Chương 14: Đêm xuân nở ngàn hoa
Ngày hôm sau, tiết trời quang đãng, ngàn dặm không mây. Sáng sớm đi thỉnh an, Lão phu nhân khước từ nói thân thể không khỏe, không chịu gặp bất cứ ai. Đôi mắt Băng Nhi đỏ mọng sưng húp, nhìn thấy Sầm Khê Huyền và Mai Nhiêu Phi, biểu cảm trên mặt cô trở nên rất dọa người. Sầm Khê Huyền vẫn tươi cười rạng rỡ giống như thường ngày, tựa như tất cả mọi chuyện đều chưa từng diễn ra. Nhưng sắc mặt Mai Nhiêu Phi lại cực kì kém, giống như phải chịu nỗi kinh hãi nào đó.
Tôi sợ Băng Nhi sẽ tranh cãi với mấy ả, vội vàng kéo cô đến thăm Thẩm Hồng. Từ tối hôm qua đến giờ, vẫn luôn là Bảo Bảo chăm sóc Thẩm Hồng. Thấy chúng tôi, cô bé vội chào đón, nói: “Vẫn như vậy thôi”.
Tôi nhìn chăn nệm, quả nhiên lại bị xé thành từng mảnh. Nhưng kì lạ nhất là miệng Thẩm Hồng đang ngậm một mảnh gỗ. Tôi hỏi: “Bảo Bảo, có chuyện gì thế này?”.
Bảo Bảo nói: “Đêm hôm qua, em thấy Đại công tử cứ nghiến răng không ngừng, em sợ cậu ấy cắn phải đầu lưỡi của mình, bèn lấy một đoạn gỗ cho cậu ấy cắn”. Tôi và Băng Nhi nghe xong, đều khen Bảo Bảo chu đáo cẩn thận.
Tôi lại hỏi: “Bảo Bảo, thuốc sắc cho Đại công tử hôm qua vẫn là thuốc do Lệnh Hồ đại phu kê đó chứ? Liệu có xảy ra vấn đề gì không?”.
Bảo Bảo trả lời: “Thuốc vẫn do Lệnh Hồ đại phu kê, cò em sắc thuốc, cả quá trình chưa từng bỏ đi đâu, hẳn là không có vấn đề gì”. Tôi biết Bảo Bảo xưa nay là người đáng tin cậy, bèn yên tâm gật đầu.
Băng Nhi hỏi: “Cửu Dung tẩu tẩu, tẩu cảm thấy thuốc đại ca uống trước kia có vấn đề à? Nhưng trên thực tế, muội từng mang cho đại phu kiểm tra, đại phu cũng nói là không hề gì”.
Tôi gật gật đầu, trầm ngâm một lúc mới lên tiếng: “Băng Nhi, muội có biết một thứ có thể làm người ta nghiện, tên là anh túc cao không?”.
Băng Nhi nghe vậy, sắc mặt biến thành hoảng sợ, hồi lâu mới cất giọng: “Cửu Dung tẩu tẩu, lẽ nào tẩu hoài nghi đại ca ăn phải thứ đó?”. Cô vào Nam ra Bắc, hiển nhiên tri thức uyên bác, hiểu biết về thứ này hẳn cũng sâu sắc hơn tôi.
Tôi do dự gật đầu. Nói lại một lượt tình trạng sau khi ăn ‘anh túc cao’ mà Khánh thúc nói với tôi ngày hôm đó.
Trong lòng Băng Nhi vẫn còn chút nghi ngờ, bảo: “Nếu đám người Thẩm Tề, Sầm Khê Huyền muốn hại đại ca, cho đại ca ăn anh túc cao, ngày một ngày hai còn thực hiện được, chứ lâu dài sao có thể?”.
Tôi cười khổ nói: “Ta đoán rằng, người cho tướng công ăn anh túc cao, e rằng không phải đám người Thẩm Tề, mà là Vũ Tương tỷ tỷ”.
Băng Nhi nghe thế, sắc mặt khẽ biến thành hờn giận, nói: “Cửu Dung tẩu tẩu, tuy rằng từ xưa đến nay muội rất quý tẩu, nhưng tẩu không thể đặt điều cho Vũ Tương tẩu tẩu như vậy được”.
Nói xong, cô tự biết mình lỡ lời, lại thêm: “Cửu Dung tẩu tẩu, không phải muội trách tẩu đâu, nhưng mà Vũ Tương tẩu tẩu không phải người như vậy. Tẩu ấy dẫu có chết cũng không hại đại ca”.
Tôi nhẹ giọng nói: “Nếu quả thật là tỷ tỷ cho tướng công ăn anh túc cao, có lẽ thật tình không phải muốn hại chàng, mà là bởi thương chàng”.
Băng Nhi xưa nay sáng suốt, nhưng giờ cũng hóa hồ đồ, cô trợn tròn hai mắt hỏi: “Cửu Dung tẩu tẩu nói vậy là có ý gì?”.
Tôi chậm rãi đáp: “Băng Nhi, muội đã biết anh túc cao, thì cũng biết rằng một khi người ta ăn thứ này vào sẽ thành nghiện, như si như cuồng, khó có thể tự kiềm chế. Ta cho rằng ngay từ khi mới bắt đầu, đã có kẽ tính toán cho tướng công ăn một ít anh túc cao, về sau tướng công khó có thể tự kiềm chế, không từ bỏ nó được. Từ trước đến nay tỷ tỷ là người yêu thương tướng công nhất, đương nhiên cũng không thể mặc cho tướng công bị giày vò, cho nên mới đi tìm mua cho tướng công dùng. Dự định ban đầu của tỷ tỷ mặc dù là tốt, nhưng anh túc cao này lại là một loại độc dược mãn tính. Tướng công ăn càng nhiều, thân thể càng kém đi, lại càng không thể cai được nó. Cứ lặp đi lặp lại tuần hoàn như thế, dẫn đến tình trạng ngày hôm nay. Kẻ trước kia tính kế hại tướng công hiển nhiên đã đạt được mục đích, vì tình cảm tỷ tỷ dành cho tướng công chân thành, vô hình trung thành đồng lõa, trong lòng tỷ ấy, nhất định là hết sức khó chịu”.
Sau khi nghe tôi phân tích, Băng Nhi vẫn còn nghi hoặc: “Cửu Dung tẩu tẩu, tất cả chuyện này, tuy nghe thì có vẻ hợp tình hợp lý, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phỏng đoán của tẩu mà thôi”.
“Phải”, tôi gật đầu đáp:
“Nhưng rất có khả năng là như vậy. Từ sau hôm tỷ tỷ gặp chuyện chẳng lành, mỗi lúc tối trời tướng công đều khổ sở muốn chết. Muội xem, chăn nệm bị xé thành bao mảnh nhỏ, có thể tưởng tượng được sự tình thê thảm ra sao. Ngoại trừ nguyên nhân nghiện anh túc cao ra, ta thật không thể nghĩ tới nguyên nhân nào khác. Còn nữa, ta nhớ khi lục soát phòng tỷ tỷ, từng tìm thấy số ngân phiếu hơn một vạn lượng. Ban đầu ta tưởng đám người Thẩm Tề vu oan giá họa, nhưng sau này ngẫm lại, thư từ, hình nhân gỗ đào và mấy tờ giấy viết đã có thể định tội tỷ tỷ, bọn Thẩm Tề không cần phải mất công góp thêm vào hơn một vạn lượng bạc. Dù sao đây cũng không phải số bạc nhỏ. Cho nên, số bạc này rất có thể chính là của tỷ tỷ, là do tỷ tỷ gom góp lại để cung cấp anh túc cao cho tướng công dùng”.
Nói xong, tôi im lặng, Băng Nhi cũng không nói không rằng. Trong phòng im ắng đến mức một cây kim rơi xuống mặt đất cũng có thể nghe rõ tiếng. Băng Nhi nhìn Thẩm Hồng đang mơ màng ngủ say, ngẩn người cả nửa buổi mới nói: “Cửu Dung tẩu tẩu, chuyện đại ca ca, tẩu tính thế nào? Để huynh ấy tiếp tục ăn anh túc cao hay là…?”.
“Chàng nhất định phải bỏ!”, tôi nói như đinh đóng cột: “Nếu chúng ta nhất thời mềm lòng thì sẽ giống như tỷ tỷ vậy, còn cung cấp anh túc cao cho tướng công ăn, sớm muộn gì chàng cũng mất mạng. Nếu hiện tại dừng tay lại, có lẽ tướng công còn cơ hội được cứu. Mặc dù chàng phải chịu đau đớn sống không bằng chết, nhưng cứu chàng. Bắt đầu từ hôm nay, ta, Băng Nhi muội, Bảo Bảo, Minh Nguyệt Hân Nhi, còn cả Băng Ngưng muội muội mà muội đưa về nữa, nhưng người chúng ta đây nhất định phải thay phiên nhau trông chừng tướng công. Đề phòng ban đêm chàng lên cơn nghiện anh túc cao lại xảy ra chuyện”.
Vẻ mặt Băng Nhi nghiêm nghị, gật đầu đồng ý.
Thế là, bắt đầu từ hôm đó, mãi cho đến tận năm mới, năm người chúng tôi thay nhau trông nom Thẩm Hồng. Lúc chàng lên cơn nghiện anh túc cao, nhẹ thì cắn xé lung tung, nặng còn có thể bị sùi bọt mép, cả người run rẩy, tựa như mắc chứng kinh phong. Vì thế mỗi khi trời tối, chúng tôi không thể không lấy dây thừng trói chàng vào, dùng khăn vải chặn miệng chàng lại. Cơn nghiện anh túc cao của chàng ngày càng thường xuyên hơn, có đôi khi một ngày lên cơn mấy lần. Chúng tôi rất lo tiếng kêu của chàng sẽ bị Lão phu nhân phát hiện, nhưng cũng may, Lão phu nhân chỉ phái người đến hỏi thăm dạo mới bắt đầu, sau khi được tôi thuật lại qua loa thì không còn đến nữa.
Không biết vì sao, Mai Nhiêu Phi đột nhiên lâm bệnh nặng. Nghe nói là quỷ nhập vào người, bệnh tình rất nghiêm trọng, ngay cả xuống giường cũng không nổi. Cúc ma ma vì muốn lấy lại sự tín nhiệm của Lão phu nhân, làm việc nói năng rất cẩn thận, rất ít khi ngang ngược giống như trước kia. Đã không còn hai người kia, một Sầm Khê Huyền có gây sức ép cũng chẳng thấm vào đâu.
Năm nay, Thẩm gia quả tình rất trống trải lạnh lẽo, không có chút hơi ấm nào. Tôi và mấy ngày Băng Nhi ngày ngày luân phiên trông nom trước giường Thẩm Hồng, rất ít khi hỏi đến chuyện khác. Chúng tôi trước giờ vẫn đắm chìm trong nỗi bi thương lớn lao mất đi Liễu Vũ Tương, sôi nổi đón tết Âm Lịch là chuyện của người khác, không liên can tới chúng tôi.
Mãi cho đến Mười lăm tháng Giêng, số lần Thẩm Hồng lên cơn nghiện anh túc cao rõ ràng giảm đi đáng kể. Toàn thân chàng cũng không còn mê mang thiêm thiếp như trước kia, tuy nhiên thần trí vẫn hơi lẫn lộn. Chuyện Liễu Vũ Tương, chúng tôi vẫn một mực không dám nói cho chàng biết, chỉ trông mong qua được ngày nào hay ngày đó, bệnh tình của chàng có thể sớm bình phục.
Buổi tối hôm Mười lăm, Băng Nhi nói với tôi: “Có người làm bài từ nói: ‘Gió thổi đêm xuân ngàn hoa nở. Rụng như mưa, sao rực rỡ’ (Trích hai câu đầu trong bài từ Thanh ngọc án của Tân Khí Tật thời Nam Tống. Bài từ tả cảnh hoa đăng trong đêm Tết Nguyên tiêu. Hai câu này muốn nói Đèn lồng treo cao tựa như ngàn hoa nở rực rỡ trên cành, bay lên trời rồi rụng xuống như sao).
Tối nay là hội Hoa đăng Tết nguyên tiêu mỗi năm mới có một lần, chúng ta ngại gì mà không đi góp vui. Để Băng Ngưng muội muội mở mang hiểu biết cũng tốt mà”.
Minh Nguyệt Hân Nhi và Băng Ngưng nghe vậy, vui tới nỗi suýt chút nữa nhảy cẩng lên. Tôi vốn không có lòng nào, nhưng lại không đành làm mấy cô bé ấy cụt hứng, bèn đồng ý. Bảo Bảo xung phong nhận việc ở lại chăm sóc Thẩm Hồng.
Nhà thơ Dường-Trương Hộ từng viết một bài thơ miêu tả không khí sôi nổi của Tết Nguyên tiêu, thơ rằng: “Ngàn cửa mở rộng vạn đèn lồng, trung tuần tháng Giêng kinh thành rung.Ba trăm cung nữ vung áo múa, thi tử vang vọng cả không Trung (Bài thơ Chính Nguyệt thập ngũ dạ đăng (Đèn đêm rằm tháng giếng) của nhà thơ Trương Hộ thời Đường)”.
Từ Thẩm gia đi ra, nhà nhà trên đường treo hoa đăng đủ loại đủ kiểu phong phú, có đèn Khổng Minh (Tương truyền do Gia Cát Lượng thời Tam quốc chế ta, đèn sáng hai chữ Khổng Minh, vì vậy kêu là đèn Khổng Minh ).
Là loại đèn lợi dụng nguyên lú không khí nóng lên thì tương đối nhẹ có thể bay lên cao mà chế thành, bên trên không có miệng, tim đèn sau khi cháy xong thì không khí nóng ắp ở bên trong làm cho đèn bay lên cao. Ngày nay gọi đơn giản là đèn trời., đèn trường minh (Loại đèn được đốt suốt đêm ngày, chủ yếu dùng cho việc thờ cúng) , đèn lồng giấy, đèn lưu ly, vân vân và vân vân. Trong chốc lát ấy, thật sự có thể nói là sắc màu rực rỡ, tươi đẹp, hân hoan.
Rẽ vào con phố Văn Hoa phồn hoa nhất, hai bên đường treo đầy hoa đăng muôn hình muôn vẻ. Đăng luân, đăng lâu, đăng thụ cao lớm, rực rõ tỏa sáng lấp lánh. Người đén kẻ đi, muôn hoa đua thắm khoe hồng, thât sự có thể nói là:
”Yến tiệc thơm đẹp ngạt ngào, kìa lan sắc đỏ đón chào đầu xuân. Dặm đất trải rộng muôn phần, phồn quang tuyết trắng vô ngần tầng không (Trích trong bài thơ Thập ngũ dạ quan đăng của tác giả Lư Chiếu Lân đời Đường)”.
Sĩ tử vận TSm nho nhã, cô nương khoác áo váy phất phơ, các cụ già bạc đầu thượng thọ, đám con trẻ má phấn tóc xanh... Con người muôn sắc muôn hình, xen lẫn trong cảnh đèn đuốc sáng trưng, phảng phất như “người bơi trong bức họa (Câu thơ trong bài Chu trang hà. Có người cho rằng tác giả bài thơ là nhf thơ Vương Duy thời Đường)”
Ngay ở của phòng người thiếp của mấy gia đình có đặt hình nhân một cô nương được bện bằng rơm rạ, vải vụn cao cỡ người thật, đây là phong tục “Đón Tử cô” của Duy huyện. Tử cô trong truyền thuyết là một cô nương thật thà tốt bụng, vì nghèo túng đói rét mà chết đi. Vì thế, mỗi Tết Nguyên tiêu ngày Mười lăm tháng Giêng, mọi người đều bện hình của nàng, cúng bái và chúc phúc cho nàng. sau khi Băng Ngưng nghe nói về phong tục này, rất đồng cảm với Tử cô, bèn chạy đến trước một cửa nhà, cầm tay một “Tử cô” được bện bằng rơm nói chuyện cả hồi lâu, đến lúc xúc động còn rơi nước mắt. Cô bé từng lưu lạc một lần, chịu đủ đói rét, hiển nhiên có một loại tình cảm khác biệt với Tử cô, tự đáy lòng cảm thấy đồng bệnh tương lân.
Trước cửa hàng đều cắm một cành dương liễu và hương, bên cạnh đặt một cái bát, trong bát của những người bần cùng thì để cháo đậu, khoai lang: còn những người ngày thường sống dư dả hơn một chút thì để màn thầu, rau cải, sủi cảo: trước cửa những gia đình phú quý giàu sang thì bày thịt cá ê hề, còn cả rượu thuần chất.
Đây là phong tục “Tế nhà tế cửa” trong dịp Tết Nguyên tiêu. Một năm tổng cộng có bảy dịp lễ tế, thì đây là dịp thứ hai trong số đó. Cho nên đối với những người ăn mày mà nói, Tết nguyên tiêu quả là một ngày lành. Bởi vì đắn đêm hôm yên tĩnh, bọn họ có thể tùy ý ăn các mín cúng tế trước cửa nhà người ta, ăn không hết còn có thể gói ghém mang đi, trữ thức ăn dần dần. Những lúc này, chủ nhân cũng không trách móc. Ngày hôm sau, bọn họ mở của ra, thấy đồ ăn cúng tế không còn ở đó nữa, sẽ cho là thần tiên ăn hết, có thể phù hộ cả nhà già trẻ bình an, sống những ngày tốt đẹp.
Chúng tôi đi đến cầu Tứ Thủy, thấy có vài cô nương ăn vận khác nhau, trong tay cầm hoa đăng đánh bạn mà đi. Bởi vậy, Băng Nhi cũng mua bốn chiếc hoa đăng, đưa cho chúng tôi mỗi người một chiếc, đi theo những cô gái kia cùng qua cầu. Phong tục này có tên là” Tẩu bách bệnh”. Nghe nói nữ tử”Tẩu bách bệnh” thì có thể từ bỏ bệnh tật tai họa cho người thân bên cạnh.
Đi qua cầu Tú Thủy, chúng tôi đến miếu Tam Cô Nương. Trước miếu giăng đèn kết hoa, rộn ràng xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Miếu Tam Cô Nương này có tên là miếu Nhân Duyên. Truyền thuyết kể rằng ai tới nơi này, một khi gặp được người trong lòng thì có thể bên nhau trọn đời, hạnh phúc đủ đầy. Tam cô nương trong truyền thuyết là người triều Hán, vì dung mạo tuyệt trần, nghiêng nước nghiêng thành, bị Hoàng đế triệu vào cung làm phi tử. Sau khi nàng vào cung, trong lòng nhớ mong người thương là thanh mai trúc mã bên ngoài, chẳng mấy thì uất ức chết đi.
Sau khi Hoàng đến biết chân tướng sự việc, hết sức áy náy và cảm động, vì thế liền đưa di cốt nàng về lại quê hương, cũng xây cho nàng ngôi miếu Tam Cô Nương này. Tình yêu của vản thân Tam Co Nương tuy không mũ mãn, nhưng vì thế lại gieo quyết tâm cho bao đôi nam nữ yêu nhau trong thiên hạ. Vì vậy mỗi lần hiển linh, đều làm mối cho những nhân duyên tâm đầu ý hợp trong thế gian. Trong miếu Tam Cô Nương có một tảng đá, tên là “ Tam Sinh Thạch”, nghe nói nếu bái lạy ở chỗ tảng đá kia, gọi tên người trong lòng thì có thể bên nhau ba đời ba kiếp, mãi chẳng phân ly.
Trước miếu bày biện hai cái sạp. Một xem bói xem quẻ giải xăm, một phụ trách hội Đố đèn. Cái gọi là “hội Đối đèn”, nói thẳng ra là tiêu tiền giải câu đố trên đèn kiếm bạc trắng, mỗi lần giải mất ba văn tiền, giải đúng có thể có được đến ba mươi văn tiền thưởng. Ai giải đúng nhiều nhất còn được phong hài “Trạng nguyên đố đèn” và giải thưởng hai mươi lượng bạc. Bởi vậy, hoạt động này thu hút vô số văn nhân mặc khách, tài tử từ nhân.
Minh Nguyệt Hân Nhi tràn trề hăng hái, ánh mắt nhìn ngó đến độ có vẻ không biết nơi này là chỗ nào. Cô bé xúi chúng tôi:
“Tiểu thiếu phu nhân, Biểu tiểu thư, Nhị biểu tiểu thư, chi bằng chúng ta đi vào miếu bái Tam Sinh Thạch đi, cầu duyên, được không? Biểu tiểu thư cũng không còn nhỏ nữa rồi”.
Băng nhi cốc đầu con bé, mắng: “Tiểu nha đầu, đừng nói lung tung, chính mình động lòng xuân rồi đi bái thần chứ gì. Cần gì phải kéo ta vào?”
Giờ tôi là người đã có gia thất, đương nhiên không thích hợp đi bái Tam Sinh Thạch, cho nên cười nói:
“Minh Nguyệt Hân Nhi, Băng Ngưng, hai em bầu bạn với Biểu tiểu thư đi báo Tam Sinh Thạch đi. Ta ở đây giải đố đèn, chờ mấy em”.
Minh Nguyệt Hân Nhi nghe xong, dắt Băng Nhi và Băng Ngưng hớn hở bước đi, tôi đợi trước cửa miếu, đặt mấy văn tiền vào rồi đi gải câu đố đèn.
Khi tôi còn nhỏ, tuy rằng gia cảnh sa sút, nhưng cũng có rất nhiều sách. Đọc chữ luận căn vốn không làm khó được tôi. Bởi vậy, chẳng mất bao nhiêu thời gian, tôi đã liên tiếp giải đúng mười mấy câu đố đèn. Lão tiên sinh chủ quán hội Đố Đèn vuốt chòm râu dài cười nói:
“Trạng nguyên hội Đố đèn đêm nay, Tiết công tử chưa chắc chiếm được ngôi đầu. Tuy vị cô nương này tới muộn, nhưng tài trí lanh lẹ không thua gì công tử.”
Tôi ngẩng đầu nhìn lên mới thấy cách mình không xa lắm có một công tử trẻ tuổi đang đứng. Y nhấc một chiếc đền lên, chừng nghĩ ngợi chốc đã có thể nói ra đáp án, làm cho mọi người vỗ tay tán dương. Đây là “Tiết công tử” lão tiên sinh nhắc tới. Công tử kia vặn áo gấm xa hoa, phong thái nhẹ nhàng, tuấn tú khác thường, khí chất cũng hơn hẳn người thường, xem chừng nhất định là nhân vật hàng đầu. Chỉ đáng tiêc trời lạnh như vậy, trong tay y vẫn cầm một chiếc quạt, làm cho người ta cảm thấy y là một tên quần là áo lượt làm bộ làm tịch, lỗ mãng càn rỡ.
Lúc này, chắc cũng nghe được lời tiên sinh nói, y nhìn tôi từ trên xuống dưới. Tôi sợ người khác chê trách, vội quay mặt sang chỗ khác, không nhìn y nữa. Ai ngờ y lại tiến đến gần, chớt nhả cười đùa: “‘Ngài tằm, liễu tuyết, tơ vàng tràn. Phảng phất hương mai. nụ cười lan. Trăm phương ngàn hướng bao lần liến. Ngoảnh đầu nhìn lại. Người ngay trước mắt. Dưới ánh lửa tàn (Trích bài từ Thanh ngọc âm của tác giả Tân Khí Tật thời Nam Tống).’ Chào cô nương, tiểu sinh Tiết Bạch Y xin hữu lễ”.
Tôi cũng không nhìn y thêm nữa, lạnh nhạt nói: “Chắc hẳn Tiết công tử nhận lầm người rồi, Tôi nào phải cô nương gì đó. Tôi là tiểu thiếp của Đại công tử nhà họ Thẩm ở Duy huyện”.
Người nọ còn muốn nói gì đó, ba người Băng Nhi đã đi ra từ của miếu, chạy lại. Minh Nguyệt Hân Nhi liếc Tiết Bạch Y lia một cái, hỏi: “Tiểu thiếu phu nhân, đây là ai thế? Nhìn có vẻ tuấn tú nha”.
Tôi liếc con bé một cái, lạnh lùng nói: “Người ta ra sao thì liên quan gì tới chúng ta?”. Minh Nguyệt Hân Nhi lè lưỡi, không thèm để ý đến tôi.
Băng Nhi thì ngược lại, thấy người nọ, dường như ngây người. Cô đứng đó, nhìn y chăm chăm, hồi lâu không nói tiếng nào. Mãi tới khi tôi hỏi mấy câu liền, cô ấy mới lấy lại thần trí.
Tôi hỏi : “Băng Nhi, xăm nhân duyên của muội đã cầu xong rồi à? Giờ chúng ta đi tìm người giải xăm đi.”
Băng Nhi cầm thẻ xăm trên tay, ánh mắt vẫn không rời người nọ, một lúc sau mới đáp: “Được”
Người nọ lại cười nói: “Khỏi tìm người giải xăm. Ta giỏi thứ này lắm”.
Dứt lời, y đoạt lấy thẻ xăm, đọc lên: “Hoa đào theo nước cuốn xa mù, Tam Sinh Thạch đã quá độ thu. Hải đường trong gió màu bợt bạt, một nét kiều diễm lòng hoài mơ. Xăm tốt, xăm tốt, thẻ xăm nói rất đúng về tiểu thư, sẽ giống như cánh hoa đào g ặp được con nước chảy trong lòng mình, cũng chính là tình lang. Ngay sau đó, chàng có tình, muội có ý, đương nhiên là phong thái giai nhân giữ trong lòng rồi. Ha ha, đây chính là thẻ xăm tốt nhất”.
Dù tên Tiết Bạch Y kia giải như vậy, nhưng sau khi nghe y đọc thẻ xăm kia, tôi vẫn cầm lòng không đặng mà ớn lạnh. Luôn cảm thấy quả xăm này chẳng phải điềm báo tốt đẹp gì. Tam Sinh Thạch quá độ thu, hoa hải đường đã phai màu, đều là tàn lụi cùng cực, nét kiều diễm để trong lòng, chẳng phải ý là…? Tôi thật sự không muốn nghĩ tiếp, chỉ mong lời giải thích của Tiết Bạch Y về thẻ xăm là đúng.
Tôi kéo xiêm áo Băng Nhi: “Chắc tướng công chờ sốt ruột lắm rồi, chúng ta về thôi”.
Băng Nhi lưu luyến nhìn Tiết Bạch Y, không hề có ý ra về. Tôi thật sự không nghĩ ra, người thanh khiết thông minh như Băng Nhi mà cũng bị một tên lãng tử làm cho mê mẩn tới múc đầu óc rối bời, không biết vì sao nữa.
Lúc này, lão tiên sinh chủ trì hội Đố đèn cũng tiến lại gần, nói: “Nếu chư vị đã tham gia hội, sao có thể bỏ đi giữa chứng như thế? Xin Tiết công tử và vị cô nương này hãy tiếp tục giải đố đi. Định đoạt Trạng nguyên đố đèn là để có được điềm may. Để tránh việc thần đèn nổi dóa, giáng cho cho chúng sinh”.
Tiết Bạch Y kia nghe thế, cười hì hì nói: “Chỉ cần vị Thẩm phu nhân này tham gia, bản công tử cũng sẽ tham gia. Nếu cô ấy không chịu, vậy thì bản công tử cũng chẳng biết tinh sao. Chỉ đành chờ thần đèn tức giận, giáng tội chư vị thôi”.
Đôi mày đẹp của Băng Ngưng vì tức giận mà dựng lên, tay nắm trường kiếm, quát to: “Tên kia, ngươi có nói đến đạo nghĩa giang hồ không? Đây chẳng phải là uy hiếp sao?”.
Tiết Bạch Y thấy Băng Ngưng, thoáng lặng đi một chút, nhưng chỉ chốc lát, y đã cười nói: “Cô nương là người ở đâu? Tiểu sinh đây xin hữu lễ”.
Minh Nguyệt Hân Nhi phồng má lên, nói: “Nhìn ngươi phong thái nhẹ nhàng như vậy, nào ngờ lại là kẻ ngốc. Tỷ tỷ Khúc Băng Nhuế của cô ấy là người Giang Tô, đương nhiên muội muội Khúc Băng Ngưng cũng là người Giang Tô. Thật là ngu ngốc quá đi thôi, haizzz, dù sao người vừa thông minh vừa nhanh nhẹn vừa xubg đẹp vừa tốt bụng vừa có khí chất lại vừa có nhân duyên như Minh Nguyệt Hân Nhi ta đây đúng thật là không nhiều”.
Lời nói của Minh Nguyệt Hân Nhi làm mọi người cười ầm lên. Vẻ mặt con bé còn rất nghiêm túc, tựa như những lời con bé nói là đạo lý hiển nhiên.
Tôi thấy Tiết Bạch y có chút hờn giận, không muốn sinh sự, liền đáp lời: “Nếu lão tiên sinh chủ trì hội Đố đèn đã nói như vậy, chúng tôi cũng không tiện làm trái. Chúng ta đừng ở đây cãi nhau nữa, thôi thì giải xong sớm rồi về sớm vậy”.
Băng Nhi vỗ tay nói: “Thế thì tốt quá. Chúng ta giải câu đố tiếp đi”.
Mấy câu đố đèn kỳ thật hơn phân nữa là tương đối dễ dàng, nhưng không hiểu diuyeen cớ vì đâu, đám tài tử văn nhân tự xưng là tài hoa tót vời này trái lại dù toát mồ hôi hột vẫn chưa đoán ra. Chẳng bao lâu sau, tôi và Băng Nhi đã giải đúng rất nhiều. Vị Tiết Bạch Y kia đứng bên cạnh, cười tủm tỉm nhìn chúng tôi giải đố. Đến khi lão tiên sinh chủ trì tuyên bố: “Thẩm phu nhân đã giải được ba mươi tám câu đố đèn, sánh ngang với Tiết công tử. Còn một câu đó đèn ở chiếc đèn lồng cuối cùng là có thể định ra Trạng nguyên đố đèn đêm nay”. Lão tiên sinh vừa nói xong, đã có rất nhiều người ùa đến, chờ xem tôi và Tiết Bạch Y so tài.
Tôi vốn chỉ vô tình mà thôi, nhưng một khi đã tham dự thì không thể không kiên trì đến cùng. Lão tiên sinh mở câu đố đèn trong chiếc đèn lồng cuối cùng, đọc to.
“Miệng quết yên chi một vệt hồng
Theo chàng muôn dặm tới tây đông
Tơ trúc giấy dai đầu mai sợi
Chỉ sợ bên ngoài gió lông bông.”
“Hỏi là vậy gì?” Lão tiên sinh vừa mới dứt lời, Tiết Bạch Y đã cười bảo: “Ta có lời đáp rồi. Chẳng hay Thẩm phu nhân thì sao?”. Tôi cũng gật gật đầu.
Tiết Bạch Y cười nói: “Thế thì tốt, vậy xin mời Thẩm phu nhân nói trước, được không?”. Tôi không từ chối, nhàn nhã nói: “Tôi cũng dùng một bài thơ để giải đố vậy”.
“Đạm trúc chỉ xác trị gió thông
Một nhánh hồng hoa giấu ở trong
Thục địa hoặc dùng cây bán hạ
Sinh địa, xa tiền (Đạm trúc, chỉ xác, hồng hoa, thục địa, bán hạ, sinh địa, xa tiền…. Đều là tên các vị thuốc) cậy một công.”
Tôi vừa nói xong, lão tiên sinh lập tức giơ ngón tay cái khen: “Hay lắm! Hay lắm! Miêu tả sống động! Hay lắm!”. Tôi mỉm cười, không nói năng gì.
Tiết Bạch Y nói: “Thẩm phu nhân quả nhiên tài trí nhanh nhẹn, nếu đã vậy, ta cũng dùng một bài thơ để giải đố”.
“Trong tường trổ bông ngoài tường hồng
Nghĩ muốn hái bông đường không thông
Nhược bằng đường thông bông liền rungh
Một hồi vui vẻ cũng hoài công (Ba bài thơ bên trên đều chỉ chiếc đèn lồng).”
Y dứt lời, cười ha ha. Chung quanh cũng vang lên những lời ủng hộ.
Lão tiên sinh chủ trì khen: “Hai vị quả nhiên tài hoa xuất chúng, bất phân cao thấp. Nhưng… nhưng chức Trạng nguyên này nên trao cho ai mới phải đây?”.
Tôi hững hờ nói: “Tôi chỉ là phận nữ nhi bé mọn, sao có thể làm Trạng nguyên được chứ? Chức Trạng nguyên đố đèn, để cho bị Tiết công tử này đi. Trời cũng muộn rồi, tỷ muội chúng tôi cũng phải về thôi. Cái từ!”.
Tôi xoay người toan bỏ đi. Tiết Bạch Y lại lên tiếng từ phía sau: “Gượm đã! Nếu Thẩm phu nhân cứ như vậy mà đi, tặng danh hào Trạng nguyên đố đèn lại cho tại hạ, tại hạ cũng không thẻ tâm phục được. Chi bằng thế này, nếu giải đố khó phân cao thấp, hay là lão tiên sinh cứ ra một vế đối, xem ta và vị Thẩm phu nhân này ai đối hay hơn, người thắng sẽ có được phong hào Trạng nguyên, được chứ?”.
Lão tiên sinh nói: “Như thế rất hay, Ta ra một câu đối vậy”.
Ông trầm tư một lát, nói: “Ngày hội Nguyên tiêu thế này, đương nhiên câu đối sẽ có liên quan đến trăng. Lão phu ra vế trên: ‘Minh nguyệt nửa vầng thanh như nước’, mời hai vị đối”.
Tiết Bạch Y suy nghĩ một chút, cười đáo: “Lão tiên sinh ra vế đối thật hay. Vế dưới ta đã có đâu: ‘Hàn từ một khúc lạnh như sương’.”. Tài tử từ nhân vây quanh xem hội nghe xong, đồng thanh tán thưởng.
Lão tiên sinh cũng khen: “Đối hay, đối hay! Không biết Thẩm phu nhân đã nghĩ ra chưa?”.
Tôi cũng không vòng vo, thở dài nói: “Minh nguyệt nửa vầng thanh như nước, thu phong một bệnh ốm như mây”.
Tôi vừa dứt lời, giọng của lão tiên sinh đã có phần run rẩy, ông liền nói: “Hay! Thu phong một bệnh ốm như mây, quả nhiên là hay! Thẩm phu nhân quả là bậc nữ tử tài văn, quả là học vấn tuyệt vời! Vinh hiển Trạng nguyên đại hội Đố đèn lần này, đương nhiên không thể là ai khác Thẩm phu nhân. Không biết chư vị có thắc mắc gì không? Tiết công tử có thắc mắc gì không?”.
Người vây xem hô to: “Không có!”.
Vẻ mặt Tiết Bạch Y kia chắc hẳn đã trở nên có phần khó coi, giọng nói hơi hờn dỗi: “Không có!”, sau đó đi đến bên cạnh tôi, nhìn chằm chằm vào tôi hồi lâu, mới chậm rãi nói: “Tiểu thiếp nhà họ Thẩm phải không? Quả nhiên là rất giỏi!”.
Tôi lạnh lùng: “Công tử quá khen”.
Băng Nhi thấy thế, vội nói: “Thật ra vế đối của Tiết công tử và Cửu Dung tẩu tẩu đều rất hay, mỗi người một vẻ, bất phân cao thấp”. Tiết Bạch Y kia lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người bỏ đi. Băng Nhi ngơ ngác nhìn bóng lưng của y, nhất thời ngây ra.
Minh Nguyệt Hân Nhi đi lĩnh bạc, rất phấn khới theo tôi quay về Thẩm gia. Trên đường, Minh Nguyệt Hân Nhi hỏi tôi: “Tiểu thiếu phu nhân, cái câu đố đèn cuối cùng hai người giải ấy, cô nói cái gì sinh cái gì thục, còn họ Tiết nói cái gì hoa hồng hoa trắng (Chơi chữ. Hoa trắng: “Bạch hoa” có nghĩ là vô ích, đồng nghĩa với từ “Hoài công” trong câu thơ Tiết Bạch Y đọc), là thứ gì thế?”.
Tôi cười nói: “Đương nhiên là đèn lông. Tự em nghĩ kỹ thử xem. Thường ngày bào em chăm đọc sách, chăm học chữ thì em kêu đau đầu, giờ đã thấy cái hại của việc không đọc sách chưa?”.
Minh Nguyệt Hân Nhi dẩu mỏ nói: “Cái này có thể trách em được ư? Tiểu thiếu phu nhân. Cô thật sự là không nói đạo lý gì hết. Em mà biết đọc nhiều sách có thể kiếm ra nhiều bạc thế này, sao mà em còn kêu đau đầu nữa? Lúc trước cô có nói với em chuyện kiếm bạc sao?”.
Nói xong, Minh Nguyệt Hân Nhi lên cơn bực tức không thèm để ý đến tôi.
Dưới ánh đèn lồng suốt dọc đường đi, hai mắt Băng Nhi hơi mơ màng, cô nói: “Tiết công tử kia tài hoa hơn người, phong thái nhẹ nhàng, thật sự rất tuyệt vời”.
Tôi không nói gì, trái lại Băng Ngưng lên tiếng: “Người đó, muội luôn cảm thấy hết sức quen thuộc, giống như đã gặp ở đâu đó rồi, nhưng nghĩ hoài vẫn không ra”.
Băng Nhi cười trêu: “Tiểu nha đầu, chẳng lẽ tuổi còn nhỏ mà cũng động lòng xuân, nhìn trúng người ta rồi?”. Băng Ngưng liếc nhìn cô một cái, nói: “Muội không giống như tỷ tỷ đâu, cô nàng háo sắc ạ”.
Băng Nhi liền đuổi theo cù Băng Ngưng khiến Băng Ngưng vội xin tha không ngớt.
Dọc đường đi cười cười nói nói, chẳng mấy đã sắp về đến Thẩm gia. Lúc này, đêm đã khuya, trên phố chỉ còn lác đác người qua lại. Nếu là ngày thường, e rằng đã ngủ cả. Tôi nói: “Chúng ta về mau nào. Nếu muộn quá, Lão phu nhân trách phạt thì không hay đâu”. Tôi vừa nói xong, sắc mặt Minh Nguyệt Hân Nhi bỗng nhiên thay đổi, con bé kinh hãi nói: “Mọi người mau nhìn xem, đó là… đó là gì vậy?”.