiếng Hắn, chẳng lẽ kẻ ác đó là dân Trung thổ?“. Hắn nghĩ ngợi mãi, nhưng không nghĩ ra người nào có ngoại hiệu ấy.

Trên đường đi, họ lần lượt gặp lại những bạn buôn đã may mắn thoát khỏi nanh vuốt sói dữ, khi chiều xuống, đoàn lái thương đã có cả thảy hơn năm mươi người. Mặt trời lặn hẳn, họ cũng dừng chân, nhóm lửa rồi ngồi quây thành vòng xung quanh. Nhắc lại chuyện lúc trước, ai nấy vẫn kinh hoàng. Những kẻ đã mất bạn bè người thân không nén nổi bi thương ngập lòng, đều bật khóc.

Đột nhiên, từ xa vẳng lại tiếng sói hú ngân dài, thể lương mà quỷ quái, ánh trăng dường như cũng mờ đi. Đám lái buôn ngừng khóc, không gian chìm vào sự tịch mịch như chết. Tháp Ba La đứng dậy, che tay trên mắt dõi nhìn chỉ thấy một bóng đen hình con sói loáng lên rồi biến mất đằng xa. Hắn ngó xuống các bạn đồng hành, mặt ai nấy tái nhợt, cắt không còn hột máu, duy chỉ có người áo xám là như không hay không biết, vẫn nhân nha uống rượu trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Tháp Ba La chưa biết nên thông báo ra sao, chợt nghe Phất Lôi Đức thì thầm:

– Chúng ta không trốn nổi, nó vẫn đai dẳng bám theo. Liệu có ai thoát được không đây…

Tháp Ba La ngoảnh đầu lại, chi thấy bộ râu của Phất Lôi Đức rung rung, đôi mắt đầy nỗi tuyệt vọng. Đón nhận cái nhìn của Tháp Ba La, hắn khó nhọc bảo:

– Nếu ta chết mà ngươi còn sống thì nhờ ngươi chăm lo cho Lô Bối A, nó còn ít tuổi, đầu óc lại không được nhanh nhạy khôn ngoan cho lắm…

Tháp Ba La gật đầu:

– Còn nếu ta chết, ngươi hãy giúp ta nhắn tin cho biểu huynh.

Bốn mắt nhìn nhau, hai bàn tay siết chặt rịn ướt mồ hôi.

NgưM áo xám chợt hỏi:

– Lai lịch Thiên Lang Tử thế nào vậy?

Nghe đến cái tên ấy, ai cũng giật mình nhớn nhác, mặt rúm ró lại trong nỗi sợ hãi cực cùng. A Mạc ho khẽ, cầm một cái que bới tro ra để lửa cháy đượm hơn, chậm rãi nói:

– Khó xác định lắm, có kẻ đồn hắn là sói, có kẻ nói hắn là người, lại có nơi quả quyết hắn nửa người nửa sói.

Hắn tử áo xám trầm ngâm:

– Nhiều tin đồn hỗn loan như vậy, chắc hẳn tên quái vật đã tác oai tác quái lâu rồi.

Trong ánh lửa bập bùng, sắc mặt A Mạc chập chờn lúc xanh lúc trắng, lão hạ giọng:

– Cũng chưa lâu lắm, khi người Mông cổ đạt tới đỉnh cao trong đế chế của họ, tuyến đường này rất thái bình, dẫu có đội mâm vàng đi suốt mười hai con trăng cũng chẳng hề hấn gì cả. Hơn chục năm về trước, nội loạn xảy ra trong gia tộc hoàng kim, các phiên vương bất mãn việc Hoàng đế Hốt Tất Liệt dùng vủ lực đoạt lấy tước Hãn, bèn nổi lên chống đối. Sau mấy năm giao chiến liên tục, hàng ngàn dặm thảo nguyên trở nên hoang hóa trọc trụi, xương trắng phơi đầy, bao nhiêu người mất nhà mất mạng, nhiều kẻ chết rục vì đói, những kẻ sống sót thì nổi lên làm thổ phỉ đạo tặc.

Người áo xám im lặng một lúc rồi hỏi:

– Thiên Lang Tử xuất hiện vào thời gian đó, đúng không?

– Đúng, – A Mạc nói. – Bởi chiến sự liên miên mà đạo tặc nổi lên như ong. Nói cho đúng, Thiên Lang Tử cũng là một dạng đạo tặc, chỉ khác là hắn độc lai độc vãng, hành sự cực kỳ hung tàn. Chứ ngoài hắn ra vẫn còn nhiều tốp đạo tặc ghê gớm khác, chẳng hạn như bọn Thiên Sơn Thập nhị cầm (Thiên Sơn Thập nhị cầm gồm mười hai người lấy tên bài chim làm ngoại hiện, ở đây có nhắc đến: Ô Nha (quạ đen), Chu Tước (sé đỏ), Thúy Điều (chim trả), Thái Phượng (phượng màu), Thanh Loan (loan xanh), Hoàng Ly (oanh vàng), Vân Tước (chiền chiện), Hắc Ưng (ưng đen), Tuyết Nhạn (nhạn tuyết)..

Một thương nhân chen vào:

– Thế là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa à? Tưởng đến được Thiên Sơn, thoát khỏi địa bàn của Thiên Lang Tử là an toàn, bây giờ lại nảy ra mười hai con ác điều kia thì chống đỡ cách nào đây?

Cả bọn đều nặng trĩu buồn phiền. A Mạc xua tay:

– Bây giờ nói gì cũng đã muộn, Thiên Lang Tử ở đằng sau, quay đầu lại không được nữa. Cứ đến Thiên Sơn may ra còn đường sống. Bởi Thiên Sơn Thập nhị cầm tuy hung ác, nhưng không tàn nhẫn hiếu sát bằng Thiên Lang Tử đâu.

Lời an ủi của lão không thu lại bao nhiêu hiệu quả, ai nấy đều rầu n trước cảnh tiến thoái lưỡng nan. Người áo xám vẫn thắc mắc:

– Sói hoang dữ tợn như thế, làm sao con người sống chung với chúng được?

A Mạc nhăn bộ lông mày bạc trắng, vuốt râu nói:

– Ta có biết đôi chút thông tin, nhưng cũng chỉ là nghe hơi nồi chõ, chưa lấy gì làm thật. Nghe đồn cha mẹ Thiên Lang Tử chết vì chiến loạn lúc hắn vẫn còn đang ẵm ngửa, tình cờ một con sói mẹ mất con nhặt được hắn, bèn nuôi dưỡng như con ruột của mình, về sau một đạo sĩ người Hắn đi qua, nghĩ thương tình bèn cứu nó khỏi đàn sói, đưa về thôn ưang truyền thụ bản lĩnh.

Nhiều năm qua đi, đứa bé hầu như đã quên cuộc tao ngộ vái đàn thú hoang. Được đạo nhân nuôi dạy, nó đã luyện thành một thân võ nghệ cao cường, có thể xé xác hổ báo bằng tay không, leo trèo nhanh khéo không kém gì khỉ vượn, dần dần trở thành thợ săn bậc nhất trong vùng. Oan nghiệt thay, vào năm mười tám tuổi, cái tuổi bắt đầu biết rung động, Thiên Lang Tử phải lòng một thiếu nữ xinh xắn cùng làng…

Kể đến đây, A Mạc hơi nhíu mày, ho khẽ mấy tiếng.

Tuy lão chưa kể hết, mọi người cũng lờ mờ đoán được phần sau câu chuyện diễn ra thế nào. Những cặp mắt lo âu hướng về A Mạc. Không gian lặng ngắt, chỉ có tiếng củi cháy lép bép trong đống lửa. Đột nhiên, tiếng sói tru mỏng tựa tơ khói nổi lên từ một nơi xa xôi nào đó, ngân dài dằng dặc tưởng chừng không bao giờ dứt, ai nấy rùng mình, ngồi nhích vào gần ngọn lửa đang nhảy nhót trong gió đêm, A Mạc ngẩng đầu nhìn bầu trời âm u vắng bóng trăng, buồn buồn kể tiếp:

– Đáng tiếc, hổ báo hung hãn nhưng không thể hái được bông tường vi ban sớm, Thiên Lang Tử thừa sức bắt sống gấu ngựa, nhưng không nắm giữ nổi trái tim của người thiếu nữ. Hình bóng nàng tràn ngập mọi ngóc ngách trong tâm hồn hắn, mỗi khi sân bắn được gì, Thiên Lang Tử lại mang sang nhà biếu.

Dở một nỗi, trái tim nàng đâ đã thuộc về một chàng trai con nhà phú hộ, cha mẹ nàng tuy biết, nhưng do tham lam nên cứ lấp lửng để tiếp tục nhận quà cáp của Thiên Lang Tử.

Gã trẻ tuổi bị bưng bít, tưởng rằng thiếu nữ cũng có lòng với mình nên vui mừng điên cuồng chứ ngờ đâu đến những ẩn tình khác.

Cái kìm trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, một tối muộn đi săn về qua đồng, Thiên Lang Tử phát hiện ra thiếu nữ và chàng trai nhà giàu đang giở trò trên bộc trong dâu. Phẫn nộ cùng cực, trong cơn giận điên cuồng hắn định giết luôn hai người, đúng lúc ấy sư phụ hắn tình cờ đi đến, liền ra tay ngăn cản. Thiên Lang Tử đấu không lại đạo sĩ già, bèn hậm hực bỏ trốn vào núi.

Thiếu nữ và tình lang thấy chuyện bại lộ bèn làm tễ hỏi ngay ngày hôm sau, và một tháng sau thì thành thân. Chàng trai đó vốn là thế gia vọng tộc trong vùng, ngày tân hôn, các nhà danh giá khắp một trăm dặm xung quanh đều đến chúc mừng, hát hò ca múa, lửa sáng rực trời.

Mọi người đang hoan hỉ say sưa thì sâu trong núi bỗng có tiếng sói tru vọng ra, lúc đầu chỉ một hai tiếng, lác đác chỗ nọ chỗ kia, lát sau đã nhộn nhạo thành hàng tràng gào hú, chẳng biết có bao nhiêu sói, chỉ biết khủng khiếp vô cùng…

Nghe tới đây, đám thương nhân hồi tưởng cảnh huống đêm bị cướp, không ai không lạnh gáy, A Mạc ngừng một lát, lại tiếp:

– Mọi người còn chưa hiểu sự thể ra sao, đàn sói đã từ bốn phương tám hướng ập vào, những người thợ săn túy lúy chưa kịp lấy cung đã bị cắn đứt bàn tay, đám nam nhân chưa kip tuốt đao đã bị xé toạc cổ họng. Cuối cùng, những người còn sống sót tụ lại một chỗ, gắng sức chống trà.

Lúc này, Thiên Lang Tử hiện hình giữa đàn sói, hoàn toàn lõa thể, tóc tai tung bay, đôi mắt ngầu máu, ngửa cổ hú vang. Đàn sói nghe tiếng, không màng sống chết lại lao bổ lên. Hết người nọ đến người kia gục ngã, máu chảy lênh láng như sông suối, nhuộm sẫm cả mặt đất, hất đỏ các bức tường.

Sau đó, khi bắt được đôi tân nhân, Thiên Lang Từ thay vào vị trí tân lang, giày vò làm nhục tân nương. Xong việc, hắn để đàn sói dữ chôm lên…

A Mạc ngừng bặt, sắc mặt ảm đạm, lão túm một bì rượu, uống ưng ực ưng ực. Không gian lại lặng đi như chết, Lô Bối A không nhịn đượC buột hỏi:

– Vậy… tân lang đâu?

A Mạc nhìn cậu, thong thả đáp:

– Nghe nói bị điên, cũng lạ, không hiểu sao Thiên Lang Từ không giết chàng ta.

Lô Bối A thở phào:

– May quá, chí ít vẫn còn một người sống.

Người áo xám lạnh lùng nói:

– Sống không bằng chết thì sống để tàm gì?

Nghĩ một lát, hắn thở dài.

– Xem chừng Thiên Lang Tử không chỉ tàn nhẫn mà còn rất thâm hiểm. Cái hận đoạt thể phải kể như bất cộng đái thiên, vậy mà hắn vẫn ẩn nhẫn suốt một tháng ròng để bày mưu tính kế, chẳng mấy người đủ khả năng kiềm chế như thế đâu.

Ai nấy gật đầu. Người áo xám tủm tim:

– Nhưng bất luận câu chuyên là thật hay giả, lối kể của lão tiên sinh cũng rất thú vị, nó sống động đến nỗi ta tưởng là mình đang rơi vào hoàn cảnh đó.

Một thương nhân tiếp lời ngay:

– A Mạc lão bá là một người kể chuyện danh tiếng lắm đấy.

Người áo xám mỉm cười:

– Ra là vậy! Thất lễ, thất lễ…

A Mạc khiêm nhường nói:

– Chuyện ngồi lê đôi mách ấy mà. Thôi, nơi này không tiện ở lâu, chúng ta nên gắng sức đi nhanh, đến Thiên Sơn là thoát nạn một nửa rồi.

Người áo xám hỏi:

– Thiên Lang Tử võ công cao cường, lại có khả năng điều khiển dã thú như vậy, nhở hắn đuổi tận giết tuyệt thì chúng ta trốn tránh phỏng có ích gì?

Một thương nhân xua tay:

– Huynh đài không biết đó thôi. Nghe đồn Thiên Lang Tử đã từng thất bại liểng xiểng dưới tay bọn Thập nhị cầm, từ đó không dám bén mảng đến gần Thiên Sơn nữa.

Người áo xám tở ra hứng thú hẳn:

– Lại có chuyện lạ như thế cơ à?

Tay lái buôn nọ thở dài:

– Chuyên này đồn đại khắp nơi, nhưng người ta không mấy tin, vì nó hoang đường quái gở quá.

Người áo xám phì cười:

– Hoang đường quái gở mới hay chứ, xin huynh đài cứ kể đi.

Tay lái buôn không cười, uống một ngụm rượu, ủ rủ kể:

– Nghe nói mấy năm trước, Thiên Lang Tử thường dẫn sói lên hoành hành trên mạn Thiên Sơn, và đụng độ vài lần với Thập nhị cầm, gây ra thương vong nặng nề cho cả đôi bên. Một đêm nọ, hắn tụ tập mấy ngàn con sói dữ, đang đêm tập kích Dao Trì – sào huyệt cũ của Thập nhị cầm.

Nào ngờ trận ấy chính là bẫy rập của thủ lĩnh Thập nhị cầm. Đích thân thủ lĩnh cưỡi ngựa, đi một mình ra dụ Thiên Lang Tử và bọn sói vào sơn cốc. Sơn cốc này rất kỳ íạ, hai bên vách đá có sông băng tuôn chảy, địa hình hiểm trở dị thường.

Thủ lĩnh cho chôn sẵn thuốc nổ dưới chân dòng sông băng, sau đó thúc ngựa đi lên đỉnh núi, đợi đàn sói vào cốc thì ra lệnh khai hỏa làm nổ tung cả dòng sông, khiến tuyết lở mấy chục dặm, cảnh tượng khủng khiếp hệt như trời sụp đất nứt vậy, Hàng ngàn hàng vạn con sói dữ đều bị chôn dưới đáy cốc, từ đó Thiên Lang Tử cũng mai danh ẩn tích.

Thiên hạ đều tưởng hắn đã vùi thây nơi hoang dã, đâu ngờ hắn lại tái xuất, xem ra ông trời không có mắt, nên mới không chịu thu nhận tên yêu nghiệt đó.

Người áo xám vỗ tay cười:

– Cái kế tuyết chôn đàn sói thật tà kinh hôn, phải tay đại anh hùng, đại hào kiệt mới thực hiện nổi. Nếu có cơ duyên, ta thật sự muốn gặp mặt vị thủ lĩnh đó một lần.

Bọn lái buôn nghe chuyện, bất giác hình dung ra trận chiến long trời lở đất, quỷ khốc thần sầu, bộ dạng lẫm liệt cùng tư thế cưỡi ngựa oai phong của vị thủ lĩnh nọ, cũng đều cảm thấy ngưỡng mộ. Lô Bối A hưởng ứng:

– Tiên sinh nói phải lắm, được gặp vị thủ lĩnh đó một lần thì có chết cũng cam lòng.

Tháp Ba La suỵt một tiếng:

– Ngươi lảm nhảm gì vậy, người ta là anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, ngươi tu mấy kiếp mà đòi gặp?

Lô Bối A lườm hắn:

– Không nói với huynh nữa, – rồi quay sang tay lái buôn, háo hức hỏi. – Huynh đã gặp thủ lĩnh Thập nhị cầm chưa?

Tên lái buôn dùng tay làm động tác cắt cổ, nhếch mép:

– Ngươi đùa à? Gặp phải hắn thì đâu còn giữ được cái đầu này? Thập nhị cầm là hạng đạo tặc vô ác bất tác, quân Mông cổ đã mấy lần tróc nã nhưng đều xôi hỏng bỏng không đấy.

Ai nấy lạnh toát người, Lô Bối A cụt hứng:

– Tôi tưởng họ đối đầu với Thiên Lang Tử thì nhất định phải là trang hảo hán chứ.

Phất Lôi Đức đấm tay xuống đất, hừ mủi:

– Đều là hạng chẳng ra gì, xung đột vì ghen ăn tức ở thôi.

A Mạc gật đầu:

– Đúng đấy, Thập nhị cầm và Thiên Lang Tử kết thù kết oán chỉ vì tranh đoạt địa bàn và phân chia chiến lợi phẩm không đều, Cứ nghĩ đằng sau sói dữ, đằng trước cướp đường, ai nấy đều thở dài lo lắng.

Thu xếp xong hành lý, mọi người lên lạc đã khởỉ hành, Chợt nghe có tiếng lục lạc leng keng hệt như rèm ngọc khua trong gió, tất cả giật mình ngoảnh ra nhìn. Một người một ngựa băng băng phi tới. Con ngựa nở nang cân đối, toàn thân đỏ rực, lông bờm rất dài, chỉ đóng yên cương không đóng hàm thiếc. Trên lưng nó là một nữ lang vận y phục toàn đỏ ôm vừa thân thể, mặt che một tấm mạng sa, chắc là để ngăn cát gió. Sau lưng cô ta, đặt ngang mình ngựa, là một cái hộp dài năm thước rộng nửa thước rất kiểu cách, dường như bằng gỗ trắc dát vàng.

Con ngựa phóng ào đến như một cơn gió, rồi chỉ bằng một nhịp giậm móng trước, nó đứng ngay lại được. Bọn lái buôn tấm tắc khen:

– Đúng là ngựa quý!

Nữ lang nọ chớp cặp mắt long lanh nhìn khắp mặt mọi người, chợt hỏi bằng tiếng Đột Quyết:

– Định qua Thiên Sơn à?

Giọng cô hơi gấp gáp, nhưng vẫn đủ nhận thấy thanh âm trong trẻo và vui tươi của con gái đại mạc. Chưa ai kịp nói gì, Lô Bối A nhanh mồm miệng đã đáp lại rõ to:

– Đúng!

Nữ lang áo đỏ khuyên:

– Đằng trước có sói đàn, nếu muốn sống sót, hãy quay lại đi!

Cả bọn vã mồ hôi, chân tay rụng rời: “Chúng không đuổi theo chúng ta, ra là vì đã mai phục đằng trước rồi“. A Mạc gắng trấn tĩnh, cúi mình đáp tạ:

– Đa tạ cô nương báo tin.

Nữ lang áo đỏ không trả lời, thúc ngựa định đi, ngờ đâu con ngựa đỏ không chịu tiến bước, nó khịt khịt mủi và bước gần đến đám lái buôn. Nữ lang áo đỏ kinh ngạc:

– A Hốt Luân Nhĩ, ngươi lại không nghe tời rồi…

Hết sức ngẫu nhiên, cô dừng ánh mắt ở người áo xám, bỗng giật mình, buột kêu thành tiếng.

Con ngựa đến gần hắn ta, vươn cổ ra hít hít bả vai hắn. Người áo xám vuốt ve hàng lông bờm, cười buòn:

– Bạn cũ, lâu quá không gặp rồi nhỉ!

Con ngựa phì một tiếng, cọ mũi lên mặt người quen. Người áo xám ngước mắt nhìn nữ lang, giọng nghèn nghẹn:

– Phong Liên, cô vẫn khỏe chứ?

Nữ lang áo đỏ chấn động cả người, trên tấm mạng che bỗng xuất hiện mấy chấm ướt. Cô giận dữ thốt lên:

– Không, không khỏe chút nào hết… – rồi giật tấm mạng sa xuống, phô đôi má mịn màng đã hoen nước mắt, giọng run run. – Hơn mười năm nay, chưa bao giờ tôi khỏe cả…

Rồi bủn rủn, cô rơi khỏi mình ngựa.

Người áo xám chính là Lương Tiêu. Gã mới từ phương Tây quay về, chẳng ngờ tái ngộ Phong Liên ở đây. Cô gái gặp lại gã, lòng vừa hờn trách vừa mừng vui, vừa giận dỗi vừa cảm động, muôn cảm xúc trào lên tức ngực khiến cô suýt nữa ngất đi. Lương Tiêu tiến lại đỡ lấy cô rồi đầy chân khí vào lưng. Phong Liên bật ho, phần lưng nóng ấm hẳn lên, toàn thân mềm nhũn đi, cô mở mắt nhìn thì gặp ngay gương mặt lo âu của Lương Tiêu, mọi nỗi tức giận trong lòng bỗng tiêu tan, cô lại thẹn thùng nhắm mắt, khẽ nói:

– Ai khiến ông đa sự, còn không mau buông tôi ra đi!

Lương Tiêu y lời buông ra, nhưng sợ cô chưa hồi phục hoàn toàn nên vẫn cầm bàn tay thon, đưa mắt ngắm kỹ cố nhân. Mười năm không gặp, cô thiếu nữ ngày nào đã trưởng thành, vẫn đôi mắt biết cười, vẫn đôi môi thắm tươi, nhưng mặn mà đằm thắm hơn nhiều. Phong Liên cũng nhìn lại Lương Tiêu, môi mấp máy, chực nói mà không nên lời, cuối cùng nghẹn ngào ngả đầu vào vai gã, khóc nức nở. Lương Tiêu luôn áy náy về chuyện ngày xưa, nên cũng không tránh, im lặng để Phong Liên tựa vào mình. Đám lái thương lùi ra xa, không muốn làm phiền cuộc trùng phùng của họ.

Phong Liên khóc đến khi nguôi tủi hờn mới ngẩng đầu lên:

– Ông biết không? Tôi tìm ông ròng rã sáu năm qua, trong dạ luôn lo lắng thấp thôm, chỉ sợ không bao giờ gặp lại ông nữa.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

– Cô tìm ta suốt sáu năm? Có việc gi quan trọng chăng?

Phong Liên lại sa nước mắt:

– Lúc lâm chung, cha có dặn tôi đi tìm ông.

Lương Tiêu choáng người, hỏi dồn:

– Thiết Triết tiên sinh đã tạ thế rồi ư? Chẳng lẽ quân Mông cổ tấn công Kiếm Cốc?

Phong Liên lắc đầu:

– Không liên quan gì đến quân Mông cổ cả. Việc ông bỏ đi mà chẳng

nói một lời khiến ai cũng buồn. Hôm sau, nội bỗng gọi cha cùng vào Kiếm tháp đúc kiếm, đúc miệt mài suốt ba năm trời. Nhưng chằng hiểu tại sao thanh kiếm mãi không thành hình. Một hôm, nội nói với cha rằng Thiên Phạt kiếm chứa quá nhiều sát khí, trời đất quỷ thần đều kiêng sợ, phải dùng mạng người tế kiếm may ra mới xong.

Lương Tiêu biến sắc:

– Dùng người tế kiếm? Làm thế sao được?

Phong Liên thảm não đáp:

– Cha cũng nói vậy, còn nói, nếu quả thực cần thiết, tốt nhất là ra ngoài cốc bắt mấy tên ác nhân về mà tế. Nhưng nội bảo, như thế chỉ khiến chất sát phạt trong kiếm càng nặng, tệ khí càng dày thêm mà thôi. Cho dù kiếm có thành hình thì cũng là một thứ hung khí reo rắc tai họa cho nhân gian. Nội nói xong… nói xong… – Phong Liên bặm môi, úp mặt vào ngực Lương Tiêu, khóc lạc cả tiếng, -… là nhảy tới, lao luôn đầu vào lò đúc kiếm…

Đám lái buôn thảy đều tái mặt.

Lương Tiêu cảm thấy một coin nôn nao cuộn lên dữ dội trong gan ruột, lâu lắm, đợi Phong Liên bớt thổn thức, gã mới hỏi:

– Thế còn cha cô?

Phong Liên sa nước mắt:

– Lạ là sau khi nội hủy thân mình thì thanh kiếm thành hình thật. Cha tiếp tục rèn kiếm theo di nguyện của nội. Người gần như phát điên, không ăn không ngủ, đêm ngày đập đập nung nung, cứ thế suốt ba tháng, thân hình mỗi ngày một vàng võ hao mòn. Tôi không chịu nổi, bèn đến ở luôn trong Kiếm tháp để hầu hạ người.

Cô ngừng lời, trầm ngâm hồi lâu mới tiếp.

– Đêm ấy, đưa cơm nước cho cha xong, tôi buồn ngủ quá bèn sang phòng bên ngồi gả gật một lúc. Chẳng biết lâu hay chóng, chợt nghe sấm giật đùng đùng, chớp rạch loằng ngoằng ngay bên ngoài, tựa hồ bao nhiêu âm thanh và ánh sáng trên trời tụ cả về Kiếm tháp…

Cô lại nấc lên, lệ tuôn như suối.

Lương Tiêu nghĩ thầm: “Trời giáng sấm chớp, phải chăng nổi giận vì kiếm thần xuất thế?“. Gã vỗ vỗ vai cô thay lời an ủi, Phong Liên gắng nín khóc, run run kể tiếp:

– Bấy giờ tôi chẳng hiểu ra sao, chỉ ngạc nhiên vì sao sấm chớp dữ dội đến vậy mẳ không mưa. Đúng lúc đó, chợt nghe bên phòng đúc kiếm vang lên một tiếng động cực lớn, lớn đến nỗi át đi cả dàn sấm chớp l ùng bên ngoài, tôi chột dạ chạy sang xem thì thấy cha ngã ngửa trên sàn nhà, trong tay ôm chặt một thanh kiếm, máu tươi phun xối xả lên lưỡi thép… Kiếm đã xong nhưng cha cũng kiệt lực, sang ngày hôm sau thì mất… Trước lúc nhắm mắt xuôi tay còn dặn tôi là nhất định phải giao thanh Thiên Phạt kiếm thiêng liêng của tộc Tinh Tuyệt cho ông gìn giữ.

Kể xong, Phong Liên quay lại bê cái hộp gỗ trắc đến trước mặt Lương Tiêư. Gã đón lấy, vẻ mặt nặng nề, mở ra thì thấy trong hộp đặt một thanh trường kiếm vỏ đen, có chuôi mà không có ngạc, lưỡi kiếm dài bốn thước, nhìn thoáng qua hơi khác với bảo kiếm thông thường. Lương Tiêu tuốt kiếm, nhưng cảm thấy rất rít. Gã cau mày, vận lực rút mạnh thì nghe trong vỏ vẳng ra tiếng động ken két chói tai lạ lùng. Rất chậm, trường kiếm thoát vỏ, Lương Tiêu sững người kinh ngạc, thân thểp lốm đốm cặn đỏ. Kiếm đã rỉ.

Đám lái buôn ngó thấy, thảy đều thất vọng:“Hai người mất mạng mới đúc xong một thanh kiếm thế kia ư, có đáng hay không?“. Nhận ra tâm tư họ, Phong Liên trừng trừng nhìn lại, vẻ căm ghét.

Lương Tiêu xem xong, trầm ngâm một thoáng rồi đậy nắp hộp, đặt lên lưng ngựa như cũ. Phong Liên cuống quýt:

– Ông không bằng lòng nhận ư? Có phải vì chê nó rỉ không…

Mắt cô hoen đỏ, chực như sa lệ đến nơi. Lương Tiêu lắc đầu:

– Kiếm do lệnh tổ phụ và lệnh tôn hợp sức đúc là báu vật bất phàm, ta chỉ là một kẻ kém đức hạnh, đâu đáng nhận lãnh hai chữ “thiên phạt“. Cô cứ giữ lấy, đợi gặp được người xứng đáng thì chuyển tặng cho người ta.

Phong Liên như bị đâm vào-tai, nổi giận mắng:

– Thế là thế nào? lầy Côn Luân, ông làm sao vậy? Thiên Phạt kiếm đã ri, ông cũng n theo hay sao?

Lương Tiêu thở dài:

– Cô nói phải, n hết cả rồi.

Phong Liên nghiến răng, cau mày nhấn từng tiếng:

– Người Tinh Tuyệt chẳng bao giờ khẩn nài ai. Ông không cần thì tôi… tôi đi cho xong.

Lương Tiêu nhận ra đuôi mắt Phong Liên đã lờ mờ vết chân chim, không còn mơn mởn tươi tắn như ngày xưa, thầm nghĩ sáu năm nay cô bôn ba khắp nơi, chắc hẳn dãi dầu không ít gió sương, bèn mủi lòng ngăn lại:

– Được rồi, đừng giở trò trẻ con, chúng ta cũng sắp khởi hành, cô lên ngựa đi cùng luôn.

Phong Liên còn chưa nguôi giận, giậm chân nói:

– Ai trẻ con ở đây! Hỏa Lưu Tinh là do ông bắt được, tôi không cưỡi nữa.

Cô bực bội quay mặt đi, Lương Tiêu hết cách, đành leo lên ngựa, cúi xuống kéo cô:

– Vậy cưỡi chung!

Phong Liên hơi giằng ra, nhưng cuối cùng vẫn phải nhượng bộ tình cảm của mình, ngoan ngoãn leo lên ngựa, ngồi trong lòng Lương Tiêu. Sáu năm tìm kiếm vô vọng giữa núi non trùng trùng, giữa biển người mênh mang, cô đã đổ bao nhiêu nước mắt vì tưởng rằng mãi mãi không được gặp lại gá đàn ông nhẫn tâm này nữa. Nay đã toại nguyện, trút được gánh đá nặng trên ngực, niềm vui sống cũng trở lại với cô. Đi được một lúc, mệt mỏi buồn ngủ, Phong Liên bắt đầu gả gật.

Ngủ gật một lúc khá lâu, chợt bị tiếng vó ngựa dồn dập đánh thức, cô dụi mắt nhìn thì thấy đằng xa có một toán kỵ sĩ phi lại. Chưa tới gần, một người trong bọn đã lớn tiếng hỏi:

– Các ngươi có gặp bầy sói không?

A Mạc đáp:

– Có!

Toán kỵ sĩ liền tản rộng thành hình giẻ quạt, đồn úp lại phía họ. Đám lái thương đang ngơ ngác, lại thấy ba gã trẻ tuổi thúc ngựa vượt hẳn lên trước, cả ba đều anh tuấn ngời ngời, dưới tấm áo choàng bằng đoạn của họ lấp ló những chuối đao màu đen.

Kỵ sĩ áo đen cất giọng sang sảng:

– Đàn sói đang ở đâu?

Đám lái thương chưa hiểu ra sao, nên không ai trả lời. Tay kỵ sĩ, mặt lạnh hẳn đi tựa phủ sương, xem chừng nổi giận tới nơi, đúng lúc đó kỵ sĩ áo đỏ bên trái xen vào:

– Ò Nha, ta thấy họ đều là khách thương bình thường. Chớ gây khó dễ kéo thủ lĩnh không bằng lòng đâu.

Hắn tử áo đen vẫn lầm lầm cái mặt:

– Chu Tước à, ta chẳng qua chỉ hỏi thăm tin tức mà thôi, Đàn sói xuất quỷ nhập thần như vậy, chứng tỏ con quái vật đó đã quay về. Thủ lĩnh cũng dặn chúng ta hành sự phải thận trọng, phải biết dò hỏi cặn kẽ mọi đường còn gì!

Chu Tước gật đầu:

– Hỏi thăm thì hỏi thăm, miễn ngươi đừng động tính hung hăng nổi giận bừa bãi là được.

Ô Nha tức bực đáp:

– Đừng suy bụng ta ra bụng người.

Kỵ sĩ áo lục từ đầu tới giờ vẫn im lặng giữ bộ mặt ngạo mạn, lúc này mới ngắt lời:

– Ta thấy chẳng có gì phải hỏi cả. Chúng ta cứ tăng cường tùng sục, nếu bắt được con quái vật trước nhiều người chứng kiến thì thủ lĩnh sẽ hài lòng lắm.

Chu Tước ngần ngừ:

– Thúy Điều, ngươi nói câu ấy có vẻ hơi tự cao tự đại đấy.

Ồ Nha cười nhạt:

– E rằng ngươi nhát gan thôi, kể về võ công, chưa chắc tên quái vật đã địch nổi chúng ta, huống hồ bên ta còn cộ Nhị thập thần nỗ thủ trợ trận.

Đám lái buôn đưa mắt nhìn thì thấy quả nhiên bọn kỵ sĩ đều khoác những cánh nỏ dài bốn thước, và những túi tên nặng trĩu thì vắt ở yên cương. A Mạc bỗng thúc ngựa tiến ra, cúi mình chào:

– Xin hỏi, ba vị có phải là nhân thủ của Thiên Sơn Thập nhị cầm?

Ô Nha ngạo mạn đáp:

– Đúng vậy.

Đám lái thương đều nhốn nháo cả lên, nhất loạt siết chặt chuôi đao. A Mạc cười mơn:

– Thiên Sơn Thập nhị cầm ai cũng lấy tên một loài chim làm ngoại hiệu, vừa nghe qua thì quả nhiên không sai. – Ngừng một lúc, lão lại nói. – Đội lái buôn chúng ta gặp phải đàn sói, thương vong rất thể thảm. Bây giờ bọn sài lang đó lại mai phục khắp nơi, tiến thoái lưỡng nan, mong ba vị đại hiệp chỉ cho con đường sáng.

Thúy Điều lạnh lùng đáp:

– Chúng ta phải truy đuổi đàn sói, không rỗi đâu mà…

Chu Tước ngắt lời:

– Họ là khách thương bình thường, về lý thì nên hộ tống đến Luân Đài mới phải..(Một huyện nằm ở mé nam chân núi Thiên Sơn)

Ồ Nha cau có:

– Ngươỉ lại lo chuyện bao đồng, Chu Tước lạnh lùng hỏi:

– Ngươi quên lời thủ lĩnh rồi sao?

Máu nóng dồn lên mặt, Ổ Nha vặc lại:

– Ta quên bao giờ? Muốn đưa thì đưa…

Một tràng sói tru bỗng vút lên, phũ phàng cắt ngang lời Ồ Nha, tiếng hú rùng rợn nghe ghê cả người, ba kỵ sĩ cùng biến sắc, đồng thanh nói:

– Thiên lang khiếu nguyệt! – đoạn giật dây cương cho ngựa quay đầu phi về hướng sói tru.

Chu Tước lao đi một chốc, lại mang theo bảy tám tay xạ thù trở về:

– Quãng đường phía trước gian nan, ta đưa các ngươi đi một đoạn! Mặt bọn lái buôn đều khó đăm đăm, ai nấy nghĩ bụng: “Được ngươi đưa cũng chẳng yên ổn đâu, có trời mứi biết quân cướp dường như ngươi đang dự tính những gì?“. Họ muốn khước từ, nhưng không dám bạo gan nói thẳng.

Lương Tiêu hỏi:

– Thiên lang khiếu nguyệt là thế nào?

Chu Tước liếc mắt nhìn gã, chậm rãi nói:

– Sói tru trăng. Đó là tiếng hú của riêng Thiên Lang Tử.

Nghe nói Thiên Lang Tử đang ở ngay gần đây, mặt mọi người xám ngoét đi như gả cắt tiết. Phong Liên khinh bỉ nhìn Chu Tước, trong lòng bỗng có gì như tức giận, cười nhạt bảo:

– Thiên Sơn Thập nhị cầm cũng nổi danh đạo tặc, chẳng điều ác nào là không dám làm. Tại sao lại giả vỡ tốt bụng hộ tống khách thương thế?

Chu Tước biến sắc mặt, giọng bỗng gay gắt:

– Thiên Sơn Thập nhị cầm tuy là đạo tặc, nhưng là thứ đạo tặc hữu đạo, một là không gây hại cho bách tính, hai là không chạm một ngón tay đến khách thương thông thường, quân Mông cổ bất lực trước chúng ta nên mới đổ vậy tiếng xấu làm hại thanh danh Thập nhị cầm. Không muốn tại hạ hộ tống thì thôi, xin cứ tự nhiên.

Lương Tiêu thấy hắn tức đến nỗi đỏ mặt tía tai, trong bụng bắt đầu ngờ ngợ. Đám lái buôn càng chẳng hiểu gì, chỉ có A Mạc trấn tĩnh, giật cương tiến đến gần Chu Tước, những người còn lại không còn cách nào khác, đành cun cút đi theo.

Phong Liên phát bực:

– Tự nhiên thì tự nhiên, chúng ta không thèm đi với bọn đó.

Lương Tiêu nói:

– Ta đã hứa chăm lo cho bọn họ, đâu thể nửa chừng bỏ dở được.

Phong Liên bĩu môi, hất đầu về phía Chu Tước:

– Chẳng phải có bọn kia bảo vệ rồi sao?

Lương Tiêu tỏ vẻ đăm chiêu:

– Tiếng tám của Thiên Sơn Thập nhi cầm có lắm tì vết, ta không yên tâm.

Phong Liên lườm gã:

– Thế này thì gò bó chết đi được. – Cô thở dài, lại ngửa đầu tựa vào lòng Lương Tiêu, dịu dàng nói, – Chẳng hiểu tại sao tôi không quên nổi Tay Côn Luân, ngày tháng trôi đi, nhớ nhưng càng thêm da diết…

Lương Tiêu vốn nhanh nhẹn, giỏi ứng đối, vậy mà không tìm nổi lời nào để đáp lại, đành ngậm hột thị mà nghe. Cả đoàn đi được một quãng, đằng trước bỗng vọng đến tiếng sói tru kéo dài chói tai khiến người ta buồn nôn; một tiếng dứt, trăm ngàn tiếng tru khác hòa theo, thanh thế vô cùng rầm rộ. Chu Tước tái mặt, quất ngựa phi nước đại. Lương Tiêu bảo Phong Liên:

– Chúng ta cũng đi xem sao, – rồi thúc ngựa tiến lên.

Hỏa Lưu Tinh phóng nhanh kinh hôn, chỉ chớp mắt đã bắt kịp Chu Tước. Gã này tỏ vẻ kinh ngạc, ngắm nghía một lúc rồi buột miệng khen:

– Quả là ngựa quý! Bán cho ta nhé, ta trà một trăm lạng vàng.

Phong Liên cười nhạt:

– Ngươi nằm mơ à? Đừng nói một trăm lạng, mà dù một nghìn, một vạn lạng, ta đây cũng không bán.

Chu Tước sầm mặt, mắt vẫn dán vào Hỏa Lưu Tình. Bắt gặp ánh mắt tham làm khác thường của hắn, Lương Tiêu bỗng cau mày.

Đi được hơn hai mươi dặm, họ bắt đầu gặp phân sói rải rác đó đây, mỗi đi mỗi thấy nhiều thêm, vết móng vuốt cũng hằn chi chít xuống nền đất. Chu Tước lầm lì tiến bước, chợt có ánh đỏ loáng lên trong đám cỏ lau đằng xa, hắn nheo mắt quan sát, mặt bỗng tái dại đi, xốc ngựa chạy lên. Phong Liên đang trố mắt nhìn, Lương Tiêu đã bịt kín mắt cô thì thào:

– Đừng nhìn, ở lại trên ngựa.

Gã lật người khỏi yên cương, băng băng chạy tới, chỉ thấy Chu Tước đang cúi mình bên hai thi thể, mắt trợn răng nghiến, toàn thân run lẩy bầy. Màu áo hai xác chết cho thấy đó là Thúy Điều và Ô Nha. Cả người và ngựa đều bị bươi xé không còn ra hình thù gì nữa, xương thịt bung lở nham nhở, bốn bề còn ngổn ngang năm sáu xác sói, một con trong đó vẫn còn nguyên nửa lưỡi đao gãy trên lưng.

Lương Tiêu nhìn quanh, rồi quay mình lướt đi cực nhanh, chi tung lên nhảy xuống trên đồng cỏ vài lượt là đả không thấy tăm tích đâu nữa. Chu Tước trông theo bằng ánh mắt kinh ngạc, bỗng đứng bật dậy.

Phong Liên đang định giục ngựa chạy theo Lương Tiêu thì một bóng đỏ loáng lên trước mắt, Chu Tước đã đứng chặn lối. Cô gái thúc gối vào bụng Hỏa Lưu Tinh, quát hỏi:

– Ngươi làm gì vậy? Không sợ bị ngựa giẫm lên ư?

Chu Tước gần giọng, hai mắt đỏ ngầu:

– Giao ngựa cho ta!

Thình lình hắn bật cao, phóng song chưởng ra, Phong Liên cảm thấy kình phong thốc vào mặt, mũi miệng tắc nghẹn lại, vội vàng thét:

– A Hốt Luân Nhĩ…

Hòa Lưu Tinh vâng lệnh, vặn hông chạy chếch đi, Chu Tước chụp hụt, lập tức xoay mình theo, nhưng Hỏa Lưu Tinh đã ở cách xa đến mười mấy trượng rồi.

Phong Liên chạy một lúc thấy không ai truy đuổi mới dừng nước kiệu. Nhớ lại sáu năm nay mình phiêu bạt khắp nơi cùng chốn mà vẫn bình an vô sự, phần lớn đều nhờ cước lực vô song của Hỏa Lưu Tinh, cô bỗng thở dài, vuốt vuốt bờm nó:

– Mã nhi, thật khổ cho ngươi quá... rồi ngước mắt nhìn quanh, chỉ thấy bốn bề đồng không mông quạnh, gió lạnh căm căm thôi đám cỏ dài ngả loạt soạt, Phong Liên bỗng thấy nghẹn ngào, cất tiếng gọi to.

– Tây Côn Luân, ông ở đâu.. Tây Côn Luân, ông…

Gọi được đến tiếng thứ hai, giọng cô đã sũng nước mắt. Nhớ ra mới gặp lại tên oan gia này chưa được bao lâu, chỉ thoáng chốc đã lại bặt tăm bặt tích hắn rồi, cô thấy gan ruột như đứt ra từng khúc, đầu óc trống rỗng, nước mắt thi nhau rơi xuống, đang định khóc òa lên thì nghe phía xa có tiếng hú dài vẳng lại, hệt như tiếng sấm nổ vang mãi không thôi. Luồng âm thanh rẽ roẹt những thân cỏ, tao vùn vụt trên đồng hoang như đang chìm trong cơn giận điên cuồng.

Phong Liên nhận ra tiếng hú của Lương Tiêu, lập tức chạy ngay theo, tim đập thình thịch. Được một lúc, chợt thấy phía xa có rất nhiều tay chân đầu cổ, nỏ gãy tên cụt nằm vương vãi, cô lại gần xem thì nhận ra xác đám thần nỗ thù đi theo Ô Nha, máu thịt tung tóe đã nhuộm đỏ cả một khoảng lớn cỏ. Lương Tiêu đứng giữa trảng cỏ dài, ngửa mặt hú vang, tiếng vọng lông lộng khắp không gian rộng lớn, Phong Liên chưa tới gần đã cảm thấy đầu hoa mắt váng, vội ghìm ngựa lại.

Đột nhiên, mé đông bắc âm âm vẳng đến một tràng gào rú, chọc vào tai người ta như những mũi dùi, chính là Thiên lang khiếu nguyệt. Hai luồng âm thanh đua nhau vút lên như sóng còn đại dương hay quái xà xuyên mây, làm rung chuyển cả bầu trời. Đột nhiên, Lương Tiêu băng mình lao về hướng phát ra tiếng sói tru.

Phong Liên sực hiểu: “Hóa ra Tây Côn Luân hú lên là để khiêu chiến với Thiên Lang Tử“.

Nghĩ đến việc Lương Tiêu sắp quyết trận thư hùng với tên quái vật gian ác, cô bỗng thấy phấn chấn, đồng thời lại nảy ra bao mối lo âu. Cô còn đang bần thần, Lương Tiêu đã phóng vút đi như hồng hạc, mau chóng biến mất tăm, Phong Liên hấp tấp thúc ngựa đuổi theo.

Thiên Lang Tử hú được nửa chừng bỗng im bặt, Lương Tiêu bước chậm lại, hai tai dỏng lên bắt lấy mọi động tĩnh để xác định phương hướng. Đột nhiên, lại nghe mé tây nam có tiếng sói gào vút lên, Lương Tiêu hoảng hồn nghĩ: “Con quái vật này nhanh chân thật, chỉ chớp mắt mà hắn di chuyển được đến mười dặm“.

Gã biết lần này đã gặp phải tay kỳ phùng địch thủ, bèn trấn định tinh thần, đảo chân chạy sang hưởng tây, không ngờ tiếng hú phía này cất lên chưa đay thời gian tàn một tuần hương đã lại dừng bặt. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, nhưng không giảm cước lực, nào ngờ mới được mười dặm thì tiếng sói lại tru lên ở hướng đông, Lương Tiêu hoang mang vô cùng, bèn xoay gót chuyển mình theo.

Tiếng sói hú như cố ý trêu ngươi, thoắt đông thoắt tây, lúc nam lúc bắc, cứ vang lên rồi tắt lịm liên tục như thế, di chuyển xa dần. Lương Tiêu dừng chân, đứng sững, mặc cho gió tây lùa tới đánh quần áo bay lật phật.

Bấy giờ Phong Liên cũng phi ngựa đến nơi, vội vã nhảy xuống bảo:

– ông cưỡi A Hốt Luân Nhĩ mà đuổi cho nhanh.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Đuổi cũng vô ích, những công phu khác thì chưa biết thế nào, nhưng khinh công kẻ này trên tài ta. Huống hồ còn sói bầy trợ trận, dẫu đuổi kịp cũng khó lòng giành phần thắng.

Phong Liên trầm ngâm một lúc, rồi hỏi:

– Ông sợ bản lĩnh tôi non kém, sẽ làm ông vướng tay vướng chân chứ gì?

Lương Tiêu bị cô nói trúng tim đen, chỉ cười, không đáp. Phong Liên nhoẻn cười, hai má đỏ hồng, đôi mắt đẹp bừng sáng;

– Hóa ra bất kể thế nào ông cũng vẫn lo nghĩ cho tôi, tôi sung sướng lắm.

Lương Tiêu nhăn mặt:

– Thôi, về đi.

Phong Liên cong môi:

– về làm gì, trông thấy bọn đạo tặc đó là bực mình.

Cô hậm hực kể lại chuyện Chu Tước tìm cách cướp ngựa mình. Lương Tiêu tư lự nói:

– Hắn đoạt ngựa không phải vì mục đích xấu đâu, mà là muốn mượn cước lực của Hỏa Lưu Tinh để truy bắt Thiên Lang Tử đó thôi.

Phong Liên bực bội:

– Ông còn nói đỡ cho hắn nữa đang yên đang lành cướp ngựa người ta, chính là kẻ xấu.

– Đừng vội vàng trong việc phân định thiện ảc, sai một li đi một dặm đấy…

Thấy Phong Liên càng thêm vẻ hờn trách, Lương Tiêu bèn xuống nước:

– Thôi được, cô nói thế nào thì đúng là thế ấy.

Phong Liên cúi mặt giấu nụ cười:

– Tây Côn Luân, ông hứa với tôi một việc nhé?

Lương Tiêu gật đầu, Phong Liên bặm bặm môi, mắt đỏ hoe, nhẹ nhàng nói:

– Từ nay về sau, ông không được bỏ tôi lại một mình nữa. Vừa rồi tôi sợ lấm, sợ ông lại biến mất một cách không mình bạch như lần trước, khiến tôi không bao giờ tìm lại được…

Nỗi tủi thân làm cô nghẹn lời, chưa nói xong nước mắt đã ướt đầm gò má.

Lương Tiêu vốn không muốn Phong Liên gặp nguy hiểm nên mới một mình truy đuổi Thiên Lang Tử, không ngờ suýt đầy cô vào cảnh nguy hiểm khác. Trước dáng vẻ buồn rầu hờn dỗi của Phong Liên, gã bỗng cảm thấy hổ thẹn, bèn buột miệng:

– Thôi được, ta hứa với cô.

Phong Liên cười qua hàng nước mắt, rồi chạy ào đến bá cổ Lương Tiêu, vùi mặt vào ngực gã, vui sướng nói:

– Tôi biết ông sẽ nhận lời mà!

Lương Tiêu vừa nói dứt lời là đã hối hận ngay, càng thêm mất tự nhiên vì đôi cánh tay vòng quanh cổ, gã bèn nói khéo để cô’ lên ngựa, còn mình đi bộ theo bên cạnh.

Họ cùng lướt đi trên thảo nguyên, Hỏa Lưu Tình tung vó phi, Lương Tiêu dù đi bộ cũng không hề bị rớt lại. Phong Liên đã đuợc Lương Tiêu hớa, mừng không để đâu cho hết, cứ vui vẻ cười nói suốt.

Lương Tiêu không để tâm, chi tiện miệng ư hữ. Gã vốn tự phụ khinh công, nhưng hôm nay thất bại trước Thiên Lang Tử thì không khỏi thất vọng.

Lúc đầu nghe tiếng hú, gã cứ nghĩ tên này không lợi hại gí mấy, ngờ đâu khinh công của hắn lại cao siêu như vậy. Thình lình nghĩ ra một điều, Lương Tiêu tỉnh ngộ ồ lên một tiếng, Phong Liên ngừng chuyện, ngạc nhiên hỏi:

– Sao thế?

Lương Tiêu vỗ vỗ trán:

– Ta vừa nghĩ đến một việc khả nghi.

Chợt gã ngẩng đầu nhìn lên, sắc mặt thay đổi, nhấc chân phóng vù vù. Giữa các thân cỏ dài là một xác người áo đỏ, chính là Chu Tước, chỉ khác là thi thể vẫn còn nguyên vẹn.

Lương Tiêu cúi xuống xem xét thật kỹ, trán cau lại lạnh lùng, sau cùng gã đứng lên. Phong Liên nhảy xuống ngựa, đến bên gã, chưa kịp nói gì thì nghe thấy tiếng vó ngựa rộ lên.

Phía nam có chừng bốn mươi kỵ mã lao đến, người dẫn đầu là một nữ lang óng ả, mặc áo trắng bằng đoạn có thểu những bông hoa lớn bảy sắc hất ra những tia sáng màu, trông vô cùng diễm lệ thanh cao. Con tuấn mã của cô phi nhanh lạ lùng, chỉ cất vó hạ vó vài nhịp là đâ đến gần họ.

Trông thấy xác Chu Tước, cô ta biến sắc, vụt khép ngón tay như kiếm đâm thẳng vào ngực Lương Tiêu. Lương Tiêu hơi bất ngờ, phản ứng tức thời là giật lui hơn một trượng. Chỉ phong đâm trượt xuống đắt, nền cỏ như bị một cây gậy vô hình xọc vào, liền tụt xuống thành một cái lỗ nhỏ đen ngòm, đủ biết sâu đến mức nào. Phong Liên thấy chi pháp cổ quái như vậy, tức giận hỏi:

– Tại sao ngươỉ lại đánh người ta?

Nữ lang áo màu không thèm để ý đến, trợn mắt trừng trừng nhìn Lương Tiêu, mặt trắng bệch như vôi.

Lúc đó một nữ tử áo xanh cũng phóng ngựa tới nơỉ, gọi to:

– Thái Phưạng tỷ tỷ, sao thế?

Thiếu nữ áo màu run giọng:

– Thanh Loan, muội… nhìn Chu Tước mà xem!

Nữ tử áo xanh nhảy xuống ngựa, sờ vào da Chu Tước. Mặt tái nhợt, cô lật tay xé áo sau lưng hắn, chi thấy trên da có dấu năm ngón tay xanh lè thì thất thanh kêu lên:

– Thiên Lang công

Thái Phượng trừng trừng nhìn Lương Tiêu, sắc mặt vừa thảm não vừa căm hận, cô hằn học thốt:

– Ngươi giết Chu Tước phải không?

Lương Tiêu chưa kịp đáp, Phong Liên đã cướp lời:

– Ngươi đừng nghi oan người tốt, khi chúng ta đến thi tên đạo tặc xấu xa đáng banh da xé thịt này đã chết mất ngáp rồi!

Các thế hệ người Tinh Tuyệt đều coi bọn đạo tặc là kẻ thù, Phong Liên cố nhiên cũng ghét bọn cướp đường thổ phỉ; trong cơn thịnh nộ, cô không cân nhắc lũi lẽ nên xuất ngôn có phần xúc phạm. Thái Phượng giận quá, khoát mạnh tay, bọn kỵ sĩ đều xuống ngựa, giương nỏ lên, chĩa vào hai người.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 81: Cố Nhân Tương Phùng (1)

Lương Tiêu nhìn các cánh nỏ, nhận ra là loại Bát tý thần nỏ ( tám cánh tay), tốc độ bắn rất cao, và xuất lực mạnh như có bốn người cùng dồn hai tay điều khiển. Không trùng trình lấy một thoáng, gã vụt lao người đạp cô trượt đến gần Thái Phượng, khum tay thành trảo nhẹ nhàng chộp xuống. Thái Phượng vừa cảm thấy bên vai tê dại, chưa kịp phản ứng thì đã bị Lương Tiêu khống chế rồi. Vừa di chuyển vừa cầm giữ, ngần ấy động tác chi diễn ra trong nháy mắt, bọn kỵ sĩ đều đã kéo căng nỏ nhưng không kịp buông lẫy, thấy thế cùng đứng ngẩn ra, cặp mắt trợn trừng, tay vẫn giữ nguyên tư thế lên tên.

Lương Tiêu ôn tồn bảo:

– Các vị khoan nóng nảy, để ta phân trần một đôi lời.

Thái Phượng vừa xấu hổ vừa căm giận, thét lên lanh lảnh:

– Còn lâu chúng ta mới nghe ngươi lải nhải. Mọi người cứ bắn đi, khỏi phải để ý đến sự sống chết của ta.

Thanh Loan đâm khó xử:

– Tỷ tỷ, làm thế sao được?

Mặt Thái Phượng hầm hầm:

– Muội không nghe lời ta ư?

Lương Tiêu nhếch mép, đưa mắt đi chỗ khác, bất đồ gã dừng ánh nhìn ở mé sau bọn kỵ sĩ kinh ngạc hỏi:

– A Mạc lão bá, tại sao lão bá lại ở đây? Những người khác đâu?

Phong Liên trông theo hướng mắt gã, nhận ra A Mạc đang đứng dựa vào một con ngựa đen, vẻ mặt suy sụp, tay quấn băng trắng, máu loang lổ gần hết người. A Mạc thở dài ảo não:

– Những người khác ư? Chết rồi, chết cả rồi.

Lương Tiêu biến sắc:

– Lão bá nói gí cơ?

A Mạc nặng nề kể:

– Ngươi vừa đi thì bầy sói ập đến, may nhờ hai cô nương đây cứu viện, bằng không ta đã nằm gọn trong bụng giống súc sinh ấy rồi.

Lương Tiêu choáng người, có cái gì đó nổ bùng trong đầu gã, khuôn mặt với nụ cười non tơ của Lô Bối A bông bềnh trước mắt, và giọng nói trong trẻo của cậu vẫn như lần quất bên tai: “Tôi… cần kiếm tiền… để cưới Tô Phi Á. Gia đình nàng rất giàu có, nếu tôi cứ mãi khổ rách áo ôm thì đừng mong rắp ranh bắn sẻ… “, “Ở nhà muốn phát tài khó lắm… “. Lương Tiêu siết chặt nắm đấm, móng tay nhọn xuyên cả vào thịt. A Mạc chợt lẩm bẩm:

– Cũng lạ, ban nãy ngươi đi cùng Chu Tước, vì sao hắn chết mà ngươi vẫn sống?

Toán kỵ sĩ nghe vậy, muôn ánh nhìn căm phẫn lập tức đổ dồn vào Lương Tiêu. Nhưng gã vốn tính cao ngạo, bị hiểu lầm cũng chẳng buồn đính chính, chỉ cau mày bảo Phong Liên:

– Cô cưỡi ngựa đi trước đi.

Phong Liên lắc đầu:

– ông đã hứa sẽ không bỏ mặc tôi một mình mà.

Lương Tiêu không biết làm thế nào khác, đành lướt mắt đánh giá thật nhanh địch thủ, tự nhủ chiến thắng không khó, nhưng động thủ chẳng may gây thương vong thì tự nhiên lại gây thù kết oán với bọn họ.

Gã đương phân vân, bỗng có tiếng còi từ phía bắc vọng lại. Ba tiếng dừng một nhịp, nghe lảnh lót vang vọng hệt như tiếng phượng hót trên chín tầng trời. Thanh Loan thốt lên:

– Thủ lĩnh đấy! – đoạn tháo chiếc còi sắt bên thắt lưng, thôi đáp lại.

Lương Tiêu chột dạ: “Thủ lĩnh Thiên Sơn Thập nhị cầm giao đấu ngang ngửa với Thiên Lang Tử, chắc cũng là một tay kiệt hiệt, không ngờ ở vùng biên cương phía tây này lại có nhiều cao thủ đến thế“.

Tiếng vó ngựa rộ lên như sấm ở hướng bắc, rồi một tốp nhàn mã ước chừng trăm người phi đến. Lương Tiêu ngước mắt nhìn, mỏi bỗng run run, bàn tay nắm Thái Phượng tự nhiên lỏng ra. Thái Phượng không bỏ qua cơ hội, run mình thoát luôn khỏi vòng kiềm tỏa của gã, đoạn vặn hông xoay lại phóng liên tiếp sáu chỉ vào các đại huyệt trên ngực Lương Tiêu. Phong Liên đứng bên trông thấy mà tái mặt, vừa quát vang vừa vung rồi ngựa quất mạnh vào đầu Thái Phượng.

Thái Phượng sợ Lương Tiêu túng thế làm liều nên không dám nấn ná lâu, vội hụp đầu né rồi, lùi ngược ra xa mấy trượng, lạnh lùng bảo Lương Tiêu:

– Ngươi trúng sáu đường Thoa la chỉ của ta, chết chắc rồi..(Thoa la chỉ:môn chỉ pháp có chiêu thức đan cài như thoi đưa)!

Phong Liên hạ rồi ngựa, túm chặt lấy bàn tay Lương Tiêu, cuống quýt kêu:

– Ông…

Lương Tiêu xua xua tay, phất tay áo quét qua ngực, vải rách bung là tả, chỗ ngực áo hiện ra sáu nốt tròn to cỡ đầu ngón tay, Lương Tiêu mỉm cười:

– Quảng Hàn tịch mịch, thoi lướt ngón tay. Ngươi còn ít tuổi mà đã luyện Thoa la chỉ được đến trình độ này, kể cũng thực hiếm có.

Giọng gã trầm thấp nhưng làn hơi sưng mãn, từng câu từng chữ đều rõ ràng. Mặt Thái Phượng trắng bợt như ngâm nước, cô bắt đầu luyện Thoa la chỉ từ năm mười lăm, thiên tư rất cao nên thành tựu không nhỏ, bây giờ chỉ búng một ngón tay cũng đủ khiến nước trong cốc đông lại thành băng, nào ngờ Lương Tiêu trúng liền sáu chi mà vân không hề hấn gì, cô không nén được nỗi khiếp đảm, bèn quát:

– Bắn!

Dây nỏ bật lách tách, tên vun vút bay ra. Lương Tiêu túm Phong Liên lùi nhanh lại sau rồi giằng lấy rồi ngựa của cô, đầy Oa toàn kình chạy suốt thân rồi, vung lên vạch mạnh một vòng tròn trước mặt mình, ngọn rồi mềm xé gió, kéo theo âm thanh l ùng như sấm nổ, màn tên vừa chạm vào vùng kình của ngọn rồi đã cụt hết phần mũi nhọn, rụng lả tả.

Lương Tiêu đầy đưa ngọn rồi trong tay, chân lướt nhanh như gió, bọn xạ thủ chưa bắn hết nửa ống tên mà gã đã lùi xa đến hơn trăm bộ, dù vậy vẫn chưa hết nguy hiểm. Vô cùng bực bội trước lối hành xử tàn độc của thiếu nữ áo màu nọ, Lương Tiêu bèn đánh rồi cuốn lấy một trong các mũi tên rồi lăng tay ra, mũi tên lao đi như tia chớp, tốc độ còn khủng khiếp hơn so với khi nó rời dây nỏ. Lúc Thái Phượng cảm nhận được kình phong quạt lên mặt mình cũng là lúc mũi tên đã lao tới trước mắt, cô kinh sợ nhắm nghiền mắt đợi chết, không ngờ mũi tên bay đến gần má thì đổi hướng phóng chệch đi, bật tuốt lên cao cùng một tiếng “vút“.

Cùng lúc, tiếng móng sắt khua vang, một con ngựa trắng phi thốc tới, bốn vó chôm lên không trung. Kỵ sĩ khoát tay áo lục cuốn lấy mũi tên, bạch mã đáp ngay xuống đất, vươn mình nhảy phốc một nhịp là đã tới sát mặt mọi người. Tất cả đều phấn chấn tinh thần, đồng thanh reo:

– Thủ lĩnh!

Phong Liên nhìn qua vai Lương Tiêu, thấy vị thủ lĩnh nọ vận áo bó màu xanh lục, áo choàng ngoài đồng màu, đầu đội một chiếc nón liễu xanh mướt, những nhánh liễu mảnh mềm chìa lòa xòa xuống quanh vành, che lấp mất dung nhan, Phong Liên ngạc nhiên vô cùng: “Lẽ nào vị thủ lĩnh uy danh chấn động nam bắc Thiên Sơn lại là một nữ tử?“. Cô him mắt nhìn kỹ. Dáng vóc người nọ rất nuột nà óng chuốt, không một nét nào có thể khiến người ta ngờ là nam nhân. Cô ngắm nàng ta, tim bỗng đập nhanh hẳn: “Một cô gái chân yếu tay mềm mà tung hoành đại mạc, hô hào tập hợp được bao nhiêu cao thủ. Trên đời có bao nhiêu đàn bà con gái, nhưng ai sánh được người này đây? Ngựa của cô ta cũng thật dũng mãnh đẹp đẽ, xem chừng không kém gì A Hốt Luân Nhĩ“. Hỏa Lưu Tinh bỗng hí lên nho nhỏ, luân phiên giậm gõ hai vó trước vẻ nôn nóng. Phong Liên không hiểu duyên cớ vì đâu, bèn nhẹ nhàng vuốt bờm ngựa, khẽ khàng vỗ về, nhưng Hỏa Lưu Tinh vẫn bổn chôn không yên, các múi thịt của nó căng cứng, chừng như sắp sửa lao vút ra.

Thái Phượng mở mắt, bước tới trước đầu ngựa trắng mà vẫn chưa nguôi bàng hoàng, run run nói:

– Thái Phượng yết kiến thủ lĩnh.

Nữ lang áo lục hừ mũi:

– Thường ngày ngươi oai phong lắm cơ mà. Lẽ nào chi vì một mũi tên nhỏ nhoi mà sợ đến nỗi phượng hóa thành gả?

Nàng phất tay áo xanh lục, mũi tên cắm lút xuống, chỉ còn lại một lỗ nhỏ trên mặt đất. Phong Liên ngó thấy, càng thêm kinh hãi.

Thái Phượng hổ thẹn đỏ bừng mặt, không dám ngẩng đầu lên, Nữ lang áo lục nói:

– Ta bảo ngươi truy tìm đàn sói, tại sao ngươi lại vô lối đi ẩu đả với người ta?

Thái Phượng hất mặt về phía Lương Tiêu, nghiến răng trèo trẹo:

– Thái Phượng không vô lối. Hắn là đồng đảng của Thiên Lang Tử, hắn đã giết Chu Tước.

Nữ lang áo lục đưa mắt nhìn Lương Tiêu, lắc đầu:

– Không thể nào là hắn được.

Thái Phượng nóng nảy cãi:

– Tại sao không phải? Hắn đi cùng Chu Tước, Chu Tước chết mà hắn vẫn còn sống, chắc chắn có gì khúc mắc ở đây.

Thanh Loan tiếp lời:

– Thanh Loan đã kiểm tra, Chu Tước trúng chưởng vào lưng, rõ ràng là bị đánh lén từ phía sau.

Nữ lang áo lục ậm ư, rồi điềm đạm nói:

– Ngươi thuật lại chi tiết mọi việc cho ta nghe.

Thanh Loan bèn gọi A Mạc. Lão già kể hết khúc nhôi, ngang đường gặp Tam cầm thế nào, Thúy Điều Ồ Nha truy đuổi Thiên Lang Tử ra sao, – lão lại nhấn mạnh rằng Chu Tước đang hộ tống bọn khách thương, tự nhiên nghe thấy tiếng sói tru bèn phóng nhanh lên trước, rõ ràng là Lương Tiêu có giục ngựa bám sát, cứ thế nhất nhất kể ra.

Nữ lang áo lục im lặng, nhành liễu lòa xòa che lấp khuôn mặt, không ai rõ thái độ nàng ra sao, chỉ bờ vai run nhẹ cho thấy tâm trạng nàng đang kích động, một lúc lâu sau nàng mới chậm rãi thốt:

– Trong một ngày ta mất ba hảo thủ, xem ra quân nghiệt súc ấy chuẩn bị kỹ càng lắm rồi mới đến. E rằng hắn không hành động một mình mà còn kéo theo nhiều trợ thủ lợi hại khác.

Thái Phượng nói hớt:

– Thủ lĩnh thật sáng suốt, trợ thủ chính là tên áo xám kia. Cái đồ nổi giáo cho giặc, quá bỉ ổi, đáng căm giận…

Nữ lang áo lục lạnh lùng cắt ngang:

– Phượng nhi, ta biết ngươi và Chu Tước ý hợp tâm đầu, hắn mất mạng, ngươi nóng lòng báo thù là lẽ dĩ nhiên. Ngặt nỗi… người này không thể nào tà hung thủ được.

Thái Phượng thẹn đỏ mặt, vẫn cố cãi:

– Thủ lĩnh căn cứ vào đâu mà quả quyết thế?

Nữ lang áo lục không nói nữa, giật ngựa trở lại đường củ, đám thuộc hạ không còn cách nào khác, đành ẵm thi thể Chu Tước, lần lượt lên ngựa.

Thái Phượng vừa giận vừa đau lòng, vẫn đứng tần ngần. Lương Tiêu bỗng bưởc lên, do dự cất tiếng gọi:

– Oanh Oanh!

Giọng gã không vang to, nhưng cũng đủ làm nữ lang áo lục run bắn. Nàng ghìm ngựa, thở nhẹ như gió thoảng:

– Ngươi… vẫn còn nhớ ra ta?

Lương Tiêu nghẹn ngào đáp:

– Cô nên biết… đến chết ta cũng không quên được…

Nữ lang áo lục chính là Liễu Oanh Oanh. Mười năm trước, sau khi bỏ đi trong cơn tuyệt vọng, nàng một thân một mình trở về Thiên Sơn. Bấy giờ các phiên vương Mông cổ đang giao chiến kịch liệt, lại thêm nạn đạo chích hoành hành, khiến đời sống dân lành trở nên bấp bênh đói khổ, dân du mục bị đày đọa tàn tệ. Liễu Oanh Oanh căm phẫn vô cùng, bèn thu nhận rất nhiều cô nhi, truyền thụ võ nghệ cho chúng, lại tuyển ra mười hai người xuất sắc nhất lập thành Thiên Sơn Thập nhị cầm, chuyên chống phá bọn quan quân, dẹp yên đạo tặc. Nhờ bản lĩnh cao cường, đầu óc nhanh nhạy, nàng lần lượt dẹp yên mấy chục nhóm thổ phỉ hung ác, đánh bại Thiên Lang Tử, trục xuất chúng khỏi Thiên Sơn, thi thoảng còn đánh cướp đội buôn của các vương công Mông cổ. Trong vòng mười năm nay, nàng đã gây ra nhiều sự kiện kinh thiên động địa. Đại quân Mông cổ đã tổ chức bao vây tróc nã mấy lạn, nhưng chẳng tóm được đến chéo áo của nàng, bèn phóng hỏa cướp bóc chém giết các làng mạc rồi phao tin đổ vậy cho Thiên Sơn Thập nhị cầm. Của đáng tội, trong Thiên Sơn Thập nhị cầm cũng có vài người không được đằm tính, càng thắng lợỉ càng ngạo mạn hống hách, gây thêm nhiều dư luận không hay, trái với mong ước ban đầu của Liễu Oanh Oanh. Gần đây, nghe nói Thiên Lang Tử kéo quân trở lại, Oanh Oanh bèn dẫn thuộc hạ ra đương cự, nào ngờ lại gặp Lương Tiêu.

Hai người cách biệt đã hơn mười năm mà trước sau vẫn nặng tình. Bốn mắt nhìn nhau, lòng xốn xang như sóng trào dâng, không sao trấn tính ngay được. Mọi cặp mắt dồn cả vào họ, ai cũng lộ vẻ kinh ngạc. Phong Liên quan sát hai người, tâm trạng hoang mang thảng thốt. Nín lặng hồi lâu, Lương Tiêu mới tìm lại được tiếng nói:

– Mấy năm nay, cô vẫn ổn chứ?

Liễu Oanh Oanh quay mặt đi, thong thả nói:

– Lương Tiêu, đa tạ ngươi đã không đả thương Phượng nhi.

Phong Liên đăm đăm nhìn Lương Tiêu: “Thì ra chàng tên là Lương Tiêu. Cái tên Tây Côn Luân là bịa ra để lừa người ta!“. Không hiểu vì sao, một nỗi chua xót nặng nề trùm lên trái tim cô: “Vì sao người kia biết tên thật của Tây Côn Luân? Chàng chưa bao giờ nói cho ta cả..

Lương Tiêu ngập ngừng:

– Oanh Oanh…

Không đợi gã nói hết, Liễu Oanh Oanh đã quất rồi ngựa, giọng nhạt nhẽo:

– Nếu ngươi đủ sáng suốt, đừng nên nhùng nhằng dây dưa nữa. Hay gặp chẳng bằng ít gặp, ít gặp chẳng bằng không gặp, hôm nay tình cờ chạm mặt, thôi thì giã biệt ở đây…

Chưa dứt lời, giọng đã khàn đặc, Liễu Oanh Oanh vẫy rồi thúc ngựa, dẫn thuộc hạ lao vút đi.

Lương Tiêu trông theo hút bóng, nhất thời không biết nên giữ nàng lại hay thôi, chợt Hỏa Lưu lình hí lên lông lộng, điên cuồng giậm vó lao theo hướng Liễu Oanh Oanh, Phong Liên vội vàng níu lấy cổ nó, tung mình lên yên, ngạc nhiên hỏi:

– A Hốt Luân Nhĩ, ngươi định đi đâu?

Hỏa Lưu Tinh cứ mải miết phi nước đại, gió táp ngược, quét vù vù qua hai bên tai và cứa mạnh vào mặt cô chủ. Lương Tiêu kinh ngạc quá, vội vàng thi triển khinh công đuổi theo.

Chỉ lát sau, Hỏa Lưu Tinh đã bắt kịp bọn Liễu Oanh Oanh. Thái Phượng đang giận đầy một bụng, thấy phong Liên phóng tới liền quát:

– Ngươi bám đuôi chúng ta làm gì? – rồi vớ một thanh xà mâu trở đầu đâm ngược lại.

Phong Liên hoảng hôn, nhưng không ghìm được ngựa, đành giơ cánh tay phải lên gắng che chắn phần mặt. Cùng lúc qua khóe mắt, cô nhác thấy một cái bóng xám lướt qua bên mình. Lương Tiêu đuổi tới nơi, vung tay nắm cán mâu tuốt mạnh khiến Thái Phượng rụng rời, hổ khầu tướp máu, trường mâư nhảy bật lên đến mấy trượng. Lương Tiêu mắng:

– Nha đầu khốn kiếp, tại sao ngươi ra tay tàn độc như vậy?

Gã túm lấy Thái Phượng lôi xuống ngựa, tăng lên cao như thể sắp quăng đi xa. Thái Phượng sợ hết hồn, la choe chóe.

Thấy thuộc hạ bị bẽ mặt, Liễu Oanh Oanh bèn giật ngựa quay lại, thét bảo:

– Lương Tiêu, ngươi làm gì thế?

Thái Phượng đang kinh khiếp, nghe tiếng Oanh Oanh thì như chết đuối vớ được cọc, liền khóc òa lên. Lương Tiêu thừ người, thở dài thả cô ta xuống. Liễu Oanh Oanh ngó Phong Liên, tự nhiên sinh nghi: “Tại sao Phượng nhi đám ả kia mà Lương Tiêu lại nổi giận đến thế, hai người có quan hệ gì?“. Đúng lúc đó, Yên Chi bỗng nhiên chôm lên hí dài, tiếng hí lanh lảnh như đá vỡ vàng tan, Hỏa Lưu Tinh cũng đã phóng đến nơi, tung vó vẫy đuôi, hí vang đáp lời.

Lương Tiêu sực vỡ lẽ:

– Gớm quá, thì ra chúng muốn phân tài cao hạ!

Liễu Oanh Oanh cũng hiểu ra, tự nhủ: “Con ngựa đỏ này không phải hạng tầm thường, chắc sẽ là địch thủ xứng đáng của Yên Chi“. Nhưng đang ấm ức trong lòng, nàng bèn ra mặt lạnh lùng, ghìm Yên Chi lại:

– Cao hạ cái gì? Ả là ả, ta là ta, ngựa của à và ngựa của ta có liên quan gì đến nhau?

Như bị hất nước lạnh vào mặt, Lương Tiêu đâm cụt hứng, liền đặt tay lên cổ Hỏa Lưu Tinh ấn nó xuống, con ngựa không địch nổi thần lực của gã, gắng gồng bốn vó vẫn không đủ đã bật lên, khổ nỗi đã động dã tính, chỉ muốn quyết đấu một trận với Yên Chỉ, nó cứ cuồng loạn vẫy vùng đến nỗi bọt trắng sùi đầy mép. Lương Tiêu đâm ra thương hại, đành vuốt ve lông bờm nó, vỗ về:

– Mã nhi đừng giận, người ta không muốn thi chạy với ngươi, tội gì khăng khăng hứng chịu thái độ cứt nát có chóp ấy?

Liễu Oanh Oanh đang sửng sốt vì thấy Lương Tiêu chỉ dùng một tay mà kiềm chế được con ngựa mạnh mẽ nhường kia, tự nhiên nghe lọt tai câu nói tục tĩu, nàng phát tức, bèn mắng:

– Ngươi ăn nói cho sạch sẽ một chút đi!

Đám thuộc hạ cũng sa sả thóa mạ.

Lương Tiêu buột miệng xong, tự biết mình hơi bất nhã, mặt đỏ bừng lên. Liễu Oanh Oanh ngó bộ dạng lúng túng của gã, kỷ niệm một trời tuổi hoa với những tháng ngày lang bạt bên nhau, với những lần đấu khẩu suồng sã thân mặt bỗng ùa về trong trí. Một chút gì đó như mặt ngọt bất giác rịn lên trong lòng khiến nàng ngờ ngẩn, ngẫm nghĩ chốc lát, nàng quay sang ngăn trận rủa xả của đám thuộc hạ:

– Chúng ta còn có việc phải làm, đừng rỗi hơi tranh cãi với gã đó, – rồi không nhìn Lương Tiêu nữa, nàng quất ngựa định đi.

Lương Tiêu vô thức buông tay, Hỏa Lưu Tinh lại chạy lông lên, phi song song bên cạnh Yên Chi, thi thoảng còn cọ cọ vào mình nó như khiêu chiến. Phong Liên gắng hết sức cũng không sao điều khiển nổi. Yên Chi được thuần hóa đã lâu nên rất biết nghe lời chủ nhân, chưa có hiệu lệnh của Liễu Oanh Oanh, các vàng nó cũng không dám nhận left thách đấu, chỉ gắng sức né tránh mọi động chạm. Bọn thuộc hạ trông thấy mà tức sôi máu, lại mắng chửi tàn tệ thêm một chặp nữa, ngặt nỗi kiêng nể võ công của Lương Tiêu nên dẫu muốn cho hai kẻ lạ mặt ấy một bài học, họ cũng không dám động thủ.

Liễu Oanh Oanh bị Hỏa Lưu Tinh quấy rầy, bực quá phải lên tiếng:



– Này Lương Tiêu, ngươi bảo ban ngựa nghẽo cho tử tế một chút đi.

Lương Tiêu cười nhạt:

– Cô là cô, ta là ta, ngựa của ta có liên quan gì đến cô?

Liễu Oanh Oanh sững lại, bỗng run run nói:

– Phải lắm, ngươi và ta vốn chẳng có quan hệ gì mà.

Lương Tiêu ấm ức suốt từ nãy, mãi mới có dịp trút giận nên cứ tuôn thẳng thừng, chằng cân nhắc câu chữ, nghe giọng nàng khang khác lại thấy hối hận, thở dài bảo:

– Oanh Oanh, ta…

Liễu Oanh Oanh không đợi nghe, thúc ngựa chạy thẳng. Hỏa Lưu Tinh cất cao vó, bướng bỉnh theo sát. Bọn Thái Phượng bí mật bàn nhau: “Chúng ta tế ngựa thật nhanh cho tên râu ria xồm xoàm kia hít bụi”, Họ hè nhau đánh ngựa phi nước đại, phóng một thôi một hồi, ngó lại thấy Lương Tiêu chi cách một trượng, ai nấy đều phát hoảng: “Kẻ này rốt cục tà người hay là ma mà cước lực khủng khiếp đến thế?“.

Chạy thêm một quãng nữa, Liễu Oanh Oanh cho ngựa phi chậm lại. Nhửng người đi theo nàng ở đây, ngoài Thái Phượng còn có Thanh Loan, Hoàng Ly, đều là nữ lưu của Thập nhị cầm, giống hệt nhau ở chỗ tính tình nhỏ mọn hẹp hỏi, miệng lưỡi đáo để chua ngoa. Mặc dù Oanh Oanh không ra lệnh, họ vẫn liên tục buông lời châm chích nhục mạ Lương Tiêu, lúc chê bộ râu quai nón rậm rịt, lúc chê vết sẹo gớm ghiếc trên mặt gã. Lương Tiêu cứ thản nhiên như không, nhưng Phong Liên thấy ngứa tai gai mắt quá mức, bèn cãi cọ trả miếng. Chỉ hiềm đối phương đông hơn, lại toàn hạng đanh đá, dẫu cô có dồn hết hơi hết sức cũng khó lòng cãi át được, uất đến nỗi rơm rớm nước mắt, cô ngoảnh mặt đi chỗ khác, đúng lúc bắt gặp dáng điệu trầm tư của Liễu Oanh Oanh. Nàng đang cúi đầu, nhánh liễu che khuất khuôn mặt, không rõ lòng đang nghĩ gì, Quá trưa, mọi người dừng ngựa nghỉ ngơi. Bọn Thái Phượng nổi lửa nhóm bếp, nấu nướng cơm canh. Phong Liên cũng lấy thịt khô, dùng dao thái lát, kẹp vào bánh mì đưa cho Lương Tiêu. Gã nhận lấy, cắn một miếng nhai trệu trạo, bất giác ngước lên nhìn Oanh Oanh thì chạm ngay phải hai luồng mắt lạnh như băng bắn ra dưới đám nhánh liễu. Lương Tiêu nghĩ bụng: “Ta có lỗi với nàng, nàng có hận ta cũng là đáng thôi”, đoạn thở dài, cúi xuống cặm cụi ăn. Đúng lúc ấy có tiếng bước chân, Liễu Oanh Oanh đã bước lại gần, mắt vẫn lạnh như nước đá. Lương Tiêu đứng dậy:

– Oanh Oanh…

Liễu Oanh Oanh lẳng lặng gỡ bị gấm đeo sau lưng, lấy ra một cái nón liễu đã khô quắt, xát giữa hai tay, cái nón liền nát như cám, vụn rơi lả tả. Lương Tiêu máy môi, nhưng không thốt được lời nào. Liễu Oanh Oanh xoay gót bước về chỗ củ, ngồi xuống xếp bằng, Lương Tiêu trân trân nhìn đống vụn khô trên mặt đất một lúc rồi ủ rũ ngồi trở lại. Phong Liên hé miệng ngập ngừng, tựa hồ định nói gì đó, nhưng cuối cùng lại thôi.

Ruột rối như tơ vò, Lương Tiêu ngẩng đầu nhìn trời, bỗng thấy phía đông bắc có mười mấy con chim sẻ bay tới. Gã thông hiểu binh pháp, rất giỏi đoán hiểu tình hình nhờ nhận hơi gió nghe động cỏ, trông bầy sẻ đập cánh hỗn loạn, liền giật mình thốt:

– Phía đông bắc có sát khí!

Liễu Oanh Oanh hừ một tiếng. Thái Phượng cười nhạt:

– Nói như thánh phán vậy! Ai tin được ngươi…

Phần cuối câu nói bị át đi bởi tiếng còi rít chói tai ở mé đông bắc, đồng thời, một ngọn hỏa tiễn bắn vọt lên nền trời, nổ tạch tạch, tỏa thành muôn vàn đốm lửa vàng cam. Liễu Oanh Oanh đứng bật dậy:

– Hắc Ưng cầu viện!

Đoạn nàng phi thân lên lưng ngựa, phóng vun vút về hướng hòa tiễn, áo bay lật phật như áng mây màu lục. Đọn thuộc hạ cùng liếc Lương Tiêu với ánh mắt kinh hãi rõ rệt rồi nhốn nháo lên ngựa phóng theo Liễu Oanh Oanh.

Lương Tiêu dợm bước, Phong Liên bèn hỏi:

– Ông định đi đâu?

– Họ gặp cường địch, ta không tương trợ sao được.

Phong Liên lặng đi chốc lát, đoạn nói rất khẽ:

– Cô… cô ta là người trong trái tim ông, phải không?

Tư lự một thoáng, Lương Tiêu thở dài:

– Đã từng.

Đáp lại câu trả lời ấy là một bầu không khí tịch mịch đến nỗi gã phải ngoái lại nhìn. Phong Liên đang lặng lẽ khóc, hai mắt mờ nước, má ướt đầm đìa, Lương TiỂu thấy tim mình chùng xuống, gã những muốn an ủi đôi câu, nhưng không biết nên nói sao cho phải. Chợt Phong Liên lật đật lùi lại, nhảy lên yên, bưng tay che khuôn mặt trắng bệch, thúc ngựa chạy ra hướng tây. Lương Tiêu nhìn theo, nghĩ ngợi một Lúc rồi thở dài, thi triển khinh công lao về hướng đông bắc.

Một lát sau, bóng Liễu Oanh Oanh và đám thuộc hạ đã rõ dần phía trước, Lương Tiêu theo họ lên một ngọn đôi thấp. Thảo nguyên bên dưới nhưng nhúc đầu sói, dễ phải tới một ngàn con, tạo thành nhứng đốm vàng đốm xám chen nhau, những tiếng tru, rú, gầm, gào vang lên đập dồn càng làm tăng thêm cảm giác hãi hùng. Co cụm giữa trận sói có chừng bốn mươi con người, ngựa cưỡi của họ bị cắn gần hết, vì vậy lần lượt từng người phải bỏ ngựa để đánh bộ, trong số đó có một hắn tử áo đen sử dụng cặp đao hình mỏ ưng, hễ ánh đao lóe sáng là đầu sói lăn lông lốc. Lương Tiêu nghĩ thầm: “Kiêu dũng lắm, chắc đây là Hắc Ưng!“.

Thấy Lương Tiêu cũng theo tới, Liễu Oanh Oanh cau mày, nhưng nghĩ tình thế đang nguy cấp, không rảnh rỗi để cự nự, nàng lại hướng ánh mắt ra chiến trường. Lương Tiêu quan sát một lúc, nhận ra trận sói kết hợp bởi hai khối đông tây, bèn nói:

– Trận thế này tiện bề tiến lui, lợi cả đôi đường công thủ, nhất định là có người âm thầm điều khiển.

A Mạc ngạc nhiên:

* Vì sao không thấy người đâu?

Lương Tiêu nói:

– Cố nhiên hắn phải ẩn thân. Có hai cách ẩn, một là trà trộn vào đám người kia, kín đáo chỉ huy…

Ai nghe cũng tức. Thái Phượng thét:

– Ngươi bảo sao? Lẽ nào Hắc Ưng là tay sai của Thiên Lang Tử?

Lương Tiêu nhíu mày, chưa kịp giải thích, Liễu Oanh Oanh đã hô:

– Xuống ngựa, lên nỏ.

Đám thuộc hạ răm rắp tuân lệnh, ai nấy rời ngựá xuống chân đôi, lấy Bát tý thần nỗ ra, quay lưng vào triền dốc, hướng mũi tên ra trận. Liễu Oanh Oanh phất rồi, tền bắn rào rào, mười con sói xếp hàng đầu lập tức mất mạng sau khi rú lên một tràng thảm thiết. Đàn sói rục rịch di chuyển, cả đám tản ra thật rộng, kết thành các nhóm nhỏ hơn, chạy xa khỏi tầm tên bắn. Liễu Oanh Oanh định hô thuộc hạ lên ngựa truy đuổi, nhưng đàn sói sau khi lùi ra xa lại hợp thành hai khối, vòng rộng về theo hai cánh trái phải, hệt như hai nhánh sông tuôn về mé sau tạo thế bao vây luôn cả nhóm Liễu Oanh Oanh. Những cánh nỏ chưa kịp giơ lên, đàn sói đã khép chặt vòng vây, nhảy xổ vào bọn họ. Liễu Oanh Oanh vội hạ lệnh cho mọi người xếp thành trận tròn, nhưng mủi tấn công của đàn sói liên tục thay đổi, khiến họ rất khó đoán định hướng ứng phó. Tên bay rào rào, song trượt gần hết, chỉ thoáng chốc các hộp tên đã với đi, đàn sói nhất tề rống lên, rùng rùng lao đến như sấm sét. Bọn Liễu Oanh Oanh thu nỏ lại, tuốt đao ra ứng phó, thảo nguyên rộ lên tiếng người thét chen lẫn sói gào, hai bên lăn xả vào nhau, liều mạng giành giật sinh tử.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Đánh rắn phải đánh dập đầu, không tìm được đầu đàn thì không thể diệt được bầy sói này.

A Mạc bỗng lên tiếng:

– Vậy à? A Mạc rất muốn xem xem Tây Côn Luân bắt đầu đàn thế nào.

Lương Tiêu ngoái lại nhìn. A Mạc đang ôm cánh tay bị thương, vẻ mặt lạnh lùng. Gã bèn cười nói:

– A Mạc lão bá cứ tọa sơn mà xem, ta sẽ ép cái tên Thiên Lang Tử đó phải ra mặt.

Gã sải bước xuống đôi, hai con sói nhảy xổ ngay đến. Lương Tiêu né mình, đoạn phóng song thủ tóm gáy chúng, hai con vật bị nhấc bổng lên không, tứ chi thõng xuống, không cựa quậy gi được nữa. Bấy giờ lại có một con sói vàng sấn đến, Lương Tiêu giơ con sói còn sống bên tay trái ra đón, dùng Hãm không lực hút vào trong, hai con sói đấu đầu đuôi vào nhau, dính chùm lại, giãy giụa thế nào cũng không dứt ra nổi.

Lương Tiêu bước đi như bay, xuyên qua giữa đàn sói, hễ con nào lao đến là gã lại dùng cách củ. Chỉ tát saư mỗi tay gã đã dính được năm con sói, trông như hai chiếc rồi sống, chúng nhe nanh cào vuốt, bộ dạng dữ tợn hung hăng vô cùng. Hệt như được ra lệnh, đàn sói liền dồn sức tấn công Lương Tiêu. Gã mỉm cười: “Được lắm!”, rồi đầy Thao thiên kình vào dây sói, quất vung lên, những tiếng gào rú dội lên liên miên, nơi nào sợì rồi sói đánh qua, nơi ấy hệt như bị sấm sét càn quét, máu thịt văng tung tóe, bất kỳ con sói nào, cũng chỉ cần chạm một răng hay nửa vuốt vào vùng kình phong là lập tức tan thây. Lát sau, quanh Lương Tiêu đã la liệt xác sói, nhiều không đếm xuể.

Lúc này phần lớn bầy sói đã bị Lương Tiêu hút về phía mình. Liễu Oanh Oanh rảnh tay, bèn phát hiệu lệnh cho thuộc hạ lấy tên nỏ ra bắn, lũ sói thương vong càng nhiều. Đột nhiên, một tiếng hú vút lên giữa đàn, bầy sói như được đại xá, cùng cặp đuôi vào hai chân sau, cúi đầu cum cúp chạy hết. Lương Tiêu cười lớn:

– Định chạy ư? Đâu dễ dàng thế được! – rồi rung mạnh dây sói, ném hết trái đến phải về phía vừa phát ra tiếng hú, chỉ chớp mắt, một con sói to tướng trợn mắt nhô lên, vươn móng vuốt ra đánh bạt hết xác sói đi.

Lương Tiêu xẹt đến như tia chớp, phóng trảo xuống đỉnh đầu con sói to. Sau một tiếng “sựt”, trong tay gã xuất hiện một tấm da sói, trên đất còn lại một con người. Hắn lăn lông lốc ra xa hơn một trượng, lật mình đứng dậy, chỉ thấy bộ dạng gù gù lưng tôm, hoàn toàn trần truồng, lông tóc đen kịt bù xù mọc kín cả mặt mũi. Người đó nhìn Lương Tiêu trừng trừng, bất thần rít lên chói tai, lông lá dựng đứng. Liễu Oanh Oanh buột miệng:

– Cẩn thận, đó là Thiên Lang công, lông tóc cũng có sức đả thương đấy…

Lương Tiêu nghe mà như không để vào tai, hai mắt vẫn chăm chăm nhìn lớp da sói trên tay, Liễu Oanh Oanh đâm bực: “Tội vạ gì mà ta phải lo lắng thay? Hắn không tự biết tốt xấu, chết đi càng hay!“. Đúng lúc đó, Lương Tiêu bỗng phá ra cười. Mọi người đều ngạc nhiên, Thái Phượng loa mồm:

– Tên rậm râu, ngươi điên rồi chắc? Một tấm da sói thì có gì buồn cười chứ?

Thiên Lang Tử xem chừng cũng tò mò, bèn hạ thân trên xuống đứng bằng tứ chi, chằm chằm nhìn Lương Tiêu, đôi đồng tử đen nhức đảo lia lịa.

Lương Tiêu cười nói:

– Thiên Lang Tử, ngươi tránh được trảo pháp của ta, kể cũng có bản lĩnh đó. Nhưng nếu hai bên toàn lực giao đấu, ngươi liệu thắng nổi ta không?

Thiên Lang Tử vẫn đảo tròn đồng tử, không nói một lời. Lương Tiêu quắc mắt thét vang:

– Không dám trả lời à? Được lắm, nếu ngươi đỡ nổi ba chưởng của ta, ta sẽ tha mạng cho ngươi, Nghe lối nói ngạo mạn thúc bách, Thiên Lang Tử lộ vẻ giận dứ. Hắn tru lên một tràng, lông lá lại dựng đứng, bộ dạng sẵn sàng lao vào. Lương Tiêu đứng im, hít một hơi thật sâu, há miệng thôi ra. Kình phong thốc vào mặt khiến Thiên Lang Tử ngạt thở, lông tóc toàn thân bỗng ngả rạp về sau, hắn kinh hãi quá độ, chôm chôm nhảy giật lùi, Lương Tiêu quát:

– Đã xong đâu! – đoạn xoay cánh tay, chuẩn bị xuất chưởng.

Chợt Liễu Oanh Oanh lên tiếng:

– Khoan đã!

Lương Tiêu ngưng lại, hỏi:

– Sao thế?

Thiên Lang Tử thừa cơ lùi tuốt ra xa hơn một trượng, chợt cảm thấy da thịt tê tê như bị giật, dẫu vô cùng hung hãn liều lĩnh, hắn cũng phải chột dạ:“Kẻ kia chi thôi một hơi mà khiến ta thành thế này, nếu xuất chưởng thì ta còn toàn mạng không?“. Hắn đảo mắt nhìn quanh; tìm đường đào tẩu.

Liễu Oanh Oanh lạnh lùng nói:

– Hắn giết ba thuộc hạ của ta, món nợ này phải tính trước đã.

– Ý cô muốn xuất thủ chứ gì?

– Ngươi nhường hay không?

Lương Tiêu thừa hiểu tính bướng bỉnh cố hữu ở nàng, biết có khuyên nhủ cũng vô ích, bèn nói:

– Được, vậy cô hãy cẩn thận, – rồi giũ tay áo lùi sang bên quan chiến.

Liễu Oanh Oanh nhận thấy khi nhắc đến hai tiếng “cẩn thận”, mắt gã ánh lên sự lo lắng hoàn toàn không phải là vỡ vĩnh, nàng bỗng thấy xao động, lặng im một lúc rồi thở dài, nén cơn sóng lòng xuống, cao giọng nói:

– Thiên Lang Tử, ngươi và ta đã ác đấu bao nhiêu năm qua, hôm nay giải quyết dứt khoát đi thôi! Ta hẵng hỏi ngươi, ngươi giết Chu Tước phải không?

Thiên Lang Tử nhe hàm răng trắng nhởn, phô ra một cái gì như nụ cười. Liễu Oanh Oanh lạnh lùng buông thõng:

– Ta quên mất, ngươi là giống vật câm, không biết nói tiếng người.

Nàng thong thả tiến bước, nhẹ nhàng vỗ ra sáu chưởng, Lương Tiêu nhận ra Tuyết hoa lục xuất, nhưng có thay đổi so với năm xưa, giữa những lần chuyển chiêu, Liễu Oanh Oanh đã kết hợp thêm Thoa la chỉ vào song chưởng, thành thử chiêu thức kín kẽ chu mặt hơn. Thiên Lang Tử không dám đón đỡ trực diện, bèn co mình chạy sang trái.

Liễu Oanh Oanh thét lên, sử chiêu Băng hà đảo huyền, nhảy vút đi hơn một trượng, chưởng kình nặng như núi chụp xuống Thiên Lang Tử. Thiên Lang Tử hết sức úy kỵ hàn kình trong chưởng thế của nàng, bèn co mình lăn ra xa hơn một trượng. Liễu Oanh Oanh vỗ hụt, liền xoay tít người, áo căng lên đón gió, nàng ung dung phóng ra bảy chi, Thiên Lang Tử không tránh kịp, bỗng trúng một chỉ vào vai, vừa kêu oai oái vừa lật mình nhảy tiếp mấy thước. Lần này chưa dừng chân, hắn đã nhảy lên, chật chưỡng lật thẳng thân trên, vung trảo cào bắt, miệng không ngừng gào thét, thân pháp bỗng tăng nhanh, chỉ tích tắc đã chạy ba vòng nhu chớp xẹt quanh Liễu Oanh Oanh. Đột ngột, “soạt” một tiếng, tay áo xanh mướt của Liễu Oanh Oanh bị hắn vung trảo cào rách, để lộ bắp tay trắng ngần như tuyết, bọn Thái Phượng hãi hùng kêu lên. Thiên Lang Tử thắng được một chiêu, liền hú hàng tràng điếc cả tai để tỏ rõ thanh thế, Lương Tiêu đứng bên ngoài xcm nhận ra lộ quyền pháp của Thiên Lang Tử được đúc rút từ tập tính của sói hoang, hung hãn quái gờ vô cùng. Nhưng so ra, lớp lông tóc trên người hắn mới khó đối phó nhất, mỗi khi Thiên Lang Tử thi triển Thiên Lang công, đám lông tóc lại đựng lên nhọn hoắt như kim, Nội công Lương Tiêu đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, không ngại gì đám lông tóc đó, nhưng Liễu Oanh Oanh vừa tấn công vừa lo né tránh nên có phần yếu thế hơn.

Chiết thêm mấy chiêu, Liễu Oanh Oanh vỗ hữu chưởng quạt rạp lông tóc của Thiên Lang Tử rồi thừa cơ phóng hữu quyền đấm thẳng vào mặt hắn. Thiên Lang Tử ngửa đầu ra sau, há to mồm cắn phập nắm tay nàng. Đám đông lại rộ lên kinh hãi, Hắc ưng vung song đao định nhảy xổ tới, chợt Thiên Lang Tử hự một tiếng đau đớn, loạng choạng giật lui mấy bước, miệng trào đầy máu, mắt rành rành nét sửng sốt. Hắn ngoạc mồm nhổ ra một nắm đá vụn, trong đó lẫn cả ba cái răng gãy nhuốm máu. Mọi người ngẩn ra, bất giác cùng phá lên cười lớn.

Thì ra nhân lúc cúi xuống, Liễu Oanh Oanh lén nhặt một mẩu đá thuôn thuôn giấu gọn trong lòng bàn tay, dụ Thiên Lang Tử há mồm táp rồi nhét luôn mẩu đá vào giữa hai hàm răng hắn. Nàng vốn lẹ chân lẹ tay, hành động rất khéo và kín đáo, Thiên Lang Tử không kịp đề phòng, quả nhiên hố một võ to, gãy răng chảy máư. Lương Tiêu bật cười:

– Chiêu bẻ gãy răng sói đó hay đấy, chắc chiêu tiếp theo là đâm mù mắt sói phải không?

Liễu Oanh Oanh ra chiêu trúng đích xong là lướt ngay về sau, ung dung dừng lại, nghe thấy câu đó liền cười nhạt:

– Lanh cha lanh chanh, chỉ giỏi nhúng mũi vào việc người khác.

Thiên Lang Tử gãy răng, tính hung hăng bùng phát mạnh hơn. Hai mắt đỏ ngầu như máu, hắn rống lên, nhảy bổ lại. Liễu Oanh Oanh nhún chân bốc mình lên cao. Thấy hông nàng có chỗ sơ hở Thiên Lang Tử mừng quýnh, bèn nhảy lên theo, đầu cúi thấp. Những sợi tóc đen dựng lông chổng như những ngọn kim mềm, thoắt chùng lại thoắt thẳng ra, đâm vào hông Liễu Oanh Oanh. Bọn Thái Phượng suýt thét lên sợ hãi, đúng lúc Liễu Oanh Oanh quát:“Được lắm!” rồi gỡ chiếc nón liễu, chụp thẳng xuống những ngọn tóc đen của Thiên Lang Tử. Chiếc nón chu vi ba thước, hệt như một tấm khiên mềm chận đứng lông tóc của đối thủ. Thiên Lang Tử chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, Liễu Oanh Oanh đã thét: “Trúng!”, và trút mười thành Băng hà huyền công xuống nón. Những nhánh liễu viền nón còn tươi, vừa thụ chân khí là chất nước bên trong đông cứng thành băng, ngọn nào ngọn nấy duỗi thẳng ra như những ngọn thương, đâm phập vào mặt Thiên Lang Tử.

Thiên Lang Tử gào lên thảm thiết, lộn phộc từ trên cao xuống, lăn lộn mấy vòng mới giật nổi cái nón ra. Hắn loạng choạng đứng dậy, phô ra bộ mặt lầy nhầy máu thịt, hai mắt trào máu đỏ lòm. Nhận ra trước mặt chỉ là một vùng tăm tối, hắn không nén được nỗi kinh hoàng, vừa la thét vừa vung chân iay đấm đá lia lịa đề phòng Liễu Oanh Oanh áp sát Đàn sói nghe tiếng gào, liền nhao nhao tụ lại quanh chân hắn như bảo vệ chủ. Liễu Oanh Oanh xoay mình, thướt tha bay ra hơn một trượng mới nhẹ nhàng đáp xuống, nón liễu đã mất nên không còn gì che đậy gương mặt tuyệt thế nữa. Cách biệt đã mười năm, giai nhân vẫn diễm lệ như xưa, chỉ khác là dung nhan pha nhiều nét phong sương.

Thấy Liễu Oanh Oanh không truy kích, đám thuộc hạ chẳng hiểu ra sao, đúng lúc ấy Lương Tiêu thở dài:

– Giết một kẻ mù mắt thì không phải hành động của kẻ hào kiệt, thả hắn đi là hơn.

Liễu Oanh Oanh bị gã nói trúng tâm tư, không nhịn được phải ngoảnh đầu lại, đôi mắt long lanh bắn ra một tia sầu hận.

Thiên Lang Tử rất ngạc nhiên khi nghe thấy câu đó, bèn dừng chân tay, yên lặng nghe ngóng. Thình linh, một con sói xám từ đằng sau lẳng lặng lướt đến, táp luôn vào gáy hắn. Thiên Lang Tử rú lên đau đớn, lật tay túm nó xé toạc thành hai mảnh, máu sói hất tung ra, thấm đỏ cả người hắn. Chỉ trong khoảnh khắc, lại thêm ba con sói. vàng nữa nhảy xổ tới, hai con ngoạm cánh tay, một con nữa cắn phập vào cổ họng hắn. Giả như ngày thường thì một trăm con sói cũng đừng hòng áp sát Thiên Lang Tử, nhưng lúc này hắn đã mù hẳn, tn giác không còn tinh tường như ngày thường nên bị con sói nọ cắn thủng họng. Thiên Lang Tử cảm thấy cổ họng rỗng không, máu nóng tràn lên đầy khoang cổ rồi ông ộc tuôn ra ngoài, chỉ thoáng chốc hắn đã kiệt sức, hai con sói xám nhè lúc đó chôm tới, đè dúi hắn xuống. Cả đàn sói ngày thường bị hắn sai khiến, khổ sở đủ đường nên đều nuôi căm hận sâu xa, nay thừa cơ chen nhau hùng hồ lao lại. Thiên Lang Tử bị xé tan thành muôn mảnh giữa tiếng sói tru dữ dội, Biến cố xảy ra quá đột ngột. Liễu Oanh Oanh và mọi người qua cơn hoàn hồn, lại thấy kinh sợ và tức giận, bèn thi nhau lấy tên nỏ ra bắn. Đàn sói lớp chết lớp bị thương con nào sống sót thì lủi qua những thân cồ phóng tuốt ra thảo nguyên bao la. Đuổi đánh xong đàn sói, ai nấy thu nỏ tiễn về, trông thi thể tơi tả của Thiên Lang Tử mà kinh hãi. Lương Tiêu thở dài:

– Kẻ này, cho dù khoác tấm da sói, đứng lẫn trong đàn sói, nhưng rốt cục vẫn là người chứ không phải sói, nhất thời sa cơ mà bị lũ súc sinh hãm hại, kể cũng đáng buồn.

Liễu Oanh Oanh ngẫm nghĩ hồi lâu, chợt nói:

– Thiên Lang Tử đã chết, nhưng sự việc vẫn còn rất nhiều điểm khả nghi, không giải đáp được hết mối ngờ vực trong lòng ta.

Lương Tiêu cười nói:

– Cái đó cố nhiên, chỉ vì Thiên Lang này không phải là Thiên Lang thật.

Liễu Oanh Oanh nghi hoặc:

– Ngươi nói thế là sao?

– Ta nói rõ quá còn gì. Kẻ này chẳng qua chỉ là người khoác tấm da sói, sự thực lại có con sói khoác tấm da người nữa kia. – Gã thôi cười, quay lại trân trối nhìn A Mạc đang đứng trên sườn đôi, chậm rãi hỏi. Lão bá bảo có phải không?

A Mạc ngớ người, bỗng bật cười:

– Tây Côn Luân, ngươi nói gì vậy? Tiểu lão chẳng hiểu gì hết.

Lương Tiêu nói:

– Lẽ ra ngươi phải hiểu rõ nhất, ta chỉ cần dùng một chiêu nhỏ là đủ ép ngươi phải lộ chân tướng.

A Mạc lãnh đạm nói:

– Tiểu lão võ công tầm thường, các hạ lại là nhất đại tông sư, các hạ đã muốn đánh muốn giết, lão đây chẳng đám chống cự.

Liễu Oanh Oanh chau mày:

– Lương Tiêu, ngươi đừng hấp tấp, hãy nói rõ ràng lý lẽ ra xem.

Lương Tiêu liéc nàng, dịu giọng:

– Được, ta hẵng nói ra ba lý lẽ khiến hắn phải tâm phục khẩu phục. – Gã trừng trừng nhìn A Mạc, gập ngón cái bàn tay trái, thong thả liệt kê. – Thứ nhất, ngươi đã từng nói với ta rằng sư phụ Thiên Lang Từ là một đạo sĩ.

A Mạc thở dài:

– Ta cũng đã mờ ngoặc, chỉ là nghe hơi nồi chõ, chưa lấy gì làm thật.

Lương Tiêu ngẩng mặt nhìn trời, lạnh lùng tiếp:

– Nhưng ngươi lại hiểu được mẹo lấy nước trong cát của Đạo gia là dựa trên nguyên tắc núi đầm thông khí, chưa đủ chứng tỏ sư phụ ngươi cũng là đạo sĩ hay sao?

A Mạc ung dung đáp:

– Chẳng qua chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, tiểu lão hổi nhỏ từng nghe người ta nhắc đến. Hơn nữa chính các hạ cũng biết bí thuật này đó thôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 81: Cố Nhân Tương Phùng (2)

Nói một câu mà kết hợp cả thủ lẫn công, quả thực lợi hại. Lương Tiêu cười nhạt, gập tiếp ngón trỏ:

– Thứ hai, theo ngươi, vì sao ta đoán ra Thiên Lang Tử không phải là một người?

A Mạc cười mũi:

– Các hạ nói đùa đấy à, tiểu lão ngư độn quê mùa, biết thế nào được những điều ấy?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Ngươi không ngu độn, kẻ ngu độn chính là ta đây. Nếu sáng suốt hơn một chút thì ta đã phải hiểu ra có sự ngụy trá sớm hơn, Khi hú lén khiêu chiốn với Thiên Lang Tử rồi tì thí khinh công bị thua một bậc, ta còn tưởng thiên hạ rộng lớn nhường kia, thiếu gì tài năng chưa phát lộ, cũng chẳng lấy gì làm lạ khi ở đây xuất hiện cao thủ như vậy. Đáng tiếc võ công Thiên Lang Tử quá tầm thường, như ngươi vừa thấy đấy, chẳng xứng mặt địch thủ của ta. Dễ dàng suy luận, kẻ lức đầu phát ra Thiên lang khiếu nguyệt không phải là kẻ giao đấu dưới kia, mà là hai người khác nhau, một kẻ đứng đằng đông, một kẻ đứng đằng tây, ta đuổi đến phía đông, kẻ phía tây liền tru lên, ta đuổi đến phía tây, kẻ phía đông liền tru lên để gây nhiễu định hướng, đến nỗi ta chạy tán loạn bết phía nọ đến phía kia, còn các ngươi ung dưng di chuyển.

A Mạc cười khẩy;

– Thế thì liên quan gì đến ta?

Lương Tiêu thừa nhận:

– Đứng, hai điểm này tuy khiến ta sinh nghi, nhưng không đủ để suy ra A Mạc. – Gã gập ngón giữa. – Đáng tiếc, ngươi nhất quyết giá họa cho ta nên khéo quá hóa vụng. Sáng sớm nay ngươi thấy ta và Chu Tước tách tốp, bèn lỉnh theo sau, bảo tên đồng bọn của ngươi cất tiếng tru, dẫn dụ ta tách riêng, sau đó đến giáp mặt Chu Tước. Làm sao Chu Tước biét Thiên Lang Tử hóa thân thành hai, vì vậy không hề đề phòng, ngươi liền đánh lén, chỉ một chiêu đã hạ được hắn. Có điều, cả bọn lái buôn đều biết việc ngươi rời khỏi đội, sợ rằng nếu ta trở lại, thể nào mọi nghi ngờ cũng sẽ dồn cả vào ngươi, vì vậy ngươi liền dụ ta ra xa rồi lộn trở về, gọi đàn sói đến giết bay đám khách thương. – Giọng Lương Tiêu lạnh hẳn đi, mặt sắt lại, gã lạnh lùng tiếp. – Sau đó ngươi giả vỡ bị sói cắn, chạy đến tìm bọn Thái Phượng. Ngươi đã đặt sẵn xác Chư Tước trên chặng đường họ phải đi qua, đoán chừng ta đã phát hiện ra thi thể Chu Tước, bèn dẫn Thái Phượng đến, tiểu nha đầu hống hách bộp chộp, liền trúng gian kế của ngươi.

Thái Phượng đỏ bừng mặt, định lên tiếng phản bác, nhưng bắt gặp ánh mắt kiềm thúc của Liễu Oanh Oanh, đành nuốt hận vào trong. A Mạc lắc đầu:

– Thực đúng như câu: gắp lửa bỏ tay người. Suy luận hết sức khiên cưỡng.

Môi Lương Tiêu thoáng một nụ cười giễu cợt:

– Ngươi nói phải lắm, ba lý lẽ này đều là ức đoán, chẳng định tội nổi ngươi. Ngặt nỗi trên đời, cẩn thận đến đâu cũng có khi sơ suất, ngươi đã phạm một thiếu sót chí mạng, bây giờ muốn chối cãi cũng không kịp nữa.

A Mạc tỉnh bơ:

– Tiểu lão xin được nghe cho íò tường.

Lương Tiêu nhìn lão từ đầu đến chân, ngạo nghễ nói:

– Ngươi điềm tĩnh nhỉ. Xem chừng bọn đại gian đại ác từ xưa tới nay đều có bản lĩnh hơn người. A Mạc ngươi còn nhớ khi dùng Thiên Lang cung đánh lén Chu Tước, ngươi đã vô ý để lại trên lưng hắn năm dấu ngón tay màu xanh không?

A Mạc biến sắc. Lương Tiêu không cười nữa, nhấn mạnh từng lời:

– Thi thể Chu Tước đang ở trên lưng ngựa ngay sau ngươi kia. Ngươi dám áp dấu tay lên lưng hắn để đối chứng không?

Tức thì, hàng trăm con mắt đổ dồn vào A Mạc, không khí bỗng lặng như tờ. A Mạc lùi lại sau nửa bước, cơ mặt giật giật, hàng mày nhíu lại, bỗng cười ha hả:

– Tây Côn Luân! Coi như ngươi lợi hại. Thường có câu, thắng làm vua, thua làm giặc, nay lão tử nhận làm giặc vậy. Nhưng ngươi đừng mơ giết nổi ta!

Lương Tiêu thản nhiên đáp lại:

– Khẩu thiệt vô bằng, cứ quá chiêu là biết thôi.

A Mạc ngửa tay ra, trong lòng bàn tay đã xuất hiện một thanh chủy thủ:

– Ta tự chém một nhát. Để xem ngươi giết ta kiểu gì đây?

Lương Tiêu cau mày. A Mạc cười gần:

– Ngươi đoán đúng lắm, ta mới tà Thiên Lang Tử, còn kẻ tan xác kia chẳng qua chỉ là thế thân của ta, cũng chính là đồ đệ ta đã mất công bồi dưỡng bao nhiêu năm qua. Hừ, lão tử giết người vô số… – Lão trừng trừng nhìn Liễu Oanh Oanh. – Bọn thủ hạ trai gái của ngươi cũng do ta giết, muốn báo thù ư? Ha, đừng hòng!

Thấy Thiên Lang Tử giở ra chiêu ấy, nghĩ rằng không được đích thân giết tên cẩu tặc, ai nấy đều sôi sục căm giận. Đúng lúc đó, chợt một người phi ngựa tới, tốc độ rất cao, chỉ thoáng chốc đã đến gần chân núi. Lương Tiêu giật mình thét lớn:

– Phong Liên, dừng lại đây!

Người đó chính là Phong Liên, ban nãy cô thất vọng quá độ nên thúc ngựa chạy loạn lên, mãi không thấy Lương Tiêu đuổi theo, đoán chắc gã đã đi cùng Liễu Oanh Oanh rồi, cô càng cảm thấy đau lòng hơn, bèn ngồi ngẩn ra một chốc. Đột nhiên nhớ rằng Lương Tiêu từng nói Thiên Lang Tử vô cùng lợi hại, nghĩ ngợi mà không cầm được lo lắng, cô bèn lộn vòng trở lại, mới phóng đến chân núi đã nghe tiếng Lương Tiêu cảnh báo, đang ngạc nhiên thì nhận ra trên đầu có tiếng gió, rồi một bóng đen nhảy xổ tới trước mặt. Phong Liên cung tay lên cản, cổ tay bỗng đau nhói như bị gọng kìm kẹp chặt, vừa khẽ nhúc nhích là một thanh chủy thủ lạnh bãng kể luôn vào họng.

A Mạc nhảy lên hụp xuống một nhịp là đã khống chế được Phong Liên. Lương Tiêu bản lĩnh cao cường nhưng ở cách quá xa, không kịp cứu viện. A Mạc như chết đuối vớ được cọc, phá lên cười lớn;

– lầy Côn Luân, xem ra ông trời không có mắt nên không muốn thu lưu lão tử rồi.

Lương Tiêu gật đầu, ôn tồn nói:

– Ngươi thả cô ấy ra, coi như chúng ta không còn nợ nần oán thù gì nhau, ta cũng không gây khó dễ cho ngươi nữa.

A Mạc cười hô hố:

– Ngươi tường ta ngu lắm ư? Ta tin ngươi sao được? Tiện đây, trong lòng lão tử còn điều này nghi hoặc, muốn thỉnh giáo ngươi.

Lương Tiêu nhướng cặp mày rậm, A Mạc nói:

– Ta trà trộn vào đoàn lái thương, vốn định ngụy trang làm người thường, ngấm ngầm tính kế triệt hạ Thiên Sơn Thập nhị cầm. Lúc gặp ngươi, thấy ngươi hiển lộ võ công lại nảy ra một kế khác. Ta bèn kể chuyện thêm mắm dặm muối, khiến ngươi ác cảm với bọn chúng. Nếu các ngươi mâu thuẫn xô xát, tình thế chỉ có lợi chứ không tổn hại gì cho ta cả. – Lão nhìn Liễu Oanh Oanh, cười nham nhở. – Khổ nỗi ngươi vừa gặp ả là tỏ ra nhường nhịn. Nếu không ta đã đại công cáo thành từ lâu rồi, hà tất bị ngươi phá đám đến mức này.

Lương Tiêu đưa mắt về phía Liễu Oanh Oanh, thở dài:

– Nàng là người quen cũ của ta, ta hiểu nàng cũng như nàng hiểu ta vậy.

Liễu Oanh Oanh chấn động cả người, đăm đăm nhìn Lương Tiêu, cặp mắt đẹp hoen nước. Phong Liên quan sát hai người, trong lòng cay đắng: “Thảo nào Tây Côn Luân nặng tình với cô ta như vậy, cô ta đẹp như thiên tiên, tài trí hơn người. Bên cạnh cô ta, Phong Liên này chẳng qua chỉ là một con nha đầu vừa xấu vừa ngốc… “. Nỗi chưa chát thất vọng tràn ngập trong lòng khiến cô gần như quên bẵng cảnh ngộ hiện tại, A Mạc im lặng hồi lâu, chợt thở dài:

– Thật không ngờ, ta những tưởng người đời đều một giuộc gian ngoan xảo trá, đàn bà sớm nắng chiều mưa càng là giống khó tin, vì vậy mới đành lòng bầu bạn với sói. Không ngờ đến hôm nay lại thua đau trước hai chữ “tin tưởng“. Ôi, cũng là ý trời! Đấu trí với ngươi thống khoái lắm, Tây Côn Luân ạ, Ngươi nói đúng, lão tử chính là con sói đội lốt người. Xưa kia, ta đã từng là người đội da sói, sau này phát hiện ra, làm sói đội da người thú vị hơn. Lừa đảo được nhiều hơn, xâu xé người mà không cần nanh vuốt. Thôi, tạm thời lão tử hưởng dụng nguời đẹp ngựa quý đã. Tây Côn Luân, cỏ trụi rồi cỏ lại lên, thể nào cũng có ngày tái ngộ.

Dứt lời, lão cười sằng sặc. Mọi người căm hận vô cùng, liền lăng mạ chửi bới, Lương Tiêu thì im lặng, chỉ lạnh lùng nhìn A Mạc. A Mạc cảm thấy ớn lạnh trước cái nhìn ấy, cúi mặt xuống thì chạm phải đôi mắt đẹp đã đờ trệ của Phong Liên. Thấy cô gái không động đậy, lão đắc ý nghĩ: “Con ranh này vừa xinh xẻo vừa biết nghe lời“. Lão bèn thu chủy thủ lại, vỗ vào mông ngựa, Hỏa Lưu Tinh không hiểu nội tình, bèn cất vó chạy đì.

Mọi người vô kế khả thi, Liễu Oanh Oanh bỗng nghĩ ra cách, bèn gọi Yên Chỉ đến gần, vỗ vào lưng nó, tay trỏ Hỏa Lưu Tinh. Yên Chỉ hiểu ý, vụt tung vó trước, hí lên một tràng dài, tiếng hí chứa đầy những ý khiêu khích. Hỏa Lưu Tinh nghe thấy, lập tức xù hết lông bờm, A Mạc chưa kịp hiểu ra sao thì con ngựa đã nộ khí xung thiên, quay ngoắt đầu lại phóng về phía Yên Chi.

Hỏa Lưu Tinh là tuấn mã bậc nhất ở Côn Luân, tiếng hí của nó trấn áp khắp núi đôi, muôn ngựa phải thần phục. Yên Chi thì tung hoành nam bắc Thiên Sơn chưa từng gặp kẻ ngang cơ. Địch thủ chạm mặt tất nổ ra cuộc tương tranh. Chỉ có điều Yên Chi bị Liễu Oanh Oanh kiềm chế, một mực nhẫn nhịn từ đầu tới giờ, Hỏa Lưu Tinh trăm phương nghìn kế thách thức đều vô hiệu nên đành thôi, bây giờ lại nghe Yên Chi khiêu chiến thì còn mong mỏi gì hơn. Tính hiếu thắng khiến nó trở nên hưng hăng, chắc ngoài Lương Tiêu ra không còn ai kiềm chế nổi, A Mạc gồng tay kìm giữ nhưng cũng không ghìm được đã chạy của nó.

Lão đang luống cuống tay chân, Lương Tiêu đã lướt tới trước đầu ngựa. Hỏa Lưu Tinh giật mình, vội chôm vó lên. A Mạc huy chưởng chém xuống, Lương Tiêu sợ đánh nhầm phải Phong Liên nên không dám xuất chưởng đón đỡ, bèn rùn mình chui qua dưới bụng ngựa. A Mạc nghiến răng, định thí mạng cả mình và Phong Liên, bèn vung chùy thủ đâm luôn vào cổ cô gái, chợt bên tai vang lên tiếng gầm của Lương Tiêu, tiếng gầm như sấm nổ khiến màng nhĩ lão lùng bùng, khóe mắt còn kịp thấy một bóng tím lướt qua, cùng lúc bả vai lạnh toát đi, chùy thủ đã tới cổ Phong Liên mà không sao đâm xuống được, Lão đang ngạc nhiên, chợt cảm thấy mình bay bật lên, bèn cúi nhìn thì nhận ra từ thắt lưng trở xuống và hai đùi vẫn chĩnh chện ngồi trên lưng ngựa, còn phần từ thắt lưng trở lên đã biến mất. A Mạc chưa kịp nghĩ kỹ đã thấy trời xoay đất chuyển, một cơn đau lạ lùng tràn lên nhận chìm tn giác, lão rơi bộp xuống bãi cỏ như một cái hồ lô, lăn lông lốc mấy vòng rồi bất động.

Số là vào thời khắc cấp bách nhất, khi Phong Liên gặp nguy hiểm, Lương Tiêu bèn rút tuôn Thiên Phạt kiếm đằng cuối lưng Hỏa Lưu Tinh, vận đủ nội kình quét mạnh ra, chém phăng cánh tay phải cầm chùy thủ của A Mạc, nấo ngờ không kịp ghìm đã, lưỡi kiếm lại thuận thế lướt tiếp sang, phạt ngang tên hung ác thành hai mảnh. Đường kiếm đi quá nhanh, Thiên Phạt kiếm lại sắc lẻm, kiếm qua thân người như gió qua hư không, chẳng có gì ngãn trở, vì vậy A Mạc cụt chân đứt ngực mà vẫn chưa cảm thấy đau đớn ngay.

Giết xong tên hung ác, Lương Tiêu cũng cảm thấy kinh ngạc. Vừa rồi khi kình khí của gã chạy suốt thân kiếm, sắc gì vàng đỏ bỗng biến thành màu tím, lại ẩn hiện vân hoa, rạng rỡ như một áng mây. Lương Tiêu vẫn biết thanh kiếm này là do hai đại kiếm sư đúc thành thì nhất định phải trác việt khác thường, nhưng chẳng bao giờ ngờ tới biến hóa kỳ lạ như vậy, bèn thử đầy thêm nội lực, những vết gi trên kiếm lại trở về ảm đạm như cũ. Lương Tiêu nghĩ mãi cũng không hiểu ra sao, bèn đặt kiếm vào tráp, bế Phong Liên xuống ngựa. Sau biến cố ấy, Phong Liên kinh sợ đến mất vía, cứ ngây đuỗn như súc gỗ, nằm trong vòng tay Lương Tiêu mà vẫn chưa hoàn hồn, bật khóc thút thít.

Lương Tiêu rất thương xót, toan lựa lời vỗ về, chợt nghe tiếng vó ngựa dội lên từng đợt, ngoái lại xem thì thấy Liễu Oanh Oanh đang thúc ngựa phóng về bắc, gió bụi cuộn lên mù mịt quanh vó câu. Lương Tiêu thẩn thờ trông theo, liếc thấy dáng vẻ vững chãi của Hắc Ưng bên cạnh, bèn bảo:

– Ngươi thay ta chàm nom cô ấy một chút.

Hắc Ưng ngẩn người ra, Lương Tiêu đầy Phong Liên đến bên hắn rồi tung mình lên Hỏa Lưu Tinh, quất ngựa đuổi theo Oanh Oanh.

Hỏa Lưu Tinh náo nức muốn đua tài cao thắp với Yên Chi nên đã dồn sức từ lâu, lúc này được thỏa nguyện, bốn vó tung bay hệt như rồng lượn. Chỉ một chốc, đã phát hiện bóng Liễu Oanh Oanh và Yên Chi ở phía xa. Liễu Oanh Oanh ngoái lại trông thấy bèn ra rồi thúc ngựa. Cứ thế, hai con thần câu tuyệt thế trổ oai, trước chạy sau đuổi, Hỏa Lưu Tỉnh khó đến gần, mà Yên Chi cũng không thể cắt đuôi được hoàn toàn. Đuổi theo hồi lâu, Lương Tiêu đột ngột đề khí, nhảy lên hụp xuống một nhịp là tới lưng Yên Chi, Liễu Oanh Oanh xoay người thúc cùi chỏ ra, định đầy gã xuống, nhưng Lương Tiêu đã vòng tay qua người nàng, thở dài:

– Oanh Oanh, cô hiểu lầm rồi.

Liễu Oanh Oanh bừng bừng nổi giận:

– Ngươi ôm ấp ả thắm thiết như vậy, còn trắng trợn bảo ta hiểu lầm ư?

Lương Tiêu nhãn mặt nín lặng, trông ra xa thấy sương xám nhạt mờ phủ lên một cái hồ, nước thãm thẳm xanh, rặng linh sam vây bọc quanh bờ, phong cảnh cực kỳ diễm lệ, bèn gợi ý:

– Thật là một nơi xinh đẹpr chúng la ra đằng kia ngồi chốc lát.

Liễu Oanh Oanh lạnh lùng nói:

– Việc gì ta phải ra?

Lương Tiêu không nài thêm nửa lời, cứ lẳng lặng giật cương cho ngựa chạy đến ven hồ, lôi Liễu Oanh Oanh xuống, nàng ngoảnh mặt đi, không buồn ngó ngàng tới gã.

Lương Tiêu ngồi xuống bên hồ, lặng lẽ nhìn ra xa một lúc, chợt nói:

– Ta sang phương Tây mấy năm, định ở lại đó cho đến hết đời, nhưng nhớ cô và Hiểu Sương quá, không kìm nổi lòng mà đành quay về.

Liễu Oanh Oanh đột ngột ngoảnh đầu lại, chằm chằm nhìn gã:

– Ngươi đã có Hiểu Sương, lẽ ra đừng nên nghĩ tới ta nữa.

Lương Tiêu bỗng nghẹn ngào trong ngực, giã biệt Liễu Oanh Oanh bấy lâu, lòng gã chứa chan nhiều điều muốn tỏ bày, định thổ lộ cùng nàng bao ngọt bùi đắng cay, nhưng nghe xong câu ấy, trăm ngàn lời định nói bỗng chốc chạy đi đầu mất hết. Mặt mày u ám, gã đứng dậy chực lên ngựa, Liễu Oanh Oanh lạnh lùng hỏi:

– Ngươi đi đâu, đi gặp Sương muội à?

Lương Tiêu đáp:

– Muội ấy mắc bệnh nan y, mấy năm nay chẳng biết có đỡ hơn chút nào không. Trong lòng ta nhớ thương lắm, lần này về, chỉ muốn nhìn lén một lần cũng đủ toại nguyện rồi.

Liễu Oanh Oanh lặng lẽ hồi lâu, chợt bùi ngùi:

– Sau khi ta đi, chắc đã xảy ra nhiều biến cố lắm?

Câu nói của nàng bỗng chốc khơi gợi bao nhiêu chuyện quá khứ, Lương Tiêu lắc đầu thở dài:

– Khói mây qua mắt, ngoảnh lại tất cả đã tan. Không nhắc tới thì hơn.

Liễu Oanh Oanh ngồi xuống, bứt một bông hoa dại, khua khua nước cho mặt hồ loang sóng, nàng nhìn ra xa, nhẹ nhàng hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi không nói ra, định giữ tất cả trong lòng ư? Hừ, cũng được, nay ta chỉ hỏi ngươi, ả Phong Liên kia là thế nào vậy?

Lương Tiêu nhướng mày, nghiêm giọng:

– Cô mà còn nhắc đến cô bé đó là coi như xem thường ta đấy.

Liễu Oanh Oanh cười nhạt:

– Ta xem thường ngươi đấy, ấm ức à? Cô – bé – đó? Hừ, có mù cũng nhận ra tình ý của cô – bé đốí với ngươi.

Lương Tiêu thừ người, Liễu Oanh Oanh nói tiếp:

– Ngươi lại đây!

Lương Tiêu ngơ ngác. Liễu Oanh Oanh gắt:

– Còn không lại?

Vẻ mặt nàng báo trước một cơn giận, Lương Tiêu đành ngồi xuống, Liễu Oanh Oanh không nhìn thẳng vào mắt gã, vỗ vỗ vạt cỏ bên cạnh mình:

– Ngồi đây.

Lương Tiêu trù trừ một thoáng rồi miễn cưỡng ngồi nhích lại. Liễu Oanh Oanh nói:

– Hằng nhắm mắt vào.

Lương Tiêu không dám trái lời, bèn nhắm mắt, chợt cảm thấy bàn tay thon mảnh của Liễu Oanh Oanh đặt lên vai mình, kéo đầu mình ngả vào vai nàng. Lương Tiêu đâm bối rối, định giãy ra nhưng cổ đã lạnh toát đi, gã mở choàng mắt thì thấy thanh chủy thủ của Liễu Oanh Oanh đã kể vào cổ mình, nàng cười nhạt:

– Ta mà nhấn đao xuống thì sẽ cứa đứt ngay cái cổ của tên đốn mạt nhà ngươi.

Lương Tiêu chưa hiểu ra sao, gắng nuốt nước bọt:

– Giết ta thì cô được lợỉ lộc gì?

Liễu Oanh Oanh nói:

– GITĐ

– Giết chó ăn thịt mà không lợi à?

Lương Tiêu cười thảm:

– Cô đáo để quá đấy.

Liễu Oanh Oanh mắng:

– Đừng lảm nhảm nữa, ta bảo nguơi nhắm mắt, cớ sao ngươi lại ‘ mở ra?

Lương Tiêu đành lim dim mắt, tuy mi mắt đã khép nhưng giác quan vẫn tinh tường, cảm thấy Liễu Oanh Oanh nhúng chủy thủ xuống nước rồi gọt sạch râu ria hộ mình. Nàng vừa gọt vừa mắng:

– Lông lá xồm xoàm, chẳng trách mấy con ranh dám chế nhạo ngươi, phải cạo sạch đi. Còn bộ quần áo hôi hám này, nay gặp phái tay ta, ngươi mà không tắm rửa sạch sẽ thay y phục cho tươm tất thì đừng hòng bỏ đi.

Lương Tiêu bỗng thấy lòng chua xót lạ lùng, suýt nữa rơi lệ, bèn nhắm nghiền mắt, không nói một lời.

Cạo xong râu ria cho Lương Tiêu, Liễu Oanh Oanh duỗi những ngón tay thon rỡ nhẹ lên vết sẹo trên má gã, thở dài nhưng không nói năng gí-Lương Tiêu lén hé mắt, từ dưới hàng mi nhìn lên, chỉ thấy nàng đang đăm đăm dõi ra hồ, làn da sáng dịu gần như trong suốt. Mặt hồ rộng bao la, ở bờ bên kia, vầng tịch dương đang chìm dần xuống phía tây, mây xanh như ngọc, những dải núi thoai thoải ngập trong màu xanh điệp trùng. Gió nhẹ lướt qua mặt đất, vòng đi vòng lại quanh hai người, đùa trên đầu ngọn cỏ như đang ngâm nga một nét nhạc gi, đột ngột có hai con chim lướt vụt lên như hai trái cầu lửa, bổ nhào giữa không trung, lượn mấy vòng rồi bay đi mất hút.

Một lúc lâu sau, Lương Tiêu nghe có tiếng động lạ, bèn nhôm ngay dậy, trông thấy một dải lửa đỏ lờ mờ lan đến gần trong màn chiều chạng vạng. Liễu Oanh Oanh vấn lại tóc, lãnh đạm bảo:

– Khỏi đoán, bọn trẻ đấy! Đây là lối về thôn mà.

Vẻ mặt thất vọng hụt hẫng của nàng khiến nỗi thương xót trào lên trong lòng Lương Tiêu. Gã quay đi chỗ khác, vừa lúc thấy Hỏti Lưu Tinh lắc đầu vẫy đuôi đùa nghịch với Yên Chi, bèn mắng:

– Đồ hoang dã này, không biết nghe lời bằng một nửa Yên Chi.

Liễu Oanh Oanh lườm gã:

– Chủ nào tớ nấy cả thôi.



Lương Tiêu tủm tỉm:

– Nữ Gia Cát ơi, lần này cô đoán sai rồi. Con ngựa đó không phải của ta.

Liễu Oanh Oanh ngạc nhiên:

– Của cô bé đó à, trông qua thì không ngờ nổi bản lĩnh cô ta cao cường đến mức hàng phục được một con thần câu thế kia.

Lương Tiêu lắc lắc đầu, bèn thuật sơ qua chuyện bắt ngựa dưới chân núi Côn Luân. Liễu Oanh Oanh lắc đầu:

– Đồ ngốc, ngươỉ thật xốc nổi, không tính đến hậu quả, càng không hiểu lòng con gái, khi ngươi tặng ngựa là người ta đã phải lòng ngưaỉ rồi.

Một lát sau, bọn Hắc Ưng giơ đuốc phi tới. Phong Liên đi lẫn trong đám người, bộ dạng ủ rũ, vẻ mặt oán trách sầu khổ. Liễu Oanh Oanh ung dung nhôm dậy, đứng cạnh Lương Tiêu. Hắc Ưng nhảy xuống ngựa, lễ phép thưa;

– Thưa thủ lĩnh, ngựa cưỡi bị sói cắn hết nên bọn thuộc hạ phải mất chút thời gian tìm ngựa khác.

Liễu Oanh Oanh nói:

– Không sao. Hắc Ưng, đây là Lương Tiêu, một người quen cũ của ta ở Trung thổ, võ học rất uyên thâm. Ngươi hãy chịu khó học hỏi ông ấy.

Hắc Ưng vòng tay hành lễ. Lương Tiêu hiểu Liễu Oanh Oanh nói vậy là muốn mình truyền võ công cho bọn thủ hạ của nàng. Gã cũng không tiện thoái thác, bèn đáp lễ:

– Học hỏi thì không dám, nhưng nếu được trao đổi tập luyện với Hắc Ưng huynh đệ thì cũng là một điều ích lợi cho Lương mỗ, Thái độ khiêm nhường của gã khiến mọi người đều sinh thiện cảm. Riêng Thái Phượng, trước sau vẫn giữ nguyên hiềm khích với Lương Tiêu, nghe vậy chỉ lạnh lùng hừ một tiếng.

Mọi người nghỉ ngơi bên hồ một đêm, tảng sáng lại khởi hành. Liễu Oanh Oanh thấy Phong Liên ngơ ngác thẩn thờ thi mủi lòng, bèn thúc ngựa chạy sóng đôi Lương Tiêu, nhẹ nhàng khuyên;

– Bất kể tình cảm ra sao, ngươi cũng nên nói dăm ba câu thẳng thắn với cô bé.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Ta đã nói rất rõ ràng rồi, chỉ e vỗ về quá ân cần lại dẫn đến hiểu lầm thêm.

Liễu Oanh Oanh trầm ngâm:

– Đàn bà với nhau dễ nói chuyện, nếu ngươi không ngại, ta đành vác cái mặt dày này đi khuyên giải cô ta vậy.

Lương Tiêu mừng rỡ nói:

– Thế thì còn gì bằng!

Liễu Oanh Oanh lườm gã:

– Hớn ha hớn hở! Vậy là ngươi nợ ta một món ân tình, sớm muộn gì cũng phải trả lại ta đấy.

Lương Tiêu cười cười:

– Trả chứ, nhất định trả.

Đi được mấy canh giờ, một thôn làng với những mái tranh hiện lên lớp lớp phía xa, làng dựng áp lưng vào núi, trước mặt có suối chảy vòng qua. Hơỉ giá mùa xuân chưa tan hết, nhưng nhờ bốn mặt có núi cao bao bọc nên khí hậu vùng này rất ôn hòa, trong thôn đã có chồi non nảy mầm, hoa tươi khoe sắc, ong bướm rập rờn. Lương Tiêu tán thưởng:

– Núi lặng khe nhàn yên ả, rừng sâu suối lượn êm đềm, đúng là một nơi thích hợp để ẩn dật.

Liễu Oanh Oanh mỉm cười:

* Ban đầu ta sống ở Dao Trì, phong cảnh rất đẹp. về sau người Mông Cố vào núi lùng bắt, cả bọn di chuyển mấy lần mới tới đây. Cũng hay, ở đây đã ba năm rồi, không chuyển đi đâu nữa.

Lương Tiêu nghe mà xót xa, nhìn nụ cười đẹp như hoa của Liễu Oanh Oanh, nghĩ thầm: “Mang phận liễu yếu đào tơ, tại sao phải sống cuộc đời nhiều sóng gió hiểm ác, lắm sinh tử bi hoan, tối ngày đối đầu với quân quan thổ phỉ như vậy!“.

Bọn Hắc Ưng chôn những người tử nạn ở sườn núi phía bắc làng. Mười năm nay, Thiên Sơn Thập nhị cầm thân thiết vớỉ nhau như huynh đệ một nhà, trải bao hung hiểm chưa từng mất mát một ai, đột nhiên ba người ra đi trong cùng một ngày, những người còn lại đều đau lòng quá độ, khóc lóc thảm thiết mãi không thôi. Đặc biệt là Thái Phượng, cô và Chu Tước vốn là một đôi tình lữ, tự dưng chim loan gãy cánh giữa trời, phượng kia ở lại lẻ loi một mình, tình cảnh càng thập phần bi thương. Chỉ có Liễu Oanh Oanh, vốn đã quen với cảnh sinh ly tử biệt, suy nghĩ thông suốt hơn ai hết, bèn khuyên Thái Phượng:

– Người chết không thể sống lại được, muội đừng tự lầm khổ mình quá, chắc Tước nhi ở nơi chín suối cúng không muốn thấy muội vật vã như thế đâu.

Thái Phượng gắng nuốt lệ, nhưng cuối cùng vẫn không nén được, thốt lên hai tiếng “thủ lĩnh” rồi gục vào lòng Liễu Oanh Oanh khóc nấc.

Bi lụy mãi, sập tối cả bọn mới về thôn Tiểu cầm. Trong thôn có một dòng suối nước nóng, Liễu Oanh Oanh khéo léo tháo vát, từ dạo đầu đã chia nước suối thành mười nhánh, cho chảy vào mười cái ao lát đá, trên mỗi ao xây một căn nhà nhỏ, nam nữ dùng riêng. Mấy hôm nay cả bọn chạy đôn chạy đáo khắp nơi, vất vả đã nhiều, được lúc nghỉ ngơi bèn kéo nhau ra suối tắm táp. Lương Tiêu ngâm mình đến riửa canh giờ, cảm thấy thoải mái vô cùng, thay y phục rồi đến Tụ Nghĩa sảnh. Ở đây, từ tường, xà nhà, đến cột kèo đều đẽo bằng gỗ linh sam, những hàng cột xếp rất ngay ngắn, to mà không thô, mới bước vào sảnh đã thấy mát rượi cả người.

Bọn Hắc Ưng tắm táp xong xưôi, đã đến đây từ trước, đang bàn tán về trận ác đấu với Thiên Lang Tử. Nhắc tới kẻ hung tàn đó, ai cũng kích động, nhân chuyện lại ngậm ngùi nhớ thương các huynh đệ tử nạn. Cả bọn đang lào xào trò chuyện, chợt thấy Lương Tiêu tiến vào, bèn nhất loạt đứng lên thi lễ.

Khách chủ an tọa xong đâu đấy lại hàn huyên một chốc, cố nhiền phải nhắc đến võ công. Bọn Hắc Ưng đã hỏi, Lương Tiêu cũng rộng rãi chỉ vẽ đôi điều. Câu chuyện đang đến hồi sôi nổi, bên ngoài chợt có tiếng cười, rồi Liễu Oanh Oanh dắt Phong Liên đi vào lúc này nàng đã thay bộ áo dài màu hoàng yến, mái tóc xanh còn ướt, hai má vẫn hồng hào vì hơi nước nóng, trông diễm lệ vô cùng. Thấy nàng thân thiết vớỉ Phong Liên như vậy, Lương Tiêu rất lấy làm ngạc nhiên.

Liễu Oanh Oanh dắt Phong Liên lên chỗ ghế trên. Bọn Hắc Ưng bê đến mấy chiếc bàn dài và ghế đầu bằng gỗ tùng, xếp thành dãy giữa sảnh. Lát sau, đám con gái thướt tha đi vào, bưng theo rượu thịt. Chắc bận chuẩn bị cơm nước nên bây giờ họ mới xuất hiện, Chén đĩa bày biện xong xuôi, tất cả cùng ngồi xuống, chi có một thiếu nữ mặt tròn chừng mười bốn mười lăm tuổi là vẫn đứng, tay nâng vò rượu, theo thứ tự đi qua từng chỗ, rót cho mỗi người một ly rượu đặc quánh sánh dẻo, màu xanh biếc, mùi hương ngào ngạt. Một lát sau, cô đã đến chỗ Lương Tiêu. Gã chưa từng gặp cô bé này, chỉ thấy mày thanh mắt to, dung mạo hao hao A Tuyết, bất giác nhói lòng, bèn nhìn kỹ hơn một chút.

Thiếu nữ mặt tròn vốn cả thẹn, tai đỏ lựng lên trước ánh nhìn chăm chú của Lương Tiêu, tay chân luống cuống làm đổ cả rượu ra bàn. Cô bối rối, vội vàng đưa tay áo chùi đi. Liễu Oanh Oanh trêu:

– Ôi, Tuyết Nhạn biết rung động rồi!

Thiếu nữ đỏ bừng mặt, có vẻ ấm ức, đặt luôn vò rượu xuống, chạy ào lại cù Liễu Oanh Oanh. Nàng cười khanh khách, luôn miệng kêu:

– Thôi, thôi! Nhạn nhi, coi như ta sai, ta chưa nói gí hết, được không?

Tuyết Nhạn bấy giờ mới buông tay, trìu mến lườm Oanh Oanh bằng đôi mắt hạnh tròn to.

Lương Tiêu thấy hai người thân mặt suồng sã như thế thì hơi ngạc nhiên. Liễu Oanh Oanh nhận ra tâm tư gã, bèn giải thích:

– Khi đối địch, ta là nguyên soái, tà tướng quân của họ. Còn về đây, họ là các tiểu đệ đệ, tiểu muội muội của ta, – Nàng vuốt má Tuyết Nhạn. – Thôi nhé! Đừng nũng nịu nữa kẻo người ngoài cười cho.

Tuyết Nhạn ít tuổi nhất trong Thập nhị cầm, Liễu Oanh Oanh yêu chiều cô hơn hẳn những người khác, biết rằng trận chiến với Thiên Lang Tử nhiều hung hiểm, nàng đã để cô lại thôn, không nỡ mang theo.

Lương Tiêu bỗng thấy lòng trống vắng bâng khuâng: “Mấy năm nay Oanh Oanh gặp nhiều vất vả, nhưng nàng tung hoành Tây Vực, thủ hạ đông đảo, coi như cũng biết tìm niềm vui trong cảnh khổ, chí ít còn có lúc thư thái sảng khoái. Chẳng như Hiểu Sương, thường bận lòng về sinh tử thế nhân mà bị giam lỏng trong Thiên Cơ cung, hơn mười năm nay chắc là khổ sở lắm“. Nghĩ tới đây, lòng ham muốn về đông càng thêm bức thiết, gã thở dài, nâng rượu lên uống một hớp, cảm thấy ngọt thanh, dư vị thấm mãi không tan, bất giác tán thưởng:

– Rượu ngon quá, nguồn gốc thế nào đây?

Liễu Oanh Oanh nói:

– Đây là rượu sữa ngựa đen [1].

Lương Tiêu nâng chung rượu lên nhìn kỹ:

– Trước đây ta đã từng uống rượu sữa ngựa, nó trắng đục, vị ngọt lừ, lại có mùi hơi hơi. Rượu này không chỉ có sắc xanh trong mà độ ngọt cũng vừa miệng, không lẫn một mùi lạ nào khác.

Liễu Oanh Oanh cười:

– Rượu sữa ngựa trắng chỉ lọc chất cặn chừng vài canh giờ, còn rượu sữa ngựa đen thi phải khuấy đến bảy tám ngày để khử hết cặn rượu ra mới được màu sắc và mùi vị thuần chất như thế.

Lương Tiêu gật gù:

– Khuấy đến bảy tám ngày, cầu kỳ đấy nhỉ!

Liễu Oanh Oanh bẹo má Tuyết Nhạn, tươi cười:

– Ta hơi đâu mà kiên nhẫn đến thế, một tay Nhạn nhi ủ rượu đó.

Tuyết Nhạn nhin xuống, vành tai đỏ dừ. Lương Tiêu rất bất ngờ với tài nấu rượu của cô bé e thẹn kia, kinh ngạc vòng tay khen:

– Thì ra là một nữ Đỗ Khang [2], bội phục, bội phục!

Tuyết Nhạn chẳng mấy khi gặp người lạ, vốn đã hết sức thẹn thùng, nay được khen càng đỏ mặt, chỉ dám len lén nhìn Lương Tiêu. Liễu Oanh Oanh lườm gã:

– Đừng xem thường! Các đệ muội của ta đây đều có bản lĩnh lợi hại cả, không phải loại du thủ du thực, nhênh nhang tháng ngày, chẳng học hành đến nơi đến chốn như ngươi đâu. – Nàng trỏ từng người. – Ưng nhi là một thợ săn giỏi, dâ thú dù hung dữ hay khôn khéo đến đâu cũng không thoát khỏi bàn tay đệ ấy.

Lương Tiêu khen ngợi:

Rượu sửa ngựa ] à thứ rượu phổ biến của dân du mục phương bắc Trung Quốc, đựng trong túi da dc để tiện mang theo trong cuộc sống lang bạt. Người ta cho sữa ngựa vào túi bằng da dê, đợi ba bốn ngày cho chất cặn lắng xuống, tách chất dịch trong bên trên ra để lên men chưa là uống được, chất này chính là rượu sữa ngựa trắng. Lúc đó rượu có màu ưắng đục, vị ngọt lẫn mùi hôi của da dê. Nếu để thời gian lên men kéo dài tới bảy tám ngày, thì thoảng dùng gậy khuấy đều thì chất dịch đó sẽ trong hơn, vị ngọt thanh và không còn mùi hôi nữa, sau thời gian này sẽ được rượu sữa ngựa đen.

Tương truyền Đỗ Khang là ông tổ nghề rượu, sống dưới thời nhà Hạ.

– ưng có khác, mắt sáng tay nhanh! – đoạn nâng chén làm một hod cạn sạch.

Hắc ưng cười rạng rỡ, cũng nâng chén bồi tiếp. Liễu Oanh Oanh lại nói:

– Loan nhi trông hoa rất mát tay, hoa cỏ ở rìa thôn đều do công muội ấy vun xới bón chăm.

Lương Tiêu mím miệng:

– Trăm hoa đua sắc, thật là xinh tươi! – và cạn tiếp một chén nữa.

Con gái ai chả thích nghe tán tụng, Thanh Loan được khen hết sức vui vẻ, bao mối hiềm khích đối với Lương Tiêu với đi quá nửa. Liễu Oanh Oanh lại giới thiệu:

– Phượng nhi là Chức Nữ của Tiểu cầm thôn, tài xe chỉ dệt vải của muội ấy có thể nói là vô song vô đối ở vùng núi Thiên Sơn này.

Lương Tiêu cười nói:

– Trời phú khéo tay, bộ áo Thái Phượng cô nương đang mặc là tự thêu phải không?

Thái Phượng không buồn đáp lời, ngoắt đầu đi hừ một tiếng:

– Đầu môi chót lưỡi, chẳng có câu nào là thật lòng.

Liễu Oanh Oanh cứ thế giới thiệu hết, nào là Hoàng Ly hát hay, Vân Tước múa đẹp, Uyên Ương gồm hai người, một nam một nữ, nam là Thiết Uyên, thành thạo kiến trúc, xây dựng, nữ là A Ương, rất giỏi điều chế son phấn. Dẩn tiến xong Uyên Ương, Liễu Oanh Oanh bỗng buồn hẳn đi:

– Tước nhi, Nha nhi và Điều nhi đều có tuyệt kỹ riêng,, đáng tiếc không thể nào giới thiệu với ngươi được nữa.

Mọi người đều rầu n theo, Lương Tiêu đang định khuyên nhủ, Liễu Oanh Oanh đã lắc đầu:

– Ngươi đừng bận lòng, sống như hoa xuân, chết như lá thu, ta tự đã thông tư tưởng cho mình từ lâu rồi. – Nàng bỗng kéo Phong Liên lại gần, cười nói. – Mỗi người một bản lĩnh, ngặt nỗi không ai biết đúc đao kiếm cả. Ta đã hỏi chuyện Phong Liên, cô ấy là người Tinh Tuyệt. Tài đúc kiếm luyện đao của người Tinh Tuyệt nổi danh vùng Tây Vực đã lâu. Bây giờ Thiên Sơn Thập nhị cầm chi còn chín người, nếu thêm được một người thì vừa khéo tròn mười. Lương Tiêu, giả dụ ta muốn kết nạp Phong Liên làm một thành viên trong Thiên Sơn Thập cầm thì ngươi có bằng lòng không?

Nàng nhìn Lương Tiêu, nửa cười nửa không, Lương Tiêu chưa hiểu ngự ý của nàng ra sao, bèn lấp lửng:

– Phong Liên đồng ý là được, ý kiến của ta có giá trị gì ở đây?

Liễu Oanh Oanh cười mũi:

– Khéo nói lắm!

Nàng đưa mắt nhìn Phong Liên, cô gái gật đầu. Liễu Oanh Oanh lại cười:

– Có điều, mấy đệ muội của ta đều nồi tiếng lợi hại, Lương Tiêu cũng biết rồi đấy. Võ công mà chưa đủ hỏa hầu, gia nhập với bọn họ nhất định sẽ bị bắt nạt.

Lương Tiêu liếc Thái Phượng, không nói năng gì nhưng trong lòng phải thừa nhận lời Oanh Oanh là đúng. Liễu Oanh Oanh tiếp:

– Vì vậy ta muốn Phong Liên theo học một sư phụ thật tài ba, cho dù chưa thể đạt kết quả ngay lập tức, nhưng chí ít có sư phụ đỡ đầu thì người khác cũng không dám rẻ rúng ức hiếp.

– Ai thế? – Lương Tĩêu hỏi.

Liễu Oanh Oanh cười mát:

– Còn ai vào đây? Xa tận chân trời, gần ngay trước mắt.

Lương Tiêu kinh ngạc đứng bật dậy, Liễu Oanh Oanh đưa mắt ra hiệu cho Phong Liên, cô gái tiến lên trước, nhún gối trước Lương Tiêu:

– Sư phụ ở trên, xin nhận của đồ nhì một lạy, Lương Tiêu cả kinh:

– Không được! – rồi định ngăn cô lại.

Liễu Oanh Oanh bèn trấn áp:

– Sao lại không được, chẳng lẽ việc đó khiến ngươi mất mặt lắm ư?

Lương Tiêu sực hiểu: “Phải rồi, nếu Phong Liên là đệ tử của ta thì bởi sự cách biệt thân phận thầy trò, cô ấy sẽ không dám nghĩ đến tư tình nam nữ. Chắc Oanh Oanh vất vả lắm mới nghĩ ra kế này đây!“. Gã thở dài, không khước từ nữa, thõng tay để Phong Liên lạy ba lạy rồi mới đỡ cô đứng dậy. Phong Liên trước sau vẫn cúi đầu, lòng buồn nhiều hơn vui, cuối cùng không kìm nổi, nước mắt trào ra chan chứa.

Liễu Oanh Oanh thầm thở dài, thực ra kế bái sư này không phải là do nàng nghĩ ra, mà là chủ ý của Phong Liên. Lúc trước nàng kể với Phong Liên rất nhiều chuyện quá vâng, vốn dĩ để cô chấm dứt mọi hi vọng trông chờ, nào ngờ Phong Liên nghe xong, tuy nhận lời cắt đứt tơ tình, nhưng lại đòi lạy Lương Tiêu làm sư phụ. Liễu Oanh Oanh biết cô vẫn chưa dứt khoát được, song dẫu sao cũng là phận đồng cảnh ngộ, nàng không muốn bức bách thái quá. Thấy nghi lễ nhận thầy trò đã xong, Liễu Oanh Oanh nâng chén lên cười:

– Hôm nay ta có thêm một tiểu muội tử, Lương Tĩêu cũng thu nhận được đại đồ đệ, ngươi và ta phải cạn chén này mới được.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Ngôi thứ thế là loạn hết lên rồi.

Liễu Oanh Oanh lườm gã:

– Chúng ta ai có phận nấy, ngươi muốn đứng vai trên ta là không được đâu nhé ta bạt tai ngươi đó.

Mọi người cười ồ.

Vì bằng hữu mới mất chưa lâu, mọi người tuy ngoài miệng không nói, nhưng trong lòng vẫn u buồn khôn nguôi, khó mà vui hết mình được, nên chỉ uống qua loa đôi ba chén rồi ai về phòng nấy. Lương Tiêu ở lại một đêm, hôm sau thu dọn hành trang, đến chỗ Oanh Oanh cáo từ. Liễu Oanh Oanh sống trong một tiểu viện nhỏ hai gian, bổn mặt trông toàn liễu. Lương Tiêu đến cổng, thấy Thái Phượng đang ngồi trên bậc cấp trước cửa, mặt quay về phía vầng triều dương, đang thêu hoa trên một tấm đoạn màu xanh lục. Trông thấy gã, cô cau có hỏi:

– Ngươi đến đây làm gì?

Lương Tiêu chưa kịp trả lời, Thái Phượng đã vừa ghé răng cắn chỉ, vừa lạnh lùng nói:

– Thủ lĩnh đã dặn, nếu muốn hàn huyên chuyên củ thì cứ việc vào, còn nếu muốn cáo từ thì không cần.

Cô ta cúi đầu làm tiếp, chẳng buồn để ý đến Lương Tiêu nữa.

Lương Tiêu đứng ngẩn ra hồi lâu, nghĩ bụng: “Gặp găf chẳng bằng không gặp, cứ thế này mà đi cho gọn gàng“. Rồi không nói nhiều lời nữa, gã quay mình đi ra. Lúc bước khỏi cổng làng, sắp đi vòng ra sườn núi khuất, gã cảm thấy lòng trào lên chưa chát, bèn ngoái lại nhìn, chợt thấy trong khu rừng bên núi thấp thoáng một bóng áo xanh lục. Lương Tiêu ngẩn ngơ đứng trông bốn bề lặng ngắt, chỉ có gió lướt qua đỉnh đầu nghe toạt soạt. Chẳng biết đứng thế bao lâu, gá tỉnh táo lại, thở dài buồn bã rồi cắm cúi đi về hướng đông.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 82: Hoàng Hà Cửu Khúc (1)

Ra khỏi núi, Lương Tiêu trông thấy Phong Liên hành lý gọn gàng, dắt Hỏa Lưu Tinh đứng đợi bên đường. Gặp gã, cô rạng rỡ mặt mày:

– Sư phụ đi một mình à?

Lương Tiêu hơi bất ngờ, chỉ ậm ở trong miệng. Phong Liên cong môi, giơ Thiên Phạt kiếm lên trước ngựa:

– Ông muốn đi thì phải mang cái này theo.

Lương Tiểu tử chối:

– Đây là kiếm thần của bộ tộc cô, ta đâu dám chạm tay vào.

Phong Liên hừ một tiếng:

– Hôm qua ông dùng kiếm chém Thiên Lang Tử, chẳng đã chạm tay vào là gì?

Lương Tiêu ngớ người, nhưng sự thực quả đúng như thế, không thể nào chối cãi nổi. Phong Liên lại tiếp:

– Sư phụ là một trong số ít các cao thủ trên đời, nói lời phải giữ lấy lời chứ!

– ít thì chả chắc ít, nhưng ta nói lời, nhất định sẽ giữ lời.

– Ông đã hứa nhận tôi làm đồ đệ và sẽ truyền võ công cho tôi phải không?

Lương Tiêu ngập ngừng:

– Ta còn phải vào Trung thổ sắp xếp vài việc, một thời gian nữa mới rảnh rỗi quay về dạy cô.

Phong Liên ưỡn ngực, ngẩng cao đầu nhìn trời, lạnh lùng nói:

– Không, tôi không tin ông.

Lương Tiêu ngẩn người:

– Vì sao?

– Trước đây ông đã nhẫn tâm bỏ đi biền biệt một lần rồi. Bây giờ lại đi nữa, có trời mới biết khi nào ông quay về. Một năm, mười năm, hay là chẳng bao giờ? Tôi không muốn thụ động chờ đợi nữa, tôi muốn đi với ông vào Trung nguyên.

Lương Tiêu cau trán, im lặng nhìn xuống hồi lâu, Phong Liên thấp thôm theo dõi mọi biểu hiện của gã, chỉ sợ gã buột ra một chữ “không“. Một lúc lâu sau, Lương Tiêu thở dài:

– Cô nhất định muốn theo, ta cũng không ngăn cản.

Gã sài bước đi trước. Phong Liên mừng vui vô cùng, vội vã thúc ngựa theo sau.

Họ đi được nửa ngày đường thì gặp dân đu mục, Lương Tiêu mua một con ngựa tàng tàng cùng cưỡi song song bên Phong Liên. Hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ, những lúc nghỉ ngơi, Lương Tiêu lại dạy võ công cho Phong Liên. Cô gái không phải dạng thiên tư tuyệt đỉnh, nhưng rất hiếu thắng, Lương Tiêu dạy chiêu nào, cô nhất định phải khổ công rèn luyện chiêu ấy cho đến khi gã gật đầu bằng lòng mới thôi. Lương Tiêu học nhiều hiểu rộng, kiến thức uyên thâm, người thường chỉ cần nắm vững một vi một mảy trong sở học của gã cũng đủ đùng suốt cả đời, nhưng gã cứ dốc lòng truyền thụ cho Phong Liên tất cả những gì mình biết, hết sức ân cần và kiên nhẫn, coi như bù đắp lối cư xử ngày nào.

Trèo đèo lội suối, vượt núi bàng rừng, dãi dầu sương gió chẳng biết bao lâu, một hôm họ đến được bờ Hoàng Hà. Xa Trung thổ đã lâu, Lương Tiêu không khỏi nôn nóng, thúc ngựa phi ngay lên để, che tay nhìn về phương nam, ngắm núi non trập trùng, mây phủ mặt sông. Lúc đó gió đông đang thôi mạnh, những con sóng đục ngầu cuồn cuộn trôi, ùng ục táp cả lên mặt để làm bắn tung muôn vàn giọt nước. Lương Tiêu chừng như nảy ra ý tưởng gí, trỏ tay ra xa, nói to:

– Phong Liên, cô nhìn kia! Một ngày nào đó, trên sông này sẽ có những con thuyền lừng lững như quả núi mà chỉ cần một người điều khiển, sóng to gió lớn đến đâu cũng khó lòng lay chuyển. Người ta sẽ không phải cưỡi trâu ngựa nữa, thay vào đó sẽ cưỡi những cỗ xe khổng lồ dùng sức “lửa”, còn có thể bay lượn hoặc chuyên chở trên trời nhờ những khí cụ to như chim bằng… – Đương com cao hứng, nhận ra mặt mày Phong Liên ngơ ngác, gã bất giác thở dài. – Sư phụ đây bình sinh có ba bản lĩnh: một là kiến thức luận lý tự nhiên và cơ quan toán thuật, hai là ngồi trong màn trưởng mà tính được việc binh ngoài ngàn dặm, ba là vỗ công. Đáng tiếc bản lĩnh đầu tiên trúc trắc lắm lắm, e rằng cô không học được. Bản lĩnh thứ hai chỉ tổ gây loạn thời thế, không học thì hơn. về danh nghĩa, ta là sư phụ cô, nhưng chi truyền thụ cho cô được chút khả năng quyền cước thôi.

Phong Liên mỉm cười:

– Sư phụ khiêm tốn quá, võ công của sư phụ mà là chút khả năng thì công phu của người khác chắc nhỏ hơn lỗ xò kim mất.

Lương Tiêu trách:

– Lại phát ngôn bừa bãi rồi, bất kể công phu gì, miễn người ta rèn luyện tới mức tuyệt đỉnh là sẽ có chỗ ứng dụng, cô đừng giở cái thói chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, mới học dăm ba miếng mà đã xem thường khắp lượt anh hùng thiên hạ.

Phong Liên cong môi, hai cánh mũi phập phòng:

– ông đừng giở giọng giáo điều nữa. Hứ, tưởng làm su phụ thì ghê gớm lắm đấy à! Cứ dạy sao cho tôi thành thạo một nửa bản lĩnh của ông đi, tôi sẽ khiến người trong thiên hạ phải nghiêng mình kính nể.

Lương Tiêu lắc lắc đầu, không nói năng gì nữa. Dọc đường, đã mấy lần gã định dùng tư cách sư tôn giáo huấn nữ đệ tử, nào ngờ cứ đến lúc quyết định là Phong Liên lại giở hết dáng vẻ nũng nịu yêu kiều ra cãi cự biến báo. Quan hệ giữa họ vốn rất đặc biệt, Lương Tiêu nghe cô vùng vằng chừng hai ba câu là không còn tức nổi nữa, mất hết uy nghiêm của bậc trưởng bối, kể ra thật uổng cái danh sư phụ, cũng maỹ gã không chú ý lắm đến sự phân biệt thầy trò này, tranh cãi vài câu là để mặc Phong Liên muốn ra sao thì ra.

Phong Liên vào Trung nguyên lần đầu, không nén được háo hức hiếu kỳ, dọc đường cứ hỏi hắn luôn miệng, Lương Tiêu đều kiên nhẫn giải đáp. Họ lửng thững đi dọc sông, Lương Tiêu nói mãi nói mãi, hứng khởi nổi lên, bèn kể lân sang cả thủy lợi. Nơi nào nên xây đập, nơi nào nên tách dòng chảy, nơi nào nên đặt guồng nước, nơi nào nên khơi mương dẫn hướng, càng nói càng cao hứng hào sảng, tựa như đủ sức quy hoạch lại cả sông núi, sửa sang lại cả đất nước. Từ khi quen biết Lương Tiêu, chưa bao giờ Phong Liên thấy gã hớn hở như vậy, trông phong thái và khí độ ấy, cô bỗng mê mẩn thần hồn đến nỗi chẳng để vào tai một lời nào trong những câu chuyện cao xa của gã.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện, Phong Liên bỗng trỏ một ngọn tháp bên bờ sông, hỏi:

– Tháp gì kia, sư phụ?

Lương Tiêu thở dài, có ý luyến tiếc:

– Đó là Khai Phong thiết tháp, thường được xưng tụng là thiên hạ đệ nhất tháp, đóng trên cố đô Biện Lương của tiền triều. Biện Lương vốn là nơi quän hạt cả Thần Châu, xưa kia phồn hoa vô cùng. Đáng tiếc trải qua khói lửa binh đao rồi thiên tai lũ lụt, thành thị điêu linh suy vi, không còn giữ được cảnh sầm uất ngày xưa nữa.

Phong Liên cũng cảm thấy tiếc, lại hỏi:

– Thế còn sót lại nơi nào hay ho không?

Lương Tiêu trầm ngâm:

– Ta nhớ rằng cách thiết tháp không xa có một tửu lâu tên là cửu Khúc các, xây trên để sông, ngồi ở đó có thể hóng gió uống rượu, ngắm sóng nước dạt dào của chín khúc Hoàng Hà.

Phong Liên háo hức nói:

– Hay quá, đã đến đây rồi thì nhất thiết không thể bỏ qua.

Lương Tiêu ngẩng đầu nhìn sắc trời, thấy biển mây ư ám mịt mù, đoán chừng trời sắp mưa to nên cũng đồng ý. Hai người ra rồi thúc ngựa phóng về phía Cửu Khúc các. Đến trước tòa lầu, mưa bắt đầu trút xuống van vát như những sợỉ tơ. Hai người để ngựa lại, lên lầu chọn một chỗ ngồi, vừa an tọa thì nghe thấy tiếng lẹp kẹp lẹp kẹp, dưới thang đi lên một nho sinh, đầu đội khăn vuông xiên xẹo, cằm nhọn hoắt, tay phe phẩy một cây quạt trúc, nan quạt đã gãy quá nửa.

Tửu bảo ngó ra, hốt hoảng than:

– Chết toi, tên ăn quỵt lại đến rồi!

Hắn bèn dang tay định đầy đi, nho sinh nọ đã nghênh ngang ngồi phịch xuống ghế, cười mắng:

– Tổ sư cha ngươi, ai bảo lão gia ăn quỵt, hôm nay lão gia không ãn quỵt đâu.

Hắn lục tay áo móc ra một đĩnh bạc lớn, thảy đánh cộp lên bàn. Tửu bảo vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, tâng tâng trên tay xem thật hay giả, hai mắt híp lại thành một điệu cười:

– Giả Tú Tài, ngươi ăn trộm ở đâu thế? Ở chùa Đại Tướng Quốc chăng? Hay ở nhà viên ngoại nào?

Nho sinh trợn mắt:

– Định lấy bụng tiểu nhân do lòng quân tử à? Đĩnh bạc này vừa trắng vừa sáng, đời nào có chuyện lai lịch bất mình! Hà Lục Nhi, đừng lải nhải nữa, đại gia đặt bạc cho bàn rượu này, ngươi phải nhớ đấy.

Tửu bảo cười qua kẽ răng:

– Trước đây ngươi còn nợ chưởng quỹ một lạng sáu phân bạc, tính sao nào?

Giả Tú Tài giở phạch cái quạt sờn mặt, khinh khỉnh nói:

– Ngươi mù à? Hôm nay lão gia rộng rãi thế này, chút ít tiền bạc đó thì đáng kể gì!

Tửu bảo ngày thường ôn’ ào cãi cọ với hắn đã quen, cũng không giận giọng điệu xem thường của họ Giả, chỉ buông thõng:

– Được được, cứ giả vỡ làm lão gia một hôm cho thoải mái, sau này khi ngươi trở về kiếp tôn nhi, ta sẽ đến tính sổ với ngươi.

Hắn quay đi được mấy bước, nho sinh lại gọi:

– Hà Lục Nhi, ngươi hẵng lấy cho lão gia một vò rượu hảo hạng để thấm môi thông cổ đã.

Tửu bảo chửi thầm trong bụng, chạy vẻo xuống gác. Phong Liên thì thào:

– Sư phụ ơi, sao kẻ này trơ trẽn thế nhỉ?

Lương Tiêu nghĩ: “Vậy là cô cũng nhận thấy hắn nghèo kiết xác mà còn ra vẻ phú ông rủng rình”, bèn cười nói:

– Có lẽ hắn là một tú tài thi hỏng, công danh bèo bọt nhưng tâm cao khí ngạo, không chịu nhún nhường trước ai.

Hai người đang thì thào trao đổi, chợt Già Tú Tài dài giọng chửi:

– Mả cha nó, rì rầm đơm đặt nói xấu sau lưng người ta, ai bảo ngươi lão gia là tú tài hả?

Lương Tiêu ở cách nho sinh khá xa, lại nói rất nhỏ, không ngờ hắn thính tai đến vậy. Nghe chửi, Lương Tiêu nghĩ bụng bàn tán sau lưng người ta thật cũng chẳng đàng hoàng gì, bèn cười xòa:

– Mong các hạ tha lỗi. Chắc các hạ là tú tài giả, giả trong thật giả chứ không phải là Giả trong họ Giả.

Nho sinh kia cười khẩy:

– Ai bảo là giả trong thật giả? Lão gia chính mang họ Giả, đại danh gồm chữ Tú trước chữ Tài sau, vì vậy gọi gộp lại là Giả Tú Tài.

Hắn nói mà miệng cười hi hi, giọng điệu hết sức huênh hoang, Lương Tiêu không để bụng, nhưng Phong Liên lộ vẻ tức bực. Giả Tú Tài liếc cô, cười hềnh hệch:

– Cô nương xinh đẹp nhỉ, hay là bằng lòng về ở với Giả mỗ, làm tân nương một đêm đi, ha ha!

Phong Liên siết chặt nắm đấm, mặt đỏ tía lên. Lương Tiêu cau mày, xua tay khuyên giải:

– Chấp hạng người này chỉ tổ hạ thấp tư cách mình.

Gã vừa dứt lời, Giả Tú Tài đã bật cười:

– Khổng Tử viết: Bọn Di Địch có vua cũng chẳng bằng người Hoa Hạ không vua ( Câu trích trong Luận Ngữ, ngụ ý dân Trung thổ dẫu không được giáo hóa di nữa vẫn còn văn mình lễ nghĩa hơn dân man di, Thời đại Khổng Tử, sinh linh được chia ra làm ba hạng: Hoa Hạ, Di Địch và cầm thú người Hồ ).... Các ngươi là giống sâu bọ man di ăn ở lẫn lộn với loài cầm thú, có tư cách quái gì mà tự hào!

Lương Tiêu sực hiểu. Gã và Phong Liên đều đang bận trang phục dân tộc thiểu số. Phong Liên lại mắt biếc da trắng, trông không khác gì. Hiện thời Đại Nguyên cầm quyền, quan hệ giữa Hồ và Hắn rất căng thẳng thù địch, chẳng trách người này thở ra toàn giọng kiêu căng ngạo mạn. Có điều, đang thời Hồ mạnh Hắn yếu mà Giả Tú Tài to gan mạt sát thẳng mặt người Hồ như vậy kể cũng là có chí khí. Lương Tiêu chỉ cười, chẳng để ý đến nữa. Phong Liên thấy gã không phản ứng gì, bĩu môi hậm hực. Đúng lúc ấy, sau lưng họ vang lên tiếng trẻ con non nớt:

– Hay quá, hay quá! Nói hay quá!

Phong Liên càng bực hơn, bèn ngoái lại nhìn thì thấy một cậu bé xinh trai đang ngồi gần đấy. Cậu ta độ mười tuổi, đầu đội mũ có hai con rồng vờn ngọc, mình vận áo dài bằng đoạn trắng muốt, tay cầm một cái quạt nhỏ dát vàng.

Cậu bé mặt còn non tơ mà ăn vận như người lớn, trông hết sức ngộ nghĩnh, Phong Liên bật cười. Đứa nhỏ cũng đoán được cô cười vì cớ gì, bèn cong môi, mắt lộ vẻ oán hờn. Phong Liên càng thích thú, ngoảnh lại cười vụng với Lương Tiêu.

Chẳng bao tâu, tửu bảo đưa rượu tởi. Giả Tú Tài đón lấy, rót một chưng tưới xuống đất. Rượu này là loại Phần tửu thượng hảo hạng (Một trong ba loại danh tửu hàng đầu của Trung Quốc " Mao Đài, Phần, Lư Châu ")... Tửu bảo trông thấy mà tiếc đứt ruột, không nhịn được bèn trách:

– Tên đồ nho khổ rách áo ôm, ngươi điên đấy hả?

Giả Tú Tài không thèm để ý, vẻ mặt như ngây như dại, thở dài than:

– Bát rượu này là để kính viếng hương hồn Văn Thiên Tường Thừa tướng, hôm nay là ngày giỗ của người.

Cái khay đồng trên tay tửu bảo tuột rơi đánh xoảng, mặt hắn xanh lè như chàm đổ:

– Ngươi nói nhăng gì thế?

Giả Tú Tài trợn trạo mắng:

– Ngậm cái mồm chó của ngươi lại, lão gia mời khách, liên quan đếch gí đến ngươi!

Tửu bảo tức đến run người, lắp bắp cự lại:

– Ngươi… ngươi. người đã chết rồi còn uống rượu sao được nữa?

Giả Tú Tài hất mặt lên, cao giọng ngâm:

Lận đận bởi chưng chức phận nhiều,

Bốn năm chinh chiến mấy hoang liêu.

Nước tan như gió tung bông liễu,

Thân dập tựa mưa quất cánh bèo.

Gớm ghiếc sóng cơn cồn gớm ghiếc,

Liêu xiêu biển dợn nỗi liêu xiêu.

Đời người tự cổ ai không chết,

Cốt để lòng son chiếu sử điều...(Bài thơ Quá Đinh Linh dương của Văn Thiên Tường. Bài dịch lấy ý thay vì dùng thẳng hai địa danh bến Hoàng Khung và quang Đinh Linh)

Giọng ca trầm buồn u uất, tựa hồ trong dạ dồn nén nỗi niềm bi thống bất tận. Ngâm xong, Giả Tú Tài uống nốt phần rượu thừa trong chung, cười nhạt:

– Có người đã chết mà lòng son còn mãi rạng ngời, có kẻ vẫn sống nhưng chẳng qua chỉ là bị da bọc đống thịt thối mà thôi. Năm xưa Văn Thừa tướng bị cầm tù ở Đại Đô, ba năm không khuất phục, thật lẫm liệt nghĩa khí, những kẻ học chữ ngày nay đều chỉ biết khom lưng luồn cúi ngoại tộc, tham cầu công danh ở chân bọn Thát, chẳng được mấy người cốt cách. Nhục nhã thay, đáng buồn thay…

Tửu bảo nghe hắn nói năng thẳng thừng, càng nói càng sa đã như vậy thì lo cuống lo quýt, vung tay chộp cứng ngực áo họ Giả, mắng rằng:

– Ngươi mà còn lôi quốc sự ra đàm tiểu thì ta sẽ ném ngươi xuống… ối chà…

Cùng với tiếng kêu, thân hình phì nộn của tên tửu bảo bật thốc lên, lao thẳng xuống dưới lầu.

Ai cũng lấy làm ngạc nhiên, Lương Tiêu liếc qua là biết Giả Tú Tài võ công đầy mình. Tửu bảo thò tay ra kéo hắn, ngờ đâu bị hắn hất ngực cho văng xuống dưới nhà, chỉ vì xuất thủ nhanh quá nên không tinh thì không sao nhìn kịp. Phong Liên cũng trông thấy, bụng bảo dạ: “Không ngờ kệ vô lại này có bản lĩnh ghê gớm đến vậy!“.

Chưa nghĩ xong, lại nghe thấy tửu bảo rú lên kinh hãi rồi bị quăng lên gác như một quả cầu thịt, bay thẳng đến chỗ Giả Tú Tài. Họ Giả cười hì hì:

– Đúng lúc lắm! – rồi chĩa quạt gấp chọc vào hông tên tửu bảo, hất hắn ngã lộn nhào.

Song người dưới lầu có sức ném rất mạnh, tên tửu bảo đã đặt được hai chân xuống đất mà không trụ vững nổi, lại lăn lông lốc đến chỗ Lương Tiêu. Hắn vừa ngạc nhiên vừa khiếp sợ, la hét đến điếc cả tai. Lương Tiêu thản nhiên như không, thò tay nắm lấy lưng tửu bảo, ghìm thế lao của hắn. Tửu bảo dừng lại được thì hai chân đã mềm như búrr, ngã sầm xuống đất, mặt trắng nhợt không còn hột máu.

Giả Tú Tài trông mà thất kinh, cú chọc của y là tá lực đả lực, vốn nặng tới mấy trăm cân lực đạo, xuất chiêu với dụng ý húc Lương Tiêu ngã chổng vó, nào ngờ tên dị tộc kia cử động nhẹ nhàng mà giữ được người ta dễ như động ngón tay.

Họ Giả chưa hoàn hồn, phía cầu thang chợt vẳng tới tiếng động thịch thịch rất to, lẫn với tiếng thở phì phò như kéo bễ, nghe như thể ai đó đang vác một vật rất nặng, giậm từng bước lên gác.

Chỉ lát sau, một cái sọ to mẫm nhô lên khỏi đầu cầu thang, mặt nần nẫn thịt, chẳng thấy mắt mũi mồm đâu cả. Người ngợm nhễ nhại mồ hôi, những múi thịt khắp thân thể hắn liên tục rung rưng theo mỗi bước chân.

Giả Tú Tài có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy kẻ mới xuất hiện. Tên béo lê thằng đến bàn họ Giả, kéo ghế đầu ra ngồi, nào ngờ sau một tiếng “rắc”, cái ghế bửa luôn làm hai mảnh khiến hắn ngã bệt xuống đất, may mà sàn nhà dày chắc, chỉ phát ra một tiếng động khẽ dưới bộ mông đồ sộ. Người đó thở hồng hộc, mặt mày đỏ gay như tôm càng, than rằng:

– Thôi, ngồi luôn xuống đất cũng được.

Giả Tú Tài bấy giờ mới trấn tĩnh, nhổm dậy khỏi ghế, kinh ngạc hỏi:

– Bạch lão nhị đấy à?

Người nọ Ôm Ôm trả lời, đôi mắt ti hí bắn ra những tia giận dữ:

– Giả lão tam, ngươi còn giả vỡ không nhận ra lão tử ư? Đồ đều nhà ngươi, năm trăm lạng bạc nén của ta đâu rồi, trả lại đây!

Giả Tú Tài nhìn hắn hồi lâu, vụt ôm bụng cười hô hố. Bạch lão nhị tức điên, thóa mạ:

– Cười cái mả cha ngươi! – rồi nhặt hai mảnh ghế đầu lên ném Giả Tú Tài.

Họ Giả hụp đầu xuống, gấp quạt chọc mỗi bên một nhát. Một mảnh ghế gãy bay vù qua cửa sổ, rơi tõm xuống sông, còn một mảnh thì bắn trúng tường. Bạch lão nhị nhảy dựng lên, định vẫy chưởng ra, Giả Tú Tài đả lùi lại nửa bộ, giở quạt đánh phạch:

– Bạch Bất Ngật, từ tốn thôi, với bộ dạng như vậy huynh không địch nổi đệ đâu.

Đôi mắt ti hí lóe lên dữ dội, Bạch lão nhị rống to:

– Đừng nhiều lời nữa, trả bạc đây!

Giả Tú Tài cười hềnh hệch:

– Chúng ta kể cũng là anh em kết nghĩa, có năm trăm lạng bọ, đừng tính đếm chi li thế!

Bạch Bất Ngật nhổ toẹt một miếng:

– Anh em kết nghĩa cái con tườu, bạc đó một nửa là ngươi vay, một nửa là ngươi lừa, lão tử có thể chịu thiệt về vật chất, nhưng quyết không cho phép kẻ nào chơi khăm lão tử.

Giả Tú Tài đảo mắt tính mưu tìm kế, chợt dưới lầu có tiếng cười khanh khách:

– Bạch Bất Ngật nói phải lắm, giết người đền mạng có nợ phải trả, huống hồ Giả Tú Tài vừa lừa vừa nợ, càng thêm sai trái, Dư âm chưa dứt đã thấy một bóng vàng loáng sáng, chỉ chốc lát là tụ thành hình một nữ tử ôm đàn tÿ bà đứng yếu điệu giữa phòng. Phong Liên thầm tán thưởng: “Khinh công tuyệt quá!“.

Nữ tử đó vận áo ngắn màu vàng, bên trong là áo dài màu xanh lục, tuổi ước ba mươi, vóc dáng thon thả uyển chuyển, trên trán có một nốt ruồi đỏ khiến dung nhan càng thêm sắc sảo. Giả Tú Tài không hề bối rối, tỉnh bơ nói:

– Kim Thúy Vũ, cô biết kéo bè kéo cánh với Bạch Bất Ngật để hà hiếp ta tự lúc nào vậy?

Nữ tử áo vàng mắng:

– Cái quân phá gia chi tử trời đánh thánh đâm, cầu cho lưỡi ngươi mọc nhọt, gan ruột bị lửa thiêu cháy hết đi. Lão nương chỉ xét đoán công bằng thôi.

Giả Tú Tài cười sằng sặc:

– Ôi trời! Thôi được, hôm nay Giả mỗ thần cô thế cô, đành tạm nhún nhường. Bạch Bất Ngật, chúng ta đánh cuộc một phen, nếu huynh thắng, đệ sẽ trả gấp đôi món nợ. Nếu huynh thua, không bao giờ được kèo nhèo đổi tại số bạc đó nữa.

Kim Thúy Vũ ngờ vực hỏi:

– Ngươi lại nghĩ ra trò ma gì vậy? Bạch nhị ca, huynh đừng để trúng kế hắn.

Bạch Bất Ngật đảo đảo cặp mắt ti hí, vỗ đùi đánh đét:

– Đánh cuộc thì đánh cuộc, luật chơi thế nào đây?

Kim Thúy Vũ thở dài, lắc lắc đầu, Giả Tú Tài lấy trong ngực áo ra ba đồng tiền, cười nói:

– Luật chơi rất đơn giản, gói gọn trong câu này: “ngửa mặt gieo quẻ, chạm đất trả tiền“. Đệ sẽ ném ba đồng tiền này đi, hễ một đồng rơi xuống đất là đệ thua, không rơi thì huynh thua.

Bạch Bất Ngật nghĩ: “Chẳng bao giờ tiền không rod xuống, trừ phi ngươi bắt giữa chừng. Hừ, đồ phá gia chi tử nhà ngươi định đọ nhanh tay với ta chắc“. Hắn bất giác nở nụ cười.

Kim Thúy Vũ nhìn hết người nọ đến người kia, đoạn xen vào:

– Phá gia chi tử! Bạch nhị ca nức tiếng khắp dải Quan Trung và Lạc Dương về tuyệt kỹ Nã vãn thủ. Đọ thủ pháp với nhị ca là ngươi lãnh phần bất lợi rồi. Nhưng nếu ngươi ném được đồng tiền đi thật xa thì có thể thắng đấy, vì khinh công của nhị ca không bằng ngươi.

Giả Tú Tài biến sắc mặt, Bạch Đất Ngật sực hiểu: “May mà Kim lão tứ chỉ điểm, bằng không ta đã mắc lừa họ Giả kia“. Hắn bèn nghiêm nghị giao hẹn:

– Giả lão tam, ta thêm vào một điều kiện nữa, đồng tiền không được rơi ra ngoài tòa lầu này, trái lại coi như ngươi thua.

Giả Tú Tài nhún vai:

– Được, nhìn kỹ đây nhé! – rồi hất tay, ba đồng tiền bắn vọt lên.

Bạch Bất Ngật chưa kịp nhìn kỹ, ba đồng tiền đã găm sâu vào xà nhà sau mấy tiếng rít gió. Kim Thúy Vũ ngẩn người, lắc đầu thở dài:

– Quân phá gia kia, ngươi ghê thật đấy.

Giả Tú Tài liếc Bạch Bất Ngật:

– Sao nào?

Mấy đồng tiền găm rất sâu, chỉ có cách đập nát xà nhà mới lấy ra được. Bạch Bất Ngật hết gầm vang tức tối lại nhảy chôm chôm, hiềm nỗi nặng cân, giỏi lắm cũng chỉ nhảy lên được ba thước, ngượng quá hóa giận, hắn nhấc luôn một băng ghế quai tay phóng lên xà nhà.

Kim Thúy Vũ vội cong ngón tay bật gẩy trên dây đàn. “Tinh”, một tia sáng vàng phụt ra khỏi kẽ ngón tay, bắn trúng cái ghế băng, chiếc ghế rơi xuống đất, tia sáng cũng rơi theo, hiện hình một chiếc móng gầy bằng đồng. Dùng chiếc móng bé xíu mà đánh rớt được cả một băng ghế dài, tuy là mượn kình từ dây đàn tÿ bà, nhưng nội công đạt đến trình độ ấy kể cũng là đáng sợ. Bạch Bất Ngật đang ngơ ngác, Kim Thúy Vũ đã dịch bước đến nhặt cái móng, nhẹ nhàng khuyên:

– Thôi nhị ca ạ. Chẳng lẽ chỉ vì năm trăm lạng bạc mà huynh định đánh sập cả tửu lâu của người ta? Nếu Thần Ưng sứ đến thì biết ăn nói thế nào?

Bạch Bất Ngật cau có hừ một tiếng, Giả Tú Tài giở quạt đánh soạt:

– Bạch lão nhị, đã thỏa thuận là tiền không rơi xuống đất thì huynh thua cơ mà.

Bạch Bất Ngật vằn mắt lên, nhưng bắt gặp vẻ mặt ưấn áp của Kim Thúy Vũ lại đành giậm chân:

– Được, coi như ta thua, – rồi thở hồng hộc, ngồi bịch xuống đất.

Kim Thúy Vũ ôm đàn vào lòng, duyên dáng ngồi xuống, ngó quanh:

– Quan Lạc Tứ Kiệt, bốn mặt đã có ba, tại sao Trì lão đại còn chưa xuất hiện?

Giả Tú Tài ngừng quạt:

– Các ngươi cũng là do Trì lão đại gọi đến đấy à?

– Phải, – Kim Thúy Vũ đáp. – Nghe nói Thần Ưng sứ yêu cầu hội kiến, Giả Tú Tài nâng vò rót một chung rượu:

– Đã ba năm rồi Thần Ung lệnh chưa vượt Hoàng Hà sang đây. Đến đâu chả đến, cứ chọn Cửu Khúc các làm nơi tụ hợp, khiến cái thân chủ nhà là ta phải tán gia bại sán, khổ ơi là khổ!

Kim Thúy Vũ bĩu môi:

– Thần Ưng sứ mà nghe thấy câu ấy thì lôi thôi to đấy.

Giả Tú Tài cười ha hả, lại quay sang Bạch Bất Ngật:

– Kể xem, vì sao bộ dạng huynh thành ra thế này?

Kim Thúy Vũ cũng hỏi giọng quan thiết:

– Phải đấy, mới ba năm không gặp, cớ sao nhị ca phát phúc quá vậy?

Bạch Bất Ngật trừng mắt hậm hực:

– Phát phúc cái gì, phát họa thì có.

– Huynh nói thế là thế nào? – Kim Thúy Vủ ngạc nhiên.

Bạch Bất Ngật xoa xoa cái bụng mỡ tròn vo, bực bội thở hất ra:

– Nếu có cách thì ai lại để mình biến tướng phệ phạc thế này. Hừ, ta bị hãm hại đấy!

Giả Tú Tài và Kim Thúy Vũ thắc mắc nhìn nhau, Giả Tú Tài trầm giọng:

– Huynh đã từng nói, Quan Lạc Tứ Kiệt nhất chí đồng tâm. Kẻ nào hãm hại huynh, Giả mỗ sẽ liều mình với hắn để trả hận.

Bạch Bất Ngật có vẻ cảm động, thở dài kể:

– Ba năm trước, Trì lão đại cắt cử ta tích trữ lương thảo để chuẩn bị cho việc khởi sự. Ta bôn ba khắp nơi cùng chốn, khó khăn lắm mới thu mua được hai vạn gánh lương thực chất ở nhà. Nào ngờ cùng năm ấy nước Hoàng Hà lên to làm úng hết ruộng đồng xung quanh, chẳng mấy choc trước cửa nhà ta đã ùn ùn một đống dân đói, cầu xin ta mở kho cứu tế. Hai vị đệ muội ạ, không phải ca ca đây tham tiếc gì tài sản, nhưng đã nhận ủy thác của Trì lão đại, không thể tùy tiện đemiương thực ra phân phát cho người này người nọ…

Giả Tú Tài phản đối:

– Thế là sai. Mở kho cứu nạn đâu phải tùy tiện, là việc cần chứ!

Bạch Bất Ngật đập bẹt vào đùi, giọng ảo não:

– Bây giờ ngẫm lại thì thấy lời đệ là đúng lắm, nhưng lúc đó ta mê muội lú lẫn nên làm toàn việc hồ đồ, lấy gậy đánh đuổi hết đám nạn dân đó đi. Ôi, thế thôi đá đi một nhẽ, đằng này đuổi nạn dân xong, ca ca còn giết gả mổ bò, dọn một bữa tiệc linh đình, rù mấy tay bạn bè xôi thịt, lại gọi thêm mấy ả kỹ nữ đến đánh chén mua vui ở nhà… Đệ cũng biết ca ca là người ham ăn uống, nào phải tự nhiên mà có cái tên Bạch Bất Ngật đâu..(Không ăn thì phí)

Giả Tú Tài gập quạt lại, cười nhạt:

Nhà giàu rượu thịt ngạt ngào,

Ngoài đường đói lạnh chết bao nhiêu người..(Trích bài Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự tả chuyện trên đường từ kinh đô đến huyện Phụng Tiên của Đỗ Phủ)

Bạch lão nhị, nếu lúc ấy mà đệ trông thấy thì chắc chắn đệ sẽ từ mặt huynh.

Kim Thúy Vũ dàu dàu than:

– Phải, huynh cư xử thật không hiệp nghĩa chút nào, Trì lão đại mà biết thì chẳng hiểu sẽ nói sao đây.

Bạch Bất Ngật sửng côh:

– Ta đã kể thật với hai ngươi là chẳng coi chuyện sống chết vào đâu nữa rồi,

Hắn chợt đổi giọng ủ rũ.

– Huống hồ bộ dạng ta kinh khủng thế này, sống cũng không bằng chết.

Giả Tú Tài ngạc nhiên:

– Chẳng lẽ có người đến lập lại công bằng hay sao?

Bạch Bất Ngật gật gật đầu:

– Đúng lúc ta đang say sưa yến ẩm với bạn bè, ngoài cửa bỗng có ba người xuất hiện. Người dẫn đầu khá là nhã nhặn, thở ra toàn câu khách sáo, nào là ông trời có đức hiếu sinh, mong ngươi mở kho cứu tế dân lành vân vân. Lúc ấy ta đã ngà ngà, chả coi đối phương vào đâu, chỉ nói chỏng lỏn: “Cứu tế để lão tử ăn gió uống mưa à? Còn lèm bèm nữa thì lão tử đè ngươi ra uống huyết đấy, lão tử ăn đủ mọi thứ rồi, chỉ chưa ăn thịt người mà thôi“.

Ta tuôn ra rất nhiều lời lẽ quá đáng, song người đó giỏi nín nhịn lạ lùng, bất kể chướng tai đến đâu cũng không tộ ra bực bội cáu kỉnh, ngược lại vẫn nhũn nhặn đối đáp. Lão tử nghe lải nhải nhiều quá đâm điên tiết, nhân hơi men bèn sấn tới động thủ, không ngờ người đó mang theo mấy tên trợ thủ lợi hại vô cùng, ta vừa thò tay ra chọc đã bị bọn chúng hất ngã…

Kim Thúy Vủ tròn mắt:

– Tại vì huynh say, phải không?

Bạch Bất Ngật lắc đầu:

– Không, nhị ca xưa nay uống được chừng nào là khỏe lên chừng đó, hơn nữa hôm ấy uống cũng chừng mực, chưa đến mức độ túy lúy mất cả lý trí.

Võ công Giả Tú Tài tương đương Bạch Bất Ngật, nghe nói nhị ca thất bại chỉ sau một chiêu, hắn khó chịu vô cùng, bèn phe phẩy cây quạt rách, nói vẻ am hiểu:

– Người có khi lỡ tay, ngựa có khi sảy vó, ra chiêu trượt đích cũng là chuyện bình thường.

Bạch Bất Ngật lắc đầu:

– Lúc ấy ta cũng nghĩ thế, bèn nhổm dậy tung đòn đá liên hoàn nhằm thẳng vào bụng dưới hắn. Nào ngờ mấy tay trợ thủ kia nắm luôn lấy bàn chân ta, hất ta ngã chỏng gọng. Lão tử vẫn không nản chí, bèn lóp ngóp bò dậy, nhưng lại bị đầy ngã tiếp. Cứ thế trước sau ngã đến bảy tám lần, cuối cùng ta cũng tỉnh ra, biết mình đã gặp phải cao nhân.

Có điều, người tập võ như chúng ta có cái tự trọng riêng, dẫu thua liểng xiểng cũng khó lòng mở miệng thần phục.

Bạch Bất Ngật này tung hoành khắp dải Quan Lạc, nào đã gặp phải điều gì ấm ức như thế bao giờ, vậy là nộ khí xung thiên, ta vớ luôn một cây thương trên giá binh khí, nghĩ thầm bắt giặc phải bắt tướng trước, bèn rung thương đâm luôn kẻ đứng đầu. Không ngờ một trong hai tên viện thủ thò ngay tay ra, vừa nắm mủi thương vừa cười hì hì, lão tử vận hết sức lực bình sinh cũng không giằng được thương về phía mình.

Giả Tú Tài và Kim Thúy Vũ bất giác đưa mắt nhìn nhau, mặt trắng bệch. Bạch Bất Ngật ủ rủ tiếp:

– Người đứng đầu thấy thế, thở dài thườn thượt: “Bạch Bất Ngạt, ngươi cứ mãi ngu muội ngoan cố, là vì cớ gì? Ta hỏi lại lần nữa, ngươi có đồng ý mở kho lương không?“.

Lúc đó lão tử đang tức lộn một, bèn gạt phắt đi. Người nọ bèn nói: “Được, lương thực là của ngươi, ta không ép ngươi nữa. Nhưng ngươỉ đánh dân đói, đó là lỗi thứ nhất; bên ngoài nước lụt khắp đồng dã, ngươi lại mặc tình ăn thơi hưởng lạc, tàn nhẫn quá độ, đó là lỗi thứ hai; bây giờ lại cố tình độc ác, giở chiêu nào cũng nhăm nhăm lấy mạng người ta, đó là lỗi thứ ba. Ba lỗi này đủ để phạt ngươi“.

Lúc đó ta vẫn gan cùng mình, bèn nhiếc rằng: “Ngươi có giỏi thì giết ngay lão tử đi, chứ muốn ta khom lưng quỵ lụy là không được đâu“. Người đó lắc đầu: “Ta không giết ngươi, nhưng nghe nói ngươi ham của ngon vật lạ, thích nhất là thú ăn uống, nên ta sẽ cấm ngươi không thể ăn thịt uống rượu trong ba năm“.

Ta bèn mỉa: “Ngươi định nhốt lão tử lại chắc?“.

Người đó mỉm cười: “Ta làm gì có nhiều thời gian rỗi rãi đến thế. Trong ba năm, nếu ngươi cải tà quy chính, ta sẽ giải trừ lệnh cấm cho ngươi, nhưng nếu ngươi tiết lộ nửa lời về hình tích của ta thì đừng mong gặp lại ta nữa”, nói đoạn vẫy hai tên trợ thủ rồi dắt nhau đi thẳng.

Ta nghe hắn phát ngôn ghê gớm, ngờ đâu chỉ là hạng kíp miệng chầy chân, cố nhiên trong lòng rất khinh bỉ, bèn ngoạc miệng ra chửi vuốt một hồi rồi quay vào hô hào mọi người tiếp tục ăn thịt uống rượu. Sáng hôm sau, vừa ngủ dậy, ta đã cảm thấy gân cốt đau như dần, toàn thân trưởng hết lên, lúc đầu còn tưởng là do hôm qua lật quật ngã lên ngã xưống nên không chú ý lắm, bèn gọi bạn bè đến bù khú nhậu nhẹt tiếp.

Cứ thế thêm dăm ba ngày, chỉ biết trong người mỗi hôm một đau thêm, đến sáng thứ bảy thì da thịt nhức nhối như thể sắp nứt bung đến nơi. Ta thường cho mình là một trang hắn tử vững vàng cứng rắn, thế mà đạo ấy vật vã đến mức chết đi sống lại, lăn tộn khắp nhà, đành mời đại phu, nhưng không một ai tìm ra nguyên do.

Bạch Bất Ngật kể đến đây, nỗi chưa chát kéo đầy khuôn mặt phị mỡ. Kim Thúy Vũ hỏi:

– Bạch nhị ca, liệu có phải trước khi bỏ đi, người nọ đã giở thủ đoạn gì đó với huynh?

Bạch Bất Ngật trầm tư:

– Ta cũng lấy làm lạ, từ đầu đến cuối hắn không động đậy đến một ngón tay, làm sao ám hại ta được? Nghĩ mãi cũng không ra. Lại kể, đúng lúc đau đớn cùng cực, đột ngột ta nhớ lại lời người nọ, vội vàng bảo gia nhân nấu củ cải và rau xanh để ăn. Kể cũng lạ, ăn chay khiến ta dễ chịu hơn nhiều. Ta ăn chay liên tiếp ba ngày, cơn đau hoàn toàn biến mất. Đệ và muội cũng biết đấy, lão ca đam mê ăn uống, thích nhất là cao lương mĩ vị, làm sao bầu bạn với rau dưa muối cả được mãi. Bốn năm ngày sau, không chịu nổi, ta mạo hiểm ăn chút thịt, uống chút rượu, kết quả rất khả quan, không hề bệnh tật đau đớn chút nào. Ta vốn không biết lợi hại, thấy thế mừng thầm, bắt đầu ăn mặn trở lại, nhưng tấm thân cũng theo đó phát phì, mỗi ngày một phình to như quả bóng khí, Chỉ một tháng sau, từ một hắn tử rắn rõi, ta biến thành một tên béo quay béo cút. Bấy giờ ta mới hiểu ngụ ý của người nọ, ngẫm mà sợ hãi, lại trở về ăn chay như cũ. Thậm chí còn sợ ba năm sau người đó không đến giải cứu, ta bèn mở kho lương phát chẩn cho nạn dân. Khổ nỗi ca ca đã sij quen ăn mặn, trông thấy sơn hào hải vị ngôn ngộn làm sao ngoảnh mặt cho đành, dăm bữa nửa tháng thế nào cũng phải phá giới một lần. –

Hắn thở dài kết luận. – Cứ ăn mặn là tăng trọng, ba năm qua đi, ta đã iu biến thành thế này đấy.

Giả Tú Tài hỏi:

– Người đó không đến nữa ư?

Nỗi buồn in hằn trên mặt Bạch Bất Ngật:

– Có lẽ chưa đến lúc, mà cũng có lẽ người ta đã quên từ đời tám hoánh nào rồi. Huống hồ ta béo quá mức, chẳng biết còn cứu được nữa không?

Kim Thúy Vũ trợn ngược hàng mày liễu, giọng bất bình:

– Cùng lắm thì giết phắt người ta đi cho xong, giở trò độc địa hành hạ nhau thế kia, thật tàn nhẫn quá!

Giả Tú Tài tủm tỉm:

– Ta lại nghĩ khác. Cách đó là tự làm tự chịu, thấm thìa lắm.

Bạch Bất Ngật bất bình:

– Giả lão tam, tại sao lại anh em khinh trước, làng nước khinh sau như thế?

Giả Tú Tài sẵn tức họ Bạch không chịu phát gạo cứu đói nên cố ý chọc ghẹo, nghe vậy cười bảo:

– Người đời có câu chết mồ chết mả không bằng sống vạ sống vật nhị ca nghĩ thoáng ra một chút đi. Nào, ba huynh đệ chúng ta lầu lắm mới gặp nhau, hôm nay nhất định phải chè chén đến say sưa túy lúỵ, say mãi không tỉnh mới thôi, ha ha!

Bạch Bất Ngật trừng mắt nhìn lại:

– Phá gia chi tử! Ngươi rắp tâm gây khó cho ta, phải không?

Giả Tú Tài vẫn hơn hớn:

– Đằng nào huynh cũng đã béo l một đống rồi, béo thêm chút nữa cũng không sao. Cửu Khúc các có đặc sản cá chép Hoàng Hà, vừa mềm vừa trắng, thơm ngon tuyệt trần, nói là thiên hạ đệ nhất ngư cũng không quá, hôm nay nhất định phải ăn mới được.

Bạch Bất Ngật trợn mắt, phẫn uất thở phì phì. Giả Tú Tài nghiễm nhiên phớt lờ, vẫy tay gọi tửu bảo:

– Hà Lục Nhi!

Tửu bảo đã được chứng kiến công phu họ Giả, lòng tuy căm hận nhưng ngoài miệng vẫn phải vâng dạ rối rít. Giả Tú Tài cứcn nói:

– Làm hai con cá chép Hoàng Hà để lão gia nhắm rượu.

Phong Liên bứt rứt, bèn gọì với:

– Làm luôn cho chúng ta một con nữa.

Cô vừa thốt ra, chợt nghe cậu bé con đằng kia cũng cất tiếng một lượt với mình, bất giác phải đưa mắt nhìn lại, tủm tỉm cười. Cậu bé xấu hổ, vội xòe cái quạt dát vàng ra che khuôn mặt đỏ bừng, mặt quạt vẽ một búi cỏ bội lan, bên cạnh còn đề mấy hàng chữ viết theo lối thào. Lương Tiêu thoáng trông nét chữ, ánh mắt bỗng thay đổi.

Tửu bảo cười man:

– Xin lỗi, hai ngày gần đây sóng to gió lớn, các nhà chài đều không dám xuống nước đánh cá. Hôm nay chẳng có một con cá chép nào hết.

Giả Tú Tài đưa mắt nhìn ra sông, chi thấy sóng nổi cuồn cuộn, mưa giọt thia lia xuống mặt nước, biết rằng tửu bảo không nói dối, bất giác cụt hứng, chán nản xua tay.

Tửu bảo rút lui, đúng lúc ấy, có người hát vang bên ngoài:

Tu đây sinh sống ở ven sông, Tự lực cánh sinh chẳng ngại công, Thường cưỡi thuyền con vượt sóng cả, Sớm hôm chài lưới kiếm vài đồng.

Giọng ca khỏe khoắn vang vọng, át đi cả tiếng mua rơi rào rào, vang đến nổi có khi người điếc cũng nghe được. Lương Tiêu đưa mắt nhìn theo tiếng hát thì thấy một con đò nhỏ đang trồi lên sụt xuống theo ba đào, trên đồ là một người mặc áo tơi đội nón lá, tay khua đầy đôi mái chèo, cũng sụt xuống trồi lên theo nhịp sóng. Con đò mong manh mà vô cùng mạnh mẽ, phong ba cũng không nhận chìm nổi.

Chẳng bao lâu, đò tới chân lầu, người nọ buộc dây neo lại rồi vẫy hai tay, nhẹ nhàng bay qua cửa sổ như cánh én xuyên mây, đáp xuống giữa phòng, cười ha hả:

– Ba người đến sớm thế!

Bọn Giả Tú Tài đã đứng dậy từ nãy, bấy giờ vòng tay chào:

– Trì lão đại!

Tay lái đò nọ chính là Trì Tiễn Ngư, người đứng đầu trong Quan Lạc Tứ Kiệt. Y hẩy rơi tấm áo tơỉ và cái nón lá, để lộ khuôn mặt già dặn và hai bên tóc mai đã điểm bạc, tuổi ước năm mươi, dáng vẻ còn rất nho nhã phong lưu. Y xách hai con cái chép tươi nguyên đang giãy đành đạch, cười bảo:

– Ngoài sông gió to quá, dần chài lưới chẳng dám xuống nước. Ta sợ không có cá ăn sẽ khiến mọi người mất hứng nên gắng đến sớm, ra sông bắt vội hai con.

Kim Thúy Vũ cười khanh khách:

– Đại ca tinh tế cẩn thận, suy tính chu đáo thật.

Giả Tú Tài nói:

– Sai rồi, chính là nhờ ta đoán việc như thần, gieo quẻ biết trước nên đã gọi mấy món nhắm ngon lành, đợi cá chép của Trì lão đại đến phối hợp.

Kim Thúy Vũ lườm y:

– Đem quẻ kiếc của ngươi đi lừa kẻ ngốc may ra còn có người tin.

Giả Tú Tài ra vẻ kinh ngạc:

– Lạ nhỉ, ta lừa muội bao giờ chưa?

Kim Thúy Vũ chừng như nổi nóng đến nơi. Trì Tiễn Ngư đưa tay can hai người, cười xòa:

– Lão tam, lão tứ, ta tưởng ba năm cách biệt, đệ và muội đã bén duyên cầm sắt nên đôi nên lửa từ lâu rồi chứ, tại sao vẫn giận hờn trẻ con như vậy?

Kim Thúy Vũ đỏ bừng mặt, giậm chân trách:

– Lão đại đừng mở miệng ra là nói lâm vào chuyện của muội, phàm là phận gái ngoan trên đời, ai mà chịu thành đôi với một tên phá gia để hèn vô sỉ lật lọng lừa đảo thế kia.

Giả Tú Tài xì một tiếng, uể oải đáp lại:

– Cô mà là gái ngoan? Đừng cưa sừng làm nghé nữa đi!

Phong Liên theo dõi mà buồn cười quá đỗi, nghĩ bụng: “Họ Giả tốt đâu không biết, nhưng cứ kéo dài mãi giọng điệu này thì thể nào cũng khiến người ta tức chết”.

Quả nhiên, Kim Thúy Vũ sầm mặt, Trì Tiễn Ngư vội nói át:

– Thôi thôi, cho ta xin, chỉ trách ta lắm mồm, nếu đệ và muội muốn trút giận thì cứ đổ vào đầu ta là được.

Y đã nói vậy, hai người kia cũng không tiện cãi cọ nữa. Trì Tiễn Ngư vẫn lấy làm lạ vì sự phát tướng kỳ quặc của Bạch Bất Ngật, can hai đệ muội xong, định hỏi hắn cớ sự thì chợt nghe giọng trẻ con giòn giã:

– Lão tiên sinh, cá bán thế nào?

Họ Trì ngoái đầu lại thì thấy chính tà cậu bé ăn vận kiểu người lớn đang ngồi trong góc nhà, bèn ôn tồn hỏi:

– Tiểu bằng hữu, người lớn nhà cậu đâu?

Cậu bé xịu mặt, chán nản nói:

– Tiểu cái gì mà tiểu? Hừ, ngươi thấy ta còn nhỏ lắm à?

Trì Tiễn Ngư bật cười, giơ hai ngón tay tạo một khoảng cách ngắn:

– Mới bằng ngần này thôi.

Cậu bé vùng vằng, sắc mặt càng khó coi:

– Lão già, có bán cá thì bán, tại sao phải nhì nhằng lắm lời thế?

Trì Tiễn Ngư hơi tái mặt, Bạch Bất Ngật vốn nóng nảy, mắng ngay:

– Thằng ranh con, muốn chết à? Dám ăn nói vớỉ ông nội ngươi thế hả?

Cậu bé trề môi:

– Lão ấy xứng làm ông nội ta ư? ông của ta chỉ giơ một ngón tay cũng đủ di chết bốn đứa các ngươi.

Bạch Bất Ngật đùng đùng nổi giận, quất tay áo nhảy dựng lên. Trì Tiễn Ngư vội cản lại, nghĩ bụng: “Cậu bé này nghênh ngang bạo dạn, có khi là con cháu của bậc cao nhân nào đó cũng nên. Vả chăng, ta là lão đại của Quan Lạc Tứ Kiệt, đầu hai thứ tóc rồi, chẳng lẽ còn chấp nhặt một cậu bé con“.

Y bèn cười xòa:

– Tiểu bằng hữu, ta mang cá đến đây không phải để bán đâu.

Cậu bé bĩu môi:

– Thì ra ngươi già lão, da mặt cũng rão theo, nói dối không biết ngượng nữa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 82: Hoàng Hà Cửu Khúc (2)

Trì Tiễn Ngư ngạc nhiên hỏi:

– Ta nói dối bao giờ?

– Khi ngươi hát hò ngoài sông, có rao “Sớm hôm chài lưới kiếm vài đồng” đấy thôi? Bây giờ lại chối đây đầy là không bán, trở mặt như trở bàn tay, chẳng phải hảo hán.

Trì Tiễn Ngư phì cươri: “Đúng là trẻ con, ta tiện miệng hát dăm câu mà nó lại tưởng là thật“. Nhưng y vốn phóng khoáng rộng lượng, chẳng bao giờ lấn lướt chèn ép ai, đàn bà trẻ con lại càng không, nghĩ một lúc rồi nói:

– Rao là rao vậy thôi, e rằng cậu không mua nổi.

Cậu bé nhướng mày, lần tay vào thắt lưng, tuốt ra một chuỗi ngọc, quăng đánh bẹt lên mặt bàn. Chuỗi ngọc lóng lánh ngời sáng, hạt nào hạt nấy to hơn đầu ngón tay cái, tỏa ra hào quang dìu dịu.

Một cậu bé mà mang theo mình báu vật quỹ giá nhường ấy, ai nấy đều sửng sốt. Bạch Bất Ngật vốn tham lam, trông chuỗi ngọc trai mà mắt suýt rơỉ khỏi tròng. Cậu bé giở quạt dát vàng, yênh vang hỏi:

– Chuỗi hạt châu này là đủ chứ gì?

Trì Tiễn Ngư hít một hơi thật sâu, rời mắt khỏi những hạt ngọc óng ánh, liếc nhanh về phía thầy trò Lương Tiêu rồi nghiêm nghị bảo cậu bé:

– Ở đây tai vách mạch dừng, cậu mau cất ngọc đi, nếu để kẻ gian nhìn thấy thì không có lợi cho cậu đâu, Cậu bé hất mặt lên, ngạo nghễ đáp:

– Ta tự khắc có quyết định, không cần ngươi phải lo hão.

Khuôn mặt non tơ mà giọng điệu lại già đời hống hách. Trì Tiễn Ngư vừa tức vừa buồn cười, bèn đùa:

– Hễ ta muốn bán cá thì lấy dăm ba đồng gọi là hoặc biếu không đều được. Hễ không muốn bán, cậu có đưa hàng vạn cân ngọc trai ra đây ta cũng không thuận tình.

Cậu bé trố mắt không hiểu, Trì Tiễn Ngư lại ôn tồn nói:

– Trông phục sức, chắc cậu cũng là dòng dõi thi thư. Ta hẵng ra một vế đối thử xem lực học cậu thế nào, nếu cậu đáp được, ta sẵn lòng tặng cả, còn không đáp được thì đừng trách cứ gì ta nữa.

Cậu bé tươi mặt:

– Đối à, ta sành khoản ấy lắm, ngươi cứ ra đề đi.

Trì Tiễn Ngư ngẫm nghĩ: “Đồ chip hôi không biết trời cao đất dày, câu đối của lão phu mà ngươi tưởng đáp lại dễ thế à?“. Cân nhắc một lát, y nói:

– Hai hôm trước thời tiết ngột ngạt oi ả, ta đi qua sông, trông thấy một con cá chép đang giỡn nước, đúng lúc ấy cây mận bên bờ sông rụng một quả đúng ngay đầu con cá. Ta tấy đó làm đề, ra vế trên thế này: “Lý đả lý, lý trầm để, lý trầm lý phù“.

Giả Tú Tài vỗ tay khen:

– Vé này ra hay lắm, nhưng chỉ e hơi khó.

Cậu bé nghĩ: “Vế trên có liên quan đến cá chép, nhắc đến sự vật ở ngay trước mắt, mận và cá chép lại đồng âm, thật khó quá“.

Cậu cau mày, bất giác dừng ánh nhìn ở góc nhà, nơi bày bổn thục quỳ để trang trí, bấy giờ một con ong mặt trú mưa đang bay lăng xăng quanh đóa hoa, bất chợt cơn gió theo mưa hất vào phòng, thôi con ong ngã bẹt dí xuống đất. Cậu bé sáng mắt lên, buột miệng reo:

– Phong xuy phong, phong phốc địa, phong tức phong phi..(Trong tiềng Trung, “mận” và cá chép” đồng âm)

Cậu chưa dứt lời, trận gió đã lướt đi xa, ‘ tách” một tiếng, con ong lại bay lên. Trì Tiễn Ngư kinh ngạc vỗ tay tán thưởng:

– Đối tuyệt quá, đối tuyệt quá!

Y vốn là người đường hoàng khoáng đạt, nhận thua xong định đưa cá sang ngay, Bạch Bất Ngật liền cản:

– Khoan đã!

Trì Tiễn Ngư nhìn sang:

– Đệ có khiếu nại gí chăng?

Bạch Bất Ngật nói:

– Quan Lạc Tứ Kiệt tưng hoành khắp nơi, đâu thể để một đứa ranh con bẻ gãy uy phong.

Giả Tú Tài bật cười, uể oải phụ họa:

– Nhị ca nói phải đấy.

Kim Thúy Vũ im lặng, nhưng ánh mắt cũng biểu tán đồng.

Trì Tiễn Ngư nghĩ bụng: “Ba vị đệ muội đều là dạng tâm cao khí ngạo. Nếu ta vòng tay dâng cá cho người, nhất định họ sẽ cảm thấy rất mất thể diện”, bèn hỏi:

– Vậy theo ý đệ thì nên làm sao?

Bạch Bất Ngật đề xuất:

– Đệ là người làm ăn, không phải hạng đa tài nho nhã như lão đại và lão tứ. Vừa rồi đã đấu văn, nay đệ mạo muội thử tài toán của tiểu bằng hữu.

Trì Tiễn Ngư nhủ bụng: “Rõ ràng là nhị đệ cố ý làm khó nó, ban nãy nhờ may mắn mà đứa bé đối được, nhưng tuổi mới bằng ấy, số thuật làm sao sánh được một người lý tài, thạo tính toán như nhị đệ?“.

Nghĩ vậy, nhưng nể mặt Bạch Bất Ngật nên y không nói ra, ngờ đâu cậu bé cười hì hì:

– Được lắm, ngươi ra đề đi!

Thấy cậu bé bình thản ung dung, Bạch Bất Ngật cũng hơi chột dạ, đầng hắng mấy tiếng mới nói:

– Có bảy cân cá chép, hai cân cá trắm, tổng cộng bốn trăm hai mươi sáu đồng…

Giả Tú Tài xen vào:

– Mấy cân cá thôi mà sao đắt thế?

Bạch Bất Ngật hừ một tiếng:

– Ngươi hiểu cái cóc khô gì, vật hiếm mới quý, bây giờ không ra sông đánh bắt cá được, tất nhiên giá cả phải cao hơn bình thường chứ, Hừ, thôi không lạc đề nữa, giả sử đánh được ba cân cá chép, bốn cân cá trắm, tổng cộng là hai trăm tám mươi đồng. Hỏi mỗi loại bao nhiêu tiền một cân?

Nói một hơi hết bài, họ Bạch vớ luôn chén trà hớp một ngụm, đoạn liếc mắt nhìn đứa nhỏ, vẻ đắc thắng. Cậu bé cười nhạt:

– Đầy là phép trừ liên tiếp, có gì là khó, Bạch Bất Ngật bỗng tái mét mặt, chén trà trên tay rơi đánh choang xuống nền nhà. Cậu bé nhặt một nắm đũa rải ra làm que tính:

– Hàng bên phải là cá chép, hàng bên trái là cá trắm, gấp bảy lần hàng bên phải lên rồi nhân với bên trái, sau đó trừ liền ba lần hàng bên phải, được mỗi cân cá trắm là ba mươi mốt đồng, thay lại vào hàng bên phải, suy ra số tiền mỗi cân cá chép là năm mươi hai đồng.

Bạch Bất Ngật há hốc mồm xem cậu bé tính toán, nước dãi rớt ròng ròng. Trì Tiễn Ngư qua cơn sửng sốt lại vui vẻ nói:

– Đúng là một cậu bé thông minh đĩnh ngộ! Chẳng biết cha mẹ thế nào mà sinh được hài tử giỏi giang thế này, ngưỡng mộ quá đi mất.

Bạch Bất Ngật quẹt nước dãi, hầm hầm gạt phăng kết quả:

– Không tính, không tính, làm lại.

Kim Thúy Vũ mỉm cười:

– Nhị ca gặp phải đại hành gia rồi. Có câu “Cưa lắm càng sầy vẩy”, mất mặt một lần là đủ rồi huynh ơi.

Bạch Bất Ngật trợn tròn mắt, gào lên:

– Kim lão tứ, ngươi đừng lâm nhảm bậy bạ nữa!

Kim Thúy Vũ không để ý đén, mỉm cười bảo cậu bé;

– Bây giờ ta gảy một khúc, ngươi khá đoán xem là khúc gì.

Cậu bé đã vượt qua được hai cửa ải, mặt mày tươi tỉnh, tinh thần phấn chấn:

– Xin mời!

Kim Thúy Vũ tự dưng chột dạ: “Trông tự tin lắm, phải chăng nó thông hiểu cả âm luật?”, rồi gượng cười, ôm tÿ bà lên, so dây thử tiếng. Cậu bé nhắm mắt, lắc lư đầu tán thưởng:

– Chỉ hai ba tiếng vặn trục khảy dây, chưa thành giai điệu mà đã chứa chan tình tứ, thẩm thẩm đúng là một tay đàn tuyệt diệu.

Kim Thúy Vũ nghe khen thì hởi lòng hởi dạ, che miệng cười đáp:

– Thằng bé này, mới tí tuổi đầu mà đã dẻo miệng thế, lớn lên có khi khiến khối người chết vì những lời đường mặt.

Giả Tú Tài cười khẩy:

– Hí hửng cái gì? Nhóc con miệng còn hôi sữa, bạ đâu nói đấy, tự nhiên đi tin lấy tin để.

Kim Thúy Vũ tức tối nhìn hắn, nghiến răng mắng thầm: “Đồ một sách, chẳng hiểu thế nào là tình tứ ý nhị” đoạn nghiêm mặt lại, bắt đầu gảy đàn, Giai điệu thoạt tiên thong thả dàn trải, cao nhã thanh thoát, đưa người nghe đến nơi sơn thủy hữu tình, những dãy núi trải dài trước mắt, những dòng sông mảnh mai uốn lượn mãi đi; bỗng chốc giai điệu mau hơn, tịch tịch tang tang, dập dồn khó đoán, tựa hồ tiếng người vang lên trong núi vắng, rồi xa xa vọng lại tiếng trả lời chan chứa niềm hân hoan.

Đúng lúc mọi người ngây ngất say sưa gần như quên hết mọi sự, Kim Thúy Vũ bỗng tháo ngọn trầm bạc, đầy nó chạy liên tiếp qua các ngón tay rồi thình lình vạch một cái trong không trung, tiếng tÿ bà bỗng cất cao, hiên ngang khích liệt như tráng sĩ tuốt kiếm, tướng quân khoác giáp, núi gầm biển réo, vạn vó ngựa cùng gõ dập dồn, khiến ai nấy có cảm giác mình đang hiện diện ở nơi sa trường đẫm máu, gió thôi căm căm, đao thương rổn rảng, giai điệu lúc bổng lúc trầm, nghe thật hồi hộp. Đến một cung rất cao, tiếng đàn đột nhiên chùng lại, gợi cảnh sông nước rền rí, chiến mã gục đầu thất bại, tịch dương đằng xa tà tà hạ xuống, trời đất đỏ như rưộm máu khiến bầu không khí chết chóc càng thêm thể thảm. Dần dần, tiếng tÿ bà dịu đi như nước chảy, càng đàn càng chậm, cuối cùng lại trở nên trong trẻo thánh thót, tựa như dòng sông uyển chuyển đầy bánh xe băng, ánh trăng rót xuống chiếu sáng cả rừng hoa, cứ bâng khuâng như thế hồi lâu, chừng thời gian tàn một tuần hương thì âm thanh loãng dần cho đến khi không nghe thấy nữa.

Căn gác lặng ngắt như tờ, rồi Trì Tiễn Ngư thở một hơi dài:

– Ba năm không gặp, ngón tÿ bà của Kim tứ muội càng thêm điêu luyện mê hồn.

Kim Thúy Vũ cúi mình khiêm nhường:

– Được đại ca ban khen, tiểu muội vinh hạnh vô vàn, – đoạn hướng đôi mắt đẹp về phía cậu bé vẻ chờ đợi. – Ngươi có nhận ra đây là khúc nhạc gì không?

Cậu bé trước sau vẫn nhắm mắt nghe, bấy giờ mới mở mắt mỉm cười:

– Đây mà là một khúc ư?

Kim Thúy Vũ hơi biến sắc mặt. Cậu bé lắc đầu:

– Bản nhạc này có tổng cộng năm đoạn. Đoạn đầu tiên, giai điệu vô cùng thanh nhã khoáng hoạt, chính là Cao sơn lưu thủy. Đoạn thứ hai như tiếng vọng trong núi vắng, nhấn nhá lạc thú của ẩn giả, chính là Ngư tiều vấn đáp. Đoạn thứ ba, tiết tấu bỗng trở nên ngang tàng, chính là Thập diện mai phục tả chuyện Hắn Sở tranh hùng. Đoạn thứ tư hiu hất buồn thương, chính là khúc Tịch dương tiêu cổ, còn đoạn cuối cùng trăng soi mặt sóng, cố nhiên là Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trần Hậu chủ.

Cậu bé càng nói càng say sưa, giọng nói, sắc mặt động tác tay chân đều toát lên nét vẻ ngây thơ nhiệt cuồng con trẻ. Kim Thúy Vũ ngây ra hồi lâu, cuối cùng thở dài:

– Ngươi giỏi thật.

Cậu bé mỉm cười:

– Thẩm thẩm đàn hay lắm, tài tình hơn nữa là ghép được năm bản nhạc vào làm một mà trước sau liền lạc, không để lộ dấu ghép. Chỉ tiếc vẫn còn chút khiếm khuyết về mặt kỹ thuật.

Kim Thúy Vủ nghe cậu bé nói năng già dặn tự tin quá mức, không nhịn được phải hỏi:

– Chẳng hay khiếm khuyết chỗ nào, mong được chỉ giáo?

Cậu bé nói:

– Ngón vê, ngón phi và ngón gảy của thẩm thẩm hơi cứng, dẫn đến rít, tắc ở những đoạn chuyển quan trọng. Nhưng khiếm khuyết đó không phải là do rèn luyện chưa tinh, mà là do lực cổ tay của thẩm thẩm không đủ mạnh.

Bạch Bất Ngật gắt gỏng:

– Tài đàn của Tứ muội ta vốn vô song vô đối vùng Quan Lạc. Thằng quỷ nhà ngươi đừng khoác lác bậy bạ nữa!

Kim Thúy Vũ trước sau vẫn chăm chú lắng nghe, đến đây ngậm ngùi nói:

– Nhị ca bớt nóng, hài tử này nhận xét hoàn toàn chính xác.

Bạch Bất Ngật chưng hửng. Kim Thúy Vũ vén tay áo, để lộ cổ tay trắng mịn như tuyết, ở chỗ nổi cổ tay và bàn tay hiện ra rành rành một vết đỏ dài mảnh, Kim Thúy Vũ nói:

– Hai năm trước, tiểu muội đã bị người ta chặt đứt bàn tay này.

Mọi người đều giật mình, Trì Tiễn Ngư hỏi:

– Duyên cớ vì đâu?

Bạch Bất Ngật nhảy chôm chôm, miệng tru tréo:

– Cha chả, kẻ nào mà to gan lớn mặt đến thế?

Giả Tú Tài mím môi im lặng, nhưng hai mắt đằng đằng sát khí. Kim Thúy Vũ kể:

– Hai năm trước, trong thời gian đàn hát ở Tây Lương, muội gặp Lương Châu nhị quỷ.

Bạch Bất Ngật hằn học:

– Hừ, lại mấy tên ôn vật!

Kim Thúy Vủ tiếp:

– Đúng thế, Lương Châu thất quỷ bị chúng ta diệt mất năm, chỉ còn Đại quỷ và Tam quỷ. Hai tên súc sinh càn quét một thôn làng, giết người cướp của đã đành, lại còn cưỡng gian đàn bà con gái. Muội đã bắt gặp thì đM nào chiu thõng tay để mặc chúng làm bậy.

Giả Tú Tài bỗng lẩm bẩm:

– Võ công Đại quỷ và Tam quỷ không dễ đối phó đâu.

Kim Thúy Vũ lầm lầm nét mặt, gay gắt mắng:

– Diệt gian trừ bạo, cứu khốn phò nguy vốn là bản sắc của bậc hiệp nghĩa, đừng nói là Lương Châu nhị quỷ, mà cho dù có gặp hạng ma đầu tà môn như Lương Tiêu, lão nương cũng không lui nửa bước.

Nghe đến hai chữ“Lương Tiêu”, phong Liên giật thót, không nén được phải liếc sang gã sư phụ. Lương Tiêu vẫn giữ vẻ mặt bình thản, cúi xuống uống cạn sạch phần rượu trong bát. Dù đầy thắc mắc, Phong Liên vẫn gắng nín nhịn, tiếp tục dỏng tai lên nghe.

Giả Tú Tài ngượng ngập:

– Tứ muội nói phải lắm, nhưng muội thân đơn thế cô lao vào nguy hiểm thì làm sao thắng nổi?

Kim Thúy Vũ lườm y:

– Ta thắng vì xuất kỳ bất ý, dùng ngón Ngũ âm tiễn bắn chết được Tam quỷ, nhưng chưa hạ được Đại quỷ. Tên đó lợi hại quá đỗi, múa thanh Phách Phong đao kín đến nỗi nước cũng không lọt, vừa đấu vừa buông những lời sàm sỡ hạ lưu để làm rối trí ta. Khổ đấu hơn năm mươi hiệp, ta mới sơ suất một chút đã bị hắn phạt đứt bàn tay phải. Tên đó giành được ưu thế, liền vận chiêu Phong quyển tàn vân lên đao, chém vào cổ ta…

Giả Tú Tài không kìm được ngắt lời:

– Sau đó thế nào?

Kim Thúy Vũ gắt:

– Còn thế nào được, cuối cùng cũng không chém chết được ta, ngươi nhìn rõ đấy chứ, lão nương là nguời hay là ma?

Giả Tú Tài gãi gãi đầu, cười lấp, lại châm chọc:

– Người chả ra người, ma chả ra ma.

Kim Thúy Vũ nhổ toẹt một cái, nghiêm giọng kể tiếp:

– Đang lúc nguy ngập, chợt nghe có tiếng gió ào đến, một viên đá nhỏ bay xẹt qua vành tai muội, rồi “keng” một tiếng, búng thanh Phách Phong đao đi rất xa. Đại quỷ giật lui năm bước, hổ khẩu tướp máu. Hắn cũng khá nhạy bén, biết rằng có cao nhân tới liền vắt chân lên cổ tẩu thoát, không ngờ lại một viên đá nữa búng tới, lần này trúng lưng hắn. Đại quỷ ngã nhào. Muội chạy tới nơi, thấy tên tặc tử bị phong bế huyệt đạo, nghĩ bụng nhổ cỏ phải trốc tận rễ, không thể nương tay, chẳng nói chẳng rằng, giơ tÿ bà lên nện vỡ sọ hắn luôn.

Trì Tiễn Ngư vỗ tay khen:

– Thống khoái, thống khoái! Thế là tuyến đường đến Tây Lương bây giờ cùng yên ổn hơn một chút.

Kim Thúy Vũ gật đầu mỉm cười:

– Muội giết được Đại quỷ rồi quay lại thì thấy có ba người đang đứng sau lưng mình, bèn thi lễ tạ ơn, nào ngờ một trong ba người đó lắc đầu nói: “Thủ đoạn của thư thư thật tàn ác, vì sao nhất định phải một sống một chết như thế mới cam tâm hả?“.

Muội cảm thấy câu nói đó có phần giáo điều cứng nhắc, chẳng hiểu ra sao.

Lúc ấy, một người nữa bước lên, nhặt bàn tay đứt của muội, nói: “Ta nổi cho ngươi”, cũng không biết hắn dùng thú pháp gì, chỉ thấy phong bế huyết mạch cho muội, sau đó dùng kim nhỏ và chỉ mảnh, đưa tay tăm tắp một chút là khâu liền bàn tay đứt vào cho muội, trước sau, muội chỉ cảm thấy cánh tay-tê tê, không có cảm giác đau đớn gì hết. Người đó nổi xong cổ tay, lại xoa dược liệu, cho muội uống chút thuốc, dặn muội cách trong uống ngoài xoa. Muội cũng không dám chậm trễ, bèn theo lời hắn dặn dò, kiếm một nơi điều dưỡng liền ba tháng, cổ tay liền lại như cũ, hơn nửa năm sau lại có thể chơi đàn tÿ bà. Nhưng đúng như tiểu bằng hữu đây nói, bàn tay rốt cục cũng không linh hoạt được như xưa, đàn đến những chỗ khó thì luôn luôn có một hai phần kém nhuần nhuyễn.

Cậu bé nọ xen vào:

– Tay đứt lìa mà nổi lại được, y thuật của người đó cao cường quá!

Mọi người đều gật đầu. Bạch Bất Ngật ra chiều suy nghĩ, rồi hỏi:

– Lão tứ, ba người đó bộ dạng thế nào?

Kim Thúy Vũ thở dài:

– Ba vị ân công không cho muội tiết lộ hình tích, mong nhị ca thứ lỗi.

Bạch Bất Ngật gặng:

– Nhưng người nổi tay cho mưội là nam hay nữ thì ắt có thể nói được chứ?

Kim Thúy Vũ ngần ngừ một thoáng rồi nói:

– Là nam, tuổi còn rất trẻ.

Bạch Bất Ngật cau trán, làu bàu:

– Thế thì không giống lắm.

Giả Tú Tài hỏi:

– Sao lại không giống?

Bạch Bất Ngật chỉ lắc lắc đầu, không đáp.

Phong Liên càng nghe càng hứng thú, ngoảnh sang Lương Tiêu, thấy gã ngơ ngẩn nhìn ra ngoài cửa sổ, bèn nói:

– Sư phụ này, sao trên đời lại có thứ y thuật cao cường như thế nhi? Thật hiếm có quá!

Lương Tiêu tạnh lùng nói:

– Nổi được tay đứt vẫn chưa là gì, trên đời còn có thứ y thuật cao mình hơn nhiều.

Phong Liên giễu:

– Thế thì chắc là thứ y thuật nổi được đầu người đứt vào cổ phải không?

Lương Tiêu bật cười:

– Cái đó thì không được.

Phong Liên cười hì hì, lè lưỡi ra trêu gã. Bấy giờ Kim Thúy Vũ lại nói:

– Tiểu bằng hữu đây thật tài giỏi, đến một chút khiếm khuyết đó mà cũng nghe ra, chắc chắn gia đình phải có sở học thâm trầm uyên bác lắm, họ Kim này tâm phục khẩu phục rồi. Đại ca giao cá cho người ta đi thôi!

– Khoan đã... Giả Tú Tài lừ đừ đứng dậy, lắc đầu

– Để đệ gieo trước một qué xẹm đưa cá cho hắn có cát lợi hay không đã.

Kim Thúy Vũ cau mặt hỏi:

– Phá gia, ngươi lại định giở trò ma gì đây?

Giả Tú Tài tẩn mẩn moi trong ngực ra ba đồng tiền:

– Dịch thư có câu “Cát hay hung là nói về sự được hay mất“. Động thổ xây nhà cũng phải xem giờ đấy.

Y gieo ba đồng tiền ra bàn, nhìn một lúc rồi kinh ngạc nói.

– Ôi chà, không xong, ra quẻ cấu, Thoán từ có nói:

“Túi mình không cá, ắt sinh họa. Cái họa không cá là do xa dân“. Ngụ ý rằng, chúng ta không có cá thì thực nguy hiểm, vì vậy nhất định không nên cho cá này đi.

Kim Thúy Vũ thừa biết độ đúng sai của quẻ gieo đến đâu. Giả Tú Tài bày sạp xem bói ở chùa Đại Tướng Quốc đã lâu, gieo âm dương bằng ba đồng tiền này đã quá nhiều lần, muốn gieo cái gì thì được cái đó, muốn ra quẻ nào là ra quẻ đó, nói giới nói bể gí thì nói, miễn là moi được tiền của khách xem. Quẻ cấu này chắc cũng do hắn cố ý tung ra đây. Kim Thúy Vũ đang nghĩ cách bóc trần màn kịch của họ Giả thì cậu bé bỗng phì cười:

– Thoán từ còn nhắc một câu nữa về quẻ cấu, ngươi có nhớ chăng?

Giả Tú Tài ngẩn người:

– Câu gì?

Tiểu đồng nói:

– Có câu; “Hào hai, để con cá trong túi không có lỗi, nhưng cốt là đừng cho nó gặp khách“. Cũng tức là, ngươi có cá chép thì ổn cho ngươi, nhưng lại bất lợi cho khách khứa.

Giả Tú Tài buột miệng khen:

– Thằng bé này tinh khôn nhanh nhẹn thật! Nhưng đây là cuộc hợp mặt của huynh muội chúng ta, làm gì có khách nào?

Cậu bé cười:

– Không có ư? Ta hẵng hỏi, Thần Ưng sứ có phải là khách không?

Bốn người đều biến sắc, cậu bé ngửa cổ tay, phô ra trong lòng bàn tay một miếng ngọc bội trắng óng ánh, trông như con chim ưng sải cánh vươn mỏ chuẩn bị bay lên.

Quan Lạc Tứ Kiệt đồng đứng bật dậy, thất thanh kêu:

– Thần Ưng lệnh!

Cậu bé cưòỉ nói:

– Các ngươi không tặng cá chép, đối với Thần Ưng sứ ta đây chẳng phải là bất lợi hay sao?

Tứ kiệt ngơ ngác nhìn nhau, mặt đều có nét kinh hãi. Họ đến đây hợp mặt chính là để đón tiếp Thần ưng sứ giả, nhưng không bao giờ ngờ được Thần Ưng sứ lại là một đứa trẻ mặt búng ra sữa. Cậu bé vẫn giữ nguyên sắc diện tươi tình, nhìn hết người nọ sang người kia:

– Ba năm trước các ngươi gia nhập Thần Ưng mình, đã cam két thế nào? Hoàng Hà nhất phu Trì Tiễn Ngư tự nguyện hiệu triệu hào kiệt hai bờ Hoàng Hà, hiện nay tình hình ra sao?

Trì Tiễn Ngư lộ vẻ ngượng ngùng:

– Giớỉ lục lâm mỗi người một bụng, khó mà thâu tóm họ về một mối được.

Cậu bé hỏi tiếp:

– Vậy thì, Biến đồng thành kim Bạch Bất Ngật thu gom lương thực, tiến độ đến đâu rồi?

Bạch Bất Ngật vã mồ hôi trán, lắp bắp:

– Hai năm trước Hoàng Hà lụt lội, lương thực đã đem cứu đói sạch.

Trì Tiễn Ngư nghe vậy cả kinh, chưa kịp gặng hỏi kỹ càng thì cậu bé đã tiếp:

– Quái trung thiên thu Giả Tú Tài thu thập tin tức, chắc không đến nỗi nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gí chứ?

Giả Tú Tài vòng tay cười nói:

– Không dám, không dám! Tại hạ tính tình lười biếng, làm việc mà vất vả khổ sở thì hay lực bất tòng tâm lắm. cổ nhân có câu đúng người đúng việc, chi bằng sứ giả phái tại hạ đi làm một việc vui vẻ gì đó…

Trì Tiễn Ngư ngắt lời:

– Lão tam, đừng vô lễ!

Cậu bé cười cười, quay sang Kim Thúy Vũ:

– Mã thượng tÿ bà Kim Thúy Vũ đi thu gom chiến mã, tình hình tớỉ đâu rồi?

Kìm Thúy Vủ tái mặt ấp úng:

– Ta. bị thương ở cổ tay, nên lỡ mất việc mua ngựa.

Cậu bé giở quạt, lắc đầu:

– Minh chủ hết sức tín nhiệm và khen ngợi bốn vị, thường nói Quan Lạc Tứ Kiệt là những hào kiệt hàng đầu của võ lâm phương bắc, mà nay ba năm đã qua, không một việc nào hoàn thành cả.

Bạch Bất Ngật đỏ mặt tía tai, nổ một tràng như pháo:

– Bây giờ đang là thiên hạ của bọn Thát, muốn khởi sự chẳng dễ thế đâu? Huống hồ ta…

Hắn chưa dứt lời, Trì Tiễn Ngư đã thét lên như sấm:

– Câm đi!

Bạch Bất Ngật hoảng hồn im bặt.

Trì Tiễn Ngư ném cái nhìn dữ dội về phía Lương Tiêu, lạnh lùng nói:

– Chúng ta đang có việc quan trọng cần thương nghị, mong bằng hữu xuống dưới lầu, tiền ãn uống Trì mỗ xin chu tất.

Lương Tiêu cười cười, giơ chén lên uống cạn, nhưng không đứng đậy. Bạch Bất Ngật nổi điên, quát:

– Đồ man di, đại ca ta bảo ngươi cút đi!

Hắn dằn bước tới, định chộp vào ngực Lương Tiêu. Già Tú Tài biết Lương Tiêu không dễ đối phó, bèn ngăn:

– Bạch lão nhị, đừng gây…

Bạch Bất Ngật tuy to béo nhưng cậy có tuyệt chiêu Nã van thủ vô địch Quan Trung, Giả Tú Tài chưa nói hết câu, họ Bạch đã chộp lấy vai Lương Tiêu. Lương Tiêu rùn vai xuống giơ cao tay lên, ống tay áo tụt xuống. Gã đặt tay lên tay Bạch Bất Ngật, nhẹ nhàng hất một cái, cười nói:

– Đón lấy!

Bạch Bất Ngật cảm thấy một luồng kình xoáy ùn ùn đổ sang, không tự chủ được, quay vù vù như con vụ về phía Giả Tú Tài, Lúc trước Giả Tú Tài đã từng dùng cách này để giỡn cợt tên tửu bảo, lúc này Lương Tiêu cũng đùng cách thức y hệt, chỉ có điều thay vì tên tửu bảo, đối tượng biến thành họ Bạch. Giả Tú Tài không tỏ ra vội vàng, cười hi hi giở chiêu Kha khiếm liên thiên, hít một hơi, ngửa người ra sau. Đây là một chiêu trong tuyệt học bình sinh Lãn nhân quyền của hắn (Lãn nhân quyền tức quyền pháp của kẻ lười) , yếu quyết là lấy nhu thắng cương, mượn lực đả lực, dùng ý không dùng sức. Hắn vốn muốn dùng nó để tiêu trừ đã quay của Bạch Bất Ngạt, khổ nỗi Bạch lão nhị to béo ục kh, nặng hơn tên tửu bảo rất nhiều, lại mang theo cả Oa toàn kình của Lương Tiêu, thật không nhẹ nhàng chút nào.

Giả Tú Tài mới chạm vào người họ Bạch, đã cảm thấy một dòng máu nóng xộc thẳng lên cổ họng, biết rõ là không ổn, vội kêu:

– Trì lão đại! – rồi biến chiêu Lãn hán suy ma, hai cánh tay áp sát nhau, đầy Bạch Bất Ngật sang phía Trì Tiễn Ngư.

Họ Trì rùn mình xuống tấn, song chưởng lần lượt xòe ra. Chiêu Khuyết nguyệt chưởng lực lấy ý từ hình ảnh vầng trăng khuyết tròn, hữu chưởng như vầng trăng non, kết hợp cả hư lẫn thực, dùng hư kình để đón lấy và hóa giải lực xoáy trên người Bạch Bất Ngật, tả chưởng như mặt trăng tròn vành vạnh, dùng thực kình đỡ nhẹ lưng hắn. Họ Trì lặp đi lặp lại vài lần, Bạch Bắt Ngật cảm thấy toàn thân thoắt nặng thoắt nhẹ, chân bước bỗng cao bỗng thấp, vụt một cái như trời xoay đất chuyển, hai chân hẫng đi, hắn ngồi phệt xuống đất, mặt mày sưng tím như miếng gan lợn.

Lương Tiêu phất áo kiềm chế xong ba đại cao thủ thì ấn tay lên bàn, nhẹ nhàng lướt tới chỗ đứa bé. Kim Thúy Vũ thét lên một tiếng, phi ngón trên dây đàn, dẫn động ám khí. Năm mũi tên nhỏ nối đuôi nhau phóng tới như đàn cá, phát ra âm thanh lanh lảnh, Thứ ám khí này tên là Ngũ âm tiễn, di chuyển theo nãm âm Cung Thương Giốc Chủy Vù, nhanh chậm khác nhau, phương hướng cũng rất khó xác định. Lương Tiêu không hề ngoái đầu, chỉ lật ngược tả thủ, búng liên tiếp năm ngón tay, mỗi búng trúng một thân tên.

Sau một hồi keng keng” chói tai, Ngũ âm tiễn ngoắt đầu lại như chong chóng, bay vù vù về chỗ Kim Thúy Vũ. Họ Kim kinh sợ nhưng không hề luống cuống, giơ ngay cây tÿ bà lên đón năm mũi tên găm trở vào đàn.

Lương Tiêu không khỏi khen thầm trước thủ pháp bắt tên tính diệu, đồng thời phóng ngay hữu thủ chộp luôn lấy cậu bé nọ. Cậu bé tuy còn ít tuổi nhưng hết sức bản lĩnh, lập tức khua tả chưởng, hữu thủ xuất chỉ, chìa ra hai ngón trỏ và giữa đâm vào mạch môn Lương Tiêu. Gã cười:

– Xuyên hoa điệp ảnh thủ.

Cậu bé bị gã gọi đúng võ công, khó tránh được bối rối. Chỉ một thoáng ngần ngừ đó thôi, cậu đã thấy cổ tay đau nhói, thì ra hai tay đã bị Lương Tiêu vặn tréo ra sau rồi.

Thần Ưng sứ bị khống chế, Quan Lạc Tứ Kiệt đều khiếp vía. Giả Tú Tài tung mình bay đến, sử chiêu Nhật thượng tam can đâm thẳng vào mặt Lương Tiêu. Lương Tiêu chưa kịp chiết giải, Giả Tú Tài đã nghiêng mình sang phải, biến chiêu Lãn phụ tú hoa, thô bạo thọc thẳng vào eo ếch gã.

Lương Tiêu thấy quyền pháp của y có chỗ thú vị thì cũng hiếu kỳ, bèn nắm cậu bé trong tay phải, đưa tay trái ra chiết chiêu. Giả Tú Tài liên tiếp sử các chiêu Bộ lý lương thương, Hôn thiên hắc địa, Phạn lai trương khẩu, Y lai thân thủ, lùa tới đảo đi, đều là các tuyệt chiêu thuộc Lãn nhân quyền, trông thì rất hơi hợt vụng về, nhưng thực ra vô cùng thâm sâu, ẩn tàng muôn vàn sát cơ. Chỉ chớp mắt, hai người đã chiết đến chiêu thứ năm, Giả Tú Tài sử chiêu Túy dịch Nam Sơn, duỗi chân quét ngang, Lương Tiêu vuốt xéo tay, Giả Tú Tài đứng không vững, ngã ngửa ra sau, Lương Tiêu vụt dịch bước, vươn tay như gió túm lấy thắt lưng hắn, Giả Tú Tài vội vã sử chiêu Lãn nhân thoát y, co mình lăn tròn ra xa, chi nghe “toạt” một tiếng, tấm áo nhà nho của hắn tuột ra khỏi người, nằm lại trên tay Lương Tiêu. Lương Tiêu cảm thấy trơn trơn nhờn nhợt, bèn cúi đầu nhìn thì thấy tay dính đầy những chất nhơ bẩn, gã phát buồn nôn, bèn ném luôn tấm áo sang một bên.

Giả Tú Tài lật mình đứng dậy, trên người chỉ còn mỗi một chiếc quần dài. Hắn giở quạt, cười ha hả:

– Ha ha, y phục của lão tử đúng là báu vật nhỉ, sờ một cái mà kiếm được mười cân bùn đất, ha ha…

Hắn cười sằng sặc, đến đỏ mặt tía tai vẫn không dừng được, số là hắn thoát được cú chụp của Lương Tiêu, nhưng bị chỉ phong của gã phất trúng Tiểu huyệt ở thắt lưng.

Trì Tiễn Ngư là người đường hoàng thẳng thắn, không chịu lấy đông đánh ít, trước sau vẫn đứng bên quan sát, thấy Giả Tú Tài thất bại mới lên tiếng:

– Công phu của các hạ rất cao cường, Trì mỗ xin được lĩnh giáo, – đoạn xẹt tới nhanh như chớp, vỗ ra hai chưởng.

Lương Tiêu đợi chưởng phong thốc vào mặt mới xòe chưởng đỡ, rồi tiện tay kéo một phát khiến song chưởng của Trì Tiễn Ngư khép vào nhau rồi dính chập lại. Trì Tiễn Ngư thét lên, sử lộ Khuyết nguyệt chưởng lực, tả chưởng đầy thực, hữu chưởng kéo hư, nào ngờ nội kình tả chưởng vừa tỏa ra đã biến mất tăm mất tích như bùn ném xuống ao. Đồng then, luồng nội kình mạnh mẽ lạ kỳ từ lòng bàn tay Lương Tiêu ào ào đổ tới, xô đến hữu chưởng của y.

Hữu chưởng của Trì Tiễn Ngư vốn đang rỗng không, bị luồng nội kình vô song đầy thốc vào, thân hình bỗng giật lên, mặt đỏ bầm, y vội vàng hoán đổi hư thực giữa hai tay, trái hư phải thực.

Nhưng Lương Tiêu cũng dùng Sinh diệt đạo thuộc Bích hải kinh đào chưởng dùng hư đỡ thực, dùng thực đánh hư.

Chỉ chớp mắt, Trì Tiễn Ngư đã trúng ba lần chưởng kình, sắc mặt từ đỏ bỗng thành xanh, từ xanh biến thành tím, Ba người kia nhận ra không ổn, đều rất lo lắng, nhưng không dám tiến lên tương trợ.

Lương Tiêu thấy Trì Tiễn Ngư mặt tím bầm lên, vầng trán ẩn hiện sắc đen, biết rằng cứ giữ nguyên cục diện này, nhất định y không chết cũng trọng thương, bèn tự nhủ: “Quan Lạc Tứ Kiệt cũng có phong thái hiệp nghĩa, ta đả thương bọn họ thực không thỏa đáng“.

Gã bèn thu chưởng lực lại, Trì Tiễn Ngư lảo đảo giật lui, Bạch Bất Ngật vội băng tớỉ đỡ lấy y. Cậu bé tay đấm chân đá, miệng thét to:

– Tên mặt sẹo, buông ta ra!

Ngặt nỗi cậu ta người nhỏ sức yếu, cú đấm red vào người Lương Tiêu như rơi vào bịch bông, không có tác dụng gì. Lương Tiêu rất kỵ bị nói đến vết sẹo, nghe vậy nổi giận, vung tay giằng lấy cái quạt dát vàng của nó:

– Ngươi họ Hoa?

Cậu bé ngớ ra:

– Vì sao ngươi biết?

Lương Tiêu cười ruồi:

– Trông thấy Xuyên hoa điệp ảnh thủ, ta lại còn không biết ư? Chả lẽ ngoài Thiên Cơ cung còn có nơi nào khác nuôi dạy được thứ quái thai như ngươi?

Cậu bé điên giận nhổ phì phì:

– Ngươi mới là quái thai ấy!

Lương Tiêu mở quạt ra, liếc qua hàng chữ thảo, thấy viết: “Hoa thơm ngào ngạt khắp vườn. Từ phụ là Uyên tặng ái tử Kính Viên“. Gã gập quạt lại:

– Hoa Thanh Uyên là cha ngươi, ngươi tên là Kính Viên hả?

Cậu bé đỏ lựng mặt, gào thét:

– Thế thì sao? Liên quan gì đến ngươi?

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Hài nhi này quả đúng là ấu đệ của Hiểu Sương, hồi bị cha nó giờ kế bắt giữ, ta có trông thấy nó một lần, lúc ấy còn quấn tã, ngờ đâu giờ đá lởn phổng thế này“.

Hoa Kính Vỉên đang cơn căm uất, chợt thấy ánh mắt Lương Tiêu trở nên trìu mến thì rất ngạc nhiên. Lương Tiêu buồn bã thở dài, nhẹ nhàng hỏi:

– Kính Viên, tỷ tỷ ngươi vẫn khỏe chứ?

Hoa Kính Viên cau mày:

– Tỷ tỷ ta? Ta làm gì có tỷ tỷ.

Lương Tiêu choáng cả người, lòng dạ rối bởi: “Phải rồi, năm ấy Hiểu Sương phạm vào lễ nghĩa thiên hạ, liều mạng cứu ta, chắc đã khiến Hoa Vô Xuy nổi giận. Bà ta vẫn quen thói tàn độc, có hồi đã đuổi Hiểu Sương ra khỏi cung, chưa chừng sau đận ấy đã giam muội ấy lại, không cho gặp phụ mẫu, đệ đệ, thậm chí không cho Kính Viên biết nó có một tỷ tỷ. Mười năm nay, chẳng rõ Hiểu Sương đã phải gánh chịu bao nhiêu khổ sở.. Mặt Lương Tiêu dần dần trắng bệch ra, mắt lạnh băng bắn ra những tia sáng quắc. Hoa Kính Viên vốn rất to gan liều lĩnh mà cũng không kìm nổi cơn ớn lạnh. Đột nhiên, Lương Tiêu phá lên cười thảm thiết, rồi “bình” một tiếng, chiếc bàn gỗ đàn bên cạnh bị gã đấm vỡ tan.

Hoa Kính Viên chưa kinh sợ như thế bao giờ, không tỏ ra cứng rắn được nữa, cậu bịu đôi môi nhỏ, nước mắt ròng ròng tuôn xuống. Phong Liên vội nói:

– Sư phụ làm nó sợ rồi kìa! – rồi chìa tay kéo Hoa Kính Viên lại, lấy khăn tay lau nước mắt cho cậu.

Hoa Kính Viên có người vỗ về an ủi, nước mắt rơi càng mau, Lương Tiêu ngẩn ngơ một lúc rồi thở dài:

– Đừng để nó chạy thoát.

Phong Liên thắc mắc:

– Nó chỉ là trẻ con, ông bắt nó làm gì?

Lương Tiêu xẵng giọng:

– Cô chớ hỏi nhiều, nó không phải trẻ con tầm thường đâu.

Trì Tiễn Ngư đã thở đều đặn lại, bấy giờ đứng dậy, mặt rắn đanh:

– Hôm nay Quan Lạc Tứ Kiệt thất bại thảm hại, nhưng vẫn mong các hạ dừng bước, nói cho rồ ràng mạch lạc: các hạ là ai, và tại sao hành động như thế?

Phong Liên xen vào:

– Ngươi hỏi sư phụ ta hả? Ống ấy là Sừng sữngphk tây, Côn Luân hùng vĩ.

Tứ kiệt ngớ người ra, không hiểu câu đó nghĩa là gì, Lương Tiêu cau mày nạt Phong Liên:

– Đừng nói linh tinh nữa!

Rồi gã quay sang dịu giọng bảo tứ kiệt:

– Nếu có thể, mong bốn vị chuyển lời cho Thiên Cơ cung chủ Hoa Thanh Uyên: Hoa Kính Viên hiện trong tay Lương Tiêu, nếu ông ta muốn cứu con trai thì mau đưa Hoa Hiểu Sương đến Khai Phong thiết tháp gặp ta.

Gã chưa nói xong mà Quan Lạc Tứ Kiệt đã tái nhợt mặt Mười mấy năm trước, dạo Lương Tiêu khuấy trời chọc nước gây nên những chuyện kinh thiên động địa, Quan Lạc Tứ Kiệt vẫn chưa kết nghĩa nhưng đã nghe đủ tiếng xấu về gã. Trong giới nhân sĩ hiệp khách giang hồ, hễ cái tên Lương Tiêu vang lên là bao nhiêu hàm răng nghiến kèn kẹt, bao nhiêu ánh nhìn rực lửa căm hận, ai cũng mong được xẻ thịt gã ăn sống nuốt tươi, lột đa gã làm chăn màn gối đệm. Giả dụ như bình thường, thì dù không phải là địch thủ của Lương Tiêu, tứ kiệt cũng sẽ xông vào liều mạng với gã, thà làm ngọc nát còn hơn ngói tành; nhưng hiện thời Hoa Kính Viên đang trong tay kẻ địch, bốn huynh đệ đều e ngại, dẫu căm hận thấu xương cũng không dám vọng động.

Lương Tiêu nói xong, phất tay áo, xoay mình đi xuống lầu, dắt ngựa ra. Phong Liên hỏi xin tiểu nhị một cây dù giấy vẽ hoa, bế Hoa Kính Viên đi theo. Bạch Bất Ngật nhìn bóng họ khuất dần, giậm giậm chân:

– Trì lão đại, lẽ nào cứ buông xuôi thế này?

Trì Tiễn Ngư trầm ngâm chốc lát, rồi nói:

– Tên đại ma đầu tuyệt tích đã mười năm bỗng nhiên tái xuất, chỉ e từ nay thiên hạ sẽ nổi sóng gió. Tam đệ, đệ giao du rộng rãi, mau nghĩ cách báo tin đến Thiên Cơ cung. Tứ muội, muội kíp cưỡi ngựa vượt Hoàng Hà sang tổng đàn Giang lầy gặp Vân đại hiệp, Lương Tiêu vốn là kình địch của đại hiệp, nhớ dặn ông ấy đề phòng. Nhị đệ, bây giờ đệ di chuyển bất tiện, cứ ở lại Khai Phong giám sát nhất cử nhất động của tên ma đầu kia.

Bạch Bất Ngật hỏi ngay:

– Còn huynh?

Trì Tiễn Ngư vuốt râu:

– Vi huynh sẽ thông tn tin này đí khắp nơi, kêu gọi hảo thủ bốn phương. Lương Tiêu đại gian đại ác, gieo rắc hằn thù căm phẫn khắp nơi, nếu mọi người đồng tâm hiệp lực, nhất ‘định sẽ khiến hắn không còn toàn mạng mà rời Trung nguyên nữa.

Bạch Bất Ngật vỗ đùi hí hửng:

– Thật là cao kiến!

Giả Tú Tài trầm mặc chốc lát, chợt nói:

Trì lão đại, thứ cho tiểu đệ lắm lời. Lương Tiêu tuy khét tiếng xấu, nhưng đệ thấy hắn khí độ bất phàm, không tệ hại hèn hạ như lời đồn lâu nay.

Trì Tiễn Ngư cười nhạt:

– Quân gian ác nào chả có khí độ hơn người.

Giả Tú Tài thở dài:

– Lão đại nói phải lắm! Ôi, một nhân vật như thế mà lại bỏ thiện theo ác, đáng tiếc, đáng tiếc quá!

Bốn người thương nghị xong xuôi thì tỏa đi, ai lo việc nấy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 83: Long Bôn Vạn Lý (Đua chân vạn dặm)(1)

Đến chân thiết tháp, Hoa Kính Viên vẫn thút thít chưa thôi, hai mắt sưng mọng lên như hai quả nhót. Phong Liên trêu:

– Nhóc này, ta tưởng ngươi cứng cỏi lắm, ngờ đâu lại mau nước mắt thế. Đúng là trẻ con!

Hoa Kính Viên gạt lệ cãi ngay:

– Đừng có khinh người, ta không phải là trẻ con.

Phong Liên xoa đầu cậu bé:

– Trẻ con thì có gì không tốt? Đừng đóng bộ khoằm khoặm ông cụ non, chẳng hay ho chút nào cả.

Hoa Kính Viên hừ một tiếng, bĩu môi tức giận.

Hai người vừa đôi co vừa theo Lương Tiêu tiến vào tháp. Chỉ lát sau cả bọn đã lên tới đinh. Từ trên nhìn xuống, thành quách nằm im lìm ngay ngắn như bức địa đồ dưới chân, dòng Hoàng Hà nhạt nhòa sau màn mưa tầm tả, cuồn cuộn chảy về nai xa. Lương Tiêu ngồi xếp bằng tĩnh tâm. Phong Liên thò đầu ra ngoài, ngó quanh đầy vẻ tò mò. Ngắm cảnh một chốc, cô bỗng hào hứng gọi Hoa Kính Viên:

– Nhóc này…

Hoa Kính Viên phát cáu:

– Ngươi mới là nhóc ấy! Ngươi lớn hơn ta mấy tuổi mà tên mặt thế?

Phong Liên cười khanh khách, giơ hai ngón tay bẹo má cậu bé:

– Đời thuở nhà ai, đại nam nhân mà mặt mữỉ mịn màng như đánh phấn thế này này.

Kính Viên nghẹn lời, giậm chân bình bịch:

– Ngươi rẻ rúng người ta vừa chứ! – rồi hậm hực ngồi phịch xuống.

Phong Liên cũng ngồi ghé bên cạnh:

– Ngươi đừng sợ, sư phụ ta không phải là kẻ xấu đâu.

Kính Viên vặn vẹo:

– Thế tại sao lại bắt ta đến đây?

Phong Liên liếc Lương Tiêu, lòng cũng đầy thắc mắc, ngập ngừng hồi lâu mới đáp:

– Ta cũng không biết. Nhóc này, ngươi trốn nhà đi phải không?

Hoa Kính Viên lườm cô:

– Chỉ giỏi đoán bừa!

Phong Liên nói:

– Hồi nhỏ mỗi lần dỗi cha mẹ, ta lại bỏ nhà đi đấy, nhưng được dăm ba hôm, không chịu nổi đói đành trở về nhà.

Phong Liên vốn rất yêu trẻ con, mới gặp Hoa Kính Viên đã sinh bụng mến, bèn nghĩ đủ mọi cách đùa cho cậu vui.

Hễ thấy Phong Liên mỉm cười nhìn mình, Hoa Kính Viên lại nóng ran mặt mày. Cậu là cháu đích tôn của nhà họ Hoa, đã quen sống trong những vòng tay bảo bọc, trên có các trưởng bối rất mực cưng nựng yêu chiều, dưới có các thị nữ gia bộc hết lòng hầu hạ, nhưng chưa bao giờ có cô gái nào dám cư xử bình đẳng như ngồi gần sát, mặt đối mặt, lại tâm sự cả từ chuyện bỏ nhà đi lang thang bất thành của mình thế này với cậu. Hoa Kính Viên bẩm sinh thông minh, lại khôn sớm, tâm tính cũng khác với trẻ con bình thường, nghe chuyện xong liền nảy mối thiện cảm với Phong Liên, nghĩ một lúc rồi nói:

– Nhà ta ở trong một sơn cốc lớn, bốn mặt núi bao quanh, buồn chết đi được. Tháng trước Tần bá bá nhận lệnh cô phụ xuất cốc đi lo việc, ta bèn xin đi theo. Cha mẹ vốn không cho, song bà nội hay chiều ỷ ta, nghe ta nằn nì mãi, bèn bảo thôi thì cứ ra tiếp xúc với đời một chút cho mở mang kiến thức. Cha quen vâng lời bà, thấy vậy không tiện cấm cản nữa. Ngặt nỗi lúc ấy lại đến dạo bà nội cần bế quan tu luyện, không rảnh rỗi mà đưa ta đi, vừa may có ông bà trẻ đằng mẹ đến cốc chơi, ông trẻ là cao thủ võ học tài ba nhất trên đời, bản lĩnh cao cường hơn tên mặt sẹo này nhiều…

Thấy cậu bé tận dụng cơ hội xỏ xiên Lương Tiêu, Phong Liên đâm phật ý:

– Ngươi chưa chứng kiến những công phu lợi hại nhất của sư phụ ta đấy thôi.

Hoa Kính Viên hừ một tiếng, mặt lộ vẻ khinh miệt rõ rệt. Phong Liên càng tức, định cự nự, cậu bé đã lại kể tiếp:

– Sau đó ông trẻ vỗ ngực nhận đưa ta đi, còn hứa với bà nội là nhất định sẽ bảo đảm an toàn cho ta. Bà nội đã biết bản lĩnh của ông nên cũng yên lòng gửi gắm. Tiếc thay chuyến đi không tự do tự tại như ta mong đợi, Tần bá bá và bà trẻ quän ta chặt chẽ quá, suốt ngày chê ta non nớt, không cho làm việc này, không cho làm việc nọ. Hừ, chẳng qua chỉ lớn hơn người ta có vài chục tuổi đầu mà xem thường nhau như thế, ngươi bảo có quá đáng không? Ta nhất định phải khiến họ nhìn ta với con mắt khác mới được.

Phong Liên mỉm cười:

– Ngươi định làm gì, kể ta nghe thử.

Kính Viên yênh mặt lên, nghiêm chỉnh nói:

– Ta sẽ hiệu triệu hào kiệt bên bờ bắc Hoàng Hà, lập lực lượng nghĩa quân đánh bại bọn Thát, khôi phục giang sơn Đại Tống.

Cậu bé vừa dứt lời, Phong Liên đã phì một tiếng, rồi phá lên cười. Lương Tiêu đang nhắm mắt tĩnh tọa cũng phải cau mày. Phong Liên cười rũ rượi một hồi, sau vừa thở vừa hỏi:

– Chính ngươi ấy hả nhóc? Trời ơi, khôi hài chết mất!

Mặt đỏ tía, Hoa Kính Viên nói như hét:

– Ngươi… ngươi coi thường ta!

Phong Liên thấy cậu bé vừa thẹn vừa giận, khóe mắt lại ươn ướt thì mủi lòng, bèn nén cười bảo:

– Không, ta coi thường ngươi sao được. À, ngươi thử nói xem, làm thế nào để lập được nghĩa quân và đánh bại quân Thát?

Hoa Kính Viên tự ái ngoảnh mặt đi chỗ khác:

– Ta không nói nữa, dù ngươi nghiêm túc ngoài miệng thi trong bụng cũng vẫn cười nhạo ta.

Phong Liên không biết bảo chữa thế nào, bụng bảo dạ: “Vừa nói giới nói bể, mắt trước mắt sau lại đã giở những thói đỏng đảnh trẻ con ra rồi“. Ngồi im một lúc, thấy cậu bé đã bớt giận, cô bèn tiếp tục pha trò cho cậu vui. Hoa Kính Viên dẫu sao cũng đang tuổi hồn nhiên ngây thơ, hờn dỗi đấy lại nguôi ngoai ngay được, không chống cự nồi những trò chọc ghẹo, chỉ dăm ba câu lại tiếp tục cười đùa với Phong Liên, Tuy thế, riêng việc xây dựng tổ chức nghĩa quân thì bất kể Phong Liên gặng hỏi thế nào cũng không cạy nổi răng cậu ta nữa.

Nghe Hoa Kính Viên tự giới thiệu mình là người Giang Nam, Phong Liên bèn tỉ tê hỏi hắn về phong cảnh vùng đất ấy. Hoa Kính Viên vốn không tiếp xúc nhiều với thực tế, chỉ thu lượm kiến thức từ sách vở và những câu chuyện kể của các bậc trưởng bối, nhưng vốn tâm cao khí ngạo, khi nào cậu chịu muối mặt với Phong Liên, bèn thả cho trí tưởng tượng bay xa, không cũng nói thành có, nhào nặn vung vít cả. Hoa Kính Vỉên còn nhỏ nhưng nói chuyện rất có duyên, phong Liên càng nghe càng say sưa, buột miệng bảo Lương Tiêu:

– Sư phụ ơi, Trung thổ có một nơi tuyệt vời như thế, chuyến này chúng ta phải ngao du thăm thú cho thỏa mới được.

Lương Tiêu đã từng đến Giang Nam, biết thừa hư thực trong những câu chuyện của Hoa Kính Viên, nghĩ vừa tức vừa buồn cười: “Thằng ranh này là chúa ba hoa, đáng cho mấy đét vào đít”, rồi chẳng nói chẳng rằng, chỉ hừ một tiếng thật mạnh.

Phong Liên không rõ nguyên do dẫn đến thái độ lãnh đạm của Lương Tiêu, bất giác bổn chôn: “Chẳng lẽ ta vô ý mạo phạm chỗ nào khiến Tây Côn Luân tức giận ư?“. Cô thấp thôm, ngồi ngẩn ra chống má suy nghĩ. Hoa Kính Viên đương cơn cao hứng, tự nhiên không thấy ai hưởng ứng thì chưng hửng, bèn tiu nghỉu im bặt.

Bấy giờ cơn mưa đã dần đần ngớt, chỉ còn vài giọt rơi rớt buông từ mái ngói xuống, tiếng chuông trong tháp theo gió loang ra khoảng không bao la. Giữa cảnh tịch mịch, thình lình dưới tháp dội lên một tràng huyên náo, ai đó cao giọng gọi:

– Bạch Bất Ngật, tên cầu tặc ấy đang ở đâu?

Hoa Kính Viên thò đầu ra nhìn. Chừng một trăm người đang đứng lố nhố quanh chân tháp, cùng ngửa cổ nhìn lên bàn tán chỉ trỏ. Thân hình phì nộn của Bạch Bất Ngật nổi bật trong đám người ấy, hắn nói:

– Rõ ràng là ta trông thấy tên cẩu tặc Lương Tiêu mò lên đỉnh tháp cùng ả nhân ngãi của hắn mà.

Phong Liên vừa thẹn vừa giận, bèn mắng ầm ĩ:

– Con lợn béo, ngươi đừng ngậm máu phun người!

Bạch Bất Ngật hừ một tiếng, mắng trả:

– Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Con ranh nhà ngươi bè đảng với tên cẩu tặc đó ắt cũng chẳng phải loại tử tế gì…

Họ Bạch chưa nói dứt, bỗng một đốm xanh lóe lên, xẹt trúng vào mặt hắn, Bạch Bất Ngật buột kêu đau đớn, miệng n máu, một cái răng cửa văng ra.

Hoa Kính Viên ngoảnh đầu lại, thấy Lương Tiêu vẫn ngồi nguyên chỗ cũ thì rất lấy làm lạ, tự hỏi gã đả thương đối phương bằng cách nào khi không hề nhúc nhích. Bên dưới, quần hào nộ khí xưng thiên, thi nhau ngỏng cổ chửi bới té tát. Giữa những tiếng chửi, một người mặt: chữ điền, lông mày chổi xể, thân hình vạm vỡ bước hẳn ra khỏi đám đông, nhìn lên đỉnh tháp lớn tiếng:

– Lương Tiêu! Năm xưa tại chân núi Phục Ngưu, ngươi đã giết cha ta, còn nhớ không?

Lương Tiêu hỏi lại:

– Các hạ là ai?

Hắn tử nọ hùng hồn đáp:

– Trần Đỉnh, quê Sái Châu.

Hồi ở núi Phục Ngưu, Lương Tiêu đã giết cơ man nào là người, đâu biết kẻ nào mang họ Trần. Gã đang ngẫm nghĩ, Trần Đỉnh lại thét lên:

– Sát nhân phải thường mạng, Tên họ Lương kia, nếu ngươi có gan thì mau xuống đây cùng ta quyết bề sinh tử.

Giọng hắn rổn rảng như đao kiếm khua nhau, hào khí át người. Quần hào nhao nhao bật ngón tay cái khen ngợi:

– Đúng là hảo hán!

Lương Tiêu im lặng hồi lâu, chợt bảo:

– Ngươi không phải địch thủ của ta, tự nhiên đến nạp mạng phỏng có ích gì?

Trần Đỉnh cao giọng:

– Thế thì sao? Trên đời hỏi có ai không chết! Trần mỗ thà làm quỷ hùng còn hơn làm người hèn. Hừ, tên họ Lương kia, ngươi không dám xuống à? Được, vậy ta lên gặp ngươi. Dứt lời, họ Trần rảo chân chạy đến cửa tháp, mới di chuyển chưa quá mười bước, chợt nghe thấy hai tiếng xì xì, rồi một cơn tê dai Ian nhanh lên chân khiến hắn sụm đầu gối. Hai món ám khí phóng xuống hết sức nhanh, Trần Đỉnh nghe thấy tiếng gió rõ ràng mà không tài nào tránh kịp, Quần hùng hò nhau xông lên, bất đồ sau một loạt tiếng rú thảm, những kẻ đã vào sát cửa tháp ngã dạt hết xuống đất.

Hoa Kính Viên giương mắt theo dõi, lúc này mới nhận ra ám khí đả thương bọn hào kiệt hoàn toàn không phải thiết liên tử hay phi hoàng thạch mà chỉ là những vụn gạch lăn lóc trên nền tháp do Lương Tiêu tiện tay nhặt lên, cậu bỗng rùng mình. Mấy vụn gạch nhẹ tênh, khóng hề có gió thôi qua tay Lương Tiêu bỗng vượt xa được đến trăm thước, bắn đúng huyệt đạo bọn hào kiệt, không sai lệch lấy một li một leo. E rằng cả Thiên Cơ cung không ai có thứ nội kình mạnh mẽ và chuẩn xác nhường ấy. Trên này Hoa Kính Viên miên man suy nghĩ, dưới kia Trần Đỉnh nghiến ráng trợn mắt, chống hai tay bò lết đến cửa tháp, trán nhằng nhịt gân xanh, bộ dạng hằn học hung ác. Hoa Kính Viên liếc thấy, trong lòng có hơi sợ hãi.

Lương Tiêu búng nhẹ ngón tay, bắn tiếp hai mẩu gạch vỡ, kích trúng yếu huyệt trên hai khuỷu tay Trần Đỉnh. Họ Trần bủn rủn tay chân, ngã sấp xuống đất. Biết rằng không còn hi vọng trả thù, hắn đau buồn khôn tả, úp mặt khóc rưng rức. Phong Liên cảm thấy bất nhẫn, bèn nài Lương Tiêu:

– Trên đời chẳng có nút thắt nào không gỡ được. Sư phụ cho hắn lên, từ tốn nói chuyện đi.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Trên đời có rất nhiều oán thù không tài nào hóa giải nổi. Người này tính tình cương trực, nhất định sẽ hết lòng hết sức báo thù cho cha, chưa tắt thở chưa buông tay. Ta còn có việc phải làm, không thể thúc thủ đợi chết được. Còn nếu giao đấu trực diện mà ta không xuất toàn lực tiếp đón thi coi như khinh bỉ hắn, phụ tấm lòng hiếu của hắn đối với cha. – Gã bỗng thở dài. – Tốt hơn hết là làm một kẻ nhu nhược không dám thò mặt ra, đúng như hắn thóa mạ lúc nãy.

Phong Liên cau mày, định nói rồi lại thôi.

Dưới tháp, quần hào tụ tập càng lúc càng đông. Đã mấy lần họ hùng hổ xông vào tháp, nhưng Lương Tiêu được địa lợi nhờ ngồi trấn trên cao, khiến bọn họ không thể nào tiếp cận để bao vây tấn công gâ được, đột nhập mấy lần liền đều bị đạy lui. Màn đêm dần buông, gió rét pha mưa lạnh dội xuống từng trận lúc thưa lúc mau, quần hào không vào được tháp, đành lùi ra tránh mưa dưới tán rừng tùng gần đó, mồm vẫn ra rả nguyền rủa. Đám người này xuất thân thảo khấu, chẳng thiếu gì hạng nông cạn thô bỉ đề tài chửi bới cuối cùng cũng không tránh khỏi chuyện nam nữ, miệng lưỡi càng được thể tục tĩu bội phần. Bạch Bất Ngật hậm hực:

– Lão tử dầm mưa hứng gió ở đây, trong khi tên cẩu tặc an nhiên hưởng lạc trên kia. Chẳng biết lúc này hai đứa đang giở những trò gì?

Kẻ khác cười khẽ:

– Điều gì mà Bạch lão nhị nghĩ ra được thì chúng cũng nghĩ ra được. Mà kể cả những điều Bạch lão nhị chưa nghĩ ra có khi chúng đã nghĩ ra rồi. Thôi thì loanh quanh chỉ những đây trên kia dưới đây dưới kia trên chừng vài hiệp, bất chợt “rầm” một tiếng. Ha ha, mọi người thử đoán xem thế nào?

Kẻ bên cạnh hăm hò hưởng ứng:

– Thế nào?

Kẻ trước cười hềnh hệch:

– Thì con bé đó khỏe quá, phải đảo tên cẩu tặc kia lên trên, xay dữ dội đến mức hắn thất điên bát đảo, đi đời nhà ma.

Cả đám cười hô hố. Bạch Bất Ngật cười rinh rích:

– Tổ sư cái đầu đen tối nhà La Đại Cương, tưởng tượng được cả cảnh ấy cơ à? Ở, nhưng mà con bé đó là người Hồ, da trắng như sữa, thân hình cao ráo, hứng lên hừng hực như lửa, có khi sự thật đúng như ngươi đoán chứ chưa biết chừng.

Mọi người lại cười. La Đại Cương nói:

– Có điều, bọn mình đang nghĩ trăm phương nghìn kế để lấy mạng tên cẩu tặc, chẳng may bị ả đó hớt tay trên thì còn ra thể thống gì. Ha ha, tên cẩu tặc mà đi chầu ông bà ông vải theo cách ấy thì dễ mà lưu danh thiên cổ, tiếng xấu vạn năm đấy. Chỉ e chúng ta nói toạc ra trước thế này thì hắn sẽ đề phòng hơn thôi…

Hoa Kính Viên đang căng óc đoán xem bọn dưới kia bàn tán về chuyện gì, chợt nhận ra Phong Liên run bần bật, tự nhiên cậu nắm lấy tay cô:

– Ngươi lạnh à?

Phong Liên nghiến răng không đáp, với tay bẻ một mẩu ngói ném mạnh xuống. La Đại Cương đang mải ba hoa thì nghe gió rít trên đỉnh đầu, hắn vội giơ cương đao lên chắn. “Cốp” một tiếng thật to, cương đao tuột tay bay vào rừng, La Đại Cương nhăn mặt giữ chặt hổ khẩu, máu ròng ròng n ra từ những kẽ tay.

Phong Liên không ngờ mình chỉ ném bừa một nhát mà uy lực mạnh mẽ tới vậy, cô ngạc nhiên quá, ngoái ngay lại nhìn Lương Tiêu. Gã gật gật đầu, mỉm cười. Phong Liên bạo dạn hẳn lên, bèn nói vọng xuống:

– Kẻ nào còn tuôn ra những lời bậy bạ, bà bà đây sẽ tát vỡ cái mồm chó của kẻ đó.

Dưới tháp lặng đi một chốc, rồi những tràng chửi rủa lại bùng lên, lần này càng thêm để tiện xúc phạm. Phong Liên tức quá, luôn tay bẻ mái ngói ném thia lia xuống. Thời gian gần đây cô khổ luyện võ công với Lương Tiêu nên cũng đạt được klt quả nhất định, tuy chưa thể thu phát tùy ý nhưng thủ kình đã có lực, lại có ưu thế ở chỗ ném từ trên cao xuống. Thế là, những tiếng kêu la đau đớn vang lên nhốn nháo bên chân tháp. Quần hào luống cuống dìu đỡ những kẻ bị thương, hò nhau lùi ra, mãi cho đến chỗ Phong Liên không ném tới được mới dừng.

Hoa Kính Viên thú quá, bưng miệng cười khùng khục. Bỗng đâu trong gió có tiếng vó ngựa rộn vang như vàng gõ ngọc khua, chỉ thoáng chốc đã lan tới gần, rồi tiếng một người dõng dạc:

– Lương Tiêu có đó không?

Hoa Kính Viên vui mừng reo lên:

– Tần bá bá!

Lương Tiêu vụt mở choàng mắt, phất tay áo đứng dậy, cười đáp:

– Tần Thiên vương, đã lâu không gặp!

Giọng gã chứa đầy nội lực nên trầm hùng ngân nga như tiếng rồng gầm hổ rống, vang vọng bốn phương tám hướng, dễ mà nửa thành Khai Phong đều nghe thấy. Quần hào đang loi choi rủa xả, chợt im bặt cả như bị nhiếp hồn.

Tần Bá Phù sang sảng hỏi:

– Chẳng gì ngươi cũng là người hùng một thời, gây khó dễ cho trẻ con mà không biết ngượng ư?

– Lương Tiêu chỉ muốn gặp Hiểu Sương, không có ý đồ gì khác.

– Đã muốn gặp chị, tại sao lại bắt em làm con tin?

– Còn cách nào khác chăng? Chẳng lẽ cứ đạp cửa Thiên Cơ cung mà xông vào? Xưa nay Lương Tiêu vẫn kính phục phong thái khí độ của Tần Thiên vương, ơn cứu viện của Thiên vương ở Bách Trượng Bình năm nào, Lương Tiêu còn ghi trong lòng đây. Từ bấy đến giờ Thiên Cơ cung và Lương Tiêu đã ân đoạn nghĩa tuyệt, không đội trời chung được nữa, Hoa Vô Xuy tâm cơ thâm trầm, ngụy kế đa đoan, nếu không đùng đến hạ sách này, e rằng cả đời Lương Tiêu cũng không được thấy mặt Hiểu Sương. Hễ muội ấy lành lặn khỏe mạnh đích thân đến đây, thề có trời đất, Lương Tiêu không chỉ lập tức giao Hoa Kính Viên ra mà từ nay về sau sẽ bỏ đi biệt xứ, vĩnh viễn không quay lại Trung thổ nửa.

Phong Liên từng nghe Liễu Oanh Oanh kể chuyện xưa, biết rằng Lương Tiêu trở về Trung nguyên hoàn toàn là vì nhân vật có cái tên Hoa Hiểu Sương này. Cô tìm đủ cách để được theo Lương Tiêu tớỉ đây, một phần vì khó dứt được tình cũ, một phần là muốn xem xem Hiểu Sương mặt ngang mũi dọc ra sao. Phong Liên vẫn tự nhủ Liễu Oanh Oanh xinh đẹp tuyệt trần, võ công xuất sắc, nếu Lương Tiêu xiêu lòng vì nàng thì mình cũng đành bỏ cuộc, nhưng chưa chắc Hiểu Sương đã tài mạo song toàn đến thế, biết đâu bằng vận may và một vài thủ đoạn, cô có thể đánh bại người con gái ấy. Bây giờ nghe Lương Tiêu bộc bạch như vậy, cô bỗng thấy lòng tràn ngập đắng cay thất vọng.

Một tiếng hú bỗng vút lên lanh lảnh giữa trời đêm, rồi một bóng đen bốc cao khỏi chân tháp, không đi lối cửa mà vươn hai tay móc lấy mái ngói chìa ra, hết nhún lại bật, chỉ thoáng chốc đã lướt qua sáu tầng.

Phong Liên hoảng hồn, sẵn mảnh ngói trong tay, chẳng buồn cân nhắc, cô quăng mạnh xuống. Bóng đen nọ không hề né tránh, chỉ khẽ ngửa lòng bàn tay phải, viên ngói bật ngược lên theo đường cũ, lực đạo rất nặng, tốc độ nhanh hơn hẳn. Phong Liên hoàn toàn bất ngờ, đang chưa biết phản ứng cách nào, chợt nghe bên tai có tiếng rột nhẹ, mảnh ngói vỡ tan rơi ngay xuống chân cô. Cô ngoái lại nhìn. Lương Tiêu đang rủ tay đứng lặng, điềm đạm nói:

– Cứ để ông ta lên!

Gã dứt lời, một cơn gió rợn người mang theo vạt mưa cũng từ cửa sổ thốc vào. Phong Liên ngoảnh ra, trong phòng đã xuất hiện một lão già áo đen, mặt mũi vàng ệch, thân hình khẳng khiu. Hoa Kính Vỉên vui sướng reo:

– Con chào bá bá, bá bá khòe không?

Lão già trừng mắt nhìn cậu, tức giận nói:

– Khỏe ở đâu ra? Ngươi lấy trộm Thần Ưng lệnh rồi chạy biến đi, còn trơ tráo chào hỏi nữa à?

Hoa Kính Viên vừa sơ vừa xấu hổ, cúi gằm mặt xuống. Lương Tiêu nghiêng mình thi lễ:

– Nhiều năm không gặp, võ công của Tần Thiên vương càng lúc càng tinh thuần.

Tần Bá Phù lia mắt từ đầu đến chân gã, cau mày nói:

– Vất vả lắm hay sao, trông ngươi già đi nhiều quá, Lương Tiêu cười buồn:

– Dãi dầu phiêu bạt bấy nhiêu năm, không già mới là lạ.

Thấy hai người chẳng hề lộ vẻ thù địch, thậm chí còn ngậm ngùi thở vắn than dài như những bằng hữu lâu ngày gặp lại, Hoa Kính Viên rất đỗi ngạc nhiên, bèn hỏi:

– Bá bá quen hắn ư? Hắn là ai vậy? Hắn nói con có một tỷ tỷ, tại sao chưa bao giờ con nghe cha mẹ nhắc đến?

Gặp dịp, cậu bé xổ ra một tràng nghi vấn, nhưng Tần Bá Phù vẫn bực việc cậu lấy trộm Thần Ưng lệnh đi kêu gọi khắp nơi dẫn đến bao nhiêu phiền toái nên chỉ lừ lừ nhìn lại, không thèm trả lòd. Y bảo Lương Tiêu:



– Bất luận thế nào, ngươi bắt một đứa trẻ làm con tin là không đường hoàng.

Lương Tiêu mỉm cười:

– Tần Thiên vương khỏi cần rườm lời. Cứ đưa Hiểu Sương đến đây, bằng không Lương Tiêu không thả thằng bé.

Tần Bá Phù cau đôi mày rậm, máy môi mấy lần, chực nói lại thôi, một lúc lâu sau mới chậm rãi bảo:

– Đã thế, chỉ còn cách duy nhất là quyết chiến.

Lương Tiêu thở dài:

– Không phải sự bất đắc dĩ, tại hạ thực không muốn động thủ với Tần Thiên vương.

Tần Bá Phù phất tay áo đánh soạt:

– Sáo rỗng! Nếu ngươi thực lòng, mau trả thằng bé cho ta.

Tần Bá Phù tỏ ra hết sức cương quyết, không chừa cửa nào để thương lượng, Lương Tiêu khổ tâm vô cùng, gắng vớt vát:

– Tại sao cứ phải gây khó khăn thế nhỉ? Chỉ cần Hiểu Sương đích thân tới đây, tại hạ sẽ lập tức thả người, thậm chí còn mang rồi ra chịu tội, quyết không hai lời…

Tần Bá Phù nhướng mày quát:

– Đừng tào lao nữa, tiếp chưởng đây!

Y chạm song chưởng rồi vỗ mạnh về hướng Lương Tiêu. Gã mỉm cười, đầy song chưởng ra đón đỡ. Bốn chưởng xô nhau trong im lặng, tự dưng Tần Bá Phù loạng choạng lùi lại hai bước, mặt nổi sắc đỏ bầm. Y thở hộc một hơi, thân hình bỗng phình căng, chỉ trong chốc lát như đã lớn lên gấp đôi, hai chần di chuyển theo Cửu cung đồ, bước chân hơi thiếu linh hoạt.

Lương Tiêu sực hiểu. Thì ra sau chiêu mở màn thất bại, Tần Bá Phù bèn giở ngay nội công độc môn Cự linh huyền công, ngụ ý tốc chiến tốc quyết, bởi không gian ở đây tương đối chật hẹp, nếu y vận toàn lực thì chỉ cần dăm ba chiêu là sẽ phân định sinh tử ngay. Lương Tiêu chưa hiểu mục đích thực sự của y ra sao, bèn thăm dò:

– Nếu tại hạ ưa biện pháp mạnh thì đã xông vào Thiên Cơ cung ngay từ đầu rồi, cần gì phải bắt đứa bé này làm con tin.

Tần Bá Phù liếc gã, không nóì nửa lời, ống tay áo vẫn phòng căng như cũ, nhưng đôi mắt sáng quắc đã bớt phần dữ dội.

Hai người chằm chằm nhìn nhau chốc lát, chợt một tiếng hú dèi bật lên xé rách vòm không, lẫn vào tiếng sấm sét đầy trời, ai nghe cũng chấn động. Hai đấu sĩ đều giật mình, nhưng mắt Tần Bá Phù đượm ánh vui mừng. Tiếng hú càng lúc càng vang to, dư âm ngân dài, hệt như một con rồng lắc đầu quẫy đuôi bay tới, lúc đầu còn ở cách xa mấy dặm, thoáng chốc đã tới gần, thoạt trầm thoạt bổng lan dần lên, mau chóng chạm gần đỉnh tháp.

Lương Tiêu quát:

– Phong Liên, giữ lấy đứa bé!

Sắc mặt gã nặng nề khác hẳn bình thường, Phong Liên vội đáp:

– Vâng!

Đúng lúc ấy, tiếng hú bên ngoài im bặt, một cái bóng trắng toát nhá sáng ở đầu cầu thang rồi xẹt thẳng tới Lương Tiêu. Gã lập tức xuống tấn, hữu chưởng đưa tròn, sử Oa toàn kình, tả chưởng giữ sát thân, vận Thao thiên kình, một xoay vòng một tuôn thẳng, trong công chứa thủ, uy lực cực lớn. Bóng trắng xô vào gã, cả căn phòng bỗng quạt đầy cuồng phong. Kình khí thốc mạnh đến Phong Liên khiến cô đứng không vững, đành lùi lại áp lưng vào tường.

Hai bên giao thủ cực kỳ thần tốc, chiết chiêu qua lại như đèn cù. Được chừng hai mươi chiêu, người nọ buột miệng thốt:

– Tiểu tử, công phu khá quá! – rồi đột ngột giờ cả quyền lẫn cước, mau chóng ép Lương Tiêu phải giật lui ba bước. Đứng vững lại rồi, gã đầy nhanh chưởng pháp, lại buộc người nọ lùi về chỗ cũ.

Hai người giao đấu kịch liệt, lúc tiến lúc lui quanh căn phòng nhỏ, nhất thời khó phân tài cao thấp. Tần Bá Phù sực nghĩ ra một điều, bèn nói lớn:

– Phiền Thích đảo chủ cầm chân hắn, Tần mỗ đi trước đây.

Người nọ cười đáp:

– Được mà, lão tử ở không đã lâu, gân giãn xương mềm hết cả. Tối nay phải vận động thật nhiều… – Đang trả lời, chợt bị Lương Tiêu quẹt đầu ngón tay qua cùi chỏ phát tê dại, lão buột miệng kêu lên – Ôi chà…

Người áo trắng nọ chính là Thích Thiên Phong. Được Hoa Vô Xuy nhờ cậy, phu phụ lão dẫn Hoa Kính Viên ra giang hồ cho biết đó biết đây, nào ngờ thằng bé tinh ranh, vừa đến địa giới Hà Nam, nhân lúc mọi người không để ý là đánh cắp luôn Thần Ưng lệnh của Tần Bá Phù rồi lẻn đi đâu mất. Mọi người chia nhau tìm kiếm, hiềm nỗi Hoa Kính Viên còn nhỏ nhưng lắm mưu nhiều kế, bày ra vô số nghi trận dọc đường, mấy cao thủ lịch duyệt giang hồ kia đâu có ngờ tới, vì thế toàn truy đuổi lạc hướng. Tần Bá Phù là người đầu tiên nhận ra sai lầm, bèn lộn lại phủ Khai Phong, đúng lúc ấy được tin Lương Tiêu bắt giữ Hoa Kính Viên, y sấp ngửa giục ngựa đến ngay xem sao. Một lúc sau đó, phu phụ đảo Linh Ngao cũng nhận được tin báo, Thích Thiên Phong vốn tính nóng nảy, lập tức thi triển tuyệt đỉnh khinh công phóng vẻo đến Khai Phong thiết tháp, bỏ xa Lăng Thủy Nguyệt, tới nơi không nói nửa lời liền lao vào giao thủ với Lương Tiêu. Võ công của lão xuất thần nhập hóa, lục khắp thiên hạ cũng khó tìm ra đối thủ, nhàn rỗi quá đâm ốm người, vừa may gặp Lương Tiêu là kẻ luyện công cũng đã tới mức đăng phong tạo cực, lão già thích chí, rắp tâm đánh một trận thỏa thuê.

Biết rằng chỉ trong thời gian ngắn thì Thích Thiên Phong và Lưỡng Tiêu chưa thể phân tài cao hạ, Tần Bá Phù bèn thừa cơ chạy lại để giằng đứa bé khỏi tay Phong Liên. Cô gái muốn ngăn cản, song lúc này kình khí đan ngang đan dọc khắp phòng, cô không dám động đậy. Lương Tiêu ngó thấy, liền thét lớn, biến Hãm không lực bên hữu chưởng thành Ẳm đương lưu rồi xòe rộng năm ngón tay tạo Trích thủy kình, đoạn bắt cheo hữu thủ sang tả chưởng lúc đó đã đổi từ Oa toàn kình ra Thao thiên kình, ứng dụng nguyên lý toán thuật để tạo ra luồng Sinh diệt đạo, Chiêu thức này biến hóa đủ Lục đại kỳ kình, Thích Thiên Phong không ứng phó kịp đành cấp tập giật lui đến mấy bước. Lương Tiêu tranh thủ giậm gót xoay phắt lại, lao đến gần cửa sổ, phóng một chưởng vào Tần Bá Phù. Họ Tần biết mình không đương cự nổi, bèn xốc Hoa Kính Viên lên, phá cửa sổ tròn lao vút ra khỏi đỉnh tháp.

Hoa Kính Viên chưa kịp trấn tĩnh đã thấy mình ở giữa không trung, lòng kinh hãi vỏ cùng, muốn kêu thì gió mạnh xộc vào mũi mồm, muốn nhìn thì mưa nghiêng quất rát mặt, cậu đành nhắm nghiền mắt, mặc gió rít vù vù bên tai. Tần Bá Phù bay từ trên tháp xuống như thiên tướng giáng phàm, quần hào mừng rỡ vô cùng reo hò chạy ùa vào chân tháp để tiếp ứng.

Mặt đất đã lại gần, diện mạo của những người bên dưới cũng dần dần hiện rõ, Tần Bá Phù liền vươn tay ra níu một góc mái, định mượn nó để giảm bớt lực rod. Đúng lúc ấy, gió bỗng rít mạnh trên đỉnh đầu y, rồi một tiếng gầm vang như sấm nổ sát rạt bèn tai:

– Quay lại!

Tần Bá Phù cảm thấy cánh tay nóng rát, Hoa Kính Viên bị giằng đi, bản thân y cũng mất đã rơi thẳng xuống. Bốn tên hảo thủ đồng thời phi thân tới, gắng sức đỡ lấy Tần Bá Phù. Bên trên, Lương Tiêu ôm-Hoa Kính Viên trong tay phải, tay trái móc lấy mái ngói, người dung đưa hệt như lá rụng sắp lìa cành. Tần Bá Phù tiếp đất xong, cảm thấy khuỷu tay đau nhói bèn sờ xem, hóa ra đã bị trật khớp.

Lương Tiêu vặn gãy tay Tần Bá Phù, đoạt lấy Hoa Kính viên, suy tính và hành động chỉ diễn ra trong chớp mắt. Móc tay vào mái ngói rồi, gã định dồn sức nhún lấy đã bật lên cao, bỗng lại có luồng khí đổ mạnh xuống đỉnh đầu. Biết Thích Thiên Phong đã tới, Lương Tiêu không khỏi nhăn mặt than khổ, lúc này gã đang ở dưới, giao thủ vô cùng bất lợi, nếu bị ép rơi xuống giữa vòng vây của đám võ giả kia thì khó lòng tránh khỏi một trận huyết chiến chênh lệch lực lượng. Gã đang bấn lên tính toán, một bóng trắng đã hạ xuống sát bên, Thích Thiên Phong bắt chước bám tay vào mái ngói, cười hi hi:

– Được đấy tiểu tử, đứng đấu không hay, vừa treo mình vừa đấu vậy!

Dứt lời, lão khép khít các ngón tay, đâm thẳng vào ngực Lương Tiêu, Thấy lão quang mình lỗi lạc, không chịu chiếm ưu thế so với mình, Lương Tiêu rất khâm phục, bèn đảo thân lộn lên tầng ba tháp:

– Đấu treo thì tiểu tử cam bái hạ phong rồi!

Thích Thiên Phong như bóng theo hình, cũng đã lên đến tầng ba, miệng bô lô:

– Kể cả đấu đứng, gia gia đây cũng là thiên hạ vô địch.

– Chưa chắc, – Lương Tiêu tỉnh bơ.

Thích Thiên Phong trợn trắng mắt, kêu lên:

– Không phục ư, ngươi bỏ đứa nhóc đó xuống, hai ta đấu xem.

Lương Tiêu lắc lắc đầu:

– Qng định dụ tôi thả người à, phí công thôi.

Tuy đấu khẩu, họ vẫn không quên di chuyển, cả hai luôn chân đạp lên các mái tháp, kẻ đuổi kẻ chạy như chớp bay.

Trận tương tranh trong điều kiện hết sức hiểm trở ấy thu hút mọi sự chú ý của quần hào bên dưới, chẳng ai bận tâm đến màn mưa càng lúc càng xối xả, đâm lia lịa như những mũi tên vào mặt vào người mình nữa. Riêng Tần Bá Phù là còn lo lắng cho sự an nguy của Hoa Kính Vỉên, bèn nhắc:

– Thích đảo chủ, xin chu tất cho Viên nhi.

Thích Thiên Phong đang say đấu nên bỏ ngoài tai mọi lời kêu gọi của Tần Bá Phù, mải nhảy nhót công thủ, bay tuốt lên cao theo Lương Tiêu.

Sắc trời mỗi lúc một u ám, mây xám ùn ùn chảy tới, nặng như chỉ lỏng. Khai Phong thiết tháp vốn mang sắc đen của sắt, càng lên cao đường nét càng mờ, sau nhòa hẳn vào bóng đêm. Lương Tiêu và Thích Thiên Phong mỗi lúc một xa mặt đất, cuối cùng bị trời đêm nuốt chửng, thảng khi có tia chớp trắng lóa xé mây phóng xuống, từ bên dưới ngó lên tưởng chừng nó rạch qua giữa hai đấu thủ, cảnh tượng hết sức đáng sợ, Tần Bá Phù trông mà thấp thôm, đương nghĩ cách lên tháp, chợt sau lưng có người lên tiếng:

– Tần tổng quän, đừng lên là hơn.

Tần Bá Phù ngoảnh lại, Lăng Thủy Nguyệt đang nhẹ nhàng bước tới gần, tay giơ cao cây dù giấy. Tần Bá Phù thi lễ:

– Phu nhân đến thật đúng lúc.

Lăng Thủy Nguyệt cầm đoạn tay gãy xương của Tần Bá Phù, vừa nổi lại cho y vừa trách:

– Ngươi đã kinh qua bao nhiêu sóng gió giang hồ, tại sao lại sơ suất vậy, đến vết thương của mình cũng không biết đường chàm sóc cho tử tế.

Tần Bá Phù gượng cười:

– Thật hổ thẹn! Hoa gia liên tục gặp biến cố, đến nay chỉ còn mỗi giọt máu này. Đưa thiếu chủ đi mà không trông nom cẩn thận, mọi trách nhiệm đều thuộc về Tần mỗ. Chẳng may thiếu chủ có mệnh hệ gì, dẫu lấy cái chết để tự tận, Tần mỗ cũng không gột hết được ãn năn, còn sá chi một hai vết thương nhỏ nhoi. Mong Thích phu nhân gọi đảo chủ về để tránh làm thiếu chủ bị thương.

Lăng Thủy Nguyệt lắc đầu:

– Mấy năm nay, võ công chuyết phu mỗi ngày một tấn tới, vẫn khắc khoải tìm kiếm đối thủ, khổ nỗi đảo Linh Ngao lại nằm trơ trọi ngoài biển khơi nên ước mong của ông ấy khó lòng trở thành sự thực. Nay mới gặp được đối thủ xứng tầm, e rằng không đời nào chuyết phu bỏ qua đâu. Còn một việc nứa, kể ra thì xấu hổ, nhưng chắc Tần tổng quän cũng đã nghe nói: năm xưa chuyết phu say mê luyện Tiên vị công đến nỗi mắt trí, về sau Hiểu Sương đã trổ hết tài phép cứu chữa, nhưng cuối cùng chuyết phu vẫn không hoàn toàn hồi phục được, đầu óc bảy phần mình mẫn, ba phần lú lẫn, hành xừ thất thường. Bây giờ ông ấy đương hứng thú thế kia mà chúng ta chen ngang, e rằng kết quả rất khó lường, ngộ nhỡ khiến ông ấy nổi cơn điên thì ta không dẹp yên được đâu.

Nghe xong, Tần Bá Phù lộ rõ vẻ thất vọng. Lăng Thủy Nguyệt an ủi:

– Ngươi cũng đừng lo lắng quá, lão thân đảm bảo viên nhi sẽ an toàn. Chuyến phu vẫn đang tỉnh táo, xuất thủ khắc có cân nhắc nặng nhẹ. Vả chăng Viên nhi là em ruột Hiểu Sương, không khi nào Lương Tiêu gây tổn hại cho nó.

Bạch Bất Ngật đứng bên nghe được loáng thoáng, bèn chõ vào:

– Tên cẩu tặc ấy thâm hiểm tàn độc, còn lâu mới tốt bụng thế…

Lăng Thủy Nguyệt đáp trả bằng ánh nhìn lạnh lùng và uy nghi đến nỗi Bạch Bất Ngật, dù quen thói thô bạo lỗ mãng, cũng bất giác giật mình, rụt lưỡi nín thinh.

Tần Bá Phù thở dài:

– Chắc phu nhân chưa hiểu rõ lắm về con người Lương Tiêu, Tính hắn cố chấp quá khích, luôn dùng yêu ghét cá nhân để giải quyết mọi sự, Năm xưa hắn dốc sức công phá thành trì hủy hoại giang sơn Đại Tống cũng chỉ vì nỗi oán hận nhất thời, đó là một mình chứng hết sức rõ ràng. Bây giờ hắn khăng khăng yêu cầu Hiểu Sương phải đích thân đến mới chịu thả người, chúng ta làm thế nào được đây? Nếu hắn mà biết chân tướng… – Y ưu tư ra mặt, lắc lắc đầu, -… hậu quả thật khó lường.

Lăng Thủy Nguyệt cũng lộ vẻ trầm ngâm, không biết xoay xở cách nào trong tình cảnh bế tắc này.

Bấy giờ trên cao, Thích Thiên Phong và Lương Tiêu đã lên đến gần đỉnh tháp, mái ngói càng lúc càng thu hẹp, có chỗ hẹp đến nỗi không đủ để xoay gót chân. Cơn mưa tầm tã khiến mặt ngói lưu li càng thêm trơn trượt. Lương Tiêu phải ẵm Kính Vỉên, chỉ ứng phó được bằng một tay nên rất chật vật, nhất là khi đối phương là một đại cao thủ như Thích Thiên Phong, gã chỉ còn cách bay vòng vòng quanh thân tháp để né tránh. Thích Thiên Phong đi chuyển nhanh như quỷ mị, thi thoảng vươn tay toan giằng Kính Viên khỏi lòng Lương Tiêu. Lương Tiêu muốn giao đứa bé cho Phong Liên, nhưng bị tấn công rát quá nên trước sau vẫn không tìm được cơ hội nào thực hiện ỷ định.

Xoay tiếp một vòng nữa, Lương Tiêu sực nghĩ ra, bèn thét:

– Cho ông đây! – rồi chìa tay giơ Kính Viên tới trước.

Thích Thiên Phong chẳng mảy may cân nhắc, đón ngay lấy đứa bé. Lương Tiêu vừa rảnh tay là dồn sức xuất chiêu, chỉ vài ba cú quyền cước đã khiến Thích Thiên Phong luống cuống. Lão già tru tréo:

– Đồ mặt dạn mày dày, rõ ràng là người của ngươi, tự dưng tống vào tay lão tử là sao?

– Vừa rồi ông chẳng nhăm nhăm cướp lấy nó đấy thôi! Bây giờ toại nguyện mà còn oán trách nữa à? Thế này vậy, nếu ông thực sự muốn so tài cao thấp thì giao đứa bé cho nữ đồ nhi của tôi kia, sau đó chúng ta dùng nó làm vật cược cho trận đấu. Hai bên thỏa sức tỉ thí, ai thắng thì giành được nó.

Nghe đề nghị thật hợp ý mình, Thích Thiên Phong chộp lấy ngay:

– Thòa thuận! Kẻ nào hối hận nuốt lời là con rùa rút cô’.

Nói đến chữ “cổ”, lão vung tay hất Hoa Kính Viên vào trong tháp. Phong Liên giơ tay ra đón, thấy mặt mày thằng bé xanh tái, miệng méo xệch đi, thân hình run cầm cập, biết rằng nó đã quá khiếp hãi cảnh lên lên xuống xuống chóng cả mặt, nghĩ mà thương, cô thở dài ôm nó vào lòng. Lại nghĩ tình cảnh này hoàn toàn do Lương Tiêu gây ra, Phong Liên thầm hổ thẹn, dịu dàng vỗ về:

– Đừng sợ, ổn cả rồi!

Hoa Kính Viên lặng đi một lát rồi òa lên khóc.

Phong Liên cởi quần áo ướt hộ Hoa Kính Viên, lại lục dãy lấy khăn bông lau khô cả người, sau đó bọc cậu vào tấm chăn. Hoa Kính Viên là con độc đinh của nhà họ Hoa, từ nhỏ được nâng niu như ngọc, chưa gặp phải sự gí đáng sợ như tối nay, thoạt tiên nín lặng đờ dẫn, mặc Phong Liên thu xếp cho mình. Đến khi nằm gọn trong tấm chăn, thân thể ấm dần lên, cậu mới tỉnh táo lại. Nhớ lúc Phong Liên thay áo cho mình, Kính Viên bỗng nóng bừng hai má, một cảm giác kỳ lạ râm ran khắp người. Không nhịn được, cậu lén đưa mắt nhìn Phong Liên. Cô đang chăm chú ngó ra cửa sô với vẻ bổn chôn lo lắng. Không gian tăm tối lạnh lẽo trong căn tháp khiến cậu bé sờ sợ, tự nhiên xích lại gần sát Phong Liền. Cô gái thấy động, bèn đưa mắt nhìn lại:

– Còn lạnh à?

Hoa Kính Viên vội lắc đầu, lòng thấy êm đềm, người lâng lâng như trôi trên mây. Phong Liên vuốt tóc cậu:

– Sư phụ ta đối xử với cậu theo cái cách không ai đồng tình nổi. Nhưng ông ấy làm như vậy là có lý do riêng, cậu đừng trách nhé.

Không hiểu tại sao, Hoa Kính Viên bỗng thấy trào lên trong lòng một cơn ghen tức, cậu hậm hực hừ một tiếng, nhưng không muốn làm Phong Liên phật ý, đành nói:

– Tên mặt sẹo đó thật đáng ghét. Cô tốt hơn hắn gấp mười lần, nể mặt cô, tạm thời ta không so do với hắn.

Phong Liên xoa đầu Kính Viên:

– Đúng là miệng lưỡi trẻ con.

Hoa Kính Viên tái mặt, gay gắt phản đối:

– Ta không phải trẻ con.

Phong Liên trêu chọc:

– Phải rồi, ngươi là trẻ lớn, không phải trẻ con, nhưng chung quy vẫn là trẻ…

Hoa Kính Viên vừa giận vừa bối rối, chực gân cổ tranh cãi, Phong Liên bỗng giơ ngón trỏ chi về hướng cửa sổ. Hoa Kính viên lập tươ nín thinh, ngoảnh đầu nhìn ra. Một luồng kình phong kéo theo mưa hất vào mặt họ, vừa lạnh vừa ướt, Kính Viên him mắt nhìn, nhận ra bên ngoài có hai cái bóng lòng vòng đuổi nhau, thoắt ẩn thoắt hiện như ánh lửa hay tia chớp. Mưa rất to, nhưng màn nước hễ rơi xuống gần họ là bị luồng chân khí dữ dội đánh bật tung như ngọc nảy, không chạm nổi vào mặt mũi hai người. Sực nhớ trận đấu có liên quan đến bản thân mình, Hoa Kính Viên bỗng thót tim, tự dưng chãm chú theo dõi, không dám cả thở mạnh.

Lúc này, Lương Tiêu và Thích Thiên Phong chẳng còn lòng dạ đâu mà xao lãng đến việc khác, họ đều xuất thủ không nương tay, vừa nhảy lên bay xuống quanh tháp vừa dốc hết sức lực ra giao đấu. Cũng may mái ngói ở bốn mặt tháp đều được thợ thầy tiền triều xây dựng cẩn thận nên kiên cố vô cùng, bị hai cao thủ liên tiếp giẫm đạp mà vẫn không hề hấn gì.

Đấu đến năm mươi hiệp mà vẫn chưa thấy triển vọng chiến thắng, Thích Thiên Phong bèn giở tuyệt chiêu độc môn Tiên vị công, bắn chân khí ra từ tất cả các huyệt, kình phong theo đó nổi lên dày đặc không gian. Lương Tiêu chiết giải thêm một lúc, cũng muốn dùng đến tuyệt chiêu, nhưng nghĩ mái ngói quá hẹp, không tiện thi triển Bích hài kinh đào chưởng, gã bèn vận dụng "Tinh la tán thủ"... (Tán thủ là đánh tự do, tinh la là sao trời. Tinh la tán thủ là một lộ võ công tay không thuộc Tự nhiên chỉ thuật thuật đấu tự nhiên mà Lương Tiêu tự ngộ ra trên đường bôn ba. Ngoài Tinh la tán thủ, Tự nhiên chi thuật còn gồm một lộ nội công là Hội quyền thành hà lực đạo dồn cả về thành sông, và hai nội dung quan trọng nhất trong hệ thống võ học của Lương Tiêu là Hài chi đạo thuật hài hòa và Nhân kiếm tương ngự người và kiếm chủ động phối hợp với nhau, đây là các yếu quyết võ học, được ứng dụng lồng ghép vào các kỹ năng sẵn có chứ không biểu hiện cụ thể dưới dạng một chiêu thức hay lộ số võ công nhất định nào).

Đây là lộ công phu gã sáng tạo ra trên đường tây du, cơ sở của nó chính là Thiên hành kiếm pháp trước đây. Mười năm nay, cả võ công và toán thuật của Lương Tĩêu đều tấn tới, gã bỏ kiếm dùng chưởng, đem thiên văn dịch số phổ vào chưởng chỉ, lọc bỏ được hết các chỗ cứng nhắc, giúp chưởng pháp, chỉ pháp trở nên tinh thục nhuần nhuyễn, dù thi triển ở khoảng cách gần hay xa cũng đem lại hiệu quả như nhau, vừa tinh hoạt biến ảo tựa ánh sao nhấp nháy, vừa nghiêm cần vững chãi như chòm Bắc Đầu. Lương Tiêu dồn sức thi triển Tinh la tán thủ, chỉ chớp mắt đâ lấy lại ưu thế, giao đấu ngang ngửa với Tiên vị công.

Lương Tiêu xuất chiêu rất say sưa, chiêu số của Tinh la tân thủ biến hóa mỗi lúc một lạ kỳ, hình chiêu dần dần vượt khỏi giới hạn thiên tượng, kình phong từ lòng bàn tay, từ các ngón tay bắt đầu cuộn lên dạt dào như sóng biển, sừng sững như thế núi, tưởng chừng khuấy tung được cả đất trời. Suốt mười năm tây du, Lương Tiêu đã khổ công nghiền ngẫm học tập, kiến thức toán thuật càng thêm uyên thâm tinh túy, từ số học lại tiếp cận và lĩnh hội thêm thiên văn địa lý, tự nhiên vạn vật và nhiều môn học chưa ai đề cập đến trong lịch sử Trung thổ thật là không gì không học, không gì không tinh. Gã đã tự bồi đắp cho mình một nền tảng kiến thức dày dặn và mới mẻ, có thể nói là hơn hằn hiền triết các thời của Thiên Cơ cung, đủ khiến một bậc kỳ tài trăm năm mới gặp một lần như Thích Thiên Phong phải xính vinh chật vật. Được cái họ Thích thuộc loại gừng càng già càng cay, địch thủ càng mạnh càng có tác dụng kích thích tiềm lực của lão. Đấu tới lúc thống khoái cao độ, Thích Thiền Phong ngửa cổ hú dài, át đi cả tiếng mưa rơi sấm nổ, khiến những người bâu quanh chân tháp váng vất đầu óc, đứng cũng không vững.

Đấu đến khoảng chiêu thứ hai trăm, Lương Tiêu đã dò ra được yếu lĩnh trong chiêu thức của đối phương, liền tấn công ráo riết hơn hẳn. Thích Thiên Phong thấy khó chống đỡ, đột nhiên chạy vòng thật nhanh sang mặt bên kia tháp, Lương Tiêu dợm chân đuổi theo, chợt bị một luồng kình phong cản bước. Thì ra sau khi chạy sang mặt bên kia tháp, Thích Thiên Phong bèn búng mười ngón tay, đầy chỉ kình trở lại mặt tháp chỗ Lương Tiêu, mà lại là thứ chỉ kình biết chạy vòng, thực khiến người ta bất ngờ. Lương Tiêu trở tay không kịp, trúng ngay một chỉ vào vai, cả cánh tay tiền tê bại. Bấy giờ đợt chỉ kình thứ hai lại tới, Lương Tiêu vội né mình, đoạn vỗ một chưởng, chưởng lực vạch ra một đường vòng cung trong khoảng không, nửa đường bỗng đổi hướng, ngoặt ra sau tháp, tấn công Thích Thiên Phong. Họ Thích kêu lên sửng sốt, liên tiếp búng hai chỉ làm loãng chưởng kình rồi cao giọng hỏi:

– Tiểu tử, ngươi cũng biết chiêu này ư?

Tiên vị công của họ Thích còn mang tên Vổ tướng thần châm, tức là những mũi kim không có hình dạng cố định, muốn phóng thẳng hay cong, vòng hay rẽ đều được, có thể nói là biến hóa tùy ý. Chưởng lực chạy vòng của Lương Tiêu là một bộ phận trong Tinh la tấn thủ, gã đặt cho nó cái tên Thiên hồ chưởng lực. “Thiên hồ” tức là vòng cung của trời. Năm xưa trên sa mạc ở Ai Cập, Lương Tiêu đã tình cờ chứng kiến mưa sao băng, một hiện tượng tự nhiên hiếm hoí. Cái đuôi sao băng kéo ra những đường vòng cung trên nền tròỉ đêm, sáng ngời và mỹ lệ vô cùng. Trong lúc ngẩn ngơ ngắm vẻ đẹp mê hồn ấy, Lương Tiêu đã ngộ ra thứ chưởng kình quái lạ này và đưa luôn nó vào Tinh là tán thủ, Võ công hai bên tương đương, nên không ai giành được ưu thế, cứ người trước người sau chạy vù vù quanh thân tháp, bên phóng chỉ kinh, bên xuất chưởng lực, tuy không giáp mặt nhưng nội kình bắn đi quạt lại hết sức khó lường, cục diện vô cùng hung hiểm.

Duy trì thế giằng co thêm mười chiêu nữa, Thiên hồ chưởng lực dẫu sao cũng khống ảo diệu bằng Vô tướng thản châm, dần dần đầy Lương Tiêu vào thế yếu. Thích Thiên Phong chớp thcn cơ búng chỉ phong tanh tách, tăng cường tấn công khiến Lương Tiêu luống cuống chân tay, sau đó chạy theo hướng ngược lại, hữu thủ vỗ ra một chưởng. Lương Tiêu phóng tả chưởng tới đón. Hai chưởng chạm nhau, Lương Tiêu liền dùng Hăm không lực hút dính chưởng lực của họ Thích. Thích Thiên Phong đá đoán được ý định của Lương Tiêu, không để gã kịp dùng nốt Oa toàn kình hóa giải chưởng lực của mình, lập tức cúi gập mình xuống sử chiêu Bách châm tề phát, để một trăm tia kình phong sắc bén thoát ra từ các huyệt đạo trên người, bắn cả về phía Lương Tiêu.

Lúc này họ đã đứng đối diện nhau, Lương Tiêu đang dùng tả chưởng giao kích cực nhanh với hữu chưởng của Thích Thiên Phong, ngờ đâu mấy trăm đạo kình khí bất đồ thốc tới mặt. Thích Thiên Phong thấy kình khí trúng đích, nghĩ rằng phần thắng đã nắm chắc trong tay, lão vô cùng khoái chí vì đã đả bại được một địch thủ cao cường thế này, bèn thét to:

– Xuống nào!

Tiếng thét mạnh mẽ hùng hồn, vang xa đến mấy dặm. Chưa dứt, chợt thấy Lương Tiêu ngửa người ra sau tựa hồ sắp ngã, nhưng đột ngột lại thẳng người lên, Thích Thiên Phong chưa kip hiểu chuyện gì xảy ra, đã cảm thấy bên hữu chưởng có một luồng cương kình mạnh mẽ vô kể ùn ùn đổ vào mình. Lão vừa dốc hết nội lực vào chiêu Bách châm tề phát, trong mình hiện đang rỗng không chơi với, lại thêm hữu chưởng đã bị dính chặt lấy, không còn cách nào giãy thoát, tức thì bị luồng lành lực ấy thấm vào lòng bàn tay, chạy dọc lên hướng bả vai, chỉ tích tắc ba đường kinh mạch đã bị phong bế. Thích Thiên Phong bủn rủn cả người, rùng mình một cái rồi ngã lộn cổ từ đỉnh tháp xuống.

Thực ra, nếu là người khác, trúng liền một trăm mũi châm vô hình của Thích Thiên Phong thì chỉ có nước thua trắng. Nhưng Lương Tiêu, nhờ năm xưa đã từng tìm đến đầu nguồn Hoàng Hà, trông thấy Tinh Tú hái, từ đó ngộ ra một môn nội công mà gã đặt tên là Hội quyền thành hà, lấy ý trăm dòng tụ về một mối, hóa thành sông chảy ra biển lớn, hễ có nhiều luồng chân khí thâm nhập cơ thể cùng một lúc, Hội quyền thành hà sẽ dẫn chúng hòa vào kinh mạch, hợp thành một luồng tổng chân khí rồi đầy cả ra khỏi cơ thể.

Ngày ấy, Lương Tiêu sáng tạo ra môn nội công này chẳng qua chỉ để tiêu khiển, chưa bao giờ ngờ rằng sẽ có ngày dùng tới nó để khắc chế địch thủ mà giành phần thắng, bởi ngẫm cho kỹ, khi gặp cao thủ, không ai dùng thân thể mình hứng thẳng chỉ kình chưởng phong của đối phương, vả chăng võ công Lương Tiêu đã cao, gã tự phụ hiện thời không ai có thể bắn trúng liền một lúc mười đạo chân khí vào người mình được.

Ngờ đâu Thích Thiên Phong không chỉ phóng ra cùng lúc một trăm tia kình khí mà còn quạt cho kình lực tòa rộng ra, tuy không đủ mạnh để lấy mạng đối phương nhưng muốn hạ gục thì thừa sức.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 83: Long Bôn Vạn Lý (Đua chân vạn dặm)(2)

Đúng khoảnh khắc kình lực xâm nhập thân thể Lương Tiêu không còn thời gian cân nhắc nữa, mạo hiểm vận dụng Hội quyền thành hà, đón cả khối nội kình ồ ạt đó, cho chúng chảy cả vào Thủ thái âm phế kinh rồi gói gọn lại, phóng ra ngoài cơ thể. Thích Thiên Phong hoàn toàn không đề phòng, tức thì gánh lấy thất bại chưa cay.

Làng Thủy Nguyệt nghe trượng phu thét lên, tưởng lão thủ thắng, nào ngờ lại thấy lộn phộc từ trên tháp xuống, bà bật la thất thanh. Đúng lúc đó, Lương Tiêu cũng nhoài xuống theo, túm lấy cổ chân lão già, thét vang:

– Lên! – rồi lăng ngược lão lên mái tháp, lật mình lao vào cửa sổ.

Thấy Lương Tiêu giành thắng lợi, Phong Liên rất mừng, nhưng liếc Hoa Kính Viên, nhận ra mặt cậu ta trắng bệch, lệ rưng rưng trong cặp mắt to, cô lại thoáng ưu tư, bùi ngùi vỗ vỗ đầu cậu, an ủi:

– Đừng sợ!

Hoa Kính Viên nắm chặt chéo áo của cô, gắng kìm đôi dòng nước mắt.

Lăng Thủy Nguyệt và Tần Bá Phù lo lắng quá độ, bấy giờ đã rối rít chạy lên tới gác. Lăng Thủy Nguyệt mới máy mỏi, Lương Tiêu đã mỉm cười trấn an:

– Phu nhân đừng lo, Thích đảo chủ chỉ bị điểm huyệt thôi.

Gã định giải huyệt cho Thích Thiên Phong, chợt lão già thét:

– Khoan! – rồi chống ngược hai tay, ưỡn lưng bật mạnh người, lập tức đứng dậy được ngay.

Lương Tiêu không ngờ lão tự xung khai huyệt đạo nhanh đến thế, phì cười bảo:

– Nội công của tiền bối kinh khủng quá đấy, bội phục, bội phục!

Thích Thiên Phong trợn mắt tức giận:

– Vừa rồi lão phu sơ suất, chúng ta lại đấu lần nữa.

Lương Tiêu phản đối:

– Lúc đầu đảo chủ đã giao hẹn thế nào? Nói lời rồi nuốt lời thì là cái giống gì?

Thích Thiên Phong cãi cùn:

– Là rùa, nhưng chẳng sao. Quá nửa công phu của đảo Linh Ngao cũng từ rùa mà ra, gọi là rùa cũng không oan.

Số là thủy tổ của đảo Linh Ngao rất thích rùa và nhím, quan sát sinh trưởng và tập tính của chúng lâu ngày, lần lượt sáng tạo ra hai môn Trập long miên (Ngủ đông) và Tiên vị công, đặt nền móng cho hệt thống võ học của đảo Linh Ngao, Thích Thiên Phong cãi bướng là do căn nguyên ấy. Nhưng dù sao, đường đường là tông sư một phái mà lật: lọng như thế thật không nên, Lương Tiêu đâm bực:

– Đấu một trận nữa là đảo chủ chắc thắng hả?

Thích Thiên Phong nóng cả mặt, tự nhủ võ công Lương Tiêu đã ngang ngửa với mình, nếu may mắn thắng thì đi một nhẽ, ngộ nhỡ thua tiếp thì chắc chẳng bao giờ còn cơ hội mở mặt mở mày nữa, lão gãi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói:

– Võ công tạm coi như hòa, bây giờ chuyển sang đấu khinh công.

Thắng rõ ràng mà bị lão nói là hòa, mặt Lương Tiêu méo xệch, chẳng biết nên cười hay nên khóc. Lăng Thủy Nguyệt và Tần Bá Phù cùng nghĩ cứ để Thích Thiên Phong gây lộn xộn một trận thì chưa chừng lại lật ngược được tình thế, vì vậy đều im lặng quan sát diễn biến.

Lương Tiêu ngước mắt nhìn nóc tháp hồi lâu, bỗng cười nhạt:

– Thích đảo chủ, ông cứ ở đảo Linh Ngao mà an nhàn hưởng phúc, việc gì phải đến đây giở ra lắm trò rắc rối như vậy? Trêu vào một cường địch như ta, e rằng không hề có lợi cho đảo Linh Ngao.

Thích Thiên Phong tức khí nhổ phì phì:

– Ba hoa khoác lác, ngươi giỏi lắm đấy chắc?

Lăng Thủy Nguyệt cau mày, tự nhủ võ công Lương Tiêu cao cường như vậy, Thích Thiên Phong mà làm mếch lòng hắn quá mức, cầm bằng tạo ra một kẻ địch nguy hiểm cho đảo Linh Ngao. Suy tính một chốc, bà dàn hòa:

– Lão đầu tử, thua thắng là lẽ thường, ông đừng cố đấm ăn xôi nữa kẻo người đời cười chê!

Thích Thiên Phong xưa nay vẫn nể vợ, nghe bà nói thế bèn im ngay. Lương Tiêu liếc Lăng Thủy Nguyệt, thầm cười khẩy: “Ghê thật, lúc trước im hu không nói năng gì, đợi ta đe dọa mớỉ thèm mở miệng“.

Lăng Thủy Nguyệt quay sang Lương Tiêu:

– Lão thân cầu xin ngươi, mong ngươi nể mặt lão thần…

Lương Tiêu lắc đầu:

– Phu nhân đừng phí công, cứ đưa Hiểu Sương đến đây rồi muốn nói gí thì nói.

Lăng Thủy Nguyệt bị phủ đầu, đang sượng sùng bối rối, chợt Thích Thiên Phong nói toáng lên:

– Sương nha đầu làm sao đến được? Nó…

Lăng Thủy Nguyệt và Tần Bá Phù cùng giật mình kinh hãi, Lăng Thủy Nguyệt gắt:

– ông đừng nói bừa!

Nghe tiếng gầm sư tử Hà Đông, Thích Thiên Phong vội vàng nuốt ực câu định nói vào bụng, bối rối gãi đầu.

Trước thái độ lúng túng của cả ba, mối nghi ngờ gợn lên trong lòng Lương Tiêu: “Rốt cục Hiểu Sương đã gặp chuyện gì? BỊ cầm tù, không được ra khỏi cung? Hay ốm liệt giường liệt chiếu, không đi lại được..

Gã đoán già đoán non, ruột rối như tơ vò: “Việc này nhất định có uần khúc, e rằng ta dùng đằng ở đây thêm ngày nào thì Hiểu Sương khổ sở thêm ngày ấy. Được rồi, các ngươi không đưa Hiểu Sương đến, ta sẽ tới tận Thiên Cơ cung, dùng Hoa Kính Viên trao đổi“. Ý đã quyết, gã quay sang Thích Thiên Phong, mỉm cười hỏi:

– Thích đảo chủ vừa nói muốn tỉ thí khinh công, có thật không đấy?

Thích Thiên Phong lấy lại hứng khởi:

– Tỉ thí khinh công, ngươi nhất định thua.

Lương Tiêu gật đầu:

– Được, vậy thì tỉ thí khinh công.

Thích Thiên Phong hớn hở vô cùng, lại rào đón:

– Kết quả thế nào cũng không được chối cãi nhá!

Lương Tiêu cười mũi:

– Đảo chủ mà không chối cãi thì chẳng ai chối cãi cả! Có điều, luật thi phải do tôi quy định.

Thích Thiên Phong hào hứng rướn người về phía trước:

– Luật thế nào?

Lương Tiêu nói:

– Đọ cước lực, xuất phát từ đây, bên nào đến được Thiên Cơ cung trước là thắng.

Trừ Thích Thiên Phong, ai cũng sửng sốt. Lãng Thủy Nguyệt xen vào:

– Xa thế…

Không đậ bà nói hết, Lương Tiêu đã ngắt lời:

– Nếu tôi thua, sẽ giao đứa bé cho Thích đảo chủ, nếu đảo chủ thua, sau này không được can thiệp vào việc giữa tôi và Thiên Cơ cung nữa.

Gã cũng biết Thích Thiên Phong là đối thủ rất mạnh của mình, tuy rằng vừa may mắn chiến thắng, nhưng nếu không thể khiến lão tâm phục khẩu phục thì e rằng mai sau sẽ gặp rất nhiều bất trắc trong Thiên Cơ cung. Chi bằng đấu thêm một trận nữa để lão già không còn gì để nói, rút lui khỏi cuộc phân tranh, như thế gã cũng dễ bề chuyên tâm đối phó với các cao thủ của Thiên Cơ cung hơn.

Thích Thiên Phong hoàn toàn không có chủ kiến gì, nghe xong luật chơi lại nhìn vợ dò hỏi. Lăng Thủy Nguyệt nghĩ: “Khinh công đảo Linh Ngao vô địch thiên hạ. Lương Tiêu bỏ sở trường lấy sở đoản, chính hợp với ý ta. Chỉ có điều, đường xa chạy rất mất sức, Thiên Phong tuổi tác đã cao, Lương Tĩêu lại đang sung sức, thời gian truy đuổi mà kéo dài thì thắng bại khó đoán tắm. Nhưng hiện tại cũng chẳng còn cách nào khác, thôi thì đành chấp nhận rủi ro“. Nghĩ đoạn, bà khẽ gật đầu. Thích Thiên Phong như bắt được vàng, quay lại cười toe:

– Lương tiểu tử, cứ thế mà làm!

Lăng Thủy Nguyệt nói:

– Đêm nay mọi người đều mệt rồi, sáng mai khởi hành cũng được.

Lương Tiêu gật đầu đồng ý.

Thỏa thuận xong, Thích Thiên Phong, Lãng Thủy Nguyệt và Tần Bá Phù rời khỏi tháp. Tần Bá Phù giải tán quần hào, cả nhóm vào trọ ở Cửu Khúc các. Lương Tiêu đả tọa trên đỉnh tháp để dưỡng thần dưỡng sức. Tờ mờ sáng hôm sau, mưa ngớt, trời trong xanh trở lại, phương đông vừa rạng, bọn Lương Tiêu đã ăn lương khô rồi đi xuống, Phong Liên và Hoa Kính Viên cưỡi lên Hỏa Lưu Tinh, Lương Tiêu đứng bên cạnh đợi chờ.

Một lát sau, phu phụ Thích Thiên Phong và chúng nhân Thiên Cơ cung cũng tớí nơi. Hai bên gặp nhau, chẳng nói gì nhiều, cùng lên thuyền vượt Hoàng Hà. Sang đến bờ bên kia, hai cao thủ bắt đầu thi triển khinh công. Họ phóng vút đi như làn chớp, thoáng chốc chỉ còn là hai chấm nhỏ. Thấy cước lực đôi bên tương đương, Lăng Thủy Nguyệt đâm ra phập phòng, cảm giác chắc thắng bắt đầu lung lay.

Lương Tiêu vừa lao đi, Phong Liên cũng thúc ngựa đuổi lheo. Tần Bá Phù và đám tùy tùng Thiên Cơ cung đều chưng hửng. Chẳng tà họ đã bàn sẵn kế điệu hổ ly sơn, định thừa lúc Lương Tiêu bị Thích Thiên Phong cầm chân thì sẽ đoạt Hoa Kính Viên khỏi tay Phong Liên, dè đâu chưa ai kịp động tay, Hỏa Lưu Tinh đã động vó, chỉ hấp hấp vài nhịp là vượt xa đến mấy chục trượng. Cả đám thất kinh, nhất loạt thúc ngựa đuổi theo, nhưng với cước lực thần kỳ, Hỏa Lưu Tinh mau chóng vượt khỏi tầm nhìn của họ, chi để lại một làn bụi mỏng mờ.

Lăng Thủy Nguyệt và Tần Bá Phù sợ hãi nhìn nhau, đều nghĩ: “Lương Tiêu là kẻ lắm mưu cơ, tính toán rất kín kẽ, chưa chừng đã nắm chắc phần thắng trong cuộc đua khinh công lần này, Phải chăng chúng ta đã trúng kế hắn?“.

Phong Liên phi một lúc thì tới gần hai người. Thích Thiên Phong nghe tiếng vó câu, ngoái đầu lại cười:

– Con ngựa phi nhanh quá, thế này thì bị nó đuổi kìp rồi còn gì!

Lão lập tức tăng tốc. Lương Tiêu trông thấy Phong Liên, lòng đã yên tâm, cũng thúc động nội lực bám sát Thích Thiên Phong.

Hai người một ngựa chạy vun vút. Thích Thiên Phong và Lương Tiêu đều đã thấu hiểu thực lực đối phương, biết rằng chỉ trong khoảng thời gian ngắn thì rất khó phân định thắng bại, vả chăng đường còn xa, thời gian còn dài, nên đói là dừng ăn, mệt là đỗ ngủ, gặp mưa gió thì ai tìm chỗ nấy trú chân, không hề tỏ ra vội vàng. Bảy tám ngày nhanh chóng trôi qua, Trương Giang cuộn sóng đã xuất hiện trước mắt.

Đến bờ sông, vì Phong Liên muốn ngắm cảnh nên tất cả cùng dừng chân nghỉ ngơi. Lương Tiêu dõi mắt ra xa, thấy núi xanh trập trùng, nước bạc lóng lánh, thuyền bè qua lại tấp nập, chim chóc bay rợp trời. Mặt sông đã thôi đỏ máu, dòng chảy đã thôi chờ nặng những xác người, trận chiến khốc liệt: năm nào dường trở nên xa ngái, tưởng chừng thời kỳ tranh đoạt thiên hạ chôn vùi biết bao sinh linh đó chẳng qua chỉ là một giấc mộng Nam Kha, thoáng chốc biến thành hư ảo, riêng dòng sông kia vẫn trôi dài trôi mãi, muôn đời lặng lẽ chảy về đông.

Tiếng làu bàu của Thích Thiên Phong chợt kéo Lương Tiêu ra khỏi hồi ức bi thảm:

– Rõ xúi quẩy, gặp phải hai đứa ranh con vớ va vớ vẫn, chỗ sơn cùng thủy tận này có gì đẹp đẽ đâu!

Lương Tiêu ngoái đầu nhìn lại. Phong Liên và Hoa Kính Viên cưỡi trên mình ngựa, đang chỉ trỏ nước non, vui vẻ nói cười. Thích Thiên Phong thì bắt hai tay sau lưng đi đi lại lại, mặt mày sốt ruột. Lương Tiêu thầm khen:“Ông già khỏe thật, chạy lâu như thế mà không hề có dấu hiệu mệt mỏi. Qua sông rồi, chắc ta phải nghiêm túc tỉ thí thôi“.

Thích Thiên Phong bước quẩn hồi lâu, bỗng bực bội nói:

– Chẳng đợi nữa. Các ngươi không đi thì mặc các ngươi, ta qua sông đây, Có một con thuyền đang neo chỗ mạn sông gần đó, Thích Thiên Phong chạy ngay lại rút cây sào tre, bẻ một mẩu ngắn quăng ra mặt sông rồi phi thân đạp lên, thi triển khinh công Thừa phong đạo hài lướt đi xa chừng hai trượng. Phong Liên kinh ngạc gọi rối rít:

– Sư phụ sư phụ, hỏng rồi, bản lĩnh của lão già kia ghê gớm quá! Chúng ta mau tìm thuyền qua sông.

Lương Tiêu mỉm cười im lặng, bụng bảo dạ: “Qua sông bằng cách ấy cũng chẳng có gì là khó, nhưng bắt chước giống thế thì thật tầm thường“.

Nghĩ một lúc, gã tìm lấy hai cây sào tre, thoạt tiên chống cây sào bên tay trái xuống đất, thân sào cong lại rồi bật thẳng ra, đầy gã lăng tới trước ba trượng, kế đó lại đưa tay phải đầy sào, lần này là cắm thẳng xuống mặt nước, thân tre rỗng ruột nên lực nổi rất lớn, vừa chìm xuống lại nổi lên ngay, Lương Tiêu mượn đã lộn một vòng, lướt đi thêm năm trượng, lại tiếp tục đưa tay trái ra, thêm một nhịp chìm nổi, gã băng đi ba trượng nữa.

Đều đều như thế, hai cây sào nhấp nhô trên muôn trùng sóng nước, từ xa nhìn lại, lối di chuyển của Lương Tiêu chẳng khác nào kiểu bước con cò. Thích Thiên Phong ngoái nhìn, không kìm được phải tán thưởng:

– Lương tiểu tử, trò đó hay đấy!

Hai người cùng vượt Trương Giang bằng công phu khinh thân, người đuổi người chạy, cùng lướt đi như tia chớp. Dân lái thuyền hoặc đánh cá nhìn thấy đều trố mắt. Lương Tiêu đầy sào mỗi lúc một đều tay, chẳng mấy chốc đã lướt qua Thích Thiên Phong, đi sau mà tới trước, gần đến bờ, gã khẽ nhún cây sào trái, lăng mình đáp xuống nam ngạn một cách gọn gàng. Thích Thiên Phong vẫn còn ở ngoài sông, thấy vậy mặt xám như tro, thét lên:

– Thôi, tiểu tử, coi như lão phu thua một hiệp. – Dứt lời, lão cũng phi thần đến bờ sông. – Hừ, ngươi cạp đích trước, sao không đi luôn đi?

Lương Tiêu mỉm cười:

– Đồ nhi của tại hạ vẫn chưa qua sông. Vả chăng Thích đảo chủ cứ khiêm tốn thế chứ, đảo chủ vượt sông bằng một cây sào, trong khi Lương Tiêu dùng đến hai cây, kể ra là thuận lợi hơn đảo chủ về mặt phương tiện rồi, từ đó đủ biết cao thấp thế nào mà.

Những lời phỉnh phờ khiến Thích Thiên Phong phấn khởi vô cùng, lão vuốt râu cười đáp:

– Ai ngờ đầu óc ngươi còn khá hơn cả võ công thế này. Đúng lắm, cứ suy xét kỹ thì qua quãng sông vừa rồi, quả tình lão phu lợi hại hơn một chút.

Lão vui vẻ quá vừa nói vừa vỗ vai Lương Tiêu. Lương Tiêu biết tính lão thẳng thắn phóng khoáng, không bao giờ giở trò ám toán, nên thấy tay lão nhoài đến cũng không né tránh, cứ thản nhiên để mặc.

Một lát sau, thuyền chở Phong Liên và Hoa Kính Viên cũng cập bến. Thấy hai người trên bờ nói chuyện rất sôi nổi, họ cùng nhìn nhau kinh ngạc. Bấy giờ Thích Thiên Phong đang oang oang:

– Nhưng mà, lẽ ra với hai cây sào, ngươi có thể chống một cây, còn một cây đùng làm thương, đâm cho ta hai nhát giữa sông, thể nào lão phu chẳng vì né tránh mà hụt bước, ngã tùm xuống nước nhỉ? Thế là do ngươi đã đường hoàng bỏ qua tiểu xảo đấy thôi. Do vậy thắng phụ ra sao, còn phải cân nhắc cho kỹ, Lương Tiêu tủm tìm:

– Không, nếu Thích đảo chủ bẻ mẩu sào làm ám khí, ném tại hạ hai nhát theo phép ném phi tiêu khiến hai cây sào gãy gập, thể nào tại hạ chẳng ngã tùm xuống nước. Thế là đảo chủ cũng rất đường hoàng bỏ qua tiểu xảo. Do vậy thắng phụ ra sao, còn phải cân nhắc cho kỹ.

Hoa Kính Viên nghe mà buồn cười, bèn nổi lời ngâm nga:

– Rùa già rùa già ơi, chơi vơi chơi với, ngã tùm xuống nước.

Thích Thiên Phong tuy đầu óc không được mình mẫn lắm, nhưng làm gì chẳng nhận ra ngụ ý châm chọc trong câu nói ấy, bèn mắng:

– Ta mà tóm ngươi ném đi, đảm bảo ngươi cũng ngã ùm xuống sông, biến thành một con rùa con cho xem.

Trông bộ dạng lão hung hãn, Hoa Kính Viên đâm sợ, lè lưỡi núp vào sau lưng Phong Liên.

Qua được Trương Giang là đã vượt hơn nửa chặng đường, hai đấu thủ đều gia tăng tốc lực. Thích Thiên Phong dẫu cao tuổi, song được trời phú cho sức khỏe khác thường, nhịp thở tương đối dài, không kém cạnh gì bọn thanh niên trai tráng. Lương Tiêu bất luận nội hay ngoại công đều đang ở thời kỳ đĩnh cao sưng mãn, thành thử cả hai tương đương nhau, không ai hơn ai được.

Đi thêm mấy hôm thì ra tới sông Tiền Đường. Lương Tiêu dừng chân trên bờ, xắn áo vái ba vái ra mặt sông. Mọi người không hiểu ra sao, đều cảm thấy ngạc nhiên. Thích Thiên Phong tò mò hỏi ngay. Lương Tiêu im lặng, khuôn mặt buồn thảm. Thích Thiên Phong gãi đầu gãi tai hồi lâu, vụt tỉnh ngộ:

– À, ngươi khấn thần sông giúp ngươi thủ thắng, đúng không?

Không đợi gã đáp, lâo già quay ngay mặt về đông, chắp hai tay cung kính khẩn cầu. Lương Tiêu ngạc nhiền hỏi:

– Ông làm gì vậy?

Thích Thiên Phong im bặt. Lương Tiêu cau mày, chẳng buồn để ý đến nữa. Thích Thiên Phong thấy gã không gặng hỏi, lại sốt ruột tự kể:

– Vừa rồi lão phu cầu khấn thần linh biển Đông, nếu lần này thắng, nhất định sẽ mổ trâu, gả, ngựa trắng để đáp tạ, ha ha.

Lão đảo đầu vẻ đắc ý.

– Thần sông của ngươi chẳng qua chỉ là một viên quan nhỏ nhoi như con kiến, làm sao sánh được với quan lớn như thần biển Đông?

Lương Tiêu cười buồn, nghĩ bụng: “Trong lòng ông chỉ có thắng thua, nào biết đến nỗi đau tử biệt sinh ly. A Tuyết lúc sinh thời chẳng phải hạng kiệt xuất, thác xuống e rằng cũng không làm nổi thần sông Tiền Đường, cùng lắm chỉ là một linh hồn lang thang cô khổ mà thôi“.

Gã bỗng thắt ruột, suýt nửa rơi lệ trước mặt mọi người.

Đêm xuống, khi dừng chân nghỉ ngơi, Lương Tiêu gọi Phong Liên lại bảo:

– Chuyến này đến Thiên Cơ cung, nhất định sẽ xảy ra một trận ác đấu, Ta rất đông kẻ thù, muốn an toàn rút lui không phải chuyện đơn giản. Ngộ nhỡ ta gặp phải chuyện bất trắc, cô cũng đừng buồn, phải mau cưỡi Hỏa Lưu Tinh đào tẩu thật nhanh. Mấy hôm nay ta đã hệ thống toàn bộ võ công của mình thành khẩu quyết, từ tối nay sẽ truyền miệng cho cô, lĩnh ngộ được nhiều hay ít thì phải chờ xem cơ duyên của cô vậy, Phong Liên rơm rớm nước mắt, run run nói:

– Sư phụ, chi bằng chúng ta trả Kính Mên cho lão già đó rồi về phương tây đi, Lương Tiêu sầm mặt:

– Ngươi dám chống lệnh sư phụ ư?

Thái độ nghiêm khắc bất ngờ của gã khiến Phong Liên tủi thân, cô cúi gằm đầu, nước mắt trào ra. Lương Tiêu gắng giữ vé cứng rắn, đọc ra các khẩu quyết: tâm pháp rồi giảng giải từng câu, mãi đến canh ba hai thầy trò mới nghỉ ngơi.

Cứ thế, ban ngày tỉ thí khinh công, đêm xuống truyền thụ khẩu quyết, ba ngày trôi đi nhanh chóng, Quát Thương sơn đã lờ mờ phía xa. Trước đó một hôm, Lương Tiêu vốn đã bứt xa hơn mười trượng, nào ngờ chưa đến ngọ lại bị Thích Thiên Phong đuổi kịp, gã càng nghĩ càng phiền não: “Mười năm khổ luyện mà không thắng nổi một ông già cổ lai hi, có nực cười khổng cơ chứ! Sớm biết thế này thì cứ đi cả ngày lẫn đêm cho lão mệt đứt hơi, đằng này lại ỷ y tuổi trẻ sức khỏe, bây giờ hối không kịp. Tình trạng ngang ngửa dai dẳng này mà kéo dài đến tận Thiên Cơ cung thì thật bất lợi cho ta“.

Nghĩ tới đây, gã bèn đề nghị:

– Thích đảo chủ, trước khi vào núi chúng ta quyết phân định thắng phụ nhé?

– Phân định thế nào? – Thích Thiên Phong hỏi.

Lương Tiêu trỏ một cây cối cao vượt hẳn lên trong cánh rừng:

– Lấy cây cối kia làm đích, ai đến trước thì người đó thắng.

Thích Thiên Phong cười:

– Được! – và lập tức băng mình đì như cơn gió.

Lương Tiên guồng chân bám đuổi.

Hai người chạy nhanh như bóng lướt mặt hồ, khoảng cách mỗi lúc một rút ngắn, còn mười trượng nữa là cạp đích mà họ vẫn chạy song song. Lương Tiêu đảo mắt tính toán, bất đồ xòe chưởng vỗ vào vai Thích Thiên Phong, Lão già ồ một tiếng, cử chưởng đón đỡ, nhịp chân vì thế hơi chậm lại, Lương Tiêu lại thu chưởng lực về, thừa cơ đó bứt lên được hơn một trượng. Thích Thiên Phong la oai oái, vung mười ngón tay búng tanh tách, những mủi kim vô hình ào ạt đuổi theo Lương Tiêu. Lương Tiêu chẳng qua chỉ dùng hư chiêu để đánh lừa Thích Thiên Phong, thế mà những chiêu trả đũa của lão già đều dữ dội tàn độc, buộc gã phải xoay mình lại để chống đỡ.

Quyền cước hai bên qua lại dày đặc, không ai chịu để đối phương vượt qua mình. Họ đang giao đấu đến hồi kịch liệt, bỗng có bóng đỏ xẹt qua bên cạnh, Phong Liên cưỡi Hỏa Lưu Tinh phi đến gần cây cối, xuống ngựa gọi:

– Sư phụ, Thích đảo chủ! Các vị đừng giao tranh nữa, người đến đích đầu tiên là tôi.

Lương Tiêu và Thích Thiên Phong kinh ngạc ngưng chiến. Hoa Kính Viên cười:

– Thế này gọi là trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi đây. Hai người đọ khinh công mà không ai giành được phần hơn, tự nhiên lại để chúng ta thừa dịp chiếm tiên cơ.

Cậu ta nắm chặt tay Phong Liên, cười rạng rỡ kéo cô lại sát mình. Lương Tiêu nhăn mặt:

– Phong Liên, đừng gây rắc rối nữa!

Phong Liên bặm bặm môi:

– Tôi không gây rắc rối gì cả. Ông đá nói, dùng cây cối làm đích, ai đến trước coi như người ly thắng, đúng chưa?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Đợt tỉ thí này chỉ giới hạn ở ta và Thích đảo chủ, ai cho cô tham gia?

Phong Liên cười nhạt:

– Hai vị tự phụ khinh công ghê gớm, nhưng lại thua một đứa con gái, còn tư cách gì để phản đối đây?

Nghe cái giọng cả * lấp miệng em, Thích Thiên Phong phát cáu mắng:

– Con ranh kia! Ai thua ngươi? Nếu ngươi không cưỡi ngựa thì đã bị ta bỏ xa đến mấy ngàn dặm rồi.

Lão già tỏ ra hung dữ quá, Phong Liên cũng hơi hãi, không dám ho hắng thêm tiếng nào. Hoa Kính Viên bĩu môi:

– Công công nói thế là sai, sách có câu: “Quân tử vốn giống nhau, khác chăng ở khả năng biết tận dụng sự hỗ trợ bên ngoài (Câu trong sách Tuân Tử) ...Các vị có ngựa mà không cưỡi, có thuyền mà không ngồi, cứ khăng khăng chạy bằng đôi cẳng chân, có phải là hết sức xuẩn ngốc hay không?

Thích Thiên Phong nổi giận:

– Thằng oắt con nói bậy nói bạ, lão tử vả cho một cái vỡ miệng ra bây giờ, đoạn trừng mắt nhìn Phong Liên.

– Ngươi bảo ta thua, được, chúng ta thi đấu xem ai lợi hại hơn?

Chưa dứt lời, lão đã quạt một chưởng về phía Phong Liên. Lương Tiêu lạng mình ra chắn đường, phóng chưởng đầy rhếch đi, hóa giải chưởng lực của Thích Thiên Phong. Lão già trợn mắt, sừng sộ hỏi:

– Còn muốn đánh nhau nữa phỏng?

Lương Tiêu cười nhạt:

– Nếu chỉ động khẩu thì ông thích nói thế nào cũng được, nhưng nếu ông định động thủ bắt nạt đồ nhi của tại hạ thì kẻ hèn này khó lòng rủ tay đứng nhìn.

Thích Thiên Phong vỗ tay cười ha hả:

– Được, lão phu hẵng đánh ngã ngươi trước rồi xử lý đồ đệ láo lếu của ngươi sau.

Lương Tiêu hừ một tiếng, lạnh lùng đáp:

– Ông thử xem.

Phong Liên sợ hai người lại tiếp tục giao tranh, bèn nói:

– Các vị đều là cao thủ đương thế, có gan làm phải có gan chịu, tôi đã chạm đích trước, từ nay việc gì cũng phải do tôi quyết.

Tuy phật ý vớỉ hành động của Phong Liên, nhưng Lương Tiêu không thể tụ thủ bàng quan khi Thích Thiên Phong muốn gây bất lợi cho cô. Gã bắt buộc phải đứng về phía học trò mình:

– Thằng bé kia nói đúng. Quân tử chỉ khác nhau ở chỗ có biết dùng các biện pháp hỗ trợ hay không thôi. Tuy cô giành thắng lợi bằng tiểu xảo, nhưng cũng là bằng một cách rất thông minh. Có điều gí cứ nói đi, nhất định ta sẽ làm hậu thuẫn cho cô.

Phong Liên phấn khởi hẳn lên:

– Điều thứ nhất, Thích đảo chủ đã thua, phải rút lui khỏi cuộc phân tranh như đã giao ước, không được đeo bám làm phiền thầy trò tôi.

Thích Thiên Phong tím mặt lại, chừng như sắp nổi cơn điên, Hoa Kính Viên bỗng xen vào:

– Công công ơi, bà nội con thường nói võ công ông vô địch thiên hạ.

Thích Thiên Phong quên bẵng cả cơn giận, nhe răng cười:

– Hoa Vô Xuy nói vậy thật hả?

Hoa Kính Viên gật đầu:

– Nhưng lần này trở về, nhất định con phải nói cho bà biết, bản lĩnh đệ nhất thiên hạ của ông không phải là võ công mà là ăn vạ.

Thích Thiên Phong nhảy chôm chôm như phải bỏng:

– Tiên sư con rùa con… Lão sắp chửi mắng đến nơi, chợt lại tự nhủ:

“Không nên, Hoa Vô Xuy yêu thương con rùa con này nhất, chắc chắn sẽ tin lời nó. Nếu con rùa này thêm mắm dặm muối, Thiên Cơ cung đồn đại ra ngoài thì không chỉ lão tử mất hết thanh danh mà đảo Linh Ngao cũng chẳng còn mặt mủi nào nhìn ai nữa“.

Ngần ngừ một chốc, lão bỗng giậm chân, nghiến răng nói.

– Thôi được, ta đồng ý việc ấy, nhưng không đời nào ta nhận thua đâu.

Phong Liên tủm tỉm:

– Không nhận thua cũng chẳng sao, ông hứa cho việc đó là được rồi. Điều thứ hai, sư phụ cũng đã thua, phải giao A Viên lại cho Thích đảo chủ.

Lương Tiêu ngớ người. Phong Liên níu tay áo gã, tha thiết nói:

– Ổng là đại anh hùng đại hào kiệt, khống chế một đứa nhỏ làm con tin khiến cha mẹ nó bấn loạn, thật không nên không phải…

Lương Tiêu im lặng hồi lâu, bỗng thở dài kéo Hoa Kính Viên sang, đưa vào tận tay Thích Thiên Phong. Lão già kinh ngạc:

– Lương tiểu tử, ngươi nhận lời giao thằng bé cho ta thật đấy à?

Lương Tiêu lãnh đạm đáp:

– Đảo chủ đã hứa phần đảo chủ, cớ gì Lương mỗ không hành động tương tự được?

Thích Thiên Phong cười ha hả:

– Nói phải lắm! – đoạn dắt tay cậu bé định đi, Hoa Kính Vỉên vội nói:

– Đợi con một lát!

Thích Thiên Phong cau mặt:

– Còn chuyện gì nữa đây?

Hoa Kính Viên trừng trừng nhìn Lương Tiêu:

– Ta biết ngươi đồng ý ngoài miệng chứ thực bụng không bằng lòng tí nào. Ta đi rồi, ngươi cũng không được trách tội Phong Liên thư thư. Ngươi mà phạt tỷ ấy, ta không tha cho ngươi đâu.

Thấy cậu bé ra mặt nói hộ mình, Phong Liên hết sức cảm động. Lương Tiêu nhíu mày:

– Ngươi được mấy nả sức mà đòi uy hiếp ta?

Hoa Kính Viên ngẩng cao đầu, nói lớn:

– Bây giờ ta đánh không lại ngươi, nhưng khi trưởng thành rồi, nhất định sẽ hơn ngươi xa.

Lương Tiêu nhìn Kính Vỉên một tát, gật gật đầu:

– Không ngờ ngươi còn nhỏ mà chí khí đã lớn như vậy. Được, vi câu nói này của ngươi, ta không trách Phong Liên.

Hoa Kính Viên chun mủi hừ một tiếng, lại nhìn sang Phong Liên mắt bỗng hoe đỏ trước cuộc chia ly. Thích Thiên Phong ẵm cậu lên, cười hì hì:

– Lương tiểu tử, gặp lại sau! – rồi thi triển khinh công, chạy vun vút vào vùng núi Quát Thương.

Lương Tiêu quay đầu, lặng lẽ bước đi. Phong Liên lẳng lặng theo sau, không nhịn được phải lèn tiếng:

– Nếu ông tức bực thì cứ mắng tôi đánh tôi, đừng ngậm câm như thế làm người ta rầu lòng chết đi được.

Liếc đôi mắt: hoe hoe đỏ và gương mặt phụng phịu sắp khóc ấy, Lương Tiêu bất giác thở dài:

– Cô xử sự đúng lắm, đánh mắng sao được. Ta chỉ giận bản thân mình thôi.

Phong Liên lộ vẻ kinh ngạc, Lương Tiêu bèn cắt nghĩa:

– Bây giờ nghĩ lại, bắt Hoa Kính Viên làm con tin đúng là một hành động xốc nổi. Ta chỉ nhăm nhăm đạt được mong muốn của mình mà không quan tâm tới ai cả. Chẳng ngờ sau ngần ấy năm, ta vẫn không bỏ được cái thói bông bột ưa hành động theo cảm tính.

Phong Liên đổi buồn làm vui:

– Tóm lại ông không trách tôi hả?

– Việc hôm nay, sai là ở ta. Cô không sợ bị trách phạt, buộc ta thả người, thế là biết nghĩ và có gan đấy. Trên đời này bất luận học văn hay học võ, muốn vượt được tiền nhân, trở nên xuất chúng, đều cần phải có khí độ, đàm lượng và khả năng cân nhắc.

Cùng một cuộc tương tranh, bọn thô tục hèn kém tỉ thí chiêu thức tiểu xảo, kẻ bậc trên thi đấu nội lực, còn cao thủ chán chính thì so đọ khí độ và tấm lòng.

Căn cơ của cô còn yếu, khả năng định mưu tính kế tương đối hạn chế, về lý mà nói thì không thích hợp để học vỏ công của ta, nhưng bù lạt cô có tấm lòng rộng rãi khác thường.

Có lẽ là do cô sinh trưởng ở vùng núi Côn Luân, được thiên nhiên bao la và bầu không khí tự do hun đúc cho những khí chất ấy, chẳng phải võ giả nào cũng có được hoàn cảnh thuận lợi thế đâu.

Lương Tiêu không những không mắng mà còn khen ngợi, khiến Phong Liên phấn chấn quá đỗi:

– Thực ra tôi cũng chẳng can đảm hay rộng rãi gì, chỉ vi tự đáy lòng tôi không coi ông là sư phụ.

Lương Tiêu mỉm cười tự nhủ: “Nhìn khắp thiên hạ, e rằng chẳng mấy người nói được những lời tương tự. Cô bé này thẳng thắn quá”, Phong Liên nói tiếp:

– Nhân nhắc đến tấm lòng và khí độ, Thích Thiên Phong bản lĩnh cao cường thật, nhưng chẳng có tí khí độ nào.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Đừng nói vậy. Thích đảo chủ luôn nặng lòng với thắng bại, gặp được đối thủ xứng đáng thì cao hứng như được vật báu, vì mục đích chiến thắng mà liên tục tôi luyện bản thân. Ngoài ông ấy, ta chưa từng gập người nào hết lòng với võ học đến thế. Ông từng mắc bệnh mất trí nhở, thường trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, chính lại phù hợp với yếu quyết vô pháp vô tướng, khó mà đối địch được.

Phong Liên cười bò:

– Gây gổ đánh lộn rồi thành cao nhân, có nhẽ đâu thế… Sư phụ, vậy ông đi Thiên Cơ cung nữa hay thôi?

Lương Tiêu đáp:

– Cố nhiên phải đi chứ. Ta những muốn tiến vào đó một cách đường hoàng, nhưng nay trong tay không có con tin, đành thừa lúc đêm hôm lẻn vào vậy.

Phong Liên ngạc nhiên:

– Người trong Thiên Cơ cung lợi hại đến thế kia ư?

– Kể ra chẳng left hại lắm, nhưng nếu động thủ thật thì cũng có chút bất tiện.

Hai thầy trò đương bàn luận, đằng trước chợt có hai người đi tới, một trong hai người vẫy tay gọi từ xa:

– Lương Tiêu lão đệ phải không?

Người đó chính là Minh Tam Thu, theo sau lưng y là một thiếu niên áo xanh độ mười bảy mười tám tuổi, trán cao miệng rộng, bộ dạng lờ đờ.

Gặp được tn kỷ, Lương Tiêu phấn khởi ra mặt:

– Tam Thu huynh, lâu nay thế nào?

Minh Tam Thu rảo chân tới gần, ôm chầm lấy gá, nhìn kỹ từ trên xuống dưới, cười lớn:

– Vỉ huynh nhớ đệ chết đi được, chỉ sợ tới chậm một bước thì không gặp được đệ mất.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

– Làm sao Minh huynh biết tiểu đệ đang ở đây?

Minh Tam Thu ngó quanh rồi nói:

– Kể ra thì dài lắm, Lương huynh đệ, chúng ta tìm một nơi yên tĩnh rồi chuyện trò cũng không muộn.

Lương Tiêu chưa hiểu ra sao, nhưng cũng gật đầu ưng thuận. Họ tìm được một trà xá vắng vẻ, ai nấy an tọa xong xuôi, Minh Tam Thu trỏ thiếu niên áo xanh, giới thiệu:

– Vị này là đồ đệ của ta, họ Chu tên Thế Kiệt (Chu Thế Kiệt, người Yên Sơn (gần Bắc Kinh ngày nay), là một nhà toán học, khoa học kiệt xuất thời Nguyên. ông đã tìm ra cách giải những hệ phương trình bậc cao, góp phần phát triển phương pháp sai phân hữu hạn…) , tinh nghiên toán học tới nay cũng có chút thành tựu.

Lương Tiêu nghe giọng họ Mình sảng khoái, biết rằng ngoài miệng hắn khiêm tốn như thế, thực ra trong lòng rất tự hào về tên đệ tử này, gã cũng thấy mừng thay:

– Tam Thu huynh có được đồ đệ giỏi giang như vậy, thật đáng chúc mừng, – rồi lại vòng tay nói với Chu Thế Kiệt. – Được gặp Chu thế huynh, đúng là hạnh ngộ.

Chu Thế Kiệt suýt đánh rơi chén trà trong tay, vội vàng đứng dậy, mặt đỏ lựng:

– Thế… Thế Kiệt đã nghe danh Lương tiên sinh tử lâu… nay được tương kiến, còn vinh hạnh nào bằng. Ngày… ngày sau… sẽ dốc lòng thinh giáo…

Cậu ta cả lăm cả lấp, có vẻ rất xấu hổ. Minh Tam Thu cười khổ:

– Lương lão đệ chớ lấy làm lạ, hài nhi này tâm tư mẫn tuệ nhưng dút dát ít nói, không biết cách giao thiệp, một ngày cũng chẳng mở miệng quá hai câu. Hôm nay, chỉ vì kính trọng đệ đã lâu nên mới nói nhiều đến thế, kể cũng như ngoại lệ rồi.

Lương Tiêu cười nói:

– Đâu có, cổ nhân đã dạy: “Khôn ngoan chẳng lọ lời nhiều, Người khôn dù nói nửa điều cũng khôn“. Chu thế huynh tâm tư mẫn tiệp, dáng mạo điềm tĩnh, quả thật có phong độ của bậc quân tử.

Minh Tam Thu hơi chững lại, nhưng rồi cười phá lên. Chu Thế Kiệt cảm động lắm, nhìn Lương Tiêu như nhìn bạn tn âm. Phong Liên thấy cậu ta hành xử gò bó, mặt mày đờ dẫn, bất giác thầm nghĩ: “Cả ngày cạy răng chả nói nửa lời, ai mà lấy phải tên người gỗ này thì cuộc đời chẳng còn gì thú vị!“.

Minh Tam Thu hỏi:

– Lương huynh đệ, mấy năm nay đệ đi đâu? Vĩ huynh thường lưu tâm dò hỏi nhưng trước sau không nghe ngóng được tin tức gì của đệ.

Lương Tiêu xoay cái chén trong tay:

– Tiểu đệ sang phương Tây.

Minh Tam Thu háo hức hẳn lên, cặp mắt ngời sáng:

– Nghe nói phương Tây có những toán gia rất giỏi, đúng không?

Chu Thế Kiệt cũng ngả người về phía trước, đăm đăm nhìn Lương Tiêu. Nhận ra mắt cậu ta sáng ngời háo hức khác hẳn lúc trước, Phong Liên rất ngạc nhiên.

Lương Tiêu nhấp một ngụm trà:

– Chừng một ngàn năm trước, ở đó có rất nhiều hiền triết và số học gia uyên bác, so với Trung thổ thì còn có phần hơn. Nhưng nay nhân tâm thay đổi, thế đạo rối ren, người phương Tây sùng tín chúa Gia Tô, coi tất thảy toán học kỹ thuật là dị đoan, đạo học mỗi ngày một lụn bại. Từ công khanh cho chí bách tính, phần đông đều là hạng ngu độn ngờ nghệch, tin theo những đấng toàn tn toàn năng, không còn coi kiến thức ra gì nữa.

Minh Tam Thu vuốt râu thở dài:

– Đáng tiếc, ta những muốn chu du một chuyến cho mở mang đầu óc, nghe đệ nổi vậy thì chẳng sang đó nữa là hơn.

Ánh mắt Chu Thế Kiệt trở lại ảm đạm như cũ. Ngồi với nhau một lúc lâu, Minh Tam Thu bỗng nói:

– Lương lão đệ, nghe nói đệ bắt cóc tôn nhi của Hoa Vô Xuy, định đến Thiên Cơ cung báo thù, chuyện đó có thật không?

– Vì sao huynh biết?

Minh Tam Thu nhăn mặt:

~ Tin tức giang hồ nhanh nhạy lắm, huống hồ sự việc lần này tương đối ầm ĩ. Vân Thù vừa liên tục phát đi mười hai đạo Thần Ưng lệnh, thông tn cho cả võ lâm. Rất nhiều hảo thủ đều đang trên đường đến đây. Ta vừa nghe tin là lập tức rời Kim Lăng, vội vàng đi suốt đêm ngày để ýề gặp đệ. Lương lão đệ, người đời có câu: mãnh hổ nan địch quần hồ tránh mặt đi cho gió yên bể lặng mới là thượng sách.

Lương Tiêu chẳng ngờ mình đã kích động toàn thể võ lâm Trung nguyên, càng không ngờ Vân Thù hành động mau lẹ dữ dội đến thế. Nghĩ ngợi hồi lâu, gã nói:

– Tam Thu huynh nghĩa khí hơn người khiến Lương Tiêu cảm kích vô cùng. Nhưng chuyến này, đệ phải gặp bằng được Hiểu Sương kẻo không thể nào yên bụng được. Huynh cũng biết Hiểu Sương mắc bệnh mãn tính, mười năm vừa qua muội ấy ra sao, tiểu đệ càng nghĩ càng bổn chôn thấp thôm…

Ảnh mắt Minh Tam Thu bỗng khang khác, dường nhuốm nét gì như thương xót, Lương Tiêu rất tinh ý, cảm thấy ngay có điều không ổn, bèn ngập ngừng hỏi:

– Tam Thu huynh, phải chăng huynh biết tình hình gần đây của Hiểu Sương?

Minh Tam Thu cười buồn:

– Minh mỗ chẳng muốn nói thật làm gì, nhưng cứ bưng bít thế này thì sự việc diễn tiến khó lường quá.

Lương Tiêu túm lấy cánh tay hắn, nghiêm mặt nói:

– Hiểu Sương rốt cục ra sao? Huynh… nhất thiết không được giấu đệ.

Minh Tam Thu cảm thấy thủ kình của Lương Tiêu quá mạnh, hầu như vặn gãy tay mình, hắn cau mày:

– Đệ hãy cư xử bình tĩnh, trái lại ta không nói còn hơn.

Lương Tiêu nhìn sâu vào mắt họ Mình, chợt thu tay về, úp lên miệng chén trà trước mặt, gắng sức trấn tĩnh rồi từ tốn nói:

– Tam Thu huynh khuyên phải lắm, mong huynh kể thật cho đệ biết.

Minh Tam Thu thở dài:

– Tuy ta thoát li Thiên Cơ cung, nhưng vẫn giữ mối tn giao với rất đông bạn bè người quen ở lại trong ấy. Nghe họ kể, hơn mười năm trước, Sương tiểu thư không may gặp phải Hàn Ngưng Tử và ngộ hại bên bờ Hắn Thủy. Sau đó, nữ ma đầu thấy khó thoát được công đạo nên cũng rút kiếm tự tận.

Hắn ngập ngừng.

– Lương lão đệ, đệ đừng cả nghĩ quá, có câu: Rượu nhạt thường buồn khách ít, Trăng trong hay gợn mây mở [1*****], trên thế gian này, sự bi thương là nhiều chứ được mấy chuyện như ý sung sướng đâu. Huống hồ việc đã nhiều năm rồi, đau lòng cũng không giải quyết được gì cả, chi bằng kiềm chế bớt đau thương, nghỉ thoáng ra một chút…

Nói đến đây, thấy mặt Lương Tiêu xám xanh, môi run bần bật, ánh mắt hoang mang ngơ ngác, bộ dạng thất thần, Minh Tam Thu hoảng hồn nói lảng đi:

– Lương lão đệ, nếu không ghét bỏ, xin để ý huynh tiếp đệ dăm ba chén.

Đoạn hắn gọi tiểu nhị lấy rượu. Phong Liên trông Lương Tiêu mà đau xót, nắm tay gã thấy lạnh như băng, không kìm được thốt lên:

– Sư phụ, đừng quá bi thương…

Lương Tiêu giật bắn người, rảy tay cô ra, lắc đầu:

– Không lòng đệ đang rối bởi, cam đắc tội, cáo lỗi… không thể bồi tiếp được…

Gã nói năng lộn xộn, chẳng ra lớp lang nào rồi trở gót đi ngay, lúc nhấc tay lên mới hay chén trà bên dưới đã găm sâu đến độ hoàn toàn bằng bặn với mặt bàn.

Lương Tiêu cử động quá nhanh. Gã băng đì xa đến mấy trượng, mọi người mới hoàn hồn. Phong Liên gọi vớỉ:

Trích bài từ theo điệu Tây giang nguyệt của Tô Thức, Hai câu này tả nỗi thắt ý của tác giả, kẻ sa cơ hay bị bài xích, bậc quân tử hay bị hãm hại.

– Sư phụ đi đâu đấy... rồi lao ra khỏi trà xá.

Lương Tiêu chạy như điên cuồng, thoáng chốc chỉ còn là một chấm xám nhỏ. Phong Liên thúc Hòa Lưu Tĩnh đuổi theo đến ngọn núi phía trước thì chỉ gặp rừng cây mờ sương, nào thấy bóng dáng Lương Tiêu đâu nữa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 84: Hòa Hài Chi Đạo (Thuật hài hòa)

Lương Tiêu chạy như điên như cuồng, đầu óc trống rỗng, không nghĩ được gì, không biết đi đâu. Chẳng rõ lâu hay chóng, đến khi đôi chân bủn rủn làm gã khuỵu xuống đất, ý thức mới dần dần trở lại với bản thể, đồng thời nỗi đau cào gan xé ruột lúc trước lại xâm chiếm tâm can. Mắt gã mờ đi, lông ngực căng chướng dường sắp nứt bung đến nơi. Gã sực hiểu, vì sao Tần Bá Phù thà liều mạng giao chiến chứ không bằng lòng để Hiểu Sương gặp mình; vì sao Lăng Thủy Nguyệt không cho Thích Thiên Phong nhắc đến Hiểu Sương; vì sao Vân Thù lại rầm rộ huy động lực lượng như gặp cường địch – Tất cả là vì Hiểu Sương đã chết, bọn họ thảy đều phập phòng lo sợ, sợ rằng trong lúc bi phẫn, gã sẽ gây ra những chuyện hung hiểm liều lĩnh.

Cứ quỳ như thế, thêm một lúc có lẽ khá lâu, nhận ra gió qua đỉnh đầu hiu hiu từng hồi rất êm đềm, Lương Tiêu ngước cặp mắt đẫm lệ nhìn quanh, Hoa cô ngày hạ đang rạng ngời khoe sắc dưới ấnh dương ấm áp nồng nàn, chim hót véo von, suối chảy róc rách, mặt ao loang sóng phản chiếu một trời mây trắng vô ưu. Mỗi nhành cây ngọn cò, mỗi víẽn đá dòng trôi đều an bình thảnh thơi, còn gã, ngồi đây trong tận cùng đau khổ, bẽng lạc lõng lạ lùng với trời đất thiên nhiên. Sự tương phản ấy khiến nỗi đớn đau càng hằn sâu, cảnh lẻ loi thêm chua xót.

Đột nhiên, một ý nghĩ đáng sợ nảy ra trong trí: “Phải chăng từ khi ra đời, ta đã bị ông trời ghét bỏ rồi?”, Liền đó, muôn vàn cảnh tượng quá khứ trôi vùn vụt qua mắt Lương Tiêu. Trời đã mượn sức Tiêu Thiên Tuyệt khiến gia đình gã tan đàn sẻ nghé. Tròíi đã trêu ngươi khi ghim giữ đề toán cuối cùng trong Thiên Cơ Thập Toán, không cho gã tiếp cận đáp án bất chấp ngần ấy năm khổ công học hành. Trói bắt gã ăn năn khôn nguôi khi gây liên lụy khiến A Tuyết phải chết. Trời cho hai mẹ con gã trùng phùng, nhưng ngay lập tức lại trút xuống mối hận ngàn đời khi để gã ngộ sát mẫu thân. Liên tục cướp khỏi tay Lương Tiêu những người thương yêu nhất, chưa đủ, đến tận lúc này, trời già vẫn không chịu buông tha. Gã đang khổ não tuyệt vọng, trời lại bày ra những cảnh phơi phới hân hoan reo ca rộn ràng thế kia, khác gì một kẻ bàng quan vô lương tâm, thấy người ta đau khổ thì sung sướng hí hửng, yến ẩm ăn mừng!

Lương Tiêu càng nhìn càng căm phẫn, đột nhiên nhảy bật dậy, vận mười thành công lực chém mạnh ra khoảng không. Lục đại kỳ kình, Thiên hồ chưởng lực, Kình tức công và mọi môn công phu gã có đều theo cơn cuồng nộ chạy suốt xuống lòng bàn tay và các ngón tay. Chưởng lực chỉ kình bắn ra xối xả hết luồng này tới luồng khác, rồi lại tan loãng đi ngay trong không trung.

Vận chưởng chém chặt đến hơn một ngàn lượt, Lương Tiêu kiệt sức ngã sấp xuống sườn núi, trí óc hỗn độn mông lung: “Võ công đem lại gì? Toán học đem lại gì? Võ công quán thế cổ kim cũng không cứu được những người thân yêu. Toán học bao trùm thiên địa cũng không tính nổi vận mệnh mình“.

Ngẫm mà chưa chát, gã vùi đầu xuống đất, nước mắt chan hòa.

Lương Tiêu nằm mê man như thế chẳng biết bao lâu, lúc tỉnh lại thì đã ban mai, vầng dương ngày mới vừa ló rạng. Đầu đau như búa bổ, họng nóng như lửa thiêu, gã bò ra bờ suối nhấp một chút nước cho tỉnh táo rồi chật chưỡng bước xuống núi, ngang đường lại chui vào một vạt rừng rậm. Nơi đây cành lá um tùm, nắng không xuống được nên tối tăm ảm đạm, nhiều gốc cổ thụ đã khô kiệt, dơi bay nhan nhân giữa những tàng cây, rắn độc cuộn dày quanh cành, lưỡi phun phì phì.

Đi được mấy bước, cảm thấy hai chân không còn là của mình nữa, Lương Tiêu đành ngồi dựa vào một gốc cây cằn, lá rụng đầy đầu cũng không buồn phủi. Chẳng bao lâu, chuyên cũ lại kéo về chập chờn trước mắt, gã cố gắng không khơi gợi chúng, nhưng càng trốn lánh, quá vãng càng hiện lên rõ rệt. Đầu ong ong như bị ai quai búa thình thịch bên trong, Lương Tiêu gục xuống đất, rên n khóc. Khi sắp chạm đáy sâu của sự suy sụp, gã bỗng rỡ phải một vật cưng cứng, ngẩng lên nhìn thì nhận ra là một cành khô. Tự nhiên gã nảy ra một ý, bèn nắm ngay lấy cành cây, tiện tay vạch xuống nền rêu xanh một đề toán rồi tìm cách giải, chỉ thoáng chốc đã giải xong, lại vội vàng vạch tiếp đề thứ hai. Tự hỏi tự đáp như thế hồi lâu, tâm trí gã bị hút vào những đề toán khó, tạm thời quên lãng nỗi đau thương.

Cứ thế, bất kể ngày đêm, Lương Tiêu để mình chìm sâu vào việc giải toán, không cho phép tâm trí rảnh rang để lạn man nhớ đến thế sự. Nền đất quanh gã chi chít những đề toán, viết kín rồi xóa, xóa rồi lại viết, đói thì nhổ quáng nhổ quàng thân nấm hoặc rêu tươi xung quanh ăn ngấu nghiến, khát thì hớp sương đọng trên lá. Không để tâm đến theft gian không gian, gã đem nỗi oán hận với trời trút hết ra đầu ngọn viết, vạch ra những đề toán thuộc đủ mọi lĩnh vực: lúc sửa chữa lịch pháp để trăng sao nghịch hành, tinh tú đảo chỗ; lúc khuấy động thủy lợi để nước chảy ngược dòng, núi dời xuống bể; thậm chí nắn bẻ các sự vật hiện tượng trong trời đất cho khác hẳn thói thường, vật thằng thì vặn cong, vật tròn lại vuốt phẳng… Bao nhiêu sự vật hiện tượng trong trời đất trường tồn liên tiếp bị hủy hoại, bị giày vò đến mức hỗn độn hoàn toàn dưới nét viết của gã. Lương Tiêu hiện là đệ nhất toán gia đương thế, cũng biết vạch vẽ suông như thế chẳng có tác dụng thực tế gì, nhưng lúc này đang ngùn ngụt bi phẫn và cô đơn, không có cách nào giải tỏa, bèn đảo ngược mọi sự so với lẽ thường, đốc hết tâm tư để thách thức trời đất.

Trong lúc Lương Tiêu vùi đầu vào giải toán, bóng nắng từ từ thay đổi trên các tàng cây, hết tối lại sáng. Đến hôm thứ ba, Lương Tiêu mới làm xong một đề toán, sực mang máng nghĩ ra một điều lạ lùng, bèn ngoái lại nhìn xem những bài toán lúc trước, bỗng nhiên trố mắt. Thì ra, bất luận đề bài có rối rắm trái ngang thế nào, nhưng để tìm được kết quả, gã đều phải dùng những cách giải thông thường, xuôi thuận, tự nhiên như áng mây trôi hay dòng nước chảy. Bất luận trong đề bài gã muốn chống lại trời đất thế nào, thì đến bước cuối cùng, cách tính vẫn không thoát khỏi quy luật hài hòa cân bằng. Bối rối hồi lâu, chợt một ý nghĩ lướt qua trong đầu khiến gã bàng hoàng sực hiểu: toán học bắt nguồn từ tự nhiên, cuối cùng cũng trở về với tự nhiên. Sự cân bằng của toán học chính là sự cân bằng của tự nhiên, trời đất dẫu đổi thay, nhưng bản chất hòa hợp bên trong nó là vĩnh hằng bất biến.

Nghĩ tới đây, Lương Tiêu cảm thấy bải hoải, ném cành cây đi, ý chí đấu tranh hầu như kiệt quệ. Tư tưởng đang mông lung, bỗng có tiếng nói oang oang trong đầu gã: ‘Trời đất vận hành theo lẽ tự nhiên, không phải vì Nghiêu mà tồn tại, cũng không phải vì Kiệt mà diệt vong (Trích trong sách Tuân Tử) ...Trời đất vận hành một cách khách quan, tất cả đều nhip nhàng đều đặn, cân đối hài hòa, nào đâu phân biệt thiện ác. Ngươi chẳng qua chỉ là một xác phàm, so với không gian bao la này thì nhỏ nhoi thấp hèn khác nào một hạt bụi. Ngươi oán trách đời mình trắc trở liên miên, nhưng đó chỉ là một tích tắc ngắn ngủi của thời gian. Ngươi than thở ý trời ghẹo người, nhưng bao nhiêu chuyện xảy ra, hoàn toàn do ngươi gieo gió gặt bão cả…’ ‘.

Chỉ tích tắc, một sự biến chuyển vô cùng sâu sắc diễn ra trong tư tưởng Lương Tiêu. Gã mở mắt ngắm nhìn, nghiêng tai lắng nghe, Khu rừng chết chóc âm u bỗng chốc chứa đầy ý vị. Vành tai gã bắt lấy đủ mọi âm thanh, từ tiếng dời kêu the thé khi săn môi đến tiếng rắn cọ mình kín kít khi ngoắc đuôi vào nhau. Ánh mắt gã thâu tóm cả những chi tiết tính tế nhất, từ tán cổ thụ suy kiệt quắt queo đến những mầm non mơn mởn và dạt dào sinh khí đang nhú lên giữa đám cành khô lá úa đan dày. Chính khoảnh khắc này, và chính ở nơi đây, trong một vạt rừng nhỏ, sự sống và cái chết, tươi tắn và tàn tạ cũng tuần hoàn liên tục, chứng mình rõ rệt cho quy luật hài hòa.

Giác ngộ được điều ấy, cõi lòng Lương Tiêu cũng tĩnh lặng dần. Gã nhìn lại cuộc đời, nhận ra yêu hận sóng đôi, ân oán đan cài chẳng qua đều tuân theo lẽ vận hành cân bằng của tạo hóa. Nỗi đau thương khó giải tỏa của một cá nhân không gây dấu ấn gì trong trời đất, chẳng qua người đời quen thói tự dằn vặt thương thân mà thôi. Nghĩ đến đây, Lương Tiêu thở một hơi dài, vứt bỏ mọi phiền lụy sầu não, ngồi tựa lưng vào một thân đại thụ hít thở thật sâu. Khi khôi phục được chút thể lực, gã bèn đứng dậy, bước ra khỏi cánh rừng. Mặt trời vừa lên, ánh vàng lấp lóa, không khí ban mai dịu dàng bao bọc quanh minh Lương Tiêu.

Gã lẳng lặng bước trên đường núi. Chợt cảm thấy có luồng kình phong bắn vút tới lưng, gã liền lật tay quơ lấy, tóm ngay được bảy hạt sắt tròn, bèn ngoái đầu nhìn xem. Có hai người đang đứng đằng xa, đều ăn bận theo lối Hắn tộc. Người mặt trắng cầm một cánh cưng bắn đạn đúc bằng bạc, mặt hắn tái nhợt, hai tay run run. Lương Tiêu cau mày hỏi:

– Các vị là ai? Vì sao đánh lén sau lưng người ta?

Hai người nhìn nhau, bỗng hắn tử mặt trắng nghiến răng trèo trẹo:

– Đánh lén sau lưng thì đã sao? Ta nhận ra ngươi rồi, tên họ Lương kia! Ngươi tàn sát đồng bảo Đại Tống, tiêu diệt cố quốc của ta. Đã là nam tử chính trực trên đời, đều phải có trách nhiệm triệt hạ ngươi. Ta đã thất thủ, ngươi cứ giết quách đi là xong, ta có chau mày nửa cái thì không phải là hảo hán.

Số là người này có tuyệt chiêu Thất tinh Hên châu, bắn một phát ra bảy viên đạn sắt, chia làm ba đường tấn công rất kín, ít kẻ tránh được, ngờ đâu lần này đánh lén mà lại thất bại. Nhìn cái cách Lương Tiêu quơ nhẹ tay là bắt gọn, hắn biết rõ gặp phải cường địch, khó tránh rủi ro, bèn nhân thể tuôn ra những lời hùng hồn, để dẫu mất mạng cũng vẫn được tiếng anh dũng ở đời.

Lương Tiêu buông thõng:

– Nói hay thế, ở đâu ra cái loại hảo hán đánh lén sau lưng?

Hắn tử mặt trắng bị gã nói trúng tim đen, mặt bỗng nóng ran lên, Đồng bọn hắn, một người để bộ râu hùm, bấy giờ lên tiếng:

– Lương Tiêu, ngươi xem đây là cái gì?

Đoạn hắn xòe tay, phô ra một chuỗi ngọc trắng óng ánh như mỡ dê. Lương Tiêu bỗng biến sắc, những hạt ngọc tròn trặn sáng ngời kia chính là thứ ngọc mài nổi tiếng của vùng núi Côn Luân, gã ở bên Phong Liên đã lâu, thoáng nhìn đủ biết đó là vật tùy thân của cô gái, bình thời cô vẫn đeo ở cổ tay, chưa rời ra một lúc nào, Lương Tiêu nghe nhoi nhói ở tim: “Khổ thế, ta chỉ bận tâm đến nỗi đau của mình mà quên bẵng cô bé“.

Nhận ra nét thay đổi trên mặt Lương Tiêu, hắn tử râu hùm cười nhạt:

– Ngươi nhìn rõ chưa? Chủ nhân của chuỗi ngọc này hiện đã bị Tần Thiên vương bắt giữ. Hừ, có gan thì mau đến Thiên Cơ cung một chuyến mà làm anh hùng!

Hắn tử mặt trắng phụ họa:

– Đúng, chúng ta phụng mệnh đi tìm ngươi để báo tin này. Nếu tới giờ ngọ mà hai người chúng ta không quay về, con nha đầu đó sẽ khốn đốn đấy.

Lương Tiêu biết tỏng hai tên này tung hứng cốt tìm kế thoát thân, chứ làm gì có chuyện giờ ngọ không về thì sẽ thế nọ thế kia, nhưng hiện thời gã đương bối rối, chẳng nghĩ ra được kế nào vẹn toàn, bèn xua tay bảo:

– Để chuỗi ngọc lại đây, mau quay về báo với người cử các ngươi đi rằng cuối giờ thin đầu giờ tỵ, Lương Tiêu sẽ đến Thiên Cơ cung bái yết.

Hai tên nọ lộ vẻ mừng, giao chuỗi ngọc ra rồi trở gót đi ngay. Lương Tiêu gọi giật:

– Này gã bắn đạn, ngươi tên là gì?

Hắn tử mặt trắng giật mình, nhưng mau chóng giở giọng kiêu hãnh:

– Đại trượng phu đi không đổi tên ngồi không đổi họ, ta đây là Ngân cung lạc nguyệt Trương Thanh Nham ở núi La Phù.

Lương Tiêu cười nhạt:

– Ngân cung lạc nguyệt, danh hiệu cũng êm tai đấy!

Trương Thanh Nham nghe giọng gã hiểu ngay ngụ ý: danh hiệu êm tai, nhưng bản lĩnh chưa đâu vào đâu, tự nhiên ngượng chín cả người. Lương Tiêu lại nói:

– Ngân cung lạc nguyệt, đạn này ta trả cho ngươi.

Gã vung tay, bảy viên sắt tròn bắn ra vun vút. Trương Thanh Nham đưa tay bắt, nhưng chuỗi đạn khẽ vận mình như một con rắn nhỏ giữa không trung rồi luồn qua dưới lòng bàn tay chủ nhân, bay tới cái túi đựng ám khí bằng da hươu của hắn rồi lục cục chui vào.

Thủ pháp ném đạn chuẩn xác và thần điệu lạ lùng, hai hắn tử trân trối nhìn túi da hươu, mặt cắt không còn hột máu. Lương Tiêu vừa ngộ ra lẽ hài hòa nên tiện tay thử nghiệm một chút, cảm thấy tương đối hài lòng về kết quả, gã xoay người bỏ đi ngay, để hai tên nọ đứng trơ ở đấy.

Đi được một quãng, Lương Tiêu mới nhận ra trong cơn quẫn trí hôm trước, chân bước đưa chân, gã đã vô thức tiến vào vùng núi Quát Thương rồi. Nhân còn nhiều thời gian, gã bèn săn một con gả rừng, bọc đất nướng chín, ăn no bụng rồi uống nước suối, lại ngồi điều tức chừng một canh giờ. Sang giờ thin, gã lên đường tiến về hướng Thiên Cơ cung. Chẳng bao lâu, đã thấy thấp thoáng hai ngọn Oán Lữ đứng nhìn nhau qua dòng sông ngăn cách. Lương Tiêu ngắm cảnh mà tê tái lòng: “Nước non bất biến, chuyện đời đổi thay. Oán Lữ vẫn đây, người thương đâu mất?“. Nhớ lại bài cổ thi hồí bé từng nghe Hoa Mộ Dung đọc, gã bất giác lầm nhẩm:

Xa xa chòm ngưu tinh, xinh xinh chòm chức nữ.

Thon thon múa đôi tay, đặt dìu trên khung cửi.

Cả ngày không hé môi, lệ như mưa giän giụa.

Ngân hà trong và cạn, được mấy lượt lại qua?

Ăm ắp một dòng sông, đăm đắm nhìn không nổi“.

Trái tim Lương Tiêu cũng xót xa bồi hồi theo nhịp điệu của bài thơ, lâu lắm vẫn không bình tĩnh lại được: “Ngưu Lang Chức Nữ cho đủ buồn thương đến đâu vẫn còn được nhìn nhau qua dòng sông. Ta bôn ba đến vạn dặm, vượt núi băng đèo trở về Trung thổ, muốn gặp Hiểu Sương một lần mà không được nữa“.

Nghĩ tới đây, lệ ứa ra mờ mắt, lại sợ xung quanh có kẻ mai phục, khóc sẽ lộ cái yếu đuối để bọn chúng chế nhạo, Lương Tiêu vội chùi nước mắt, bước nhanh đến ngọn Oán Lữ bên đông. Gã phi thân tới đỉnh, gió dưới khe bên mặt tây thốc lên, thôi áo và tóc gã bay lật phật. Lương Tiêu quay về phía đông, ngửa mặt hú dài. Tiếng hú chạy ngược chiều gió, âm vọng va đập vào các mặt núi, ngân nga mãi không dứt.

Chỉ lát sau, một chiếc Thiên Lý thuyền từ thượng du trôi xuống. Trì hạc Diệp Chiêu đứng ở mũi thuyền, tay đặt lên hai chiếc sừng rồng. Tới chân ngọn Oán Lữ, y dừng thuyền gọi:

– Diệp Chiêu phụng mệnh cung chủ ra nghênh đón. Mời các hạ lên thuyền.

Thái độ lạnh lùng của y khiến Lương Tiêu ĩất buồn, gã thở dài đáp:

– Kẻ hèn này được Diệp công đưa qua sông, thật vinh dự biết ngần nào.

Câu nói kéo Diệp Chiêu về một khoảnh khắc hơn hai mươi năm trước đây, chính y đã đưa đứa bé nghịch ngợm ấy vào trong cung. Thời gian trôi đi như cơn mộng, đổi thay diễn ra chóng vánh biết bao. Đang bần thần, chợt thấy Lương Tiêu quấn chặt áo dài quanh người, nghiêng mình rơi khỏi đỉnh Oán Lữ, y thảng thốt kêu lên:

– Không được!

Lương Tiêu vẫn rơi thẳng xuống, đến lưng chừng núi gã khoát tay áo rộng ba lần, tụ phong đặc quánh ủi mặt nước loang sóng, liền đó kình khí bắn ngược lên, tạo phản lực đỡ lấy gá. Lương Tiêu thu tay áo lại, cùng lúc nhẹ nhàng đáp xuống cạnh Diệp Chiêu. Thiên Lý thuyền không mảy may tròng trành.

Họ Diệp thầm tán thưởng, đồng thời không khỏi tiếc nuối: “Quả là thần công cái thế, vậy mà không biết đi theo con đường chính nghĩa“. Y lắc lắc đầu, chuyển bước sang đầu thuyền bên kia, thở dài nói;

– Lương Tiêu, ngươi xuất hiện thế này kể cũng quang mình chính đại.

Lương Tiêu đáp:

– Thiên Cơ cung mà quang mình chính đại, tại bạ cũng quang mình chính đại.

Ngụ ý rằng: muốn đường hoàng phải cả đôi bên, ai muốn giở trò gian trá thì Lương Tiêu này sẽ bồi tiếp đến tận cùng. Diệp Chiêu rất hiểu, trầm ngâm nói:

– Con đường trước mặt đầy chông gai. chỉ e người ta không muốn, nhưng vẫn phải làm.

Giọng y có ý khuyên răn. Lương Tiêu chẳng nói chẳng rằng, xếp bằng ngồi xuống. Thấy gã đã quyết, họ Diệp thở dài buồn bã, đầy sừng rồng cho thuyền ngược dòng tiến lên. Họ vượt qua sáu ngọn thác, xuyên qua khe Vò sò, chẳng bao lâu là đến hồ nhỏ. Lương Tiêu phóng mắt nhìn. Ba bánh xe Thiên Cơ vẫn xoay vòng như ngày nào, trên vách đá còn nguyên hai hàng chữ lớn lốm đốm với khí thế hùng tráng, chỉ khác là ở cửa vào Thể Nguyệt cốc có dựng một lôi đài cực lớn bằng gỗ, giống một cái lưỡi dài vươn ra tận hồ. Hơn một trăm trụ tròn vừa vòng tay ôm đóng thẳng xuống nước, vững chãi đỡ lấy mặt đài. Trên đài lố nhố chừng hai trăm người, đều phục sức võ giả. Diệp Chiêu ngoái lại bảo:

– Lương Tiêu thủy đài kia được dựng lên vì ngươi đấy.

Lương Tiêu thầm than khổ, nhưng ngoài miệng vẫn ung dung:

– Thiên Cơ cung thật giỏi kiến tạo, không phải tay thiết kế tài tình thì khó lòng xây dựng được cái đài này.

Gã vén gọn áo, tung mình bay lên, lướt băng băng trên mặt hồ như cánh én rẽ nước, chừng mấy trượng thì chạm lôi đài. Quần hào đã ước định là phải đập gãy uy phong của Lương Tiêu, thấy gã đặt chân xuống đài, cả bọn cùng vận khí gầm lên, tiếng rền như sấm nổ, núi khe dội lại ầm ầm.

Đối mặt với thiên quân vạn mã, Lương Tiêu còn chưa từng khiếp sợ, sá gì tiếng gầm của bọn võ giả. Gã chỉ cười, đưa mắt sục sạo trong đám đông, thoáng nhìn đã nhận ra Phong Liên nhờ đôi mắt xanh biếc và làn da trắng tuyết vô cùng nổi bật. Hoa Kính Viên đứng cạnh cô, tay cầm chéo áo Phong Liên đầy thân mặt. Bắt gặp ánh mắt Lương Tiêu, cô gái mừng rỡ gọi:

– Sư phụ!

Lương Tiêu nhướng mày, cao giọng hỏi:

– Có bị ngược đãi không?

Phong Liên xúc động đến mức không nói ra lời, chỉ lắc đầu lia lịa. Lương Tiêu cũng yên yên dạ, đang định hỏi cho kỹ hơn, chợt nghe có tiếng cười khành khạch. Thích Thiên Phong bước ra khỏi đám đông, nắm tay thụi một phát vào mặt gã, cười nói:

– Lương tiểu tử, mấy hôm không gặp, tặng ngươi món quà này.

Lương Tiêu phổ tìài chi đạo vào chiêu thức, phất áo hất cổ tay lão già, đẩy chệch nắm đấm đi khiến phần ngực lão lộ ra một khoảng sơ hở. Thích Thiên Phong hoảng hồn lùi tuốt về sau, không để Lương Tiêu kịp xuất thủ phản công. Lão trợn tròn mắt nhìn Lương Tiêu, miệng la choe chóe:

– Lạ quá, lạ quá, chiêu này kỳ lạ không thể tưởng được!

Cứ ngẫm chỉ mới vài ngày không gặp mà đối thủ đã tấn tới thêm vài phần, lão vô cùng hào hứng, xẹt đến gần bảo.

– Làm tại lần nữa!

Phong Liên gắt:

– Thích Thiên Phong, ông lại định bội ước đấy à?

Thích Thiên Phong cáu kinh mắng:

– Cái đồ đàn bà chi li, bội ước thì bội ước, hà tất nhồi thêm chữ “lại” vào đấy!

Phong Liên cười nhạt:

– Ai bảo bọn đàn ông trí nhớ kém thế. Ông mà còn đeo bám sư phụ tôi, nhất định tôi sẽ kể tông tốc mọi chuyện xấu của ông ra, khiến ông bẽ mặt với giang hồ một mẻ.

Thích Thiên Phong nổi giận:

– Ta tát vỡ cái mồm thối của nhà ngươi bây giờ, ta có chuyện xấu gì? Hừ, ngươi nói xem, ta có chuyện xấu gì?

Lão trợn mắt, râu vểnh ngược, trông hết sức hung hăng. Phong Liên thầm sợ hãi, không dám nói tiếp nữa. Lăng Thủy Nguyệt có phần e ngại, bèn xen vào:

– Lão đầu tử, ông la hét gì thế, mau lui lại đi!

Lăng Thủy Nguyệt đã lên tiếng, Thích Thiên Phong đành hừ một tiếng, hậm hực lùi ra sau.

Đám đông chợt lao xao, một toán người từ trong thạch trận lướt ra, bước lên đài gỗ. Hoa Thanh Uyên dẫn đầu, theo sau là Đồng Chú, Tần Bá Phù, Dương Lộ, Minh Tam Điệp. Bảy năm trước, Bạch hạc Tả Nguyên và Đan đỉnh hạc Tu Cốc lần lượt ốm chết. Trì hạc Diệp Chiêu đang bận lái thuyền nên không tham dự ở đây.

Hoa Thanh Uyên bước tới gần, tóc hai bên thái dương đã bạc, trán hằn nhiều nếp nhăn sâu, đôi mắt đầy ưu tư, không còn linh mẫn ngời sáng như năm nào nữa. Lương Tiêu nhìn y, bất giác sinh lòng thương hại: “Chẳng qua mối hơn mười năm mà ông ta đã già đến mức này ư?“.

Gặp người cha, càng nhớ cô con gái, gã thấy ngực rát bỏng, buột miệng:

– Hoa đại…

Sực tinh ngộ, gã nghiền nát chữ “thúc” giữa hai hàm răng, vòng tay cúi đầu, chưa chát chào:

– Hoa đại cung chủ, bấy lâu nay ông vẫn khỏe chứ?

Hoa Thanh Uyên chìa hai tay, định tiến lên nâng gã dậy, nghe câu đó lại thõng tay xuống:

– Ngươi chẳng nên đến làm gì.

Lương Tiêu nói:

– Học trò gặp nạn, sư phụ không thể không đến.

Đang nói, chợt có linh tính, gã liếc mắt nhìn ngang, thấy Hoa Vô Xuy lẳng lặng đứng sau đám đông, không rõ xuất hiện tự lúc nào. Nhờ luyện thuật dưỡng nhan, bà tránh được hầu hết vết tích của phong sương và thời gian, gương mặt gần như không biến đổi so với mười năm về trước. Hoa Mộ Dung đứng bên cạnh mẹ, đẫy đã hơn hẳn hồi chưa xuất giá, da dẻ tươi mịn trông càng thêm đằm thắm mặn mà, nàng ẵm một đứa bé trắng trẻo, non tơ kháu khỉnh.

Không khí trên đài lặng đi, Hoa Thanh Uyên chậm rãi hỏi:

– Lần này ngươi đến đây có mục đích gì?

Lương Tiêu không ngờ y mào đầu theo cách ôn hòa như vậy, ngẩn ra một lát rồi đáp:

– Chỉ muốn các vị thả đồ nhi của tại hạ ra, không có yêu cầu nào khác.

Hoa Thanh Uyên cũng ngẩn người, tự nhủ Lương Tiêu xưa nay quý kế đa đoan, khi nào dễ dàng buông tay như thế. Ngần ngừ một lát, chừng như vẫn không tin, y lắc đầu nói:

– Ngươi đừng vỡ vĩnh nữa. Chuyện Sương nhi, lỗi lầm đều ở ta. Nếu có oán trách thì hãy đổ cả vào ta đây, đừng trút giận xuống những người khác.

Tần Bá Phù nghiêm khắc nhắc:

– Cung chủ không nên nói thế. Đối với hào kiệt trong thiên hạ, lot lầm của cung chủ là lỗi lầm của cả Thiên Cơ cung, nếu có điều gì không hay không phải, chúng thuộc hạ cũng chẳng tránh được liên đới, Huống hồ việc Hiểu Sương, có trách phải ư ách Hàn Ngưng Tử, tại sao lại trách cung chủ được.

Mặt Hoa Thanh Uyên u ám hẳn đi:

– Nhưng…

Tần Bá Phù hiểu điều y định nói, bèn ngắt lời:

– Huống hồ cung chủ và Hiểu Sương là cha con máu mủ tình thâm. Lương Tiêu có thể oán trách người khắp thiên hạ, nhưng không có lý do gì oán trách cung chủ cả.

Hoa Thanh Uyên không biết đáp lại thế nào. Lương Tiêu biết bọn họ đã hiểu lầm quá sâu sắc, bèn ôn tồn nói:

– Hoa cung chủ, quả thực tại hạ không có ý gì khác, chi mong các vi thả tiểu đồ ra.

Ai nấy cười nhạt, bụng bảo dạ: “Tên khốn này hành sự bất chấp thủ đoạn. Bây giờ ai biết được hắn đang nung nấu điều gì, chưa chừng chúng ta vừa thả con nha đầu là hắn trở mặt, tính hết nợ cũ thù mới ngay đấy”. Lương Tiêu nhìn khắp mặt mọi người, biết rằng khó mà giải quyết êm xuôi được, bèn cau mày suy tính, đúng lúc đó có người lên tiếng:

– Tên cẩu tặc họ Lương kìa, tại sao ngươi phải rườm lời thế? Có giỏi thì tự mình xông vào mà cướp người về!

Lương Tiêu nghe giọng quen quá, bèn đưa mắt nhìn thì nhận ra Giả Tú Tài đứng lẫn trong đám đông. Trì Tiễn Ngư đứng bên cạnh, vuốt râu cười nhạt. Không thấy Kim Thúy Vũ và Bạch Bất Ngật đâu, Lương Tĩêu nhướng mày, cười nói:

– Ý kiến của Giả huynh hay đấy, cung kính không bằng tuân mệnh, nhi!

Gã lạng mình tới gần Phong Liên, quần hào kinh hâi la lối om sòm, nhất loạt nhảy xổ vào gã, nhưng chưa ai kip nhìn rõ ra sao thì Lương Tiêu đã ôm lấy Phong Liên quay về chỗ cũ. Dáng vẻ vẫn rất ung dung, tường chừng chưa hề động đậy, chỉ sự xuất hiện của Phong Liên bên cạnh gã chứng tỏ những điều vừa xảy ra là thật. Băng vào trở ra hệt như lướt gió tung mây, ngoài một vài cao thủ, không ai nhìn rỗ gã hành động thế nào. Quần hào kinh hôn táng đởm, cả lôi đài lặng ngắt. Trì Tiễn Ngư cảm thấy không khí có phần bất ổn, bèn cao giọng trấn an:

– Chư vị chớ dao động, đài này ba mặt toàn nước, bất kể tặc tử bản lĩnh lợi hại đến đâu cũng đừng hòng chạy thoát. Chúng ta người đông thế mạnh, mỗi người đâm hắn một nhát, hắn lấy tay đâu mà che chắn hết được.

Mọi người gật đầu khen phải, nhưng khí thế đã cùn nhụt thấy rõ.

Giả Tú Tài phe phẩy quạt trúc, cười hì hì:

– Lão đại nói đúng lắm. Thế này gọi là mãnh hổ trước mắt, hố thẳm sau lưng, lên không còn đường, xuống đã bít lối, tiến một bước thành chó nhà táng, lui một bước thành chó chết trôi, càng dễ đánh hơn. Ha ha, mọc cánh bay đi mới hòng thoát chết có điều chó mà mọc được cánh thì chẳng phải là chó nữa rồi…

Thích Thiên Phong tò mò:

– Không phải chó chứ là gì?

Giả Tú Tài cười đáp:

– Thích đảo chủ hỏi khéo thế, chó mọc cánh thì phải gọi là chó bay.

Mọi ngời cười ồ, không khí có hào hứng thêm một chút.

Lương Tiêu nhìn ra mặt nước mênh mang, tính không bóng thuyền bè, tự nhủ mình thừa sức thoát thân, nhưng mang kèm Phong Liên thì không thể. Gã đang ngẫm nghĩ, Phong Liên chợt thấp giọng:

– Thực ra… tôi cố ý để họ bắt được đấy.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

– Tức là thế nào?

Phong Liên ngượng nghịu cúi mặt xuống:

– Hôm ấy ông vội vàng bỏ đi, tôi cưỡi ngựa đuổi theo mãi mà không kịp, chỉ sợ ông nghĩ quẩn. Sau đó, tôi gặp Tần Bá Phù và Thích phu nhân cưỡi ngựa đi qua, bèn nghĩ, họ đông như thế, muốn tìm kiếm ông sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tôi bèn ra mặt gây sự, cố ỷ để họ bắt giữ, đồng thời nói với họ rằng ông đã biết tin về Hoa tiểu thư, sắp vào núi Quát Thương khiêu chiến rồi. Nghe xong, họ hoảng hốt vô cùng, một mặt phái người đi lùng tìm ông, mặt khác ra công lắp đặt hàng rào phòng thủ. ‘ Nói tới đây, cô liếc về phía Hoa Kính Viên, cậu ta cũng đăm đăm nhìn cô. Phong Liên mỉm cười. – May mà có A Vỉên nên những người ở đây đối xử với tôi tương đối nhẹ nhàng.

Lương Tiêu nghe vậy, bất giác liếc về phía Hoa Kính Viên, nào ngờ cậu nhóc ném vào gã ánh mắt hằn học như thù địch.

Lương Hêu ùn lặng, không mảy may phản ứng. Phong Liên kể xong, tim đập thình thịch, rụt rè hỏi:

– Ông giận tôi lắm phải không?

Lương Tiêu hờ hững đáp:

– Giận cô làm gì? Hiềm nỗi đã đến đây rồi, chẳng dễ mà bỏ đi được đâu. Cô có sợ không?

Phong Liên bặm bặm môi, chớp mắt nhìn Lương Tiêu, ánh nhìn chan chứa nhu tình:

– Tôi không sợ. Tệ lắm là cùng chết chứ gì!

Lương Tiêu nghe vậy, ngạo khí lại bùng lên:

– Phong Liên, cấm không được nhắc đến chữ “chết” nữa. Muốn giết sư đồ chúng ta ư? Chẳng dễ thế đâu!

Câu cuối cùng bật cao lông lộng như đao kiếm giao kích, đâm thẳng vào màng nhĩ mọi người. Ai nghe cũng phải biến sắc.

Lương Tiêu lại đổi giọng nhẹ nhàng hỏi Phong Liên:

– Kiếm và ngựa đâu?

Phong Liên trỏ Tần Bá Phù:

– Kiếm hắn ta đang đeo, ngựa thì ở trong cung.

Sau vai Tần Bá Phù quả có nhô lên phân nửa chuôi kiếm, Lương Tiêu bèn nói:

– Tần Thiên vương, xin để vật hoàn cố chủ!

Tần Bá Phù đảo mắt, tự nhiên sinh nghi: “Đòi kiếm à, phải chăng thanh kiếm này có chỗ đặc biệt? Võ công Lương Tiêu đã cao cường như vậy, không thể chắp cánh cho hổ được“. Nghĩ vậy, y chỉ vuốt râu cười nhạt.

Đối với Phong Liên, Thiên Phạt kiếm còn quan trọng hơn tình mạng, cô bỗng siết chặt nắm tay, thét lên bất bình:

– Lão già quặt quẹo kia, ngươi định cướp kiếm của ta ư? Hừ, nếu không trả đây thì ta sẽ nhổ trụi râu của ngưđi.

Cô bực tức mà gương mặt lại hồng hào, trông càng thêm kiều diễm. Quần hào đều lấy làm thú vị, liền cười hi hí.

Tưởng rằng bọn họ chế nhạo mình không tự lượng sức, Phong Liên đùng đùng nổi giận. Cơn giận bốc thành ngọn lửa thiêu đốt tâm can, cháy đỏ cả vành tai xinh xắn, cô gái định liều mạng lao lên đoạt kiếm, chợt Lương Tiêu lãnh đạm bảo:

– Phong Liên, lui ra! Sư phụ là người giữ kiếm, nay kiếm rơi vào tay người khác, sư phụ phải có trách nhiệm lấy lại.

Mắt sáng ngời, Phong Liên vui mừng hỏi:

– Sư phụ… bằng lòng nhận kiếm rồi hả?

Lương Tiêu gật đầu. Phong Liên biết rằng gã không bao giờ nuốt lời hứa, càng nghĩ càng rạng rỡ mặt mày, lại’ hồi tưởng mấy năm vất vả tìm kiếm Lương Tiêu, tự nhiên không cầm được hai hàng nước mắt, từng giọt tuôn rơi trên khuôn mặt khả ái của cò, ưông như hoa xuân chớm nở còn đọng sương mai.

Lương Tiêu không để ý đến tâm tư sâu kín của cô gái, sải bước tới trước, vòng tay nói với Tần Bá Phù:

– Thiên vương cẩn thận, tại hạ lấy kiếm đây!

Quần hào cho rằng thái độ thông báo trước khi xuất thủ như thế là quá đỗi huênh hoang, xem thường đối phương nên ai cũng ghét, bèn thi nhau la lối rủa xả.

Tần Bá Phù biết rõ bản lĩnh của Lương Tiêu, khóng hề cho rằng lời gã là yênh vang tự thị. Y gỡ Thiên Phạt kiếm, ném xuống mặt đài cho khỏi vướng bận chân tay, đoạn dận hài lên, thận trọng đáp:

– Hay lắm, ngươi cứ lại mà lấy!

Phong Liên giận quá, mắng sa sả:

– Lão già quặt quẹo kia, ngươi dám giẫm bảo kiếm thế à? Sau… sau này ta cũng sẽ giẫm ngươi bẹp dí, không cho ngươi ngóc đầu lên nữa.

Tần Bá Phù đang tập trưng toàn bộ sự chú ý vào Lương Tiêu, nghe mà như không biết. Chúng nhân Thiên Cơ cung đều nghĩ nếu để Lương Tiêu đoạt được kiếm thì thật là mất thể diện, Ngay lập tức, Đồng Chú, Dương Lộ, Minh Tam Điệp cùng tiến lên, đứng chắn trước mặt và hai bên Tần Bá Phù, Hoa Thanh Uyên ngần ngừ một chút rồi cũng tiến ra đứng bọc sau lưng họ Tần, tạo thành một tiểu trận Ngũ hành. Năm người này là đệ nhất cao thủ của Thiên Cơ cung, trận Ngũ hành do họ kết thành đủ để đương cự bất kỳ cường địch nào trên đời.

Thích Thiên Phong khịt mũi vẻ không vui:

– Năm đánh một, chẳng ra cái bản lĩnh gì!

Lương Tiêu mủn cười:

– Không sao, – đoạn cúi mình, cung kính nói. – Đắc tội!

Dứt lời, gã lướt tới trước hơn một trượng. Đồng Chú ýà Dương Lộ cùng đầy song chưởng, Lương Tiêu xoay nghiêng mình, di chuyển đến mé bên hai người. Đồng Chú ýà Dương Lộ đánh hụt, vội quay phắt lại phòng ngự. Lương Tiêu vẫn chưa xuất chiêu, tiếp tục xoay mình lần nữa, mục tiêu là Tần Bá Phù và Minh Tam Điệp, hai người đồng xuất chưởng. Lương Tiêu liền xoay tít mình tránh đi.

Quần hào thấy gã một mực né tránh, tưởng gã đang rơi vào thế hạ phong, thày đều vỗ tay hò la, buông lời dè bỉu. Lương Tiêu tiến một bước mà xoay mình mấy lần, đôi ống tay áo rủ thấp, không hề xuất thủ tấn công, nhưng những điểm gã di chuyển tới đều là chỗ sơ hở của Ngũ hành trận. Năm người kia không dám chậm trễ, cũng liên tục di chuyển theo gã. Xoay trở mấy vòng, tự dưng vị trí của họ lại biến thành đớng đối mặt nhau. Chớp đúng khoảnh khắc đó, Lương Tiêu vụt tung mình lên, vỗ liên tục bổn chưởng, tấn công gần như cùng lúc Đồng Chú, Dương Lộ, Tần Bá Phù và Minh Tam Điệp. Bốn người cảm thấy lành phong ập tớí nặng như đá tảng, bèn vận công cử chưởng chống đỡ.

Nào ngờ chưởng lực của Lương Tiêu đột nhiên tiêu tán, bóng dáng cũng tan biến, bốn cao thủ mất mục tiêu, nhưng công lực đã phóng ra, không tài nào thu thế kịp, thành thử song chưởng của Đồng Chú, Dương Lộ và Minh Tam Điệp đồng loạt phóng vào Tần Bá Phù.

Họ Tần làm sao đỡ được sự hợp kích của ba người, vừa chạm chưởng lực là một mùi tanh lợ xộc lên cổ, hai đầu gối mềm nhũn, suýt nữa ngồi bệt xuống đất, Ba người kia va phải Cự linh huyền công, cũng đều giật lui một bước, ngực ngâm ngẩm đau.

– Diễn biến quá đột ngột, Hoa Thanh Uyên bật kêu, phóng vọt tới trước đỡ Tần Bá Phù, lấy đan được ra cho y uống. Lương Tiêu không còn ai ngăn trở, khoan thai lướt tới nhặt lấy Thiên Phạt kiếm, Tần Bá Phù hộc lên:

– Chết rồi, bảo kiếm!

Hoa Thanh Uyên lắc đầu:

– Tần huynh, hư danh nhỏ nhoi đấng kể gì, bản thân mình mới là quan trọng.

Y cũng không quay đầu lại, áp chưởng lên lưng họ Tần, vận chân khí đầy mạnh vào. Tần Bá Phù thở dài im lặng. Lương Tĩêu nghe câu ấy, trong lòng có chút gí như hổ thẹn.

Bỗng ai đó phá lên cười:

– Hay quá, hay quá! Xuất chưởng dụ địch hoàn toàn chính xác, đoạt kiếm thoát thân chỉ trong kẽ tóc đường tơ. Mười năm cách biệt, công phu của tôn giá càng ngày càng cao mình, Lương Tiêu đưa mắt nhìn. Hai người lướt ra khỏi đám đông, chân không chạm đất, đầu đội mũ nhỏ, râu dài chạm ngực. Lương Tĩêu trông quen mặt quá, nhưng không nhớ nổi đã gặp ở đâu. Một trong hai người cười hỏi:

– Tôn giá không nhận ra lão nạp ư?

Lão bỏ mũ để lộ cái đầu trọc lóc, liền đó gỡ bộ râu đài, phô ra khuôn mặt đầy đặn tươi tỉnh, chính là Sư Tầm tôn giả. Người kia cúng bỏ mũ gỡ râu, để lộ đôi má hóp và khuôn mặt xương xẩu, chính là Long Nha thượng nhân.

Quần hào xì xào bàn tán. Lương Tiêu lấy làm lạ: “Hai lão này đến đây làm gì?“. Sư Tam tôn giả him đôi mắt vốn đã rất ti hí, ngắm nghía Lương Tiêu:

– Nếu lão nạp đoán không lầm, các hạ chính là Lương Tiêu Bình chương, cũng chính là người mặt nạ đã đột nhập Đại Thiên Vương tự năm nào?

Chẳng là phương pháp dụ Đồng Chú, Tu Cốc, Dương Lộ và Tần Bá Phù đối kháng lẫn nhau để đả bại họ cũng tương tự như lối đấu không động một ngón tay mà khuất phục được Hàng ma cửu bộ trong chùa Đại Thiên Vương trước đây, Lương Tiêu thấy Sư Tầm tôn giả nhìn ra được chân tướng mình, không tiện giấu giếm nữa bèn gật đầu:

– Tôn giả tinh tường lắm. Năm ấy Lương mỗ vướng phải nhiều rắc rối nên không tiện lộ mặt thật.

Long Nha thượng nhân nghe gã thừa nhận, mắt bỗng long lên sòng sọc. Sư Tầm tôn giả kín đáo ra dấu cho đồng môn, miệng vẫn giữ nụ cười đưa đầy:

– Lão nạp đoán ra ngay. Người mặt nạ là Lương Bình chương. Lương Bình chương là người lạ mặt. Thảo nào lợỉ hại đến thế…

Lão chưa dứt lòã, chợt Ngân cưng lạc nguyệt Trương Thanh Nham quát to:

– Hai kẻ thập thò lén lút kia! Các ngươi là ai, cải trang trà trộn vào đây có mưu đồ gì?

Sư lầm chỉ cười khổng đáp. Long Nha hừ mũi thật mạnh cười nhạt:

– Bọn lão gia đang nói chuyện, ngươi dám sủa nhặng lên là sao?

Trương Thanh Nham nổi giận, định chửi lại thì hắn tử râu hùm bên cạnh can:

– Trương huynh bớt giận, ta có biết hai kẻ này.

Trương Thanh Nham nhìn sang. Hắn tử râu hùm căm hờn nói:

– Hai kẻ này là lạt ma Tây Vực, kẻ gầy ten Long Nha, kẻ béo hiệu Sư Tầm. Mấy năm gần đây chúng gây ra bao chuyện táng tận lương tâm ở phương nam này, hết đào bới hài cốt mộ táng ăn trộm châu báu lại dung túng đệ tử hãm hiếp đàn bà con gái, đánh đập hành hạ đàn ông con trai, chẳng từ một tội ác nào.

Quần hào nghe vậy đều sôi sục căm thu, nhao nhao thóa mạ. Long Nha, Sư lãm không hề lộ vẻ ngượng ngùng, chỉ nhếch mép khinh miệt.

Trương Thanh Nham nổi điên, thét lên:

– Lý Anh huynh, huynh chắc chắn đây là bọn chúng chứ?

Hắn tử râu hùm nói:

– Có gì mà không chắc chắn! Mấy sư thúc sư huynh của ta, vì giữa đường thấy chuyên bất bình chẳng tha nên đã giao chién với đệ tử của tên lạt ma gầy này…

Trương Thanh Nham nôn nóng hỏi:

– Kết quả thế nào?

Hắn tử râu hùm hạ giọng, mặt tím rim:

– Kết quả bên chúng ta có bốn người bị thương, còn tên lạt… lạt ma gầy đó chưa buồn xuất thủ…

Trương Thanh Nham không đủ kiên nhẫn nghe hết, giương cung bắn phựt một phát, bảy viên đạn sắt bay veo véo nhắm đến Sư Tầm tôn giả. Lão béo không thèm giơ chan, cũng chẳng buồn động tay, vẫn mỉm cười nhìn Lương Tiêu. Long Nha chạy ào lên trước, chộp ba lần trong không trung, quơ đánh rột bảy viên thiết đạn vào lòng bàn tay. Trương Thanh Nham không ngờ chỉ trong một ngày mà tuyệt kỹ bình sinh của mình đã hai lần thất bại, cứ đứng đực mặt ra.

Long Nha lừ lừ quét mắt khắp mặt mọi người, rồi “rốp” một tiếng, lão khép hai chưởng vào nhau, ánh đỏ bắn loe lóe qua những kẽ tay, sau đó khí trắng bốc lên, chỉ trong khoảnh khắc, lão lại buông hai tay ra. Ai trông cũng hồn xiêu phách lạc, bảy viên thiết đạn đã bị lão nung chảy và nặn thành một quả cầu sắt đỏ lừ to bằng nắm tay. Lương Tiêu thoáng cau mày, bụng bảo dạ: “Mười năm không gặp, Viên mãn tâm tủy của lạt ma này cũng tinh thuần hơn nhiều rồi“.

Long Nha vô cùng đắc ý, ngạo nghễ nhìn quanh. Thích Thiên Phong cười bảo:

– Cái trò nung sắt thành bóng này cúng chẳng có gì là giỏi giang.

Long Nha nổi cáu hừ một tiếng:

– Xin được xem bản lĩnh của Thích đảo chủ.

Lão phất tay, quả cầu sắt nóng đỏ kều vù một tiếng, bay về phía Thích Thiên Phong, tốc độ rất chậm nhưng hơi nóng tỏa bạt ra xung quanh, rõ ràng là chứa đựng lành lực vô cùng khủng khiếp. Họ Thích mỉm cười, khẽ khàng giơ ngón trò đỡ bên dưới quả cầu, quả cầu sắt đỗ lại trên đầu ngón tay lão, vẫn quay vù vù. Quần hào rộ lên hoan hô.

Long Nha sắt mặt lại:

– Thích đảo chủ còn biết diễn tạp kỹ cơ à?

Thích Thiên Phong cười:

– Thế này đã là gì! Con lừa trọc hom hem kia, lão tử làm trò khác cho ngươi xem.

Giọng lão không khiêm tốn chút nào, Long Nha nhướng mày lên, mắt rực lửa giận. Thích Thiên Phong nắm quả cầu, xát hai tay vê quả cầu thành hình trụ, sau đó nắm hai đầu kéo dài về hai phía trái phải cho đến khi hết chiều dài hai cánh tay mới đừng, biến nó thành một que sắt mỏng tanh, sau đó ngắt đôi cái que, kéo căng ra lần nữa, y như thể cầu sắt hay gậy sắt trong tay lão cũng chỉ là bột bánh, mặc tình nháo nặn vậy. Sư Tầm, Long Nha trông thấy, mặt xám như tro.

Kéo ngắt như thế chừng mười lần, quả cầu ưòn vo lúc nãy đã biến thành những sợi dây sắt dài mảnh. Thích Thiên Phong ngừng tay hỏi:

– Con lừa hom hem, ngươi thấy công phu đánh bột của đảo Linh Ngao thế nào?

Long Nha chưa đáp, Lăng Thủy Nguyệt đã mắng:

– Công phu của ông thì bảo là của ông, quàng xiên thành công phu đánh bột của đảo Linh Ngao là sao?

Thích Thiên Phong cười lấy lòng:

– Phu nhân dạy phải lắm, thanh danh là quan trọng, không nên để người ngoài tưởng nhà mình mở tiệm bán mì.

Bà vợ lườm một cái sắc lẻm:

– Ông biết được thế là tốt.

Trông Thích Thiên Phong biểu diễn dễ dàng như không, nhưng các cao thủ võ học ở đây đều hiểu rất rõ cái khó bên trong. Nói gì thì nói, cầu sắt không dẻo dai như bột mì, muốn kéo được những sợi dây mảnh dài như vậy mà không đứt sợi nào, ngoài nội công cực kỳ thâm hậu còn cần khả năng điều chuyển thủ kình khéo léo. Sư Tầm, Long Nha kinh hãi đã đành, ngay Lương Tiêu cũng phải tán thưởng:

– Công phu của Thích đảo chủ thật ghê gớm. Lương Tiêu tự thẹn không theo kịp.

Thích Thiên Phong cười ha hả:

– Ngươi nhận kém làm gì vội, bản lĩnh của lão phu không chi’có thể này thôi đâu!

Lão sẻ sẹ ngắt đôi những sợi đây sắt trong tay rồi kéo căng lần nữa. Sức người cũng có lúc không đều, vả chăng dây sắt đã mảnh đến mức không thể mảnh hơn được nữa. Lần này, Thích Thiên Phong vừa dụng lực, nắm dây sắt đã thi nhau đứt bựt.

Sư Tain nhìn cảnh đó, cười khẩy:

– Đây là bản lính của Thích đảo chủ đấy à?

Thích Thiên Phong trân trân nhìn đám dây đứt, mặt hết đỏ lại trắng, hết trắng lại xanh, cuối cùng hầm hầm quãng hết cả đi, Sư Tầm tôn giả cười ha hả, cúi mình thi lễ với Lương Tiêu:

– Lương Tiêu Bình chương…

– Gọi Lương Tiêu là được rồi… – Lương ĩìêu ngắt lời.

Sư Tầm cười rinh rích:

– Thế đâu được! Bình chương đã từ quan, nhưng uy phong với toàn quân vẫn còn nguyên vẹn như ngày nào. Các bộ tướng củ của Bình chương như Thổ Thổ Cáp, Lý Đình liên tiểp đánh dẹp chư vương Mông Cổ, chiến công hiển hách một thời, bản lỉnh như Oa Khoát Đài Hãn Hải Đô mà nghe đến tên Thổ Thổ Cáp cũng phải cúp đuôi chạy, không dám đối địch nữa đấy!

Lương Tiêu lạnh nhạt nói:

– – Chuyện đã qua đừng nhắc lại nữa, Lương Tiêu ngày nay chỉ là một thảo dân, không đáng để tôn giả vôn vã này nọ.

Sư Tầm nhìn gã, ngẫm nghĩ: “Hắn ta đang gặp bước khó khăn, phải có lực lượng bên ngoài trợ giúp mới mong rút lui an toàn, nay được ta làm viện thủ thì khác nào chết đuối vớ được cọc, làm gì có lý do để từ chối. Vả chăng hắn là người uy danh lừng lẫy, triều dã đều biết tiếng, nay ta thu phục được hắn kể như là lập công to, mai sau lại mượn tay hắn diệt sạch bọn dư nghiệt Nam triều kia thì càng là một công đôi việc“.

Lão cười:

– Sao lại thế, võ công Bình chương vô địch thiên hạ, xưa nay Sư Tầm vẫn kính phục lắm lắm. Thánh thượng luôn mong người hiền như ngày hạn mong mưa, nếu Bình chương bằng lòng quay đầu về, tiền đồ vẫn thênh thang rộng mở. – Lão đưa cặp mắt li hí quét khắp lượt quần hào, cao giọng nói. – Cái bọn dư nghiệt Nam triều vô đức vô năng này lại dám làm phiền Bình chương, đúng là nghé con không biết sợ cọp, thật khiến huynh đệ ta bất bình. Chúng ta, tuy tài nghệ chẳng đáng là bao, nhưng hôm nay mà các ngươi gây khó dễ cho Bình chương thì cũng tức là gây khó dễ cho huynh đệ chúng ta. Bình chương đại nhân, chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, chi bằng chúng ta cùng phóng tay chém giết một trận cho máu nhuộm mặt hồ, thây phơi đầy đất, để bọn dư nghiệt nghịch tặc này biết sự lợi hại của Đại Nguyên chúng ta.

Quần hào càng nghe càng kinh sợ, riêng một Lương Tĩêu đã đủ gớm ghê, lại được hai tên Phiên tăng này liên thủ, hậu quả thực chưa biết thế nào mà lường, Mọi cặp mắt đổ dồn vào Lương Tiêu, những bàn tay cũng tự động nắm chuôi kiếm, đao hoặc ám khí.

Lăng Thủy Nguyệt đăm chiêu tính toán: “Lương Tiêu mà Hên thủ với hai tên này thì cục diện thực hung hiểm. Nếu Thiên Phong tham gia, tình hình có thể xoay chuyển, khổ nỗi ông ấy đã thất bại hai trận liền, lại đã hứa không can thiệp vào vụ này. Nếu bội ước tham chiến, uy phong mấy trăm năm nay của đảo Linh Ngao sẽ tan thành mây khói mất. Huống hồ Lương Tiêu có ơn với nhà họ Thích, lão thân cũng không tiện đứng về phía Thiên Cơ cung“. Bà phân vân mãi không quyết định được.

Phong Liên lại nghĩ: “Trông hai tên hòa thượng chẳng phải hạng tử tế gì, nhưng bản lĩnh cao cường, kể cũng là trợ thủ đắc lực, Tây Côn Luân sẽ quyết định thế nào đây?”, Cô đưa mắt nhìn sang, Lương Tiêu vẫn giữ nguyên bộ mặt bình thản, không tỏ ra mừng hay giận. Long Nha vốn tính nóng nảy, bèn sốt ruột hỏi:

– Lương tướng quân, đã là đại trượng phu, hành sự chỉ cần một câu là quyết. Tại sao do dự thế?

Lương Tiêu nói:

– Do dự cái gì, chẳng qua ta thấy tức cười quá thôi.

Sư Tầm cau mày:

– Có điều gì đáng cười ở đây?

Lương Tiêu chăm chú nhìn lão, mỉm cười bảo:

– Đáng cười là ở chỗ các ngươi dùng dạ tiểu nhân do lòng quân tử. Lương Tiêu ta có tồi tệ đến cỡ nào đi nữa cũng không thể quần tam tụ ngũ với bọn thổ phỉ dâm tặc. Long Nha, Sư lầm, các ngươi quá coi thường người khác rồi đấy!

Gã vừa lên tiếng, cả lôi đài rộng rãi đều im phăng phắc. Hoa Thanh Uyên như trút được gánh nặng: “Ta quả không nhìn lầm, Hài tử này, cho dù đã từng phạm sai lầm, nhưng rất biết phân biệt trắng đen tốt xấu“. Y yên bụng quay lại chữa chạy cho Tần Bá Phù.

Sư Tâm Long Nha, một bộ mặt hóp, một bộ mặt phị, cùng đỏ bầm lên như tiết lợn, bốn con mắt trợn ngược nhìn trừng trừng vào Lương Tiêu, thực không dám tin những gì vừa nghe là sự thực. Giả Tú Tài bước hẳn lên khỏi đám đông, giơ quạt rách trỏ hai người, cười hì hì:

– Hay lắm! Lương Tiêu không thể bè đảng với các ngươi, Bởi hắn tà người, các ngươi là chó lợn. Còn nếu hắn là chó lợn thì các ngươi thậm chí không bằng chó bằng lợn nữa…

Long Nha biến sắc mặt, hừ một tiếng, sàn gỗ dưới chân lão bỗng xuất hiện một vệt cháy đen, nó lan dần đi như rắn trườn, nhanh chóng bò tới gần Giả Tú Tài. Lương Tiêu nhắc:

– Cẩn thận đó!

Giả Tú Tài đang hăm hở lăng mạ hai lão lạt ma, chợt cảm thấy gan bàn chân rát bỏng bèn cúi xuống nhìn. Một lưỡi lửa đang liếm từ giày, tất lên đến quần hắn. Họ Giả hoảng hồn, nhón chân nhảy chôm chôm hết đây đến kia, nhưng không sao rũ bỏ được vết cháy, hắn đến đâu nó cũng bám theo, thậm chí chưa đáp xuống đất, lưỡỉ lửa đã chờm lên cao, dính lấy gan bàn chân hắn. Chỉ hai nhịp nhảy lên hụp xuống, Giả Tú Tài đá chìm trong ngọn lửa, trông như một cây đuốc sống.

Quần hùng không hiểu nguyên do ra sao, chỉ thấy hắn hoa chân múa tay, toàn thân chói lòa, tất cả đều kinh sợ đứng ngẩn ra. Trì Tiễn Ngư lo lắng bước ra giữ lấy cánh tay Giả Tú Tài, tức thì cảm thấy một luồng khí nóng chảy ông ộc sang mình, tay áo bốc cháy, Y không ngần ngừ lâu, nhấc luôn Giả Tú Tài lên, chạy ào ra mép đài, nhấn hắn xuống nước cho đến khi lửa tắt khói tan hết mới kéo lên bờ. Giả Tú Tài quần áo rách bươm, râu tóc cháy trụi, toàn thân chi chít vết bỏng, trông thảm thương vô cùng.

Trì Tiễn Ngư đặt huynh đệ xuống, hai tay chống nạnh, tức giận nói:

– Thượng nhân ra tay tàn độc quá. Trì Tiễn Ngư mong được thỉnh giáo.

Long Nha nhìn trời cười nhạt, dưới chân lão, một vệt sém nữa hiện ra, bò về phía họ Trì.

Trì Tiễn Ngư biết vết cháy này rất quái gở, nhất thời không nghĩ ra cách nào ứng phó, nhưng đã lỡ tuyên chiến rồi, không thể rụt đầu bỏ cuộc. Y đang lưỡng lự suy tính, chợt một bóng người xẹt tới. Hoa Thanh Uyên rủ tay áo đứng yên trước mặt y, nhẹ nhàng nói:

– Trì huynh, cái món tiểu xảo này cứ để Hoa mỗ đối phó. Giả huynh đệ bị thương nặng đấy, huynh lo săn sóc thuốc thang đi.

Y nói vậy, vừa giúp Trì Tiễn Ngư dễ bề rút lui mà vẫn bảo toàn được thể diện, vừa nhẹ nhàng đưa vai gánh lấy trách nhiệm mà không làm họ Trì tổn thương. Trì Tiễn Ngư cảm kích vô cùng, vết cháy vẫn chầm chậm bò như con rắn, nhưng tới cách Hoa Thanh Uyên hai trượng thì nó dừng lại.

Hoa Thanh Uyên mỉm cười:

– Thượng nhân luyện được Viên mãn tâm tủy, thần thông cái thế, tại sao không hiểu lẽ phải chút nào như vậy?

Long Nha nghe Hoa Thanh Uyên gọi đúng tuyệt chiêu của mình, cũng hơi sửng sốt, trầm giọng đáp lại:

– Hoa cung chủ học nhiều hiểu rộng, chẳng hay vỏ công ra sao?

Hai người vừa đấu khẩu bằng những lời lẽ sắc bén, vừa liên tục dồn nội lực xuống chân, tiến hành công thủ từ xa.

Viên mãn tâm tủy là tuyệt học của Mặt tông, hấp thu tinh hoa của ánh dương làm năng lượng cho người luyện, càng luyện lên cao, trong cơ thể càng ăm ắp dương kình. Rất nhiều cao tăng, trước khi viên tịch đã triệu tập môn hạ đệ tử lại, vận dương kình tự thiêu, mà thiêu sạch đến mức thân thể không còn gí, thế gian vẫn gọi là phép đó là “hồng hóa“. Hiện thời Long Nha đã luyện đến thành thứ tám, muốn tạo ngọn lửa thiêu cháy người khác hoàn toàn không phải là việc khó.

Hoa Thanh Uyên vốn biết nội công của lạt ma này kỳ quặc vô cùng, chưa chắc Trì Tiễn Ngư đã đối địch nổi, vì thế mới ra mặt đỡ hộ. Được cái võ công của y có căn cơ, mấy năm nay đã đến tiến cảnh mái, so với Long Nha chỉ hơn chứ không kém, song tính tình y trung dung điềm đạm, hành sự cốt phải đạo thì thôi, tuy chiếm thượng phong nhưng cũng chỉ chặn dương kình lại chứ chưa phản kích, Sư Tầm theo dõi đến đây thì ngấm ngầm vận khí, dồn mạnh nội lực xuống gan bàn chân, phối hợp với luồng Viên mãn tâm tủy của Long Nha để tấn công Hoa Thanh Uyên. Từ bi quảng độ Phật mẫu thần công của lão đã tới mức đăng phong tạo cực, có phần còn lợỉ hại hơn Viên mãn tâm tủy của Long Nha. Hoa Thanh Uyên đang giữ thế đối kháng cân bằng, chợt cảm thấy kình lực của đối phương tăng vọt, hầu như quá sức mình, vệt cháy nhúc nhích bò bò tới gần hơn, trán y rịn ướt mồ hôi.

Lương Tiêu nghĩ bụng:“Hai tên lạt ma hợp sức đánh một người, thật là trơ tráo vô liêm sỉ. Ta mà xuất thủ, muốn thắng cũng chẳng khó khăn gì, nhưng cái bọn đáng ghét ấy vừa giương cờ ủng hộ ta, dẫu ta không nhận ơn huệ của chúng, cũng không tiện trở mặt phản kháng“.

Gã đang do dự, chợt thấy Hoa Vô Xuy đi xuyên qua đám đông, nhẹ nhàng tiến lên trước rồi dừng lại sau lưng Hoa Thanh Uyên. Vệt cháy uốn éo một lúc rồi dừng lạí. Lương Tiêu tự nhủ: “Ở phải, Thiên Cơ cung thiếu gì nhân tài, đâu đến lượt ta phải lo chuyện bao đồng!“.

Hai bên giữ thế giằng co hồi lâu, khó phân thắng phụ, Sư Tầm bỗng cười nói:

– Ở Trung nguyên, đúng là chẳng có kẻ nào ra hồn, lù lù mấy trăm hắn tử mà để cho một nữ nhân ra mặt.

Hoa Vô Xuy bình thản nói:

– Thế thì sao, tôn giả khinh thường nữ nhân chăng? Tôn giả luyện Từ bi quảng độ Phật mẫu thần công, chẳng lẽ không biết Như Lai cũng là do nữ nhân sinh ra?

Sư Tầm tôn giả gượng cười, cơ mặt: giật giật một cách thiếu tự nhiên:

– Đâu dám, đâu dám. vỏ công và kiến thức của tôn giá còn vượt xa bọn tu mi nam tử, vì thế kẻ hèn này mới buông lời cảm khái đó thôi. Nhớ thuở xưa, Bá Nhan Thừa tướng đốc suất binh mã đến Lâm An, dại quân Tống triều lũ lượt kéo ra đầu hàng. Thật đúng là: Mười bốn vạn quân cùng cởi giáp, Hỏi còn ai xứng mặt nam nhi (Trích bài Thuật quốc vong thi của Hoa Nhụy phu nhân. Phu nhân họ Từ (có thuyết cho là họ Phí), tài sắc vẹn toàn, nguyên là quỷ phi của Thục Hậu chủ Mạnh Sưởng. Nước Thục mất, nàng được Triệu Khuông Dẫn súng ái, đón về cung, sau đó bị Triêu Khuông Nghĩa giết chết để trừ hậu họa)!

Hai câu cuối cùng, lão phổ nội lực vào giọng nói cho lông lộng vang xa.

Hoa Vô Xuy vốn rất giỏi đối đáp, nhưng sự thực quả đúng như thế, bà cũng không biết bao biện cách nào. Quần hùng còn phẫn nộ hơn, nhưng không dám ra mặt đơn đả độc đấu. Thích Thiên Phong bị ràng buộc bởi lời hứa với Phong Liên, không thể xuất thủ, đành chỉ bất bình la lối mà thôi.

Đúng lúc ấy, phía hồ nước có tiếng người vọng tới:

– Kẻ nào bảo Đại Tống không còn ai đáng mặt nam nhi?

Giọng nói như sấm rền giữa trời quang, vang vọng giữa các dãy núi, dội ong ong vào tai mọi người. Quần hào mừng rỡ, đồng thanh reo hò:

– Vân đại hiệp!

Sư lầm giật mình, ngoảnh đầu nhìn ra. Mười mấy chiếc thuyền nhỏ đang đều đặn trôi ra từ khe vỏ sò, trên thuyền dẫn đầu có một người đang đứng, mặt đẹp như vẽ, y phục trắng muốt, tua kiếm ngũ sắc nhô lên sau vai bay lật bật trong gió.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 85: Phong Vân Tề Hội (Hội rồng mây, ẩn dụ chỉ cơ hội tốt để người tài thể hiện)

Quần hào nhất tề tung hô:

– Vân đại hiệp!

Giữa âm thanh vang dội đó, con thuyền lao đến vùn vụt. Khi còn cách đài gần sáu trượng, Vân Thù bỗng nhấp chân, đuôi thuyền ghếch cao lên ba thước. Một trận cuồng phong thốc vào mặt mọi người, lúc họ mở được mắt ra thì Vân Thù đã bay tới khoảng không bên trên đài rồi. Long Nha muốn đè bẹp uy phong của Vân Thù, không đợi gã đáp xuống đã vỗ chưởng tấn công. Thấy một cao tăng mà giở trò đánh lén hèn hạ như vậy, ai nấy đều sửng sốt và bất bình, đang định la ở chỉ trích thì Vân Thù đã quát:

– Đến đúng lúc lắm! – đoạn đầy mạnh song chưởng ra.

Cuồng phong rú rít, sóng bỏng táp vào người, Long Nha thượng nhân gào thảm, bắn tung đi hơn một trượng trong không trung. Vân Thù lắc mình, thét:

– Tặc trọc, đón một chưởng nữa của ta đây!

Gã xoay tít mình tới như cơn lốc, đầy thốc một chưởng vào ngực Long Nha. Lão lạt ma không thể né tránh, đành khua chưởng đón đỡ. Chưởng lực của Vân Thù lừng lững như quả núi khiến bách hài toàn thân Long Nha rời rã, lão văng đi xa ba trượng, vẫn chưa hết đã, lại xoay tít hai vòng nữa, sắc mặt thoạt đỏ thoạt trắng, chưa kịp trụ vững đã nghe Vân Thù quát lớn:

– Chưởng thứ ba.

Thanh âm chưa dứt, chưởng đã tới nơi, kình phong dữ dội hơn nhiều so với hai đòn lúc trước. Long Nha thu hết tàn lực gồng mình đón. Bốn chưởng giao nhau phát ra một tiếng nổ rầm tựa sấm. Long Nha bỗng chới với tay chân, bay thốc qua đỉnh đầu mọi người rồi rơi tõm xuống hồ. Lão đã vận hết mười thành Viên mãn tâm tủy nên người bỏng rãy như hòn than đỏ, không chỉ khiến nước hồ bắn tung tóe mà còn khiến khói trắng xèo xèo bốc lên từng cuộn.

Long Nha vừa mới diễu võ đương oai, ghê gớm làm sao, nào ngờ chỉ sau ba chưởng đã bị tống xuống hồ. Quần hào la hò dậy đất. Sư Tầm kinh hãi bội phần, nhân lúc Vân Thù còn hụt hơi sau cú xô Long Nha xuống nước, lão bổ nhào tới, chưởng phong sắc nhọn như mầu đâm thẳng vào lưng Vân Thù.

Vân Thù rất thính nhạy. Chưởng phong chưa tới nơi, gã đã xoay mình, phóng quyền trái ra móc cổ tay phải Sư Tầm, còn chưởng phải đấu với chưởng trái của lão. Quyền chưởng giao kích, phải đầy trái kéo, hai luồng kình lực mạnh khủng khiếp xô vào nhau. Chỉ nghe “rắc” một tiếng, Sư Tầm giật lui ba bước, mặt xám ngoét, cánh tay phải thõng xuống mềm oặt như con rắn chết.

Vân Thù không thèm thừa thắng truy đuổi, dừng chân đứng vững như núi, chằm chằm nhìn Sư Tầm, gầm lên:

– Kẻ nào bảo Đại Tống không có nam nhi?

Ba chưởng đánh bay Long Nha, nửa chiêu bẻ gãy tay Sư Tầm, lại đến tiếng gầm như sấm sét, uy phong ấy khiến Sư Tầm chấn động, hai mắt lôi tướng, lão đột ngột ộc ra một ngụm máu.

Thích Thiên Phong reo lên, hai mắt ngời sáng:

– Ngươi là đệ tử của lão đồ gàn phải không? Công phu được lắm, lại ảâỵ, lại đây, lão phu chỉ dạy cho vài ba chiêu.

Lão xoa xát hai tay, hào hứng vô cùng. Lăng Thủy Nguyệt chứng kiến uy thế của Vân Thù, trong lòng đã mấy phần e ngại, sợ rằng Thích Thiên Phong lại thua cuộc trước mặt bao nhiêu người nữa, bèn giữ lão lại, gắt:

– Đừng làm loãng việc chính của người ta.

Thích Thiên Phong ấm ức lui lại.

Nước vỗ oạp một tiếng, Long Nha ngoi lên, lắc lư mình nói lớn:

– Tiểu tử chớ ngông cuồng, lão nạp không thua đâu!

Thì ra cả ba lần lão đều lùi rất nhanh, hóa giải phần lớn chưởng thế của Vân Thù nên chưa đến đỗi bị thương nặng, tự nhủ còn có thể tái chiến. Quần hào thấy lão tả tơi như thế mà vẫn khuếch khoác thì đều phá lên cười. Giả Tú Tài nhăn nhãn mũi:

– Chẳng hay các vị đã nghe chuyện cười này chưa?

Một người hỏi:

Chuyện cười gì?

Giả Tú Tài mở quạt, cái quạt đã bị lửa đốt đen nhẻm nát bươm, nhưng hắn chẳng buồn bận tâm xấu đẹp, vừa thư thả quạt vừa tươi tình kể:

– Ngày xửa ngày xưa, có một người đứng trên bờ đọc kinh Phật, dưới sông là một con lợn đang bơi…

Phong Liên ngạc nhiên:

– Lợn mà biết bơi ư?

Giả Tú Tài bô bô:

– Trên đời thiếu gì sự lạ, mồm người còn nói phét thối inh lên được, lợn tại sao không thể bơi kia chứ?

Ai nấy bụm miệng cười. Hiểu rằng họ Giả đang chửi bóng chửi gió, Phong Liên bĩu môi hừ một tiếng.

Giả Tú Tài tiếp tục:

– Con lợn bơi một lúc, thấy người nọ cứ lầm bà lẩm bẩm, bèn tò mò bõ lên bờ trỏ cuốn kinh hỏi: “Thứ gí đấy?“. Người nọ đúng sự thực trả lời:“Kinh thư“. Lợn lại trỏ hai chữ trên sách: “Hai hình ngoằn ngoèo này là gì đây?“. Người nọ đáp: “Cái này à, đọc là “lão nạp”, dùng để tự xưng ấy mà“. Ha ha, các vị đã đoán ra tiếp theo lợn nói thế nào chưa?

Mọi người đều đoán được tám chín phần, nhưng vẫn cố ý hỏi:

– Nó nói thế nào?

Giả Tú Tài cười ha hả:

– Con lợn ngẩn ra một lúc lâu, đột nhiên bảo: “Lạ thật, vì sao ngươi có thư, lão nạp lại không thư (Đây là lối chơi chữ đồng âm, thư và thua trong tiếng Trung đèu đọc là shu)?“.

Đám đông cười rộ, một kẻ cao giọng nói:

– Ngu như lợn thì có thư hay không mà chả thế!

Mặt Long Nha hết đỏ lại xanh, lão trừng trừng nhìn Giả Tú Tài, bụng bảo dạ: “Đồ chó má, ngươi mà rơi vào tay lão nạp thì muốn sống không được, muốn chết chẳng xong“.

Phong Liên cười nhạt:

– Giả Tú Tài, ngươi mải mắng người ta là chó lợn, sao không tự trông lại bộ dạng của ngươi xem có gtống con lợn chết cạo lông không đi?

Quần hào đều đưa mắt nhìn. Giả Tú Tài ướt như chuột lột, râu tóc cháy trụi, chỉ tội hơi gầy một tí, còn thì giống lợn chết cạo lông thật. Những kẻ hiếu sự lại dấm dúi cười vụng, Long Nha ngó Phong Liên, lòng thầm cảm kích.

Giả Tú Tài tỉnh bơ như không, phe phẩy quạt cười:

– Cô nương chưa biết đấy thôi, lợn trong kinh Dịch thuộc quẻ Đồn, quẻ Đồn có viết: rút lui quên hết riêng tư; quân tử thời tốt, phàm phu chẳng lành, lức là, lợn cũng phản hạng tốt xấu, lợn tốt như ta có thể đem may mắn đến cho người hiền, đem tai ương đến cho kẻ ác, biết thưởng thiện phạt ác, công chẳng to ư? Còn những kẻ không chịu nhận thua thi đều một phường lợn xấu hết…

Hắn thuyết giải theo lối bẻ cong Thoán từ, đang thao thao bất tuyệt chợt giật mình cau mày, chắp tay xá bọn Hoa Thanh Uyên, cười ha hả nói:

– Tiểu sinh vô ý lạm đọc sách thánh hiền, lại dám giở Dịch lý ra bàn luận trước mặt quỷ cung, đúng là múa rìu qua mắt thợ. Thật hổ thẹn, hổ thẹn.

Bộ dạng hắn hoạt kê đến nỗi Phong Liên dù ghét cũng phải bật cười:

– Con lợn tốt nhà ngươi da dày thịt chắc gớm, có khi bỏng cũng chẳng chết nổi.

Giả Tú Tài chắp tay cười đáp:

– Cô nương quá khen, Giả mỗ xin nhận.

Phong Liên lại mỉa:

– Mà cả bộ da, lại được da mặt là dày nhất.

Giả Tú Tài tảng lờ lời châm chọc, cứ cười ha hả, lắc lư đầu:

– Hiểu Giả mổ, trên đời chỉ có cô nương vậy.

Phong Liên không còn gì để nói, chỉ nín thinh hậm hực.

Lúc này những chiếc thuyền khác cũng đã tới nơi, trên thuyền chở đầy những đại hắn hiên ngang, tổng cộng là hai mươi tám người, có cả Hà Tung Dương và Cận Văn. Tất cả đều bận áo trắng đơn màu, nhưng khác với Vân Thù, trên trán họ còn quấn thêm một dải lụa son. Sư Tầm tự nổi lại đoạn tay gãy, vận khí mấy lần, khi cơn đau giảm bớt, lão mới ngẩng lên. Trông những vành dây đỏ trên trán đám hắn tử, lão giật mình cười nhạt:

– Thì ra tôn giá chính là Vân Thù đại hiệp, thủ lĩnh Hồng đai quân ở Giang Tây.

– Đúng vậy, – Vân Thù đáp gọn, Sư Tầm và Long Nha đều giật mình. Đoàn quân dây đỏ tung hoành khắp miền Giang Tây và Lưỡng Quảng, liên tục kình chống quân Nguyên. Triều đình hết sức đau đầu, đã mấy lần tiến công bao vây sào huyệt của họ, nhưng lần nào cúng hao tổn binh tướng mà vẫn tay trắng trở về.

Sư Tầm, Long Nha đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ: “Kẻ này là tên phản nghịch ghê gớm nhất nước, hôm nay chúng ta đã bị hãm chân ở đây, xem chừng khó sống, thôi thì gắng sức tiêu diệt hắn, coi như hòa vốn“. Đẫ quyết liều mạng, Sư lầm bèn cao giọng nói:

– Vân đại hiệp, vừa rồi huynh đệ chúng ta nhất thời khinh địch nên bị ngươi đả bại. Bây giờ lão nạp đề nghị tái chiến, chắc Vân đại hiệp bằng lòng chứ?

Vân Thù cười nhạt:

– Mời.

Vẻ mặt đầy toan tính Sư Tầm chậm rãi cất chưởng lên, vỗ vào mạng sườn trái Vân Thù. Không để họ Vân kịp đón đỡ, Long Nha đã nhảy xổ tới, phóng chưởng phong nóng bỏng vào mạng sườn phải của gã. Quần hào phẫn nộ la ở:

– Đồ lừa trọc xấu xa, hai đánh một, không biết xấu hổ là gì!

Hoa Thanh Uyên dợm bước tới:

– Vẫn huynh đệ, để ta hiệp trợ huynh đệ.

Vân Thù ngăn lại:

– Cung chủ cứ an tọa, xem Vân mỗ phá địch ra sao đây.

Vừa nói, gã vừa xuất song chưởng, khuấy lên hai đạo kình phong đồng thời đón lấy chiêu số của Sư Tam và Long Nha. Lúc Vân Thù mới đến, quả thực hai lạt ma này có bụng khinh địch, nhưng nay đã toàn tâm toàn ý cho trận đấu, lại liên thủ đối địch nên uy lực tăng lên nhiều lần.

Sư Tầm, Long Nha tấn công vô cùng thần tốc, quyền chưởng của Vân Thù cũng nhanh chẳng kém. Kỉnh ảnh điệt hình quyền của gã đang bước gần tới cảnh giới thần diệu, động tác đã theo kịp tâm ý, từ ngoài nhìn vào, quyền trước vừa lao đì, quyền sau đã bắt nổi vào bóng quyền trước, khi tăng nhanh tốc độ xuất kích thì hình chiêu và bóng quyền nhòa vào nhau, đến đi như nước triều, không phân định nổi có bao nhiêu Vân Thù đang chạy trên sàn đấu nữa.

Ba người lấy nhanh đấu nhanh, chỉ chớp mắt đã chiết giải đến năm sáu chục chiêu. Khi Sư Tầm, Long Nha cùng xuất chưởng, hai luồng sóng ồ ạt tràn ra, một nóng rãy, một lạnh tê, tạo ra một lò luyện băng hòa bọc kín lấy đối phương. Vân Thù lập tức vận công kháng cự, dần dần nửa thân bên phải đỏ bầm lên như máu, nửa thân bên trái thì lông ánh xanh biếc. Quần hào thấy gã đấu đã lâu mà không hạ được đối thủ, lại xảy ra tình cảnh lạ lùng như thế, thảy đều lo lắng. Thình lình, Vân Thù cất tiếng hú dài, lật tay gỡ bảo kiếm xuống, vẫn để nguyên vỏ đâm thẳng vào bụng dưới Long Nha. Lão gầy hự lên đau đớn, ngã bệt xuống đất. Sư Tầm hoảng hồn, định tung thân nhảy về sau, đúng lúc Vân Thù múa kiếm chém tới, lão đành lật đật cử chưởng đỡ. Chưởng chạm vỏ kiếm, “rắc” một tiếng, xương bàn tay gãy nát, Sư Tầm đau thấu tận tìm phổi, chưa kịp buột miệng kêu thì Vân Thù lại khoa kiếm đâm tới huyệt Đản trung của lão. Bộ mặt xanh tái béo mỡ bỗng nổi sắc tía, người đỏ dừ như uống rượu, Sư Tầm loạng choạng bước giật lui, cổ họng phát ra những tiếng “tặc tặc” liên tiếp, chợt hai mắt trợn ngược, lão ngã ngửa xuống, lưng đập vào nền đài đánh thình.

Cận Văn liền chạy như bay đến, định vung kiếm cắt đầu hai lạt ma, Vân Thù bèn bảo:

– Họ đã bị phế võ công, không gây hại được nữa đâu. Họ dám nói Đại Tống không có nam nhi, vậy hãy tiễn ra khỏi cốc để người đời biết Đại Tống ta có nam nhi hay không!

Quần hào cười vang. Vân Thừ phủi tay áo, nghiêm khắc nhìn hai lạt ma trên đất, đanh giọng:

– Cút mau!

Long Nha bị thương nhẹ hơn, gắng cựa quậy bò dậy, đỡ Sư Tâm rồi cùng nhau lảo đảo lên một chiếc thuyền con, để nó xuôi dòng đưa xuống hạ du.

Lương Tiêu cau mày nghĩ bụng: “Hành động quá chủ quan! Hai tên Phiên tăng kia đến đây nhằm mục đích gì, đó vẫn còn là một dấu hỏi, chỉ vì muốn thỏa mãn cái phởn chí nhất thời mà dễ dàng thả chúng đi như thế à?“. Ngặt nỗi trận này Vân Thù thắng một cách oanh liệt quá, oai phong quá, vừa trấn áp bọn ngoại bang vừa cố ýũ sĩ khí của võ giả Trung nguyên, trong lòng mọi người chỉ những râm ran hai chữ “thống khoái”, nào còn để ý đến điều gì khác nữa. Lương Tiêu đang ngẫm nghĩ, chợt Vân Thù ngoảnh mặt về phía gã, ánh nhìn lạnh lùng đến chết người. Họ nhìn nhau, mắt như tóe lửa.

Vân Thù chậm rãi mào đầu:

– Mới đó mà đã mười năm, túc hạ vẫn bình an vô sự, Vãn mỗ thật vui mừng khôn xiết!

Gã nói mừng mà mặt lạnh hơn đá giá hơn đồng.

Lương Tiêu thản nhiên đáp lại:

– Tôn giá còn sống, Lương mỗ đâu dám chết trước. Cũng may tôn giá đến đây kịp thời, bởi muộn chút nữa thì e rằng hai ta không tương kiến được nữa.

Vân Thù thở dài:

– Tự nhiên xảy ra chiến sự, Vẫn mỗ không sao bứt ra mà đi ngay được, vì vậy tạm mời quần hào tới trước để tiếp đãi túc hạ. Trời thương nên cho đến kịp, nếu để túc hạ táng mạng dưới lưỡi gươm của những người khác, dễ mà Vân mỗ tiếc nuối cả đời mất.

Lương Tiêu mỉm cười, vỗ vỗ kiếm:

– Rườm lời làm gì nhỉ, các vị nhất tề xông lên hay xa luân chiến?

Vân Thù lắc đầu:

– Vân mỗ đã có mặt ở đây thì không bao giờ quần đấu hay xa luân chiến gì cả.

– Tức là đơn đả độc đấu phải không?

– Đúng vậy, tâm nguyện hơn mười năm, chỉ mong hôm nay được thỏa mãn.

Đến tận lúc này, hai người vẫn tỏ ra điềm đạm đúng mực, bề ngoài trông vào tưởng chừng bạn hữu trùng phùng chứ chẳng có gì cho thấy đây là cuộc chạm mặt giữa hai kẻ kình địch. Chỉ những ai biét rõ mối oán hận lâu năm giữa họ thì mới nghe ra được cái sát khí trong lời đối đáp tại qua.

Lương Tiêu gật đầu:

– Tức là vừa phân thắng thua, vừa quyết sống mái phải không?

Vân Thù đanh mặt:

– Đúng vậy, vừa phân thắng thua, vừa quyết sống mái.

Nghe câu ấy, Hoa Mộ Dung thảng thốt:

– Vân lang!

Tấm thân rắn rõi của Vân Thù chấn động. Gã ngoái đầu nhìn vợ hiền con thơ. Gương mặt kiều diễm của Hoa Mộ Dưng pha đầy những nét kinh sợ, đứa bé trong lòng nàng mở to đôi mắt đen láy nhìn gã, đột nhiên nó reo lên trong trẻo;

– Cha!

Nghe tiếng gọi ấy, đầu mày gã run run. Mấy năm nay, gã vào sinh ra tử, bôn ba vì sự nghiệp phục quốc, ít khi ở bên gia đình, giã biệt đã lâu nay mới gặp lại thể nhi, lại đúng lúc chạm mặt kẻ thù. Nếu gã bại vong, vợ con sẽ ra sao đây? Vừa nghĩ đến đấy, ruột gan đã rối bởi, nhưng cảm giác do dự chỉ kéo dài trong tích tắc, Vân Thù mau chóng hít một hơi, tự nhủ: “Chưa giao thủ, sao đã để tâm phiền ý loạn?”, rồi gã nghiến răng, cứng rắn dời ánh mắt khỏi vợ con. Trông thái độ ấy, Hoa Mộ Dung đã hiểu hết. Nàng nhếch môi cười thể thảm, giao đứa bé cho người bộc phụ, đặt sẵn những ngón tay thon lên đốc kiếm.

Lương Tiêu trầm tư một lúc rồi hỏi:

– Lương mỗ mà thất bại thì chẳng còn gì để nói, nhưng nếu may mắn chiến thắng thì sao đây?

Vân Thù nói:

– Nếu ngươi thắng, cố nhiên là không ai ngăn cản ngươi rời khỏi đây…

Gã vừa dứt lời, những tiếng bàn tán rì rầm bỗng rộ lên. Cận Văn tiến tới trước, cao giọng nói:

– Sư thúc hà tất rườm lời với hắn, tất cả cùng xông lên, mỗi người chém một nhát, còn sợ tên khốn nạn này thoát chết hay sao?

Vân Thù lắc đầu:

– Trong võ lâm không có lối đánh giết hỗn loạn như trên sa trường, lấy đông hiếp ít chẳng phải hành động của trang hảo hán.

Cận Văn ra ý thẹn, cúi đầu tạ lỗi:

– Sư thúc dạy phải, Văn nhi nói sai rồi!

Vân Thù lướt mắt khắp mặt đám võ giả, cất giọng dõng dạc:

– Nếu’ Van mỗ bại vong, mong chư vị giữ đúng lời hứa, đừng gây khó dễ cho con người này. Cho dù muốn báo thù, cũng nên đợi một dịp khác.

Thái độ nghiêm trang của gã khiến ai nấy cùng thấy trong lòng nhen lên một nỗi bi tráng. Lương Tiêu thầm nghĩ: “Hào khí của hắn vượt xa năm xưa“.

Vân Thù nắm tay vào đốc, từ từ tuốt kiếm ra, hào quang chói ngời phát lộ, trong ánh thép loang loáng ẩn hiện sắc đỏ. Vân Thù lướt ngón tay dọc lưỡi kiếm, trầm giọng:

– Thanh kiếm này chém giết đã nhiều, lưỡi thép loáng động sắc máu như ánh lửa, nên được đặt tên là Viêm Long. Trong tay Vãn mỗ, nó đã từng lấy mạng ba ngàn ba trăm chín mươi tư người, túc hạ là người thứ ba ngàn ba trăm chín mươi lăm.

Lương Tiêu cười:

– Chín mưd lăm là con số chí tôn, nếu kẻ bất tài này được lĩnh số ấy thì kể cũng là may mắn. Chỉ không rõ, trong số ba ngàn ba trăm chín mươi tư người kia, có bao nhiêu kẻ ác, bao nhiêu người tốt?

Vân Thù hơi biến sắc mặt, trầm giọng nói:

– Muốn nên đại sự, không thể câu nệ tiểu tiết, khó tránh khỏi giết lầm người vô tội.

Lương Tiêu gật đầu:

– Nói được thế kể cũng khẳng khái.

Gã tuốt Thiên Phạt kiếm. Đám đông cười bò khi nhìn thấy những đốm gì. Phong Liên giậm chân, phẫn nộ xen xấu hổ:

– Đáng cười lắm à, kiếm chứ có phải đàn bà đâu, đẹp làm gì hả?

Mọi người càng cười nghiêng ngả. Giả Tú Tài bỡn cợt;

– Cô nương chưa hiểu rồi. Con gái xấu xí còn có thể làm vợ đẻ con, kiếm gì là ảnh hưởng đến tính mạng đấy, chẳng đùa được đâu.

Vân Thù cũng ngần ngừ:

– Kiếm mà không thích hợp thì nên thay đi.

– Không cần, – Lương Tiêu lắc đầu, đoạn vuốt thân kiếm, vẻ mặt rất điềm tĩnh, gã chậm rãi nói. – Dùng cây cỏ làm kiếm cũng có thể đả thương người. Huống hồ thanh kiếm này là thiên hạ đệ nhất, từ khi đúc xong tới nay mới giết có một người.

Nói tới hai câu cuối, giọng gã như sấm nổ, át đi mọi tiếng cười trên đài.

Vân Thù lạnh lùng nói:

– Thiên hạ đệ nhất kiếm? Hừ, không khoác lác đấy chứ?

– Không khoác lác! – Lương Tiêu đáp.

Vân Thù gật đầu:

– Được, mời các hạ!

Lương Tiêu hơi cúi mình, chĩa chếch trường kiếm lên:

– Mời!

Chữ “mời” vừa dứt, hai thanh kiếm lập tức giao nhau. Vân Thù, Lương Tiêu đều là kỳ tài về kiếm đạo đương thời, lượt kiếm đầu tiên đi nhanh như ánh sáng, ai cũng gắng chiếm tiên cơ nên ra chiêu hết sức chuẩn và tàn độc, cử tọa cùng hoa mắt, hầu như không thở nổi.

Sau mấy hiệp đấu thần tốc, Lương Tiêu chỉ biết đường kiếm của Vân Thù chập chờn biến ảo chứ không nhận ra nổi môn pháp gì, bóng dáng của Quy Tàng kiếm đã biến mất hoàn toàn, ngay cả ý nghĩa “Quy Tàng” cũng đã bị thay đổi, chẳng còn đâư dấu ấn của Dịch lý Tiên thiên. Lương Tiêu càng đấu càng kinh ngạc:“Kiếm thuật của tên này có phần còn mạnh mẽ hơn Cùng Nho năm xưa, chỉ hiềm tàn độc quá“.

Mấy năm nay, Vân Thù tung hoành sa trường, giết người vô số, Nguyên triều muốn trừ diệt gã nên đã liên tục phái gian tế thích khách, cao thủ Mông, Hắn đủ cả. Lộ kiếm pháp này được trui rèn trong những trận vào sinh ra tử trên chiến trường, hễ thi triển là có thể đánh bại đối thủ trong vòng mười hiệp, nay đấu với Lương Tiêu lâu như vậy, Vân Thù không khỏi băn khoãn: “Nãm xưa võ công tên này vốn đã rất lợi hại, đấu với hắn khó lòng đánh nhanh thắng nhanh cũng là chuyện thường. Điều bất thường là ở chỗ kiếm pháp của hắn rõ ràng là tuân theo Tiên thiên Dịch lý, nhưng lại tự nhiên thành thục như đã có trong máu tự khi ra đời, đường hướng chiêu thức đều rất rõ ràng, song không tài nào phá giải nổi“. Hai người theo đuổi luồng suy tư riêng, đường kiếm đần dần thay đổi rất kỳ dị, thoắt nhanh thoắt chậm, khi nhanh thì dữ dội điên cuồng tựa sấm rung chớp giật, khi chậm thì mũi kiếm ì ạch nặng nề như đeo theo vật nặng ngàn cân.

Thoắt nhanh thoắt chậm liên tục như thế, thoáng trông thì tưởng là bình thường trầm ổn, nhưng hạng cao thủ nhìn vào, hiểu ngay rằng trận đấu này còn nguy hiểm gấp mười lối tấn công nhanh. Bởi vì tấn công nhanh chẳng qua chỉ cần đến sức lực dẻo dai và khả năng ứng biến thần tốc, còn trận đấu giữa Vân Thù và Lương Tiêu lúc này không chỉ là đấu lực, đấu dũng, mà còn đấu trí nữa. Chiêu thức chậm lại, chính là lúc kiếm sĩ dồn sức dồn thế, muốn dùng hư chiêu dụ địch hoặc dò xét thực hư của địch. Tương tự trước cơn mưa sấm phải có cuồng phong nổi lên, có mây đen kéo về dày đặc, sau đó sấm rền chớp rạch, cuối cùng moi đến trận mưa ào ào, trời đất thị uy mà còn phải chuẩn bị, huống hồ võ công phàm tục. Kiếm đi càng chậm, suy luận càng sâu sắc, khí thế càng dồn tụ mạnh, lúc đó không xuất kiếm thì thôi, chứ đã tấn công thì dứt khoát là sát chước.

Lương Tiêu và Vân Thù đều là đại cao thủ hiếm thấy đương thời, cố nhiên hiểu rõ điều này, thế nên hễ một người giảm tốc độ đấu thì người kia tự khắc cũng sinh tâm lý úy kỵ đề phòng, tránh phóng kiếm nhanh để khỏi lộ sơ hở.

Thích Thiên Phong bị phu nhân giám sát, lòng rất hẫng hụt, đành chỉ đứng bên quan sát. Lão bẩm sinh hiếu võ, xem đến chố tinh diệu là phớn phở mặt mày, hò reo hào hứng, chốc chốc vung nắm đấm tung đòn đá, hết suy luận biến hóa của đôi bên lại bình phẩm chỗ ưu chỗ khuyết của mỗi người. Thi thoảng, lão thử chỉ cách tấn công những chỗ khuyết ấy, nhưng tương đối khó khăn. Hai kiếm sĩ nghe lão bình luận, cũng muốn nhân đó lợi đụng điểm yếu của đối thủ, khổ nỗi đối thủ ứng biến quá nhanh, quá lạ, chẳng dễ mà nắm bắt được, cơ hội chiến thắng vừa thoáng xuất hiện đã lại trôi đi mất.

Phong Liên quan sát mãi không thấy kết quả, bèn lo lắng nhích lại gần Thích Thiên Phong, dọ hỏi:

– Theo đảo chủ, cơ hội thắng của ai cao hơn?

Thích Thiên Phong đáp:

– Khó nói lắm, Lương tiểu tử mạnh về kiếm pháp, nhưng gã họ Vân cũng chẳng kém cạnh gì, Công Dương Vũ bồi dưỡng được đồ đệ thế này, thực khiến người ta ganh tị.

Miệng nói mà mắt lão vẫn không rời trận đấu, hai ngổn tay cái và trỏ làm thành hình trường kiếm vòng qua vê lại, liên tục khai triển các biến hóa.

Phong Liên bĩu môi thất vọng:

– Kể về võ công, ông là người khá nhất trong những bộ mặt ở đây. Ông mà không xác định được thì ai đủ khả năng nữa.

Thích Thiên Phong nghe lọt tai, hớn hở bảo:

– Võ công lão phu đương nhiên là giỏi nhất. Tiểu nha đầu, ngươi nói câu này kể cũng có ư hiểu biết đấy!

Phong Liên lộ vẻ ngẫm nghĩ, lại hỏi:

– Thích đảo chủ, ông với tên họ Vân kia, ai giỏi hơn ai?

Thích Thiên Phong không buồn cân nhắc, buột miệng đáp luôn:

– Còn phải hỏi, đương nhiên là lão phu giỏi hơn.

Phong Liên cười cười:

– Vậy là sư phụ tôi chắc thắng rồi.

– Vì sao? – Thích Thiên Phong ngạc nhiên.

Phong Liên thong thả giảng giải:

– Lúc ở Khai Phong thiết tháp, sư phụ đã thắng ÔRg nửa chiêu, cố nhiên là lợi hại hơn ông rồi, bây giờ ông lại giỏi hơn tên họ Vân, suy ra, chẳng phải sư phụ tôi sẽ đánh bại hắn hay sao?

Thích Thiên Phong gãi gãi đầu, giọng ngập ngừng:

– À, ở…

Lão ngập ngừng, bởi lão thua Lương Tiêu là việc rõ như ban ngày, không thể chối cãi được, nhưng thắng Vân Thù thì chỉ là phán đoán nhân lúc cao hứng chứ nào đã thử nghiệm bao giờ. Phong Liên không để lão kịp nghĩ lâu, lại lục vấn:

– Hay là ông khoác lác, còn thực tế ông không bằng tên họ Vãn kia?

Thích Thiên Phong nổi điên:

– Nói như cứt!

Lão mắng bất nhã là vậy, nhưng Phong Liên không buồn để ý, cười hì hì tiếp:

– Thích đảo chủ đã không khoác lác thì sư phụ chắc thắng rồi.

Thích Thiên Phong tự nhủ: “Lập luận cũng chặt chẽ. Lương Tiêu đã thắng lão phu nửa chiêu, hắn thua Vân Thù thì chẳng phải lão phu cũng thua luôn theo ư? Không được, không được! . Lòng đầy kích động, lão bỗng cao giọng nói:

– Đúng, Lương Tiêu tử sẽ thắng, tên họ Vân thua là cái chắc, chẳng có cửa nào mà thắng cả.

Ở đây, ngoài Lương Hêu và Vân Thù thì Thích Thiên Phong là người có võ công cao nhất, kiến thức võ học cũng rộng nhất. Nghe lão phán thế, quần hào không nén nổi lo lắng. Thích Thiên Phong nói dứt, lập tức chứng mình ngay bằng cách chi ra những sơ hử của Vân Thù. Thế là, võ công của Lương Tiêu phối hợp với kiến thức của Thích Thiên Phong, chẳng khác nào hai đại cao thủ hợp công một mình Vân Thù khiến gã kháng cự rất chật vật, mau chóng rồi vào thế hạ phong.

Hoa Vô Xuy liếc Phong Liên, thầm nghĩ: “Đúng là thầy nào trò nấy, con nha đầu này cũng giảo hoạt mưu mẹo chẳng kém ai”, Bà mỉm cười bảo Thích Thiên Phong:

– Đảo chủ hãy ngừng lại một lát, lão thân muốn đánh cược với đảo chủ, được không?

Thích Thiên Phong ngơ ngác ngoảnh sang:

– Cược cái gì?

– Cược xem hai người đấu kiếm kia, ai sẽ đả bại ai.

Thích Thiên Phong cười rạng rỡ:

– Xong ngay, nhưng thắng cược thì được cái gì?

– Nếu lão thân thắng, mong Thích đảo chủ truyền dạy một bộ võ công thật lậ hại cho tôn nhi của ta đây.

– Đơn giản mà, – Thích Thiên Phong cười đáp. – Nhưng nếu lão phu thắng thì sao?

– Thích đảo chủ mà thắng, lão thân xin nhượng lại cho đảo chủ bộ kiếm phổ Thái ất phân quang, được không?

Thích Thiên Phong mừng quýnh, sốt sắng hỏi lại:

– Thật chứ?

Hoa Vô Xuy điềm đạm ư ả lời:

– Trước mặt anh hùng thiên hạ, lão thân đâu thể nói left rồi lại nuốt lời.

Thái ất phân quang kiếm đã đạt mức tuyệt đinh về võ đạo, lâu nay vẫn là tuyệt kỹ trấn cung của Thiên Cơ cung. Năm xưa Hoa Vô Xuy và Công Dương Vũ đã hợp bích bằng chính lộ kiếm pháp này, đánh cho Tiêu Thiên Tuyệt thất điên bát đảo, phải nhớn nhác tháo chạy, tạo nên uy thế chấn động giang hồ. Thích Thiên Phong đam mê võ công hơn cả tính mệnh, mấy lần đến thăm Thiên Cơ cung đều nhăm nhăm mượn kiếm phổ để xem, nhưng bất kể lão giở cách gì, dụ dỗ hay lừa phinh, Hoa Vô Xuy đều một mực khéo léo chối từ. Ngờ đâu hôm nay bà ta tỏ ra rộng rãi như thế, bảo sao họ Thích không vui mừng cho được. Lão hớn hở vỗ tay reo:

– Được, lão phu đồng ý.

Hoa Vô Xuy mỉm cười:

– Thích đảo chủ quyết đoán lắm! Bây giờ, hai người đằng kia, mỗi chúng ta chọn lấy một.

Thích Thiên Phong yênh vang:

– Bà đánh cuộc Vân Thù thắng chứ gí?

Hoa Vô Xuy lắc đầu:

– Không, ta đoán Lương Tiêu thắng.

Ai nghe cũng kinh ngạc: “Vân Thù là ái tế nhà họ Hoa, tại sao bà ta lại đánh cuộc kẻ thù thắng kia chứ?“. Thích Thiên Phong không buồn suy nghĩ, nói ngay:

‘Vậy lão phu đánh cuộc rằng Vân Thù thắng. – Dứt lời mới V thức được mình đang nói gì, lão già gãi gãi đầu. – Ôi chà, không phải không phải, ý ta là đánh cuộc Lương Tiêu thắng, Hoa Vô Xuy sầm mặt, xẵng giọng bảo:

– Thích đảo chủ trước mặt anh hùng thiên hạ, chúng ta đừng nên hai lời. Thỏa thuận thế nào cứ làm thế. Nếu Lương Tiêu thắng, đảo chủ phải dạy võ công cho Viên nhi, nếu tiểu tế may mắn thắng, lão thân sẽ lập tức giao Thái ất phân quang kiếm ra.

Thích Thiên Phong nhíu mày nghĩ ngợi: “Nếu Lương Tiêu thắng, lão phu thua cược đã đành, lại còn phải hao công tốn sức dạy võ nghệ cho thằng oắt nọ, phiền phức lắm. Nếu Vân Thù thắng, giấc mạng bấy lâu trở thành sự thật, ta sẽ được đọc kiếm phổ“. Lão liền nhìn vào bãi đấu, đột ngột thay đổi ngay giọng điệu, nhảy sang chỉ vẽ kiếm pháp cho Vân Thù:

– Van tiểu tử, đường kiếm đó của ngươi kém quá. Lẽ ra nên đâm vào huyệt: Thần khuyết, Lương tiểu tử nhất định sẽ nguy to ư, tốt đấy, trên đâm vào huyệt Hạ lăng, dưới đâm vào huyệt Thiên tuyền…

Lăng Thủy Nguyệt liếc Hoa Vô Xuy, tự nhủ: “Hoa muội tử cao tay thật, chỉ mấy câu mà khiến Thiên Phong phải thay đổi tâm ý, Chỉ hiềm lấy cả kiếm phổ ra mà nhử thì hơi quá đáng“. Bà đang ở tình thế khó xử, không tìm được cách nào thỏa đáng hơn, đành thở dài, lặng lẽ quan sát tiếp. Phong Liên thấy tình hình không ổn, tức giận trách Thích Thiên Phong:

– Ông thiên vị thế!

Thích Thiên Phong tảng lờ, cứ luôn mồm hò hét mách nước Vân Thù, Phong Liên giậm chân, vung chưởng tấn công lão già. Thích Thiên Phong chẳng hề ngoái đầu lại, chỉ thò một ngón tay ra, điểm trúng huyệt Ngũ khu của cô gái. Phong Liên không nhúc nhích gì được, muốn mắng chửi mà cổ họng khô rang, không bật nổi một câu, nước mắt tuôn ròng ròng như suối.

Hoa Kính Viên bỗng hừ một tiếng, nhảy bổ tới đấm Thích Thiên Phong. Họ Thích né mình tránh hai quyền, đoạn trừng mat hỏi:

– Ranh con, tại sao ngươi đánh lão phu?

Mọi người đều lấy làm lạ, Hoa Kính Viên vẫn vung tay đấm loạn xạ, mặt mũi sưng sỉa. Thích Thiên Phong đành búng một đạo kình phong điểm ngã cậu bé. Hoa Vô Xuy xót cháu trai, liền cuống quỷt chạy tới giải huyệt, nhưng Vô tướng thần châm quá lợi hại, bà liên tiếp thử mấy thủ pháp khác nhau mà đều vô hiệu, liền nổi giận:

– Thích Thiên Phong, tại sao ông đả thương Viên nhi?

Thích Thiên Phong nhìn hai bà cháu, bụng bảo dạ: “Thằng lỏi cố ý phá rối lão phu để tên Lương Tiêu thủ thắng, buộc ta phải dạy công phu cho nó đây mà. Hoa Vô Xuy can thiệp cũng vì sợ lão phu thắng cuộc và xem được kiếm phổ đấy thôi. Khả khả, lão phu biết tỏng mưu mô của bà cháu ngươi rồi“.

Lão cười khẩy, không thèm để ý đến, cứ tiếp tục nhắc nhở hỗ trợ Vân Thù. Lúc này Hoa Vô Xuy đã nguôi giận, bèn nghĩ: “Bây giờ trận đấu đang đến lúc khẩn yếu, nhất thiết không nên đắc tội lão ta. Nhưng cũng không thể bỏ qua cái tội điểm huyệt Viên nhi, sau này rảnh rỗi, ta sẽ tính sổ sau”.

Thấy Hoa Kính Viên ròng ròng nước mắt, tưởng cậu ta đau đớn vì chỉ kình, ruột gan bà như đứt ra từng khúc, bà bèn ôm chặt lấy cháu đích tôn, mắt mũi cay xè.

Vân Thù được Thích Thiên Phong chi vẽ, dần dần lấy lại ưu thế, Viêm Long kiếm dữ dội áp đảo Lương Tiêu, áp lực quá lớn, tự nhiên lại khiến Lương Tiêu càng thêm chuyên chú, múa kiếm thủ kín đến mức nước cũng không lọt. Vân Thù, dù được Thích Thiên Phong trợ giúp, nhưng nhất thời cũng khó mà phá được thế thủ của Lương Tiêu. Kiếm khí hai bên tung hoành thêm mười mấy hiệp nữa, Lương Tiêu sực nhận ra trong kiếm pháp của Vân Thù có một chỗ hơi vấp, tuy rằng chỉ xuất hiện thoáng chốc là biến mất, nhưng biểu hiện của nó hết sức rõ ràng. Lương Tiêu đã lĩnh ngộ được quy luật về sự hài hòa, linh giác theo đó mẫn tiệp hơn nhiều, không chỉ biết hướng chiêu thức của bản thân tới sự hài hòa lình hoạt, mà còn có khả năng nhận ra những chỗ chệch choạc trong đường kiếm của đối thủ.

Trong mấy hiệp tiếp theo, cái điểm kênh vấp đó cứ đều đặn thoắt ẩn thoắt hiện trong các chiêu thức của Vân Thù, thậm chí chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi mà biến hiện đến hai lần. Lương Tiêu sực hiểu: “Một cao thủ, dù mạnh mẽ đến đâu, khi sử kiếm lâu thì sức lực cũng giảm sút, nhất định sẽ có lúc chiêu số không được liên tục. Cũng như khi làm toán, công thức mà không phù hợp sẽ dẫn đến kết quả sai, làm uổng phí thời gian tâm sức, nếu kiếm chiêu có chỗ vấp váp thì sẽ ảnh hưởng đến khí thế, tạo ra những yếu tố có thể dẫn đến thất bại“.

Sau khi phát hiện điều ấy, Lương Tìêư vận kiếm như gió, nhưng lòng thì lặng như nước để quan sát. Dần dần, gã nhận ra kiếm pháp của Vân Thù càng lúc càng lắm chi tiết thiếu cân bằng, có lúc hiện lên rất rõ, có lúc chỉ mờ nhạt, nhưng nếu chú ý quan sát thì đều không khó nắm bắt. Một cảnh giới mới mẻ và kỳ diệu chưa từng thấy đã bày ra trước mặt Lương Tiêu, đối với gã, kiếm pháp của Vân Thù không còn kín bưng hay bí hiểm nửa. Gã mừng rỡ quá đỗi, đồng thời cũng thở dài cảm thán, sức người dẫu mạnh mẽ đến đâu, rốt cục vẫn không sánh nổi sự vô tận và hài hòa của vũ trụ. Nghĩ tới đây, Lương Tiêu bèn nương theo kiếm chiêu của Vân Thù, ứng dụng Hài chi đạo phóng mủi kiếm ra, chẳng ngờ đâm trúng ngay thân kiếm của Vân Thù. Sau tiếng “keng” vang vọng, thế kiếm của Vân Thù có phần rối loạn, gã giật mình lùi lại sau. Lương Tiêu lập tức nhoài tới áp sát, trường kiếm giao kích, chiêu thế của Vân Thù rối loạn lần nữa, gã bất đắc dĩ phải thi triển thân pháp lui tiếp ra sau. Lương Tiêu đâm liên tiếp năm nhát kiếm, Vân Thù cũng lùi đủ năm lần, chỉ chớp mắt đả lùi đến mép đài, sau lưng toàn là nước. Cục diện xoay chuyển quá nhanh, ai nấy đều kinh hoàng. Thích Thiên Phong tài ba là thế mà cũng chỉ biết há hốc mồm, chẳng biết hỗ trợ ra sao.

Hết đường lui, Vân Thù bỗng vận kiếm cực nhanh, định dùng lối tấn công thần tốc để chiếm lại tiên cơ. Lương Tiêu đứng bất động, chỉ đầy cổ tay cho trường kiếm che chắn quanh thân. Vân Thù, người và kiếm hợp nhất, chạy như đèn cù quanh minh gã, ra chiêu rất rát. Trường kiếm va nhau phát ra những tiếng keng keng bất tận. Vân Thù bị Lương Tiêu đầy dạt ra hết lần này: đến lần khác, khí thế suy giảm rõ rệt. Càng bị khắc chế, chỗ lệch lạc trong kiếm pháp càng xuất hiện nhiều, càng rõ rệt thêm. Trong khi đó, Lương Tiêu xuất kiếm mỗi lúc một thoải mái như ý. Vân Thù vận kiếm như cuồng phong, nhưng kiếm chiêu bộc lộ vô vàn sơ hở, tuy vậy ngoài mấy tuyệt đỉnh cao thủ thì chẳng ai nhận ra điều đó, chi thấy Vân Thù áp sát Lương Tiêu là họ vỗ tay bồm bộp khen ngợi.

Khen ngợi một lúc, chợt thấy vòng chạy của Vân Thù doãng rộng dần, lúc đầu chu vi là nẫm thước, sau loang ra một trượng mà gã vẫn chạy điên cuồng, không sao thay đổi được đấu pháp. Dẫu võ công có kém cỏi đến đâu đi nữa, đám đông cũng bắt đầu nhận ra cao hạ, tiếng vỗ tay thưa thớt hẳn đi. Lương Tiêu xuất kiếm càng lúc càng tự chủ, cuối cùng, khi tâm tưởng ổn định đến cao độ, gã còn nhắm mắt xuất kiếm, túc này tư duy mẫn tiệp lạ thường, không cần phải dùng mắt nhìn cũng có thể nghe ra chỗ vấp váp trong tiếng gió khi Vân Thù xuất kiếm. Cứ thế, Lương Tiêu nghe tiếng để ứng biến, vậy mà xuất kiếm nào trúng kiếm đó. Quần hào đều sợ đến đờ cả người trước cảnh lạ lùng này.

Giả Tú Tài đảo mắt lia lịa nghĩ kế, chợt gọi:

– Lương Tiêu, ngươi đã dám nhắm mắt xuất kiếm, vậy có giỏi thì bịt cả tai lại nữa đi!

Lương Tiêu cười đáp:

– Có gì mà không dám?

Rồi tiếp tục vận kiếm đều đều bằng tay phải, gã đưa tay trái xé dải áo, thút nút hai tai. Mắt không nhìn, tai không nghe, chỉ còn đối phó bằng thần ý, nhưng gã vẫn nhận ra những chỗ chưa được nhuần nhuyễn trong kiếm pháp của Vân Thù, đồng thời sử kiếm như vũ bão, khiến Vân Thù không chiếm được chút tiên cơ nào. Giả Tú Tài phục quá, nhất thời quên bẵng cả thù hận, buông lời tán thưởng:

– Họ Lương kia, ngươi giỏi lắm!

Trì Tiễn Ngư bực mình nhắc:

– Lão tam, đệ đừng nói lãng nhãng.

Già Tú Tài vội lấp liếm:

– Đại ca dạy phải, tiểu đệ tập trung xem quá đấy mà.

Đấu đến lúc này, lẽ ra Vân Thù nên buông kiếm nhận thưa là vừa, nhưng trận chiến hôm nay không chỉ liên quan đến danh dự của bản thân gã, mà còn gánh l ấy hi vọng của cả thiên hạ, gã tự nhủ: “Luận về đấu kiếm thì ta thất bại cùng cực rồi, nhưng đã giao hẹn là quyết sống mái, phải gắng đến chết mới thôi“. Gã nghiến rãng trèo trẹo, kiếm ý càng điên cuồng, tung ra toàn những chiêu số liều mạng.

Lương Tiêu đã chiếm thế thượng phong, muốn đâm chết Vân Thù cũng dễ như tíở bàn tay, ngặt nỗi lòng gã đầy mâu thuẫn. Cứ nghĩ một khi Vân Thù chết đi, trên đời lại thêm một quả phụ cô nhi là lòng Lương Tiêu không nỡ. Song tha cho Vân Thù thì tình thế cứ mãi dằng dai chẳng biết bao giờ mới dứt, việc sinh tử của cá nhân gã là chuyện nhỏ, nhưng Phong Liên vô tội, Vân Thù coi gã là ác đồ, chưa chắc đã chịu thả Phong Liên đi. Và nhất là, trong lòng gã có vài phần kính trọng địch thủ của mình, không muốn Vân Thù phải rơi vào tình cảnh thất thế mất mặt, gã bèn chuyển sang giữ thế thủ, chỉ mong Vân Thù thấy khó mà rút lui. Nào ngờ Vân Thù chẳng tỏ ý nhận thua, mà chiêu thức còn tàn độc hẳn lên. Chiết thêm mấy chiêu, Lương Tiêu hiểu, nếu không ép người này vào bước đường cùng thì khó bề thoát thân. Cuối cùng, gã thở dài ảm đạm, thình lình hô lên:

– Xem Đại trực kiếm của ta đây!

Thiên Phạt kiếm xả thẳng xuống, khí thế dữ dội lạ lùng, chém phập vào giữa thân Viêm Long. “Keng” một tiếng đanh gọn, Vỉêm Long kiếm gãy đôi. Tất cả đều sửng sốt, lúc này mới hiểu Lương Tiêu không ngoa ngôn khi nói thanh kiếm gì này là “thiên hạ đệ nhất kiếm“. Phong Liên hết sức hân hoan khi Thiên Phạt kiếm hiển lộ thần oai, không nhúc nhích được, cô đành biểu lộ niềm vui bằng tiếng reo hò khen ngợi.

Vân Thù nắm chặt đoạn kiếm gãy, loạng choạng lùi lạí sau, hổ khẩu tướp máu. Lương Tiêu lại bién một chiêu Song hồ trảm, trường kiếm vạch ra hai đường vòng cung trên không, lần lượt chém vào ngực và mặt đối thủ. Vân Thù khom mình, lui tuốt ra sau hơn một trượng, Hoa Thanh Uyên lo lắng gọi:

– Vân huynh đệ, tiếp kiếm! – rồi lăng ra một thanh kiếm khác.

Vân Thù vươn tay toan đón, Lương Tiêu bèn sử chiêu Loa toàn thích, mũi kiếm rung thành muôn điểm sáng đâm vù tới, đánh bay thanh kiếm kia đi. Ba đường kiếm liên hoàn, đều là do Lương Tiêu đúc rút từ số học (Cụ thể là lấy ý từ môn hình học, những đường kiêm đó lần lượt là ứng dụng của các đường: thằng – Đại trực, cong – Song hồ, xoáy ốc loa toàn, tròn – Chu viên) , phối hợp với Hài chi đạo, tạo nên uy lực cực lớn.

Loa toàn thích vốn dĩ lấy ý từ những đường vân trên vỏ ốc, Thiên Phạt vạch tiên tục những đường kiếm hoa từ nhỏ tới lớn, chỉ chớp mắt đã bao kín Vân Thù, kiếm phong lạnh buốt cứa qua cứa lại trên mặt khiến họ Vãn rùng mình. Lương Tiêu thét:

– Còn chưa chịu nhận thua?

Vân Thù nghiến răng im lặng, đồng thời khép khít chương phóng ra. Lương Tiêu bèn xoay tay sử Chu viên kiếm, sống kiếm xoáy vòng khóa đôi cổ tay của Vân Thù, đoạn lẹ làng lướt dọc cánh tay gã, chém ngược lên cổ. Vân Thù than thầm: “Thế là hết!“. Không hiểu vì sao, ý nghĩ đó vừa nảy ra thì lòng gã nhẹ nhõm hẳn đi, tựa hồ mới trút bỏ được một tảng đá cực nặng. Gã không mảy may né tránh, điềm nhiên nhìn lưỡi kiếm gì đang lừ lừ tiến tới cổ mình.

Lương Tiêu hơi cảm thấy bất ngờ, kiếm ý chưa tận mà Vân Thù đã thúc thủ đợi chết. Cũng may Chu viên kiếm không phải là sát chiêu, bằng không lúc đầu kiếm phong quạt tới là Vân Thù đã cụt mất bai bàn tay rồi. Lương Tiêu dừng kiếm giữa lưng chừng, phân vân chưa biết có nên chém xuống hay không. Bỗng nhiên một luồng gió mạnh thốc tới lưng gã, gió rát như hất từ binh khí. Lương Tiêu lật tay xuất kiếm, đâm trúng vào thân kiếm của người đánh lén. Người đó lùi lại hai bước, mặt hoa thất sắc, nhưng đôi mắt vẫn long lanh như làn thu ba, trong trẻo mà lạnh giá. Hoa Mộ Dung chứ nào phải ai xa, Thấy vợ xuất thủ, Vân Thù ngẩn người một thoáng rồi quát lên:

– Nàng làm gì thế?

Hoa Mộ Dung cười méo xẹo:

– Làm gì cũng được, miễn là không phải trơ mắt nhìn chàng mất mạng.

Vân Thù lắc đầu:

– Ta đã giao ước đem đả độc đấu với hắn. Sinh tử có số, nàng hành động như vậy khác nào biến ta thành kẻ tráo trở lật lọng? Vả chăng đây là việc của đàn ông, nữ nhi các nàng đừng can thiệp vào.

Hoa Mộ Dung cắn nhẹ môi dưới, đoạn nói:

Nữ nhi không phải là người chắc? Nữ nhi không biết yêu hận chăng? Đúng, thiếp đây quả có không hiểu sự nghiệp phục quốc hay đạo nghĩa giang hồ. Thiếp chỉ biết, mình có thể thiếu chông, nhưng không thể để con gái mất cha được!

Vân Thù rùng mình, bất giác đưa mắt về phía cô con gái đang ngồi trong lòng người bộc phụ. Cô bé dưởng mới khóc xong, khuôn mặt nhỏ còn ướt lệ. Đón được ánh mắt gã, cô bé gọi:

– Cha!

Vân Thù thấy trái tim mình chùng xuống. Đứa trẻ gọi cha xong, lại nhớn nhác nhìn sang mẹ:

– Bế con!

Đôi môi nhỏ cong lên tựa hồ sắp khóc òa. Hoa Mộ Dung tan nát cõi lòng. Bao nhiêu chuyện xưa bỗng ùn ùn trở lại.

Từ nhỏ, nàng đã không có cha ở bên. Tình cảm nàng dành cho đấng sinh thành chưa từng gặp mặt ấy trăn trở giữa yêu và hận. Tuy rằng mẫu thân không cho mọi người nhắc đến tên ông, nàng vẫn khao khát muốn biết tướng mạo người cha danh tiếng vang lừng đó rốt cục ra sao. Hôm cứu được Vân Thù ở ngoại thành Tô Châu, biết rằng gã là đệ tử của Công Dương Vũ, nàng rất hiếu kỳ, thường hỏi hắn gã về tình hình của ông. Ở lâu bên Vân Thù, tự lúc nào chẳng biết, nàng dần gửi gắm vào gã mọi niềm mong ngóng thương tưởng về người cha gần gũi mà xa xôi kia. Nàng biết Vân Thù đẫ có ý trung nhân. Nàng biết gã nhẹ nhàng tử tế với nàng vì coi trọng những khả năng hiếm có lạ kỳ cùng vàng bạc đụn kho của Thiên Cơ cung. Nàng cũng biết lòng gã chỉ nung nấu mưu đồ phục quốc, hoàn toàn không dành chỗ cho nhi nữ tư tình. Dù vậy, nàng vẫn gắng công thuyết phục mẹ chấp nhận hôn sự, ngờ đâu đúng lúc ấy, không một lời từ giã, Vân Thù bỏ Thiên Cơ cung đi biệt xuống nam.

Chuyến đi ấy dài dằng dặc, khiến Hoa Mộ Dung hầu như tuyệt vọng. Bỗng một hôm, cũng đột ngột như lúc ra đi Vân Thù thất thểu trở về, lăn đùng ra ốm. Mộ Dung mang máng nhận thấy một điều gì đó ở gã đã chết, không chỉ vì cái đích phục hưng Đại Tống trở nên quá xa, mà còn vì người con gái gã thật lòng yêu thương đã thoát hẳn tầm với của gã. Nàng không gạn hỏi, không thắc mắc, mà âm thầm sửa đổi bản tính ngang tàng ương bướng để dịu dàng chăm nom gã.

Một đêm, dường như đã hết sức chịu đựng, gã gục vào lòng nàng khóc rưng rức. Nàng sực hiểu, trang tu mi nam tử này, bề ngoài cứng rắn sắt đá nhưng con tim yếu đuối như một đứa trẻ, và cũng con tim ấy lại khăng khăng đòi gánh lấy những trọng trách mà nó biết rõ là không thể thực hiện nổi. Cùng đêm ấy, nàng trao thân cho gã. Thành gia thất rồi, Vân Thù rất ít ở nhà, toàn bôn ba đâu đâu. Mộ Dung hiểu rõ, đối với Vân Thù, một người đàn bà bé nhỏ như nàng hoàn toàn không có ý nghĩa gì so với đại nghĩa quốc gia, nhưng nàng không thốt nửa lời oán trách, Sau ngày sinh’con, nàng cảm thấy được an ủi nhiều, đồng thời càng sợ mất chông hơn. Nàng vốn không tin thần Phật, song từ khi có con, nàng thường thắp hương trước Bổ tát, lặng lẽ cầu khẩn cho chông bình an trở về. Một lần kia, Vân Thù bị thương nặng, phải về cung tĩnh dưỡng, Mộ Dung không nén được, bèn khuyên gã đừng đi nữa, gã liền nổi nóng, rồi bất chấp đau ốm, đang đêm bỏ đì luôn. Hoa Mộ Dung khóc suốt một đêm, hôm sau sang nhờ Tần Bá Phù đi theo chăm nom cho gã. Từ bấy trở đi, nàng không hề khuyên nhủ hay can thiệp vào việc của Vân Thù, mãi cho tới hôm nay.

Chuyện mười mấy nãm, chạy vùn vụt trong một chớp mắt. Hoa Mộ Dung nghiến chặt răng, vung kiếm đâm Lương Tiêu. Trước tình cảnh này, dù khó xử đến đâu, Lương Tiêu cũng không thể thõng tay chịu chết. Hoa Mộ Dung đã phóng kiếm ra, gã cũng đành cử kiếm đón đỡ. Hoa Vô Xuy bỗng thét:

Thanh Uyên!

Hoa Thanh Uyên vâng lời, tuốt Thái A kiếm đâm thẳng vào mặt Lương Tiêu. Lương Tiêu không muốn giao thủ với y chút nào, bèn chúc kiếm xuống, im lặng lướt lại sau.

Hoa Mộ Dung ngoái đầu gọi:

– Ca ca!

Hoa Thanh Uyên mỉm cười với nàng, ánh mắt êm đềm như vẻ xuân tươi, đoạn cong ngón tay búng vào kiếm:

– Trở về nguyên thủy thái hư sinh.

Hoa Mộ Dung lòng nóng như lửa đốt, gấp rút hòa theo:

– Khai mở hỗn mang lưỡng nghi hình.

Hai huynh muội giao kiếm. Tiếng kim loại trong trẻo ngân dài kiếm quang tản mát, song kiếm nhất loạt tấn công Lương Tiêu.

Lương Tiêu thấy lòng chua xót khôn tả. Năm xưa, vì muốn học Thái ất phân quang kiếm, gã mới đến Thiên Cơ cung, vất vả sáu năm trời hì hục giải Thiên Cơ Thập Toán, tới nay cũng chưa học được chiêu nào mà đã biến thành tội đồ trước lộ kiếm pháp ấy, ngẫm mới đáng châm biếm làm sao.

Thái ất phân quang kiếm đã vượt qua mọi cảnh giới vô đạo. Chính Tiêu Thiên Tuyệt, vào thcn kỳ oanh liệt nhất của đời mình cũng chưa từng đỡ nổi một trăm chiêu. Sau chiêu đầu tiên, Lương Tiểu đã thể nghiệm được đặc tính của nó, chiêu thức mạnh mẽ, không hề rườm rà màu mè, cách thi triển vô cùng khoáng đãng. Muốn ví von, chỉ có thể ví với một tuyệt thế giai nhân, yếu điệu diễm lệ, không mảy may khiếm khuyết.

Huynh muội họ Hoa phối hợp tấn công, khiến uy lực kiếm pháp tăng lên không biết bao lần mà kể. Vòng tấn công nhanh đầu tiên đã đủ buộc Lương Tiêu phải giật lui mấy bước. Quần hào mừng rỡ vô cùng, hò reo không ngớt. Hoa Thanh Uyên lại hô:

– Trời đất bập bềnh không ánh sáng.

Hoa Mộ Dung lanh lảnh nổi lời:

– Ảm đương nghiêng ngả động hào tình.

Kiếm pháp cả hai cùng biến hóa, cương nhu hoán đổi, âm dương đảo chiều, kiếm kình hất ra sắc gắt, chỉ hai ba đường đã dồn Lương Tiêu tới sát mép đài. Thích Thiên Phong say sưa theo dõi, bất giác buột miệng:

– Thường nghe Thái ất phân quang kiếm là cái lông phủ lên toàn bộ võ học thiên hạ, giờ được tận mắt kiểm chứng quả nhiên danh bất hư truyền.

Phong Liên đang lo lắng, nghe vậy bèn hỏi:

– Ông nói vậy là sao?

Thích Thiên Phong cắt nghĩa:

– Tức là, bất kỳ loại công phu nào trên đời gặp phải lộ kiếm pháp này cũng sẽ như mãnh thú sa bẫy, không chìa nanh xòe vuốt gì được nữa.

Hồi tưởng cảnh Lương Tiêu và Vân Thù đấu kiếm, cuối cùng Lương Tiêu thắng, đồng nghĩa với việc lão sẽ không có cơ hội được ngó kiếm phổ nữa, Thích Thiên Phong cảm thấy đaư thương tột độ.

Phong Liên hừ mũí:

– Tôi chả tin, sư phụ tôi lợi hại lắm.

Thích Thiên Phong thở dài:

– Lương tiểu tử thì cố nhiên là lợi hại rồi. Cái thứ kiếm pháp hắn dùng để đánh bại Vân Thù quả thực thần diệu, lão phu chưa chắc đối phó được đâu.

Phong Liên cười cười:

– Được lắm, cuối cùng ông cũng đã thừa nhận là không địch nổi sư phụ tôi.

Mặt Thích Thiên Phong tím bầm lại, lão gắt:

– Ta thừa nhận thế bao giờ?

– Không thừa nhận thì thôi. Tóm lại, dù lông to hay nhỏ, dù đối phó hai người, sư phụ tôi cũng nhất quyết không thua.

Thích Thiên Phong lắc đầu:

– Khó nói đấy. Lộ kiếm pháp này biến hóa theo thái cực, không chỉ gói gọn trong con số hai đơn giản đâu. Theo ta, Thái ất phân quang kiếm có hai“hợp“. Một là kiếm hợp, tức là phối hợp về kiếm chiêu để biến hóa tinh diệu. Hai là khí hợp, cái này mới ghê. Ngươi xem đấy, lúc đầu nội lực của Hoa nha đầu cũng thường thôi, nhưng bây giờ còn hơn cả nhất lưu cao thủ, duyên do đều ở sự biến hóa của khí cơ. Nội công của nam và nữ vốn khác nhau, khi khí âm hòa quyện khí dương, thái cực sẽ sinh lưỡng nghi. Thực tế chỉ có hai người thôi, nhưng khi hai luồng khí hòa hợp, lưỡng nghi sẽ sinh tứ tượng, lúc ấy chiêu kiếm chứa đựng nội lực của bốn người rồi. Tiếp đến, tứ tượng lại sinh bát quái, tức thị một thân biến thành bốn, hai người mang sức lực của tám người đúng chưa? Nếu không ngăn cản được, để anh em chúng biến hóa tiếp từ bát quái thì vòng thái cực hỗn độn sẽ được khôi phục, lúc đó kiếm kinh trở nên mạnh đến mức chẳng ai trên đời địch nổi cả.

Phong Liên ngẩn ra một lúc lâu, mặt trắng bệch, cuối cùng cô hói rõ to, cố ý để Lương Tiêu nghe thấy:

– Thích đảo chủ, làm thế nào để ngăn cản họ biến ra cái vòng thái cực hỗn xược ấy?

Thích Thiên Phong nhổ toẹt một cái:

– Thái cực hỗn độn, không phải hỗn xược. Hừm, nếu lão phu biết cách phá giải thì Thái ất phân quang kiếm đã không được gọi là cái lông của võ học thiên hạ rồi.

Giọng lão bỗng nhuốm nỗi chưa chát.

– Càng nghĩ càng thấy gớm, chỉ có lão đồ gàn và Hoa Vô Xuy, một kẻ tim có tám lỗ, một kẻ tim có chín lỗ (Lấy ý từ tích Trụ Vương đòi moi tim Ti Can, vì cho rằng tim Tỉ Can như tim thánh nhân, có những bảy lỗ) mới nghĩ ra được thứ kiếm pháp quỷ nhập này.

Phong Liên càng nghe càng sợ. Bấy giờ Lương Tiêu chỉ còn đặt được một chân lên gờ lôi đài, tay vẫn múa tít trường kiếm. Hoa gia huynh muội tấn công rất ráo riết, không còn cả thời gian ngâm ca quyếtv nhưng bất luận họ tăng nhanh tốc độ đến đâu, trước sau cũng không ép Lương Tiêu ngã xuống nước được. Phong Liên tự nhủ: “Tây Côn Luân không thể thua, nhắt định sẽ nghĩ ra một cách diệu kỳ nào đó“. Đúng lúc ấy, Lương Tiêu bỗng bật tiếng hú dài, rung tay đâm liền mấy nhát kiếm, buộc huynh muội họ Hoa phải giật lui vài bước.

Thích Thiên Phong sửng sốt kêu lên:

– Phải! Lão phu tính sót một “hợp” rồi.

Phong Liên thấy Lương Tiêu đã tiến hành phản công, bèn tạm dời mắt, ngó sang Thích Thiên Phong:

– “Hợp” gì?

Thích Thiên Phong nói:

– Ý hợp. Hai người phải tương hợp về tâm ý mới phát huy được trọn vẹn uy lực của kiếm pháp. Khi còn ra chiêu trôi chảy thì huynh muội hắn vẫn đồng tâm hiệp lực được, nhưng hễ một bên vấp váp thì mỗi người lại bẻ theo một cách đối phó riêng nên thế trận nhìn chung hơi rối loạn.

Lương Tiêu đã chiếm ưu thế, Phong Liên vô cùng hoan hi, vỗ tay cười:

– Đúng rồi. Hạng bét tỉ thí chiêu thức, hạng hai tỉ thí võ công, còn cao thủ hạng nhất thì tì thí khí độ tấm lòng.

Cô lặp lại y hệt lời Lương Tiêu. Thích Thiên Phong nghe mà cảm thán: “Thật hiếm có! Tiểu nha đầu còn ít tuổi mà đã lĩnh hội được đạo lỷ ấy. Đúng vậy, võ công hạng nhất cũng cần một cao thủ hạng nhất mới được tận dụng hết ưu điểm“.

Lúc trước, Lương Tiêu bị Thái ất phân quang kiếm kiềm chế, nhưng gã không mảy may lo lắng, bởi tín chắc bất kể công phu gì, thi triển mãi thể nào cũng lộ ra chỗ lệch lạc, chỉ cần kiên nhẫn phòng thủ, đợi cho chỗ đó lộ ra là ổn. Y như rằng, đấu một lúc lâu, sự phối hợp của đối phương bắt đầu có dấu hiệu loạc choạc. Lương Tiêu lập tức thừa cơ xuất kiếm quấy loạn chiêu thức, khiến huynh muội họ Hoa chỉ luẩn quẩn ở mức lưỡng nghi sinh tứ tượng, không tài nào chuyển được sang giai đoạn tứ tượng sinh bát quái, nói gì đến trở về hỗn mang, kết thành một vòng thái cực. Tiến lui một hồi, kiếm pháp của huynh muội họ Hoa dần dần lộ ra nhiều chỗ lệch nhau. Lương Tiêu tấn công như vũ bão, khi đã cách xa mép đài, gã bỗng thét vang:

– Trúng! – đoạn hất mạnh Thiên Phạt kiếm.

Hoa Mộ Dung trúng đòn, trường kiếm tuột tay văng đi xa, Ngay lập tức một cái bóng nháng lên. Hoa Vô Xuy lạng tới bắt lấy trường kiếm, hô:

– Mộ Dung, tạm lui! – rồi lắc mình vượt qua con gái, tiến đến tiếp chiêu Lương Tiêu.

Mầu tử liên tâm, Thái ất phân quang kiếm lập tức tăng thêm uy lực. Lưỡng nghi mau chóng sinh tứ tượng, tứ tượng chuyển sinh bát quái, lại trấn áp kiếm quang của Lương Tiêu. Lương Tiêu đang tiến dần lên cảnh giới mới, tâm tư vô cùng sáng suốt, chỉ qua bảy tám chiêu đã nhận ra chỗ thiếu sót trong sự phối hợp của Hoa Vô Xuy và Hoa Thanh Uyên. Họ hiểu ý nhau và phối hợp rất nhịp nhàng, nhưng sai lầm chí mạng lại ở chỗ tính tình họ không tương đồng.

Hoa Vô Xuy bầm tính thận trọng thâm trầm, rất lắm tâm cơ, kiếm ỷ Hên miên bất tận nhưng vẫn luôn chừa dư lực. Hoa Thanh Uyên hồn hậu thung dung, tấn công như không tấn công, phòng thủ như không phòng thủ, tự nhiên đánh mất khí chất dữ dội cần có trên mỗi đường kiếm. Nhìn chung, kiếm pháp của hai mẹ con đều thiên về âm nhu, không có sự bổ sung lẫn nhau, thành thử cự địch thì thừa sức, nhưng không đủ để thủ thắng. Lương Tiêu nhận ra chỗ bất cập ấy, chỉ nhượng mấy chiêu là lập tức phản kích, mau chóng chém nát vòng thái cực kiếm do Hoa Vô Xuy và Hoa Thanh Uyên tạo nên, kéo họ trở về lối vận hành của bát quái.

Thích Thiên Phong thở dài:

– Có kiếm pháp tuyệt thế mà không phát huy nổi, trông mà ngứa ngáy.

Phong Liên đắc ý vô cùng, nở nụ cười tươi như hoa:

– Ngứa ngáy cái gì, tôi thấy thoải mái dễ chịu vô cùng.

Lúc này, ánh sáng trong núi đã thẫm lại. Mặt trời vừa xế bóng, gió tối hiu hiu ủi loang sóng trên mặt hồ. Bỗng đâu, phía thạch trận vẳng ra tiếng ngâm sang sảng:

Cứ mặc mưa rừng đập lá hoa,

Hãy thong thả bước, miệng ngâm nga,

Can trúc hài rơm hơn vó ngựa,

Nào sợ?

Áo tơi che đỡ kiếp phong ba,

Giã rượu, gió xuân hây hẩy lạ,

Hơi giá.

Sau mưa đầu núi ánh chiều tà,

Ngó lại những nơi vừa tầm tã,

Về đã,

Chẳng còn nắng rạng chẳng mưa sa (Bài từ theo điệu Định phong ba của Tô Đông Pha)
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 86: Nhất Kiếm Hoành Thiên

Ai nấy ngoái cổ nhìn.

Một người đầu đội nón tre, mình vận bộ áo tơi tả, đủng đỉnh đi ra khỏi thạch trận. Thấy có kẻ lạ mặt vượt qua được Lưỡng nghi ảo trần trận, chúng nhân Thiên Cơ cung thảy đều thảng thốt. Tần Bá Phù quát:

– Kẻ nào kia? Sao dám tự tiện xông vào cung?

Người nọ cười:

– Đừng hung hăng thế! Ta vui chân đi ngắm nghía vài ba chỗ thôi mà.

Vân Thù nghe giọng quen tai, bật thốt:

– Sư phụ!

Người nọ cười khẽ, gỡ cái nón xuống, phô ra khuôn mặt sáng sủa tiêu sái, râu đen mày dài. Chính là Công Dương Vũ chứ nào phải ai xa. Tần Bá Phù vỡ lẽ: “Hóa ra là Công Dương tiên sinh, chảng trách vượt qua thạch trận dễ dàng đến vậy. Lạ một nỗi là không hề thấy ông ấy băng qua hồ, làm cách nào mà đi từ trong cung ra được nhỉ?“.

Vân Thù tiến tới, quỳ một gối xuống làm lễ:

– Sư phụ! Con nhớ người quá…

Hai thầy trò cách biệt hơn mười năm mới gặp lại, Vân Thù không sao nén được mừng tủi, chưa dứt câu giọng đã nghẹn ngào. Công Dương Vũ cau mày, lắc đầu bảo:

– Vẫn cái thói ủy mị!

Vân Thù đành nén nỗi xúc động, thưa lên:

– Vì sao sư phụ lại đến đây?

Công Dương Vũ nhìn trời:

– Đến để giúp ngươi giải quyết việc hôm nay. Ta mà không đến, mình ngươi thu xếp nổi không?

Vân Thù hổ thẹn, mặt đỏ dừ. Hoa Mộ Dung, từ lúc nhìn thấy Công Dương Vũ đã xốn xang trong dạ, bấy giờ bước tới kêu khẽ:

– Cha, cha đấy ư?

Công Dương Vũ gật gật đầu, thở dài:

– Mộ Dung, con vẫn khỏe chứ?

Hoa Mộ Dung đăm đăm nhìn cha, tay vò vò chéo áo, chẳng nói chẳng rằng.

Số là, tin Lương Tiêu tái xuất Trung nguyên đã truyền đi khắp mọi ngóc ngách giang hồ, vô tình lọt đến tai Công Dương Vũ. Dù từ bỏ gia đình phiêu bạt đã lâu, nhưng biết cháu đích tôn rơi vào tay Lương Tiêu, Công Dương Vũ cũng không nén nổi bổn chèn lo lắng, bèn vội vã trở về. Chỉ hiềm không muốn để Thiên Cơ cung phát giác, ông đợi đêm xuống mới lẻn vào, náu mình trong Lưỡng nghi ảo trần trận.

Xa chốn cũ bấy nay, trông thạch trận chợt thấy u hoài, nhân lúc chúng nhân Thiên Cơ cung ra ngoài hồ đợi Lương Tiêu, Công Dương Vũ bèn vào cung dạo khắp.

về nơi ở xưa, ông bỗng hồi tưởng bao nhiêu kỷ niệm, càng ngắm cảnh vật thân thương lòng càng nao nao ngậm ngùi. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng ông cũng tới thư phòng trước đây. Lối trần thiết vẫn như ngày nào, bút nghiên còn nguyên, sách vở ưa thích chưa hề suy suyển; bàn ghế giường tủ vô cùng sạch sẽ, hiển nhiên được quét dọn thường xuyên; những câu đối cùng thi từ tập viết thời trẻ vẫn sắc nét như mới, tựa hồ chẳng vương dấu ấn thời gian. Công Dương Vũ dạo quanh một lượt mà ngơ ngẩn thần hồn, phải vào rừng tìm chỗ khuất để ngồi tĩnh tâm.

Bao nhiêu năm nay, ông lang thang khắp nơi cùng chốn mà không tìm ra tung tích Liễu Tình. Ngày tháng phôi pha, tuổi già tìm đến, những say đắm nồng nàn thuở xưa cũng lần lần phải lạt. Lúc này tĩnh tọa, thả mình vào mặc tưởng trầm tư, Công Dương Vũ mới bàng hoàng nhận ra, cả một đời tự do bất cần, ông đã bỏ phí tài năng, tung hê trách nhiệm với gia đình, dẫu có cố gắng hết những tháng ngày còn lại cũng không đủ bù đắp lỗi lầm, chưa chừng sẽ phải mang nỗi tiếc hận này theo giấc ngủ ngàn thu. Ý nghĩ ấy làm lòng ông tràn ngập nỗi bi thương. Bần thần mãi, thời gian trôi đi mà không hay biết, khi ngẩng đầu lên thì đã hoàng hôn, Công Dương Vũ nghĩ rằng Thiên Cơ cung người đông thế mạnh hôm nay dốc hết cao thủ ra rồi, chắc tình hình cũng chẳng có gì đáng ngại, vì thế ông còn trùng trình hồi lâu mới đứng lên, chậm rãi đi về phía thạch trận. Ông nhô ra đúng lúc Hoa Vô Xuy và Hoa Thanh Uyên đang liên thủ đối địch.

Thầy trò cha con chào hỏi xong, Công Dương Vũ ngoảnh sang bãi đấu, bất giác phải cau mày trước kiếm pháp tinh diệu của Lương Tiêu. Thích Thiên Phong gọi rối rít:

– Lão đồ gàn, ngươi đến đứng lức quá, lão phu trèo đèo lội suối tìm ngươi bấy nay chẳng gặp. Người đời nói chẳng sai: chốn ước mơ lắc lơ mà hỏng, nơi tình cờ lại đóng nhân duyên. Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, chúng ta quá chiêu chút nào!

Công Dương Vũ hừ một tiếng, vẫn nhìn chăm chăm vào đấu trường, không buồn để ý đến họ Thích. Thích Thiên. Phong sốt ruột dợm bước, Lăng Thủy Nguyệt vội níu lão lại:

– Công Dương tiên sinh còn có việc hệ trọng, ông đừng làm phiền người ta.

Thích Thiên Phong cãi:

– Trao đổi vỗ học cũng là việc hệ trọng.

Lăng Thủy Nguyệt sa sầm nét mặt, trừng mắt giận dữ’ Thích Thiên Phong lập tức nhũn như con chi chi, lặng lẽ lùi lại bên cạnh bà.

Công Dương Vũ xuất hiện, Hoa Vô Xuy và Hoa Thanh Uyên tự 358

nhiên bối rối, kiếm pháp bỗng lộ ra nhiều chỗ sơ hở. Lương Tiêu tuy lo lắng vì lại thêm một địch thủ ghê gớm nữa, nhưng vẫn không quên tận dụng nhược điểm của đối phương, Gã đột ngột thi triển lộ kiếm pháp Hỗn thiên tam huyền, Thiên Phạt kiếm mở hết khẩu độ tấn công, đường kiếm lay láy đan dày vạch ra những vòng tròn thật lởn. Lương Tiêu vừa thần tốc khoa kiếm vừa nhanh tay điểm xuyết những đòn đâm thẳng chém xéo, mau chóng đầy lui hai địch thủ. Công Dương Vũ theo dõi đến đây thì tiến lên, phất tay áo gạt Hoa Thanh Uyên ra, thở dài nói:

– Nhường ta trận này.

Hoa Thanh Uyên không dám trái lời, cúi đầu lùi xuống.

Phong Liên bất bình la lối:

– Trơ trẽn chưa! Nhai nhải cái mồm là đơn đả độc đấu mà toàn hai đánh một, bây giờ lại xa luân chiến,,.

Cô còn định nhiếc móc nữa, nhưng chợt im bặt khi Công Dương Vũ vẫy tay áo thả ra một áng mây xanh hào quang lóng lánh. Định thần nhìn kỹ thì thấy đó là một thanh bảo kiếm, cô giật mình gọi Lương Tiêu:

– Sư phụ ơi! Đấy chính là Thanh Li kiếm. Kiếm mới đã đúc, kiếm cũ phải tan. Mau chặt gãy nó đi!

Từ nhỏ, Phong Liên đã nghe tổ phụ mô tả hình dáng Thanh Li kiếm, vì vậy vừa trông thấy là nhận ra ngay. Lương Tiêu nghe cô nhắc, cũng sực nhớ lại lời Âu Long Tử. Đúc một kiếm, chặt một kiếm là quy tắc của tộc Tinh Tuyệt và cũng là lời hứa của người giữ kiếm, gã không ngần ngừ nữa, vụt phóng mạnh hai nhát kiếm vào Hoa Vô Xuy. Công Dương Vũ liền huy kiếm tới cứu, Lương Tiêu lập tức chuyển mũi tấn công. Thiên Phạt nháy lên sắc tím, cuộn lấy Thanh Li, hai kiếm tương giao, chỉ nghe “tinh” một tiếng lanh lảnh, kiếm của Công Dương Vũ đã cụt mất ba tấc.

Thanh Li kiếm sắc bén nhất thiên hạ, ngờ đâu vừa chạm chiêu là bị chặt đứt, Công Dương Vũ không khỏi kinh hải, nhưng mau chóng hiểu ra:

– Đây là thanh kiếm mới rèn của Âu Long Tử phải không?

– Đúng vậy, – Lương Tiêu đáp.

Miệng nói, tay họ vẫn liên tục phóng kiếm tấn công, nhưng lúc này Công Dương Vũ đã hết sức dè dặt. Thanh Li uốn lượn như con rắn, gắng né tránh mọi đụng chạm với Thiên Phạt. Ông già vừa khéo léo lách kiếm vừa hỏi:

– Âu Long Tử vẫn khỏe chứ?

Phong Liên trông thấy Thanh Li, biết Công Dương Vũ chính là người giữ kiếm tiền nhiệm, trong lòng liền sinh niềm kính trọng. Nghe ông hỏi, cô ứa nước mắt đáp:

– Ông tôi đem thân mình ra đúc kiếm, đã qua đời nhiều năm rồi.

Công Dương Vũ lướt lại sau mấy thước, đưa mắt ngắm kỹ Phong Liên:

– Ngươi là cháu gái Âu Long Tử?

Phong Liên gật đầu. Công Dương Vũ đã lui xuống, Hoa Vô Xuy chỉ còn một mình cũng khó chống đỡ, bèn lùi về bên ông. Công Dương Vũ im lặng chốc lát, đoạn hỏi Lương Tiêu:

– Kiếm mới ấy tên là gì?

– Thiên Phạt, – Lương Tiêu đáp.

Công Dương Vũ tư lự ngửa mặt lên trời:

– Âu huynh nhân hậu rộng rãi, thật đáng kính đáng trọng. Nhưng ta không lý giải nổi tại sao ông ấy lại gửi gắm một thanh kiếm như thế cho ngươi.

Thoáng chế giễu lướt qua môi ông.

– Thiên Phạt, Thiên Phạt! Thay trời trừng phạt, không hiểu ý của Âu huynh là bảo ngươi phạt người hay phạt chính bản thân ngươi.

Lương Tiêu trầm ngâm:

– Vừa sửa trị bản thân, vừa sửa trị người đời.

Công Dương Vũ cười:

– Đối đáp khá lắm.

Ông đưa mắt ra dấu cho Hoa Vô Xuy. Hai người đều thầm hiểu, Lương Tiêu đã có kiếm pháp thần thông, nay lại được vũ trang bằng thanh kiếm uy lực vô song tuyệt thế, khác nào hổ mọc thêm cánh, nếu để gã chạy mất thì hậu họa thực khó lường. Dù oán hận nhau đã nửa đời người, nhưng vì chung đại địch, lại cùng biết cân nhắc nặng nhẹ, hai vợ chông bỗng thành nhất chí đồng tâm. Công Dương Vũ ngâm:

– Trời trong đắt đục.

Hoa Vô Xuy hòa theo:

– Càn khôn định rồi.

Cả hai sát cánh phóng kiếm, đâm thẳng vào Lương Tiêu.

Lương Tiêu chẳng còn lựa chọn nào khác, đành vung kiếm chống đỡ, nhưng mới đỡ được vàí chiêu đã cảm thấy có phần khó khăn, bởi đôi oán lữ này phối hợp với nhau làm uy lực kiếm pháp tăng lên mạnh mẽ quá sức tưởng tượng. Họ đâm liên tiếp mười mấy nhát, Lương Tiêu vẫn không phản kích nổi một chiêu, trong lòng kinh hoàng khôn tả.

Nhưng gã không biết rằng chính Hoa Vô Xuy và Công Dương Vũ cũng đang lấy làm lạ. Đã mấy chục năm rồi họ không cùng luyện kiếm pháp, ngờ đâu đến nay song kiếm hợp bích vẫn thấu hiểu ý nhau, phối hợp nhịp nhàng đến thế, so với khi xưa còn có phần hòa quyện hơn.

Lương Tiêu vừa lùi tránh vừa lặng lẽ tìm chỗ lệch cựa giữa hai người, nhưng hoàn toàn vô ích, bởi chiêu thức của họ biến hóa hết sức tương đồng, không mảy may vấp váp, đủ thấy thần khí tương giao cao độ. Công Dương Vũ càng đấu càng hào hứng, tưởng như được quay lại thời trẻ, cái thời cùng Hoa Vô Xuy nổi thơ họa đàn, đồng tâm đồng ý sáng tạo ra kiếm pháp chung.

Ký ức hiện lên tươi mới đến mức Công Dương Vũ không nhịn được phải liếc sang thể tử, tâm tư cảm khái muôn phần: “Chẳng ngờ còn có ngày hai ta liên thủ đối địch, mà lại hòa hợp thế này!”.

Bắt gặp ánh mắt ông, Hoa Vô Xuy hiểu ngay cơn cớ, nỗi chua xót trào lên trong dạ. Không hiểu vì sao, con người này đối xử với bà tuyệt tình nhường ấy mà bà vẫn khó lòng quên được ông ta, vẫn nâng niu từng kỷ niệm, từng bài từ câu đối ông viết, ngay cả thư phòng cũng giữ nguyên lối trang hoàng xưa, mỗi ngày bà đều đến đó ngồi một lúc lâu, buồn rầu suy niệm hồi ức.

Đôi khi choàng tỉnh giữa đêm, bà bàng hoàng nhận ra trái tim mình vẫn ấp ủ hình ảnh người đàn ông ấy, không tài nào dứt bỏ được, thế là lại ngồi ngẩn ngơ, chẳng phân định nổi rốt cực mình yêu hay hận. Ngày lại ngày, yêu hận đan xen và mâu thuẫn nhau dằn vặt bà khốn khổ. Đang miên man suy nghĩ, chợt nghe Công Dương Vũ hô: “Sấm gió sóng đôi”, Hoa Vô Xuy vẫn bồi hồi với ký ức, bèn vô thức phụ họa:

– Hỏa băng cùng nổi.

Tứ tượng bắt đầu biến đổi, bát quái tan hòa vào nhau, kiếm pháp càng thêm sắc bén dữ dội.

Lương Tiêu không nén nổi thắc mắc: “Cặp phu phụ này chất chứa bao nhiêu ân oán, lẽ ra phải mỗi người một bụng mới đúng, tại sao họ thi triển được thứ kiếm pháp song đấu hoàn hảo nhường kia?“. Tiếng thét của Công Dương Vũ cắt ngang dòng suy tưởng của gã:

– Âm dương trao đổi.

Hoa Vô Xuy tiếp lời:

– Thái cực thành hình (Bốn câu này trích trong Thuyết quái truyện Kinh Dịch, tả sự hòa hợp của những yếu tố trái ngược.)

Kiếm pháp xoáy tròn, vòng kiếm thái cực cuối cùng đã xuất hiện. Lương Tiêu như lá thuyền nhỏ giữa ba đào, chỉ còn cách vật lộn để chống đỡ.

Theo dõi đến đây, Hoa Thanh Uyên rưng rưng nước mắt. Y ngoái lại, thấy Hoa Mộ Dung sa lệ, biết rằng muội tử cũng chung một suy nghĩ như mình, bèn nắm tay nàng kéo vào lòng. Hoa Mộ Dung bật khóc thành tiếng, bờ vai run run. Từ nhỏ, huynh muội họ đã luôn ao ước cha mẹ quay lại hòa thuận với nhau, chẳng ngờ lại được như nguyện trong tình cảnh này. Do hiểu rất rõ nguyên lý đấu kiếm, họ biết rằng khi thi triển Thái ất phần quang, tâm hồn phải hòa hợp thì mới mong đạt tới bước Thái cực thành hình. Hoa Thanh Uyên tự nhủ: “Nếu không có Lương Tiêu, e rằng chẳng bao giờ có ngày hôm nay. ơn ấy và lỗi xưa, thật khó cân đong biết mấy!“. Niềm cảm kích bỗng trào lên trong lòng, y gọi lớn:

– Cha, mẹ! Bắt Lương Tiêu hàng phục là cùng thôi, đừng làm hại đến tính mạng hắn.

Công Dương Vũ mỉm cười:

– Nghe được đấy! Lương Tiêu, ngươi có nhận thua không?

Lương Tiêu đang lâm vào cảnh khốn đốn, chỉ riêng luồng kiếm phong rát mặt của hai người đã khiến gã ngạt thở, chưa kể kiếm ý mạnh mẽ dõi dào, nhưng nghe thấy lời nói đó, ngạo khí liền bốc ngùn ngụt như lửa: “Lương Tiêu này thà chết chứ chẳng đời nào để người khác thương hại. Cho dù có phải đối đầu với cả thiên hạ, ta cũng không sợ“. Gã vụt lạng mình chạy ào về phía vách đá. Phu phụ Công Dương Vũ vốn đã tập trung toàn bộ tinh thần theo dõi nhất cử nhất động của Lương Tiêu, gã vừa di chuyển, hai thanh kiếm của họ cũng bám sát theo sau như nam châm.

Lao đến dưới hàng chữ “Người triết đã mất, khó tin lời lạ, chớ nghe thuật số chiêm tình”, Lương Tiêu lập tức phi thân lên chữ “tinh”, dừng ở nét ngang trên cùng, chân giẫm chắc vào gờ đá, trỏ chếch kiếm lên trời, hô lớn:

– Một kiếm tinh hà phải nát hết.

Quần hào đều giật thót. Lương Tĩêu nói vậy, rõ ràng là tự tôn mình lên bậc vô địch thiên hạ, ai nghe cũng uất ức, nhưng chẳng biết nên phản bác thế nào. Công Dương Vũ thấy Lương Tiêu tự nhiên nhảy tót lên cao rồi buông lời khiêu chiến, đoán rằng gã muốn tận dụng địa hình lạ để thủ thắng, bèn cười bảo:

– Rõ là ba hoa bốc phét…

-… một tấc đến giới, – Hoa Vô Xuy lạnh lùng tiếp lời.

Tựa bóng theo hình, hai thanh trường kiếm như hợp làm một, lao qua không trung phóng thẳng tới vách đá. Lương Tiêu gắng chống đỡ được hai hiệp rồi lùi lên chữ “chiêm“. Công Dương Vũ xuất phát sau mà tới trước, đã chiếm lấy góc ngoài nét ngang của chữ này, cười lớn:

– Vương đồ bá nghiệp tựa chiêm bao.

Lương Tiêu vừa đấu vừa lùi vào góc trong nét ngang, Hoa Vô Xuy thì chiếm lấy bộ “khẩu” bên dưới của chữ “chiêm“. Mỗi người một vị trí, đấu thêm mấy hiệp, Lương Tiêu dần dần không đỡ nổi, lại tung mình nhảy lên chữ “số”, thét vang:

– Chết cười mệnh số, người còn khóc.

Công Dương Vũ chìa Thanh Li xuống gảy kiếm của Hoa Vô Xuy. Hoa Vô Xuy mượn lực bật lên như cánh én, lượn một đường cong trên nền vách đá, bay vượt qua Lương Tiêu rồi đáp lại chữ “thuật” bên trên, vừa xả kiếm xuống vừa quát lớn:

– Rút lui không lối giở thuật nào.

Công Dương Vũ chém ngược kiếm lên, tạo thế hợp kích trên dưới với Hoa Vô Xuy, dồn Lương Tiêu vào bước “rút lui không lối“. Lương Tiêu đành điểm kiếm xuống chữ“số”, bắt chước Hoa Vô Xuy lướt ngược vách đá vòng lên chữ “nghe”, chiếm lấy địa lợi:

Thích Thiên Phong vẫn tập trung tinh thần theo dõi trận chiến, không bỏ sót một câu đối đáp nào của ba người kia, đến đây bỗng cau mày làu bàu:

– Lương tiểu tử nói thối rinh. Chết cười mệnh số, người còn khóc là thế quái nào? Kẻ chết phải khóc mới đúng chứ!

Phong Liên định giải thích, nhưng không biết giải thích ra sao. Hoa Kính Viên im lặng nãy giờ, lúc ấy mới lên tiếng:

– Ông đã không hiểu thì đừng chê bai lung tung. Câu ấy có nghĩa là:“Chết, trên chẳng còn vua, dưới chẳng còn quan, không phải lo việc tháng năm, thong dong nhàn nhã, tiêu dao cùng trời đất. Dẫu được làm vương ở phương nam thì cũng chỉ sướng đến thế mà thôi“.

Thích Thiên Phong cau mày:

– Lộn xộn quá, chẳng còn vua rồi lại làm vương là sao?

Hoa Kính Viên cắt nghĩa:

– Lời Trang Tử đấy ạ, tức là: chết đi không còn phân biệt giai tầng, không còn mối lo già yếu, đến hoàng đế cũng chẳng được sung sướng thảnh thơi như vậy. Nhưng sống thì phải bôn ba lo toan, ngày xuân tiếc ngắn, ngày đông than dài, sớm hôm oán trách đất trời, làm sao thư thái bằng người chết kia?

Thích Thiên Phong hừ mũi:

– Thần kinh à! Tiểu tử nhà ngươi học đâu ra lối lý luận méo mó đến thế? Sống để học võ đánh nhau, để uống rượu xướng ca, thực là khoái lạc. Còn định cãi hử, ngươi bảo tên người chết nào đến đối chất với lão phu xem!

Hoa Kính Viên cười nhạt:

– Được, vậy con hỏi ông, nếu ông không học được võ nghệ, không đánh nổi kẻ khác thì ông có khoái lạc nữa không?

Thích Thiên Phong thừ ngựời, ngẫm lại mình cả đời học võ, lúc bản lĩnh còn non, không thắng nổi người khác thì luôn luôn tủi hổ lo âu; đến khi võ công cao cường, phát giác ra trên mình vẫn còn cao nhân thì đố kỵ khôn nguôi; suy cho cùng, dẫu tu luyện tới mức vô địch thiên hạ cũng sẽ thấy cô độc buồn chán vì không có ai để đổi trao học hỏi. Quan điểm lúc trước bắt đầu lung lay, Thích Thiên Phong nhìn Hoa Kính Viên, ngạc nhiên tự nhủ: “Chà, mới tí tuổi đầu mà hiểu được lý lẽ cao diệu nhường này, lạ thật!”, Lão nhìn Hoa Kính Viên, nhưng Hoa Kính viên lại mải nhìn Phong Liên. Cô gái đang bần thần: “Tây Côn Luân buông ra những lời sao mà yếm thế, chắc là do Sương cô nương đi rồi, lòng chàng đã nguội lạnh, cảm thấy sống không bằng chết. Hôm nay nếu thoát thân được, phải nghĩ cách nào để đả thông tư tưởng cho chàng đây?“. Cô chìm đắm trong suy tư, hoàn toàn không nhận ra cậu bé bên cạnh đã chảy nước mắt.

Trong lúc đó, ba người trên vách đá liên tục giẫm lên gờ các chữ, nhảy mỗi lúc một cao hơn. Dưới chân họ, các nét ngang, sổ, móc, phẩy, chấm, mác… đều biến thành chiến trường. Vách đá vươn cao đến nghìn thước, khiến đám đông phải ngửa hẳn cổ ra mới trông thấy. Ba người leo mãi, thân hình trông nhỏ dần, mỗi lần tạm dừng ở chữ nào, họ lại cất tiếng ngâm nga, lông chữ đó vào câu thơ của mình. Hơn mười câu qua đi, ba bóng người trên vách đá chỉ còn là ba chấm nhỏ mờ di động, trông như thể đang đấu trên mây, Giả Tú Tài sinh cảm khái, thở dài mà rằng:

– Trì lão đại! Một trận luận kiếm hùng tráng thế này, tiểu đệ không những chưa từng được chứng kiến, mà e rằng mai sau cũng chẳng bao giờ gặp nữa.

Trì Tiễn Ngư gật đầu:

– Tam đệ nói phải, xét về võ công thì hai đằng địch ta đều đã thuộc hạng quán tuyệt cổ kim, quả thực là kiệt xuất.

Những người khác không nói thành lời, nhưng nghe vậy đều gật đầu.

Lương Tiêu sử hết chiêu số, nhảy lên được chữ “người” trong bốn chữ “Người triết đã mất”, coi như đã hết cơ hội để tận dụng, vách đá trơn nhẵn không chỗ đặt chân, cũng chẳng còn chữ nào mà di chuyển tới nữa, gã đành hô: “Dựng cao ngọn cờ đầu mây trắng”, để báo rõ hành động, đoạn buông mình rơi dọc xuống vách núi, tay áo đón gió lạnh phòng căng như lá cờ lớn bay phần phật. Trong lúc lao xuống, thi thoảng gã đập kiếm lên các gờ đá, mượn vật cản để giảm đã lao. Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy cũng nhất tề lao theo. Giữa lưng chừng không, họ gõ trưởng kiếm vào nhau để giảm nhẹ lực rơi, nhờ đó xuống gần mặt hồ, lực rơi đã tiêu biến hết nên không làm gợn lên một chút sóng nào. Quần hùng trông ra, thấy Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy đã tiếp nước mà chưa chìm xuống, vẫn nổi hẳn trên mặt hồ thì rất lấy làm lạ, nhìn kỹ lại mới biết họ đã giẫm lên hai trong số các nan đồng truyền 366

động nổi giữa ba bánh xe Thiên Cơ và Lưỡng nghi ảo trần trận. Những nan đồng này nằm ẩn dưới làn nước, số lưạng phải đến hàng trăm hàng ngàn, lên xuống nổi nhau như đàn giao long, Khác với Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy, Lương Tiêu không được ai hỗ trợ về khí cơ và tốc độ nên xuất phát trước mà tới điểm sau. Khi gã gần tiếp nước, hai thanh kiếm của đối phương đã rung rung chờ sẵn để đâm ngược lên. Lương Tiêu không đỡ được, đành lắc mình hạ xuống một nan đồng khác để nó đưa lùi vào dưới bánh xe Thiên Toàn, đoạn gã chuyển chân sang bánh xe, theo vành xoay chuyền lên chỗ cao, cười lớn:

– Hai vị tiền bối, có muốn lên đây dạy bảo vãn bối không?

Ba bánh xe Thiên Cơ là nguồn gốc cho mọi cơ chế vận động trong cung, nằm ngay dưới luồng thác đổ nền quay tròn quanh năm. Lương Tiêu muốn dụ phu phụ Công Dương Vũ vào theo, cốt tận dụng sự chuyển động của bánh xe làm rối loạn kiếm pháp của họ.

Công Dương Vũ đoán ngay ra ý gâ, nghĩ thầm: “Tiểu tử này vỗ công lợi hại mà bụng dạ cũng lắm mưu mô“. Ông vuốt râu cười bảo:

– Đề bài thú vị thật, nếu lão phu không nhận lời thách thức thì e rằng sẽ làm mọi người cụt hứng mất!

Dứt lời, ông nắm tay Hoa Vô Xuy, sánh vai bà bay lên bánh xe Thiên Toàn, tiếp tục đấu với Lương Tiêu, Phu phụ họ vận động đã khá lâu, nhưng nhờ âm dương tương giao nên khí cơ hồi chuyển, chẳng những không mệt mỏi mà còn dai sức hơn hẳn bình thường. Mấy bánh xe khổng lồ này đều là kỳ vật của nhân gian, ba người vừa chạy trên bánh xe vừa giao chiến, cảnh tượng đã đủ lạ lùng, lại thêm sự chuyển động vòng tròn liên tục khiến chiêu số của họ càng tăng thêm nhiều biến hóa. Quần hào bên dưới chưa gặp cành ấy bao giờ, trong lòng mỗi người, sự tò mò háo hức lại xen lẫn nỗi thấp thôm về kết quả cuối cùng. Huynh muội họ Hoa thì hết sức buồn rầu:“Lương Tiêu tận dụng địa thế lạ để kéo dài trận đấu, cho dù kiếm pháp của song thân có thần diệu đến đâu, nhưng hai vị tuổi tác đã cao, ngộ nhỡ có mệnh hệ gì thì chẳng phải huynh muội chúng ta sẽ hối hận cả đời hay sao?“.

Riêng Phong Liên là theo dõi với nét mặt bình thản. Hoa Kính Viên rất thắc mắc, hồi lâu không nhịn được phải hỏi:

– Thư thư không lo lắng cho sư phụ mình à?

Phong Liên chẳng nói chẳng rằng bụng bảo dạ: “Tây Côn Luân võ công cái thế, túc trí đa mưu, tình huống hung hiểm thế nào cũng tìm ra cách ứng phó. Chẳng may chàng không chiến thắng được mà phải chết thì ta sẽ đi theo, cũng không đến nỗi để chàng hiu quạnh lạnh lẽo trên đường xuống hoàng tuyền“. Tầm ý đã định, cô đăm đăm nhìn theo Lương Tiêu, mắt môi vương nét cười dịu dàng.

Ba vầng kiếm quang cứ cuộn vào tở ra, từ bánh xe Thiên Toàn cuốn sang Thiên Xu ở giữa, rồi từ Thiên Xu lại cuốn sang Thiên Cơ. Lương Tiêu dần cảm thấy bất lực. Cho dù bánh xe xoay chuyển thế nào hay dòng thác đổ xuống ra sao, kiếm pháp của Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy vẫn nhịp nhàng tự nhiên, chẳng có kẽ hở nào cho gã tận dụng. Điều khiến Lương Tiêu kinh hãi nhất là sức bền của phu phụ họ. Gã đang độ tuổi tráng niên, khí huyết đương căng đã đành, nhưng hai vị lão nhân kia đã bước vào lửa tuổi cổ lai hi, đấu lâu như thế mà vẫn khỏe khoắn sung sức, di chuyển ung dung, chẳng hề lộ dấu hiệu mệt mỏi. Lương Tiêu khổ đấu nửa ngày trời, tại gập toàn phải hạng cao thủ đương thế, đến lúc này, nội lực vẫn chuyển chậm dần, gã bắt đầu cảm thấy uể oải, nghĩ mà chán nản: “Ta đã lực cùng trí tận rồi, trên đời có thứ công phu lợi hại thế kia, đúng là chẳng còn gì để nói. Vả chăng, kiếm pháp đã lợi hại lại do hai người hợp đấu, còn ta chi có một mình với thanh kiếm, không hề được hỗ trợ, gắng sức chống đỡ đến tận lúc này chắc cũng không ai dám khinh thường ta nhát gan hèn yếu“. Nghĩ đến đây, một tia sáng bỗng xẹt qua trí, Lương Tiêu lẩm bẩm: “Trường kiếm sờ sờ trong tay, đâu thể nói là không được hỗ trợ!“.

Công Dương Vũ thấy môi Lương Tiêu máy động, nhưng không nghe rõ được gã nói gì vì thác réo ào ào bên cạnh đã nhấn chìm mọi âm thanh khác. Ông đấu với Lương Tiêu đến lúc này, lòng mến tài đã mạnh hơn hẳn mối hận nước non, lại nghĩ tài trí vỗ cống Lương Tiêu thừa sớc nức danh thiên cổ, nếu giết chết một kỳ nhân như thế thì quả thực đáng tiếc, vì vậy dẫu chiếm thế thượng phong, ông vẫn không ra đòn sát thủ. Nhân thấy Lương Tiêu máy môi, Công Dương Vũ bèn hỏi:

– Lương Tiêu, ngươi muốn nhận thua phải không? Ngươi chỉ cần buông kiếm, chúng ta tự khắc ngừng tay ở đây.

Ông phổ nội lực vào giọng nói cho át tiếng thác đổ, Hoa Vô Xuy nghe vậy cũng thầm tán thành, bởi chưng bà vốn không có thù hằn ghê gớm gì với Lương Tiêu, chẳng qua vì thanh danh và đại nghĩa mà bất đắc dĩ phải ra ứng chiến.

Chẳng ngờ Lương Tiêu như trúng tà, nghe mà như không biết,, vẫn múa kiếm đâm đỡ chém né. Công Dương Vũ trông động tác cổ quái, rất lấy làm lạ, bèn nhắc lại câu hỏi. Lương Tiêu vẫn không đáp lời. Công Dương Vũ bực quá, nghĩ bụng: “Hôm nay dứt khoát phải khuất phục được tiểu tử này, bằng không chẳng thể nào kết thúc được mọi sự“. Hoa Vô Xuy cùng chung ý nghĩ, không ai bảo ai, phu phụ họ đồng thời xuất kiếm, một trên, một dưới, Ểp sát thân kiếm Thiên Phạt rồi dồn sức vặn xoáy, tìm cách giật trường kiếm khỏi tay Lương Tiêu. Phong Liên lo cuống, chưa kịp kêu lên thì Lương Tiêu đã nhẹ nhàng thả người xoay theo Thiên Phạt kiếm, không chỉ tiêu trừ được kình lực đối phương mà còn dễ dàng lách qua khe kiếm của Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy, đoạn trở kiếm đâm thẳng, buộc phu phụ Công Dương Vũ phải tách lìa.

Chỉ ra một chiêu mà đắc thủ Lương Tiêu đã hiểu rõ: “Thiên Phạt kiếm là thần linh của người Tinh Tuyệt, mang trong mình tính mệnh của hai đời kiếm sư. Vừa rồi, rõ ràng là phụ tử Âu Long Tử đã sát cánh cùng ta tác chiến. Nếu ta cư xử với Thiên Phạt kiếm như với một binh khí thì khác nào ngược đãi thiên vật, bất kính với hai bậc tiền bối“. Thông tỏ mấu chốt, gã bèn lặng lẽ khấn thầm: “Âu đại sư, Thiết Triết đại sư, hai vị trên trời có linh, mong hãy giúp Lương Tiêu đầy lui cưởng địch“.

Khấn xong, gã cao giọng:

– Thái ất phân quang kiếm đã là gì? Hãy xem tuyệt kỹ Nhân kiếm tương ngự của ta đây!

Tiếng nói lao đi trên mặt hồ, đập vào các vách đá làm cả sơn cốc vọng lại âm âm. Lương Tiêu dứt lời là lập tức phóng chếch trường kiếm sang mé trái, Công Dương Vũ khoa kiếm chặn lại, Hoa Vô Xuy đâm xéo vào huyệt Phục thố ở đầu gối Lương Tiêu. Nào ngờ trường kiếm của Lương Tiêu vừa đâm ra, thân hình gã cũng thốc lên cao như bị cuồng phong thôi. Gã lướt sang phải tránh đòn, đồng thời phất một chưởng vào thẳng mặt Hoa Vô Xuy. Thật sự không xác định nổi Lương Tiêu khiển kiếm, hay Thiên Phạt kiếm dẫn động Lương Tiêu nữa.

Hoa Vô Xuy vẫn điềm tĩnh như không, trường kiếm đâm vòng từ dưới lên, rạch vào cổ tay đối phương. Song khi Lương Tiêu xuất chưởng, Thiên Phạt kiếm đã bị kéo theo, nay lại bật trở về như một tia chớp, chém vù xuống trường kiếm của Hoa Vô Xuy. Dẫu có mười thanh bảo kiếm nữa trong tay, Hoa Vô Xuy cũng không dám đón đỡ trực tiếp kiếm thần Thiên Phạt, thấy vậy đành tung mình nhảy về sau. Lương Tiêu không truy cản, thanh kiếm thuận thế rẽ hướng, công kích Công Dương Vũ. Ông già sợ làm hỏng sự kết hợp hài hòa giữa song kiếm của hai vợ chông nên cũng không dám trì đấu, bòn lùi lại theo Hoa Vô Xuy. Chỉ một chiêu mà đầy lui được cả hai cường địch, Lương Tiêu liền tiến thêm một bước, lặp lại cách thức đó, lúc thì gã sai khiến Thiên Phạt kiếm, lúc thì chính thanh kiếm lại trở thành chủ nhân, biến Lương Tiêu thành binh khí dưới sự điều khiển của nó. Đấu tới lúc xuất thần, có lúc trường kiếm còn tuột khỏi tay Lương Tiêu, kiếm như phi xà bay lượn, người như mây trắng cuộn trôi, người và kiếm khi hợp khi tách, chiêu số biến hóa tinh điệu dị thường, Thích Thiên Phong trố mắt quan sát chiêu pháp kỳ lạ của Lương Tiêu hồi lâu rồi lắc đầu thở dài:

– Nhân kiếm tương ngự, hay thật!

Phong Liên theo dõi diễn biến mà không hiểu ra sao, nghe vậy lo lắng hỏi:

– Nhân kiếm tương ngự là thế nào?

Thích Thiên Phong đáp:

– Từ xưa tới nay, tất cả mọi kiếm sĩ dù mới luyện hay đã trở thành cao thủ, luôn luôn nắm quyền điều khiển kiếm, nhưng trong trường hợp Lương tiểu tử đây, không chỉ có người sử kiếm, mà đôi khi kiếm cũng thao túng người. Kiếm và người dẫn động lẫn nhau, chiêu số vô cùng như thiên địa, biến hóa bất tận như giang hà. Thoạt đầu hắn chỉ đấu một mình, kể ra thân đơn lực mỏng, chẳng thể nào giành thắng lợi trước sự liên công của hai vợ chông lão đồ gàn. Nhưng nay Nhãn kiếm tương ngự, khác nào có thêm trợ thủ đắc lực hợp đấu cùng hắn. Thái ất phân quang kiếm sở dĩ lợi hại vô kể chỉ vì có sự phối hợp âm dương, khí cơ được trao đổi nên dõi dào, chiêu số được bổ sung’nên phong phú. Bây giờ Lương Tiêu và kiếm của hắn phối hợp thì cũng có thể thu được kết quả tương tự. Dõi dào phong phú gặp phong phú dõi dào, thắng phụ thế nào khó nói lắm.

Quần hào nghe vậy, đều lấy làm lạ.

Phong Liên nghiêng đầu ngẫm nghĩ, chợt vỗ tay cười:

– Tôi hiểu rồi, sư phụ tôi không coi Thiên Phạt kiếm là binh khí.

Vỗ tay xong cô mới nhận ra mình đã cử động được bình thường, chắc là do chỉ kinh đến lúc hết công hiệu nên huyệt đạo tự khắc giải khai.

Thích Thiên Phong cau mày:

– Ngươi nói năng lạ quá, không coi là binh khí thì coi là người chắc?

Phong Liên nói:

– Đúng thế đấy.

Cô thầm nghĩ: “Chắc hẳn lầy Côn Luân đã coi Thiên Phạt kiếm như ông và cha ta, rồi sát cánh tác chiến bên anh linh của hai vị“. Mắt cô bỗng đỏ hoe, lệ dâng ngập bờ mi. Lúc này Lương Tiêu đã vận dụng Nkân kiếm tương ngự đến mức thành thục cao độ, Thiên Phạt kiếm dần dần tỏa ra ánh tím, những đốm gì trên thân kiếm biến thành ánh sao ráng mây diễm lệ lạ lùng, từ xa nhìn tại tưởng như một tia chớp tím tung hoành ngang trời. Cử tọa không khỏi trầm trồ xuýt xoa. Phong Liên sinh trường trong gia đình đời đời đúc kiếm mà cũng không hiểu trạng thái lạ lùng ấy là thế nào nữa.

Cô đang nghi hoặc thì một giọng nói vang như chuông cất lên:

– Thiện tai, thiện tai! Lương Tiêu sáng tạo ra tuyệt kỹ này, thật đúng là tô thêm màu sắc mới mẻ cho võ học.

Phong Liên ngoái đầu trông. Người vừa lên tiếng là một hòa thượng cao lớn, râu mày bạc trắng, tay cầm gậy gỗ, nụ cười hồn hậu trên môi. Chẳng hiểu lão ta xuất hiện trong đám đông tự lúc nào. Thích Thiên Phong hớn hở gọi:

– Cửu Như! Con lừa trọc kia, lén lút đến từ bao giờ thế? Tại sao không chào ta một tiếng hủ?

Lăng Thủy Nguyệt lườm lão, chắp tay cười bảo:

– Phật giá đại sư tới mà không biết để nghênh đón kịp, thật là lỗi quá. Chuyết phu ruột để ngoài da, nói năng lộn xộn, mong đại sư lượng thứ.

Cửu Như cười đáp:

– Không dưng tử tế là thể nào cũng có mưu đồ. Thích phu nhân đừng khách sáo thế kẻo bần tàng chột dạ.

Nghe lão nói thẳng thừng, Lăng Thủy Nguyệt hơi đỏ mặt:

– Đại sư thật tinh tường, lão thân quả tình có chuyện muốn thưa.

– Phu nhân cứ dạy.

– Hiện giờ ba người kia đang giữ thế giằng co, nhưng sức người là có hạn, sớm muộn gì cũng phân thắng phụ. Theo lão thân thấy, oan gia nên cởi chứ không nên buộc, dù ai bị thương cũng đều không hay. Mong đại sư và chuyết phu liên thủ tách ba người ấy ra, đại sư là chỗ cố giao với Lương Tiêu, nhất định có thể thuyết phục hắn tháo gỡ mắc mứu, bỏ đi thật xa. Nếu Công Dương Vũ và Hoa gia muội tử không đồng ý… – Bà bỗng ngừng lời, mỉm cười thay cho đoạn cuối.

Cửu Như gật gù:

“Bần tăng hiểu rồi, cốt yếu là thuyết phục được Lương Tiêu, còn việc các vị ở đây có đồng ý tha cho hắn không thì không quan trọng. Phu nhân an tâm, bần tăng mà liên thủ với Lương Tiêu, tuy chưa chắc áp chế được quần hùng, nhưng thừa sức thư xếp để hắn chạy thoát.

Đám đông nghe vậy đều giật mình. Lăng Thủy Nguyệt thở dài:

– Đúng, bây giờ chỉ có cách ấy là hơn cả.

Cửu Như nhìn ra chỗ đấu kiếm:

– Thích phu nhân nói có lý. Vả chăng bần tăng đến đây chính vì muốn hòa giải chuyện này, không định đùn đầy cho ai cả. – Lão nhướn cặp mày bạc, cười bảo Thích Thiên Phong. – Thích đảo chủ, ta lên thôi!

Thích Thiên Phong cười hì hì:

– Được! – đoạn siết nắm táy bổ nhào đến Cửu Như.

Nhà sư già thấy thái độ lão quái lạ đã đề phòng sẵn, lập tức xòe chưởng chặn đứng nắm đấm, mắng:

– Lão rùa, ngươi lại giở dại đấy à?

Thích Thiên Phong lăn xả vào đấm đá túi bụi, nhưng miệng vẫn cười:

– Phá ngang trận tỉ thí của người ta cũng tồi tệ y như cướp đồ ăn thức uống vậy, đừng làm chuyện tổn đức thế. Trận đấu này xưa nay ít thấy, ta không thể để lão lừa trọc nhà ngươi phá hoại. Thường có câu “Binh đấu binh, tướng đấu tướng, Ngọc hoàng đại đế đấu Diêm vương“. Đằng kia chủ tướng ra uy, ở đây chúng ta cũng nên gây một đấu trường khác, kết thúc hết mọi ân oán cũ đi.

Lão vừa ra rả cái mồm vừa luôn tay luôn chân phóng quyền cước. Cửu Như không dám sơ suất, đành cắm gậy sang một bên, vung quyền chống trả.

Lăng Thủy Nguyệt nội giận la mắng om sòm:

– Lão chết tiệt, toàn làm những việc chẳng nên làm, có mắt mà không biết nhìn, có óc mà không biết nghĩ. Bây giờ là lúc nào hả?

Từ đầu buổi tới giờ, đã mấy lần Thích Thiên Phong định xuất thủ nhưng đều bị ngăn cấm, thành thử ngứa ngáy bứt rứt vô cùng, khó khăn lắm mới có cơ hội trổ tài quyền cước nên không tài nào kiềm chế được nữa, mặc Lăng Thủy Nguyệt kêu gọi la mắng đến rát cổ bỏng họng, lão cũng giả điếc bỏ ngoài tai.

Đang lúc Thích Thiên Phong sấn sổ lao vào tỉ thí với Cửu Như, lại có hai chiếc thuyền nhỏ theo nhau trôi ra khỏi khe vỏ sò màu. Thình lình, con thuyền đi trước tăng tốc lao vùn vụt. Tới gần đài gỗ, trên thuyền vang lên một tiếng gầm rền như sấm nổ. Quần hào còn đang ngơ ngác thì một bóng người nhanh như quỳ mị đã phóng thốc tới, lách luôn vào giữa Thích Thiên Phong và Cửu Như, vung tay đấm mạnh một quyền buộc họ Thích phải giật lui hai bước. Lão già định thần nhìn kỹ. Người vừa xuất hiện là một hòa thượng trẻ, thân hình chắc nịch, mặt tròn, đôi mắt cũng tròn, trông có vẻ non tơ khiến người ta không đoán được hắn bao nhiêu tuổi.

Tiếp theo nắm đấm là ồ ạt một loạt các hậu chiêu, hòa thượng trẻ thế chỗ Cửu Như đấu với Thích Thiên Phong. Họ Thích chí cần gặp được cao thủ để giao đấu, có cớ để tỷ thí là vui, không bao giờ quan tâm xem đối phương là ai. Chiết được vài chiêu với hòa thượng trẻ, lão phấn khởi nhận xét: “Tên trọc con này bản lĩnh đấy!”, liền đó tập trung tinh thần so quyền đấu cước với đối thủ men, nhất thời không phân thắng bại.

Tự nhiên lại thấy nảy đâu ra một cao thủ lạ mặt, quần hào đều kinh ngạc. Lúc đó chiếc thuyền chở hòa thượng trẻ hồi nãy cũng cập bờ, một hắn tử tráng kiện và một nữ tử áo vàng ôm đàn tÿ bà nhảy lên đài. Trì Tiễn Ngư nhận ngay ra nữ tử áo vàng, bèn hồ hởi gọi:

– Kim tứ muội, muội đến đấy à… Ô, còn vị này lá…

Hắn tử tráng kiện cười vang:

– Trì lão đại, không nhận ra tiểu đệ ư?

Trì Tiễn Ngư nghe giọng, sửng sốt kêu lên:

– Ối chà, Bạch lão nhị, tại sao đệ giảm cần nhanh thế?

Bạch Bất Ngật không trả lời, nhưng khuôn mặt đầy vẻ đắc ỷ. Giả Tú Tài trố mắt:

– Bạch Bất Ngật, huynh là cục bột đấy ằ? Muốn béo là béo, muốn gầy là gầy ngay được.

Kim Thúy Vũ cười:

– Bạch nhị ca không phải cục bột, chẳng qua có người thần thông quảng đại, đủ khả năng vê nặn bóp nắn nhị ca như vê nặn bóp nắn cục bột mà thôi.

Trì Tiễn Như và Giả Tú Tài đồng thanh kêu lên:

– Ai thế?

Cặp mắt long lanh của Kim Thúy Vũ hướng ra mặt hồ, mọi người nhìn theo thì thấy chiếc thuyền đằng sau cũng vừa tới gần, người lái thuyền chính là Trì hạc Diệp Chiêu. Khi thuyền chạm mép đài, có hai nữ đạo sĩ bước lên, người lớn tuổi tóc mai đã bạc, khuôn mặt thanh thoát, người còn lại rất xinh đẹp, tuổi ước tam tuần.

Giả Tú Tài hỏi:

– Là hai vị đạo trưởng đây, phải không nhị ca?

Bạch Bất Ngặt lắc đầu:

– Không phải đâu là không phải đâu.

Lúc ấy, lại một người nữa rời thuyền lên đài. Đó là một trang thiếu niên tuấn tú ăn bận kiểu nhà nho, cử chỉ phong thái hết sức tao nhã. Giả Tú Tài cau mày:

– Người này còn ít tuổi xem chừng cũng không phải.

Kim Thúy Vũ cười nhạt:

– Chí khí tài năng không đợi tuổi, đâu phải ai cũng lười nhác vô vị như ngươi. Cái hạng ngươi thì dẫu có sống đến một thế kỷ cũng chỉ tổ chật chỗ thiên hạ.

Giả Tú Tài cười nhăn nhở:

– Ta biết, muội mê cái mã trẻ trung anh tuấn của người ta chứ gì? Nhưng muội ngần này tuổi rồi, chắc gì người ta đã ưng muội.

Kim Thúy Vũ tái mặt vì giận, đột ngột vung chưởng. “Bốp” một tiếng, má Giả Tú Tài hiện lên rành rành năm dấu ngón tay, nhưng hắn vẫn cười hềnh hệch, ung dung phe phẩy cây quạt như thể chưa có chuyện gì xảy ra.

Trong lúc Kim Thúy Vũ và Giả Tú Tài đấu khẩu, Diệp Chiêu cũng rời thuyền lên đài, nhưng không đi một mình mà cung kính đỡ theo một nữ tử. Nữ tử này tuy không phải là trang giai nhân tuyệt sắc, nhưng khuôn mặt dịu dàng nhã nhặn, mình vận tấm áo lam nhạt đã phải màu, trông rất giản dị thanh khiết. Giả Tứ Tài vừa nhác thấy cô, một ý nghĩ xẹt qua nóng ran cả ngực: “Chính là người đó, chính là người đó!“. Chúng nhân Thiên Cơ cung đổ dồn mắt vào cô gái, ai nấy đều lộ vẻ sững sờ.

Nữ tử ngước nhìn khắp mọi người, mỉm cười cất tiếng, giọng trong và dịu như tiếng oanh vàng:

– Xỉn các vị hãy dừng tay!

Hòa thượng trẻ tuổi vừa nghe câu đó, lập tức thu quyền lui lại ba thước, chắp tay nói với Thích Thiên Phong:

Lão tiên sinh, mỗ không đánh nữa.

Thích Thiên Phong trợn mắt:

– Ngươi nói gì vậy? Ta hỏi ngươi, có ai ăn cơm nửa bát, đánh rắm nửa phát không?

Hòa thượng gãi gãi đầu:

– Cơm ãn một nửa thì cũng có đấy, nhưng chẳng ai đánh rắm một nửa cả.

Quần hào ngó hòa thượng trẻ tuổi, đều buồn cười vì võ công hắn cao cường như vậy, không ngờ lại nói năng ấp úng ngây ngô. Thích Thiên Phong bảo:

– Ngươi biết thế thì tốt, đánh nhau cũng như đánh rắm vậy, đánh được một nửa rồi thôi thì chẳng phải là bí chết hay sao?

Nói đoạn, lão lại tung quyền ra, hòa thượng nọ đành xuất thủ chống đỡ. Cửu Như trước sau vẫn híp mắt cười, im lặng theo dõi, chẳng trợ giúp cũng chẳng khuyên giải.

Đột nhiên, từ phía bánh xe Thiên Cơ vọng lại một tràng hú dài, Lương Tiêu thoát khỏi vòng thái cực, mang theo kiếm quang lao vút xuống phía đám người mới đến. Phu phụ Công Dương Vũ liền bám sát như bóng theo hình. Lương Tiêu đáp xuống lôi đài, lập tức vỗ một chưởng vào mặt Thích Thiên Phong. Lão già đành nhảy vọt ra xa, thoát khỏi thế kẹp giữa hai mũi tấn công. đầy lui được họ Thích rồi, Lương Tiêu cắm phập Thiên Phạt kiếm xuống đất, không buồn bận tâm đến hai thanh kiếm sắc đang đuổi tới sau lưng, gã dang rộng tay ôm chầm lấy hòa thượng trẻ tuổi nọ, cười lớn:

– Hoa Sinh, ha ha, Hoa Sinh!

Gá vừa cười vừa tung hòa thượng lên không như tâng cầu, rồi đỡ lấy, lại tung lên, đỡ lấy, lại tung lên, mỗi lúc một cao. Hoa Sinh khua khoắng tay chân, khiếp vía kêu oai oái:

– Lương Tiêu, Lương Tiêu, ngươi định làm mỗ ngã chết hả?

Lúc ấy Lương Tiêu mới đỡ chú ta xuống đất, cười ha hả. Hoa Sinh cũng xúc động vô cùng, gãi đầu sôn sột, không biết nên nói gì, chỉ cười hì hì. Lương Tiêu đưa mắt sang phía hai đạo sĩ, vòng tay chào:

– Liễu Tình đạo trưởng! – rồi định quỳ xuống bái lạy.

Đạo sĩ lớn tuổi vội vã giữ gã lại:

– Chớ đa lễ!

Lương Tiêu đứng thẳng lên, lại mỉm cười với nữ đạo sĩ trẻ:

– A nhi đạo trưởng trông đẹp ra nhiều đấy.

Á nhi lườm gã, nhưng mắt đọng ánh cười. Liễu Tình thở dài nghĩ bụng: “Hài tử này, chẳng cân nhắc lời lẽ gì cả! Khen người xuất gia mà lại khen“đẹp” là thế nào?“.

Lương Tiêu cười cười, lại quay về phía thiếu niên ăn vận kiểu nho sinh:

– Chắc đây là Bính nhi?

Thiếu niên vòng tay, hai mắt đỏ hoe:

– Lương thúc thúc vẫn khỏe chứ ạ?

Mười năm qua đi, nhìn đứa bé ngày nào đã ra dáng quân tử đường hoàng, Lương Tiêu cảm thấy bồi hồi khó tả. Gã ngắm Triệu Bính một lát rồi chậm chạp dời ánh mắt đi, cuối cùng dừng lại ở nữ tử bận tấm áo lam bạc màu, thân hình bỗng chấn động. Mắt người ấy long lanh rạng rỡ, còn Lương Tiêu, môi run run không thốt ra lời, nước mắt thi nhau trào ra, đầu gối bủn rủn, gã khuỵu xuống trước mặt cô, bật khóc rưng rức. Quần hào đều lộ vẻ ngỡ ngàng, Lương Tiêu vừa một mình một kiếm áp đảo bọn họ, từ đầu đến cuối không hề tỏ ra khiếp nhược, ngờ đâu chỉ vì gặp một cô gái lại mất kiềm chế, lăn đùng ra khóc lóc rầm n như thế. Nữ tử áo lam cũng đỏ hoe mắt, chìa tay đỡ gã đậy:

– Tiêu ca ca…

Lương Tiêu bấu chặt lấy tay cô, nức nở:

– Hiểu Sương… Ta tưởng muội chết rồi… Ta tưởng muội chết rồi…

Mấy năm nay, Hoa Hiểu Sương trải qua bao gian nan vất vả, tính tình cứng cỏi lên nhiều, vậy mà gặp lại người xưa cũng không kìm nổi đôi dòng châu lã chã. Cô nói:

– Đều tại muội không ra gì, sợ nhà ngăn cản muội làm nghề y nên mai danh ẩn tích, không để ai biết cả.

Lương Tiêu khóc một hồi, lòng cũng vợi bớt đớn đau, lại nghe Hoa Thanh Uyên thở dài:

– Sương nhi, con hành động như vậy… thật khiến cha đứt từng khúc ruột.

Nói chưa dứt, giọng y đã nghẹn ngào.

Lương Tiêu bỗng giật mình buông hai tay Hiểu Sương ra, đoạn quay phắt lại đối mặt với Công Dương Vũ và Hoa Vô Xuy, cao giọng hỏi:

– Nhị vị vẫn còn muốn tái đấu ư?

Phu phụ Công Dương Vũ nhìn nhau. Hiểu Sương tiến tới, cúi mình thưa:

– Mong tổ phụ tổ mẫu đoái thương Sương nhi mà đừng đấu nữa.

Công Dương Vũ vuốt râu im lặng. Hoa Vô Xuy hừ khẽ, ngoảnh mặt đi.

Liễu Tình cúi đầu mỉm cười:

– Cung hỉ Công Dương tiên sinh, cung hỉ Hoa thư thư! Lộ kiếm pháp của hiền khang lệ quả là tâm ý tương hợp, xem ra những mắc mứu hờn oán xưa cũ đã tiêu tan cả rồi.

Công Dương Vũ ngẩn người, lắp bắp:

– Tuệ lâm, nàng…

Liễu Tinh ngắt lời, nhìn thẳng vào mắt Công Dương Vũ:

– Bần đạo là Liễu Tinh, mong tiên sinh chớ gọi lầm. Bây giờ bần đạo đã hóa giải được tâm bệnh, dám đến đây tức là không sợ đối mặt với quá vãng nữa. Thế sự mang mang, chuyện đời thật khó lường, ai trong chúng ta mà không mắc sai lầm. Lương Tiêu tuy có lỗi nhưng đã biết hối cải, thế chẳng phải là tốt lắm rồi ư? Oan oan tương báo mãi bao giờ cho với?

Hai người đăm đầm nhìn nhau, Công Dương Vũ thấy lòng trào lên nỗi thể lương khó tả. Ông chẳng còn tìm thấy đâu hình bóng Lâm Tuệ Tầm trong mắt Liễu Tình. Người yêu dấu thuở nào quả thực đã vượt qua cửa ải tình cảm, tự chấm dứt mọi ân oán tình thù thật rồi. Bỗng nhiên, chân tay rời rã, Công Dương Vũ càng ngẫm càng chán ngán cho cuộc đời khốn khổ vì tình, cuối cùng tay trắng vẫn hoàn trắng tay của mình, ông thở dài gọi:

– Vân Thù, ngươi lại đây!

Vân Thù tiến tới, Công Dương Vũ giơ cao thanh nhuyễn kiếm:

– Thanh Li kiếm vốn là kiếm thần của tộc Tinh Tuyệt. Âu Long Tử đã giao nó cho ta gìn giữ, lẽ ra ta không được phép truyền cho ai khác, nhưng bây giờ Thiên Phạt kiếm đã xuất thế, Thanh Li kicm trở thành tàn phế, không còn mang trong mình sứ mạng và ỷ nghĩa trước đây nữa, nên ta trao lại cho con. Kiếm đã cụt ba tấc, nhưng vẫn sắc bén hiếm thấy, con hãy cẩn thận giữ gìn, đừng đối xử bạc bẽo với nó.

Vân Thù lùi lại:

– Con dùng thế nào được, sư phụ giữ lấy phòng thân thì hơn.

Công Dương Vũ xua tay:

– Trận chiến hôm nay đã đủ cho một đời rồi. Từ nay về sau, lão phu không còn hứng thú động tay vào kiếm nữa.

Nghe Công Dương Vũ tỏ ý “phong kiếm”, quần hào đều kinh ngạc. Vân Thù không dám thoái thác, đành nhận lấy thanh bảo kiếm. Hoa Vô Xuy lạnh lùng theo dõi đến đây bỗng xoay mình trở vào Thể Nguyệt cốc, Liễu Tình gọi to:

– Xin thư thư dừng bước, Liễu Tinh có lời muốn nói, – rồi lướt đi như bay, chân không chạm đất, sánh vai Hoa Vô Xuy tiến vào thạch trận.

Á nhi thấy sư phụ đuổi theo tình địch, sợ bà yếu thế bèn tong tả đi theo. Hoa Mộ Dung vội ngăn:

– Tiểu đạo trường, thạch trận này cổ quái lắm, để ta dẫn đường cho đạo trường.

Á nhi cũng đã từng nghe đồn đại nhiều về những điều kỳ diệu trong Thiên Cơ cung, vì vậy không dám cãi lại, thận trọng bước theo Hoa Mộ Dung, Công Dương Vũ thở dài, quay mình đi theo hướng ngược lại, Hoa Thanh Uyên vội nhào ra chắn đường, vòng tay nói:

– Thưa cha khoan đã…

Công Dương Vũ cau mày:

– Gì đây?

Hoa Thanh Uyên nói:

– Mấy chục năm qua, Thanh Uyên chưa làm tròn chữ hiếu. Hôm nay cha đã về, mong cha lưu lại ít ra vài hôm để Thanh Uyên được hầu hạ cho thỏa tâm nguyện.

Dứt lời y quỳ sụp xuống, mắt đỏ hoe, dập đầu lia lịa. Công Dương Vũ đỡ y lên, tư lự bảo:

– Chính ta chưa tròn đạo làm cha, bỏ mậc con cái bao nhiêu năm nay chẳng ngó ngàng chăm sóc gì cả.

Những người biết tính Công Dương Vũ đều tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe ông nhận lỗi công khai. Vân Thù mừng rỡ thưa:

– Nếu sư phụ bằng lòng lưu lại, đồ nhi cũng sẽ ở đây vài ngày để thỉnh giáo võ công.

Công Dương Vũ lạnh lùng bác đi:

– Thỉnh giáo cái gì? Ngươi luyện đến bậc này rồi, còn cần ta phải dạy ư?

Giọng ông gay gắt, nhưng lời nói tỏ rõ sự yêu thương tán thưởng, Min Thù chi còn nước vâng dạ luôn miệng. Thích Thiên Phong cười ha hả:

– Phải đấy. Ngươi đừng đi, lão lừa trọc cũng đến kia rồi, mấy lão già chúng ta tụ tập tỉ võ nhắm rượu, say sưa hẳn ba ngày ba đềm mới thôi.

Cửu Như cười ruồi:

– Ngươi muốn giao lưu với lão đồ gàn thì cứ việc, cơn cớ chỉ phải lôi ta vào? Bần tảng tài hèn sức mọn, chẳng dám thù tiếp đâu.

Thích Thiên Phong trề môi:

– Sao tầm nhìn hạn hẹp thế nhỉ! Ngươi nghĩ xem, bọn trẻ ngày nay cứ đứa sau giỏi hơn đứa trước, mấy lão già bọn mình mà không gắng sức rèn luyện, hợp lực sáng tạo ra vài môn công phu lợi hại thì chẳng phải sẽ bị đánh bại hết cả hay sao.

Cửu Như nói:

– Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Dầu ngươi muốn thế, nhưng ý trời không cho thì cũng chẳng được nào.

Lăng Thủy Nguyệt thở dài:

– Đại sư đừng nghe chuyết phu nói năng nhăng cuội. Tuy nhiên ba vị chẳng mấy khi gặp mặt, nhân dịp này ngồi lại trò chuyện thù tạc đôi hồi cũng hay mà.

Cửu Như mỉm cười:

– Phu nhân đạy rất phải, bần tăng cưng kính chẳng bằng tuân mệnh.

Thích Thiên Phong gật đầu:

– Lão bà lợi hại thật, chả trách lúc nào ta cũng sợ bà.

Lão không buồn giấu giếm, nói toạc ra việc mình sợ vợ, Lăng Thủy Nguyệt nghe mà phát ngượng, bèn gắt khẽ:

– Nói năng gì mà hồ đồ.,..

Hoa Thanh Uyên giữ được cha lại, lòng mừng vui khôn xiết, bèn nói với quần hào:

– Kính thưa chư vị anh hùng, tiểu nữ nay bình an vô sự, những mối bất hòa trước đây với Lương Tiêu cũng được hóa giải rồi. Tại hạ phải tuân theo lời răn của tổ tiên nên không thể đưa các vị vào cung yến ẩm, tuy vậy đã cho người dọn tiệc ở Thất Tinh cốc phía đông bắc kia, mong chư vị nể mặt sang đó cạn vài chén rượu.

Trận đấu kết thúc qua loa lập lờ khiến rất nhiều người thất vọng. Cả bọn chỉ đáp lễ khách sáo vài câu rồi hậm hực bỏ đi gần hết Bấy giờ Hoa Thanh Uyên lại quay sang Hiểu Sương:

– Sương nhi, con cũng nên vào gặp mẹ một chút, từ lúc con mất tích, mẹ con ốm đau suốt đấy.

Hiểu Sương nhướng mày hốt hoảng, liếc thấy Lương Tiêu đang nói chuyện với Triệu Bính, cô gọi:

– Tiêu ca ca, muội vào cung thăm mẫu thân, huynh có muốn đi cùng không?

Lương Tiêu vừa hỏi hắn Triệu Bính về cuộc sống mấy năm qua, mới biết cậu ta không học võ công, chi chuyên tâm theo y thuật đúng như mong ước thuở bé, gã đang bâng khuâng cảm khái thì nghe Hiểu Sương gọi, suy nghĩ chốc lát rồi nói:

– Ta không đi thì hơn.

Hiểu Sương gật đầu, nắm tay Lương Tiêu, run run miết ngón trỏ vào lòng bàn tay gã: “Sáng mai đợi muội dưới chân Lạc Nhạn phong“. Lương Tiêu nhìn cô, ánh mắt họ giao nhau, gã bỗng thấy lòng hụt hẫng như mất mát. Phong Liên cũng vừa rì rầm nói chuyện vóá Hoa Kính Viên, lúc ấy ngẩng lên bảo Lương Tiêu:

– Sư phụ ơi! A Viên mời đệ tử vào cung mấy ngày, lúc về đệ tử sẽ đưa A Hốt Luân Nhĩ ra luôn.

Miệng nói với Lương Tiêu mà ánh mắt cô xoáy vào Hoa Hiểu Sương, vẻ mặt buồn thảm lạ thường. Hiểu Sương ngạc nhiên hỏi:

– Gì cơ, cô ấy là đồ đệ của huynh à?

Lương Tiêu hơi đỏ mặt, định phân giải, nhưng Hiểu Sương không đợi nghe trả lời đã kéo tay Phong Liên, cười bảo:

– Trời ơi, cô nương xinh quá! À, để ta tặng cô một vật, – đoạn lấy trong túi gấm bên thắt lưng ra một hạt châu đỏ to bằng mắt rồng. – Đây là viên Mâu M châu do ta luyện, có tác dụng giải độc và tránh côn trùng, trông không đẹp mấy nhưng rất hữu dụng. Nếu cô nương không chê thì hãy nhận lấy, coi như quà kỳ niệm buổi đầu gặp gỡ.

Phong Liên lí nhí tạ ơn mà mắt đỏ hoe:

– Đa tạ sư mẫu…

Phong Liên nói rất khẽ nhưng Hiểu Sương vẫn nghe thấy. Mặt đỏ bừng lên, cô không dám nhìn Lương Tiêu nữa, cắm cúi dắt Phong Liên đi luôn vào cốc. Cửu Như và phu phụ Thích Thiên Phong thong thả đi sau, Công Dương Vũ bước được mấy bước, bỗng ngoắt đầu lại hỏi:

– Này Lương nêu! Già sử lúc nãy ba chúng ta đấu tiếp thì theo ngươi bên nào sẽ thắng?

Lương Tiêu nói:

– Nếu là mưòỉ năm trước, chắc chắn tiên sinh thắng. Nếu là mười năm sau, nhất định tiểu tử thắng. Còn hôm nay thắng thua ra sao, đành phải trông vào số phận.

Công Dương Vũ hừ một tiếng:

– Trước mới chả sau! Ngươi ám chỉ ta già chứ gì?

Lương Tiêu đáp:

– Tiền bối đã hỏi thẳng, vãn bối cũng chỉ còn cách trả lời thẳng thắn thế thôi.

Công Dương Vũ vuốt râu, ngước mắt nhìn vầng tịch dương, chợt ngâm nga:

Nước còn chảy ngược về tây,

Tuổi xanh trở lại có ngày người ơi..(Trích bài từ theo điệu Hoán khê sa của Tô Đông Pha)

Ngâm dứt, ông bật cười. Tiếng cười lông lộng khe núi, loang rộng vào rừng, chim chóc nháo nhác bay Lên. Dư âm chưa dứt, Công Dương Vũ đã biến mất trong thạch trận, Hoa Sinh nhìn theo Cửu Như, lúng túng bảo Lương Tiêu:

– Lâu lắm rồi mỗ chưa gặp sư phụ, phải đi kể lể tâm tình với người mới được.

Lương Tiêu mỉm cười:

– Đệ cứ đi đi, xin phép ta làm gì

Được lời như cởi tấm lòng, Hoa Sinh hí hởn chạy ào tới bên Cửư Như, rồi theo sư phụ đi sâu vào thạch trận.

Lương Tiêu trân trân ngó theo. Ngoài mặt gã gượng cười, nhưng tâm trạng rất nặng nề, cảm giác bất an manh nha lúc giã từ Hiểu Sương đang lớn dần, linh tính về chuyện gì đó chẳng lành càng lúc càng rõ rệt.

Từ đầu tới giờ, Vân Thù vẫn chằm chằm nhìn Triệu Bính, đợi cho mọi người đi hết mới tiến lại, xúc động nói:

– Nếu hai mắt Vãn mỗ chưa mù thì ngài chính là thánh thượng.

Triệu Bính ngẩn người. Cậu theo Hiểu Sương và Hoa Sinh đã lâU quen lối sống giản dị chất phác, không biết gian trá quanh co, đành nói:

– Vãn đại tướng quân, cái tên Triệu Bính Hoàng đế ấy đã mất mạng ở Nhai Sơn rồi, Triệu Bính bây giờ chỉ là một lang trung tầm thường mà thôi.

Vân Thù quỳ thụp xuống, sa nước mắt:

– Thánh thượng ôi, thánh thượng đấy ư?

Triệu Bính luống cuống tay chân, đỡ gã dậy:

– Van tướng quân đừng làm thế. Mấy lần tướng quân chiêu binh khởi nghĩa, Bính này đều biết cả. Chỉ hiềm tài hèn đức mỏng nên ta không trợ giúp được gì, quả thực có lỗi muôn phần.

Vân Thù vẫn khăng khăng quỳ lạy:

– Hạ thần có rất nhiều chuyện muốn bẩm cáo thánh thượng. Mong thánh thượng theo thần vào cung để nghe trình bày cho rõ ngọn ngành.

Triệu Bính cau mày:

– Tướng quân đứng lên đi…

Vân Thù ngắt lời:

– Thánh thượng mà không nhận lời thì hạ thần sẽ quỳ mãi ở đây,., Triệu Bính rất quý trọng tấm lòng trung quân ái quốc của Vân Thù, muốn cự tuyệt nhưng không nỡ, bèn bối rối nhìn Lương Tiêu cầu cứu. Lương Tiêu lắc đầu:

– Con đã trưởng thành, hãy tự quyết định lấy mọi việc.

Triệu Bính ngần ngừ một chốc rồi gật đầu bảo Vân Thù:

– Van tướng quân! Ta không làm Hoàng đế nữa, nhưng ta đồng ý vào cung, có gì cần ông cứ nói thẳng, ta sẽ lắng nghe.

Vân Thù nghĩ bụng: “Thế là được rồi, từ từ ta sẽ đả thông cho người“. Gã hoan hỉ Iắm bèn dắt Triệu Bính vào Thể Nguyệt cốc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 87: Thấp Tang Hữu A (Cây dâu đẹp mọc ở nơi ẩm ướt)

Không bao lâu sau, mọi người đều tản đi hết, cả lôi đài rộng lớn còn trơ trọi mỗi Lương Tiêu, vầng tịch dương đã tụt hẳn xuống trời tây, màu chiều trầm nặng, hồ nước xanh thẳm, không gian ngậm đầy hơi lạnh thấu xương.

Lương Tiêu thẩn thờ đứng yên chốc lát rồi bẻ lấy một mảnh gỗ, thi triển khinh công băng qua mặt hồ đến Lạc Nhạn phong. Đinh ngọn chìm trong sương mù bảng lảng, dưới chân núi, chỗ giáp ranh với bờ nước mọc rất nhiều dâu dại, lá xanh to bản bông bềnh như mây.

Lương Tiêu ngồi một lúc dưới gốc cây rồi lại đứng dậy, bổn chôn đi đi lại lại, tự nhủ: “Chuyến này Hiểu Sương vào đó, có khi không quay ra được mất. Không phải tại Hiểu Sương không muốn ra, mà tại Hoa Vô Xuy lắm mưu ma chước quỷ, lòng dạ tàn độc, rất có thể sẽ ngăn cản muội ấy. Phong Liên cũng vào cốc, nếu Hiểu Sương không ra, ta sẽ mượn cớ tìm Phong Liên để xông vào trong cung. Nhưng ta đã từng quả quyết không vào cốc, nay mà nuốt lời thể nào cũng bị chê cười. Nghĩ ngợỉ một hồi, gã ngồi xuống gốc cây như cũ, định ngủ nhưng lòng phập phòng quá, không tài nào chợp mắt được. Tiếng đàn nhạc huyên náo đằng Thất Tinh cốc văng vẳng vọng lại, chắc hẳn quần hào đang yến ẩm, khiến Lương Tiêu càng thấy cô quạnh. Gã bèn nhảy lên ngồi trên một tảng đá to, ngước mắt nhìn trời. Muôn ngàn tình tú đang nhấp nháy, trông như những viên bảo thạch trắng trên nền sẫm thăm thẳm của đêm.

Lương Tiêu đã ngắm sao không biết bao nhiêu lần, mỗi lần ngắm lại thấy lòng chộn rộn một cảm xúc khác nhau. Đêm nay, dưới thảm sao lung linh, không hiểu sao tâm hồn gã chìm đắm trong nỗi ưu tư khó tả.

Thời gian dần trôi, tiếng huyên náo tắt dần, gió thêm hơi giá, lùa mạnh vào áo và tóc Lương Tiêu. Gã bỗng đứng bật dậy đi đi lại lại, được một lát lại ngồi xuống ngắm sao trời, song không bao lâu gã đâm chán, lại đứng dậy đi đi lại lại.

Thoạt tiên thời gian bò ì ạch, một khắc mà lâu như hàng tháng hàng năm, nhưng sau nửa đêm, sao đạt về tây, thời gian bắt đầu chạy nhanh khôn tả, chẳng mấy chốc sao mai đã ló ra. Nghĩ buổi lê mình đang tới gần, Lương Tiêu bỗng sợ hãi lạ tùng, chỉ muốn níu giữ biển sao dạt dào kia để đêm dài vĩnh viễn không đi mất. Nhưng gã càng muốn níu giữ, trời càng mau sáng, ánh sao nhạt nhòa dần, phương đông rạng ban mai, dưới mây hồng loe lóe một vông sáng lóa, báo hiệu triêu dương sắp trồi lên. Đúng lúc đó, phía hồ có tiếng động âm âm vọng lại, Lương Tiêu mừng quýnh, hộc tốc chạy xuống sát mí nước, nhưng nhìn ra chỉ thấy một vùng tăm tối lặng tờ, nào có bóng ai, gã lại lu xìu: “Phải chăng muội ấy không ra?”.

Ý nghĩ u ám vừa nhen nhóm, gã đã mau chóng gạt phắt: “Vẫn tờ mờ đất, muội ấy đâu đã ra được? Lương Tiêu cả Lương Tiêu, ngươi nôn nóng quá đấy“.

Gã đăm đăm ngó mặt hồ thẫm màu một lúc rồi lần thẩn quay về chỗ gốc cây, ngồi xoay lưng lại phía mặt trời. Không gian tịch mịch đến nỗi Lương Tiêu tưởng nghe thấy cả tiếng tim mình đập, từng nhịp, từng nhịp, càng đập càng nhanh, càng đập càng nặng.

Dần dần, đường viền của những cành cây ngọn lá trở nên rõ rệt, vạn vật thức giấc trong tươi mới tinh khôi, sơn cốc vang lừng tiếng chim lảnh lót. Lương Tiêu không dám nhìn ra hồ, chỉ căng tai hầu bắt lấy từng động tĩnh nhỏ nhất, nhưng trước sau toàn nghe tiếng cá đùa giỡn dưới làn nước trong.

Trời đã sáng bạch, ánh nắng rực rỡ trải khắp mặt đất. Lương Tiêu không kiên nhẫn nổi nữa, bật dậy nhìn xuống hồ. Mặt nước mênh mông trống trải, chỉ có đôi chim yến lướt qua, đuôi xòe như cái kéo, cánh nhẹ tựa lá vàng dát mỏng, nhưng chúng cũng mau chóng bay biến sau lớp sương mờ giăng giăng.

Lương Tiêu ôm đầu, ủ rũ ngồi xuống tảng đá to, ruột gan còn cào hoang mang: “Sắp tới giờ tị, Hiểu Sương mà vẫn bặt tăm thì tức là sẽ không ra nữa. Muội ấy chẳng bao giờ bội ước, tình thế này chắc hẳn là do bị ngăn cản, không thoát thân được“.

Hai mắt Lương Tiêu cay xè, lệ tuôn ròng ròng. Hiểu Sương trong cung, gã lại không thể vào, hồ nước kia bỗng chốc trở thành vũ trụ hồng hoang cắt chia đỏi người. Đúng lúc Lương Tiêu sắp tuyệt vọng, đột nhiên nước hồ khua động, liền đó là tiếng ca dịu dàng êm tai:

Cây dẫu đẹp mọc nơi ấm ướt, Lá sum suê xanh mướt quanh cành.

Cặp chàng quân tủ tinh anh, Lòng vui không kể ngọn ngành được đâu.

Lương Tiêu giật mình, chậm chạp ngẩng đầu lên. Một chiếc thuyền con nhẹ nhàng rẽ màn sương mù đang nhạt dần dưới ánh nắng ấm áp, lướt ngang mặt hồ xanh biếc để tới chỗ gã. Hiểu Sương đứng đằng đuôi thuyền, tay khua mái chèo, mỉm cười hát tiếp:

Nơi ẩm ướt cây dâu xòe tần, Lá mỏng mềm xinh xắn làm sao.

Gặp chàng quân tử thanh tao, Lòng nàỵ vui sướng xiết bao hỡi chàng.

Cây dâu mọc nơi mang hơi ẩm, Lá ken dày xanh thăm tốt tươi.

Gặp chàng quân tử tót vời, Nhu tình chan chứa chưa với đã đầy.

Bao rung động thơ ngây tha thiết, Chứa dám ngỏ người biết hay không.

Tương tư chi giữ trong lòng, Bao gỉờ nguôi nỗi nhớ mong bây giờ!

Năm xưa khi cùng Hiểu Sương đi chữa bệnh cứu người, Lương Tiêu đã từng đọc cuốn Kinh Thi, vẫn còn nhớ bài này tên là Thấp tang, kể về một người con gái sung sướng gặp được ý trung nhân của mình ở bãi dâu. Lương Tiêu nghe mà si dại, bất giác lầm nhẩm theo:

Gặp chàng quân tử tót vời, Nhu tình chan chứa chưa với đã đầy.

Bao rung động thơ ngâỵ tha thiết, Chứa dám ngỏ chàng biết hay không, Tương tư chỉ giữ trong ĩòng, Bao giờ nguôi nỗi nhớ mong bây giời Gã ngâm mãi, ngâm mãi, thần hồn ngơ ngẩn, thuyền cập bờ mà cũng quên cả tiến ra đón.

Hiểu Sương buộc thuyền cẩn thận, đoạn xách một hộp cơm to sơn đỏ uyển chuyển bước lại. Cô đã thay đổi y phục, áo dài màu lam chấm gối, áo cánh trắng bó eo, tóc búi gọn gàng thắt dái lụa mềm trắng lóa, trông y như một sơn nứ yêu kiều, Cô mỉm cười với Lương Tiêu:

– Tiêu ca ca, muội ra muộn một chút, chắc huynh đói lắm rồi.

Cô đặt hộp cơm xuống, mở nắp, thức ăn tỏa mùi thơm ngào ngạt. Lương Tiêu thấy tim thắt lại một cách vô cớ, gã ngập ngừng hỏi:

– Muội chuẩn bị cơm canh làm gì? Ta không đói, can chi muội phải vất vả như vậy?

– Vất vả gì đâu. À, đêm qua huynh mất ngủ phải không?

Lương Tiêu ngạc nhiên:

– Sao… sao muội biết?

Hiểu Sương bật cười:

– Muội là đại phu, trông khí sắc của huynh thì biết chứ sao.

Lương Tiêu lúng túng bê hộp cơm lên ăn, chợt nhận ra Hiểu Sương đăm đăm nhìn mình, gã bỗng đỏ mặt ngượng nghịu:

– Tại sao muội lại nhìn ta?

Hiểu Sương tủm tim:

– Tiêu ca ca, nếu muội nhìn huynh cả đời như thế, huynh có sợ không?

Lương Tiêu ngẩn người, gác đôi đũa xuống, bật cười bảo:

– Trời ơi! Mười năm không gặp mà muội trở nên tinh quái quá thể. Còn biết đùa bỡn nữa cơ đấy.

– Không phải là muội trở nên tinh quái, mà Tiêu ca ca ngô nghê hơn xưa mất rồi, ngơ ngơ ngác ngác, y như một con nghé.

Lương Tiêu nhảy dựng lên:

– Gớm quá, giờ lại còn chửi xéo ta nữa?

Gã quẳng hộp cơm, nhảy phắt tới bế bổng Hiểu Sương lên quay tít. Cô gái hơi bất ngờ trước cách biểu lộ tình cảm bột phát ấy, vội can:

– Này, đừng xoay nữa, muội chóng mặt lắm, bệnh nó tái phát bây giờ. Lương Tiêu sực tỉnh:

– Đáng chết, ta quên bẵng cái bệnh của muội.

Gã vội dừng lại, hấp tấp xòe chưởng định truyền chân khí cho cô. Hiểu Sương giữ tay gã, cười khẽ rồi cắn môi nói nhỏ:

– Huynh thật thà quá! Muội lừa huynh đó, muội khỏi bệnh lâu rồi. Lương Tiêu ngạc nhiên lùi lại mấy bước, cảm giác hoan hỉ ngập lòng khiến gã quên bẵng việc trách Hiểu Sương đùa mình. Đột ngột gã chộp tay cô, cười vang:

– Lần này không lừa người ta nữa chứ?

Hiểu Sương chúm chím:

– Lần này không lừa người ta nữa.

Lương Tiêu mỉm cười. Chàng nàng vui vẻ nắm tay nhau dạo bước trong sơn cốc, kể nỗi hàn ôn. Đang đi, họ gặp một cái đầm, nước trong leo lẻo. Hiểu Sương dừng chân bên bờ đầm, soi mình xuống nước. Nhận ra tóc mai đã lẫn vài sợi bạc, cô thần người, lòng bỗng nhói đau. Lương Tiêu đoán được tâm tư Hiểu Sương, nhân thấy hoa tươi đang nở rộ, bèn hái mấy bông màu tím gài vào tóc mai cô. Hiểu Sương vùi mặt vào ngực gã, bỗng bật khóc sụt sùi, Lương Tiêu ôm nàng trong tay, chẳng biết an ủi thế nào cho phải. Hiểu Sương khóc hồi lâu mới ngẩng mặt lên, lau nước mắt:

– Tiêu ca ca, muội không muốn rời xa huynh nữa.

Lương Tiêu cúi nhìn cô:

– Huynh cũng không muốn rời xa muội một giờ một khắc nào nữa. Câu nói ấy, họ đã thầm nhẩm trong lòng hàng ngàn hàng vạn lần suốt những tháng năm qua, lúc này, nó bỗng bật ra tự nhiên và thẳng thắn lạ lùng. Hai người cầm tay nhau, mắt nhìn mắt, tâm ý tương thông, không cần phải giãi bày thêm.

Im lặng đôi hồi, Hiểu Sương lại thở dài:

– Mấy năm nay, muội đã gắng hết sức, tóc có sợi bạc rồi mà vẫn không làm được việc gì nên hơn, thật ngán ngẩm…

Lương Tiêu ngạc nhiên:

– Muội đi khắp trời nam bể bắc, cứu được bao nhiêu người, tại sao lại nói là không làm được gì nên hồn?

– Huynh tính, cho dù một ngày muội cứu được mười người thì một năm giỏi lắm mới được hơn ba ngàn người, mười năm cũng chỉ chừng ba vạn người, huống hồ thực tế một ngày rưỡi muội cứu chưa được mười người, chưa kể có nhiều bệnh muội không chữa nổi. Tóm lại, muội chưa hoàn thành nổi một nửa lời phát nguyện trước Quan Âm đại sĩ năm nào.

Lương Tiêu trầm ngâm:

– Thường có câu: một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Sức một cá nhân dẫu lớn đến đâu cũng là hữu hạn mà thôi. Hiểu Sương này, muội đã truyền y thuật cho Bính nhi, tại sao không mở hẳn một học đường dạy thêm hàng ngàn đồ đệ nữa, rồi đồ đệ ấy sẽ bồi dưỡng đồ tôn, đồ tôn lại đào tạo đệ tử của chúng, cứ thế mãi, tre già măng mọc, chẳng phải sẽ cứu được ức vạn người hay sao?

Hiểu Sương ngỡ ngàng reo lên:

– Tiêu ca ca nói phải lắm! Vậy sắp tới chúng ta dựng căn nhà, chọn vài đứa trẻ thông minh để dạy dỗ chúng.

Lương Tiêu cười cười:

– Xây xong học đường, trước cửa phải treo đôi câu đối nữa.

– Câu đối gì?

Lương Tiêu nghiêm túc nói:

– Vế bên phải là Gót sen giẫm Biển Thước, vế bên trái là Tay ngọc đấm Hoa Đà (Hoa Đà, Biển Thước là hai danh y của Trung Quốc cổ đại)

Hiểu Sương lườm gã, gắt:

– Cái tội bất kính với tiên hiền đã quá lắm rồi, lại còn nói móc muội là hạng phụ nhi đanh đá nữa.

Lương Tiêu cười:

– Đừng trách cứ vội, bên trên ta còn muốn đề một tấm hoành phi, – Vậy à, – Hiểu Sương tò mò. – xấu tốt gì huynh cũng cứ nói thử xem.

Lương Tiêu nhìn thật sâu vào mắt cô:

– Đó là: Diêm vương chịu thua.

Hai người cùng phì cười. Cười ngớt, Lương Tiêu lại bảo:

– Đã có câu đối ở cửa thì cũng phải có thần canh cửa. Phải rồi, ta với Hoa Sinh mỗi tên gác một bên, đứa học trò nào ương bướng, ta sẽ đá bốp vào mông nó, Hiểu Sương trách:

– Khéo đùa, trẻ con làm sao chiu nồi một cú đá của huynh? Ôi, nói là nói vậy thôi, chứ Tiêu ca ca bản lĩnh cao cường đời nào chịu đến canh cửa cho muội. Miếu nhỏ chẳng đám thờ Bụt to, cứ tạ an từ chối trước cho lành.

Lương ĩĩêu lắc đầu:

– Bản lĩnh của ta chỉ toàn những thứ nghe qua thì đao to búa lớn, nhưng thực chất chằng có tác dụng gì cả.

Gã nói mà mắt hằn lên đau đớn. Hiểu Sương bắt gặp cũng buồn theo, lại hỏi:

– Muội học y là mong cứu người, còn huynh, huynh Inuốn làm gì với ngần ấy kiến thức toán học võ học?

Lương Tiêu ngẫm nghĩ rồi nói:

– Nếu không trách ta thiếu thực tế thì ta muốn hoàn thành bốn tâm nguyện.

– Tầm nguyện gì?

Lương Tiêu ngửa mặt nhìn trời, chậm rãi buông từng từ:

– Làm cho thù hận cùng tiêu tan. Quét khỏi cõi đời mọi bạo tàn. Nắn sửa Hoàng Hà thôi lũ lụt. Chiến tranh dập hết tạo bình an.

Hiểu Sương nghĩ thầm: “Muốn khắc phục lũ lụt thì kể còn có thể cố gắng thử xem, chứ ba tâm nguyện kia thực không tài nào hoàn thành nồi“. Sắc mặt cô u ám hẳn đi. Lương Tiêu lại nói:

– Ta đã bảo là thiếu thực tế rồi, muội còn tưởng thật u?

Hiểu Sương gượng cười, nói lảng đi:

– Trên đỉnh Lạc Nhạn phong có một tiểu đình tên là Tụ Tiên đài.

Đứng trên đó nhìn xuống, tầm mắt bao quát được một khoảng không gian rất rộng lớn, kể cũng là một thắng cảnh của Quát Thương sơn, chúng ta lên xem đi.

Lương Tiêu tán thành.

Họ sánh vai lên núi. Hai bên đường đi, kỳ hoa dị thảo trải dày, thi thoảng lại gặp thác đổ trắng xóa, tùng xanh mọc nhô ra trên vách cao. Gần tới đỉnh, thấy thấp thoáng một góc mái đỏ, Hiểu Sương giơ tay trỏ:

– Tụ Tiên đài kia kja!

Đúng lúc ấy, trong đình vẳng ra tiếng cầm tiêu song tấu, tiếng cầm sôi nổi như mẫu đơn nở rộ trong vườn, khoe muôn màu sắc tươi mới; tiếng tiêu hiền hòa như dòng suối chảy êm dưới đá, không vương khói lửa nhân gian.

Lương Tiêu cụt hứng than:

– Chán thế, có người đến trước rồi chứ lị.

Hiểu Sương ghé tai Lương Tiêu thì thầm:

– Tiếng đàn là của bà nội, còn tiếng tiêu là của sư phụ muội. Chắc hẳn hai lão nhân gia lên đây bằng lối khác.

Hơi thở cô thơm như tan, Lương Tiêu thấy tê cả má, bỗng mỉm cười nghĩ: “Hoa Vô Xuy và Liễu Tình hợp tấu cầm tiêu, Công Dương tiên sinh mà biết thì sẽ có cảm giác gì nhỉ? ‘’. Hiểu Sương lại hỏi:

– Tiêu ca ca, mình lên nữa không?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Cao nhân hợp mặt trên Tụ Tiên đài, bọn hậu sinh chúng ta đừng nên phá hứng của các vị.

Biết gã vẫn còn nhiều mắc mứu trong lòng, không muốn gặp mặt ai cả, Hiểu Sương cũng thuận theo.

Tiếng cầm tiêu kết hợp rất đồng điệu, một lúc sau, đàn dứt tiêu ngưng, Hoa Vò Xuy cười hỏi:

– Các vị thấy ta và đạo trưởng diễn tấu thế nào?

Liễu Tình thở dài:

– Hổ thẹn quá! Tài đàn của Hoa thư thư thật vô song, Liễu Tinh tự phô cái xấu ra rồi.

Cửu Như cười:

– Mặc dù không dễ cảm nhận, nhưng quả thực hai vị diễn tấu đều hết sức tinh thục. Khúc vừa rồi đấy, đủ dài đủ ngắn, đủ cương đủ nhu, âm điệu phong phú khác hẳn thói thường.

Công Dương Vũ cảm thán:

– Lão hòa thượng phẩm bình xác đáng lắm, bản hòa thanh này thực nhiều ý vị.

Ông thở dài vẻ còn nuối tiếc, Thích Thiên Phong bỗng ngáp to, làu bà làu bàu:

– Ý vị gia vị cái khỉ gió, lão phu nghe mà buồn ngủ dip cả mắt. Thôi mới chả đàn, tịch tang huýt huýt, chối tai chết đi được, chẳng bằng tìm mấy ả kỹ nữ dưới chân núi lên hát vài tiểu khúc cho náo nhiệt Đỉnh núi lặng đi, rồi giọng Lăng Thủy Nguyệt ngượng ngùng:

– Đúng là đàn gảy tai trâu, ông làm tôi mất mặt quá.

Thích Thiên Phong hừ mũi:

– Ở, lão phu không biết thưởng nhạc, lão phu chi biết đánh nhau thôi. Các người chẳng cần phải giờ mấy cặp mắt cá chết ấy ra lườm ta, Chỗ này không lưu được lão gia, tự khắc có chỗ khác, ta đi tìm Lương Tiêu tỉ thí võ công cho yên chuyện, Lương Tiêu nghe mà phát hoảng, vội ôm Hiểu Sương nhao mình lên cao mấy trượng, bám vào một gờ đá, treo lơ lửng trên đấy. Thích Thiên Phong ào ngay qua như cơn gió, chạy xuống đường núi bên dưới, ngoặt qua khúc quanh rồi biến mất. Lương Tiêu thấy lão đi xa hẳn mới thở phào nhẹ nhõm, Hiểu Sương mỉm cười;

– Đêm qua sư phụ mất bao công khuyên giải điều hắn lẽ thiệt, cuối cùng ông bà cũng thuận lời, quay lại sum hợp một nhà. Đúng là đại hỉ sự.

Công Dương Vũ ngang tàng phóng túng bấy lâu, chẳng ngờ đến cuối đời lại ép mình về thói thường. Một con người ngông nghênh bất cần là thế mà cũng không cưỡng nổi sự già lão về tinh thần. Lương Tiêu càng nghĩ càng bùi ngùi, chợt bảo:

– Theo ta, ông bà muội sở dĩ bất hòa hoàn toàn là vì hiểu nhau quá rõ, chứ chẳng vì lẽ gì khác cả.

Hiểu Sương thắc mắc:

– Nghĩa là sao?

– Hai vị đều rất tinh tế mẫn tiệp, giỏi dò đoán tâm ý đối phương, vốn dĩ tâm đầu ý hợp mới sáng tạo được một pho kiếm pháp tuyệt vời đến mức chẳng ai chiến thắng nổi như thế. Chỉ hiềm, là người tất sẽ có mặt này mặt khác, chỗ tương đồng thì chẳng cần nói làm gì, nhưng một khi nhiều điểm không hợp tính quá sẽ khó lòng tránh khỏi tranh cãi, tranh cãi nhiều lại dẫn đến mâu thuẫn. Hai lão nhân gia thừa hiểu các ưu khuyết của nhau, khổ nỗi cả hai đều tự phụ, biết rõ con người đối phương mà không chịu nhún nhường, hiểu lầm mỗi ngày một sâu sắc. Lâu dần thành ra mỗi người một ngả.

Hiểu Sương nghĩ một lúc rồi cười bảo:

– Chúng ta may mắn hơn nhỉ! Vì Tiêu ca ca thông minh còn muội ngốc nghếch.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Muội không ngốc, nhưng muội biết gò bản thân mình để nhường nhịn ta.

Hiểu Sương nhoẻn cười tự nhủ: “Huynh thì cũng có kém gì, đường đường là đại toán gia, đại tướng quân, lại từ bỏ vinh hoa phú quỹ, theo muội đi làm nghề y“. Cô ngả đầu vào ngực Lương Tiêu, lòng êm đềm khôn tả.

Đúng lúc ấy, từ chân núi có một bóng người chạy vù lên. Lương Tiêu trông thân pháp linh hoạt, tưởng Thích Thiên Phong quay lại, nhưng khi nhìn rõ mặt mới nhận ra là Vân Thù. Gả ta lộ vẻ hoảng hốt rõ rệt, chẳng hề lưu ý gì đến xung quanh, vừa chạy thật lực vào đình vừa gọi ầm ĩ:

– Sư phụ, sư mẫu, các vị tiền bối, có chuyện không ổn rồi!

Công Dương Vũ cau mặt bảo:

– Cuống cái gì, trời sụp có hảo hán đỡ mà.

– Vâng ạ! – Vân Thù xấu hổ đáp, rồi mau chóng nhắc đến việc chính. – Đồ nhi vừa được tin: Trấn Nam Vương Thoát Hoan đang dẫn mấy vạn binh mã tiến vào vùng núi Quát Thương, hướng thẳng về phía Thiên Cơ cung.

Ai nấy giật nảy mình, Lăng Thủy Nguyệt hỏi dồn:

– Vân hiền điệt, liệu có nhầm lẫn gì không?

Vân Thù thở dài:

– Không hề nhầm lẫn. Quân Thát tiến tới rất nhanh, thế như sét đánh không kịp bưng tai.

Tất cả im bặt, không khí lặng ngắt, cuối cùng Hoa Vô Xuy lên tiếng:

Lương Tiêu gật đầu:

– Lão ấy đã đầu nhập dưới trưởng Thoát Hoan, nhưng không hiểu vì sao đến nay mới hành động.

Vân Thù nói, đầu mày nhiu nhíu vẻ tư lự:

– Dễ đoán thôi mà. Mấy năm trước chư vương Mông cổ liên tục khiêu chiến khuấy đảo triều đình nhà Nguyên, bọn Thát chẳng thể lưu tâm xử lý các sự vụ ở phương nam. Hiện nay các phiên vương đã bị Thổ Thổ Cáp đánh dẹp, bọn Thát mới có lúc rảnh tày, và việc đầu tiên chúng tiến hành là đối phó với nghĩa quân phương nam. Chỉ lạ một nỗi, vì sao chúng biết thủ phủ của nghĩa quân là ở Thiên Cơ cung?

Lương Tiêu lạnh lùng nói:

– Có gì là lạ? Vì cái sướng khoái nhất thời của bản thân mà ngươi phóng tay thả hai tên lạt ma đi, chúng ra ngoài kia gặp đồng bọn, quân Thát lại không biết ư? Hơn nữa, chúng trà trộn vào đây được thì người khác cũng trà trộn được. Chỉ e lúc này đối phương đã dò biết hết hư thực ra sao rồi.

Vân Thù tím mặt lại, định phản bác, Thích Thiên Phong đã cao giọng:

– Dào ôi, các ngươi cãi vã làm khỉ gì? Hãy xem lão tử đoạt lấy một chiếc thuyền chiến, dẹp tan uy phong của chúng nó đây!

Nói là làm, không để Lăng Thủy Nguyệt kịp ngăn cản, Thích Thiên Phong đã nhao mình ra như cơn gió, thi triển Thừa phong đạo hải đến gần thuyền chiến của quân Nguyên. Đám binh lính đều sửng sốt, cùng gào thét vang trời.

Thích Thiên Phong định nhảy lên đầu thuyền, chợt một trận mưa tên từ phía cửa khe vỏ sò hất ra xối xả. Thích Thiên Phong thét lớn, quạt chưởng gạt bay làn tên, chân khí hao hụt khiến lão phải hạ thấp độ cao, chệch khỏi mũi thuyền. Làn sóng tên thứ hai đổ ào tớỉ, Thích Thiên Phong xòe song chưởng chống đỡ, lức này chân đã chạm mặt hồ. Khi loạt tên thứ ba đến nơi, hai chân Thích Thiên Phong đã nhúng hẳn xuống nước, mất thăng bằng nên chân tay chới với, trừng ngay một mủi tên vào đùi. Quân Nguyên vẫn trút tên ào ào, tiếng hò hét càng rầm rộ. Thích Thiên Phong đang luống cuống, chợt ai đó túm chặt lấy lưng áo lão lôi tuốt về sau hẳn mấy trượng, lúc ngẩng lên lão mcd nhận ra đó là Lương Tiêu.

Lương Tiêu, tay trái nắm Thích Thiên Phong, tay phải múa kiếm đánh bay tên bắn, thành thử không rảnh tay nào ném gỗ làm bàn đạp để trở về bên Thiên Cơ cung. Gã đang bối rối thì nghe Hoa Sinh thét: “Này!”, đoạn chú bẻ một thanh lát lôi đài, vận Đại Kim cương thần lực phóng mạnh ra.

Thanh lát bay xoay đi trên mặt hồ, chỉ nháy mắt đã đến dưới chân Lương Tiêu. Gã trở mình điểm mũi chân lên, Hoa Sinh liền ném ra tấm vát lát thứ hai. Cứ thế, lúc lên lúc xuống, khi Hoa Sinh ném đến thanh thứ mười sáu, Lương Tiêu đã nhấc được Thích Thiên Phong về lôi đài. Lăng Thủy Nguyệt mừng ứa nước mắt, luôn mồm nói:

– Lương công tử, đa tạ đa tạ!

Bà đỡ Thích Thiên Phong, nhổ mũi tên giúp lão, vừa xót xa vừa bực tức, chỉ muốn mắng cho mấy câu, nhưng không sao mở lời được, nước mắt cứ chảy ròng ròng. Thích Thiên Phong xuất kích thất bại, đã đủ ngượng đủ buồn, nay thấy vợ khóc thì cuống quýt nói:

– Lão thái bà, tại sao lại khóc? Ta chỉ trúng mỗi một mũi tên, vả còn cách ruột già xa lắm. Tên bắn kiểu này có mười mũi nữa cũng chẳng hề hấn gì.

Lăng Thủy Nguyệt phát cáu:

– Lão đầu tử đáng chết, tôi làm bạn với ông bốn mươi năm thì thấp thôm đủ bốn mươi năm. Tại sao ông không chịu an phận một chút cho tôi khỏi lo, đặng sống thọ thêm dăm năm nữa?

Thấy Lăng Thủy Nguyệt kích động đến nỗi không buồn che giấu cảm xúc của mình trước bao nhiêu người, Thích Thiên Phong chỉ dám lắp bắp mấy câu rồi thôi.

Chuyến này, chưa bẻ gãy uy phong của địch nhân mà tuyệt đinh cao thủ của mình đã bị thương, quần hào đều mất tinh thần. Đúng lúc ấy, từ phía quân Nguyên có một con thuyền nhỏ trôi ra, trên thuyền là một viên tướng, đầu đội thiết khôi, mình vận giáp da. Hắn gọi lớn:

– Huynh đệ cũ là Thổ Thổ Cáp cầu kiến Lương Tiêu!

Hai viên sĩ tốt khua mái chèo tăm tắp, chỉ thoáng chốc đã đưa thuyền đến giữa hồ.

Lương Tiêu cau mày, Liễu Tình khuyên:

– Việc này lạ lùng quá đỗi, e rằng có âm mưu, ngươi không nền xuống thì hơn.

Cửu Như bàn:

– Âm mưu gì mặc kệ nó. Lương Tiêu, cơ hội này hiếm có đấy, kẻ kia đã tự dẫn xác đến, cứ bắt lấy hắn rồi dùng làm con tin buộc quân Nguyên phải lui binh.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ chốc lát, đoạn ngoảnh sang bảo Hiểu Sương:

– Ta đi một lát rồi về.

Hiểu Sương gật đầu:

– Huynh cẩn thận nhé!

Họ nhìn sâu vào mắt nhau một khắc, rồi Lương Tiêu nhảy lên một chiếc thuyền nhỏ, lướt ra giữa hồ. Hai thuyền tiến lại gần nhau, một trong hai tên lính tung mỏ neo móc thuyền của Lương Tiêu cố định vào thuyền mình.

So với năm xưa thì tướng mạo Thổ Thổ Cáp chẳng thay đổi mấy, chỉ khác là bộ râu quai nón dày rậm hơn, ánh mắt dử dằn hơn. Hai người chằm chằm nhìn nhau, Thổ Thổ Cáp trỏ ngón tay xuống đầu thuyền:

– Ngồi đi!

Lương Tiêu gật đầu. Hai người ngồi đối diện, Thổ Thổ Cáp đưa bì rượu sữa ngựa:

– Mời!

Lương Tiêu đón lấy, bật nắp uổng. Họ cùng im lặng đến khi bì thứ tư cạn trơ. Thổ Thổ Cáp quăng hết bì rỗng xuống hồ, mỉm cười bảo:

– Lương Tiêu, nếu ngươi định bắt ta làm con tin thì bây giờ là lúc thích hợp nhất đấy.

Lương Tiêu lắc đầu:

– Hãy nói trước đi, ngươi đến đây nhằm mục đích gì?

Thổ Thổ Cáp không trả lời thẳng vào câu hỏi:

– Cha mẹ anh em của Tam cẩu Nhi, Dưang Tiểu Tước và Vương Khả đều đã được thu xếp ổn định, vinh hoa phú quý hưởng mãi không hết. Ngươi cứ yên tâm.

– Rất tốt, – Lương Tiêu đáp gọn.

Thổ Thổ Cáp bỗng buồn hẳn đi, lại kể:

– Hồi giao chiến với các phản vương ở Mạc Bắc, Nang cổ Ngạt bị đại quân của chúng vây hãm, lương cạn binh hết nên đã tự vẫn.

Đầu mày Lương Tiêu run run, mãi gã mới nói được:

– Da ngựa bọc thây, kể cũng tròn chí làm trai.

Họ lại im lặng. Thổ Thổ Cáp lấy tiếp hai bì rượu sữa ngựa, ném cho Lương Tiêu một bì. Hai người ngửa cổ tu cạn, uống hết bì ấy lại sang bì khác. Nhân mã hai bên không nghe thấy họ nói gì, chỉ thấy uống ưng ực mãi không thôi, đều thắc mắc đầy một bụng.

Sau tuần rượu thứ ba, Thổ Thổ Cáp cất giọng sang sảng:

– Chuyện xưa đá kể hết, giờ bàn vào việc chính.

– Xin mời, – Lương Tiêu đáp.

Thổ Thổ Cáp thủng thẳng nói:

– Thiên Cơ cung là sào huyệt của nghĩa quân miền nam, Trấn Nam Vương đã muốn đập tan từ lâu nhưng tới nay mới tổ chức tấn công được. Một là vì mấy năm trước bận chinh phục An Nam và Chiêm Thành. Hai là vt cung này có lắm cơ quan bẫy rập, Mình tiên sinh dự trù phải tổ chức được mấy vạn tinh binh mới đánh phá nổi, do đó cần thời gian chuẩn bị lực lượng.

Lương Tiêu hỏi xen:

– Mình tiên sinh là Minh Quy ấy hả?

– Còn ai vào đây nữa – Thổ Thổ Cáp nói. – Bây giờ ông ta là quân sư của Trấn Nam Vương. Chư vương tây bắc đã bị dẹp hết, Oa Khoát Đài Hãn Hải Đô cũng đã khép nép xưng thần, cho nên thánh thượng điều ta xuống nam để trợ giúp Trấn Nam Vương diệt trừ dư nghiệt loạn đảng Nam triều, Lương Tiêu lạnh nhạt nói:

– Uy danh các hạ làm chấn động càn khôn, vang lừng đương thế, thực đáng chúc mừng.

Thổ Thổ Cáp nghe ra hàm ý bêu riếu, bèn nhăn mặt bảo:

– Lương Tiêu, ngươi đừng mai mỉa ta. Kể về tác chiến sa trường, ta kém xa ngươi. Nhưng lần này có Mình tiên sinh phác kế hoạch, Trấn Nam Vương và ta đã chuẩn bị chu đáo hết rồi mới đến, chỉ ngày một ngày hai là sẽ phá được ThiỂn Cơ cung, Sư Tầm, Long Nha kể rằng bọn Vân Thù cũng đang ở đây, trận chiến hôm nay là khó tránh khỏi rồi.

Lương Tiêu im lặng hồi lâu, chợt thở dài:

– Ngươi nói tiếng Hắn lưu loát hơn xưa nhiều.

Thổ Thổ Cáp không rõ ý Lương Tiêu ra sao, lại ngần ngừ bảo:

– Ta không nói chơi đâu, sớm thì đêm nay, muộn thì sáng mai, Thiên Cơ cung sẽ bị công phá. Riêng ngươi, chỉ cần ngươi ngỏ một lời thôi, Thổ Thổ Cáp này nguyện đem hết công lao phú quý ra đảm bảo tính mạng cho. Nhiều năm nay ta chinh đông phạt tây vì thánh thượng, lập được vô vàn chiến tích, tiếng nói trong triều không phải là nhỏ.

Lương Tiêu xua tay:

– Ngươi tử tế lắm. Duy có điều này ngươi nên biết, phần lớn bản lĩnh của ta bắt nguồn từ Thiên Cơ cung. Làm người trên đời không nên quên gốc, ăn quả phải nhớ kẻ trông cây. Nay Thiên Cơ cung gặp nạn, Lương Tiêu sẽ quyết chiến tồn vong với nó, chẳng đời nào lo thoát thân một mình đâu.

Nói đến câu cuối, giọng gã đanh và vang như tiếng đá vàng va nhau.

Thổ Thổ Cáp nín lặng hồi tâu rồi đứng lên:

– Được, Lương Tiêu, nếu ngươi muốn bắt ta làm con tin thì xuất thủ đi.

Hai tên binh sĩ phía sau nghe thế phát hoảng, cùng tuốt phắt đao ra, Thổ Thổ Cáp giơ tay cản, trầm giọng bảo:

– Không được vọng động.

Hai tên ngơ ngác, lại tra đao vào vỏ.

Lương Tiêu mỉm cười, cũng đứng lẻn:

– Ngươi lấy lễ huynh đệ tiếp đón ta, Lương Tiêu này cũng lấy lễ huynh đệ đáp lễ ngươi. – Gã phất tay áo chấn gãy mỏ neo, nói rành mạch. – Giã biệt từ đây, hẹn ngày gặp lại!

Thổ Thổ Cáp rùng mình, mắt loáng ánh ] ệ, hắn chắp tay cúi mình, giọng khê đặc:

– Được, giã biệt từ đây, hẹn ngày gặp lại!

Hai người đều là hạng quyết đoán, điều cần nói đã nói hết, ai nấy quay thuyền về bên mình.

Lương Tiêu nhảy lên lôi đài, Thích Thiên Phong giậm chân:

– Tại sao không bắt hắn về đây?

Ai nấy đều lộ vẻ nghi hoặc, Lương Tiêu lắc đầu:

– Thực lòng tạ lỗi với các vị, nhưng đại trượng phu có việc nên làm, có việc không nên làm. Dầu sao tại hạ cũng đã quay lại, tức là đã sẵn lòng đồng tử đồng sinh với các vị để bảo vệ Thiên Cơ cung.

Cận Văn cười khẩy:

– Ngươi thương lượng với bọn Thát để quay lại làm gian tế, bán rẻ Thiên Cơ cung thì có…

– Câm đi! – Vân Thù bỗng quát lên.

Cận Văn nghe thét im thít. Vân Thù ngước mắt nhìn trời, trầm giọng nói:

– Văn nhi, con hãy nhớ cho kỹ. Hắn, tuy là đại địch, là kẻ thù của chúng ta, nhưng không phải loại tiểu nhân gian hiểm. Nhứng việc để hèn ti tiện, kẻ nào khác có thể làm, nhưng hắn không bao giờ làm.

Tuy nói đỡ cho Lương Tiêu, nhưng Vân Thù không hề liếc mắt về phía gã lấy một lần.

Nghe vậy, chẳng ai dám xì xào bàn ra tán vào nữa. Cận Văn hằn học nhìn Lương Tiêu, đoạn lẳng lặng lui xuống. Lương Tiêu không ngờ Vân Thù lại lên tiếng giải vây cho mình, cứ đứng ngẩn ra, cảm giác trong lòng rất khó tả. Công Dương Vũ gật đầu:

– Phải đấy, đại địch đã đến trước mắt, đừng để trúng kế li gián của bọn chúng.

Lương Tiêu sực tỉnh, buồn bã nghĩ thầm: “Có khi Thổ Thổ Cáp giờ kế li gián thật chứ chưa biết chừng, Nhưng dù sao mặc lòng, người đời có thể vô tình vô nghĩa, chứ ta quyết không vô nghĩa vô tình. Chí ít hắn đã nói thực, trận chiến hôm nay là không tránh khỏi, bắt hắn cũng chẳng có tác dụng gì“.

Tất cả lặng lẽ quan sát. Chỉ lát sau, tiếng trống trận rền vang, chiến thuyền của quân Nguyên ùn ùn đổ ra khỏi cửa khe, lừ lừ tiến về phía Thể Nguyệt cốc, binh sĩ đầu thuyền đã căng cung nỏ lên tên sẵn sàng, đầu mũi tên lấp lóa dưới ánh mặt trời. Hoa Vô Xuy bỗng nói:

– Chúng ta rút khỏi lôi đài cả đi. Thanh Uyên, con cùng nhân thủ các nhà mai phục trong thạch trận, trấn giữ lối vào. Nhứng người khác theo ta rút về cung.

Hoa Thanh Uyên vâng lệnh. Khi tất cả rời lôi đài thì quân Nguyên cũng đã tới gần, bắn tên rất rát.

Vào tới cung, mọi người đều lộ vẻ lo lắng, Vân Thù bỗng nói:

– Sư mẫu, chiến thuyền đang phong tỏa cửa cốc, đằng sau lại không còn đường lui, Thiên Cơ cung đến rơi vào tuyệt lộ mất thôi.

Hoa Vô Xuy lắc đầu:

– Không sao, đủ Minh Quy có dẫn đường, chúng ta vân còn cách đối phó. Mấu chốt điều khiển nằm trong này cả, cứ để bọn Thát vào trận, ta sẽ điều khiển các cơ quan, cải biến đường hướng trận pháp để bọn chúng tiến không lối lui không đường, mất mạng luôn ở đó. Trong cốc hiện có lương thảo đủ dùng hai mươi năm, ngoài ra vẫn đều đặn trông trọt chăn nuôi, xem bọn Thát thi gan với chúng ta được đến bao giờ.

Vân Thù thở dài:

– Mong rằng được như lời sư mẫu.

Gã lui sang bên, mặt mày buồn bã.

Đến nửa đêm, ngoài cốc quân Nguyên hô lên ầm ĩ, tiếng hô vọng cả vào cung, không ai chợp mắt nổi, cứ thấp thôm lắng nghe động tĩnh. Tinh mơ hôm sau, Hoa Thanh Uyên phái người về báo rằng quân Nguyên vẫn chưa vào thạch trận. Hoa Vô Xuy có vẻ lo ngại, chắp tay sau lưng đi đi lại lại, Công Dương Vũ ngồi lặng trên ghế, cau trán trầm tư. Lương Tiêu, Vân Thù, Cửu Như, Liễu Tình, Lăng Thủy Nguyệt đều đăm chiêu suy nghĩ, ngay cả Thích Thiên Phong cũng yên tĩnh khác thường. Đến chừng giờ thin, quân Nguyên bỗng hò la vang dội, sau đó có tiếng động đoành đoành như sấm nổ. Ai nấy giật nảy mình, Vân Thù và Lương Tiêu đồng thanh:

– Chúng đến rồi!

Hoa Vô Xuy dừng bước, mặt lạnh như băng, người run lên. Công Dương Vũ từ tốn đứng dậy, nắm lấy tay bà.

Liền đó là một tiếng động rền vang, rồi liên tiếp ba tiếng tương tự, cuối cùng là một âm thanh cực kỳ ghê gớm, tựa như vật gì đang sụp đổ. Diệp Chiêu chạy ào vào sảnh, mặt tái nhợt, run run báo:

– Hỏng rồi, bọn Thát đã dùng hỏa pháo bắn vỡ bánh xe Thiên Toàn.

Hoa Vô Xuy lảo đảo ngồi phịch xuống ghế, mắt đờ trệ, mặt cắt không còn hột máu.

Vân Thù nhảy bật dậy, cả quyết nói:

– Cứ xông ra đánh một trận còn hơn là ngồi lặng chờ chết. – Gã khoa tay. – Ai là hảo hán, hãy ra cùng ta!

Quần hào đều rộ lên tán đồng và chạy theo, các đại cao thủ cũng vội vã đi cùng. Thích Thiên Phong bất chấp vết thương, khập khiễng đứng dậy, nhưng Lăng Thủy Nguyệt ngăn lại.

Quần hào tay khiên tay đao, hùng hổ lao ra khỏi thạch trận. Quân Nguyên đã dàn chiến thuyền thành khối thành hàng vững chãi như thành trì. Cả bọn vừa nhô ra khỏi cốc, quân Nguyên lập tức trút tên như mưa, khiên sắt mau chóng nứt vỡ hết, đây đó bắt đầu nhốn nháo những tiếng la thảm thiết.

Lương Tiêu, Vân Thù, Cửu Như, Hoa Sinh và Công Dương Vũ đội tên xông đến gần thuyền. Sư đồ Cửu Như mỗi người vác một súc gỗ lớn, vận kình quét ngang, những chiến thuyền bị quét trúng đều vỡ tan tành. Sư đồ Công Dương Vũ thì xuất song kiếm tung hoành giữa trận giặc, không ai đương cự nổi. Lương Tiêu một mình một kiếm xông thẳng lên thuyền địch, lao đến dãy hỏa pháo sắt đúc, ánh tím chcfp nháng trên tay, tiếng kim loại chạm nhau rổn rảng, chỉ một đường kiếm đã xả đôi cả pháo sắt lẫn pháo thủ. Lương Tiêu hủy được một khẩu pháo, liền chạy vòng tránh tầm mưa têri nhảy lên một chiến thuyền khác. Thiên Phạt kiếm gặp người chém người, gặp pháo chém pháo, sau một đợt ánh tím rực sáng rồi tắt ngấm, một khẩu pháo nữa lại bị vô hiệu hóa.

Lương Tiêư mau chóng phá hủy hết năm khẩu pháo sắt, chợt nghe phía sau rộ lên những tiếng gào thảm thiết, gã ngoái đầu nhìn lại thì thấy quần hào lớp chết lớp bị thương nằm la liệt, máu chảy nhuộm đỏ mặt hồ. Công Dương Vũ cũng trúng một mũi tên, đang được Vân Thù vừa chiến đấu vừa dìu lùi lại, sư đồ Cửu Như dẫu có binh khí nặng cũng chỉ đánh nát được các chiến thuyền ở gần bờ. Quân Nguyên rút kinh nghiệm, kìn kín đổ thuyền ra nhưng chỉ dừng ở ngoài xa, tản thành hình rẻ quạt xả tên vào bờ. Kình tiễn rào rào như mưa, tưởng chừng không bao giờ ngưng lại được. Cửu Như vừa vũ động súc gỗ gạt tên vừa thét gọi Lương Tiêu:

– Tạm rút lui thôi.

Lương Tiêu thở dài, tung mình nhảy xuống chiến thuyền, thuận thế rạch một kiếm trong không trung, kiếm khí lan tới đâu, chiến thuyền bửa đôi tới đó. Đoạn gã dồn sức tấn công để mờ đường máu ra khỏi trùng vây, đạp nước chạy lên bờ, bảo vệ những người bị thương lui vào thạch trận.

Quần hào trở về cung kiểm điểm nhân số thì thấy đã ngót mất ba phần mười, những người sống sót hầu như đều bị thương, Công Dương Vũ và Hoa Sinh cũng trúng tên, Công Dương Vũ bị thương tương đối nặng, nhưng tính khí ông quật cường, dù máu chảy ướt áo vẫn không thay đổi sắc mặt, cũng không để người khác dìu đỡ. Hiểu Sương và Triệu Bính tất tả lấy thuốc và băng ra cứu chữa cho mọi người.

Thích Thiên Phong đang bổn chôn chờ đợi, thấy Công Dương Vũ về thì phì cười:

– Lão đồ gàn, ngươi cũng bị thương à? Hay quá, hay quá!

Lăng Thủy Nguyệt cáu kỉnh gắt:

– Lúc này mà ông còn nói được những lời ấy ư?

Thích Thiên Phong cũng phát tức:

– Tại bà cả! Nếu bà để ta tham chiến thì đảm bảo bọn Thát chỉ có nước vãi đái quỳ lạy xin tha, còn lão đồ gàn, dẫu võ công dở tệ thật đấy, nhưng cũng chẳng đến nỗi bị thương nặng thế này.

Công Dương Vũ nghe mà giận sôi, cười khẩy bảo:

– Tên họ Thích kia, ngươi chỉ giỏi leo lẻo cái mồm, vừa rồi tại sao ta l chẳng thấy bóng dáng ngươi đâu cả? Hừ, cao – thủ – đảo – Linh – Ngao, thực ra chỉ là cái giống cao thủ rùa rút cổ!

Lời nói hệt như đổ thêm dầu vào lửa. Thích Thiên Phong nhảy dựng lên, đùng đùng la hét:

– Khốn kiếp, ngươi tưởng ta muốn ngồi suông ở đây lắm đấy à? Được rồi, bây giờ hai chúng ta đều bị thương, chẳng ai lợi thế hơn ai cả. Lại đây tỉ thí mau, đứa nào không nhận lời thách thức mới là con rùa rút cổ.

Công Dương Vũ phất tay áo, cười nhạt:

– sẵn sàng phụng bồi đến cùng.

Lăng Thủy Nguyệt thấy Lương Tiêu đứng ngay gần đấy, vội nài:

– Lương công tử, xin can giúp.

Lương Tiêu cười buồn, chống kiếm đứng xen vào giữa hai người. Thích Thiên Phong rú rít:

– Lương tiểu tử, ngươi giúp bên nào?

Lương Tiêu nói:

– Tiểu tử chả giúp bên nào, đại địch đang ở ngay ngoài kia, hai vị tiền bối lại ĩỗi rãi đến mức tranh cãi với nhau à?

Thích Thiên Phong bình sinh chỉ coi trọng mỗi chuyện thắng thua, tự nhủ hiện đang bị thương nặng, chẳng địch nổi Lương Tiêu, đành tức giận hừ một tiếng rồi hậm hực ngồi xuống. Công Dương Vũ thấy đối phương đã lui, cũng chẳng muốn thúc ép, vả chàng vết thương dội lên đau quá, ông đành ngồi xuống điều tức.

Đến giờ mùi, quân Nguyên lại điều hòa pháo tới, nhưng không vào gần bờ, chỉ đứng ngoài xa oanh kích Thiên Xu và Thiên Toàn. Lương Tiêu xông ra ba lần, đều bị mưa tên đầy lui. Cuối giờ thân đầu giờ dậu, Thiên Xu sụp xuống giữa nhứng tiếng nổ đùng đoàng. Chúng nhân Thiên Cơ cung nhìn ra, nước mắt đầm đìa. Hoa Vô Xuy cũng đánh mất sự điềm tĩnh thường thấy, run rẩy khóc nức lên:

– Tầm huyết bốn trăm năm của tổ tiên bị hủy hoại chi trong một ngày, đám con cháu bất hiếu chúng ta còn mặt mũi nào sống trên đời nữa?

Ai cũng buồn thảm. Sưy tính hồi lâu, Vân Thù nói:

– Nếu cả ba bánh xe Thiên Cơ đều bị hủy thì uy lực của Lưỡng nghi ảo trần trận cũng suy giảm, quân Nguyên lại được Minh Quy chỉ dẫn thì sẽ vào cung rất dễ dàng. Hiện thời chúng ta chỉ còn cách đột phá vòng vây mà ra thôi.

Công Dương Vũ cười nhạt:

– Kế cái kiểu gì thế? Bọn Thát đang đứng bít lấy cửa khe, phận chúng ta hiện như cua trong giỏ rồi.

Lăng Thủy Nguyệt thở dài:

– Xông ra được bên ngoài thì sẽ dễ ứng phó hơn. Hiện tại con trai lão thân là Hải Vũ đang neo tám chiếc thuyền lớn ngoài cửa sông Tiền Đường, chúng ta đột phá vòng vây ra rồi sẽ dong thuyền vượt biển quân Thát chẳng làm gì được đâu.

Mỗi người một ý, lao xao bàn tán, tranh luận mãi cũng không đi đến kết luận nào cả. Ở ngoài xa, tiếng pháo cứ nổ inh tai, đá bắn vẫn dội liên miên vào bánh xe Thiên Cơ. Hoa Vô Xuy đã nín khóc, bà cắn chặt môi, mặt nặng như đá đeo.

Lương Tiêu trước sau không nói một lời, ngẫm nghĩ hồi lâu, gã chợt vòng tay nói với Hoa Vô Xuy:

– Hoa tiền bối, nếu vãn bối đoán không lầm thì trong cung vẫn còn một đường ra khác.

Hoa Vô Xuy lạnh lùng nhìn gã, Hoa Thanh Uyên khẽ nhíu mày. Quần hào vốn đang tuyệt vọng, nghe thấy câu đó lập tức phấn chấn tinh thần, mọi ánh mắt dồn cả vào Hoa Vô Xuy, nhưng bà ta dửng dưng phủ nhận:

– Thiên Cơ cưng nằm giữa bốn mặt núi, làm gì có đường ra nào nữa.

Lương Tiêu kiên nhẫn nói:

– Thiên Cơ cung các đời đều có bậc trí giả, không thể không lường trước cục diện hôm nay. Trong cung nhất định có thiết lập đường rút lui.

Hoa Vô Xuy im lặng, nét mặt không biểu lộ gì. Hoa Thanh Uyên vụt tiến lên, khẽ nói:

– Mẫu thân…

Hoa Vô Xuy đanh giọng cắt ngang:

– Thanh Uyên, con không nhớ tới lời giáo huấn của các bậc tổ tiên khai sáng Thiên Cơ cung à?

Hoa Thanh Uyên run rẩy cúi đầu:

– Con nhớ, sách còn nguời còn, sách mất người mất.

Hoa Vô Xuy dịu nét mặt, gật đầu:

– Nhớ là được rồi. Bốn trăm năm nay, Hoa gia ta trước sau vẫn gìn giữ kho tàng thư tịch đồ sộ kia, chưa từng để thất lạc một quyển nào. Đứng trước nguy cơ, chỉ còn một cách là liều chết bảo vệ sách vở, không thể vứt đấy mà đào tẩu được.

Nghe câu này, ai cũng hiểu quả thật Thiên Cơ cung có lối thoát hiểm, nhưng Hoa Vô Xuy lại đặt bảo điển cao hơn tính mạng, thà phơi thây trong chiến hỏa cũng không chịu bỏ sách thoát thân. Bọn lục lâm hào kiệt bắt đầu dao động, có kẻ nói:

– Hoa gia các người muốn tử thủ với đống sách thì mặc kệ các người, nhưng tại sao lại giở trò chết trôi lôi chết đuối, bắt bọn ta phải tuẫn táng theo như thố?

Được lời như cởi tấm lòng, nhiều kẻ khác nhao nhao tán đồng, song cũng có người bất bình sỉ và những tên nhụt chí. Tuy nhiên người đó lại góp ý:

– Còn người là còn của. Sách còn mà người mất cũng chẳng có tác dụng gì. Chi bằng bảo toàn cái thân mình rồi từ từ ứng phó với bọn Thát.

Quần hào thầm khen phải, những tiếng la ở phản đối thưa thớt dần.

Hoa Vô Xuy bỗng hừ mủi, giọng nham hiểm:

– Bọn Thát là do các ngươi dẫn vào, định phủi tay mà đi ư? – Bà quét ánh mắt lạnh băng khắp mặt mọi người, đột ngột dừng lại ở Lương Tiêu, hằn học nói. – Nếu ngươi không cõng rắn cắn gả nhà thì dẫu Tống triều có diệt vong, Thiên Cơ cung chúng ta cũng chẳng bị liên đới đến nỗi phải ló ra can dự việc đời rồi rước họa vào thân.

Lương Tiêu nghẹn lời, bụng bảo dạ: “Ta đánh thành phá trận, quả thực đều dùng đến kiến thức của Thiên Cơ cung, chẳng chối cãi vào đâu được cả“. Hoa Vô Xuy hừ một tiếng, lại dời ánh mắt sang Vân Thù, xẵng giọng bảo:

– Còn ngươi nữa, nếu ngươi không ngoan cố đối địch với bọn Thát thì đời nào dẫn đến cục diện hôm nay?

Vân Thù cúi đầu nín lặng.

Thảm cảnh Thiên Cơ cung sụp đổ ngay trước mắt khiến Hoa Vô Xuy đổi hẳn tâm tính, cảm thấy kẻ nào trong thiên hạ cũng đều đáng băm vằm mổ xẻ. Thình lình, bà bật lên một tràng cười dài, tiếng cười đanh ác khiến ai nấy sởn tóc gáy. Cười dứt, bà nghiến răng, rít lên đầy thù hận:

– Các ngươi đừng hòng nghĩ đến việc trốn thoát, tất cả an phận ở lại đi.

Quần hào lại xôn xao, có kẻ hậm hực:

– Hoa Vô Xuy, tại sao bà nói vậy? Chúng ta đến phó hội là do nể mặt Vân đại hiệp chứ không phải vì coi trọng thể diện của Thiên Cơ cung nhà bà. Bà dựa vào cái gì mà cầm chân chúng ta ở đây chịu chết?

Hoa Vô Xuy cười nhạt:

– Chỉ mình lão thân biết mặt đạo thoát hiểm, cho dù các ngươi có giết lão thân cũng đừng mơ thoát nạn.

Quần hào phẫn nộ dồn cả lại. Đệ tử Thiên Cơ cung liền đứng chắn trước mặt Hoa Vô Xuy để bảo vệ bà. Đôi bên bỗng chốc trở thành thù địch. Lăng Thủy Nguyệt cau mày bảo:

– Hoa muội tử cứ cho tà những kẻ khác đáng chết đi, nhưng còn phu phụ ta? Chúng ta có lỗi gì với muội?

Hoa Vô Xuy vẫn trơ trơ:

– Thế thì sao? Cháy chết cả cá dưới đầm, thư thư hãy tự trách mình đã đến không đúng lúc đi.

Lăng Thủy Nguyệt cay đắng thở dài:

– Muội nói phải lắm. Đã tới đây rồi, ta không hối hận, Vả chàng ta và Thiên Phong đều đã đến tuổi gần đất xa trời, chết cũng chẳng tiếc gì nữa. Nhưng tôn nhi của muội thì sao? Nó hãy còn nhỏ mà cũng phải chết theo muội ư?

Hoa Vô Xuy rùng mình, đưa mắt nhìn Hoa Kính Viên, lòng bỗng sắt lại, cao giọng nói:

– Nhỏ đến đâu vẫn là con cháu của Thiên Cơ cung. Sách còn người còn, sách mất người mất!

Đám con cháu các gia tộc chợt thấy trong mình sục sôi nhiệt huyết, đều đồng thanh phụ họa:

– Sách còn người còn, sách mất người mất.

Bầu không khí u ám ngập tràn sơn cốc.

Đúng lúc ấy, lại có tiếng động rầm rầm, cuối cùng đã tới lượt bánh xe Thiên Cơ bị bắn gãy nát. Quần hào đều hoảng hốt, mặt mũi thất thần, thi nhau siết chặt binh khí, một kẻ thét vang:

– Nếu còn lần chần ở đây thì không kịp nữa, chúng ta cùng nhau bắt lấy mụ già gian manh kia ép mụ phải chỉ ra mặt đạo.

Khá đông người hưởng ứng. Hoa Vô Xuy chỉ cười nhạt.

Bạch Bất Ngật đứng bật dậy, mặt đỏ bầm, trỏ những người la hét bạo động, mắng:

– Tiên sư mười tám đời tổ tống nhà các ngươi, đã mang tiếng hắn tử trong trời đất, chết thì chết chứ sợ gì? Chó má thực, Bạch mỗ nghĩ sao mà đi huynh đệ bằng hữu với cái lũ vô dụng đớn hèn các ngươi kia chứ!

Giả Tú Tài dõng dạc hưởng ứng:

– Bạch nhị ca nói chí phải. Làm việc gì cũng nên đến đầu đến đũa, trước khi tới cứu viện Thiên Cơ cung, chúng ta đã sẵn sàng hi sinh rồi cơ mà, cớ gì gặp vận nước sôi lửa bỏng lại thành ra nhụt chí như vậy?

Kim Thúy Vũ cũng tán đồng:

– Đúng đấy, cái hào khí khi đối địch với Lương Ttêu, các ngươi bỏ đâu mất rồi? Lấy đông hiếp ít thì ai cũng nghênh ngang hảo hán, tại sao vấp phải khí thế rầm rộ của bọn Thát là co vòi lại, không bằng cả hạng nứ nhi như ta thế?

Trì Tiễn Ngư tiến hẳn lên khỏi hàng, nghiêm nghị nói:

– Nếu các vị muốn động thủ với Thiên Cơ cung thì phải bước qua xác họ Trì này.

Đến đây, quần hào bắt đầu chia làm hai phe, trông bề ngoài tưởng chừng có hai luồng ý kiến rạch ròi, thực chất trong lòng mỗi người đều đầy bản khoăn mâu thuẫn. Đúng lúc đó, tiếng hò hét vang động khác thường bên ngoài cho thấy quân Nguyên đã bắt đầu xông vào Lưỡng nghi ảo trần trận. Ba bánh xe gãy khiến các pho tượng ngừng hoạt động, uy lực của trận pháp do đó giảm hẳn, chưa kể quân Nguyên còn được Minh Quy chỉ đường dẫn lối, sớm muộn gì cũng sẽ vượt qua mà thôi.

Lương Tiêu cau mày:

– Cái phương châm “Sách còn người còn, sách mất người mất” ấy thật hoang đường quá đỗi.

Hoa Vô Xuy hừ một tiếng:

– Ngươi sợ chết mặc ngươi, nhưng không được phép lãng nhục tổ huấn của Thiên Cơ cung.

Lương Tiêu thở dài:

– Tiền bối đọc nhiều hiểu rộng mà lí giải cứng nhắc quá, vì thế chí biết khư khư ôm cơ nghiệp tổ tiên để lại chứ không hiểu được cái tình thần của Thiên Cơ cung.

Hoa Vô Xuy nổi giận:

– Ta sống ở nơi này đả mấy chục năm, lẽ nào không hiểu bằng ngươi chắc?

Lương Tiêu lắc đầu:

– Với cách nghĩ ấy thì tiền bối có ở đến cả trăm năm cũng chi uổng công. Vẫn bối xin hỏi, tiền bối đã tính ra Thiên Cơ Thập Toán chưa? Tính được đến Nguyên ngoại chi nguyên chưa?

Kể về toán học thì Lương Tiêu đang là thiên hạ đệ nhất, không ai địch nổi Hoa Vô Xuy nghe tới đây cũng phải nín bặt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Côn Luân - Phượng Ca

Postby tuvi » 23 Sep 2021

Chương 88: Nguyệt Chiếu Đại Giang (Trăng tràn mặt sông)

Lương Tiêu nhìn khắp mặt mọi người, chậm rãi nói:

– Sách là vật vô tri, còn con người có ý thức. Sách vở trên thế gian này đều do người viết cả. Hơn nữa, nếu thiếu người đủ hiểu biết để nghiền ngẫm và lĩnh hội, thì cho dù có ức vạn quyển cũng chỉ là giấy lộn mà thôi. – Gã dừng lại ở Hoa Vô Xuy, mắt sáng quắc. – Mất sách thì đã sao? Mất Thiên Cơ cung thì đã sao? Chỉ cần giữ được tính mạng con người thì trí tuệ của Thiên Cơ cung sẽ được lưu truyền và nối dài mãi mãi.

Cả đời bảo vệ Thiên Cơ cung, chưa bao giờ Hoa Vô Xuy nảy ra suy nghĩ như Lương Tiêu, nay nghe gã lý giải về sách và con người, bà bỗng thấy môi miệng khô rang, không đối đáp nổi câu nào. Công Dương Vũ thở dài bảo:

– Vô Xuy à, Lương Tiêu nói có lý đấy, người còn sách còn, người mà mất, sách cũng chẳng nguyên vẹn được đâu.

Hoa Vô Xuy liếm liếm môi, tinh thần bỗng dưng suy sụp, bà tựa vào Công Dương Vũ, khóc nức nở.

Ngoài kia, tiếng hò hét của quân Nguyên càng thêm vang dội. Hắc cảnh hạc Dương Lộ lảo đảo chạy vào, nửa người đầy máu còn cắm hai mũi tên. Y hớt hải báo:

– Bọn Thát sắp vượt qua thạch trận rồi.

Lương Tiêu nhướng mày:

– Ta đi cản bước chúng, – đoạn xách kiếm lao ra.

Vân Thù và mấy tên Hồng đai quân cũng chạy theo. Hoa Vô Xuy ngừng khóc, vẻ mặt hết sức phức tạp, cuối cùng bà nghiến răng bảo quần hào:

– Theo ta lại đây!

Đến trước một vách đá trơn nhẵn, Hoa Vô Xuy nhích một tảng đá lớn, để lộ một cái cần sắt to lạ thường đã lốm đốm gì. Hoa Vô Xuy kéo mạnh cho cần sắt chìa ra rồi nói với Cửu Như:

– Xin nhờ thần lực của đại sư.

Cửu Như bước tới gần, lay cái cần rồi xoay mấy vòng. Vách đá phát ra một tràng lịch kịch rồi từ từ rút lên, để lộ một cánh cửa sắt chu vi ba trượng nặng chừng ngàn cân. Cửu Như lại đảo tay xoay cần thêm vài lần, cửa sắt cũng rút theo lên, phô bày một miệng hang đen ngòm, gió lạnh buốt xương từ trong lòng hang hù hù thốc ra. Ai nấy him mắt nhìn, thấy bên trong lờ mờ nhiều bậc thang chạy ngược lên cao, chưa rõ là đưa tới chỗ nào.

Hoa Vô Xuy buồn bả nói:

– Mặt đạo này dẫn thông ra ngoài cốc, do gia phụ là Nguyên Mậu công kiến tạo. Thoạt đầu ta còn nghĩ người cẩn thận quá mức, tự nhiên vẽ vời làm gì chẳng biết:. Bây giờ ngẫm lại mới thấy gia phụ nhìn xa trông rộng hết mực, không hề gò mình theo những luật lệ sẵn có trong cung. – Bà ngoảnh lại ngó quần hào. – Thôi, mời các vị!

Công Dương Vũ cau mày:

– Muội không đi à?

Hoa Vô Xuy cười thảm:

– Muội mà cũng bỏ của chạy lấy người thì thật không phải đạo với liệt tổ liệt tông.

Hoa Vô Xuy chưa dứt lời, chẳng ai bảo ai, Công Dương Vũ và Hoa Thanh Uyên cùng từ hai mé trái phải tiến lại điểm luôn vào huyệt đạo của bà. Tự nhiên bị chông con đồng thời khống chế, Hoa Vô Xuy vừa ngạc nhiên vừa giận dữ, nhưng á huyệt cũng đã bị Công Dương Vũ phong bế, bà không kêu gào la mắng gì được nữa.

Hoa Thanh Uyên khom mình vái một vái:

– Con xin tạ tội. Nếu cần ở lại thì con sẽ ồ, chứ mẫu thân tuổi hạc đã cao…

Công Dương Vũ trợn mắt mắng:

– Nói thối như rắm! Có đi thì tất cả cùng đi, nhược bằng không đi thì cứ ở lại hết.

Hoa Vô Xuy phát cáu: “Lão nhà nho xấu xa, điểm huyệt chưa đủ lại còn thừa cơ chửi bóng chửi gió ta nữa“. Bà thầm sỉ vả chông thậm tệ.

Hoa Thanh Uyên toát mồ hôi, lắp bắp:

– Nhưng mà…

Công Dương Vũ ngắt lời:

– Ngươi là cha ta hay ta là cha ngươi? Già trẻ gái trai, có bao nhiêu người gọi lại đây hết đi!

Hoa Thanh Uyên vốn thiếu chính kiến, lại nghe giọng cha gay gắt nên cũng không dám cưỡng, đành vâng dạ rồi vội vàng quay ra gọi mọi người.

Trong lúc ấy ở nơi cửa cốc, Lưỡng nghi ảo trần trận đã biến thành phản thịt vạc dầu. Sĩ tốt Nguyên triều ùn ùn kéo ra khỏi thạch trận, tên bay chi chít như châu chấu, đao thương tua tủa như rừng cây. Quanh Lương Tiêu, xác chết càng lúc càng đày, đồng mình thưa dần mỗi lúc. Gã múa tít kiếm, máu bắn tơi bởi. Chém mãi, giết mãi dù đã quen chinh chiến sa trường, Lương Tiêu cũng không tránh khỏi cảm giác mệt lử, cánh tay dần dần tê bại. Đúng lúc đó, Hoa Thanh Uyên chạy ra tới nơi, gọi lớn:

– Lương Tiêu! Vân Thù! Mọi người rút lui hết rồi, các ngươi cũng đi luôn thôi.

Quần hào nghe vậy bèn lần lượt lui về sau, quân Nguyên lập tức bám sát. Bọn Vân Thù vừa chống trả vừa rút lui, chẳng mấy chốc đã tới gần mặt đạo. Hoa Thanh Uyên chi huy các xạ thủ của Thiên Cơ cung bắn nỏ phòng ngự hai bên cửa hang để tạo hàng rào an toàn cho mọi người đi vào. Lương Tiêu thấy vậy, lại gắng triển khai đợt phản kích, xông thẳng vào giữa đội hình địch, chém chết hai tên Bách phu trưởng, đánh tan những kẻ đang lảng vảng trong tầm tay. Cuối cùng, khi định rút vào mặt đạo theo mọi người, gã chợt nghe Hoa Mộ Dung kêu lên hãi hùng:

– Vẫn lang!

Lương Tiêu ngoái cổ nhìn. Vân Thù đang bị mấy trăm tên lính Nguyên vây chặt, vai, lưng và đùi, mỗi nơi đã trúng hai mũi tên, đồng đội xung quanh đều chết cả. Vân Thù một mình một kiếm nghênh địch, thân pháp mỗi lúc một nặng nề.

Hoa Mộ Dung thảng thốt cầm kiếm lao ra khỏi mặt đạo. Hoa Thanh Uyên chưa kịp ngăn cản, Lương Tiêu đã nhảy phóc đến, túm lấy vai nàng đầy nhu kình sang. Hoa Mộ Dung mất tự chủ bay ngược vào mặt đạo, căm hận mắng:

– Tên họ Lương kia, ngươi định thừa nước đục thả câu đấy à?

Lương Tiêu bị người đời sỉ vả đã nhiều, vả đang lúc nguy cấp nên cũng chẳng hơi đâu mà biện mình, Thu xếp xong Hoa Mộ Dung, gã múa kiếm xông thẳng vào trận địch, mở một đường máu tới sau lưng Vân Thù.

Vân Thù điên cuồng tả xung hữu đột, hai mắt đỏ ngầu, tóc tai rối tung, nhác thấy bóng người loáng động bên cạnh, chẳng buồn nhận rõ địch bạn, gã phóng kiếm đâm luôn một nhát. Lương Tiêu chắn kiếm đỡ:

– Ta đây!

Vân Thù hơi tỉnh táo lại, ngơ ngẩn nói:

– Ngươi đấy à?

Lương Tiêu gật đầu:

– Cùng nhau phá vây.

Vân Thù không tin nổi, dẫu nằm mơ gã cũng chẳng ngờ lại có lúc mình sát cánh chiến đấu với kẻ kình địch lớn nhất trong đời.

Quân Nguyên tràn đến mỗi lúc một đông, các tay cung nỏ kết thành trận thế, xả tên rào rào về phía họ. Lương Tiêu đâm ngã một kẻ, đoạt lấy thanh đơn đao của hắn, ngoảnh ra thấy Vân Thù vẫn đang lơ ngơ, gã thét:

– Còn đứng ngẩn ra đấy à? Ta thủ, ngươi công.

Vân Thù bấy giờ mới hoàn hồn. Trông tay kiếm tay đao của Lương Tiêu xoay vun vút như hai vầng trăng tròn đánh bạt hết các làn tên, gã thấy hào khí dâng lên dào dạt trong lông ngực, bèn hú dài, lao ra xuất kích. Hai người áp lưng vào nhau, Vân Thù huy kiếm mờ đường, Lương Tiêu múa kiếm đao chắn tiễn, một tiến một lui như bóng theo hình, chỉ chốc lát đã tới gần mặt đạo. Lúc này Hoa Thanh Uyên và bọn xạ thủ Thiên Cơ cung không địch nổi cung cứng nỏ mạnh của quân Nguyên nên đã ẩn vào trong đường hầm.

Đang lúc giao đấu, chợt nghe phía xa vang lên những tiếng rú liên tiép, Lương Tiêu ngước mắt tìm thì thấy có năm đệ tử Thiên Cơ cung đang bị một toán lính Nguyên vây hãm bên bìa rừng. Chỉ một chớp mắt, lại hai người nữa gục ngã, ba người còn lại vẫn vật vã khổ chiến. Vân Thù vung kiếm định chạy lên, nhưng vết thương trào máu ra khiến gã kiệt sức. Lương Tiêu trầm ngâm một thoáng rồi bảo:

– Ngươi rút trước đi.

Vân Thù cười nhạt:

– Ngươi đã dám liều, dễ ta là hạng hèn nhát chắc?

Lương Tiêu nghiêm nghị nói:

– Ngươi có vợ con, còn ta thì không, sống và chăm sóc vợ con cho tử tế, thế là được rồi.

Vân Thù bất giác ngoái ra sau, chạm ngay phải ánh nhìn chứa chan nước mắt và khuôn mặt lo âu của Hoa Mộ Dung. Khi gã quay mặt lại thì Lương Tiêu đã vượt qua đám đông, lao vút về phía ba tên đệ tử Thiên Cơ cung. Máu nóng bừng bừng trong người, Vân Thù định đuổi theo Lương Tiêu thì thấy Hoa Mộ Dung, Hoa Sinh và Cửu Như đang nhất tề lao ra, gã đành quay lại đón họ. Bấy giờ quân Nguyên cũng vòng qua Lương Tiêu, ồ ạt lao về phía mặt đạo. Vân Thù biết rằng bảo vệ đường lui là nhiệm vụ quan trọng hơn hết, nên quay lại đâm ngá mấy tên lính Nguyên, rồi hiệp đồng với nhóm Cửu Như cùng chém tan hơn một trăm tên khác để trấn giữ cửa vào.

Khi Lương Tiêu đến nơi bìa rừng, ba đệ tử chỉ còn sống sót hai nhưng đều bị thương nặng cả. Gã định đưa họ quay về thì quân Nguyên đã phong kín đường lui, tèn bắn rào rào như mưa, bắn rát đến nỗi những người trong mặt đạo không tài nào ngẩng đầu lên được. Nhân cơ hội đó, một toán bộ binh Nguyên triều vận giáp sắt, tay cầm binh khí sắc bén mau chóng băng qua giữa hai hàng xạ thủ, lao về phía mặt đạo. Hàng rào phòng ngự xem chừng không trụ được lâu nữa. Lương Tiêu quyết đoán rất nhanh, túm ngay một tên đệ tử, thét lớn rồi lăng mạnh tay ra, tên đệ tử bay vọt qua đầu bọn lính Nguyên, rơi xuống trước cửa mặt đạo, Hoa Sinh vùng bước tới đón lấy hắn, Cửu Như múa gậy đánh bạt các mũi tên, hai thầy trò liên thủ với nhau, tiến lên một thoáng, đỡ được người là lập tức lui về. Lương Tiêu túm lấy tên đệ tử còn lại, làm theo cách cũ, lần này thì Liễu Tình và Vân Thù nhào ra, Liễu Tình đón người, Vân Thù gạt tiễn, cuối cùng cứu được cả tên đệ tử thứ hai.

Phong Liên cầm khiên cản mưa tên, len ra khỏi cửa hang, cao giọng gọi:

– Sư phụ, về mau đi!

Hiểu Sương ở phía sau đám đông, mở to mắt nhìn Lương Tiêu, mặt tái nhợt như ngâm nước. Lương Tiêu ngó quanh, thấy không còn ai mắc nạn nữa, lại nhìn đám bộ binh đông đảo, gã nhướng mày, múa kiếm chém ngã hai tên, đoạn hít một hơi thật sâu, thét lớn:

– Vân Thù, hạ cửa sập xuống đi.

Ai nấy đều ngẩn ra, Lương Tiêu nhắc lại:

– Hạ cửa sập xuống!

Lúc này, đằng trước mặt đạo đã nhưng nhúc đến hơn một ngàn tên lính Nguyên, Chúng la hét dậy đất, một phần tấn công Lương Tiêu, một phần bắn tên chiu chít vào mặt đạo. Quần hào dần dần không đương cự nổi, có người đã rú lên vì trúng tên. Vân Thù nhìn Lương Tiêu, mặt trắng bệch, bàn tay đặt tên chốt cửa. Chỉ cần kéo cái chốt này xuống thì cánh cửa ngàn cân sẽ hạ theo, người bên ngoài chẳng có cách nào mở được. Phong Liên đang kêu gọi Lương Tiêu, bỗng ngoái đầu bắt gặp cử động của Vân Thù, cô hét lên:

– Tên họ Vân kia, ngươi mà dám hạ cửa, ta làm ma làm quỷ cũng quyết không tha cho ngươi đâu!

Hoa Sinh cũng luống cuống gọi:

– Đừng đóng cửa! Mỗ… mỗ ra giúp Lương Tiêu.

Chú cúi thấp đầu định chui ra, nhưng một trận mưa tên rất dày quét ập tới đã cản bước chú lại. Trong khoảnh khắc trùng trình đó, một bàn tay nhỏ bỗng đặt lên vai Hoa Sinh. Chú ngoái đầu. Hiểu Sương đang đứng ngay phía sau, khuôn mặt đầm đìa nước mắt, đôi môi rụn run. Lúc ấy, Hoa Sinh cũng nhận ra rằng ánh mắt của tất cả mọi người đang đổ dồn vào cô gái.

– Hạ cửa!

Lương Tiêu lại quát, thanh âm lộ rõ sự nóng nảy lo lắng. Lúc này xung quanh gã lúc nhúc lính Nguyên, tên bay rào rào, đao thương tua tủa, muốn giết cũng không sao giết xuể. Hiểu Sương nhìn Lương Tiêu, đôi má nhợt nhạt, toàn thân bỗng run lên. Khó khăn lắm cô mới ngoảnh đầu đi được, đoạn nói với Vân Thù, giọng đã khàn đặc:

– Xin cô phụ hạ cửa xuống.

Phong Liên nổi giận:

– Sư mẫu điên rồi! Sư phụ còn chưa quay về… Đồ đàn bà bần tiện, ngươi… ngươi không phải là sư mẫu của ta nữa. Được lắm, không một ai trong các người biết lo cho Tây Côn Luân, vậy ta sẽ đi, ta sẽ cứu chàng.

Phong Liên định lao ra thì một mùi hương lạ lùng xộc vào mũi. Cô chỉ kịp thấy trời xoay đất chuyển, rồi ngã vật ra đất.

Hoa Sinh ngạc nhiên:

– Hiểu Sương, ngươi…

Hiểu Sương choáng váng, phải dựa vào Hoa Sinh mới đứng nổi. Cô cất tiếng mà không nhận nổi giọng mình, nó yếu ớt và thì thầm như đến từ đâu đó chứ không phải từ cổ họng ra:

– Hạ cửa!

Vân Thù nhắm nghiền mắt, ấn tay kéo chốt. Cánh cửa nặng nề đóng sầm xuống, cơn mưa tên lao đến trượt kèn kẹt bên ngoài mặt sắt. Hiểu Sương trân trối nhìn ánh sáng cuối cùng lịm tắt dưới khe cửa, muôn vàn ánh sáng trong tím cũng theo đó tan biến, bóng tối vô tận trùm lên nhận chìm tn giác, cô từ từ khuỵu xuống rồi ngã lăn ra, không hay không biết gì nữa. Lương Tiêu thấy cửa đã đóng, lòng cũng yên tâm hơn, bèn tập trung tinh thần thi triển tuyệt kỹ Nhân kiếm tương ngự. Gã di chuyển rất linh hoạt, giao đấu vớỉ đám lính Nguyên trên các hành lang, giữa các đình đài, Thiên Phạt kiếm hút no máu người, tỏa ra ánh tím cực kỳ tà dị.

Chẳng bao lâu, lính Nguyên đã hè nhau vác gỗ đến chỗ cửa sập. Lương Tiêu biết chúng định phá cửa, bèn bay ngược vào giữa làn tên đến trước cửa hang, người và kiếm hợp nhất, chém súc gỗ thành ba đoạn. Quân Nguyên rủa xả ầm ĩ, tên bắn đổ tới rào rào, Lương Tiêu không tránh kịp, trúng một mũi gần nách, đau thấu tận xương. Gã nghiến răng đánh phá trùng vây, dần dà lùi lên Linh Đài, đấ hết hai mươi tám bộ Hỗn thiên nghi xuống dưới, quân Nguyên trúng đòn gào rú thảm thiết. Nhưng chỉ một lát sau, chúng đã ồ ạt kéo lên Linh Đài, Lương Tiêu bèn tung mình nhảy xuống, xoay xở tránh sang được Xung Hư lâu, Xuân Thu lư, đến Dược Vương đình thì trúng một mũi tên nữa, khí lực suy giảm rõ rệt. Gã tự nhủ càng cầm cự được chừng nào hay chừng ấy, cốt để quân Nguyên không rảnh tay tông cửa, vì vậy gắng gượng cắn răng khổ chiến.

Cứ thế, Lương Tiêu giết liền mấy đại tướng, trước sau không để quân Nguyên ngơi nghỉ lúc nào mà phá cửa. Chỉ hiềm mãnh hổ nan địch quần hồ, dù vỗ công vô địch thiên hạ, nhưng sức lực con người là hữu hạn, khó lòng đối chọi lại hàng ngàn hàng vạn quân. Lính Nguyên dồn đến mỗi lúc một đông, Lương Tiêu yếu sức dần, chống đở rất chật vật. Chừng giờ ngọ, từ phía đông chợt có tiếng hú dài vọng lại, quân Nguyên bỗng dưng nhốn nháo, Lương Tiêu thừa cơ thoát ra khỏi vòng vây, tung mình lên xà nhà dõi mắt trông. Gã kinh ngạc nhận ra Tiêu Thiên Tuyệt trong bộ áo đen phần phật gió đang cùng Trung Điều Ngũ Bảo di chuyển tới gần. Ngũ Bảo đều cầm binh khí, liên thủ với Tiêu Thiên Tuyệt để mở ra một đường máu.

Trông thấy Lương Tiêu, Tiêu Thiên Tuyệt hỏi to:

– Tiểu nha đầu và tiểu hòa thượng đâu?

Lương Tiêu phải nghĩ một lúc mới hiểu lão đang nhắc đến ai, bèn trả lời bang giọng nhát gừng:

– Đi cả rồi.

Tiêu Thiên Tuyệt cau mày:

– Trong cốc chỉ còn mình ngươi thôi à?

– Phải, – Lương Tiêu đáp.

Gã dứt lời cũng là lúc Tiêu Thiên Tuyệt và Trung Điều Ngũ Bảo tái nơi. Hồ Lão Nhất cười ha hả:

– Đại ca chưa chết à? Lạ quá lạ quá!

Lương Tiêu vỡ mắng:

– Năm cái tên bảo bối các ngươi còn sống mới là lạ đó.

Hồ Lão Thập cười bảo:

– Lần trước lão tử bị đại ca chơi khăm, thật tức chảy máu mũi, lần này bất luận thế nào đại ca cũng không chơi khăm nổi lão tử đâu.

Lương Tiêu không nói gì, nhưng lòng thấy ấm áp khác thường. Hồ Lão Bách hỏi:

– Tính đến chỗ này thì dọc đường lão tử cũng giết được ít nhất một vạn tên rồi. Còn đại ca, giết được mấy mạng?

Lương Tiêu trố mắt:

– Bốc phét vừa chứ, nói giết một vạn người bằng giấy còn tạm tin được.

Hồ Lão Thiên chêm vào:

– Đại ca thật sáng suốt, lão tử mới giết có vỏn vẹn ba ngàn, hắn làm sao đã giết nổi một vạn!

Hồ Lão Vạn chế giễu:

– Hồ Lão Thiên, ngươi lại ba hoa. Lâo tử mới giết được bốn ngàn, làm sao ngươi giết nổi ba ngàn, Hồ Lão Nhất nhổ toẹt một cái:

– Các ngươi đều không bằng ta, lão tử giết được một vạn lẻ một tên, hãy còn nhiều hơn Hồ Lão Bách một tên.

Hồ Lão Bách ngạc nhiên:

– Lạ quá, Hồ Lão Nhất giỏi đếm số từ bao giờ thế, tính chi li từng tên một kia à?

Hồ Lão Nhất cười khả khả:

– Lão tử đếm ngàn đếm vạn, từ xưa tới nay chưa biết sai là gì!

Năm huynh đệ vừa đua nhau khoác lác vừa gắng sức đánh chém mờ dường. Tiêu Thiên Tuyệt thì không nói một lời, chỉ xuất thủ tấn công, lão không có binh khí riêng, nên lúc tay không giết địch, lúc đoạt binh khí của bọn lính Nguyên, bất kể binh khí gì rơi vào tay lão đều có thể đả thương người. Trung Điều Ngủ Bảo luốn tay chém giết suốt từ ngoài cốc vào, đã sớm cảm thấy mệt mỏi, đấu hồi lâu thì dần dần không trụ nổi nữa. Bỗng một loạt tên ập tới, Hồ Lão Vạn trúng một mủi vào đầu gối, không kìm được bật kêu thét, Hồ Lão Thiên trông thấy vội nhào tới đỡ lấy hắn, nào ngờ một loạt tên nữa lại hất tới, Hồ Lảo Thiên bị Hồ Lão Vạn giữ rịt, không lắc mình tránh được, tưởng chừng sắp bị tên găm chi chít cả đôi, chợt nghe sau lưng có tiếng gió, Tiêu Thiên Tuyệt đã lướt tới, túm lấy lưng cả hai lôi tuốt sang một bên.

Hồ Lão Thiên thoát chết trong gang tấc, ngẩng đầu lên mừng rỡ:

– Đa tạ Tiêu đại gia.

Tiêu Thiên Tuyệt chẳng nói chẳng rằng, chỉ mím môi, mắt sáng quắc, vẻ mặt hét sức cổ quái. Lúc này có hai tên lính Nguyên vung thương xông tới, Tiêu Thiên Tuyệt đột ngột xoay mình, bật song chưởng nắm lấy hai cây thương giã ngược xuống, hai tên lính không kịp thốt lên một tiếng, mất mạng ngay tại trận.

Lúc Tiêu Thiên Tuyệt xoay đi, Hồ Lão Thiên mới trông thấy lão đã trúng hai mũi tên vào lưng. Hắn phát hoảng, tưởng mình hoa mắt bèn dụi lấy dụi để rồi nhìn lại thì thấy rõ ràng hai mũi tên đang rung rung đuôi trên lưng Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu bị thương nặng, gắng gượng đâm chết hai tên lính xong thì bước chân cũng loạng choạng, chợt một mủi tên nữa xồ tới, xuyên thấu ngay ngực trái lãc. Tiêu Thiên Tuyệt thấy mắt tối sầm, bất giác giật lui ba bước.

Trung Điều Ngũ Bảo đều gầm lên phẫn nộ, mắt ai nấy ngầu máu, bất luận bị thương hay không đều lao đến đứng quây quanh Tiêu Thiền Tuyệt, vũ động binh khí, múa may chắn đỡ như mất trí. Tiêu Thiên Tuyệt bị thương, cảm giác trong lòng Lương Tiêu vô cùng phức tạp, nhất thời không quyết định nổi có nên tương trợ hay không. Ngần ngừ một thoáng, gã hô:

– Lên gác! – đồng thời túm lấy Hồ Lão Vạn, lùi tuốt sang Thiên Nguyên các.

Bốn Bảo kia gắng hết sức bảo vệ Tiêu Thiên Tuyệt, vừa đấu vừa lui, dần dần cũng rút được vào bên trong. Tòa lầu các này cao tới chín tầng, cửa sổ mở ra tám mặt, tọa lạc ở trung tâm Thiên Cơ cung cũng là nơi Lương Tiêu thường đến học toán năm nào.

Bọn Lương Tĩêu vào được gác cũng như chiếm được địa lợi, quân Nguyên chưa dám xông lên ngay, chỉ bắn tên lia lịa vào trong. Bảy người lùi tuốt lên tầng trên cùng, tạm thời thoát khỏi tầm tên của quân Nguyên. Tiêu Thiên Tuyệt ngồi xuống nhắm mắt, nhịp nhở gấp hơn bình thường. Hồ Lão Thiên quẳng bình khí, sụp xuống đất khóc:

– Tiêu đại gia! Con thật là giống chó má, là quân khốn kiếp không bằng rác rưởi! Còn người tấm thân ngàn vàng, tại sao lại vì con và Hồ Lão Vạn mà làm tổn hại bản thân mình?

Hắn vừa nói vừa vung tay tự tát lia lịa, bốn Bảo kia cũng khóc rống lên.

Tiêu Thiên Tuyệt mở mắt, hừ một tiếng:

– Khóc cái gì mà khóc? Đứa nào còn khóc nữa, lão phu quẳng xuống lầu.

Lão đã nói vậy, Ngũ Bảo chẳng dám trái lời, đều nuốt nước mắt, đờ dẫn nhìn Tiêu Thiên Tuyệt. Lão già hít một hơi, máu trào mạnh ra khỏi ngực, miệng cũng ho ra máu. Trung Điều Ngũ Bảo thấy thế, lại bật khóc rưng rức. Tiêu Thiên Tuyệt xẵng giọng:

– Cấm khóc! – Lão đua mắt nhìn Hồ Lão Thiên, lạnh lùng nói. – Ai bảo ngươi là chó má khốn kiếp không bằng rác rưởi... Hừ, ký danh (Ký danh có nghĩa là dự bị, còn khi được công nhận chính thức thi gọi là nhập thất đệ tử hoặc đích truyền dệ tử) đệ tử của Tiêu lão quái mà là chó má, thì hỏi người đời còn ai không chó má nữa đây?

Hồ Lão Thiên vội lấp tiếm:

– “Vâng vâng, Hồ Lão Thiên nói sai rồi.

Tiêu Thiên Tuyệt nhìn cả năm người, chợt thở dài:

– Xưa nay ta đối xử với các ngươi quá nghiêm khắc…

Hồ Lão Nhất phụ họa ngay:

– Nghiêm sư mới có cao đồ!

Tiêu Thiên Tuyệt trừng mắt:

– Cứ cho lão phu là nghiêm sư, các ngươi cũng chẳng xứng mặt cao đồ đâu.

Trung Điều Ngủ Bảo đều ngượng chín người.

Tiêu Thiên Tuyệt dịu giọng:

– Các ngươi đã là ký danh đệ tử của ta thì việc ta cứu các ngươi là đương nhiên thôi. Vả chăng, xét cho rốt ráo cũng tại lão phu trước đây chưa dạy dỗ các ngươi tử tế, khiến các ngươi khó tự bảo toàn khi gặp đại địch, hôm nay lão phu trúng ba mũi tên này, kể cũng như báo ứng.

Trung Điều Ngũ Bảo khóc ồ ồ:

– Tĩêu đại gia võ công tuyệt tuân, quyết không thể có mệnh hệ gì được.

Tiêu Thiên Tuyệt lắc đầu:

– Võ công cao đến đâu thì cũng là máu thịt con người, nhất định sẽ có lúc phải chết. Nay dùng sự sống của ta đổi lấy hai cái mạng cho các ngươi, ta cũng không có gì phải hối hận. Chưa kể… – Ánh mắt lão bỗng nhuốm nỗi thể lương, – lẽ ra ta nên chết từ mười nãm về trước rồi, sống đến nay kể đã là quá đủ.

Trông thần thái Tiêu Thiên Tuyệt, Lương Tiêu bỗng thấy lòng xúc động.

Tiêu Thiên Tuyệt trầm ngâm một lúc rồi nhìn khắp mặt Trung Điều Ngũ Bảo:

– Các ngươi theo ta bấy nhiêu năm, trước sau vẫn không có danh phận rõ ràng. Đến lúc này, còn muốn làm đồ đệ của Tiêu Thiên Tuyệt nữa không?

Đúng là cầu được ước thấy, Trung Điều Ngũ Bảo liền đồng thanh:

– Muốn!

Lần đầu tiên trong đời, Tiêu Thiên Tuyệt nở một nụ cười:

– Được, hôm nay lão phu xóa bỏ hai chữ “ký danh“. Từ nay về sau, các ngươi đều là đồ đệ tốt của ta.

Bao nhiêu năm qua, Trung Điều Ngũ Bảo luôn mong ước trở thành nhập thất đệ tử của Tiêu Thiên Tuyệt, ngờ đâu lúc được thu nạp cũng là lúc sư phụ lâm chung, cả bọn vừa hoan hỉ vừa đau xót, nước mắt nước mũi chan hòa.

Tiêu Thiên Tuyệt ngước mắt trông Lương Tiêu:

– Tiểu nha đầu và tiểu hòa thượng thoát thân thật rồi chứ?

Lương Tiêu lặng lẽ gật đầu. Tiêu Thiên Tuyệt nói:

– Tốt lắm! Lão phu binh sinh ân oán rạch ròi, chưa bao giờ nợ nần ai. Năm xưa nợ họ ơn cứu mạng, hôm nay cuối cùng cũng đã trả xong.

Đôi mắt chợt ngời sáng, Tiêu Thiên Tuyệt phá lên cười ha hả. Lão là người rất coi trọng ân nghĩa, sau khi được Hoa Sinh và Hiểu Sương cứu mạng, lão bèn kín đáo bám theo hai người. Bao nhiêu năm nay, nhóm Hiểu Sương hành thiện giang hồ mà không bị ai hãm hại cũng như không gặp một việc rủi ro nào đều là nhờ Tiêu Thiên Tuyệt âm thầm xử trí. Mới đây Hoa Hiểu Sương tình cờ tái ngộ thầy trò Liễu Tình, lại biết tin Lương Tiêu về nên hai bên rủ nhau cùng xuôi nam. Đến gần vùng núi Quát Thương, Tiêu Thiên Tuyệt đinh ninh chẳng còn nguy hiểm nào rình rập nữa nên không đì theo mà trú chân bên ngoài tìm nơi uống rượu. Đúng lúc ấy, Trung Điều Ngũ Bảo nghe ngóng được tin tức Lương Tiêu nên cũng dò dẫm đến tìm gã. Tiêu Thiên Tuyệt bèn gọi mấy huynh độ họ lại, cùng trọ đợi bên ngoài. Mới được một ngày, nghe tin quần Nguyên đánh phá Thiên Cơ cung, Tiêu Thiên Tuyệt lập tức dẫn Trung Điều Ngũ Bảo vào cốc để giúp Hiểu Sương và Hoa Sinh thoát thân, ngờ đâu lại gặp ngay Lương Tiêu, Tiêu Thiên Tuyệt cười chưa dứt, hơi thở đã yếu hẳn, sắc mặt mỗi lúc một xám xịt. Lão nhìn Lương Tiêu, bình thản hỏi:

– Chẳng phải ngươi căm hận ta lắm đó sao? Bây giờ muốn giết lão phu thực dễ như trở bàn tay, tại sao còn chưa động thủ?

Trung Điều Ngũ Bảo phát hoảng, lập tức đứng dàn hàng ngang che cho Tiêu Thiên Tuyệt. Hồ Lão Nhất cảnh cáo:

– Đại ca! Ngươi mà động đến một sợi lông chân cửa Tiêu đại gia thì lão tử không xưng đệ gọi huynh gì với ngươi nữa đâu.

Tiêu Thiên Tuyệt quát:

– Ai khiến các ngươi đa sự... Cút! Cứ để hắn lại đây!

Trung Điều Ngủ Bảo không dám cãi lời, đành mếu máo lùi sang một bên, nhìn Lương Tiêu với ánh mắt khẩn cầu. Lương Tiêu im lặng hồi lâu, cuối cùng lắc đầu nói:

– Thôi, Tiêu Thiên Tuyệt! Ân oán giữa chúng ta coi như đến đây thôi.

Tiêu Thiên Tuyệt cười nhạt:

– Lúc chả ai bảo thì đùng đùng đòi giết, giờ cho xuống tay thì lại ngần ngừ. Tiểu tử nhà ngươi hành sự thật quái gở.

Lương Tiêu cũng cười nhạt:

– Lão quái vật nhà ngươi chẳng phải cũng rất quái gở hay sao?

Tiêu Thiên Tuyệt nhíu đôi mày lưỡi mác, gật gật đầu:

– Nói đúng lắm, ta là lão quái vật, ngươi là tiểu quái vật.

Lương Tiêu gật đầu:

– Nói đúng lắm, ngươi là lão quái vật, ta là tiểu quái vật.

Tiêu Thiên Tuyệt ngẩn người, rồi bật cười, cười ha hả. Đột nhiên, tiếng cười tắt ngấm, hai mắt trợn tướng, lão rút phắt mũi tên khỏi ngực trái rồi phóng tay ném ra. Lúc này một tên lính Nguyên mới tới hành lang, vừa ló đầu qua cửa sổ dò xét thì bị mũi tên đâm phập vào ngực, lăn tòm xuống gác. Mũi tên xuyên hẳn qua người hắn, kình lực còn chưa giảm, lao tiếp vào một tên Thiên phu trưởng bên dưới, găm cứng hắn xuống đất. Quân Nguyên rú lên, kinh sợ lùi hết ra.

Phóng xong mũi tên sấm sét, Tiêu Thiên Tuyệt cất tiếng cười dài, nhưng cười chưa dứt, cần cổ đã cứng đơ, rồi cứ ngồi thế mà tịch. Quân Nguyên xúm đông xúm đỏ quanh gác, đều nhớn nhác khiếp sợ vì mũi tên lúc lâm chung của Tiêu Thiên Tuyệt, lại nghe tiếng khóc rộ lên váng trời trên đỉnh gác, nhất thời chưa ai dám lên.

Chợt một cỗ kiệu tám người khiêng rẽ đám lính thoăn thoắt tiến vào. Một người nhảy xuống khỏi kiệu, mình bận khôi giáp dát vàng khảm bạc trông hết sức sang trọng. Một viên Thiên phu trưởng hớt hải chạy lại quỳ tâu:

– Bầm Trấn Nam Vương, Lương Tiêu và mấy tên phản tặc đều ở trên đỉnh gác, đang ngoan cố chống trả, mong đại vương ra quyết định.

Trán Thoát Hoan nổi chẳng chịt gân xanh, chuyến này hao binh tổn tướng mà chưa bắt nổi một tên phản tặc nào. Cứ nghĩ tới lúc phải phục mệnh với triều đình, hắn lại nổi trận lôi đình, bèn trừng mắt nhìn Thiên Nguyên các, hằn học nói:

– Phóng lửa đốt lầu, ép chúng xuống.

Thiên phu trưởng ngập ngừng:

– Nhưng Mình tiên sinh có dặn là không được dùng hỏa công.

Thoát Hoan quắc mắt nhìn hắn:

– Lão ấy là Trấn Nam Vương hay ta đây, hả?

Thiên phu trưởng giật thót, cập rập ra lệnh. Hỏa tiễn bắt đầu phóng vun vút về phía Thiên Nguyên các. Chỉ thoáng sau, cả tòa thư lâu đã bắt cháy rần rật, kèo cột nổ lép bép.

Lửa đang bốc cao, chợt một bóng người len qua đám đông hốt hoảng chạy vào. Người này áo vàng râu trắng, chính là Minh Quy. Lão xộc đến trước mặt Thoát Hoan, thảng thốt hỏi:

– Vương gia, vì sao phóng hỏa đốt lầu?

Chẳng là Minh Quy đang ở đằng thạch trận chỉ huy quân ra vào, bỗng thấy lửa bốc lên phía Thiên Nguyên các mới kinh hoàng chạy tới xem sao. Thoát Hoan đang cơn tức giận, nghe vậy thét trả:

– Bản vương phải báo cáo với ngươi mới được hành sự đấy à? Hừ, đến lúc này vẫn không bắt nổi một tên phản tặc nào, ngươi bảo ta ăn làm sao nói làm sao với triều đình. Ba quân nghe lệnh! Đốt sạch cái Thiên Cơ cung khốn nạn này để bản vương xả giận.

Minh Quy khiếp đảm, chưa kịp can gián thì hàng ngàn mủi hỏa tiễn đã thi nhau bật ra, lao về những đình đài lầu các khác. Lửa được hướng gió nên chỉ thoáng chốc, cả Thiên Cơ cung đã bị thần Hỏa nhấn chìm.

Minh Quy thẩn thờ trông ánh lửa rực trời. Mấy chục năm nay, lão lao tâm khổ tứ tìm cách đoạt lấy Thiên Cơ cung từ tay Hoa Vô Xuy, thậm chí không ngại luồn cúi ngoại tộc, dẫn quân về tấn công hầu đạt được ước nguyện, nào ngờ đến thời khắc cuối cùng, tất cả lại bị đốt thành tro bụi. Lão vừa đau đớn vừa căm phẫn, trông lửa cháy rực trời mà còn cào gan ruột, thình lình nghiến răng quỳ thụp xuống, trầm giọng nói:

– Mong vương gia niệm tình Minh Quy đã theo hầu bao năm mà mau chóng hạ lệnh dập lửa, cứu lấy sách vở bên trong.

Thoát Hoan cười khẩy:

– Bản vưững đã quyết việc thì chẳng bao giờ đổi ý. Ngươi cứ ngoan ngoãn chỉ huy binh sĩ đi, đốt mấy căn nhà vài ba cuốn sách thì đáng kể gì đâu…

Minh Quy ngửng phắt đầu lên, mắt ngập đầy oán độc. Thoát Hoan rợn người, buột hỏi:

– Ngươi định làm gì?

Hắn lui lại, nhưng Minh Quy đã nhảy chôm lên, đồng xuất song chưởng đánh trúng ngay ngực hắn. Song chưởng chứa đựng toàn bộ kinh lực của lão, chấn nát gần hết xương cốt Thoát Hoan. Vị Trấn Nam Vương ngã khuỵu xuống, miệng ộc đầy máu, hắn chưa kịp lần tay tuốt kiếm thì đã bị Minh Quy nắm cố ýặn ngoéo sang phải. Thoát Hoan gãy xương cổ, hai mắt tối sầm, không kịp hự lên tiếng nào đá nằm ẹp xuống đất như đống bùn.

Thấy Minh Quy giết chết Thoát Hoan, đám binh sĩ vô cùng sửng sốt, liền đó đao thương loang loáng nhất tề vung lên. Minh Quy gầm lớn, múa chưởng chặt chém, chỉ thoáng chốc đã tiêu diệt mười mấy tên lính, nhưng cũng bị một mũi tên xuyên thấu nội phủ. Lão đại triển thần uy, huy chưởng đánh chết một tên lính Nguyên rồi lảo đảo tiến tới. Mới được mấy bước đã thấy đằng lưng đau nhói, rồi một thanh trường mâu đâm phập vào lưng, Minh Quy lật chưởng chặt gãy thân mâu rồi điên cuồng chạy thẳng tới Thiên Nguyên các, đầu không ngoảnh lại, đao thương mâu tiễn rào rào đuổi theo. Họ Mình chưa chạy tới nơi đã bị thương nặng đến mức không gượng nổi nữa, lão ngã sấp xuống đất.

Cảm giác đau đớn về thể xác bỗng tan biến, thần trí cũng dần dần lạc vào cõi mê man, Minh Quy cố giương mắt, nhưng máu ngập tràn đã che mờ nhãn quang, đột nhiên bên tai lão vang lên thanh âm trong trèo của một nữ hài:

– Quy ca ca! Huynh lại vào Thiên Nguyên các đọc sách đấy ư? À, muội hỏi này, vì sao chúng ta phải bảo vệ đống sách ấy?

– Tiểu Xuy, thư tịch ở đây là do tổ tiên đổi bao xương máu để nâng niu giữ gìn. Ông nội từng dạy, sách còn người còn, sách mất người mất. Vì thế bất kể Hoa gia hay Mình gia, dù chỉ sống một ngày cũng phải thề chết bảo vệ sách vở…

“Sách còn người còn, sách mất người mất“. Minh Quy bỗng thấy trí óc tỉnh táo lại, lão cựa quậy lết về phía Thiên Nguyên các, hai tay xua bắt vào hư không, tựa hồ muốn gạt hết lửa đi để moi bới một thứ gì. Lão vừa cử động, tiếng la ở xung quanh lại rộ lên, những mũi binh khí trắng lóa nhất tề đâm tới, Minh Quy giật nảy người, lập tức chìm lỉm dưới rừng gươm đao.

Bấy giờ, phía xa lại có tiếng vó ngựa rộ lên, Thổ Thổ Cáp cưỡi chiến mã chạy nước kiệu vào. Một tên Bách phu trưởng tiến ra nghênh đón, mặt xám như chàm đổ, khó nhọc bẩm cáo:

– Trình đại tướng quân! Minh Quy âm miíu thí chủ, Trấn Nam Vương tuẫn nạn vì đất nước. Tiểu nhân không làm tròn chức mệnh hộ giá, mong đại tương quần trách phạt.

Thổ Thổ Cáp không nói năng gì, lạnh lừng nhìn lướt thi thể Thoát Hoan rồi dõi mắt về phía Thiên Nguyên các. Lửa bốc ngùn ngụt, chỉ thoáng chốc đã liếm tới tầng cao nhất. Đột nhiên, trên đó bỗng vang tiếng hát:

Cây cỏ xanh xanh, bạn từ xa tới, hoa rộ khắp núi, trăng sáng ngập trời.

Ánh xuân rạng tươi, chỉ ngời một thoáng, tình ta sâu lắng, giữ mãi ngàn đời

Mây trắng chơi với, chỉ trong chớp mắt, tình ta bền chặt, muôn thu tốt lành.

Cây cỏ xanh xanh, khách từ xa tới, lòng như nắng mới, rộn ràng reo vui, Giai nhân cười tươi, thiếu niên vui vẻ, khách là ai thế, nói để người hay:

Sừng sững phía tây, Côn Luân hùng vĩ!

Giọng ca hùng hồn hào sàng, trong tích tắc, đám binh lính tựa hồ đều gặp ảo giác, tự nhiên trông thấy một dãy núi hùng vĩ lạ thường trải dài từ đông sang tây vươn lên giữa ánh lửa rực trời.

Hát xong, người nọ cất tiếng cười dài, lại có năm tiếng hú hòa theo, thanh âm vút cao, hào khí ngời ngợi. Thổ Thổ Cáp ngồi trên ngựa, im lặng như đá, đột ngột cất cao tay. Tiếng hú vừa dứt, sáu bóng người lập tức bung ra khỏi đỉnh gác, kéo theo một dảí tím rực rỡ. Thổ Thổ Cáp nghiến chặt răng, mắt thoáng nét đớn đau. Cuối cùng hắn đánh mạnh tay xuống. Hàng ngàn mũi tên nhất loạt bật ra, bắn về phía mấy bóng người…

Mặt trời đã lặn hẳn, khói sóng buông dày, nước Tiền Đường cuồn cuộn chảy ra biển lớn, nơi cửa sông có mấy cánh buồm trắng giương cao, mỗi lá buồm thêu hình một con đã long (Cá sấu Dương Tử) vàng kim, nắng tàn lông qua lần vải khiến những cánh buồm ngả sắc đỏ lòm. Hiểu Sương đứng trên bờ sông, trân trân nhìn ra nơi xa, sau lưng cô là đệ tử và con cháu các gia tộc trong Thiên Cơ cung. Một lúc lâu sau, trên nền trời chiều xuất hiện mấy bóng người. Hiểu Sương thót tim, chân bủn rủn như muốn khuỵu ngã. Những bóng người càng lúc càng rõ dần. Hoa Sinh toàn thân bê bết máu me, bước chân chậm chạp, đang ẵm một người trên tay. Vân Thù cầm trường kiếm, tập tễnh bước bên cạnh. Đằng sau họ là Cửu Như, Thích Thiên Phong Công Dương Vũ, Hoa Thanh Uyên và Tần Bá Phù, mỗi người dìu một người nữa. Nhìn năm người được đìu, Hiểu Sương nhận ngay ra Hồ gia huynh đệ Trung Điều Ngũ Bảo. Cả năm cùng lết đi một cách cực nhọc, hiển nhiên bị thương rất nặng.

Hiểu Sương định chạy lên, nhưng không nhấc nổi chân, muốn khóc mà không ra nước mắt. Hoa Sinh lê bước đến trước mặt cô, đặt người trên tay xuống. Không gian lặng ngắt tưởng chừng nghe được cả tiếng kim rơi. Hiểu Sương cúi mình ôm con người thân yêu ấy lên, run rẩy vuốt ve gương mặt lạnh giá, Mười năm nay, đã bao nhiêu lần cô mơ đến gương mặt này. Cô ước mong đây chỉ là một cơn ác mộng, khi choàng tỉnh sẽ gặp đêm đen thăm thẳm và êm đềm như chưa có gì xảy ra, Hiểu Sương ngước mắt, mơ hồ nhìn mọi người. Hoa Sinh quỳ trên hai chân, khóc trong cơn nấc nghẹn, tay đấm từng chặp xuống đất bùn, Hiểu Sương đã bắt gặp chú tiểu khóc rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ thấy chú khóc lóc thảm thiết đến thế. Triệu Bính cũng ngã khuỵu xuống, miệng méo xệch, mặt đầm đìa nước mắt. Trung Điều Ngũ Bảo khóc rưng rức. Vân Thù ngửa mặt trông trời, trống gì nhỉ? Ông nội cúi đầu nhìn đất, nhìn gì đấy? Cửu Như đại sư hết sức điềm tĩnh, nhưng sao vẻ mặt không mảy may tỏ lộ hân hoan? Thích đảo chủ nửa khóc nửa cười, bộ dạng thật kỳ quặc. Hoa Hiểu Sương cảm thấy mình hoàn toàn xa lạ với những cảnh tượng và tâm trạng ấy, tựa hồ cô đang đứng ở một nơi cách biệt nào ngó lại vậy. Ngoài con người cô đang ôm trong lòng, hình như cô không còn liên quan với bất cứ ai, bất cứ việc gì nữa.

Bọn đàn bà con gái đều bật khóc, nhưng cố nén để không thành tiếng nức nở, riêng Phong Liên đứng thẳng đừ, mặt trơ trơ nhưng ánh mắt đầy oán độc. Cô nhìn xoáy vào mặt từng người tựa hồ muốn khắc sâu diện mạo họ.

Tay Hiểu Sương trượt dần từ mặt Lương Tiêu, rỡ qua môi, xuống đến cổ. Một ngày một đêm vừa qua, cô đã khóc cạn nước mắt, bây giờ muốn khóc mà không sao khóc nổi. Có thể từ nay về sau, cô không còn biết thế nào là khóc, cũng như không biết thế nào là cười nữa, sẽ câm lặng đi suốt quãng đời còn lại giống như con người cô đang ôm trong lòng đây. Ngón tay vô thức trượt xuống, chợt dừng lại nơi ngực Lương Tiêu. Hiểu Sương bỗng giật nảy mình, hai mắt mở to. Cô đã từng bắt mạch khám bệnh cho hàng vạn bệnh nhân, khả năng chẩn đoán tinh nhạy và chính xác hơn bất kỳ đại phu nào trên đời. Khả năng ấy đang mách bảo cô, sâu trong tâm mạch Lương Tiêu dường như vẫn còn một chút hơi ấm, tuy ngắt quãng, rời rạc, nhưng thủy chung không lịm tắt.

Hiểu Sương bừng tỉnh, kêu lên thất thanh:

– Tiêu ca ca, muội nhất định sẽ cứu sống huynh, nhất định sẽ cứu sống huynh…

Cô ôm choàng lấy Lương Tiêu, khệ nệ ẵm gã chạy dọc bờ sông về phía một con thuyền treo buồm trắng, bước chân càng lúc càng nhanh, tiếng kêu mỗí lúc một lớn, một gấp gáp:

– Muội nhất định sẽ cứu sống huynh, nhất định sẽ cứu sống huynh…

Mọi người đều sững sờ, rồi ai nấy bình bịch chạy theo cô.

Chẳng biết lâu hay chóng, Hoa Sinh mới ngẩng đầu lên. Dãy thuyền buồm đã biến mất nơi cửa sông, không rõ đi về phương nào. Bốn bề trống trải hiu quạnh, chỉ có tiếng dế mèn thi thoảng nỉ non trong đám cỏ úa bên mí nước.

Cửu Như tu một ngụm rượu, thở dài hỏi:

– Con tỉnh rồi à?

Hoa Sinh lắc đầu:

– Sư phụ ơỉ, con không biết mình đang tỉnh hay đang mê man, chỉ biết trong lòng đau khổ lắm. – Ngừng một lúc lâu, chú hỏi. – Lương Tiêu đâu, Lương Tiêu còn sống hay đã chết?

Cửu Như chép miệng:

– Bần tăng cũng không rõ hắn còn sống hay đã chết. Chết rồi mọi sự đều kết thúc, còn nếu sống, chẳng lẽ con định nhằng nhẵng theo chân phu thể người ta cho đến hết đời hay sao?

Hoa Sinh bần thần hồi lâu, nước mắt chảy dài, chú nói:

– Sư phụ, con thấy chán nản quá, tại sao trên đời có nhiều nỗi bất hạnh trái ngang như vậy? Nếu con không trưởng thành thì tốt biết bao nhiêu, chẳng cần nghĩ ngợi băn khoăn, chẳng cần bận tâm suy tính, chỉ lo ăn thịt uống rượu và đánh đẫy giấc cho qua tháng ngày mà thôi. Không phải rơi nước mắt, chẳng vướng cảnh phân li, cũng chẳng cần trông thấy gì hết cả.

Cửu Như rầu rầu nhìn đồ đệ một lát, đoạn thở dài:

– Con lăn lộn trong chốn hồng trần đã mười mấy độ xuân thu mà còn mông muội thế ư? Chuyên đời vốn dĩ là như vậy đấy. Nếu con biết cách nhìn, muôn vàn diện mạo chúng sinh, bao nhiêu cảnh tượng khác thường đều phơi ra lồ lộ, chúng có thể khiến người ta khóc, nhưng cũng có thể giúp người ta cười. Còn nếu con không biết cách nhìn thì thế gian rộng lớn, chúng sinh đông đảo nào có nghĩa lý gì, tất cả chỉ là hư không trống trải, thậm chí không bằng hư không trống trải nữa kia.

Hoa Sinh rùng mình. Chỉ trong tích tắc, những điều mắt thấy tai nghe suốt mười mấy năm cũ lướt vùn vụt qua trí óc khiến chú ýáng vất. Chú ngơ ngẩn hồi lâu rồi từ từ đứng dậy, ngắm vầng trăng tròn trăn trên trời, lòng bỗng yên tĩnh lạ lùngí tưởng chừng có ném tảng đá nghìn cân xuống cũng không thể khiến chút sóng nào xao động.

Cửu Như chăm chú quan sát thần sắc đồ đệ, đột ngột đứng dậy chắp tay:

– Thiện tai! Thiện tai!

Hoa Sinh cũng chắp tay đáp:

Bi hỉ lại qua hỉ tựa bi,

Lệ rơi lã chã miệng hi hi.

Bổ đề phủ bóng nhà sư ngốc,

Mưa dội núi xanh bùn chảy đi.

Cửu Như thở dài:

– Thiện tai, thiện tai! Con đã nhập đạo nhưng chưa được sâu, thôi để bần tăng tặng con một bài kệ nữa:

Lên đã cao mà chẳng tới đâu,

Tuỵ rằng có tới cũng không lâu.

Cao rồi vẫn phải lên cao nữa,

Mới biết đất trời khó tóm thâu.

Hoa Sinh không để ý nghe. Cửu Như chưa đọc xong, chú đã phất tay áo, xoay mình sải bước về phía Tây, vừa đi vừa cười lớn, trong tiếng cười không còn nghe ra tâm trạng vui hay buồn nữa. Cửu Như buột miệng tán thưởng:

– Hảo hòa thượng! Giỏi lắm!

Lão đưa mắt nhìn cho đến khi đồ đệ khuất dạng hẳn mới quay đi, cầm hồ rượu tu cạn chỗ còn lại, đoạn buộc nó vào thắt lưng, ngẩng đầu nhìn bầu trời, cầm gậy gõ mặt đất, cười lớn:

Đi!

Quạ xám lướt qua vùng mây rối,

Hơi men ngây ngắt nhớ quê hương.

Hãy cười,

Cười lên một tiếng tan u tịch,

Trăng ngát mặt sông dõi đoạn trường.

Lão vừa ngâm vừa ung dung cất bước về hướng đông.

Vầng trăng non đỉnh trời lông bóng nước lấp lóa, mấy con quạ đêm vỗ cánh len lỏi qua những đám mây, chẳng rõ chúng sẽ bay về phương xa nào nữa.

Hết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 59 guests