Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bính

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bính

Postby tuvi » 31 May 2020

Image

Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liệt )

Nguyên tác: Tô Du Bính


Giới thiệu

Cuộc đối thoại giữa ngài cảnh sát và một nghị viên nào đó:

Cảnh sát: anh có chút đánh giá nào hay không về việc anh tay không tất sắc bò ra khỏi căn nhà bị sập mà chẳng có chút thương tích,
Ngài nghị viên nào đó: Mạng lớn, có sức sống.

Cảnh sát: Về việc anh có thể di chuyển ba mươi mét trong vòng một giây, anh có đánh giá thế nào?

Ngài nghị viên nào đó: Gió lớn, đứng không vững.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 1: Mưu sát

Bão táp, gần đổ bộ rồi.

Ông chủ trẻ tuổi thong thả sải bước theo hướng ngược sáng, tây trang đen phối với khăn quàng cổ hoa văn xanh xám một cách khéo léo, tôn lên phong cách lịch lãm và cao quý của anh.

Anh là quý tộc thừa kế, trong Thượng nghị viện chỉ giữ một vị trí nhỏ nhoi nhưng được cái đẹp trai, lắm tiền, hài hước, dí dỏm, sở hữu tất cả những điều kiện khiến người khác phải ganh tỵ, từng được tạp chí tuần san “Thế Kỷ Mới” ba năm liên tục bình chọn là “Chàng trai hội đủ những điều kiện hoàn hảo để kết hôn trên toàn cầu”.

Chỉ có Macewen, người đã hầu hạ anh hơn một trăm hai mươi năm biết rõ, thân phận thật sự của anh là một huyết tộc đã có tuổi. Mà “có tuổi” ấy tức là giả sử anh biến thành con người, chắc hẳn đã phải đi bán muối mấy chục chuyến rồi.

Vào đúng giây phút cửa xe đóng lại, một chú mèo nhanh nhảu lách qua khe hở chui tọt vào xe, chảnh chọe giẫm lên đùi của chủ, nghênh ngang chiếm hẳn ghế trái sau xe.

Ông chủ thò tay kéo mèo đen vào sát bên hông, dùng năm ngón tay dịu dàng vuốt ve lông nó và lơ đãng hỏi: “Chào buổi sáng Macewen. Sáng nay ăn gì rồi?” Tọc mạch đời tư của người khác chính là sở thích quái đản của ông chủ này.

Macewen thuận miệng trả lời: “Một chén máu tươi nhỏ.” Đúng, gã cũng là huyết tộc, nhưng tuổi trẻ hơn chủ mình nhiều lắm – Mặc dù nhìn bề ngoài thì hoàn toàn ngược lại.

Ông chủ nói: “Của người da trắng ấy hở? Máu của người da trắng tôi uống riết mà ngán muốn ói luôn, thật sự hy vọng có thời gian ghé thăm châu Á, nghe đồn máu của người da vàng đỡ ngậy hơn.”

Macewen khởi động xe – Gã là quản gia, là thư ký kiêm cả tài xế. “Đến Cung điện Westminter à?”

Ông chủ đáp: “Ừ, hôm nay tôi phải tham dự hội nghị. Cậu đoán xem lão Benson hôm nay có đến dự hội nghị không?” Vị nghị viên của Thượng nghị viện vẫn luôn quyết định việc có tham dự hội nghị hay không dựa trên tâm trạng hôm ấy.

Macewen nói: “Có lẽ.”

Ông chủ liếc chú mèo đen một cái rồi lẩm bẩm: “Tôi đã chuẩn bị sẵn hoa hồng đỏ cho lão ta.” Cứ như ảo thuật, anh rút từ sau lưng ra một đóa hoa hồng.

Mèo đen cào chân anh.

Ông chủ vui vẻ ôm lấy nó, nâng đầu nó lên tặng nó một nụ hôn môi nồng cháy.

Macewen nhìn lướt qua kính chiếu hậu, “Tươi nhỉ.”

“Ừ, mới hái trong vườn hoa mà. Mong được nhìn thấy bản mặt mừng như điên khi nhận được hoa của lão thật đấy.” Ông chủ thả mèo xuống, rầu rĩ chống má, “Nhỡ như lão quá cảm động mà tình nguyện gả cho tôi, tôi nên từ chối thế nào mới phải đây? Dè dặt bảo, ‘Xin lỗi, ông xấu quá.’, hay uyển chuyển tí xíu, bảo với lão rằng: ‘Xin lỗi, tôi quá đẹp, ông với không tới đâu.’, hay cứ nói toạc ra: ‘Xéo!’ nhỉ.”

Macewen lặng lẽ thắp một ngọn nến cho Benson.

Thượng nghị viện là một nơi kỳ diệu, có những nghị viên tâm linh ghét nhau như nước với lửa, có cả huyết tộc. Đương nhiên, nghị viên tâm linh được công khai đón nhận, còn nhân vật được nhắc sau là phải che giấu thân phận. Những vị giám mục không hề biết rằng bên trong vị hàng xóm quý tộc “trông như con người” của họ ẩn giấu một lão già mấy trăm tuổi, mà lão già này còn đang ngấm ngầm tìm cách dày vò lũ giám mục bọn họ cơ chứ.

Cũng chỉ có thể ngấm ngầm dày vò.

Huyết tộc năm trăm năm trước từng xảy ra thánh chiến với giáo hội, quy mô xuyên khắp các lục địa châu Âu, cũng từng ảnh hưởng đến những giới khác. Để tránh thánh chiến thăng cấp thành thế chiến, dưới sự can thiệp của thiên đường và được địa ngục đứng ra làm chứng, tộc trưởng Leslie đại diện cho huyết tộc đã cùng giáo hoàng đương nhiệm ký kết Hiệp nghị Đình chiến, không được xâm phạm và quấy rầy lẫn nhau, đặt ra điều lệ ràng buộc nghị viên tâm linh và huyết tộc rằng bất cứ bên nào gây ra chiến tranh trước đều sẽ bị phạt nặng.

Vì vậy dù cho trong đầu vị ông chủ trẻ tuổi của chúng ta có muốn nghiền lão Benson ra tro cỡ nào thì bề ngoài anh cũng chỉ có thể tỏ vẻ kinh tởm một cách vô hại mà thôi.

Ông chủ hỏi: “Cậu thì sao?”

Macewen ngẩn ra, “Hả?”

“Chắc gần đây nhận được không ít thư tình chứ gì.”

Dù trong bụng đang muốn gào lên đây là đời tư của ông, xin đừng tò mò tọc mạch, nhưng vì đã quen với tính truy hỏi tận gốc của ông chủ, Macewen đành chọn cách nói thật: “Không, là thư tạm biệt của hàng xóm. Gần đây cuộc sống không mấy yên bình, họ định đi Pháp chơi một chuyến.”

Ông chủ hỏi: “Pháp?”

Macewen đáp: “Brittany được ngài Tiểu Minh Vương bảo vệ.”

Ông chủ nói: “Nhưng quý ngài ‘kia’ có dễ sống chung vậy đâu.”

Macewen cười khổ bảo: “Còn đỡ hơn tự dưng oan mạng chả hiểu nguyên do.”

Một tháng gần đây ở Anh đã xảy ra mười mấy vụ án mạng, từ đời thứ sáu tới đời thứ mười lăm, số huyết tộc tử vong nhiều không kể xiết. Vì thân phận đặc biệt của huyết tộc, chính phủ đã ém nhẹm hết tin tức, nhưng trong thế giới ngầm, nỗi sợ hãi đang dần dần lan tràn, huyết tộc ở Anh đành phải khăn gói sang Pháp.

Ông chủ hỏi: “Cậu cũng định đi à?”

Macewen đáp: “Tôi tuân theo nguyện vọng của ngài.”

Ông chủ gãi nhẹ cằm mèo. Mèo đen quào cho anh một cái, anh cúi đầu xuống, nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lục ánh vàng trong veo của nó và phì cười, nhẹ giọng bảo: “Đừng lo.”

Mèo đen đi xoay một vòng rồi nằm xuống, đuôi quấn quanh tay ông chủ.

Cung điện Westminster bên dòng sông Thames chợt xuất hiện trước mắt.

Macewen dừng xe cách đó không xa, ông chủ hôn mèo đen đầy vẻ quyến luyến rồi mới xuống xe đi bộ về phía trước.

Chính vào lúc Macewen đang định nổ máy lái đi, một tiếng nổ lớn từ hướng ông chủ đang đi thình lình vang lên, sau đó là một bóng đen tông mạnh vào cửa xe bên cạnh ghế lái. Cái bóng nhanh chóng mở cửa xe ngồi vào trong.

Macewen cả kinh nhìn ông chủ vừa trở về của mình.

Ông chủ phủi đi bụi đất bám vào quần áo do vụ nổ ban nãy, sắc mặt có vẻ khó coi, “Có người đặt bom cho nổ Benson, tiếc cho đóa hoa hồng phải bồi táng chung với lão, sớm biết đã tặng lão một bó cúc đại đóa cho hợp thời.” Nói rồi, anh cuối đầu nhìn xuống cổ áo của mình, “Hy vọng mớ thịt vụn của lão ta đừng dính lên quần áo của tôi.”

Chú mèo đen bấy giờ đã leo lên cạnh ghế lái và ghế phụ, nghe anh nói thế thì chợt dừng bước, xoay lưng toan bỏ đi nhưng lại bị ông chủ với tay kéo về.

“Ghét bỏ chủ nhân của mình là không được đâu nha em yêu.” Ông chủ cấu nhẹ vào tai của nó.

Mèo đen chảnh chọe cào lại cho anh một phát.

Mu bàn tay rướm máu nhưng ông chủ lại chỉ lơ lễnh cười cười, cúi đầu liếm sạch chỗ máu, vết thương cũng đã khép miệng.

Trước của cung điện Westminster hết sức lộn xộn, Macewen lái xe chạy đi.

“Đi đâu đây?” Gã hỏi.

Ông chủ đáp: “Về nhà dọn đồ, xem ra chúng ta cũng phải đến Pháp một khoảng thời gian thôi.”

Quyết định của ông chủ vẫn chậm một bước.

Lúc Macewen còn đang lẩn quẩn trong hầm rượu để chọn những chai rượu ngon mà ông chủ gã sau khi đến Pháp sẽ thấy nhớ, cảnh sát mò đến trước cửa nhà họ.

“Quý ngài Oregon Chamberlain, hiện tại chúng tôi có lý do nghi ngờ anh có liên quan tới vụ nổ trước của cung Westminster, mời anh theo chúng tôi một chuyến.”

Ông chủ – Cũng là Oregon Chamberlain bình tĩnh cầm lấy áo khoác, “Có thể cho phép tài xế của tôi đi theo sau xe cảnh sát không? Tôi sợ lúc rời cục không đón xe được.”

Cảnh sát nói: “Vậy thì anh ta phải mang theo tiền để ở khách sạn đấy.” Ý là anh sẽ không được thả ra sớm vậy đâu.

Oregon bước ra vườn hoa, chú mèo đen đang nằm phơi nắng phóng tới bên anh.

Oregon dừng bước, vuốt ve lưng nó đầy vẻ dịu dàng, “Tôi sẽ về ngay thôi.”

Đuôi của mèo đen cứ quấn chặt cổ tay của anh.

Oregon hỏi cảnh sát: “Tôi có thể mang nó đi cùng không? Trong nhà không có ai chăm sóc nó, lúc xảy ra chuyện nó đi cùng với tôi, có thể làm miêu chứng.”

Cảnh sát nói: “Vậy anh phải mang đủ thức ăn cho mèo.”

Ra đến của, Oregon chợt nói: “Còn nữa…”

“Cái gì?” Cảnh sát bắt đầu bực mình.

Oregon ngắt một đóa hồng, “Tặng cậu.”

Cảnh sát ngây ngẩn, nhìn gương mặt đẹp đến mức xuất chúng của ai kia với ánh mắt đầy cảnh giác, “Nếu đang là thế chiến thứ hai, hành vi của anh có thể sẽ khiến anh bị ép phải nhận liệu pháp kích thích hóc môn đấy.”

Oregon mỉm cười, “Chắc thế, trong trường hợp khi ấy cậu không bị Đức cho nổ chết.”

Cảnh sát: “…”

Oregon bồng chú mèo đang quấn lấy chân mình lên, thờ ơ hỏi cảnh sát: “Cậu không thích hoa hồng?”

Mặt cảnh sát sầm xuống, “Lúc giám mục Benson qua đời, trong tay ông ấy cũng cầm một cành hoa hồng.”

Oregon im lặng một lúc rồi nói: “Không phải tôi đang rủa cậu đâu.”

Cảnh sát nhìn anh, sắc mặt trở nên bớt khó chịu. Thôi được rồi, dù mình chẳng mấy hứng thú với đàn ông nhưng được nhận hoa từ một anh chàng điển trai cũng là trải nghiệm đâu đến nỗi nào đúng không? Cậu chìa tay ra toan nhận lấy cành hoa.

Oregon nói: “Nhưng hoa hồng trong tay cụ Benson cũng giống đóa của cậu đấy, đều do tôi tự tay hái trong vườn cả.”

Cảnh sát quyết định phải quản lý tay mình cho tốt.

Oregon bị cảnh sát dắt vào một căn phòng nhỏ trong cục cảnh sát.

Trong phòng chỉ có một chiếc bàn, hai chiếc ghế và một cây đèn bàn. Cửa sổ vén lên rất cao, có thể nhìn thấy được cả cửa chính của tòa nhà đối diện cục cảnh sát.

Oregon ngồi xuống, thả mèo lên bàn.

Chú mèo từ trên bàn nhảy xuống nhưng lại bị Oregon tóm về.

“Dưới đất bẩn lắm.” Anh nói.

Mèo ta dùng móng vuốt cào vào đùi anh mấy cái rồi mới tìm chỗ thoải mải để ngồi.

Cửa mở ra, một ông lão với mái tóc bạc trắng được chải chuốt kỹ lưỡng, mặc tây trang đen, chống gậy, chầm chậm bước vào rồi trở tay khóa cửa lại.

Oregon nói: “Thánh giá trên cổ ông bị lộ kìa.”

Ông lão điềm tĩnh kéo ghế ngồi xuống, để gậy gác vào bàn và mỉm cười bảo: “Tôi không đeo thánh giá.”

Oregon nói: “Vậy chắc trong bụng ông đã đổ sẵn cả thùng nước thánh.”

Ông lão nói: “Những thứ đó không có tác dụng với ngài đây, ngài Oregon Chamberlain nhỉ, à không, phải là quý ngài Oregon Gangrel.”

Oregon nhìn ông lão bằng vẻ mặt vô cảm, dường như chuyện bị vạch trần thân phận anh đã sớm đoán trước được, “Tôi nên xưng hô với ông sao đây. Ông già hay Lão già?”

Ông lão đáp: “Trước mặt ngài đây tôi làm sao dám nhận chữ ‘già’. Lúc ngài tham dự hội nghị kiểu mẫu ngày xưa, tôi vẫn chưa ra đời nữa là. Thực tế thì trong giáo hội tôi vẫn được xếp vào hàng ngũ trẻ tuổi.”

Oregon nói: “Xem ra trong mắt các người tôi chẳng còn bí mật gì cần khai nữa.”

Ông lão đáp: “Không, vẫn còn đôi chút. Ví dụ như,” Ông lão lấy từ trong túi ra một cái đồng hồ vàng nạm hồng ngọc đặt xuống trước mặt Oregon, “thứ này.”

Oregon nhìn lướt qua huy hiệu khắc trên đồng hồ.

Ông lão hơi nghiêng tới trước, trầm giọng nói: “Tìm được tại hiện trường giám mục Benson bị hại.”

“Chắc ngài nào phải xa lạ gì với nó đúng không?”

“Huy hiệu của gia tộc Malkavian.”

“Gia tộc mang dòng máu bị nguyền rủa.”

Oregon búng một cái, đồng hồ bị đẩy về trước mặt ông lão.

Anh ôm mèo đứng dậy, “Đã xác định ra mục tiêu thì chúc cho các người sớm phá được án.”

“Xin chờ một chút.” Ông lão ngẩng đầu lên.

Oregon dừng bước.

Anh đứng quay lưng về phía cửa sổ duy nhất trong phòng, ánh sáng hắt vào bên mặt khiến gương mặt anh trông có vẻ mờ mờ ảo ảo.

Tim ông lão chợt thót lại, cả người lạnh toát. Ông đút tay vào túi mân mê thánh giá, cuối cùng đợi tâm trạng mới ổn định lại đôi chút mới đắn đo mở lời: “Tôi từng nghe về truyền thuyết của ngài và Ansbach.”

Oregon thở dài, “Tôi còn sống mà đã trở thành truyền thuyết rồi cơ à.”

“Không, ý tôi là…” Ông lão đang định giải thích thì lại bị tình huống trước mặt dọa mất cả vía…

Oregon lấy ra một tấm gương to bằng bàn tay, nhìn đắm đuối vào gương rồi than thở: “Nhỡ bước nhầm một tí là leo tuốt lên đỉnh cao để người khác phải ngước nhìn ngay vậy đấy.”

Ông lão: “…”

Mèo đen lấy vuốt che mắt.

Oregon liếc cái ông lão vẫn chưa hoàn hồn kia, “Đừng cố kìm nén lòng ngưỡng mộ của ông dành cho tôi, xưa nay ông đâu phải người duy nhất.”

Ông lão cúi đầu ho khan một hồi rồi mới chậm rãi nói: “Nếu mục tiêu của chúng ta đã giống nhau, vậy tại sao không hợp tác với nhau?”

Oregon chống một tay lên bàn, hơi nhoài người về trước, nở nụ cười với ông lão để lộ ra răng nanh sắc bén, “Đương nhiên do tôi đây là huyết tộc cao quý, còn ông lại là giáo đồ bảo thủ.”

Ông lão nói: “Ngài đây đã cao quý bao năm mà vẫn cứ thích giữ vẻ cao quý, đây chẳng phải cũng là một loại bảo thủ khác sao?”

Oregon cười bảo: “Dẻo miệng chưa kìa! Giờ thì tôi tin ông được xếp vào hàng ngũ trẻ tuổi của bên giáo hội rồi. Trong giáo hội, lúc những tên khác đang bàn xem miếng đất nào phong thủy tốt để xây mộ, ông nhất định đang suy nghĩ nên chọn phong cách nào xây mộ mới đẹp. Tôi thấy phong cách Địa Trung Hải được đó… Ấy, không phải tôi đang mỉa mai gì tóc ông đâu, tuy tóc mà dày vậy nhìn cái là biết tóc giả ngay. Ý tôi là ông có thể xây một lăng mộ hình cầu, như vậy khi bị những người tới đào mộ sẽ không bị các góc cạnh cắt phải làm bị thương.”

Ông lão thờ nhơ nhìn anh ba hoa chích chòe, một lúc sau mới chống gậy đứng dậy, “Xem ra tin tức có chút sai lầm, quan hệ giữa ngài và Ansbach nào phải như nước với lửa thường nghe trong truyền thuyết. Hoặc có lẽ những phán đoán tôi vốn cho rằng vô căn cứ và hoang đường mới chính là sự thật. Ngài và Ansbach không phải kẻ thù không đội trời chung, mà lại là… bạn bè sống chết có nhau.” Ông lão lê bước ra tới gần cửa rồi khẽ nghiêng người, hơi khom lưng chào, “Hôm nay tùy tiện đến thăm hỏi, xin hãy tha thứ cho sự đường đột của tôi.”

Ông lão rời đi chưa được bao lâu thì một cảnh sát bước vào. Mặt người này có vẻ đang giận dữ, tuổi khoảng bốn mươi, vóc người rất cao, đầu thì nhọn, cứ như chỉ cần bật lên một cái là xuyên thủng cả nóc nhà. Gã kéo ghế ngồi xuống, động tác có phần thô lỗ.

Oregon ôm mèo ngồi đối diện với gã, thái độ thản nhiên chẳng khác nào đang tắm nắng trên bãi biển.

“Bộp.”

Cảnh sát đập xấp hồ sơ xuống trước mặt Oregon, bên trong hồ sơ có vài tấm hình. “Mùa đông hai năm trước, tiểu trấn Vitznau của Thụy Sĩ xảy ra một vụ sập nhà. Anh trùng hợp lại đang ở trong căn nhà đó.”

Oregon nói: “Thật bất hạnh.”

Cảnh sát rút trong tập hồ sơ sáu tấm ảnh bày lần lượt trước mặt anh, “Đây là ảnh do một nhiếp ảnh gia dùng điện thoại chụp được. Anh trèo ra khỏi căn nhà bị sập ấy mà lại không hề bị thương. Về việc này anh đánh giá thế nào?”

Oregon nhìn lướt qua mất tấm ảnh rồi nhún vai bảo: “Mạng lớn, có sức sống.”

Cảnh sát lại lấy hai tấm ảnh ra đặt trước mặt anh, “Còn đây là vụ nổ xảy ra trước cửa cung điện Westminster. Tình cờ có mấy khách du lịch đang chụp ảnh gần đó nên đã ghi lại được hiện trường với nhiều góc độ. Đây là hình cắt ra từ video, tấm này là anh đang đứng trước cửa cung Westminster nói chuyện với giám mục Benson, tấm này là anh mở cửa chuẩn bị lên xe. Vị trí trong hai tấm ảnh này cách nhau gần ba mươi mét, nhưng thời gian lại chỉ cách nhau một giây. Về việc này anh có đánh giá gì không?

Oregon nói: “Gió lớn, đứng không vững.”

Ngón tay cảnh sát gõ nhịp nhè nhẹ lên bàn, “Xem ra trong hai ta có một tên bị đần, theo anh thì người bị đần đấy là ai?”

Oregon hỏi: “Chọn ai thì tôi được về nhà?”

Cảnh sát gom hết ảnh lại, “Nếu anh không còn gì để nói thì tôi sẽ giao chuyện này cho tòa thánh xử lý.”

Oregon hỏi: “Anh hy vọng tôi nói cái gì?”

“Hung thủ.” Cảnh sát nói: “Tôi tin rằng với sức quan sát của anh, không thể nào không phát hiện ra hung thủ. Đây là trong trường hợp anh không phải là đồng phạm.”

Oregon nói: “Tôi nói anh biết hung thủ là ai thì sẽ được thả ra?”

Cảnh sát không khẳng định cũng chẳng phủ định.

Oregon hỏi: “Ngoài kia đã chuẩn bị sẵn bao nhiêu thùng nước thánh? Hay là một khẩu súng có đạn bọc bạc? Mười khẩu?”

Cảnh sát dọn xong đồ đạc thì đứng dậy, “Giám mục Benson có quan hệ rất tốt trong giáo hội, cũng rất có sức ảnh hưởng ở Anh Quốc.”

Lời ám chỉ tràn ngập uy hiếp.

“Khoan đã.” Ngón tay Oregon gõ nhẹ lên bàn hai cái rồi hơi trầm ngâm, “Mời vị tiên sinh Địa Trung Hải kia quay lại.” Ngừng một lát anh lại giải thích thêm đôi chút: “Vị của tòa thánh trung ương đó.”

Ông lão chống gậy đứng ngoài cửa chần chừ đôi chút mới chịu bước vào và đóng cửa lại. “Không ngờ chưa chi đã gặp lại nhau.”

Oregon nói: “Ô! Nhìn mấy nếp nhăn chân thành của ông mà tí nữa là tôi tin rồi đấy. Lúc bước ra chắc ông cũng đã tính tới chuyện này chứ gì.”

Ông lão nói: “Mất đi giám mục Benson là tổn thất lớn lao đối của giáo hội, nhất là đối với những người bạn sớm chiều chung sống với nhau, không tìm ra hung thủ, nỗi đau đó khó lòng vơi đi.”

Mèo đen bỗng dưng gãi nhẹ đùi Oregon.

Oregon cúi đầu hôn lên trán nó, nói với giọng vô cùng nuông chiều: “Đói à? Được rồi. Tụi mình mau chóng giải quyết lão ta, sau đó đi ăn đồ tươi nhé.” Dứt lời, anh ngẩng đầu lên, vẻ mặt lạnh hẳn, “Nói thẳng đi. Tình hình của tôi, mục đích của ông.”

Ông lão chà nhẹ vào chân, nói: “Gần đây huyết tộc liên tục xảy ra án mạng đã gây nhiễu loạn nghiêm trọng tới trật tự của nhân giới, chúng tôi hy vọng chuyện này mau chóng được giải quyết. Bất kể việc của giám mục Benson có dính líu gì tới chuyện này hay không thì ngài cũng đã bị cuốn vào. Vì vậy trước mắt con đường duy nhất của ngài là hợp tác với chúng tôi. Tôi có thể thay mặt tòa thánh trung ương đứng ra bảo đảm cho ngài, chắc chán bên Anh Quốc sẽ giữ được bình tĩnh và im lặng. Còn ngài phải nhanh chóng điều tra rõ chân tướng và thay mặt huyết tộc giải quyết chuyện này.”

Oregon nói: “Nếu tôi từ chối, tòa thánh trung ương sẽ không can thiệp vào chuyện này nữa, mặc cho tôi bị lũ người Anh bên ngoài giải quyết tôi. Thế nhưng ông đã quên mất một tiền đề, bọn chúng có khả năng giải quyết tôi hay không.”

Ông lão nói: “Đừng quên mất Hiệp nghị Đình chiến. Bọn họ không cần ra tay, chỉ cần một mực khẳng định do ngài giết chết giám mục Benson thôi.”

“Ở hiện trường vụ án ông tìm được đồng hồ của Malkavian.”

“Tôi cũng là nhân loại, vào lúc mấu chốt, tôi sẽ đứng chung chiến tuyến với họ. Trừ phi,” Ông lão tiếp: “chúng ta có giao ước liên minh trước.”

Oregon nói: “Vậy tức là ông đã quyết tâm ép con nhà lành phải đi làm gái.”

“…Nói thật lòng chứ,” Ông lão nói: “ví von kiểu này ngoài việc làm tôi khó chịu, ngài cũng có dễ chịu gì đâu đúng không?”

Oregon: “…”

Ông lão nói: “Nếu ngài bằng lòng, tòa thánh sẽ giúp đỡ ngài. Lẽ nào ngài không muốn biết hung thủ giết hại bao nhiêu đồng bào của ngài là ai ư?”

Oregon: “Không muốn chút nào.”

Ông lão: “…”

Oregon cúi đầu ngắm mèo.

Mèo ngẩng đầu lên, ngúc ngoắc cái đuôi.

Oregon dùng tay gãi nhẹ cằm nó, khóe miệng cuối cùng cũng chịu nhoẻn lên tí xíu, “Được thôi. Tôi đồng ý. Nhưng hiện tại tôi chẳng có manh mối gì cả…”

“Tôi đã chuẩn bị sẵn cho ngài một kế hoạch.”

“…Vậy à?” Oregon nhận lấy bản kế hoạch đầy vẻ hào hứng.

Ông lão nói: “Để giữ mạng, huyết tộc ở châu Âu đều di cư sang Brittany ở Pháp. Trong số họ có vài người sống sót sau vụ án, cũng có thể có lẫn tai mắt của hung thủ, thậm chí chính hung thủ.”

Oregon hỏi: “Ông muốn tôi đến Brittany?”

Ông lão gật đầu đáp: “Nếu được thì hãy tiếp cận Vương Tiểu Minh.”

Oregon nói: “Không thành vấn đề, chỉ cần ông dụ được vị ‘vệ sĩ’ như hình với bóng bên cạnh cậu ấy đi chỗ khác là xong ngay.”

Ông lão nói: “Ngài khách sáo quá, ngài là đời thứ tư.”

Oregon đáp: “Chính vì tôi tự biết mình mới đời thứ tư, bằng không đã chết mất xác rồi.”

Ông lão nói: “Được, tôi không can thiệp vào hành động của ngài, nhưng xin ngài hãy nhanh chóng thu được kết quả.”

Oregon đứng dậy, ôm mèo lên và dùng cằm cọ nhẹ lên đầu nó, “Phải cho cưng ăn no trước đã.”

“À phải.” Dù đối phương cứ lờ mình đi nhưng ông lão vẫn tự giới thiệu bản thân, “Tôi là Derek Thompson thuộc quân đoàn Thủ hộ thần thánh.”

Trước sự kiên trì bền bỉ của ông lão, Oregon đành cầm bản kế hoạch ngồi vào xe.

Macewen lo lắng hỏi: “Phiền phức rồi à?”

Oregon đáp: “Hơi hơi.”

“Có việc gì tôi giúp được không?”

“Đương nhiên, làm ơn tìm một quán ăn gần đây. Nó đói rồi.”


“…Được.” Macewen vừa nổ máy xe vừa quan sát sắc mặt của ông chủ qua kính chiếu hậu.

Oregon hỏi: “Sắc mặt của tôi hôm nay thế nào?”

“Hả? A, tốt lắm.”

“Tốt đến mức cậu kìm lòng không đặng phải trộm ngắm tôi?”

“Tôi chỉ hơi lo, ờ thì, chuyện ngài gặp phải trong sở cảnh sát.”

“Chẳng xảy ra chuyện gì cả. Chúng ta vẫn tới Brittany như kế hoạch đã định.” Ngừng một lúc, anh lại nói: “Nghỉ mát.”

“Thật á? Thế thì tuyệt quá.”

Oregon mỉm cười, nghiêng đầu mở cửa sổ rồi ném bản kế hoạch ra ngoài.

Một luồng khói xám từ trong xe vụt ra, trong nháy mắt biến thành hình dạng con dơi, há cái mồm đỏ hỏn như máu nuốt bản kế hoạch vào bụng rồi tan biến giữa không trung.

Macewen là điển hình cho các quản gia tinh anh, ông chủ vừa nói xong, gã đã sắp xếp mọi chuyện đâu vào đấy sẵn sàng.

Sáu tiếng sau, Oregon có mặt tại sân bay Heathrow.

Cảnh sắc ngoài cửa sổ sân bay lặng ngắt như tờ, trên bầu trời đen thẫm, mặt trăng tỏa ra ánh sáng đỏ gấc ma quái cứ như vừa gột rửa bằng máu.

Macewen cố dằn xuống nỗi bất an trong lòng, không nhanh không chậm đi theo phía sau ông chủ.

Oregon đột nhiên dừng bước và nhìn chung quanh.

Macewen tinh mắt nhận ra mấy bóng người quen thuộc, gã hơi sửng sốt nhưng rất nhanh lại thấp giọng nói: “Trước khi đi, tôi từng nhờ hàng xóm giúp chúng ta trông nom nhà cửa.”

Oregon mỉm cười: “Rõ quá rồi, thay vì trông nom nhà cửa, họ có vẻ thích ‘trông nom’ cậu hơn.”

Macewen lúng túng đáp: “Tôi tưởng họ đến là vì ngài chứ.”

Dù Oregon chẳng bao giờ tham gia bất cứ hoạt động xã giao nào của giới huyết tộc, huyết tộc ở London vẫn biết ở đó có một lão già huyết tộc đang sinh sống. Những huyết tộc hơi trẻ một tí chỉ cần đến gần anh trong phạm vi mười dặm đều sẽ cảm thấy bị uy thế của bề trên chèn ép, đánh mất ý chí của chính mình.

Sau khi những vụ mưu sát huyết tộc phát sinh liên hoàn, các huyết tộc sống ở London đều chăm chăm chờ xem anh sẽ có hành động gì. Biết được tin anh cuốn gói sang Brittany, bọn họ cũng lập tức thu dọn hành lý đi theo. Trước mắt đứng trong sân bay đều là những huyết tộc đời thứ mười trở lên.

Dù vậy nhưng có vài tên khi bị Oregon bắt gặp cũng thấy nhũn hết cả chân.

Oregon nói: “Một trăm hai mươi sáu huyết tộc, ba mươi tám thành viên của giáo hội đều là fan của tôi cả, số hành khách chân chính chỉ còn chưa tới trăm người. Xem ra gần đây công ty hàng không làm ăn chắc chả mấy khá khẩm.”

Macewen nói: “Nhưng máy bay đâu có ít đi… Ối, không!”

Đôi con ngươi của gã giãn ra, chuyển hướng nhìn lên đêm đen bên ngoài sân bay.

Ánh trăng bị che khuất đi từng chút một, mơ hồ có thể nhìn thấy một quần thể lớn chao liệng như con thoi trên bầu trời, và còn… đang lao xuống.

“Bịch bịch bịch bịch bịch bịch…”

Tiếp theo là cả tràng dài những tiếng va đập, hàng trăm con dơi tông vào cửa sổ rồi lộp độp rơi xuống. Thi thể lũ dơi thi nhau tiếp đất, để lại những vết máu lốm đốm trên tấm kính thủy tinh. Chẳng mấy chốc máu lan ra toàn bộ tấm kính, thế giới bên ngoài như bị những dòng chất lỏng đỏ thắm ngăn cách và đập vỡ thành vô vàn mảnh vụn.

“Á!”

“Ôi thần linh ơi!”

“Xảy ra chuyện gì?”

“Oh… God bless me!”

“Quái lạ, chuyện gì thế này?!”

Tiếng thét chói tai vang vọng khắp nơi.

Sân bay nháo nhào hết cả ên.

Thành viên giáo hội cố gắng chen tới bên cạnh Oregon, vừa định nói gì đó thì mắt chợt hoa lên, sau đó đã chẳng thấy anh đâu nữa.

Trên vùng trời sân bay, vô số những con dơi đang điên cuồng bay tán loạn như ruồi mất đầu. Giữa đàn dơi thỉnh thoảng bốc lên một làn khói đen, mà mỗi lần khói đen xuất hiện là lại có vài con dơi rơi xuống, chao đảo đập vào cửa kính thủy tinh.

“Ha ha ha…” Tràng cười lanh lảnh như chuông bạc đột ngột vang lên giữa vô vàn tiếng gào rít chói tai của lũ dơi.

Oregon bất thình lình xuất hiện giữa đàn dơi, thò tay chụp vào không trung một cái.

Tiếng cười vui vẻ bỗng chốc biến thành tiếng tru tréo.

Luồng khói đen trước mặt anh tan đi, để lộ ra một bóng dáng tha thướt, đẫy đà. Người ả gập xuống, mặt mũi trông như đang đau đớn quằn quại, mái tóc dài đến eo tung bay trong gió, trong đó có một lọn nhỏ đang bị Oregon nắm chặt.

“Buông tay ra!” Ả nghiến răng nghiến lợi.

Oregon cười cười, “Được thôi.” Tay anh hơi dùng sức, lọn tóc bị giật phăng ra khỏi da đầu của ả.

“Á!” Ả rít lên chói tai, hóa thành một luồng khói đen như ác quỷ rồi nhào về phía anh.

Bóng Oregon chợt biến mất rồi xuất hiện ngay sau lưng luồng khói, tay lại thò ra túm thêm lọn tóc khác, lần này không cần đối phương lên tiếng, anh đã thẳng tay giật đứt lọn tóc ấy.

Cứ thế năm, sáu lần, người con gái che tóc đáp xuống đất rồi ôm đầu khóc nức nở, không dám nhe nanh múa vuốt nữa.

Oregon thong thả đi đến trước mặt ả, thuận tay quẳng mớ tóc xuống đất.

Mắt người con gái lóe lên đầy vẻ ác độc, ả chầm chậm ngẩng đầu lên, “Báo tên ngươi ra!”

Oregon nhẹ nhàng vuốt ve chiếc nhẫn trên ngón trỏ trái, mỉm cười trả lời: “Ta đeo nhẫn để che giấu hơi thở chính là để người khác không biết ta là ai.”

Người con gái hỏi: “Ngươi có biết ta là ai không?”

Oregon đáp: “Ma nữ.”

Người con gái giận dữ nói: “Ta là Yvonne! Tốt nhất ngươi hãy nhớ cho kỹ! Những vết thương ngươi gây ra trên người ta, sẽ có một ngày ta trả lại toàn bộ!” Ả xoay người đi, che đỉnh đầu gần như trọc lóc của mình rồi biến mất giữa sân cỏ.

Ả vừa biến mất, lũ dơi trên không lập tức giải tán.

Macewen đi đến sau lưng Oregon, cách anh khoảng bảy, tám bước, thấy anh không tỏ vẻ phật ý mới bước lên trước và nói: “Ả chính là hung thủ giết hại huyết tộc?”

Oregon nói: “Ngốc thế này thường chỉ là đồng lõa.”

Macewen hỏi: “Ả là ma nữ?”

Oregon đáp: “Căn cứ vào bộ ngực đồ sộ của ả thì hẳn là không phải ma nam.”

“Từ địa ngục lên sao?”

“Tôi không còn nghĩ ra nơi nào khác chịu chứa bọn chúng.”

Macewen lo lắng nói: “Vị chủ nhân thứ hai của tòa thành Bright ở Brittany là đọa thiên sứ.”

Địa ngục do bảy vị ma vương thống trị.

Bảy vị ma vương đều là đọa thiên sứ.

Và gia đình bọn họ đang chuẩn bị sang nương nhờ tình cờ cũng có một vị đọa thiên sứ.

Phân tích thế nào cũng khiến người ta phải thấy bất an trong lòng.

Oregon an ủi gã: “Đừng lo. Quan hệ giữa ngài ấy và địa ngục thường thường thôi.”

Macewen nói: “Dù chỉ thường thường nhưng họ vẫn là đồng loại đấy.”

Oregon quyết định nói thẳng thêm tí nữa: “Trong mắt ngài ấy, cả cửu giới chỉ có ngài Tiểu Minh Vương là vừa mắt thôi.”

Ngài Tiểu Minh Vương là người phe mình!

Macewen nói: “Vậy ngài ấy cũng đâu đến nỗi.”

Oregon: “…”

Nhân loại không biết chuyện gì đang xảy ra, vì vậy dưới cái nhìn của họ, lũ dơi ban nãy có lẽ do ‘uống rượu lái xe’ tập thể nên mới gây ra tai nạn giao thông thảm thương nhường ấy. Nhân viên phi trường sau khi xác định trong phạm vi một trăm dặm gần đó không có thêm vụ dơi gây ẩu đả nào khác mới cho phép sân bay hoạt động bình thường trở lại.

Dù vậy nhưng vẫn khiến không ít chuyến bay bị hoãn, lúc Oregon đáp xuống sân bay Charles de Gaulle ở Paris thì trời đã gần sáng.

Oregon sầm mặt ngồi trên ghế.

Macewen bối rối đứng bên cạnh anh.

Sau khi ra khỏi sân bay, anh vẫn cứ ngồi im ở đây nhưng đang đợi gì đó, mà cứ mỗi giây mỗi phút trôi qua, sắc mặt của Oregon càng lúc càng u ám.

Thấy bắt đầu có không ít huyết tộc vì chịu hết nổi uy nghiêm của anh mà lục tục bỏ đi, gã cuối cùng cũng đánh bạo mở lời: “Ngài đang đợi tiên sinh Joseph Miller ạ?”

Oregon cau mày.

Macewen nhắc anh: “Là ngài dặn tôi mua thêm một vé máy bay khoang phổ thông mà.”

Oregon hung hăng bảo: “Khoang phổ thông chết tiệt! Biết vậy đã không cho tên đấy chạy lung tung mà phải giữ trong tầm quan sát của tôi mới phải!”

Nhiệt độ đột ngột tụt mạnh, lũ huyết tộc bỏ chạy càng nhanh hơn.

Dẫu nổi giận đùng đùng nhưng Oregon vẫn ngồi yên chờ đợi.

Thân là một quản gia ưu tú, Macewen đương nhiên phải lấy quyết định của ông chủ làm đầu. Gã mua cà phê và sandwich về rồi cùng ông chủ chờ đợi một người không biết khi nào sẽ xuất hiện.

Lại một tiếng nữa trôi qua, ánh mặt trời phủ khắp nơi nơi.

Sắc mặt của Oregon đen như sắp vắt ra được mực của con mực.

Phạm vi mười mét quanh anh chỉ còn mỗi Macewen là vẫn còn cố gắng chống chọi, những người khác chuồn sạch từ đời tám hoánh.

Lúc Macewen đang tìm cách chuẩn bị bữa trưa thịnh soạn trong hoàn cảnh thiếu thốn hiện nay để an ủi nội tâm bị tổn thương của ông chủ, một vị dũng sĩ lấp la lấp lánh từ từ đi vào vùng cấm.

Dũng sĩ đi đến trước mặt Oregon, cái huy hiệu nhỏ bằng móng tay cái gắn trước ngực gã đập vào mắt mọi người, “Tôi là Benoit Buble, thành viên cấp Đồng của quân đoàn Thủ hộ thần thánh. Tôi có một tin bất hạnh cần phải báo với ngài.”

Oregon hơi nhướng mắt nhìn.

Benoit nói: “Vào ba giờ sáng hôm nay, tòa thành L’Egli ở Burgundy bị tàn sát đẫm máu. Tính cả một vị huyết tộc đời thứ bảy thì tổng cộng có tám mươi tám huyết tộc gặp phải chuyện không may.”

Đã không chỉ đơn giản là án giết người liên hoàn nữa.

Đây là vụ án giết sạch cả nhà hết sức tàn khốc.

Benoit nói: “Nhưng khác với những lần trước, lần này có người sống sót.”

Ngón tay đeo nhẫn của Oregon khẽ cử động, “Ở đâu?”

Burgundy là nơi có mật độ huyết tộc sinh sống cực cao, chính vì thế thảm án ở thành L’Egli vô cùng có sức ảnh hưởng, không chỉ huyết tộc, cả chính quyền địa phương cũng cảm thấy hoang mang lo sợ. Tòa thánh trung ương đã phải điều động một nửa quân đoàn Thủ hộ thần thánh đến đóng tại đó – Đây là chuyện xưa nay chưa từng xảy ra trong lịch sử.

Lúc Oregon bước ra khỏi xe, anh cảm giác được cách đấy không xa có mấy chục huyết tộc đang chào hỏi mình, trong đó cũng có xen lẫn vài ánh mắt lạnh như băng.

Benoit cũng cảm giác được.

Gã phải mân mê khẩu súng nạp sẵn đạn bạc vắt ở thắt lưng mới cảm thấy yên tâm được đôi chút, “Khá nhiều huyết tộc địa phương tâm trạng đang không được ổn định cho lắm. Tốt nhất xin ngài hãy quản thúc bọn họ giùm ạ.”

Oregon nhìn gã bằng ánh mắt khó hiểu.

Benoit nói: “Vào lúc này, tôi nghĩ ngài cũng không muốn huyết tộc và nhân loại lại xảy ra những xung đột không cần thiết.”

Oreogon nói: “Thánh chiến mà nổ ra trong thời điểm này thì hung thủ rất có khả năng sẽ gia nhập vào chiến tuyến của các người, phần thắng của các người sẽ tăng đáng kể, có gì không tốt chứ?”

Benoit đáp: “Chúng tôi rất yêu hòa bình!”

Oregon nói: “Bỏ tay ra khỏi súng hẵng nói.”

Benoit: “…”

Người sống sót là một cô bé xinh đẹp khoảng mười mấy tuổi. Cô bé đang được tòa thánh chăm nom, lẳng lặng ngồi trên bậc thềm trước thành L’Egli, lúc nhìn thấy bọn Oregon đến gần, mặt cô vẫn không có chút biểu cảm gì.

Nhưng Oregon có thể cảm nhận được rất rõ những cảnh giác, bất an, kháng cự… tỏa ra từ người cô bé.

Orgeon hỏi: “Đời thứ mười của nhà Gangrel?”

Cô bé run lên bần bật, cơ mặt căng cứng, giữa môi thấp thoáng hiện lên hai cái răng nanh trắng nhọn.

Oregon từ tốn giơ tay trái lên.

Đôi mắt cô bé tràn ngập vẻ hoảng hốt trong giây lát. Nhưng ngay sau đó, cô đã kích động trợn hai tròn mắt, vẻ mặt như đứa bé đang quấn quýt bên cha mẹ.

“Hãy kể ta biết đã xảy ra chuyện gì.” Anh dỗ dành cô bé.

Cô bé nói: “Bọn chúng là người của Lasombra.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 2: Bão táp

Mối uy hiếp từ địa ngục

“Bọn chúng?” Benoit nói một kích động: “Ý cô đang chỉ hung thủ là Lamsobra?”

Không ngờ vụ án tàn sát cả nhà lại có thể phá được nhanh chóng như vậy!

Hai mắt Benoit sáng lên.

Gã gần như có thể nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ khi mình được thăng chức, tăng lương, được giáo hoàng thương yêu, ưu ái.

Oregon liếc gã một cái: “Không. Cô ấy đang nói về nạn nhân.”

Benoit: “…”

Cô bé rụt rè nhìn chằm chằm vào Oregon, lộ vẻ mâu thuẫn vì vừa muốn gần gũi với anh nhưng lại sợ hãi không dám, “Tôi bị chúng nhốt dưới hầm trong thành, thỉnh thoảng chúng sẽ hút máu của tôi.”

Benoit lấy làm khó hiểu: “Cô chẳng phải cũng là quỷ hút máu sao?”

Cô bé và Oregon cùng trừng mắt nhìn gã.

Biết mình lỡ lời, Benoit vội chữa cháy: “Ý tôi là, các vị chẳng phải đều là huyết tộc cao quý sao? Đồng loại mà.”

Oregon nói: “Cảnh sát và cướp ở nhân giới cũng là đồng loại đấy.”

Benoit nói: “Nhưng cảnh sát bắt được cướp đâu có xơi luôn.”

Oregon nói: “Bởi mới bảo phúc lợi nghề cảnh sát của nhân loại chả ra sao cả.”

Benoit: “…” Gã chợt thấy lạnh cả người.

Benoit nói: “Bàn chuyện chính thôi! Cô nhìn thấy hung thủ đúng không? Dáng vẻ thế nào? Là người, huyết tộc, hay là… những thứ khác? Kể hết những chuyện cô biết ra xem.”

Cô bé nhìn sang Oregon, Oregon không ừ hử gì.

Cô bé cúi đầu ngẫm nghĩ rồi kể lại: “Tôi bị nhốt dưới hầm rất lâu mà không có máu để uống nên đã ngất vì đói, sau khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên ngoài tòa thành, còn những tên kia… đều chết cả.”

Benoit khẽ hừ một tiếng, nhìn Oregon bằng ánh mắt phật ý. Gã biết cô bé mãi không chịu nói thật là vì Oregon vẫn không chịu tỏ thái độ.

Gã gọi người dẫn cô bé sang chỗ khác rồi lấy cớ quan sát hiện trường để sáp lại gần Oregon và nói khẽ: “Chẳng phải đã giao hẹn sẽ hợp tác ư?”

Oregon hỏi: “Bên cậu có tin tức gì?”

Benoit tức giận đáp: “Ngài nhận được tin tức bên tôi nên bây giờ mới có mặt ở đây đấy ạ.” Bốn chữ “tin tức bên tôi” gã cố ý nhấn giọng thật nặng.

“Mấy người phiền thật.”

Câu trả lời của Oregon nằm ngoài dự liệu của gã, “Hả?”

Oregon lặp lại rõ ràng từng chữ: “Mấy người phiền thật.”

Benoit ngu người. Chỉ có một câu miêu tả được suy nghĩ của gã trong lúc này đây: Làm ơn mắc oán! Làm phúc phải tội! Làm mướn không công!

Muốn biểu đạt nỗi sầu trong lòng, một câu thật sự không đủ mà!

Gã nói: “Huyết tộc xảy ra chuyện lớn thế này, tôi lập tức thông báo ngài hay, hơn nữa còn đích thân đưa ngài tới đây… Ngài có biết đón xe đi từ Paris tới đây phải tốn bao nhiêu tiền không vậy? Tôi đón miễn phí nhá.”

Oregon vẫn giữ vẻ thờ ơ, “Người chết là Lamsobra.”

Benoit hết biết nói sao, “Còn tình đồng bào thì sao?”

“Cậu đi mà hỏi đảng Xã hội với đảng Cộng sản ấy.”

Benoit: “…”

Mùi máu tanh nồng vẫn lởn vởn trong thành mãi không chịu tan đi.

Benoit chịu hết nổi phải mò trong túi ra lọ thuốt hít ngửi nhẹ vài hơi.

Chỉ trong chớp nhoáng ấy, Oregon đã dạo hết một vòng quanh thành và đi ra ngoài.

Benoit vội vàng đuổi theo, “Có phát hiện gì không?”

Oregon đáp: “Có.”

“Cái gì?”

“Tòa thành này cần phải tu sửa.”

“…Cái gì?!”

Trên đường rời khỏi tòa thành L’Egli, hai tai Oregon cuối cùng cũng được yên tĩnh, Benoit đã sớm từ bỏ công cuộc gợi chuyện với anh nên cũng chả buồn đi theo.

Chiếc ô tô Macewen thuê đậu sẵn ven đường.

Anh vừa mở cửa xe, cô bé nọ đột nhiên từ sau lưng anh ló đầu ra, “Em từng nhìn thấy hung thủ.”

Oregon dừng bước, cúi đầu nhìn cô.

Cô bé nói: “Em không có hôn mê, cũng không bị nhốt trong hầm trong lúc ấy. Khi đối phương đến bọn chúng đang tổ chức yến tiệc, em bị nhốt trong lồng và ghim kim vào cổ tay, chúng lấy máu của em để pha rượu.”

“Cô là Gangrel.”

“Phải, em là Gangrel.” Sợ anh không tin, cô bé còn cúi đầu cắn vào cổ tay mình, máu tươi túa ra từ vết thương trên tay cô. Cô bé đưa cổ tay đến trước mặt Oregon, “Ngài nếm thử xem!”

Oregon phớt lờ, khom lưng chui vào xe. “Giờ cô tự do rồi.”

“Em có thể đi theo ngài được không?” Cô bé giữ lấy cửa xe, nhìn anh bằng ánh mắt tràn ngập mong đợi.

Oregon lạnh lùng đáp: “Không.”

Hy vọng ánh lên trong mắt cô bé bỗng chốc vỡ vụn thành ngàn vạn điểm nhỏ rồi dần dần tan biến. Cô bé buông tay ra, khép cửa xe lại cho Oregon và kính cẩn đứng trên lề đường.

Macewen nhìn cô bé qua kính chiếu hậu.

Oregon nói: “Chạy đi.”

Macewen nổ máy. Xe từ từ lăn bánh, bỏ lại bóng hình bé bỏng đơn côi của cô bé.

“Tâm trạng của ngài không tốt ạ?” Macewen hỏi.

Oregon im lặng một lúc mới thở dài đáp: “Kế hoạch bị phá hỏng mất rồi, nếu không phải vậy thì giờ này chúng ta đã ngồi trong một pub nhỏ nào đó ở Brittany, được ngắm mấy cô em xinh xắn nhiệt tình lắc mông, được hưởng thụ những giây phút đẹp đẽ.”

Macewen nói: “Ở London bao nhiêu năm tôi có thấy ngài đến pub bao giờ đâu.”

Oregon không hề xấu hổ khi bị vạch mặt, “Nếu dẫn cậu theo thì phải chứng minh cậu bình thường mới được vào trong.”

Macewen chợt cảm thán: “Lâu lắm không gặp hậu duệ nhà Gangrel nhỉ. Chắc là bởi vì mất đi lãnh tụ, nghe nói sau khi quý ngài đời thứ tư kia mất tích, kẻ nắm quyền dòng họ này ở nhân giới chỉ là một tên đời thứ tám, vấp phải khá nhiều khó khăn.”

Dù mười ba gia tộc phân tán khắp mọi nơi ở nhân giới nhưng nội bộ vẫn giữ liên lạc với nhau ở mức nhất định. Sự hiện diện của một huyết tộc lâu đời chính là chỗ dựa vững chắc. Gangrel vì đột ngột mất đi chỗ dựa nên đám con cháu mới rơi vào cảnh bị nhà khác xem như những món đồ chơi.

Những ngón tay đặt trên đùi của Oregon khẽ nhúc nhích, “Suýt quên cậu cũng là Gangrel.”

Macewen nói: “Không, tôi chỉ là tầng lớp nghèo khổ.”

Dù trong người mang dòng máu của Gangrel nhưng lại không được nhận hộ khẩu chính thức.

Nếu chẳng phải được Oregon che chở, trên cơ bản gã không bao giờ có cơ hội ngẩng mặt lên mà sống như ngày hôm nay.

Oregon nhìn chằm chằm vào gáy gã, một lúc lâu sau mới bảo: “Vòng lại.”

Macewen dường như sớm đã đoán được, xe của hai người nhanh chóng quay đầu và chạy ngược về tòa thành ban nãy.

Cô bé không còn ở đó nữa.

Benoit vừa từ trong thành bước ra, bắt gặp Oregon thì lập tức chạy tới gõ vào cửa sổ của xe, hai mắt cố gắng liếc vào trong xe, miệng lại hô hoán: “Ngài có nhìn thấy cô bé kia không?”

Oregon chỉ vào tai mình ý bảo không nghe thấy gì rồi quay sang bảo với Macewen: “Đi mau.”

Benoit ủ rũ dõi theo đít xe đang lướt như bay.

Không nghe thấy mới lạ!

Gã rõ ràng nghe thấy tiếng “đi mau” nhỏ xíu mà.

Người đến được thành Bright đều phải rung động trước cảnh tượng “hoành tráng” của nó.

Nguyên nhân dẫn đến sự rung động ấy nào có phải vì những tòa tháp cao vút gần chạm tới mây hay tòa thành đồ sộ nguy nga nổi bật giữa nền trời xanh thẳm, mà là vì chi chít những lều vải chiếm đóng trong khu vực lân cận.

Lúc Oregon đến nơi thì chỉ còn lại chỗ ngoài cùng nhất.

Macewen lần lượt lấy lều vải và bình hoa ra chuẩn bị sắp xếp thành một khu ở trang nhã, xinh đẹp, nhưng lại bị Oregon ngăn lại.

“Chỗ này gió lớn quá.” Oregon lấy gương ra soi, “Sẽ thổi rối kiểu tóc của tôi mất.”

Macewen nói: “Ngài từng bảo tóc tai rối bời mới thể hiện được vẻ đẹp hoang dã của đàn ông nhất đấy thôi.”

Oregon nói: “Được, đổi cách nói khác. Vòng ngoài là chỗ của chốt thí.”

Macewen cũng thấy rất có lý, “Tôi đi thương lượng thử xem nhé?” Thân là một hậu duệ đời thứ tám, gã nghĩ ít nhất vẫn có thể đàm phán được với lũ con cháu đời thứ mười để chiếm lấy một chỗ kha khá.

Oregon đột nhiên ngẩng đầu lên bảo: “Khoan đã.”

Trên vùng trời của tòa thành bỗng hiện lên một bóng người.

Dù ở cự ly rất xa, bóng đối phương chỉ to bằng con gián nhưng uy nghiêm tỏa ra từ bóng người ấy khiến Oregon cũng bất giác phải cúi đầu, lũ con cháu đời thứ mười, mười mấy gần đấy càng khỏi phải nhắc tới.

Bọn họ sợ hãi quỳ rạp dưới đất, lẳng lặng dán sát người vào mặt đất như chỉ hận sao không chui được xuống dưới luôn cho rồi.

Thời gian trôi qua vô cùng chậm.

Mỗi phút mỗi giây đều là dày vò.

Luồng sát khí mãnh liệt quét qua người anh.

Oregon theo bản năng hơi hé miệng ra, răng nanh thấp thoáng hiện lên.

Anh siết chặt nắm tay, cố gắng kìm chế cơn hiếu chiến đang sục sôi thôi thúc trong bụng.

Không biết đã trôi qua bao lâu.

Chính vào lúc phần lớn huyết tộc ở đây rơi vào tuyệt vọng, đều cho rằng cứ bị chèn ép đến nghẹt thở kiểu này sớm muộn gì cũng chết chắc, bóng người nọ chợt biến mất.

Trời quang mây tạnh.

Lũ huyết tộc kẻ rên rỉ duỗi người, kẻ co quắp ngã xuống.

Có mấy tên nhát gan đã bắt đầu cân nhắc chuyện đi hay ở.

Macewen tuy chưa đến mức quỳ rạp xuống đất nhưng hai chân đã mềm nhũn, đứng gần như cũng chẳng vững nữa. Gã lảo đảo rồi ngã ngồi xuống, mất một lúc lâu sau mới đứng dậy được, “Vị ban nãy là…”

Oregon gật đầu.

Macewen làu bàu: “Xem ra ở lại đây không phải là một lựa chọn sáng suốt.”

Oregon cười bảo: “Kết luận bây giờ vẫn còn quá sớm. Ngài Tiểu Minh Vương vẫn chưa bày tỏ thái độ.”

Sau khi được chứng kiến thực lực của vị kia, Macewen làm sao còn dám lạc quan mù quáng nữa. Gã bảo: “Hy vọng.”

Macewen cuối cùng cũng tìm được một vị trí ở giữa. Vào sâu nữa chính là phạm vi của các huyết tộc thứ bậc cao quý.

Dẫu biết rõ với thực lực của ông chủ nhà mình hoàn toàn có đủ tư cách vào sâu trong nhất nhưng ông chủ không nói gì, gã cũng không dám tự ý quyết định.

Để sống giữa đám huyết tộc cấp thấp, Oregon đã cố gắng khống chế mùi tỏa ra trên người, thậm chí còn đeo loại nhẫn giúp giấu mùi nhưng huyết tộc trời sinh nhạy cảm với máu, sự hiện diện của anh vẫn đánh động tới những huyết tộc khác.

Oregon ở đó được ba ngày thì có vị khách không mời đưa đến một lá thư mời.

Cách nói chuyện của đối phương vô cùng khách sáo, “Vì lợi ích và tương lai tươi sáng của cộng đồng huyết tộc, vì sự bình yên và hạnh phúc của các huyết tộc sống ở nhân giới, chúng ta hãy bắt tay với nhau để vạch ra kế hoạch lâu dài.”

Oregon nói: “Cậu là nhà ngoại giao khoa trương nhất mà tôi từng gặp, thời buổi này cả nghị viên còn không còn chả buồn dùng mấy câu cú lỗi thời kiểu đấy.”

Đối phương: “…Ngài thân với nghị viên lắm à?”

“Tôi là nghị viên.”

Oregon giao thư mời cho Macewen, “Cảm ơn lời mời của cậu, tôi sẽ đến đúng giờ.”

Mặt của đối phương lập tức sáng bừng lên, “Tuyệt cú mèo! Lúc đến nơi phải nhớ kỹ tôi là người giới thiệu đấy nhé. Tôi là Winston Derek Ventrue.”

Từ ngày Leslie trở thành người thay mặt cho tộc trưởng, địa vị của Ventrue ở huyết tộc được nâng cao lên hẳn. Không phải bởi những gia tộc khác thổi phồng mà do chính họ tự nguyện gánh vác đủ loại trách nhiệm như hòa giải, cứu trợ, liên lạc…

Dẫu sao cũng là miễn phí, các nhà khác đương nhiên không phản đối.

Vì vậy khi gặp thành viên của Ventrue ở đây, Oregon không ngạc nhiên chút nào.

Anh đổi sang chiếc áo khoác lam đậm, thắt lại khăn lụa ca rô quanh cổ, trước khi xuất phát còn cầm theo chiếc mũ cùng màu với bộ quần áo đang mặc.

Macewen nói: “Chiếc khăn này hợp với ngài lắm.”

Oregon chợt ngừng bước như vừa nghĩ tới gì đó, sau đó quay lại mỉm cười với gã và nói: “Vợ tôi cũng từng bảo thế.” Dứt lời, không chờ đối phương kịp có phản ứng gì, anh đã sải bước bỏ đi.



Macewen sốc nặng.

Ông chủ của gã mà lại có vợ!

Vợ của ông chủ còn bảo khăn hợp với ông chủ!

Mèo chả phải chỉ biết kêu meo meo thôi sao?




Lẽ nào vợ của ông chủ không phải là mèo?!

Cuộc họp được cử hành trên bãi đất trống trong rừng rậm.

Đuốc được cắm trên những gốc cây khô, dưới đất đốt một đống lửa, các huyết tộc thứ bậc cao dựa theo thân phận và phe phái chia nhau ngồi trên ghế gỗ xếp thành ba nhóm riêng biệt, Mật đảng, Ma đảng và đảng Trung lập.

Các huyết tộc cấp thấp cầm rượu nho qua qua lại lại thoăn thoắt như con thoi.

Bọn chúng khom lưng cúi đầu, chỉ dám trộm quan sát các vị khách quý qua khóe mắt xem họ có nhu cầu gì không.

Oregon khịt mũi, mùi máu và rượu lan tỏa từ nào chai nào ly hòa quyện vào nhau, ngửi thấy có vẻ ngây ngấy, khiến anh nhớ đến máu của người da trắng.

Anh cụt hứng hẳn.

Một huyết tộc đời thứ bảy đến gần xin lấy thư mời.

Oregon giao thư mời cho gã.

“Ngài ấy là khách của tôi.” Winston đang ngồi ở vị trí chính giữa trong hàng ghế trên của Mật đảng, thấy anh tới thì đứng dậy, nhưng còn chưa kịp nhúc nhích đã bị gã huyết tộc bên cạnh kéo lại.

Oregon ngẩng đầu lên, tình cờ ánh nhìn của hai người giao nhau.

Đối phương khẽ run lên, ngờ vực và cảnh giác hiện sâu trong mắt gã.

“Edwin.” Winston lúng túng rụt tay lại, nhỏ giọng bảo: “Em là người chủ trì hội nghị lần này.”

Ánh mắt của Edwin trở về với Winston, người yêu mà khó khăn lắm gã mới “bỏ vào túi” được, sự lạnh lẽo trong mắt thoáng chốc biến mất, chỉ còn lại quyến luyến, dịu dàng, gã buông tay mà như không nỡ, “Ừ. Cố lên.”

Winston thở phào nhẹ nhõm.

Cậu hơi sợ nhỡ không may Edwin đột nhiên lên cơn, Malkavian chưa bao giờ phải cân nhắc tình hình trước khi lên cơn.

Oregon cũng rất biết điều, không cần chờ đối phương gọi đến đã tự động ngồi vào vị trí còn trống trong Mật đảng.


Huyết tộc bên cạnh nghiêng đầu nhìn anh, mặt tỏ vẻ kinh ngạc, “Gangrel?” Từ sau ngày Oregon mất tích, Gangrel ở nhân giới xuống dốc thậm tệ, lâu lắm rồi chẳng còn xuất hiện huyết tộc cấp cao nào nữa.

Oregon mỉm cười vuốt ve chiếc nhẫn trên tay.

Winston đi đến ven rìa vùng đất trống, “Chúng ta hội họp ở đây là bởi chúng ta nhận ra có một âm mưu đáng sợ đang phát sinh nhưng lại không thể nào ngăn cản được. Chúng ta cần nhờ đến sự che chở của ngài Tiểu Minh Vương.”

Đây cũng là lý do Winston dám lấy thân phận đời thứ sáu để đứng ra chủ trì hội nghị.

Quan hệ của cậu và Tiểu Minh Vương khá thân thiết.

“Vì vậy chúng ta phải tuân theo quy định của nơi này.” Winston nói tiếp: “Không thể mgây phiền nhiễu cho ngài Tiểu Minh Vương.” Baal đã đưa ra cảnh cáo và được Pripley truyền đạt lại một cách uyển chuyển nhưng rõ ràng: Nếu không làm theo lời của Baal, bọn họ sẽ bị đuổi khỏi thành Bright.

“Chỉ bảo vệ trong bị động thôi à?” Thành viên của Lamsobra không vui nói: “Khi kẻ địch quá mạnh, chúng ta chỉ biết kinh hãi! Khi đồ tể vung dao gặt đầu chúng ta, chúng ta chỉ biết co đầu rụt cổ như đà điểu! Vậy còn gì là tôn nghiêm của huyết tộc? Lẽ nào chúng ta cứ phải khuất nhục trước sự đe dọa của tử vong? Để bóng ma của sợ hãi chà đạp?”

Winston nói: “Xin hãy bình tĩnh.”

“Bảo. Tôi. Bình. Tĩnh. Đọc. Từng. Cái. Tên. Người. Chết. Sao?” Gã kích động đứng bật dậy, cao giọng đọc từng cái tên của các huyết tộc chết oan trong thời gian này. Từ Anh tới Pháp, từ Đức tới Ý, từ Bỉ tới Thụy Sĩ…

Cả tràng dài những cái tên khiến lũ huyết tộc có mặt ở đó không khỏi rít vào một hơi lạnh toát.

Tin dữ họ cũng có nghe nhưng chưa một ai đứng ra làm thống kê như vậy cả.

Winston đau đầu xoa huyệt thái dương.

Có phải cậu ta không muốn bắt hung thủ đâu?

Phải có khả năng mới được chứ.

Sau khi biết được thân phận của hung thủ, tạm thời cậu đã phải cố xua đi ý định hão huyền này.

Cậu ta quen khá thân với Tiểu Minh Vương, vì vậy thực lực của quý ngài đời thứ hai nặng ký thế nào cậu hiểu rất rõ – Trong chiến đấu, quý ngài ấy cả “ký” còn chả được bao nhiêu chứ đừng nói “nặng”. Nhưng được cái thần hộ mệnh của ngài ấy lại rất cao tay, chẳng qua hơi khó đàm phán.


Trong tình huống thế này chỉ đành cụp đuôi mà đi bước nào tính bước đấy.

“Vào thời điểm này đây chẳng lẽ không nên mời ngài Leslie ra mặt làm chủ sao?” Đứng chung chiến tuyến với Lamsobra là một gia tộc khác trong Ma đảng – Tzimisce – lên tiếng.

Thấy người yêu mình bị hoạnh họe, Edwin cuối cùng cũng đứng dậy.

Gã vừa đứng dậy là bầu không khí lập tức căng thẳng hẳn lên.

Malkavian là những kẻ điên, quan niệm này đã ăn sâu vào lòng mỗi một huyết tộc, vì vậy chỉ cần nhìn thấy thành viên của Malkavian là tất cả đều trở nên khẩn trương theo bản năng.

Thái độ của Edwin vô cùng lịch sự, lễ độ, cộng thêm tướng mạo hơn người nên dễ mang lại thiện cảm, có điều lời gã nói ra lại khiến người nghe không ai thích nổi: “Thông đạo của giới huyết tộc bị đóng lại rồi.”

Tin tức này chỉ có một vài huyết tộc ở đây biết trước, những huyết tộc khác nghe vậy lập tức nhao nhao bàn luận.

“Chuyện xảy ra khi nào?”

“Tại sao lại như vậy?”

“Chúng ta bị bỏ rơi rồi ư?”

“Giới huyết tộc đã xảy ra chuyện gì?”

Nỗi hoang mang dần dần khuếch trương.

Winston nhìn Edwin một cách bất đắc dĩ.

Lòng người vốn đang bàng hoàng, Edwin vốn không nên công bố tin tức đó nhanh như vậy.

“Dù có xảy ra chuyện gì đi nữa,” Lawrence Ventrue lên tiếng: “trước hết đều phải bảo vệ bản thân cho tốt để vượt qua cửa ải khó khăn này.”

Lamsobra và Tzimisce không nói gì nữa.

Tình hình quá rõ ràng.

Không ở lại để nhận sự che chở của Tiểu Minh Vương thì xéo. Kết cục của lần “xéo” này rất có thể sẽ là xéo thẳng xuống địa ngục.


Winston nhìn Lawrence bằng ánh mắt biết ơn.

Khóe miệng Edwin xị xuống, gã lạnh lùng nhìn chòng chọc vào gáy Lawrence. Gã chưa bao giờ quên năm xưa là ai đã giúp Winston trốn thoát khỏi tay gã.

Lawrence nhìn chằm chằm vào Winston, bụng thầm bảo dạ: Đừng quay mặt lại, đừng quay mặt lại, đừng quay mặt lại…

“E hèm.” Winston lại lên tiếng nói: “Ngài Tiểu Minh Vương có vài yêu cầu nhỏ với các vị. Nếu muốn ở lại thì nhất định phải tuân theo quy của ngài Tiểu Minh Vương.” Mắt cậu liếc thấy những ánh nhìn có vẻ bất mãn, vì vậy lại đổi ý nói khác đi, “Biểu quyết theo gia tộc đi.”

Lamsobra hỏi: “Biểu quyết cái gì?”

“Rời đi hoặc ở lại.”

Winston quá rõ hậu quả khi chọc Baal nổi giận là rất nghiêm trọng, vì vậy tối hôm nay nhất định phải để huyết tộc đạt được một nhận thức chung, quyết không thể để mọi chuyện cứ mơ mơ hồ hồ.

Lawrence dùng mắt trao đổi với các thành viên khác của Ventrue rồi đứng ra bày tỏ thái độ đầu tiên: “Ventrue tình nguyện nghe theo sự sắp xếp của ngài Tiểu Minh Vương!”

“Malkavian ở lại.”

“Toreador tình nguyện ở lại.”

“Giovanni tình nguyện ở lại.”

“Gangrel tình nguyện ở lại.”



Các ánh mắt đồng loạt chuyển hướng.

Oregon thản nhiên như thường.

“Gangrel?”

Huyết tộc đời thứ tám không có tư cách tham gia hội nghị này, vậy nên những nhà khác vốn tưởng hôm nay không có mặt Gangrel. Tên huyết tộc này tuy trên người có mùi của Gangrel nhưng tại sao không ai nhận ra được hắn là huyết tộc đời thứ mấy?

Ánh mắt của mọi người dồn hết vào chiếc nhẫn trên tay trái của Oregon.


“Ngài đây là…” Lawrence cứ thấy Oregon quen mắt sao sao ấy.

Oregon mỉm cười đáp: “Oregon.”

Cả khu rừng chìm trong im lặng.

Bọn họ ngơ ngác nhìn nhau như đang ngầm hỏi đối phương mới vừa nghe thấy cái gì. Người được hỏi trả lời bằng ánh mắt đầy chấm hỏi y như chang như người đi hỏi.

Lỗ tai mình chắc chắn không có vấn đề.

Cái tên vừa được thốt ra từ miệng tên Gangrel kia đúng là…

Oregon.

Cái tên trong truyền thuyết.

Câu chuyện giữa Oregon và Ansbach được lưu truyền vô cùng rộng rãi trong giới huyết tộc.

Chỉ có hai trọng điểm:

Một là Ansbach điên cuồng tới mức nào.

Một là Oregon số con rệp tới mức nào.

Nếu không phải điên, Ansbach sao lại đi yêu người mình đuổi giết?

Nếu không phải số con rệp, tại sao sau khi yêu nhau, Oregon vẫn tiếp tục bị đuổi giết?

Mà hiện tại, cái vị huyết tộc đen đủi đến mức đi vào truyền thuyết lại xuất hiện ngay trước mặt họ.

Tay chân đủ cả, mặt mũi hồng hào… Mạnh khỏe một cách quá phản khoa học!

Nhưng ngoài điều này, bọn họ còn nhận ra một chuyện.

Anh là đời thứ tư.

Là đời thứ tư chỉ sau các trưởng lão đời thứ ba.

Nếu so với ngài Tiểu Minh Vương mới chỉ là “nhi đồng” về mặt tuổi tác trong giới huyết tộc, một Oregon có đủ trình độ đọ trí so tài với tên điên đáng sợ nhất của Malkavian bao nhiêu năm mà vẫn an toàn đương nhiên càng mang lại cảm giác đáng tin cậy.

Những ánh mắt đang dán vào Oregon bỗng chốc trở nên nóng bỏng.

Oregon vẫn tỉnh như ruồi.

Bày tỏ quan điểm xong, anh lại im lặng ngồi xuống, tiếp tục sắm vai “giai đẹp quàng khăn lụa”.

Cuộc bỏ phiếu nhanh chóng kết thúc, mười ba nhà không ai rời đi, tất cả đều ở lại.

Winston hài lòng gật đầu, tuyên bố nhiệm vụ mà ngài Tiểu Minh Vương giao cho bọn họ: “Nhổ cỏ trồng hoa.”

Bọn họ là huyết tộc vĩ đại!

HUYẾT... TỘC... VĨ... ĐẠI!

Sao có thể kéo cả bè lũ đi làm cái việc “dịu dàng nồng thắm” đấy chứ?

Bọn họ phải để cho cỏ quanh mộ mọc dài, còn bản thân đi hái hoa mới đúng!

Các huyết tộc vừa nhổ cỏ trồng hoa vừa tức tối suy nghĩ.

Lực lượng của huyết tộc vốn đông đảo.

Chẳng bao lâu, thành Bright đã chìm trong những vườn hoa ngút ngàn.

Hoa hồng, tulip, ngọc lan… Đủ các loại hoa lay động trong gió, lũ huyết tộc nhìn thấy mà lòng cũng phơi phới theo.

Tiểu Minh Vương vì để cảm ơn công sức của họ còn đích thân xuống bếp làm súp sủi cảo – Chỉ tiếc khi đến được tay cả bọn, súp còn nhưng sủi cảo đã mất tăm. Nghe nói quản gia Pripley sau khi đi đưa “sủi cảo” về còn bị chụp cho tội danh “hướng ngoại” rồi đánh cho một trận, ba ngày liền không thấy ra giám sát vườn hoa.

Trong thành Bright tất thảy đều êm đẹp, nhưng còn ngoài thành gần như đã đến mức các huyết tộc thần hồn nát thần tính. Những huyết tộc không tránh kịp đều phải gánh chịu những cuộc tấn công ở mức độ khác nhau, không ít huyết tộc cấp cao, trung bị bắt làm con tin, số còn lại ùn ùn kéo tới thành Bright tránh nạn.

Chính vào lúc cả thế giới ngầm ở châu Âu trời long đất lở, kẻ đầu sỏ đứng sau tất cả cuối cùng cũng chịu vén mạn che mặt, hống hách xưng tên:

Ma nữ bóng đêm Lilith!

Những huyết tộc có địa vị trong giới bị ả trói thành hàng dài, hơn nữa còn thu video đăng lên Facebook với tiêu đề mang tính sỉ nhục: Hoan nghênh lão đại của huyết tộc đích thân đến chuộc về.

Nhân loại không biết cứ tưởng đây chỉ là trò đùa hoặc cosplay, những kẻ biết chuyện thì kinh hãi tột độ.

Lilith tuyên chiến với Cain?

Địa ngục tuyên chiến với huyết tộc?

Nhân loại sẽ trở thành chiến trường?

Cuộc chiến này sẽ còn đáng sợ hơn thế chiến gấp bao nhiêu lần!

Giáo hội không thể khoanh tay đứng nhìn bèn phái sứ giả Benoit đi thăm dò thái độ của ngài Tiểu Minh Vương, tiện thể liên lạc với đồng minh Oregon.

Thái độ của Tiểu Minh Vương rất rõ ràng, chỉ cần vào trong phạm vi của thành Bright đều sẽ nhận được sự che chở của cậu ấy.

Thái độ của Oregon rất mập mờ, sự thật là quý ngài sứ giả vốn chẳng gặp được anh – Bị lũ huyết tộc đông kiến cỏ cứ nhìn lăm lăm kiểu bé-trông-ngon-ghê-nè suốt dọc đường, ai lại chẳng váng đầu hoa mắt, hại gã nhìn sao cũng thấy lũ này mặt mày y hệt như nhau.

Giáo hội không có được đáp án rõ ràng nên chỉ đành điều người đi tuần tra khắp các khu vực châu Âu, tuy chỉ như muối bỏ biển nhưng có còn hơn không. May mà mục tiêu của Lilith chỉ là huyết tộc, trước mắt vẫn chưa xuống tay với con người.

Ngoài thành Bright ai nấy đều sống trong cảnh thần hồn nát thần tính.

Những huyết tộc ở nhân giới may mắn còn sống đều tụ tập hết vào thành, nếu như Lilith muốn tiếp tục gây hấn thì đây chính là mục tiêu tiếp theo.

Mỗi tên huyết tộc dường như đều đang chờ đợi.

Chờ đợi ngày Lilith đột nhiên quá bộ xử lý bọn họ.

Mỗi ngày chờ đợi là mỗi ngày giày vò, đến khi người ta thật sự ghé thăm, cảm giác đầu tiên của chúng lại là – Giải thoát rồi!

Trong bóng đêm, lũ huyết tộc xếp thành hàng dài cứ như sỏi đá trên bãi cỏ.

Lilith thướt tha trong chiếc váy đuôi cá, thản nhiên giẫm lên những tên huyết tộc bất hạnh đang la oai oái để đến trước cửa thành Bright.

Các huyết tộc đứng xếp thành cả con đường, Oregon cùng Macewen bắt ghế ngồi ngay lề đường, chăm chú quan sát cuộc chiến đang xảy ra trước cửa thành.

Macewen thuộc loại bị liệt cơ mặt, dù trong bụng đang sôi sục gần chết nhưng vẻ mặt gã vẫn hết sức thản nhiên, “Ngài thấy… ai sẽ thắng?”

Oregon còn chưa kịp trả lời thì huyết tộc kế bên đã tham gia hóng chuyện, luôn mồm tung hô ngài Tiểu Minh Vương pháp lực vô biên.

Oregon đáp: “…Tiểu Minh Vương.”

Macewen ngạc nhiên nói: “Không ngờ ngài lại có lòng tin với hắn như vậy.” Thật ra ý gã là, ý kiến của ngài chứ không phải tên bên cạnh kia cơ?

Chỉ trong nháy mắt, Lilith đã thổi lên kèn hiệu tấn công.

“Tiểu Minh Vương sắp ra tay rồi!” Lũ fan não tàn hớn hở gào thét.

Trước thành, một đôi cánh đen oai phong lẫm liệt từ từ mở rộng, bóng đen của đôi cánh gần như nuốt trọn Lilith.

Oregon nói: “Đấy, phép thuật mạnh nhất trên đời – Phép triệu hồi đọa thiên sứ.”

Huyết tộc: “…”

Cuộc chiến rơi vào cảnh dầu sôi lửa bỏng.

Oregon ngáp một cái, định bụng đánh một giấc rồi dậy xem kết quả, nhưng bất thình lình cuộc chiến lại chấm dứt.

Trên không trung, mấy trăm con dơi kéo một chiếc xe từ trên trời giáng xuống.

Oregon hé mắt nhìn, “Giáng Sinh tới sớm thế cơ à?”

Chiếc xe đáp xuống đất, nhưng người bước ra không phải là ông già Noel mà lại là trưởng lão tộc Giovanni – Singh.

Ông vội vã nói vài câu, sau đó Lilith lên xe, cuối cùng cả chiếc xe dơi biến mất nơi chân trời.

Có lẽ mở đầu của cơn bão này quá sức kinh hoàng, vì vậy khi nó chấm dứt một cách đơn giản như vậy, người ta lại cứ thấy bất an, cứ như sợ rằng vẫn còn mối nguy tiềm tàng đâu đó chưa phát sinh.

Nhưng sự thật là những huyết tộc bị bắt đều lục tục quay về lãnh địa của mình, Winston đợi các huyết tộc cấp cao giải trừ cảnh báo là lập tức báo cho cả bọn lúc nào về nhà cũng được.

Dường như tất cả đều đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.

Nhưng chỉ là “dường như”.

Gần đây sắc mặt của Oregon không tươi tắn mấy, bảo “không tươi tắn” là còn hơi nhẹ, phải nói là rất tệ mới đúng. Anh thường ngồi ngẩn ra nhìn chằm chằm vào một nơi nào đấy, thậm chí cả việc Macewen ra ngoài cả trưa không về cũng chả buồn tọc mạch.

Đúng là quá bất thường.

Macewen nhịn hết nổi bèn bóng gió hỏi: “Ồ, thời tiết hôm nay đẹp thật. Ngài dùng cơm chưa ạ?”

Oregon đáp: “Nếu túi máu nửa tiếng trước cậu mang tới được gọi là cơm thì ừ, tôi ăn rồi.”

Macewen nói: “Chừng nào chúng ta về London? Họ sắp đi hết cả rồi.”

Oregon nói: “Quá tuyệt! Diện tích sinh sống của tôi từ mười mét vuông tăng lên thành một ngàn mét vuông, tại sao lại phải đi?”

Macewen đáp: “Thôi được, xin cho phép tôi hỏi thẳng. Tại sao tâm trạng của ngài lại tệ vậy?”

Oregon nhìn gã như muốn đánh giá xem tên này có phải là đối tượng thích hợp để tâm sự hay không.

Vẻ mặt Macewen cố gắng tỏ ra hết mực trung thành đáng tin.

Oregon ngẫm nghĩ rồi cũng chịu nói: “Tôi có một người vợ.”

Macewen nói: “Tôi từng bị tin tức này làm giật mình một lần.”

“Mà bây giờ bên cạnh tôi lại là cậu.”

Có lẽ bởi lũ huyết tộc bỏ đi quá nhiều nên người ở lại trở nên nổi bật đặc biệt. Hoặc cũng có thể thân phận đời thứ tư của Oregon đã bị Tiểu Minh Vương nhìn thấu, nói chung là Oregon đã nhận được thiệp mời vào thành Bright cùng dùng bữa tối.

Người đưa thiệp là Winston, “Nếu ngài gặp Tiểu Minh Vương, nhất định ngài sẽ rung động trước phong thái dịu dàng, ôn hòa như làn gió xuân của ngài ấy.”

Oregon hỏi: “Để rồi bị vệ sĩ của ngài ấy dùng nắm đấm cứng như đá làm cho rung động cả người?”

Winston chần chừ đôi chút rồi đáp: “Thật ra khác với lời đồn, ngài Baal không phải là loại…”

Hung tàn?

Lạnh lùng?

Buồn vui thất thường?

Oregon chờ xem cậu ta sẽ dùng từ gì để hình dung.

Nhưng thời gian chần chừ quá lâu đã khiến cho bất cừ từ nào Winston định dùng đều trở nên thiếu sức thuyết phục.

Winston cuối cùng cũng nói hết câu: “Không để bụng những việc vặt vãnh.”

Tức là Baal trời sinh nhỏ mọn, còn sinh mạng của mình đang trong tình trạng nguy cấp?

Nhưng mặc cho thế nào thì anh vẫn đến dự tiệc.

Sau khi vào thành, Oregon thấy hơi ngạc nhiên. Anh quả thật không nghĩ một tòa thành cổ kính lại được thiết kế nội thất đậm chất Trung Hoa như vậy.

Đồ dùng kiểu Hoa, có cả gốm sứ và tranh vẽ còn chưa nói, nhưng tại sao trên kính còn dáng các hình cắt bằng giấy đỏ?

“Chào mừng ghé thăm.”

Một cậu bé mặt mũi sáng sủa vận áo thun trắng và quần jeans từ trên cầu thang đi xuống, ngượng ngùng chào hỏi Oregon.

Đây là ngài Tiểu Minh Vương đời thứ hai?

Trong nháy mắt Oregon thấy tim mình giật thót, nhưng anh nhanh chóng khống chế cảm xúc và cúi người chào cậu.

Vương Tiểu Minh nói: “Cơm nước chuẩn bị xong hết rồi, chắc cũng sắp nhập tiệc. Anh thích ăn cái gì? Tôi làm món miến huyết vịt, thịt kho đậu hủ huyết, huyết xào cay, huyết heo rang đậu…”

Cậu kể tên cả tràng dài những món ăn, dù Oregon chẳng biết món nào là món nào nhưng vẫn tỏ vẻ phối hợp, “Đều là món tôi thích cả.”

Vương Tiểu Minh thở phào nhẹ nhõm, “May quá, tôi còn lo anh ăn không quen miệng.”

Hai người đi vào phòng ăn, trên bàn quả nhiên bày đầy những đĩa với đĩa, chẳng qua…

Trong đĩa không có thức ăn.

Vương Tiểu Minh nhìn sang Baal, hắn đã ngồi sẵn ở đó và khẽ đung đưa ly rượu. Cậu mắt chữ A mồm chữ O hỏi: “Ăn hết rồi hả?”

Baal đáp: “Chưa.” Nói rồi liền biến ra một cái chén, “Ta để dành cho em.”

Vương Tiểu Minh bối rối nói: “Có khách mà.”

Baal hừ lạnh tỏ vẻ không vui, “Làm khách thì cứ làm khách thôi, còn đòi ăn chực cái gì!” Còn dám ăn chực thức ăn Vương Tiểu Minh đích thân làm! Đáng chết!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 3: Phong ấn

Vấn đề nan giải ma nữ để lại.

Oregon liếc nhìn những cái đĩa sáng bóng rồi hắng giọng một tiếng, “Cũng đâu còn gì để ăn chực.”

Vương Tiểu Minh hết sức áy náy, “Tôi xuống nấu tô mì dương xuân cho anh ăn nhé? Cho thêm hai miếng huyết heo nữa.”

Baal bỗng nhiên nổi cơn tanh bành, “Em còn dám ‘xuống’ cho hắn ‘ăn’?”

Vương Tiểu Minh vội giải thích: “Trung Hoa xưa nay đặt nặng mấy chuyện lễ nghi, mời khách ăn cơm là một trong những phép tắc cần có…”

Baal nói: “Trước khi ‘ăn’ còn cần nói câu ‘Làm người quan trọng nhất là phải vui vẻ’ đúng không?”

Oregon thầm nhủ trong bụng: Sau khi gặp Baal, Tiểu Minh Vương phải “không vui” đến mức nào mà cả “làm người” cũng chả muốn nữa.

Vương Tiểu Minh nói: “Anh ta không phải con người mà.”

Oregon: “…”

Baal hừ lạnh đáp: “Hắn là quỷ hút máu! Đúng thật là làm quỷ còn không chịu thôi bám lấy em!”

Oregon: “…”

Vương Tiểu Minh nói: “Em cũng là quỷ hút máu.”

Baal nhướng mắt bảo: “Em cũng đừng có mà thôi bám lấy ta đấy.”

Mặt Vương Tiểu Minh đỏ lên, cậu thẹn thùng gật đầu.

Sắc mặt của Baal bấy giờ mới dịu lại, hắn đưa chén cho Vương Tiểu Minh.

“Ăn đi.”

Vương Tiểu Minh bưng chén, dè dặt trộm ngó Oregon một cái, bóng Baal chợt lóe lên, chắn ngay tầm nhìn của cậu.

“Lúc ăn cơm không được nhìn trái ngó phải, sẽ ảnh hưởng đến khẩu vị.”

Từ lúc vào cửa tới giờ chưa kịp làm gì mà đã phải gánh chịu bao nhiêu khinh bỉ, Oregon bèn nhỏ tiếng hỏi Winston: “Rốt cuộc là tôi đến để làm gì?”

Winston vỗ vai anh đáp: “Đợi tí xíu là được.”

“Hai người đang thủ thỉ gì đấy?” Edwin mỉm cười chen vào giữa Winston và Oregon rồi quàng tay ôm lấy vai Winston, hạ giọng hỏi: “Em yêu, có việc gì không nói được với tôi mà lại nói được với, một, người, ngoài, thế kia? Hửm?”

Winston: “…”

Oregon lẻ loi đứng đó, nói một cách thâm thúy: “Thì ra cậu bảo tôi chờ việc này.”

Winston: “…”

Khi hai hũ giấm ngàn năm và hai hũ kiềm chuyên dụng xảy ra phản ứng hóa học xua hết mùi chua trong không khí đã là chuyện của một tiếng sau.

Oregon nằm ngủ gật trên ghế, khi anh tỉnh dậy những người khác đều đang nói chuyện.

“Không ngờ trong mười ba gia tộc, hoa đẹp nhất lại là của Nosferatu. Đúng là đừng trông mặt mà bắt hình dong.” Winston cảm thán kiểu nửa đùa nửa thật.

Tay Edwin đặt sau gáy của cậu, ngón cái nhẹ nhàng vuốt qua vuốt lại, “Không sao, ‘dâu đỏ’ tôi gieo cũng đẹp mà.”

Winston: “…” Anh cấy da giỏi nhất mới đúng, đặc biệt là da mặt!

Baal nhìn chằm chằm vào Vương Tiểu Minh.

Vương Tiểu Minh đánh thót một cái, trong đầu chợt lóe lên ý tưởng, cậu buột miệng bảo: “Anh trồng cái gì cũng cừ hết.”

Miệng Baal nhoẻn lên, nhưng lại lập tức trừng mắt nhìn bụng cậu, “Chẳng qua không nảy mầm thôi.”

Vương Tiểu Minh: “…”

Oregon nhìn mấy cốc trà trên bàn của họ rồi mân mê đôi môi khô khốc của mình, anh hỏi: “Có thể cho tôi mượn một cốc trà, một cốc nước nóng và ít lá trà không? Những bước khác tôi tự làm.”

Từ giờ trở đi, anh phải làm một vị khách biết điều mới được.

Pripley đưa lên cho anh nước sôi, cốc trà và một hộp trà y như yêu cầu của anh.

Oregon: “…” Không ngờ đối phương lại hoàn thành yêu cầu của mình triệt để như vậy, cả mấy câu khách sáo này nọ cũng chả buồn nói, đúng là quá chân thành.

Anh cúi đầu pha trà.

Winston ủ cốc trà trong tay, đắn đo mở lời: “Thuở xa xưa tôi từng nghe kể về truyền thuyết của ngài, tôi hoàn toàn sùng bái ngài…”

Edwin nhéo nhẹ cổ cậu.

Winston thấy lạnh sống lưng, thoáng ngừng lại rồi mới nói tiếp: “Nhưng nghe danh không bằng gặp mặt, so với tưởng tượng của tôi, ngài còn…”

Móng tay của Edwin ghim vào da cậu ta, tuy miệng vẫn giữ nụ cười nhưng ánh mắt đã lạnh lẽo khôn cùng.

Winston kiên trì nói cho hết: “Ưu tú hơn! May mà trái tim tôi đã bị E.D.W.I.N hoàn toàn chiếm hữu, không thừa tí chỗ trống nào, chứ không sợ rằng tôi cũng sẽ trằn trọc mất ngủ vì trên đời có một tên Oregon mất thôi!”

Edwin thả tay ra, mỉm cười với cậu rồi thò đầu qua liếm vào vết thương đang dần khép miệng trên cổ cậu.

Winston rụt cổ lại, xấu hổ nhìn Oregon.

Oregon vờ như chưa thấy hành động mờ ám của hai người, anh chỉ tiếp lời: “Ồ? Trong tưởng tượng của cậu tôi là người như thế nào? Máu me đầy người, te tua tơi tả? Hay là khóc hu hu than thở đời nào được như mơ, sau đó nằm trên giường vừa đọc tiểu thuyết tình yêu vừa hộc máu?”

Winston đáp: “Không không không, trong lòng tôi ngài là người nhìn xa trông rộng, ung dung tiêu sái, anh hùng tài hoa.”

Nụ cười của Edwin lại hạ nhiệt độ.

Oregon chợt phì cười, “Vòng vo nãy giờ cũng nên vào đề rồi. Có việc gì cần tôi giúp sao?”

“Vậy tôi không khách sáo nữa.” Winston hơi nhoài về trước, cậu hỏi: “Ansbach có phải bị nhốt trong vùng đất phong ấn không?”

Nụ cười của Oregon biến mất.

Winston lại hỏi: “Vùng đất phong ấn có phải ở Nam Cực không?”

Oregon híp mắt vặn lại: “Tại sao phải hỏi?”

Winston đáp: “Theo lẽ, huyết tộc nào bị nhận từ bảy phiếu trở lên của các vị trưởng lão cho rằng tội không thể tha đều bị nhốt trong vùng đất phong ấn. Mà vị trí của vùng đất ấy chỉ có mười ba vị trưởng lão biết…”

Oregon liếc Vương Tiểu Minh một cái.

Vương Tiểu Minh lắc đầu.

Cậu gia nhập huyết tộc là vì muốn trường sinh để mãi mãi ở bên Baal, tuyệt đối chẳng thấy hứng thú với chuyện nội bộ huyết tộc. Lần này đứng ra bảo vệ huyết tộc chẳng qua vì mỗi tháng mình lãnh hai mươi vạn tiền lương của người ta, không làm gì thì áy náy lắm.

Oregon trầm ngâm một lúc mới trả lời: “Tại sao các người lại cho rằng ở Nam Cực?”

Winston đáp: “Vì ma nữ đã xuất hiện ở Nam Cực. Những ngày có mặt trời ở Nam Cực sắp qua đi, bóng tối sẽ phủ xuống, sức mạnh của phong ấn trong vùng giảm mạnh, mỗi năm vào thời gian này mười ba trưởng lão sẽ lần lượt tới đấy để tăng cường sức mạnh cho phong ấn. Nhưng năm nay các vị trưởng lão lại chưa tới, nếu muốn ra tay với vùng đất phong ấn thì hiện tại chính là thời điểm tốt nhất.”

Oregon đứng phắt dậy đi ra ngoài.

Winston vội đuổi theo anh, “Nếu vùng đất phong ấn ở Nam Cực thật thì một mình ngài đi cũng vô dụng thôi!”

Cửa thành bỗng nhiên đóng sầm lại ngay trước mặt Oregon.

Oregon ngừng bước, lạnh lùng nói: “Mở cửa.”

Trong nháy mắt, Edwin đã xuất hiện chắn trước mặt Winston: “Vùng đất phong ấn ấy không chỉ nhốt mỗi… Ansbach.”

Huyết tộc có vô số truyền thuyết nhưng không phải câu chuyện nào cũng “nồng thắm” như của Oregon và Ansbach, chúng tàn khốc, máu lạnh, hung tàn hơn nhiều. Nếu những tên bị phong ấn ấy nếu được thả ra…

Tưởng tượng thế nào cũng là cảnh máu chảy thành sông.

Winston bèn khuyên nhủ: “Thông đạo của giới huyết tộc đã đóng lại, tốt nhất chúng ta hãy tìm cách khác.” Cậu nhận được tin muộn quá, nếu sớm hơn tí xíu đã có thể báo với trưởng lão Singh để giành được sự ủng hộ của giới huyết tộc.

Nhưng hiện tại nói gì cũng đã muộn màng.

“Rầm.”

Cửa thành đột nhiên ngã xuống đánh rầm một tiếng.

Winston và Edwin còn chưa kịp có phản ứng thì Baal đã xông ra.

Trăng sáng vằng vặc, đêm lạnh như nước.

Trước thành, mấy chục con dơi bay loạn xạ tứ phía.

Baal đứng trên không, mặt mày u ám.

Winston và Edwin rón rén chuẩn bị đánh bài chuồn thì lại nghe Baal nói: “Đền!”

Winston lập tức trả lời: “Không thành vấn đề.”

Vương Tiểu Minh chạy ra, nghe vậy vội nói: “Không sao đâu. Cửa này trong kho nhà tôi còn trữ nhiều lắm.” Baal cứ lên cơn lại đạp bay mấy cái, cậu nhìn riết cũng quen rồi.

Baal nói: “Phải bắt chúng đền cánh cửa nào mà đạp không hư ấy.”

Winston: Đâu ra trời. Gặp thiên sứ hủy diệt thì có mà vàng cũng bị đạp thành cát thôi.

Vương Tiểu Minh rõ ràng cũng nghĩ như Winston, “Hay thôi đừng lắp cửa nữa.”

Baal: Tại sao vợ nhà người ta thì lúc nào cũng hướng về chồng, còn người mà hắn nuôi lại thích thân tại Tào doanh, tâm tại Hán?!

Winston viện cớ đuổi theo Oregon vội vã kéo Edwin chạy đi.

Vương Tiểu Minh đang chần chừ không biết có nên đuổi theo giúp đỡ hay không thì chợt thấy chóp mũi đau điếng. Sau đó cậu nhìn thấy Baal đứng ngay trước mặt bất mãn nhéo của mình. Baal nói: “Em phải nhớ cho kỹ. Thứ nhất, em là một con người.”

“Thứ nhì, là người của ta.”

Baal vỗ đầu cậu, “Nhớ chưa?”

Vương Tiểu Minh nhỏ giọng đáp: “Chẳng phải em đã biến thành quỷ hút máu rồi sao?”

Baal nói: “Vậy thì hãy làm một con quỷ hút máu cho ra hồn!”

“Quỷ hút máu cho ra hồn là sao?”

“Ăn thịt hút máu kẻ khác, bám dính lấy ta như âm hồn không tan.”

Lúc đến nơi, núi lửa trên đảo Deception vừa mới phun trào chưa được bao lâu, cả hòn đảo chìm trong tro núi lửa cứ như một mảnh đất vừa bị thiêu rụi.

Oregon cắm đầu chạy thẳng vào giữa đảo.

Ở nơi đó có mấy mươi cỗ quan tài bị chôn vùi dưới lớp tro bụi. Quan tài bày biện bừa bãi, có vài cỗ đã bật nắp, những cỗ khác vẫn đậy kín.

Nằm ngay chính giữa là một cỗ quan tài trắng khắc huy hiệu tộc Malkavian, nắp quan tài vẫn đóng chặt như đang lặng lẽ chờ đợi người quen đến từ phương xa.

Tim Oregon đập thình thịch, anh từng bước từng bước đi đến bên cỗ quan tài rồi chầm chậm mở nắp quan tài ra.

Một cành hoa hồng héo rũ từ trong quan tài rơi xuống đất, vùi mình dưới lớp tro bụi.

“KHÔNG!”

Cỗ quan tài trống rỗng chẳng khác nào một con dao cắt đứt sợi dây lý trí cuối cùng của anh.

“Để ta ngửi xem nào! Thằng bé còn hôi sữa từ đâu đến thế kia, mùi vị thơm ngon nhường ấy làm ta chỉ muốn mau chóng cắn đứt cổ họng nó để hút hết chỗ máu tươi tuyệt vời thôi!” Giọng cười quái gở bất chợt vang lên từ sau lưng Oregon.

Một cỗ quan tài màu cà phê sẫm rung nhẹ, nắp quan tài nảy lên rồi nhích ra vài tấc để lộ một ngón tay thon dài, nhưng ngón tay còn chưa duỗi ra, nắp quan tài đã bị đẩy trở về chỗ cũ.

“Ối!” Trong quan tài phát ra tiếng thét chói lói.

Oregon ấn nắp quan tài xuống, lạnh lùng nhìn ngón tay kia dần dần đỏ lên.

“Buông ra, cái tên khốn nạn không biết kính trọng bề trên nhà ngươi!”

Nắp quan tài đột nhiên bật nảy lên cao, sau đó một bóng đen từ trong quan tài phóng ra đè Oregon xuống đất.

Gương mặt trắng bệch bị cái miệng đỏ như máu át quá nửa, lộ ra hai chiếc răng nanh trắng muốt.

Oregon nhắm mắt lại, lúc anh mở mắt ra, tròng trắng của mắt anh đỏ tươi như nhiễm máu, trông chẳng khác nào thú hoang điên dại, “Cút!” Anh gắng sức đẩy tên kia ra rồi đứng dậy.

Bị anh đẩy, tên huyết tộc va mạnh vào cỗ quan tài hắn mới chui ra. Quan tài bay đi mấy chục mét, vướng phải nham thạch lăn đi vài vòng.

Huyết tộc nọ lắc đầu đứng lên, “Ngươi làm hỏng mất đồ của ta.”

Bầu trời nhuộm thắm một màu xanh đậm, chỉ còn gợn tí mấy trông như vảy cá lốm đốm.

Dưới ánh sáng mập mờ, hai huyết tộc bất ngờ bổ nhào vào nhau, vung tay múa chân đánh nhau bằng phương pháp nguyên thủy nhất.

“Buông tay ra! Tên dân đen thấp hèn nhà ngươi!” Tên huyết tộc bị anh túm tóc nổi điên lên, hắn trầm giọng cảnh cáo, đe dọa một cách âm độc: “Ngươi dám hỗn láo với bề trên.”

Oregon đứng thẳng tắp, túm lấy tóc hắn lắc qua lắc lại, nhìn hắn với ánh mắt của kẻ đứng trên và mỉm cười đầy vẻ khinh thường, “Xưa nay ta chưa từng gặp bề trên nào yếu ớt như ngươi.”

Tóc hắn bất chợt bị anh giật phăng, cả miếng da đầu nhỏ cũng bị tróc ra theo.

Tên huyết tộc nọ nổi điên!

Hắn giang hai tay ra, mặt đất bỗng nhiên chấn động.

Dưới mặt đất như có thứ gì đó sắp xông lên.

Oregon lùi lại hai bước.

Bản tính kính ngưỡng bề trên trời sinh của huyết tộc khiến anh không thể nào cựa quậy.

“Ta, trên danh nghĩa Irad đời thứ hai, sẽ xét xử tên dân đen đê hèn không biết kính trọng bề trên nhà ngươi!” Ngón tay bị kẹp sưng tấy ban nãy của hắn từ từ duỗi ra, lời nguyền rủa của ác ma dần dần thành hình trên không trung. “Ta tuyên phán, đời đời kiếp kiếp ngươi sẽ bị vây trong…”

Oregon bất thình lình nhảy bắn lên ôm lấy Irad rồi xông thẳng xuống biển.

Nước biển lạnh băng tràn vào mũi miệng.

Ngăn không cho lời nguyền của Irad thốt ra.

Irad giận dữ nhìn chằm chằm vào tên huyết tộc đang đè trên người mình.

Dù nước biển có lạnh lẽo cỡ nào thì lửa giận trong lòng hắn vẫn đang cháy hừng hực. Theo hiểu biết của hắn, huyết tộc vô cùng xem trọng thứ bậc, kẻ đời sau tuyệt đối không bao giờ được phép hỗn xược với bề trên. Vậy mà tên con cháu trước mắt hắn hiện nay lại dám…

Hắn bắt lấy vai Oregon, xoay người đổi tư thế rồi búng chân một cái bay thẳng lên bờ hệt như cá chuồn.

Oregon thừa cơ buông hắn ra và nhảy lùi về sau bảy, tám mét.

Irad vẩy hết nước trên người, lưng hơi cong lại, trợn mắt nhìn cái bóng đen cách đó không xa, “Báo tên của ngươi ra xem, hỡi tên nhóc con kiêu căng ấu trĩ!”

Oregon nhìn chòng chọc vào hắn và nói ra một cái tên: “Ansbach Malkavian.”

“Malkavian?!”

Câu trả lời như chìa khóa của chiếc hộp Pandora, phơi bày hết tất cả những tội ác bên trong chiếc hộp.

Vẻ mặt của Irad ngập tràn những căm hận, ghê tởm cùng với ác độc, còn xấu xí hơn cả ác quỷ từ địa ngục trốn lên. Mặt hắn nhăn nhúm, gân guốc nổi đầy, tròng mắt như muốn lọt ra ngoài, vả lại còn hiện toàn tơ máu.

Oregon ghét cái thị lực cực tốt của huyết tộc, ban đêm mà vẫn nhìn rõ như ban ngày.

“Đồ dân đen hèn hạ, nhơ nhuốc, xảo quyệt! Đồ phản bội! Đồ lừa đảo!”

Cổ họng Irad phát ra tiếng cười khằng khặc quái gở, cả người hơi nghiêng về trước, cũng chính là tư thế chuẩn bị tấn công.

Oregon mở rộng hai tay, ý chí chiến đấu mãnh liệt tuôn trào từ đầu xuống vai anh, tay anh, ngực anh, và cả chân anh.

Chưa bao giờ anh thấy sục sôi khát vọng chiến đấu như lúc này!

Những cảm xúc hỗn loạn trong tim đều biến thành lòng thù địch, mỗi tấc mỗi ly trên người anh đều chìm trong dục vọng muốn xé xác đối phương.

Irad đột nhiên co chân nhào tới.

Trong không trung dường như có cánh tay vô hình nào đó thò ra đâm xuyên vào ngực Oregon để chộp lấy trái tim anh, năm ngón tay còn chầm chậm siết lại.

Giây phút đó, máu trong người anh như đang chảy ngược, mặc cho linh hồn anh có gào thét kêu gọi chiến đấu thế nào thì dòng máu bên trong đã hèn nhát mà vung cờ trắng. Lúc tay đối phương sắp chạm tới mặt mình, Oregon bỗng nhiên biến mất.

Dơi vỗ cánh bay cao.

Tiếng dơi vỗ cánh phành phạch loạn xạ càng tôn lên bầu không khí vắng lặng của hòn đảo này.

Yên tĩnh.

Bặc bặc bặc.

Một lúc sau, tiếng đập cánh tạm ngừng.

Tay chân của anh vẫn đang run khẽ vì bản năng của dòng máu trong người, nhưng đôi mắt lại lạnh như băng.

Trước mặt anh, tên huyết tộc đời thứ hai vừa nhe nanh múa vuốt ban nãy đã nát bấy nằm dưới đất. Những bộ phận trên người hắn nằm rải rác hai bên, để chừa ra một con đường nhỏ ở giữa.

Oregon thẫn thờ đứng im một lúc rồi mới đi đến gần.

Dù hơn ba phút đã trôi qua nhưng anh vẫn không dám tin việc, à không, phải gọi là kỳ tích, mới xảy ra.

Thế nhưng những miếng thịt nát bấy trên mặt đất là chứng cứ tốt nhất.

Irad- Tên huyết tộc đời thứ hai từng bị mười ba huyết tộc đời thứ ba liên thủ đánh bại, mới rồi còn đánh nhau một trận hoành tráng với mình, nhưng vào lúc sắp chiến thắng lại… Banh xác.

Đúng, không có từ nào chính xác hơn “banh xác”.

Anh hồi tưởng hình ảnh Irad đang chạy bỗng nhiên nổ banh xác, bỗng thấy hơi hơi đau đầu. Anh chầm chậm quay trở về bên cỗ quan tài màu trắng, cúi người xuống nhặt cành hoa hồng dưới đất lên.

Đây là hoa hồng anh tặng.

Vốn sẽ không bao giờ tàn.

Nhưng hiện tại…

“Meo.”

Chú mèo đen ướt đẫm bụi tuyết ló đầu ra khỏi đống đất cát, co chân đạp một cái nhảy tót vào lòng Oregon.

Oregon mân mê cổ nó, trên bàn tay trắng nõn gây xanh nổi đầy.

Anh nhắm mắt lại, ấn mèo vào sâu trong lòng.

Mèo đen bất an ngọ nguậy nhưng nhanh chóng bị ghì chặt.

Một lúc thật lâu.

Oregon mới buông nó ra, cúi đầu nhìn vào trán nó và hôn lên miệng của nó: “Hãy tin tôi, tất cả rồi sẽ ổn thôi.”

Mèo đen duỗi chân thư giãn gân cốt. Nó không biết tất cả rồi có ổn không nhưng nó biết ban nãy nó bị ép cho thiếu điều “không ổn”.

Oregon dịu dàng vuốt lại lông cho nó.

Mèo đen lấy đuôi đẩy tay anh ra tỏ vẻ kỳ thị.

Oregon nói: “Tôi rất nhớ em.”

Mèo đen nghiêng đầu liếc anh một cái.

Oregon vuốt ve cổ nó, “Sau này đừng bao giờ rời xa tôi lâu như vậy nữa. Tôi sẽ lo lắm.”

Mèo đen ngáp dài, chẳng buồn ừ hử.

Oregon mỉm cười, “Nghe đồn xích mèo khá hữu ích đấy.”

Mèo đen cào cho anh một cái rồi nhảy khỏi người anh, co giò bỏ chạy.

Oregon thong thả bám theo ngay sau lưng nó.

Bên bờ biển đậu sẵn một con thuyền nhỏ, Macewen đang ngồi trên thuyền, quần áo chỉnh tề phẳng phiu, cả nơ cũng thắt ngay chính giữa không lệch tí nào, trông rất cân đối.

“Hoan nghênh ngài trở về.” Macewen đứng dậy.

Oregon bồng mèo lên thuyền, miết nhẹ vùng giữa trán, ngồi dựa lưng vào ghế nhắm mắt nghỉ ngơi, “Bên ngoài thế nào rồi?”

Macewen đáp: “Ý ngài là thành Bright ấy hở? Sau khi ngài đi, ngài Baal cáu kỉnh hết một thời gian nhưng được ngài Tiểu Minh Vương dỗ dành nên mọi chuyện đã đâu vào đấy. Tất cả huyết tộc tụ tập ở thành Bright đều đã về cả.”

Oregon hỏi: “Kể việc gì tôi đoán không ra ấy có được không?”

Macewen ngẫm nghỉ rồi đáp: “Giáo hội bắt được một ma nữ, chuẩn bị thẩm lý và phán quyết công khai?”

Oregon mở choàng mắt ra, “Ở đâu?”

“Ý.”
Thuyền cập bến ở Nam Phi, sau đó bọn họ từ Johannesburg bay thẳng đến Rome.

Họ đáp xuống ở sân bay Fiumicino vào buổi chiều, lúc mặt trời vẫn còn chói chang.

Vừa ra khỏi sân bay, Oregon và Macewen đã cảm thấy hơi nóng phả thẳng vào mặt.

Oregon hay tay đang bồng mèo đen, đột nhiêu cau mày nói: “Nhiệt độ chênh lệch quá lớn, chúng ta không nên quay về vội như vậy.”

Macewen nhìn anh bằng ánh mắt ngờ vực, “Ngài cảm à?”

Oregon vuốt ve mèo đen trong lòng, “Nó không kịp thay lông.”

Macewen nói: “Đâu có sao, quần áo của nó mới cũ luôn đồng bộ, hoàn toàn không thể nhận ra sự thay đổi.”

Oregon nói: “Mỗi ngày đổi một sợi xích mèo khác nhau đi.”

Lưng mèo ta cong lên, chân sau co lại chuẩn bị phóng đi nhưng bị Oregon ôm chặt.

“Ngoan nào em yêu.” Anh ấn nó vào ngực mình, “Đừng khiêu chiến giới hạn nhẫn nại của tôi.”

Mèo đen lấy vuốt cào anh, bàn tay trắng nõn bị cào trầy mấy vết nhưng vết cào vừa hé miệng đã khép lại ngay, còn nhanh hơn cả tốc độ bốc hơi của cồn.

Khi họ đến nơi đỗ xe, một chiếc Lancia từ phía sau phóng vèo tới dừng trước mặt họ.

Người ngồi ghế lái bước xuống xe, là người quen – Benoit.

“Hi.” Gã đánh tiếng chào hỏi.

Oregon nói: “Tôi không muốn lên xe của hắn.”

Macewen nói: “Chúng ta có thể đứng im ở đây.”

Oregon hỏi: “Sau đó?”

Macewen đáp: “Chiếc xe phía sau sẽ vì chờ lâu bực mình mà chạy thẳng tới ủi vào đít xe của hắn.”

Nụ cười của Benoit sượng ngắc. Gã chột dạ quay lại nhìn chiếc xe phía sau. Người đàn ông trên xe mất kiên nhẫn bấm còi một cái.

“Các vị không muốn biết tin tức mới nhất về ma nữ sao?” Gã quẳng mồi nhử.

Oregon nói: “Quả thật muốn lắm, nhưng lại càng không muốn bị các người đeo bám.”

Benoit lại hỏi: “Lẽ nào chúng ta không phải là đang hợp tác?”

Oregon nói: “Ý cậu là lần các người rõ ràng có chứng cứ hướng về Malkavian nhưng vẫn nằng nặc vu khống tôi? Đúng đấy, đúng là một lần hợp tác đáng nhớ cả đời.”

Benoit đành tung đòn sát thủ: “Lẽ nào ngài không muốn biết tin tức về Ansbach Malkavian chút nào hết à?”

Con ngươi Oregon lóe lên, “Có ý gì?”

Benoit mỉm cười chìa tay ra, “Mời lên xe.”

Chữ “xe” còn chưa tròn âm thì xe của gã đã bị chiếc phía sau ủi mông một cú ra trò.

Benoit: “…”

Lúc Benoit lo giải quyết tranh chấp chuyện xe cộ, Oregon cùng Macewen và mèo đen đứng một bên xem kịch.

Lúc tranh chấp xe cộ thăng cấp thành mâu thuẫn bạo lực, Oregon vẫn cùng Macewen và mèo đen đứng một bên xem kịch.

Đợi mãi đến khi mọi chuyện giải quyết đâu vào đấy thì trời cũng chập tối.

Oregon dẫn Macewen và mèo đen đi ăn uống no say quay về, còn Benoit đang đói tới lép cả bụng. Anh tỏ vẻ tiếc nuối bảo với Benoit: “Bỗng dưng tôi hết muốn biết tin về Ansbach nữa rồi.”

Benoit: “…”

Cuối cùng, sau khi Benoit dùng hết mọi biện pháp cứng mềm đủ cả, Oregon hết cách đành leo lên xe.

Sợ anh đổi ý, Benoit lên xe một cái là khóa cửa ngay.

“Tìm nhà hàng.” Oregon gõ vào lưng ghế lái.

Benoit nhìn anh qua kính chiếu hậu, “Tôi trông giống tài xế taxi lắm à?”

Oregon nói: “Không, chưa đủ chuyên nghiệp. Chúng tôi chẳng qua chỉ đang đi nhờ xe thôi.”

Benoit nói: “Vậy tôi nhất định là người hào phóng nhất trên đời, không chỉ chở ngài đi miễn phí tới nhà hàng La Pergola được đánh giá ba sao Michelin, đặt sẵn hai căn phòng hướng ra hồ ở khách sạn Waldorf Astoria cho ngài, mà còn phải còng lưng gánh hết chi phí.”

Oregon nói: “Tôi từng nghe phòng hướng ra sông, phòng hướng ra biển, phòng hướng ra núi, nhưng đây là lần đầu tiên nghe có phòng hướng ra hồ đấy.”

Macewen giải thích cho anh: “Tức là phòng nhìn thấy hồ bơi ấy.”

Oregon cảm thấy hứng thú: “Chu choa, có nhìn thấy tiệc bikini không?”

Macewen đáp: “Có thể nhìn thấy hồ bơi tuyệt đẹp.”

Oregon: “…”

Benoit rất đắc ý với sự sắp xếp của mình, “Khỏi cảm ơn.”

Oregon nói: “Tôi thấy cậu vẫn chưa đạt chuẩn ‘người hào phóng nhất trên đời’ đâu.”

Benoit nói: “Bao ăn sáng, bao phí thuê ghế trong hồ bơi luôn.”

Oregon: “Bao trọn túi không?”

Benoit: “Hả?”

Macewen nói: “Ông chủ của tôi muốn mua túi xách.”

Benoit: “…”

Mua túi xách gì nữa hả trời?!

Tranh thủ lúc đèn đỏ, Benoit gửi tin nhắn cho cấp trên: Mua túi xách cho Oregon có được thanh toán lại không?

Đêm lạnh lẽo, phong cảnh đẹp như tranh vẽ.

Oregon ngồi bên cửa sổ, bên cạnh đặt một chiếc túi gắn mác LV.

Trên bàn bày sẵn hai đĩa món chính, Benoit cầm dao và nĩa, cố gắng không để mắt mình nhìn về phía cái túi LV. Trong túi có một con mèo đen đang thò đầu ra, nhìn chằm chằm vào bàn ăn bằng cặp mắt sáng rỡ.

Oregon ghim một miếng sò đưa tới miệng mèo.

Mèo đen nhanh chóng cắn ngay vào miệng, nhai nhồm nhoàm hai ba lần rồi nuốt, nuốt xong còn thè lưỡi liếm lên cây nĩa.

Oregon mỉm cười, dùng cây nĩa đó ghim sò nướng cho vào miệng.

Benoit che mắt lại.

Oregon thuận miệng hỏi: “Không ngon à?”

Benoit nhấp ngụm rượu đỏ thấm giọng, “Mùi vị thế nào?”

Orgeon đặt tay lên đáy ly rượu, khẽ đung đưa ly, cười bảo: “Thật sự hy vọng chất lỏng bên trong chảy ra từ mạch máu của cậu.”

Giờ cả rượu Benoit cũng hết muốn uống.

Khó khăn lắm mới ăn xong bữa cơm, bọn họ bước vào chiếc xe Macewen mới thuê.

“Sao không ngồi xe tôi?” Benoit cầm dây an toàn mà không biết nên cột để đảm bảo an toàn, hay nên khỏi cột để chạy cho dễ.

Macewen nói: “Vì tôi không thích phải ngồi trong một chiếc xe được điều khiển bằng điện thoại di động?”

“Hả?”

“Không phải à? Chắc vì khi lái xe ngài đây cứ đăm đăm nhìn điện thoại nên tôi hiểu lầm.” Macewen ngừng lại một chút mới nói tiếp: “Tôi cứ tưởng ‘Need for Speed’ (app đua xe trên điện thoại) đã phát triển đến trình độ điều khiển được cả xe thật.”

Benoit: “…”

Macewen hỏi: “Giờ đi đâu?”

Sau tòa giáo đường trang nghiêm là một con đường quán bar, giải bóng đá vô địch Ý vừa tạm dừng, cả con đường có phần vắng lặng.

Benoit đẩy cửa bước vào một quán bar vắng người, những người trong bar nghe tiếng mở cửa thì quay lại nhìn một cái rồi thôi.

Oregon xách túi LV trong tay, ánh mắt nhìn lướt qua quầy pha chế rồi lẩm bẩm: “Tôi ngửi thấy mùi hôi thối của nước thánh.”

Benoit dẫn anh băng qua sảnh tới hậu trường, vào một căn phòng nhỏ rộng khoảng mười mét vuông, cửa sổ trong phòng đều đóng kín, không khí hơi ngột ngạt.

Trong phòng có một ông lão đang yên tĩnh ngồi viết lách, nghe thấy tiếng động thì hơi ngước lên rồi lại cúi xuống, “Đến rồi à, mời ngồi một lát, để tôi viết xong bản báo cáo này đã.”

Oregon chọn một cái ghế rồi ngồi xuống, lấy tay dịu dàng vuốt ve chú mèo, Benoit và Macewen bị bỏ ngoài cửa, trong phòng chỉ còn lại tiếng soạt soạt của đầu bút sắc bén lướt nhanh trên giấy.

“Còn nhớ tôi không? Derek Thompson.” Ông ta gác bút lại, gấp giấy nhét vào phong thư, chống gậy đứng lên bật quạt máy trên tường.

Quạt chạy phát ra tiếng vù vù.

Oregon phủi ngón tay một cái, chiếc quạt lập tức xoay sang thổi ào ào vào đầu Derek, “Tôi nhớ cây gậy của ông.”

Derek vuốt sơ mái tóc bù xù, rướn người tắt quạt đi, “Ngại quá, tôi quên mất máu của ngài vốn lạnh như băng. Muốn uống gì không?”

Oregon mân mê môi, khẽ nhếch miệng để lộ nửa cái răng nanh, “Ông biết tôi thích uống gì mà.”

Derek lấy ra hai chiếc bình, “Bia và nước thánh.”

Oregon búng tay một cái, hai chiếc bình đồng thời ngã xuống, Derek vươn tay đỡ được bình nước thánh, còn chai bia trước một giây tiếp đất bỗng nhiên nảy lên rồi rơi vào tay Oregon.

Anh mở nắp chai ra ngửi thử, “Có pha nước thánh?”

Derek đáp: “Biết ngay là không lừa được cái mũi của ngài mà.”

Oregon hớp một ngụm, sau đó lắc đầu bảo: “Khó uống thế.”

Derek nhìn anh với vẻ mặt phức tạp, “Nước thánh cũng mất hiệu lực với các người rồi sao?”

Oregon đung đưa chai bia, “Giáo hội định sẽ đối phó với huyết tộc à? Đang lúc phải bắt ma nữ và tuyên chiến với địa ngục? Đúng là quyết định táo bạo, tôi rất kỳ vọng.”

Derek nói: “Không. Tôi chỉ muốn xác minh xem nước thánh chỉ mất hiệu lực với ma nữ hay nước thánh đã mất hẳn hiệu lực.”

Oregon đặt bia lên bàn, “Nước thánh của giáo hội vẫn pha theo công thức ba mươi phần trăm nước suối thánh, bảy mươi phần trăm nước cất đúng không?”

Mắt Derek giật giật, “Trong bia pha chưa tới một phần trăm nước thánh, đây là thí nghiệm nhỏ… Ngài thật sự chẳng có chút cảm giác gì sao?”

Các ngón tay của Oregon xòe ra rồi lại hợp lại, “Cả người tràn trề năng lượng, sung sức vô cùng. Lúc về cho tôi thêm mấy chai được không?”

Derek nửa tin nửa ngờ.

“Tức là,” Ngón tay Oregon gõ nhịp lên ghế, “các người rốt cuộc muốn mở quán rượu hay hộp đêm? Nếu là hộp đêm, tôi có thể giới thiệu cho vài vị khách. Tôi tin các vị ấy sẽ rất vui vẻ vì được ma nữ phục vụ.”

Derek nói: “Nếu giao ma nữ cho các vị…”

“Không có cửa đâu.” Oregon từ chối thẳng thừng không chịu nhận mối họa tày trời kia.

Derek nói: “Ả miễn dịch với nước thánh, chúng tôi không có cách nào xử lý ả.”

Oregon nhếch miệng cười giễu, “Vậy nên ông định nói với tôi rằng, thủ đoạn khi đối phó với ma nữ của giáo hội là chỉ tắm rửa cho ả? Lúc thánh chiến các người đâu có như thế. Dùng cọc gỗ bọc bạc đâm xuyên vào ngực các huyết tộc nữ, dụ các cô ấy ăn bạc bọc trong kẹo… Còn gì nữa nhỉ, để tôi nhớ lại xem.”

Derek nói: “Nhưng ả là ma nữ.”

Oregon đứng dậy, nện chai bia lên bàn chỗ gần tay Derek, “Vậy thì cứ dùng kiếm quang minh có tẩm nước thánh đâm vào ngực ả.”

“Không phải vậy…”

“Thế thì là thế nào? Đá quả bóng ma nữ cho huyết tộc, dụ cho huyết tộc gây chiến với địa ngục, để nhân loại ngồi không hưởng lợi?”

“Không.” Derek nhìn chai bia, chần chừ một lúc rồi mới nói: “Hiện giờ chúng ta đang hợp tác với nhau đúng không? Tôi có thể tin tưởng ngài, đúng không?”

Oregon không khẳng định cũng chả phủ định, “Nguy cơ của huyết tộc đã được giải quyết, thông đạo của huyết tộc đã đóng lại. Ông muốn vu khống tôi giết Benson thì cứ vu khống, tôi chẳng có gì phải sợ.”

Derek một tay cầm gậy, một tay chống bàn đứng lên, dáng vẻ lảo đảo đáng thương đủ khiến bất cứ người nào kính già yêu trẻ cũng phải động lòng trắc ẩn.

Thế nhưng, Oregon không phải là người.

Anh tỏ vẻ mất kiên nhẫn ngoắc tay với mèo đen, mèo ta vênh váo vẫy đuôi chạy tới bên chân anh, để mặc cho anh bồng lên.

Thấy Oregon xoay lưng chuẩn bị ra ngoài, Derek chỉ đành tự cắt đất diễn của mình, “E hèm. Lúc ma nữ đến nhân giới, tòa thánh trung ương đã nhận được tin.”

Oregon nheo mắt đầy vẻ nguy hiểm.

Derek nói: “Chuyện này không thể trách chúng tôi, chúng tôi không hề biết chúng muốn làm gì. Cũng như khi ngài vừa đến Pháp, chúng tôi cũng chỉ quan sát từ xa chứ không hề can thiệp.”

Oregon nói: “Sau đó các người biết chuyện.”

Derek đáp: “Đúng, khoảng thời gian ấy chúng tôi vẫn luôn đợi các vị liên hệ với chúng tôi – Đây dù sao cũng là chuyện giữa huyết tộc và địa ngục, nếu không có đầy đủ lý do, chúng tôi không có quyền can thiệp. Nhưng mà các vị không làm như vậy.”

Orgeon nhún vai nói: “Tôi sẽ nhớ cho kỹ, lần sau nếu gặp nguy hiểm là phải báo ngay với giáo hội.”

“Mãi đến khi Benson gặp nạn, tại hiện trường tìm được đồng hồ của Malkavian, chúng tôi mới có đủ lý do để liên hệ với ngài.” Derek nói: “Ở đây là nhân giới, nếu đem ả ma nữ xông nhầm vào nhân giới so với các vị, chúng tôi tin tưởng những người láng giềng lâu năm hơn chứ. Chắc ngài cũng cảm nhận được sau khi chúng ta đạt thành hiệp nghị, chúng tôi đã hết lòng giúp đỡ các vị.”

“So ra thì chuyện càng khiến tôi hiếu kỳ chính là rốt cuộc các người làm sao biết được thân phận của tôi.” Ngay cả Winston cùng là huyết tộc với nhau mà còn không biết tin tức về anh, vậy mà giáo hội lại rõ như lòng bàn tay. Chuyện này khó tránh khiến anh sinh lòng cảnh giác.

Derek nói: “Bởi vì có người từng gặp các vị.”

“Bọn tôi?”

“Ngài và Ansbach Malkavian.”

“Tên nhân loại đó còn sống?”

“Qua đời rồi, nhưng ông ấy để lại tranh cho chúng tôi.”

Oregon trầm ngâm: “Trong lúc thánh chiến à?”

Derek đáp: “Tôi đã kể toàn bộ những chuyện tôi biết cho ngài hay, xin cho phép tôi một lần nữa chân thành mời ngài hợp tác.”

Oregon hỏi: “Hợp tác cái gì? Xử lý ma nữ à? Lilith đã đến giới huyết tộc, nguy cơ của huyết tộc của không còn. Tôi quả thật không nghĩ ra còn lý do gì để mình phải dây vào nhiều phiền phức hơn nữa.”

Derek hỏi: “Ngài không muốn biết chúng tôi gặp được ma nữ ở đâu sao?”

“Không.”

“Strait of Magellan. Lúc đó ả đang đi về hướng Nam Cực.”

Oregon cúi đầu nhìn mèo đen, cười nói một cách thờ ơ: “Xem ra ả không sợ bị đông thành que kem rồi.”

Derek nói: “Nể tình tôi đã cung cấp bao nhiêu tin tức như vậy, ít nhất xin hãy cho tôi biết tại sao ma nữ lại xuất hiện ở Nam Cực đi.”

Oregon nói: “Nếu tôi là ông, tôi thà dùng xẻng cạy cái miệng anh đào chúm chím của ả cho banh ra, còn hơn là phí thời gian với tôi.” Dứt lời, anh xoay lưng đi về phía cửa.

Derek vẫn cố cù cưa: “Oregon, ngài sẽ hối hận vì đã bỏ qua cơ hội hợp tác với giáo hội.”

Mèo đen kêu lên một tiếng.

Bàn tay đã đặt lên của Oregon khựng lại, “Cho tôi một ít thời gian để cân nhắc.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 4: Hợp tác

Rốt cuộc là đồng minh của ai..?

Trong quán bar, Macewen đang ngồi thẳng đơ ở đó, còn Benoit thì cúi đầu uống rượu. Lúc Oregon vừa bước ra, cả hai lập tức đứng dậy, cùng nhau thở phào vì cuối cùng cũng thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt giữa hai người.

Oregon cởi áo vest bọc mèo lại, nâng hai tay giao cho Macewen, “Chăm sóc cho nó thật tử tế, không được chạm vào người nó.”

Macewen cẩn thận túm lấy chỗ thòng xuống của áo vest.

Mèo đen vươn vuốt toan chui ra khỏi áo vest nhưng bị Oregon lấy một ngón tay đẩy về, “Ngoan ngoãn chờ trong phòng không được chạy lung tung, chớ quên có một món ăn gọi là ‘Mèo quay kiểu Ý’.”

Benoit bị bơ đi nãy giờ nghe vậy bèn không nhịn được phải mở lời bào chữa cho nước hàng xóm: “Nghe nói đó là khi chiến tranh, vì đói quá…”

Oregon ngắt lời gã, “Có nhiều người đến lúc sải tay vung quyền mới phát hiện mình đã bị lôi vào chiến tranh, có người chỉ cần ăn rau cải hai lần đã cảm thấy mình là nạn dân châu Phi, còn có người cầm sách dạy nấu ăn mà cứ tưởng cả thế giới đều đang quỳ mọp chờ đợi món ăn của mình. Cậu cứ tưởng trên đời đã đủ chuyện lạ, nhưng chuyện lạ trên đời còn nhiều hơn cậu tưởng tượng.”

Benoit cố gắng ngẫm nghĩ đoạn đối thoại này nhưng cuối cùng vẫn kìm lòng không đặng quay sang hỏi Macewen: “Tức là sao?”

Macewen ôm mèo, mèo ta giờ đã ngoan ngoãn hơn nhiều, “Nó hiểu là được rồi.”

Benoit: “…”

Hai người ra ngoài, Macewen ôm mèo lên xe, Benoit bị đẩy vào ghế lái, Oregon vẫy tay chào bọn họ.

“Ngài không đi với chúng tôi à?” Benoit thò đầu ra khỏi xe quay hỏi, “Buổi tối ở Ý nguy hiểm lắm, ở đây có mafia đấy.”

Oregon nói: “Ở đây là Sicily.”

“Tụi đó có mang giày mà.” Tức là biết di chuyển chứ bộ.

“Tôi mang theo răng.” Tức là biết cắn.

Nói chuyện với huyết tộc đúng là vô bổ!

Nếu không phải là không thèm nói gì, thì cũng là khiến người khác không biết nói gì.

Benoit rụt đầu vào và nổ máy xe.

Giáo đường phong cách Gothic.

Thánh giá chễm chệ trên đỉnh tháp hòa mình vào bóng đêm. Trước giáo đường có thắp một ngọn đèn dầu từ thế kỷ xa xưa nào đó, bị gió lướt qua trêu chọc thì khẽ run lên, ánh sáng đung đưa làm nhòa đi bóng người đang đi tới.

Oregon đi đến trước cửa giáo đường, vươn tay đẩy cửa ra, bóng anh trải dài lên đất hướng về phía trước.

Ngay trước mắt anh là một cây thánh giá vĩ đại thẳng tắp, phía trên thánh giá còn tỏa ra ánh sáng dịu mắt màu vàng kim. Giữa ánh hào quang dường như thấp thoáng một bóng người tròn trịa, nhưng nhìn kỹ lại như chẳng có gì cả.

Oregon thong thả cất bước đi về phía hàng ghế trên cùng trong giáo đường rồi ngồi xuống dãy ghế bên trái.

Chiếc piano đặt bên phía phải tự động phát ra giai điệu du dương.

Oregon thong thả xắn tay áo lên.

Những phím đàn tự chơi bỗng ngừng lại, trong làn hào quang của thánh giá bất chợt vang lên một giọng nói hiền hòa: “Không cần đau thương, không cần phiền não, thần luôn lắng nghe tất cả mọi phiền não trên thế gian, kể cả của con. Những phiền não của con trong tương lai nhất định sẽ tan thành mây khói.”

Oregon chẳng ừ hử.

“Những gì con đang làm đều được thần chú ý, được thần khen ngợi. Nỗ lực của con không hề thừa thãi, cũng chẳng hề uổng phí. Con đang chuộc tội cho bản thân mình, đồng thời mở ra một cuộc sống mới.”

Oregon đưa tay lên day trán, “Ta nhận thua. Chỉ hy vọng ngươi hãy tranh thủ thời gian nói vào chuyện chính giùm cái.”

“Nếu ngươi thích phong cách ấy ta cũng có thể phối hợp.” Bóng người như ẩn như hiện giữa ánh hào quang, “Lần này ta tìm ngươi vì hai việc. Thứ nhất là cảm ơn ngươi vì chịu phối hợp trong hành động của Lilith. Thứ nhì là hy vọng ngươi ra tay giúp đỡ thêm một lần nữa, cứu ma nữ thoát khỏi tay giáo hội và trả về địa ngục.”

Oregon nói: “Không có chuyện làm không công đâu.”

“Đương nhiên, ta từng bảo, những việc ngươi làm thần đều chứng kiến…”

“Ta không quan tâm.” Oregon mất kiên nhẫn ngắt lời người đó, “Sau khi trở thành huyết tộc, ta chỉ nhìn thấy thánh giá thẳng trong nước mà thôi.”

“Thánh giá ngươi đang nhìn thấy bây giờ là thẳng.”

“Chẳng khác với thánh giá ngược là bao.”

“Khác lắm chứ. Ngươi không cảm thấy sau khi bị đảo ngược, phần ngang sẽ thấp xuống cứ như quần bị tuột vậy.”

“Quan trọng nhất chính là…”

Oregon ngắt lời: “Giữa chúng ta chỉ có quan hệ lợi ích.” Anh từ chối hợp tác với giáo hội không phải vì những thù oán xưa cũ, mà là vì giáo hội chưa đưa ra được lợi ích đủ sức thuyết phục.

An toàn? An bình? An tâm?

Ngoài giáo hội ai buồn để ý chứ.

Bóng người trong hào quang nói một cách bất mãn: “Tùy tiện cắt ngang bài phát biểu của người khác không phải là thói quen tốt.”

“Dù có sinh mạng vô hạn, ta cũng không muốn lãng phí thời gian vào những lời lải nhải vô bổ.”

“Lải, lải nhải?” Bóng người trong hào quang bị tổn thương nặng nề, “Nếu ngươi có biết giáo hoàng mong chờ được nghe những lời ‘lải nhải’ của ta đến nhường nào thì ngươi sẽ xấu hổ chết mất đấy.”

Oregon nói: “Đây chính là nguyên nhân dẫn đến thánh chiến giữa giáo hội và huyết tộc – Gout thẩm mỹ cực kỳ tương phản.”

Bóng người trong hào quang im lặng một lúc rồi mới nói: “Ngươi cảm thấy ta lải nhải thật ấy hả?”

Oregon nói: “Với mấy tên ta ghét, ta chưa bao giờ phải nói dối.”

“Nhưng mà ta làm y theo phong cách của ngài Raphael đó! Lần nào ngài Raphael cũng được hoan nghênh nhiệt liệt, dụ… E hèm, thuyết phục được rất nhiều tín đồ! Kẻ sùng bái ngài ấy rải khắp các giới!”

“Ngài ấy có ra mặt không?”

“Đương nhiên! Ngài ấy là thiên sứ trưởng của tầng lớp nhân dân! Hình bóng cao quý thiêng liêng của ngài có mặt ở khắp mọi nơi!”

“Con người có một từ, gọi là điểm nhan sắc.”

Bóng người trong hào quang chợt tỏ vẻ thẹn thùng, “Ngươi, ngươi muốn gặp mặt ta?”

“Không.” Oregon chợt nhận ra suy nghĩ của mình vừa bị làm chệch hướng, anh bèn xoa thái dương và nói: “Ta muốn tiếp tục bàn chuyện quan hệ lợi ích với ngươi.”

“À. Ta biết ngươi muốn hỏi tội.”

Oregon u ám nói: “Từng có tên nói với ta, vùng đất phong ấn là nơi an toàn nhất, còn an toàn hơn cả giới thứ mười, tuyệt đối không có tí rủi ro nào, không ai có thể vào trong, cũng không ai có thể chạy ra.”

“Thật ra nói xong câu đó chưa được bao lâu là ta hối hận rồi, vì ta sực nhớ, sau khi ngươi đưa y vào trong, là ta giúp ngươi chạy ra ngoài.”

“Nhưng ngươi yên tâm, y vẫn luôn nằm trong tầm giám sát của ta, chẳng bao lâu sẽ lại nằm xuống thôi.”

“Ba ngày, ta cho ngươi thời gian ba ngày.”

“Được. Dù những tên chạy thoát khỏi vùng đất phong ấn đang uy hiếp sự an toàn của nhân loại nhưng ta có thể ưu tiên giải quyết vấn đề của ngươi trước, để ngươi yên tâm làm việc. Hy vọng ngươi nhanh chóng cứu thoát ma nữ và tống ả về địa ngục.”

“Cách cứu ả nhanh nhất chính là báo mộng cho giáo hoàng.”

“Ngươi tưởng ta chưa thử chắc? Ta báo gần cả tuần rồi đấy! Bị mắc kẹt ở giai đoạn hỏi ta là ai mỗi lần gặp mặt. Khó khăn lắm mới kiểm chứng xong thân phận, lại bắt đầu liên tục hỏi sau khi hắn lên thiên đường có biến thành thiên sứ được không? Có mấy cái cánh? Phụ trách chuyện gì? Ngài Gabriel là nam hay nữ? Ngài Raphael có phải là thầm yêu ngài Michael không?”

Tai Oregon hơi vểnh lên, “Raphael thầm yêu Michael?”

Bóng người trong hào quang kích động thốt lên: “Đương nhiên không phải! Tuyệt đối không phải! Ngài Raphael vĩ đại tuyệt đối không thể thuộc về riêng bất cứ ai, nhất định phải để mọi người cùng chia sẻ!”

Oregon: “…” Anh không khỏi cảm thấy thông cảm cho vị thiên sứ trưởng phụ trách tầng lớp nhân dân này.

“Xin lỗi, ta hơi kích động, ý ta là ngài Raphael đã dâng hiến bản thân cho sự nghiệp biến thế giới trở nên tươi đẹp, trên cơ bản không có thời gian yêu đương.”

Tức là, Raphael chính là FA vạn năm trên thiên đường?

Oregon cảm giác như đang đến gần một bí mật nào đó.

Bóng người trong hào quang mất một lúc lâu để kìm chế cơn xúc động của mình rồi mới nói: “Chuyện vùng đất phong ấn ta sẽ xử lý, nội trong ba ngày chắc chắn sẽ cho ngươi một câu trả lời thuyết phục. Chuyện ma nữ người làm ơn lo giùm.”

“Đừng quên nội dung cuộc giao dịch của chúng ta, ta thật sự mong chuyện vùng đất phong ấn được giải quyết triệt để chứ không phải trị ngọn không trị gốc.” Mặt Oregon tuy vô cảm nhưng nắm tay đang siết lại cũng đủ thấy trong lòng anh tràn ngập những bất an.

Anh không muốn đối phương nhận ra sự lo lắng của mình để tránh bị dắt mũi, dù giờ đây đã bị dắt mũi rồi nhưng vẫn cố gắng kìm chế cảm xúc, đóng kịch để che đậy.

“Sinh mạng của huyết tộc rất ngoan cường, đặc biệt là đời thứ tư…” Dường như đối phương đã bị lớp ngụy trang của anh lừa gạt, không hề phát hiện ra chuyện gì khác thường, “Nhưng ta đã từng đồng ý với ngươi, vì vậy ta nhất định sẽ tìm cách.”

Oregon bình tĩnh nhìn người đó, một lúc sau mới nói: “Nhắc tới sinh mạng ngoan cường mới nói, ta gặp phải đời thứ hai ở vùng đất phong ấn.”

“Huyết tộc đời thứ hai? Vương Tiểu Minh?”

“Là Irad.”

“Ủa? Chẳng phải huyết tộc đời thứ hai đều bị huyết tộc đời thứ ba giết sạch rồi sao?”

“Không hẳn.” Nhưng người còn lại tuyệt đối không phải Irad, “Ta dám chắc không phải ta già mà hoa mắt, cũng không mắc bệnh hoang tưởng. Bên trong cơ thể của hắn đúng là máu của huyết tộc đời thứ hai.”

“…Ta sẽ điều tra rõ.”

Lúc Oregon quay về khách sạn, mèo đen đã say giấc nồng, hoặc cũng có thể đang giả ngủ.

Anh ôm lấy nó đi vào phòng tắm rồi cùng nhau tắm rửa.

Mèo đen khó chịu né tránh vài lần nhưng không phản kháng được, vì vậy cứ để mặc cho anh tắm táp và sấy khô.

Quậy một hồi là tỉnh ngủ hẳn.

Oregon thay quần áo rồi ôm nó nhảy xuống lầu, chạy như bay trong màn đêm ở Rome. Gió lướt qua người họ vù vù.

Anh đứng trong đấu trường La Mã, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đen thẳm mà thì thào: “Tôi từng đứng ở nơi này, từng tham gia quyết đấu, đối thủ là một tên đô con cao hai mét, tất cả khán giả có mặt đều hoan hô ủng hộ hắn. Tôi đứng đối diện với hắn chẳng khác nào thằng hề để làm nền cho sự oai phong của hắn.”

“Đương nhiên, cuối cùng tôi chiến thắng.”

“Một quyền đánh ngã hắn, cũng là đập tan giấc mộng của cả toàn bộ đấu trường.”

“Máu trong người tôi sôi trào, tôi rống lên hệt như một con thú hoang dã. Tôi không quên được cái cảm giác ấy, trong suốt thời gian dài, tôi không ngừng theo đuổi cảm giác ấy.”

“Nhưng niềm vui chỉ là trong nhất thời. Sau cơn hưng phấn tột độ chính là trống rỗng vô bờ.”

“Tôi rất sợ mình sẽ giẫm lên vết xe đổ đó.”

Hôm sau, Oregon chủ động gọi điện cho Benoit.

Benoit bị ngược đãi đã quen, giờ thấy anh chủ động thì hết hồn, nhanh chóng xuất hiện trước cửa phòng anh đứng chờ.

Oregon bồng mèo đi ra.

Mèo đen vùi đầu trong lòng anh, chỉ để lộ mỗi cặp mông tròn vo mướt rượt. Trên cổ của nó đeo sợi xích mèo màu hồng, trên xích còn treo một chú mèo nhỏ đáng yêu.

Benoit bảo với nó: “Chào buổi sáng, công chúa nhỏ!”

Oregon nói: “Là hoàng tử.”

Benoit theo bản năng nhìn về phía bụng của nó, để rồi bị Oregon hung hăng trừng mắt một cái.

Oregon hỏi: “Chừng nào tôi có thể gặp ma nữ?”

Benoit hỏi ngược lại: “Lúc nào cũng được, ngài định xử lý ả thế nào?”

Oregon chớp mắt đầy thâm ý, “Để ả sống ở nơi con người không tìm thấy.”

Benoit hiểu ý mỉm cười.

Nơi giam giữ ma nữ là một cái hầm ngầm ngay bên dưới giáo đường trong vùng ngoại thành. Ở góc phòng bày đầy đồ, không biết vốn có sẵn ở đó hay cố ý thêm vào để che đậy.

Ma nữ bị trói trên thánh giá, tay giang ra, chân khép lại, đầu gục xuống như đang ngủ mê man.

Derek nhìn thẳng vào thánh giá, “Bọn tôi dùng rất nhiều thuốc an thần.”

Oregon có chút ngạc nhiên, “Ý ông là, nước thánh thì mất tác dụng, nhưng thuốc an thần lại hiệu quả?”

Derek đáp: “Để tránh trường hợp nước thánh gây ra tổn thương không thể chữa trị cho ả, chúng tôi đã giảm liều xuống.”

“Nói xem lý do gì khiến các người lại chịu nhận vấn đề nan giải này về phía mình vậy?” Anh không thể xem như đồng bọn của họ, đương nhiên chả buồn quan tâm động cơ của họ là gì, nhưng hiện tại bị lôi xuống nước chung, giày đã ướt, quần cũng khó thoát nạn nên tìm hiểu kỹ ngọn ngành là chuyện tất yếu.

Derek nói: “Chúng tôi là đồng minh của huyết tộc, kẻ thù của đồng minh chính là kẻ thù của mình.”

Oregon nói: “Mặt mũi của ông trông đã có tuổi lắm rồi, đừng có mà xụ miệng xuống nói mấy lời muốn ói đó, khiến người ta nổi hết da gà da vịt như mời bộ xương nhảy samba vậy.”

Derek để ngoài tai mấy lời châm chọc của anh, “Câu nào cũng là lời thật lòng.”

“Thành thật với chính mình một tí đi. Ma nữ gióng trống khua chiêng đến nhân giới, khiến các người cảm thấy bị uy hiếp. Các người lo lắng ả đối phó xong huyết tộc sẽ tới lượt các người, vì vậy nên mới nhiệt tình giựt dây bọn tôi… Được rồi, đừng cau mày, là ‘phối hợp’ với bọn tôi để xử lý chúng. Ngoài thành Bright, Lilith được mời đến huyết tộc, gút mắt giữa ma nữ và huyết tộc bị cắt đứt triệt để. Nhưng không ngờ ở Strait of Magellan vẫn còn một con cá lọt lưới. Để tránh cho ả chạy lung tung đe dọa hòa bình của nhân giới, các người bèn bắt ả lại, nói văn hoa là tặng cho bọn tôi, thật ra là muốn bọn tôi giải quyết mối họa này cho nhân giới. Nếu bọn tôi ngu ngốc còn sẽ biết ơn các người vô cùng!”

Derek nói: “Chả ai thích có kẻ nhập cư bất hợp pháp cả, nếu chúng ta hợp tác mà có thể giữ gìn an ninh trật tự nơi sống thì vì sao lại không làm?”

Oregon đáp: “Tôi rất ghét việc các người cứ đưa ra chủ trương rồi lừa bọn tôi như một lũ ngốc.”

Derek nói: “Tôi đề nghị đàm phán công bằng, nhưng ngài từ chối.”

Nói đến nước này thì có cãi nữa cũng chẳng được gì.

Oregon đi đến trước mặt ma nữ, bảo Benoit nhấc cằm ả lên.

Dưới mái tóc thưa thớt sáng bóng là một gương mặt quen thuộc.

“Nếu tôi không chịu nhận, các người định xử lý ả thế nào?” Anh hỏi.

Derek đáp: “Vẫn chưa thống nhất được kết luận… Tôi nói thật.”

“Tôi không hoài nghi. Cả thế giới thống nhất xong rồi giáo hội chắc chắn vẫn còn mâu thuẫn.” Oregon nói: “Tháo ả xuống giao cho Macewen.”

Derek hỏi: “Ngài chuẩn bị xử lý ả thế nào?”

“Bán cho tiệm thịt heo đại loại.” Oregon sực nhớ ra chuyện gì, anh dừng bước, nghiêm túc nhìn Derek, “Ông có biết… vùng đất phong ấn không?”

Derek hỏi ngược lại: “Là vùng cấm của huyết tộc à?”

Nhìn vào mắt ông, Oregon chỉ thấy sự mờ mịt, đúng là không mảy may hay biết gì cả, Oregon thôi không ngờ vực nữa.

Xem ra chuyện vùng đất phong ấn không dính líu gì tới giáo hội?

Strait of Magallen quá gần Nam Cực, vị trí hết sức nhạy cảm. Giáo hội và ma nữ cùng xuất hiện ở đây khiến người khác khó tránh liên tưởng. Nếu giáo hội vô tội, vậy kẻ hóa giải phong ấn có lẽ là cô ả ma nữ Yvonne xuất hiện vào lúc không nên xuất hiện ở đấy.

Oregon bước ra khỏi hầm ngầm đi băng qua giáo đường, Derek bất thình lình lên tiếng: “Ngài không thấy phản cảm với giáo đường chứ?”

“Ông đang ám chỉ tôi nên phá hủy nó rồi mới đi à?”

“Tôi cứ tưởng huyết tộc luôn sợ hãi né tránh giáo đường còn không kịp ấy chứ.”

Oregon suy nghĩ một chút rồi khẽ thở dài, “Có lẽ bởi một trong bảy mối tội đầu.”

“Tội nào?” Derek vô cùng tò mò.

Oregon đi đến trước cửa.

Macewen đã ra trước anh, nhét Yvonne vào cốp xe sẵn và mở cửa mời anh lên xe.

“Đố kỵ.” Tiếng nói khẽ đến nỗi như không phải phát ra từ miệng Oregon.

Derek nhìn anh bằng ánh mắt ngạc nhiên.

Oregon lên xe, hạ cửa sổ xuống và nói: “Chắc chúng ta không gặp nhau nữa đâu nhỉ?”

Derek nói: “Tôi cho rằng giáo hội và huyết tộc nên có quan hệ hợp tác lâu dài.”

Oregon đáp: “Ban nãy ông nói đúng lắm, tôi luôn e sợ không dám đến gần giáo hội. Mỗi lần gặp ông đều như một cơn ác mộng, tôi không muốn phải hồi tưởng lại chút nào.”

Như vừa nắm bắt được cơ hội, Derek vội bày tỏ nghi vẫn ấp ủ trong lòng đã lâu: “Nhưng tối hôm kia ngài đơn độc ghé vào một giáo đường ở Rome.”

Oregon nói: “Tôi làm thí nghiệm ấy mà, cuối cùng cũng chứng minh được dù không có mấy người chao qua liệng lại trong đó, nó vẫn là một căn phòng ghê tởm.”

Derek: “…”

Xe phóng đi cái vèo, nhanh chóng biến mất khỏi tầm mắt của họ, chứng tỏ lời của Oregon vừa nói không ngoa chút nào.

Benoit đứng sau lưng Derek, gã vẫn chưa hoàn hồn, “Xong rồi?”

Ma nữ cứ thế mà rời khỏi nhân giới?

Huyết tộc cứ thế mà buông tha cho ma nữ?

Nhân giới cứ thế mà hòa bình rồi?

Sao gã cứ thấy ảo ảo sao nhỉ?

Derek nói: “Vẫn còn một việc”

“Việc gì?”

Derek đáp: “Theo dõi tín hiệu trên người ma nữ xem hắn tính đưa ả đi đâu.”

Yvonne dần dần tỉnh lại, ả phát hiện mình đang bị trói trên thánh giá, hai tay giang ngang. Nửa trên của cây thánh giá này dài hơn nửa dưới đáng kể. Bên dưới của thánh giá là đầm nước trong veo, không đoán được sâu nông thế nào.

Tóc ả bị chia thành bốn lọn buộc vào dây thừng, cả bốn đầu dây đều đang nằm trong tay một người. Người đó ngồi trên cành và dựa lưng vào thân cây trông rất ung dung tao nhã.

“Lại là ngươi! Ngươi có biết ta là ai không?” Ả giận dữ rống lên: “Ta là…”

“Yvonne.” Oregon mỉm cười tiếp lời.

Yvonne nói: “Nếu bây giờ ngươi thả ta ra, ta cón có thể tha thứ cho ngươi!” Mơ đi! Có cơ hội ta xé xác ngươi ngay!

Cổ tay Oregon lắc nhẹ, một sợi dây thừng bị giựt mạnh và mang theo cả nhúm tóc cùng ra đi.

Hai mắt Yvonne đỏ lên, ả trợn mắt nhìn từng sợi tóc rời khỏi da đầu nhẹ nhàng rơi xuống vũng bùn, không khỏi thét lên một tiếng chói tai như kẻ tâm thần.

Mèo đen đang đu trên cây bị giật mình, tai và đuôi đều dựng đứng lên.

Vì vậy da đầu của Yvonne lại nhói lên, tóc cùng dây căng ra thành một đường thẳng cứ như sắp sửa ra đi như thế hệ trước.

Oregon lại còn đọc thơ: “Hỡi đứa bé bị trầy đầu gối, tóc đã cắt rồi, nhưng mộng vẫn chưa nguôi.” (trích “Đứa bé bị trầy đầu gối” của Odysseas Elytis)

Mèo đen “meo ” lên một tiếng hát bè.

Bài thơ của Odysseas lại được đọc tiếp: “Xưng ra tội danh, cầu xin tha thứ, là lối thoát duy nhất của con.”

Da đầu nhói đau cuối cùng cũng giúp Yvonne nhận ra tình cảnh của mình, ả mở miệng nói: “Thả ta xuống, ta hợp tác với ngươi.”

Oregon lại giật phăng một lọn tóc khác của ả, “Xem ra cô vẫn chưa rõ tình cảnh của mình.”

Đầu chỉ còn lại hai lọn tóc làm Yvonne chỉ có thể nuốt giận không dám mở miệng. Bên dưới thánh giá là nước, bóng phản chiếu vô cùng rõ, làm sao ả không nhìn thấy số tóc trên đầu chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay cơ chứ?!

Vừa nghĩ đến mái tóc bồng bềnh như mây trôi của mình lúc xưa, ả lại thấy đau thương.

Năm xư lúc gặp phải Isfel, ả cho rằng hắn chính là giống loài khô khan nhất trên đời từ trước đến nay!

Thế nhưng ả lại gặp phải Baal. Ả cho rằng hắn chính là giống loài lạnh lùng bạo lực nhất trên đời từ trước đến nay!

Thế nhưng ả lại gặp phải cái con quỷ hút máu chết giẫm còn không chịu báo tên thù lù ngay trước mắt này!

Cuộc đời luôn kỳ diệu thế đấy, hôm nay ngã rồi, ngày mai vẫn có thể ngã tiếp!

Oregon nói: “Nếu cô chuẩn bị xong thì chúng ta bắt đầu thẩm vấn thôi.”

Yvonne hít sâu vào một hơi, nói với giọng điệu không còn gì để mất: “Ngươi muốn biết cái gì?”

Oregon đáp: “Tất cả những gì cô biết.”

Yvonne giận dỗi nói: “Mấy chuyện cũ rích như thiên sứ chiến đấu và thiên sứ hủy diệt đều là gay ngươi muốn nghe không?”

Oregon nói: “Thật ra ta cũng vậy.”

Yvonne nói: “Rõ. Quá. Rồi!”

Ả biết ngay mà!

Ả biết ngay mà!

Cả thế giới bị gay chiếm đóng hết rồi, hại một ma nữ xinh đẹp ngực bự, quyến rũ sexy như ả không biết đường đâu mà sống!

Oregon nói: “Bắt đầu nói từ lúc cô đến nhân giới.”

Yvonne nói: “Chả có gì hay ho để nói hết. Công trình kiến trúc kỳ cục, nhà cửa thiết kế kỳ cục, phương tiện giao thông kỳ cục, có mỗi thức ăn là còn nuốt nổi, không thể nào hiểu nổi bọn chúng làm sao sống được trong cái thế giới mà chẳng khác nào mê cung.”

Oregon giật dây thừng, “Nhà tạo mẫu tóc nói hai cái bím của cô cần phải sửa thành một cái bím rồi.”

Yvonne hỏi: “Rốt cuộc ngươi muốn nghe cái gì”

“Những gì cô biết!”

Yvonne tức giận trừng anh… Nhưng cũng trừng thua. Ánh mắt của anh bình tĩnh một cách quái dị, lạnh băng giá đến tột độ, dường như có thể sánh với Isfel mang tội lạnh lùng khi xưa.

“Ngươi đảm bảo sau khi ta nói xong sẽ thả ta đi?”

Oregon nói: “Không đảm bảo.”

“Cô vẫn phải nói thôi, không phải sao?”

Yvonne cuối cùng cũng thôi không phản kháng nữa, “Ngài Lilith muốn gặp Cain nhưng thông đạo đến huyết tộc đã đóng lại. Nàng chỉ có thể dùng cách này để ép Cain ra mặt.”

Oregon nói: “Lilith đã đạt được mục đích đến huyết tộc, tại sao cô còn ở lại?”

Yvonne đáp: “Ta từng bảo thức ăn ở nhân giới rất ngon…”

“Cho nên cô đi Nam Cực gặm chim cánh cụt?”

Yvonne nói: “Ta cũng từng nói bố cục kiến trúc, thiết kế nhà cửa và phương tiện giao thông ở nhân giới đều quá kỳ cục! Ta lạc đường!”

Oregon nói: “Cô chắc chắn mình đang nói về đại lục Nam Cực sao?”

Yvonne chớp mắt liều mạng giãy dụa, “Lẽ nào lần đầu đến nhân giới ta không được đi tham quan du lịch luôn hả?”

Orgeon nói: “Được, nhưng đây là câu trả lời bị thay đổi lần thứ ba rồi.”

Yvonne: “…”

“Nếu cô không sẵn lòng nói,” Oregon chậm rãi đứng lên, “vậy được thôi.”

Yvonne lo lắng nhắm tịt mắt chờ đợi hai lần nhói đau trên da đầu, nhưng Oregon lại buông tay ra.

“Rốt cuộc ngươi muốn thế nào?” Ả càng hồi hộp hơn.

Oregon nói: “Chả thế nào cả, đưa cô về địa ngục.”

Tròng mắt Yvonne xoay vòng vòng, “Tại sao?”

Oregon đáp: “Gần đây ta rất thích nghe một bài hát.”

“Hả?”

“Người tốt bình an một đời.”

Oregon lại quẳng Yvonne vào cốp xe, Yvonne nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt anh, “Em có thể bẻ anh thành thẳng không?”

Orgeon nghiêm túc trả lời: “Tối đa sẽ khiến ta biến thành lãnh cảm.”

Yvonne triệt để héo hon.

Oregon hỏi: “Làm thế nào để đến địa ngục?”

Mắt Yvonne lóe lên, ả ấp úng: “Lúc ra ngoài là nhờ ngài Lilith dẫn đường, ta không nhớ rõ. Mấy vụ đường sá ta xưa giờ không nhớ lắm.”

Oregon hỏi: “Ta nên làm gì với cô đây?”

…Lời thoại này?!

Yvonne hơi kích động.

Oregon nói: “Trả lại cho giáo hội? Hay giao cho huyết tộc quyết định?”

Yvonne nói: “Lúc này chẳng phải ngươi nên nhìn ta bằng ánh mắt yêu chiều và ôm chầm lấy ta thật chặt sao?”

Câu trả lời của Oregon là… Thẳng tay đóng cốp xe lại.

Vẫn là Macewen lái xe.

Oregon cùng mèo đen ngồi ở ghế sau. Anh chẳng lo Yvonne giở quẻ, dù sao với thực lực của anh, ả có bày trò cũng chả làm được gì.

Macewen hỏi: “Giờ chúng ta đi đâu?”

Oregon nhịp tay trên đùi.

Dù anh rất rõ nguyên nhân Yvonne ở lại nhân giới, nhưng cũng không muốn khiến người hợp tác thật sự với mình không vui. Có lẽ đưa Yvonne về địa ngục, nghiêm túc tuân theo giao hẹn với người hợp tác chính là lựa chọn tốt nhất?

Nhưng vùng đất phong ấn bị phá hoại khiến anh bắt đầu hoài nghi năng lực của người hợp tác với mình. Nếu đối phương không có cách gì thực hiện lời hứa năm xưa, mà mình lại đặt hết hy vọng lên người kẻ đó, vậy mình sẽ phải chịu kết cục bi thảm đến nhường nào?

Dường như cảm nhận được sự bất an trong lòng anh, mèo đen giơ vuốt đặt lên mu bàn tay anh.

Oregon ôm mèo vào lòng, dùng môi hôn nhẹ lên lưng chú mèo một cách thành kính.

Lần thứ hai đến thành Bright là vào một ngày mưa. Tí tách tí tách, mưa lất phất rơi dệt nên màn sương khói mờ ảo, cách ly tòa thành với thế giới phồn hoa bên ngoài.

Macewen lái xe ngày đêm, giờ đang đứng trong trạm để đổ xăng chạy thẳng tới thành Bright.

Huyết tộc tị nạn đều đã bỏ đi, nhưng thành quả họ mang lại vẫn đang khoe sắc rực rỡ.

Xe dừng dưới chân núi, Oregon bồng mèo dắt Yvonne đi lên. Ả đã bị cho uống thuốc an thần do Macewen tìm được, chỉ có vậy ả mới chịu ngoan ngoãn không tìm cách bỏ trốn nữa. Chỉ tiếc cho mái tóc của ả, sau bao phen dày vò, cuối cùng đã chẳng còn lại sợi nào mà chỉ thấy rõ chân tóc lởm chởm – Hậu quả của việc bị giật một cách bạo lực. Khuôn mặt trái lại được bảo vệ hoàn hảo, chẳng qua khi ả tỉnh táo, mặt mày lúc nào cũng nhăn nhúm khiến người khác khó lòng nhận ra mặt thật.

Oregon đến trước cửa, giơ tay chuẩn bị gõ nhẹ.

Lúc này đây anh tuyệt đối không ngờ, thành Bright đang có một vị khách vô cùng cao quý tới thăm.

Trước khi vị khách này đến, hai vị chủ nhân của thành Bright cũng không ngờ.

Sau khi khách đến, hai vị chủ nhân…

Baal: “Địa ngục bị thiên đường chiếm đóng rồi hả, ngay cả ngươi cũng phải ra ngoài ăn xin?”

Vương Tiểu Minh: “Hoan nghênh tới làm khách ở nhà tôi!”

“Quả nhiên ta vẫn thích nghe tiếng người.”

Mammon dùng tay phủi đi bụi nước trên vai, “Không cần quá nhọc lòng tiếp đãi ta, chỉ cần trả lại hết những thứ ta gửi ở đây là được rồi.”

Baal khoanh tay, lộ ra vẻ mặt lưu manh lâu rồi không dùng, “Ta không nhớ ngươi có gửi đồ qua.”

“Có mà.” Vương Tiểu Minh vèo một cái chạy đi, rồi lại vèo một cái chạy về, tay cầm mấy rương bưu kiện gửi từ địa ngục, cậu tỏ vẻ vô cùng lo lắng cho trí nhớ của Baal, “Anh không nhớ hả?”

Baal dùng một giây để tống hết những thứ ấy ra ngoài ngàn dặm, sau đó nói với vẻ mặt vô cảm: “Em nhìn nhầm rồi.”

Vương Tiểu Minh: “…”

Mammon nói: “Hóa đơn mua hàng của ngươi bị trả về.”

Baal nhướng mày, u ám nói: “Cain trả về?” Hắn đã ngăn cản Lilith giùm cho huyết tộc, ơn nghĩa lớn lao đòi có tí quà mà còn bị từ chối?! Đồ huyết tộc vong ân phụ nghĩa – Ngoài Vương Tiểu Minh ra.

Mammon nói: “Giới huyết tộc vẫn đang trong trạng thái đóng cửa.”

Sắc mặt của Baal sáng sủa hẳn ra trong vòng một giây, “Cứ nợ trước đi, đến khi huyết tộc mở cửa thì lại đòi bọn chúng trả.”

Mammon chìa tay ra tỏ vẻ tiếc nuối, “Tài khoản tín dụng của ngươi đang âm, không nợ được nữa.”

“Vậy à?” Mặt Baal liền biến sắc, hắn đang định lên cơn thì lại nghe Mammon nói tiếp: “Nếu ngươi có thể giúp ta một việc nhỏ thì ta có thể tạm thời không thu hồi hàng hóa ngươi đặt mua, đợi đến khi huyết tộc mở cửa rồi hẵng quyết định những thứ đó nên đi hay ở.”

Baal cười lạnh bảo: “Chuyện này hình như không phải do ngươi.” Thứ nuốt vào rồi mà dám bắt hắn ói ra hả!

Mammon tỏ vẻ vô tội nhìn Vương Tiểu Minh.

Vương Tiểu Minh áy náy gần chết.

“Khoan. Đã!” Baal buồn bực kéo người bạn đời lúc nào cũng thích hướng về người ngoài của mình, lạnh lùng trừng mắt nhìn Mammon và nghiến răng nghiến lợi nói: “Việc nhỏ gì?”

“Tìm Yvonne về.”

Baal mặt đầy chấm hỏi.

Mammon nói: “Là ma nữ cùng Lilith truy sát huyết tộc.”

Baal hỏi trông có vẻ hăng hái: “Cuối cùng ngươi cũng thông suốt, quyết định phản bội Metatron sao?”

“Không…”

“Làm hay lắm!” Thiên hạ đại loạn chính là điều hắn thích nhất trên đời, hắn chỉ hận sao thiên đường không lập tức viết hịch văn lên án địa ngục, sau đó thánh chiến sẽ bắt đầu một cách hoành tá tràng – Lần trước đánh chưa đã ghiền, lần này gặp dịp sẽ tiếp tục.

“Không phải!” Lần này đến phiên Mammon nghiến răng nhưng hắn vẫn cố gắng mỉm cười, “Ngươi yên tâm. Dù có trời cùng đất tận, sông cạn đá mòn, ta đều sẽ ở bên cạnh y!”

Vương Tiểu Minh bưng mặt, cậu bị làm cho cảm động triệt để rồi.

Baal quàng vai Vương Tiểu Minh, “Cũng có nghĩa là khi trời trong nắng ấm, chim hót hoa nở sẽ tan.”

Mammon: “…”

Chuông cửa vang lên, Vương Tiểu Minh phất tay mở cửa cách không.

Oregon xách Yvonne xuất hiện ngay trước cửa: “…Có phải tôi đã làm phiền các vị rồi không?” Dù không quen biết người đàn ông mặc màu tím mà lại có thể phong độ đến mức này, bản năng vẫn khiến Oregon cảm thấy nguy hiểm.

Nhìn thấy Yvonne, Mammon nở nụ cười đẹp đến mê người, “Không, ngươi đến đúng lúc đến không thể đúng lúc hơn được nữa.”

Sau khi Vương Tiểu Minh giới thiệu thân phận hai bên, Oregon cũng bớt ngạc nhiên, giao Yvonne cho đối phương, “Tốt quá, tôi đang muốn đưa ả về địa ngục.”

Mammon không nhận lấy mà để mặc cho ả nằm bẹp dưới đất, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười sâu xa khó hiểu, “Vô cùng cảm ơn ngươi đã tốt bụng giúp đỡ, tránh cho ta một vụ phiền phức dở hơi. Ta lấy thân phận ma vương hoan nghênh ngươi đến làm khách ở địa ngục.”

Đây là lời mời tương đối khách sáo.

Nào ngờ Oregon lại không nể mặt, “Không cần đâu.”

Baal thấy người khác bị quê thì bật cười thích thú.

Vương Tiểu Minh thấy bầu không khí quá gượng gạo thì đành chủ động lên tiếng: “Có muốn uống canh gà không?”

Baal tức giận bảo: “Hôm nay ta bị tổn thương tâm lý, uống bao nhiêu canh lòng gà cũng vô dụng.”

Mammom cười nói: “Canh gà chắc là để đãi bọn ta.”

Mặt Baal thoáng cái đen như đít nồi.

Bầu không khí giữa họ hài hòa như vậy càng làm nổi bật sự xa lạ của Oregon. Có điều chính Oregon cũng không muốn chen vào giữa họ, anh nhanh chóng nói lời chào tạm biệt.

Vương Tiểu Minh lễ phép giữ anh lại: “Trời tối rồi, chi bằng hãy nghỉ lại một đêm.”

Baal nói: “Bọn chúng hoạt động ban đêm, ngủ ban ngày.”

Vương Tiểu Minh: “…” Làm huyết tộc mấy năm rồi mà Vương Tiểu Minh vẫn chưa sửa được suy nghĩ của con người.

Sau khi Oregon bỏ đi, Mammon như đang ngẫm nghĩ điều gì, “Xem ra hắn không thích ta cho lắm.”

Baal nói: “Bởi vì gần đây mặt trời mọc ở đằng đông, lặn đằng tây.”

Mammon nói: “Không thích địa ngục cũng dễ hiểu, không thích ma vương cũng dễ hiểu, nhưng ta đại diện cho sự giàu có cơ mà…” Sao lại có ai không thích giàu có nhỉ?

Baal nói: “Sự keo kiệt của ngươi cũng nổi tiếng ngang với sự giàu có của ngươi.”

Mammon đổi chủ đề, “Ta mang Yvonne về, nhớ trả những món hàng chưa thanh toán tiền về cho ta.”

Baal nghiến răng bảo: “Mới nãy ngươi bảo giúp ngươi một việc nhỏ thì không cần trả nữa mà.”

“Nhưng ngươi đâu có giúp.”

Hắn vừa dứt lời, Yvonne vốn nằm dưới đất nay lại chẳng thấy đâu nữa, còn Baal thì vênh váo hất cằm, “Giờ thì cần ta giúp chưa?”

Mammon: “…” Về hỏi Lucifer với Michael xem phải trả bao nhiêu tiền hai người họ mới chịu nhốt tên này lại một lần nữa.

Baal nói: “Nếu muốn chuộc ả thì mang một giỏ hắc tinh thạch tới đây.”

Mammon vuốt chiếc nhẫn hắc tinh thạch trên tay, mỉm cười nói: “Ngươi thích thì ngươi giữ đi.”

Baal cau mày: “Ngươi không cần nữa hả?”

Mammon thờ ơ nhún vai, “Là Lucifer cần, ta sẽ bảo ngài ấy tự đến.”

Chẳng muốn gặp tên đó chút nào!

Bóng ma bị nhốt vào hắc tinh châu và cần tình yêu vun xới để sống lại vẫn in hằn trong đầu óc của Baal.

Yvonne lập tức xuất hiện ngay vị trí ban nãy. Nhìn vết thương sưng đỏ trên trán ả có thể thấy mới rồi bị đối xử không được tử tế cho lắm. Ả mơ màng tỉnh dậy, đang suy nghĩ làm thế nào để thuyết phục Oregon thả mình ra nhưng chợt nghe thấy tiếng Baal.

“Dẫn ả đi ngay.”

Ả mở mắt ra, bóng người quen thuộc trước mắt khiến tim ả suýt ngừng đập!

“Yvonne.” Mammon gọi khẽ.

Yvonne cả người cứng đờ, cố gắng ngước nhìn Mammon và gượng cười, “Ngài… Mammon… Thật, thật vui vì được nhìn thấy ngài.”

Mammon nhìn như đang cười nhưng lại không phải cười, “Vậy à? Nàng đuổi tên đầu trâu mặt ngựa được sai đến gọi nàng về địa ngục, rồi chạy tới Nam Cực một mình, ta còn tưởng nàng e sợ không muốn đến gần ta nữa chứ.”

Yvonne nói: “Không phải vậy đâu, khi đó em chỉ là… Chỉ là muốn đi vòng vòng nhân giới xem thôi. Lần đầu em tới nhân giới nên thấy cái gì cũng mới mẻ.”

Mammon hỏi: “Bởi vậy nên mới nhập cư trái phép vào nhân giới đi đối phó huyết tộc?”

Yvonne vội vàng giải thích: “Đó là mệnh lệnh của ngài Lilith!”

“Trừ lần đó ra, cô ta còn lệnh cho nàng làm gì nữa không?” Mammon lùi lại một bước để kéo giãn khoảng cách giữa hai người rồi cúi đầu nhìn ả.

Baal…

Mammon…

Đều là những nhân vật khiến người khác phải ngưỡng mộ chỉ xuất hiện trong thần thoại và truyền thuyết.

Nếu so với họ, truyền thuyết của anh có vẻ lu mờ.

Nhưng bất luận quá khứ của có huy hoàng đến nhường nào thì họ cũng không chiến thắng được dục vọng của chính mình, cuối cùng bị đuổi khỏi thiên đường.

Đọa thiên sứ và huyết tộc đều là có cùng cảnh ngộ bị thần ruồng rẫy, nhưng anh không thể nào có hảo cảm với Mammon, với Baal.

Anh dừng bước, quay đầu lại nhìn tòa thành.

Có lẽ là do đố kỵ.

Đố kỵ khi bản thân thì đơn côi lẻ bóng, còn bọn họ lại có bạn bè, có người yêu, có gia đình ấm cúng, đúng là quá hạnh phúc.

Anh cười một tiếng tự giễu, lúc đến trước xe, anh lại khôi phục vẻ ung dung quý phái.

Mèo đen vẫn luôn theo sát sau anh, dường như biết tâm trạng của anh không tốt, nó không hề nhảy ra làm phiền, mãi đến khi lên xe mới phóng lên đùi anh.

Lúc cửa xe vừa đóng lại, Oregon ngửi thấy mùi nước thánh quen thuộc, trong lòng anh khẽ dao động, “Giáo đường gần nhất ở đâu?”

Macewen sửng sốt hỏi: “Nó khiến ngài không thoải mái à? Tôi sẽ chạy vòng qua.”

“Không, tôi muốn đi xem thử.” Oregon nói: “Đu trên cửa sổ là tôi có thể nhìn thấy thánh giá thẳng rồi.”

Tuy cảm thấy là lạ nhưng Macewen cũng không hỏi nhiều.

Gần thành Bright đương nhiên không có giáo đường, họ phải đến tiểu trấn gần đấy mới tìm thấy một tòa giáo đường nhỏ. Tòa giáo đường này nhỏ thật, vì vậy khi Macewen dừng xe trước cửa, bọn họ còn nhìn thấy ánh sáng mờ ảo phát ra từ trong giáo đường.

Có người trong giáo đường?

Macewen nhìn Oregon. Gã dám chắc ông chủ của mình cũng chú ý thấy chuyện này nên tưởng rằng anh sẽ đổi ý. Nhưng gã đã lầm, Oregon đặt mèo xuống ghế, trước khi nhảy ra ngoài, anh còn phất tay ra hiệu cho Macewen lái xe đi và đóng cửa lại thật nhanh.

Mèo đen dùng móng vuốt cào vào cửa sổ, thấy đối phương vẫn cứ thờ ơ thì đổi cách, dùng đôi mắt vàng xanh nhìn anh ra vẻ tội nghiệp.

Oregon hôn gió với nó rồi khoát tay.

Xe nhanh chóng chạy đi.

Đợi đến khi xe hoàn toàn biến mất khỏi tầm nhìn, anh mới xoay lưng đi vào giáo đường.

Vẫn là luồng sáng chiếu lên thánh giá.

Chẳng qua lần này bóng người còn béo hơn lần trước, béo đến mức cả bóng cũng mờ căm, chỉ có thể nhìn thấy một khối gì đó đen đen.

“Có tin tức rồi?” Oregon đi thẳng vào đề.

“Hơ, ờ, ờ phải.” Cái bóng trong vầng hào quang lắp ba lắp bắp.

Oregon vẫn ngồi ở hàng ghế đầu bên trái, theo bản năng nhìn khắp chung quanh, “Y đang ở đâu?”

“Bị giáo hội mang đi rồi.”

Bầu không khí trong phút chốc như đóng băng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 5: Chân tướng

Bí mật giấu trong tranh.

Hai mắt Oregon bỗng chốc đỏ bừng lên, lửa giận trong mắt như muốn trào dâng ra ngoài, “Ngươi để y bị giáo hội mang đi?” Mỗi chữ như mỗi nhát dao sắc bén chém vào không trung.

“Yên tâm đi giáo hội tuyệt đối không thả y ra đâu!” Bóng người trong hào quang bị thái độ của anh dọa giật thót, gã vội vàng giải thích: “Là quân đoàn thủ hộ thần thánh của giáo hội phát hiện những tên huyết tộc chạy thoát còn sống mang theo y đi, vì vậy y mới rơi vào tay giáo hội, không phải do ta cố ý.”

Oregon gằn từng chữ một: “Ai từng bảo ta hãy yên tâm, tất cả đều được kẻ đó giám sát?”

Bóng người trong hào quang nói: “Giờ vẫn vậy mà. Ta dám chắc y vẫn đang ngoan ngoãn nằm trong quan tài ngủ.”

Oregon nhạt giọng hỏi: “Ta có thể tin ngươi nữa không?”

“Đương nhiên! Đương nhiên!” Bóng người trong hào quang vội vã bày tỏ sự chân thành của mình.

Oregon giễu cợt: “Nhưng ta đã chán làm con rối bị ngươi xoay mòng mòng như ruồi mất đầu rồi. Mà tất cả những lời ngươi hứa đều chẳng làm được, trái lại mọi chuyện càng lúc càng bê bối.”

Bóng người trong hào quang nói: “Nhưng ta cũng từng nhắc với ngươi cơ mà, trên người của y có những hai phong ấn, ngoài việc khiến y rơi vào giấc ngủ thì còn bảo vệ cho y nữa. Muốn giết chết y hẳn thì đầu tiên phải khiến y tỉnh lại đã.”

Oregon nói: “Lý luận này của ngươi ta nghe đầy tai luôn rồi. Vậy chứ cách để đánh thức y thì sao?”

Bóng người trong hào quang yếu thế hẳn, “Ta đang nghiên cứu.”

“Ồ, đang nghiên cứu!” Anh cười lạnh một tiếng rồi bỏ ra ngoài.

“Oregon!” Bóng người trong hào quang nhìn theo bóng anh mà gào lên: “Bình tĩnh một tí! Làm theo ta nào, học theo cách gà con làm theo gà mẹ ấy, cùng hít thở nào, hít vào, thở ra!”

Trả lời gã là nguyên dãy ghế sụp xuống cái rầm.

“Đừng vậy mà. Ngươi không cảm thấy tính cách của ngươi càng ngày càng giống Ansbach sao? Đây không phải chuyện gì hay ho. Biết đâu có ngày ngươi cũng dính vào mấy vụ tai tiếng vì bạo lực, rồi bị mười ba vị trưởng lão cùng phong ấn lại… Thật ra ngươi có từng nghĩ đi tìm trưởng lão huyết tộc giúp đỡ không vậy? Có lẽ họ đồng ý cũng nên…” Đối mặt với ánh mắt tàn bạo của Oregon, giọng nói trong ánh hào quang lại yếu đi, “Theo ta thấy để Ansbach ở giáo hội cũng không đến nỗi. Ít ra ngoài cửa có bảo vệ, nhỡ gặp chuyện gì còn hét lên được một tiếng, người ngoài không được tự do ra vào như ở vùng đất phong ấn.”

Oregon đi đến sau cánh cửa chính, cầm lấy tay nắm và kéo cửa ra để lộ một khe hở nhỏ rồi bình tĩnh nói: “Ta thấy quan hệ hợp tác của chúng ta khó lòng tiếp tục.”

“Đừng vậy mà, cho ta thêm chút thời gian đi, ta sẽ nhanh chóng tìm ra cách giải trừ phong…”

Tiếng cuối cùng bị át đi bởi tiếng cửa nặng nề khép lại.

Oregon quay về khách sạn không nhìn thấy mèo đen thì lập tức sầm mặt.

Macewen giải thích: “Là quý ngài tên Joseph Miller dẫn nó đi. Tôi tưởng ngài quen ngài ấy.” Nếu không quen thì lúc trước cần gì bảo mình mua giúp vé máy bay từ London đến Paris cho người đó.

Sắc mặt Oregon tốt lên đôi chút – Chuyển từ đen nhọ nồi sang xám đậm.

Anh bảo Macewen chuẩn bị hai bình rượu đỏ pha máu rồi ngồi trên ghế dựa đặt gần ban công, vừa hứng gió đêm vừa uống rượu để đợi con thú cưng ham chơi quên cả lối về nào đó.

Nhìn trời tối rồi lại sáng, sáng rồi lại tối, sắc mặt Oregon lại từ xám đậm biến thành đen thui.

Thất trách trong việc trông nom thú cưng, Macewen không dám lượn lờ trước mặt anh mà chỉ rúc trong phòng, mãi đến khi nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng meo meo mới đẩy xe thức ăn đã chuẩn bị sẵn ra.

Oregon túm gáy mèo đen, ánh mắt sâu thẳm không biết đang nghĩ gì trong đầu.

“Ngài muốn dùng bữa ở đâu ạ?” Macewen dè dặt hỏi.

Bốn cái chân đang ỉu xìu rũ xuống của mèo đen bỗng quẫy một cái, đôi mắt vàng xanh nhìn về phía Macewen ra chiều cầu cứu.

Bị nó nhìn, gã cảm thấy tim mình như tan nát, vì vậy, gã quay đầu đi.

Mèo đen: “…”

Oregon lấy lại tinh thần, anh nói: “Chuẩn bị hai vé máy bay đi Rome.”

Vừa xuống máy bay, Oregon lại chạm mặt Derek – Người chuyên môn đợi anh.

“Không ngờ chúng ta lại gặp nhau sớm như vậy.” Derek huơ huơ cây gậy trong tay và cảm thán.

Oregon nói: “Nếu lần này cả hai bên đều không vui vẻ gì, thôi thì khỏi giả bộ tươi cười nữa.”

Thật ra Derek đang thấy vui mà, “…”

Lên xe xong, anh phát hiện lần này ông ta đổi một cấp dưới mới, “Cái đuôi cũ của ông đâu?”

Derek đáp: “Benoit về Pháp rồi, cậu ấy là người Pháp.”

Oregon hỏi: “Chừng nào ông về Anh?”

Derek: “Khi đã xác định lần này chúng ta vĩnh biệt chứ không phải tạm biệt một thời gian ngắn lại gặp nhau.”

Oregon nói: “Tôi có thể dùng tử vong để giải thoát cho ông khỏi mối quan hệ này.”

Derek thôi không buồn đấu võ mồm nữa, “Ma nữ bị đưa đi rồi?”

Oregon đáp: “Lúc ông còn sống chắc sẽ không gặp được ả nữa đâu.”

“Chỉ hy vọng thế.” Derek đáp.

Hai người rơi vào im lặng trong một lúc.

Oregon nói: “Sao ông biết tôi sẽ đến.”

Derek đáp: “Có người gửi tin nhắn cho tôi bảo tâm trạng ngài không tốt cho lắm, dặn tôi bảo vệ cho ghế trong giáo đường cho đàng hoàng.”

Oregon: “…”

Derek lấy điện thoại mở một tấm ảnh ra đưa cho Oregon xem. Đó là ảnh một chiếc quan tài hơi hé nắp, để lộ hình dáng người nằm bên trong. Gương mặt người đó trắng bệch, hai tay đặt trên ngực, vẻ mặt bình thản.

“Y chính là Ansbach?”

Oregon không trả lời. Ánh mắt anh dán chặt vào tấm ảnh như người mất hồn.

“Khó mà tưởng tượng nổi dưới gương mặt có nét đẹp tinh tế thế này lại ẩn giấu một trái tim điên cuồng.” Derek lẩm bẩm, đang định cất điện thoại vào thì tay lại bị giữ chặt.

Oregon giật điện thoại của ông ta, cúi đầu ngắm tấm ảnh nửa buổi mới chậm rãi nhấn nút xóa nó đi, “Hy vọng đây là tấm cuối cùng.”

Derek: “…” Có cần báo với tên này là giáo hoàng còn đặc biệt mời họa sĩ đến vẽ tranh không nhỉ?

Thân là huyết tộc, Oregon tuyệt đối không muốn được một giáo đồ dẫn vào giáo đường – Lần gặp Yvonne đã là ngoại lệ trong tất cả những ngoại lệ. Đương nhiên giáo hoàng cũng không sẵn lòng tiếp đãi một sinh vật thuộc về bóng đêm như anh trong giáo đường của mình.

Vì vậy họ đến viện bảo tàng gần giáo đường để gặp nhau.

Trong viện bảo tàng trưng bày các tác phẩm tâm huyết và tinh hoa của nghệ sĩ qua nhiều thế hệ, giá trị ngút trời.

Lúc dẫn đường, Derek cảm thấy hết sức tự hào. Viện bảo tàng này nằm dưới sự quản lý của tôn giáo, bên trong có không ít tác phẩm liên quan tới tôn giáo.

Oregon chỉ vào một bức tranh và nói: “Lúc cậu ta vẽ bức tranh này tôi có mặt ở đó. Nói chính xác thì lúc đó cậu ta nghèo đói khốn khổ, tôi đang cho cậu ta ăn nhờ ở đậu.”

Derek: “…”

Oregon chỉ vào một pho tượng, “Đây là pho thứ ba, hai pho trước tôi không thích.”

Derek: “…”

Oregon lại chỉ vào một bứa tranh khác: “Thằng nhóc này vừa vẽ vừa cười đùa với bạn gái, bạn gái cậu ta bất cẩn cọ phải vào góc phải bên dưới. Cậu ta lập tức trở mặt, hai người buồn bã chia tay nhau. Đến khi hoàn thành, thằng nhóc đó lại mặt dày mày dạn đi xin cô gái nọ tha thứ, nhưng cô ấy đã đi theo một quý tộc khác.”

Derek: “…”

Oregon cảm thấy những tác phẩm này đúng là đã mở ra chiếc hộp chứa đựng bao nhiên ký ức của mình, “Còn có…”

“E hèm! Ngài Timothy Greco đang đợi ngài ở phòng khách.” Giao tiếp với một thằng cha không biết đã sống bao nhiêu năm chẳng hay ho gì, sơ sẩy một tí là lộ dốt ngay.

Oregon tỏ vẻ vẫn chưa thỏa mãn mà liếm môi, “Được rồi.”

Trước cửa phòng khách là hai vệ sĩ giắt kiếm dài ngay thắt lưng, vẻ mặt nghiêm trang thành kính. Lúc Oregon vào trong, họ thậm chí còn muốn soát người nhưng bị Derek ngăn lại.

Derek lúng túng giải thích: “Đây là vì an toàn.”

Oregon nói: “Timothy Greco là một trong những nhân tuyển cho vị trí giáo hoàng đời kế tiếp, thân phận không giống người thường. Tôi hiểu.”

Lúc anh nói câu này, cánh cửa sau lưng đã hơi hé ra nên người bên trong hoàn toàn có thể nghe thấy. Timothy mặc giáo bào màu đỏ, hai bàn tay giấu trong tay áo, gã hơi khom người và cười nói: “Không đáng nhắc tới trước mặt ngài đây.”

Oregon bước vào gian phòng khach rộng hơn hai trăm mét vuông, ánh mắt của anh lập tức bị thu hút bở cỗ quan tài màu trắng sữa đặt bên trong. Bóng anh lóe lên một cái rồi xuất hiện bên cạnh quan tài.

Nắp quan tài vẫn đang mở ra, chàng thanh niên tóc vàng nhắm mắt lẳng lặng nằm bên trong.

Oregon rũ mắt, đau thương như tuôn trào từ đôi mắt của anh, anh muốn giơ tay chạm vào gương mặt ấy nhưng lại như sợ sẽ làm hỏng giấc mơ đẹp của y, vì vậy nên chỉ đành rụt tay về.

“Xem ra lời đồn không đáng tin lắm.” Ánh mắt thâm tình của Oregon khiến ứng viên sáng giá cho vị trí giáo hoàng lộ vẻ xúc động.

“Bất cứ lúc nào,” Timothy nói: “bọn tôi cũng không phải đang giam giữ ngài ấy, mà là giải cứu ngài ấy. Không lâu trước đây, quân đoàn thủ hộ thần thánh gặp phải một nhóm huyết tộc vi phạm nghiêm trọng Hiệp nghị Đình chiến ở Địa Trung Hải, tàn sát rất nhiều người vô tội. Qua một cuộc chiến khốc liệt, nhóm huyết tộc đó đã bị chúng tôi hạ gục, chúng tôi tìm được quý ngài Malkavian ở gần đấy. Quan tài này là do chúng tôi cung cấp.”

Oregon nói: “Cảm ơn.” Dù biết họ cố ý khiến mình mắc nợ nhưng Oregon không thể không nhận.

Timothy nói: “Đừng khách sáo. Hy vọng chúng tôi và huyết tộc có thể giữ quan hệ tốt mãi mãi.”

Oregon bồng chàng thanh niên ra khỏi quan tài, cẩn thận ôm vào lòng rồi xoay lưng bỏ đi.

“Có thể cho chúng tôi biết vùng đất phong ấn đã xảy ra chuyện gì không?” Timothy hỏi.

Vừa mắc nợ đối phương xong, Oregon lúc này rất khó mà từ chối, “Có người phá hỏng phong ấn, thả các huyết tộc bị nhốt bên trong ra ngoài.”

“Có bao nhiêu?” Timothy cau mày. Chuyện này sẽ gây rắc rối không nhỏ cho nhân giới.

Oregon nhún vai đáp: “Có người đang xử lý rồi.”

Timothy nhìn họ mất hút sau cánh cửa, tiếng bước chân xa dần ở cuối hành lang. Vệ sĩ đóng cửa lại, nhưng cánh cửa sau lưng gã lại chầm chậm mở ra. Gã hành lễ chào hỏi người mới bước ra, “Bệ hạ.”

Giáo hoàng mặc chiếc áo choàng rộng thùng thĩnh, ông đỡ lấy tay Timothy và nói: “Timothy, với ánh mắt sắc sảo của cậu, cậu đánh giá Oregon là người thế nào?”

Timothy cười khổ trả lời: “Trông hắn ta vừa nặng tình lại như vô tình, bề ngoài có vẻ bình tĩnh nhưng hình như đang rất hoang man. Tôi không nhận ra được nhân cách thật sự của hắn.”

Giáo hoàng nói: “Sau vụ ma nữ, tôi đã viết thư để bày tỏ thiện ý với Vương Tiểu Minh nhưng chẳng hề có hồi âm như đá chìm đáy biển. Winston và Edwin cũng rúc trong thành của mình không chịu ra ngoài. Lãnh tụ của giới huyết tộc đồng loại giả câm giả điếc, không biết có phải vì đang ấp ủ âm mưu nào không?”

Timothy nói: “Cũng chưa hẳn. Có lẽ do sự việc của ma nữ đã tạo thành đả kích quá lớn cho họ, họ vẫn chưa hoàn hồn.”

Giáo hoàng lại nói: “Hãy giữ quan hệ tốt với Oregon. Hắn là huyết tộc đời thứ tư, tính tình lại dễ chịu một cách hiếm có, nếu có thể để hắn đứng ra lãnh đạo huyết tộc ở nhân giới thì nhân giới sẽ hòa bình yên ổn.”

Timothy đáp: “Thật ra quan hệ giữa hắn và Ansbach không hề đến mức như nước với lửa giống truyền thuyết hay kể, ngược lại có vẻ giống người yêu bị chia cắt bởi nguyên nhân nào đó.”

“Vậy sao? Nhưng theo tranh của Richie thì không như thế.” Ở cuối phòng khách có dán một bức tranh cao cỡ nửa người. Trong tranh vẽ hai người, một người tóc vàng, hai mắt đỏ bừng, đang giận dữ nhe nanh, một người tóc màu nâu đậm, vẻ mặt nhởn nhơ, ngồi bên cạnh im lặng mỉm cười. Giáo hoàng chỉ vào người tóc vàng, “Xem dáng vẻ điên cuồng của hắn này, chỉ có Malkavian mới vậy thôi.”

Nhìn vào tranh, Timothy cứ thấy có gì quái quái.

Giáo hoàng nói: “Lúc Richie vẽ bức tranh này là trong thời kỳ thánh chiến chính trị. Căn cứ theo sử ký của đạo ta, đây là trận chiến thảm khốc nhất, cũng là trận chiến chuyển nguy thành an hy hữu nhất. Chúng ta thua mất Anh, thua mất Pháp, phải rút về Ý, cũng chính là phòng tuyến cuối cùng. Đang lúc tưởng rằng sẽ rơi vào đường cùng, huyết tộc bỗng dưng nổ ra nội chiến. Gia tộc Malkavian xuất hiện một tên điên đánh lén huyết tộc, lấy chuyện này để uy hiếp người tình của mình…”

“Khoan đã!” Timothy nhìn vào bức tranh, mặt bỗng biến sắc, chỉ vào cái mấy bóng lờ mờ sau lưng hai người, “Ngài xem họ kìa, trên người họ có phải đang dấy lên lửa giận không?”

Giáo hoàng nheo mắt nhìn, “Sau lưng họ đang có cháy lớn…”

“Không, đây không phải là đám cháy lớn thật sự.” Timothy chỉ vào bức tranh bên cạnh, “Bức ‘Đoàn viên’ này là tác phẩm tiêu biểu của Richie. Điểm đáng để mọi người trầm trồ chính là ông ấy đã dùng hình ảnh cái cây để thể hiện hy vọng mới, dùng bùn đất để thể hiện sự khác biệt của nhân vật chính khi đã chôn vùi quá khứ. Cũng chính là phương pháp sử dụng sự vật để diễn tả những tâm trạng nổi bật của nhân vật.”

Giáo hoàng vẫn thấy mơ hồ, “Vậy thì sao?”

Timothy đáp: “Huyết tộc bùng nổ nội chiến. Ansbach khiến rất nhiều người tức giận. Không đời nào có cả đám huyết tộc đứng sau lưng hắn, cùng hắn đối mặt với kẻ thù.”

Giáo hoàng hoàn hồn, “Ý của cậu là…”

“Người tóc vàng chính là Oregon đang nổi giận vì Ansbach phản bội trong chiến tranh…” Timothy chỉ vào người còn lại – Cũng chính là thanh niên tóc màu đậm có gương mặt giống hệt tên huyết tộc vừa đi ra ngoài. Ông trầm giọng nói: “Hắn mới là Ansbach.”

“Tóc vàng là Oregon, tóc nâu là Ansbach. Nằm trong quan tài là Oregon, chạy nhông nhông bên ngoài là Ansbach. Nằm đi ra là Oregon, đứng đi ra là Ansbach.”

Giáo hoàng cứ qua qua lại lại trong phòng khách, từ sau lúc Timothy đưa ra phán đoán, ông chưa từng ngừng đi tới đi lui.

Sự bồn chồn của giáo hoàng khiến Timothy thấy chẳng biết nên làm sao, “Chúng ta phát hiện chuyện này đâu tới nỗi quá trễ, mọi việc vẫn chưa phải phiền phức lắm đâu.”

Giáo hoàng nói: “Không không không, tuổi cậu còn quá trẻ. Cậu cho rằng tên điên nổi tiếng nhất của Malkavian ngụy trang chỉ để ngồi trong quán kem ăn doughnut ư? Hắn nhất định có mục đích điên rồ hơn độc ác hơn! Còn nhớ cái chết của Benson ở Anh không? Ansbach có mặt ở hiện trường, nơi đó còn tìm được đồng hồ có khắc huy hiệu Malkavian, điều này nói lên cái gì? Điều này nhất định đã nói lên gì đó!”

Timothy nói: “Có thể do hắn đánh rơi ở hiện trường.” Người của gia tộc Malkavian mang theo đồng hồ có khắc huy hiệu của Malkavian là chuyện bình thường đến không thể nào bình thường hơn được nữa.

Giáo hoàng nói: “Có thể do hắn giết chết Benson! Hắn không giống tên ngốc sẽ đánh rơi đồng hồ của mình, bên trong nhất định ẩn chứa âm mưu còn khủng bố hơn là cái chết của Benson.”

Nếu không phải cấp trên mà là bạn bè, Timothy nhất định sẽ khuyên ông ấy đi kiểm tra xem có phải tới thời kỳ mãn kinh không.

Không đi thì ép phải đi!

“Âm mưu lớn hơn thì chưa chắc.” Timothy bình tĩnh phân tích: “Cũng có thể là để rửa tội cho ‘Oregon’. Nếu không có chiếc đồng hồ ấy, hắn chính là kẻ tình nghi số một phát hiện gần hiện trường nhất. Lúc đó hắn vẫn đang dùng tên ‘Oregon’ đấy.”

Giáo hoàng nói: “Làm sao hắn biết sẽ xảy ra án mạng mà chuẩn bị sẵn cách rửa tội?”

Cuộc trò chuyện bỗng ngưng bặt.

Hai người trao đổi bằng mắt.

Chứng khó ở của giáo hoàng cuối cùng cũng dịu lại đôi chút, “Xem ra hung thủ giết chết Benson đã rõ như ban ngày. Đây là một vụ mưu sát.”

Timothy nói: “Ngài nói đúng, chúng ta hẳn phải làm rõ mục đích của hắn.” Ansbach xuất hiện dưới thân phận của Oregon có thể giải thích rằng hắn muốn tránh khỏi sự truy sát của huyết tộc, nhưng giết Benson thì không thể nào giải thích được. Đã quá tai tiếng trong giới huyết tộc, hắn cần gì phải gây sự với giáo hội để có thêm một kẻ địch mạnh khác.

Giáo hoàng đứng ngồi không yên.

Mỗi lần nghĩ tới bức tranh ly kỳ kia, nghĩ tới nụ cười bình tĩnh của Ansbach, sống lưng ông ta sởn hết gai ốc như bị trăm ngàn con sâu bò lung tung, “Tiếp tục liên lạc với bọn Vương Tiểu Minh và Lawrence bằng tất cả mọi cách. Bất luận thế nào cũng phải lan truyền cho mọi người biết bộ mặt thật của Ansbach!”

Quý ngài “Oregon” bị người ta mạt sát không còn gì – Ansbach – đang băng băng đi xuyên qua hành lang của viện bảo tàng.

Dọc theo hành lang là những bức tranh vẽ thể hiện nét phong phú trong đời sống con người cũng như các sắc thái đa dạng của xã hội. Nhưng nếu so với gương mặt góc cạnh trắng bệch của anh, thế giới trên những trang giấy bỗng trở nên quá đỗi đơn điệu và phẳng lặng.

Cuối hành lang là một cánh cửa gỗ khảm hai tấm kính pha lê hình chữ nhật. Ánh nắng len lỏi qua những khe hở giữa hoa văn gỗ trên kính chiếu đúng vào trước mũi giày của Ansbach.

Anh dừng bước.

Derek chống gậy theo sau anh, lúc này vội vã đuổi đến trước mặt anh, “Có việc gì?”

Ansbach chầm chậm nghiêng đầu liếc ông, ánh mắt anh có chút đờ đẫn, “Y thật sự trở về trong lòng tôi rồi, có đúng không?”

Câu anh hỏi không đầu không đuôi khiến Derek không biết nên trả lời thế nào. Ông ta ngẫm nghĩ rồi đáp: “Ngài có thể cúi đầu nhìn.” Ông chú ý thấy ánh mắt của đối phương luôn tránh không nhìn thẳng vào người nằm trong lòng.

Ansbach nói: “Tôi từng nhìn thấy rất nhiều thứ, tất cả đều là giả.”

Derek nói: “Ngài có thể nhìn một lần nữa.”

Ansbach nhìn thẳng vào cánh cửa trước mặt, “Trong thần thoại Hy Lạp, Orpheus đã dùng tấm chân tình của mình để làm bà hoàng của địa ngục cảm động, dẫn người vợ đã chết của mình rời khỏi cõi âm, nhưng cuối cùng lại quay đầu lại nhìn vợ mình một lần, phá hủy lời hứa của mình, hại nàng phải ở lại cõi âm vĩnh viễn. Tôi sẽ không phạm phải sai lầm như vậy.” Câu cuối cùng anh gần như đang nỉ non. Dứt lời, anh sải bước về phía trước, bước qua cánh cổng tự động.

Anh giẫm lên ánh nắng mà đi, bóng anh trải dài trên đất, bầu trời quang đãng, cả hoa cỏ cũng thơm hơn ngày thường.

Một ngày hoàn toàn mới.

Ansbach cúi đầu xuống, người trong lòng ngoan ngoãn nằm trên tay anh, không hề tan thành bọt biển như anh những tưởng. Trái tim trống trải hơn một trăm năm dài đằng đẵng bỗng nhiên được lấp đầy.

“Cuối cùng em cũng trở về bên tôi.”

“Oregon của tôi.”

Chiếc xe đậu gần đó hơi hé thành một cái khe, chú mèo đen từ trong xe nhảy ra, đứng cách Ansbach một con đường mà nhìn chàng thanh niên tóc vàng trong lòng Ansbach. Bốn chân nó cứ cáu kỉnh dịch tới dịch lui, cuối cùng đặt mông ngồi bệt xuống đất.

Ansbach đang mải ngắm người trong lòng đột nhiên ngước mặt lên, ánh mắt của anh và nó giao nhau, anh chợt thấy hoảng hốt, vội vã bước đến gần nó.

Mèo đen vẫy đuôi, đứng lên nhảy về ghế sau.

Ansbach mở cửa ghế lái phụ nhẹ nhàng để Oregon ngồi vào rồi thắt dây an toàn.

Macewen bước ra khỏi ghế lái từ đầu xe bên kia, thực hiện nghĩa vụ của quản gia – Trò chuyện cùng quý ngài Derek bị ông chủ mình quăng cục lơ.

Đối thoại giữa giáo đồ và huyết tộc hết sức nhàm chán…

“Hôm nay đúng là được thần ban cho thời tiết tuyệt vời.”

“Nắng quá dễ làm cháy cánh.”

“Mỗi ngày các vị uống bao nhiêu máu?”

“Con người mỗi ngày uống bao nhiêu sữa?”

“Uống máu có bị ngán không?”

“Lúc ở cùng đồng loại, con người thật sự chưa bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ cắn lên cổ đối phương một cái ư?”

Cuộc đối thoại kết thúc ngoài ý muốn nhưng đều hợp ý cả hai bên.

Ansbach ngồi vào ghế lái, bắt đầu nổ máy.

Macewen ngạc nhiên, theo bản năng mở cửa sau của xe ra.

Ansbach thò đầu ra bảo: “Cậu mua một căn nhà ở đây đợi chúng tôi về.”

Dù nghi ngờ về quyết định đột ngột của ông chủ nhưng Macewen vẫn chọn cách nghe lời anh.

Derek nói với gã: “Cần giúp thì có thể tìm tôi bất cứ lúc nào.”

Macewen đáp: “Với một người mang danh quản gia mà nói, đây không phải chuyện khó khăn gì.”

Derek bẽ mặt, nhếch mép bảo: “Tôi chỉ khách sáo chút vậy thôi.”

Macewen nói: “Tôi chưa bao giờ hy vọng sẽ nhìn thấy sự chân thành ở giáo đồ.”

Derek cúi sát xuống cửa sổ xe, bảo với Ansbach đang chuẩn bị rời đi: “Cậu ta đúng là quản gia của ngài.” Miệng lưỡi đều sắc bén như nhau.

Ansbach nói: “Nếu lúc tôi về cậu ấy mất đi một sợi tóc, cả đời sau của ông sợ rằng phải ngồi xe lăn rồi.”

Xe phóng đi cái vèo, bỏ lại Derek quê độ đứng đó. Ông ta nhìn Macewen bằng ánh mắt phức tạp, “Tóc cậu có bao giờ bán không vậy?”

Macewen: “…”

“Tôi muốn đem về viện bảo tàng để cất giữ.”

Ansbach cứ lái xe vô mục đích trên đường.

Mèo đen từ ghế sau chen vào giữa hai ghế trước, thò móng ra dè dặt cào quần áo của Oregon.

Ansbach cúi đầu liếc nó một cái, “Nếu em để lại dấu vết trên người y, dù chỉ là một sợi lông, tối hôm nay khỏi có cá ngừ đại dương.”

Mèo đen phóng cái véo lên đùi Oregon rồi chảnh chọe đặt mông ngồi xuống, mắt còn nhìn đăm đăm về phía Ansbach như muốn khiêu khích.

Ansbach xách cổ nó đặt lên đùi mình, “Tôi không đùa đâu.”

“Trên người của y chỉ được có dấu vết của tôi.”

“Meo.” Mèo đen cào cho anh một phát.

Ansbach nói: “Khỏi có cá ngừ, cá ba xu cũng miễn.”

Mèo đen áp hai chân trước lên cửa sổ ô tô, xụ mặt ngắm nhìn phong cảnh bên đường.

“Đừng có nghĩ đến chuyện trốn đi.” Gáy nó lại bị nhéo nhẹ một phát, sau đó…

Tiếng thắng xe chói tai vang lên cái két. Xe bỗng nhiên lượn theo hình chữ Z rồi dừng lại ở giữa đường cái. May mà đường này ít xe qua lại, thỉnh thoảng có xe cũng sẽ lấn sang tuyến bên kia để chạy vòng qua. Có hai chiếc xe lúc chạy qua tưởng xe Ansbach gặp phải sự cố nên định xuống giúp, nhưng đến khi thấy rõ trước xe của Ansbach là cái gì, họ lập tức nhấn ga hết tốc lực phóng đi.

Ansbach ngồi trong xe, bình tĩnh nhìn người ở ngoài qua cửa kính của xe.

Dáng người gã nọ cao khoảng hai mét, đây không phải chuyện lạ, có điều đôi cánh đen sau lưng gã cứ như hai cây dù khổng lồ che gần hết ánh mặt trời, khiến cả chiếc xe chìm trong bóng tối.

“Lâu quá rồi không gặp nhỉ, người bạn của ta.” Giọng gã trầm thấp như tiếng Violoncelle, giai điệu cũng rất đặc biệt, “Không xuống xe ôn chuyện sao? Xem như nể mặt ta đã đưa Oregon về bên cạnh ngươi đi.”

Hàng cây hai bên đường cao ngất cứ như chia đôi bầu trời, bên trái là một màu xanh thẳm, bên phải là ánh vàng xán lạn. Vị đọa thiên sứ với đôi cánh đen tuyền đứng ngay giữa làn giao thoa của bầu trời biêng biếc.

Màu xanh biếc mang đến cảm giác mát mẻ, vậy mà người nọ trông càng lạnh hơn – Cái lạnh giá của băng tuyết.

Ansbach đặt mèo đen vào ghế sau, dùng ngón trỏ đè đầu nó lại, “Không được đi theo.” Giọng điệu nghiêm túc xưa nay chưa từng có của anh khiến mấy cái chân ngọ nguậy của mèo ta cứng đờ.

Ansbach cởi dây an toàn, trong nháy mắt đánh vỡ nát tấm kính chắn gió trước xe rồi xông về phía đọa thiên sứ. Hai bóng người cao to quấn lấy nhau, lộn hai vòng trên đường rồi lập tức tách ra. Ansbach ngồi trên nóc xe, lưng của đọa thiên sứ dựa vào gốc cây, hai người cách nhau khoảng năm, sáu mét, gườm đối phương bằng ánh mắt dữ tợn. Trong lúc quấn lấy nhau, cả hai đều trúng không ít đòn, lại đều cho rằng đối phương vô lý, mình bị thiệt thòi.

“Ngươi điên rồi hả?” Mắng xong, đọa thiên sứ lại ảo não lắc đầu, “Ngươi lại điên nữa rồi hả?”

Năm ngón tay đặt trên nóc xe của Ansbach co lại, ngón tay anh ma sát lên bề mặt thùng xe tạo ra tiếng kít kít chói tai.

“Ngươi làm gì thế?” Đọa thiên sứ bưng tai, chủ động nhảy lùi về sau bảy, tám mét, “Dừng tay!”

Động tác của Ansbach ngừng lại, anh nhảy xuống khỏi nóc toan mở cửa xe.

“Ngươi không muốn phá giải phong ấn cho y sao?” Đọa thiên sứ rõ ràng biết điểm yếu của anh nằm ở đâu.

Nắm cửa bị vặn qua rồi vặn lại, Ansbach chầm chậm quay đầu lại bình tĩnh nhìn hắn.

Đọa thiên sứ nói: “Ta có từng nói với ngươi chưa nhỉ, mặt mày của ngươi rất mang hợp đóng phim kinh dị.”

Ansbach nói: “Nếu không lập tức phá giải được phong ấn cho y thì cút ngay.” Trông anh có vẻ rất điềm tĩnh, cả chữ “cút” cũng nghe hết sức bình thường.

Nhưng anh càng như vậy, đọa thiên sứ càng cảnh giác, “Bá tước Gordon rất tức giận với các hành vi gần đây của ngươi! Ngươi hẳn nên biết hậu quả! Đừng tưởng giấu mất Oregon là không sao. Ngươi cho rằng là ai đã đưa y ra khỏi vùng đất phong ấn, là ai cố ý để giáo hội phát hiện ra y? Ngươi nhìn sau gáy của y là sẽ biết đáp án.”

Ansbach biến sắc, tay dùng lực giật bay cả cánh cửa xe rồi ném qua một bên, chồm hẳn vào trong, dùng một tay đỡ Oregon, một tay nhẹ nhàng vén tóc sau gáy của y lên. Làn da trắng nõn anh từng hôn vô số lần nay bị người khác dùng mực xanh viết lên một hàng chữ:

Xin chào! Lại gặp nhau rồi.

Nắm đấm của Ansbach giáng vào người đọa thiên sứ tới tấp như cuồng phong vũ bão.

Đọa thiên sứ đỡ được một lúc thì thấy kiệt sức. Tên điên này hình như không biết mệt là gì, chẳng những tốc độ chưa từng giảm mà sức đánh còn mỗi đòn một mạnh.

“Không phải ta làm mà!” Hắn rống lên.

Trả lời hắn là một quyền đánh qua phải.

Đọa thiên sứ bị đánh bay đi làm rụng mất mấy cọng lông vũ màu đen.

Ansbach cúi đầu nhìn hắn cả nửa ngày, cất bước đến trước mặt hắn. Những cọng lông đen bay phấp phới trên không, lao đao rơi xuống rồi từ từ đáp trên đôi giày đen bóng của Ansbach.

“Zofie.”

Đọa thiên sứ ngạc nhiên ngước lên, “Ngươi nhớ tên của ta hả? Ta còn tưởng trong lòng ngươi ta chỉ là cái bao cát được đánh dấu theo size L, M, S chứ.”

Ansbach mặc kệ lời trào phúng của hắn, “Ông ta đang ở đâu?”

Zofie liếc anh một cái.

Ansbach nheo mắt.

Thấy anh lại có biểu hiện sắp phát cuồng, Zofie rùng mình đáp: “Biển Đỏ.”

Ansbach quay đầu bỏ đi.

Zofie đứng dậy, lớn tiếng nói: “Ông ta lệnh cho ngươi giết Edwin và Winston!”

“Chỉ là hai huyết tộc đời thứ năm, với ngươi hẳn là dễ như trở bàn tay.”

“Tốt nhất ngươi hãy làm theo lời ông ta, ngươi đấu không lại ông ta đâu.”

“Được thôi. Nếu ngươi không muốn nghe, chúng ta hãy bàn tí việc riêng… Oregon do ta giao cho giáo hội.”

Ansbach vẫn ngồi trên nóc xe nhưng chiếc xe không kính chắn gió lại lướt đi như chạy bằng điện rồi phóng cái vèo qua mặt hắn luôn.

“Không cần cảm ơn.”

Zofie nhếch mép bật cười, cúi đầu lấy điện thoại gửi một tin nhắn.

Yvonne bị đặt trên giá nướng, hai tên đầu trâu mặt ngựa ngồi quạt bếp bên dưới.

Mammon ngồi đối diện ả, tay đung đưa ly rượu đỏ sậm. Hắn còn có lòng tốt hỏi xem ả có muốn thử một ly không.

“Không cần, nếu ngài sẵn lòng dùng chung một ly với em…” Ả liếm đôi môi đỏ tươi lộ ra nụ cười mê hoặc.

Mammon vờ đi, tiếp tục thưởng thức rượu.

Yvonne cảm giác sức nóng của giá nướng càng lúc càng tăng thì bắt đầu sốt ruột, vội vàng đổi cách nói: “Bất kể ngài muốn biết gì em đều nói cho ngài biết! Xin ngài hãy thả em xuống, tha cho em đi mà!”

Mammon cười đáp: “Đừng nôn nóng, vẫn chưa tới lúc.”

“Ngài muốn đợi đến chừng nào?” Ả cử động tay chân nhưng bị xích quá chặt nên phạm vi hoạt động chỉ còn một điểm nhỏ giữa giá nướng mà thôi.

Mammon nói: “Ta vẫn chưa ngửi thấy mùi thơm.”

“Mùi gì?”

“Mùi thịt nướng.”

Yvonne trợn mắt ra chiều không dám tin!

Phong cách của ngài Mammon đâu phải vậy!

Cả địa ngục đều biết đặc điểm nổi bật của ngài Mammon là giàu nứt khố đổ vách, phong độ đẳng cấp, dịu dàng đa tình, chơi bời trăng hoa! Cái tên đang cười như sát thủ biến thái trước mặt ả là ai vậy hở?

Lẽ nào sau khi gặp Metatron và biến thành gay, ngài mới trở nên lạnh lùng vô tình cố ý gây sự như thế này?

Đột nhiên tự thấy mình nói quá có tính thuyết phục.

Yvonne bỗng dưng ủ rũ gục đầu xuống, Mammon nhìn ả với ánh mắt ngờ vực, “Không khai sao?”

Yvonne hỏi: “Em khai rồi ngài có thả cho em một con đường sống không?”

Mammon đáp: “Thân là ma nữ… Nàng cảm thấy mình sẽ bị nướng chín được sao?”

Yvonne: “…” Đương nhiên! Không được. Tí nữa thì quên, lửa địa ngục ả còn chịu đựng được, làm gì phải sợ lửa để sưởi nướng chín. Ha ha ha ha!

Nhưng ả còn chưa kịp mừng thì câu tiếp theo của Mammon đã khiến ả lại suy sụp, “Nhưng da sẽ bị cháy sém.”

Yvonne dẩu mỏ, rất muốn ngưỡng cổ hét lên một câu: “Mấy thằng gay, bà đây đếch muốn phục dịch chúng bây nữa!” Nhưng giờ phút này ả làm sao dám, ả chỉ có thể nhỏ giọng nói: “Em thật sự không định giấu ngài, ngày muốn biết gì thì cứ nói. Ngài nói ra thì em khai ngay thôi!”

Mammon nhấp một ngụm rượu, cười sâu xa, “Vậy theo nàng thì ta muốn biết cái gì?”

Yvonne tự giác mở miệng: “Ngài Lilith nói chúng em không phải đi đối phó huyết tộc mà là đối phó với Nghịch Cửu Hội.” Bằng không trong trường hợp Lucifer chưa biết, ả làm sao dám theo Lilith đi gây hấn sâu sắc với huyết tộc như vậy.

Mammon bảo: “Tiếp tục.”

Yvonne nói: “Ngài Lilith không nói với em làm sao lại có được danh sách. Trước khi ngài rời rời nhân giới tới huyết tộc, ngài sai em đến Nam Cực tưới máu của trưởng lão Singh lên vùng đất phong ấn.”

Singh là một trong mười ba trưởng lão của huyết tộc, máu của ông ta có thể củng cố phong ấn. Lilith lấy được máu của ông ta cũng tức là được ông ta đồng ý. Nói như vậy Lilith và huyết tộc là cùng phe. Vở kịch ma nữ đuổi giết huyết tộc chỉ là đang diễn cho kẻ nào đó trong bóng tối xem thôi.

Mammon hỏi: “Tại sao nàng không về địa ngục?”

Yvonne giả ngốc, “Đâu có đâu, rời vùng đất phong ấn là em định về địa ngục ngay mà.”

Mammon mỉm cười, “Lửa thường không giết được nàng, nhưng nếu dùng lửa địa ngục thiêu thời gian dài thì khó chắc à nha.”

Yvonne cắn răng đáp: “Em thật sự định quay về địa ngục mà.”

Mammon đặt ly rượu xuống rồi đứng dậy.

Yvonne sợ đến cứng đờ cả người, đang do dự không biết có nên khai thật hay không thì đã nghe Mammon nói: “Vậy quay về đi.”

Cho về thiệt?

Hay giả?

Không đợi ả hỏi kỹ, Mammon đã biến mất trước mặt ả.

Đừng đi chớ! Nói rõ trước đã!

Dù không muốn nói thì ít nhất cũng phải thả ả ra trước!

Yvonne vuốt đôi mông bị nướng đỏ hồng mà thấy tan nát cõi lòng.

Mammon phải “tra tấn” mới moi được tin, còn giáo hội chỉ cần mở điện thoại lên là biết hết.

Derek phát hiện không biết bắt đầu từ khi nào, di động của mình đã bị mặc định thành dụng cụ liên lạc của giáo hội, không ít kẻ nhắn vào điện thoại của ông ta để mật báo. Ví dụ như chuyện “Oregon” hồi xưa, Ansbach đến giáo hội đón Oregon, hoặc như lần này, trong điện thoại ông ta lại có thêm danh sách những thành viên của Nghịch Cửu Hội đang nằm vùng ở nhân giới.

Ông ta không biết Nghịch Cửu Hội là cái gì nhưng nào dám phớt lờ, lập tức truyền tin cho Timothy.

Vì thế nên Timothy và quý ngài giáo hoàng tâm trạng rối bời lại phải họp để bàn bạc chuyện lạ này.

Giáo hoàng hỏi: “Lại không điều tra được thân phận của đối phương à?”

Timothy đáp: “Vâng, số điện thoại của đối phương là số trắng. Nhưng khác với người lần trước.”

Giáo hoàng hỏi: “Cậu xem thử danh sách ấy chưa?”

Timothy đáp: “Vẫn chưa xong.”

Danh sách quả thật dài lắm, ông vừa đọc vừa điều tra nên mới xem xong một phần ba. “Trước mắt tôi tra được những kẻ này đều là huyết tộc bị Lilith giết chết lần trước. Biết đâu đây là hành động Cain và Lilith ngầm thỏa thuận trước với nhau. Chả trách bên huyết tộc không truy cứu đến cùng.”

Ông vừa nói vừa lướt điện thoại, kéo đến cuối danh sách, mắt ông như bị hút chặt.

Giáo hoàng hỏi: “Sao vậy?”

Timothy giao điện thoại cho ông ta xem.

Giáo hoàng nheo mắt.

Hàng cuối cùng trong danh sách của Nghịch Cửu Hội không ngờ lại là:

Ansbach Malkavian.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 6: Gặp lại

Một linh hồn méo mó.

Từ sau giây phút đưa Oregon rời khỏi bảo tàng, Ansbach lúc nào cũng trong trạng thái hốt hoảng, niềm vui mất đi rồi lại giành được khiến anh thần hồn nát thần tính. Chạy lòng vòng trên đường càng làm tim anh căng cứng như cung đã lên dây chỉ chờ bắn tên.

Lúc Zofie xuất hiện, dây cung đứt cái phựt.

Kẻ nên tới thì đã tới, chuyện sau đó đã trót thì trét, mặc cho số phận thôi.

Nhưng khi mang Oregon và mèo đen đến Biển Đỏ, tâm trạng của anh bỗng dưng bình tĩnh lại nhiều, cũng như nước sôi khi để ngoài không khí quá lâu sẽ mất dần độ ấm, bắt đầu nguội lạnh.

Nếu mọi chuyện đã tệ hại đến mức khó lòng cứu vãn, tại sao lại không cho phép bản thân thoải mái một tí?

Anh phải chia cắt với người yêu của mình bao lâu nay, cớ chi không trân trọng những gì trước mắt?

Anh chọn một khu cách khá xa thành phố, trong phạm vi một dặm chung quanh không có lấy mống người để xây nhà. Vật liệu được anh đặt mua và dặn đưa đến chỗ anh cách khoảng trăm mét, sau đó anh tự mang về nhà từng chút một.

Có vài công nhân nhận tiền xong thì thấy áy náy nên đề nghị đưa hàng đến trước cửa nhà, còn bảo nếu cho vào sẽ thu ít tiền đi nhưng đều bị từ chối.

“Tôi không hy vọng vợ tôi nhìn thấy bất cứ sinh vật nào ngoài tôi ra.”

Vì câu này của anh mà cảnh sát đã ghé thăm một lần để xác định anh không phải đang lên kế hoạch thành lập tổ tội phạm. Ansbach kiềm chế cả nửa ngày mới đưa họ ra ngoài mà không chút sứt mẻ.

Sau khi nhà nhỏ xây xong, đồ nội thất đều do anh chọn và bày biện – Mua hàng online. Đa số nhân viên chuyển phát nhanh đều phải gọi điện thoại cho anh mới tìm được vị trí họ ở.

“Tấm rèm này tôi đặt mua trên trang web Trung Quốc, vải hơi thô, mép còn bị tưa… Nhưng có hình sứ thanh hoa em thích.” Anh vừa nói vừa treo rèm, sau đó còn bọc hộp khăn giấy lại bằng cái vỏ đồng bộ với rèm.

“Bộ ấm trà em thích, là đồ gốm của trấn Cảnh Đức.” Anh cẩn thận lấy bộ trà ra khỏi hộp, rồi lại nhịn không được mà than thở: “Trà em pha dở tệ, không phải quá nhạt thì là quá… Thôi, em vui là được hết.”

“À phải, người bán tặng kèm bộ lót kỳ lắm, tôi nghĩ em sẽ không dùng đâu, tôi bỏ vào kho nhé.”

Trang trí phòng khách xong xuôi, anh lại bồng Oregon vào phòng ngủ.

Phòng ngủ được bày biện hết sức đơn giản, trần nhà là một tấm gương đồng màu vàng, giữa phòng là giường, chung quanh xếp đầy hoa hồng.

“Em không thích ngủ trên giường nên phòng ngủ tôi thiết kế theo sở thích của tôi.” Anh đặt Oregon lên chiếc ghế hoa hồng, còn mình thì đi trải giường. Vừa trải anh vừa nhìn Oregon bằng ánh mắt sâu xa, dù đối phương không hề cho anh bất cứ hồi âm gì nhưng trong đầu vẫn có thể tưởng tượng để bù lại.

“Thật sự hy vọng…” Ansbach bị cảnh mình tưởng tượng trong đầu làm khô hết cả cổ, ngón tay anh vân vê đôi môi tái nhợt của y một lúc rồi đưa vào trong, dịu dàng tách răng y ra, nhẹ nhàng chạm vào đầu lưỡi của y. Cảm giác ướt át đánh thức hoàn toàn khát vọng nguyên thủy nhất trong máu của anh, anh nâng cằm người yêu mình lên và hôn…

“Meo.” Mèo đen bỗng nhiên bước vào.

Ansbach vẫn giữ nguyên tư thế đó, chỉ là mắt hơi liếc qua.

Mèo đen vẫy đuôi ra vẻ vô tội, dường như đang hỏi: Đang làm gì thế?

Ansbach luyến tiếc dùng lưỡi liếm môi Oregon rồi mới buông tay ra bồng mèo đen lên, “Bữa tối của em là thức ăn cho mèo.”

Mèo đen kêu lên thảm thiết.

Ansbach vẫn thờ ơ, “Nếu biểu hiện của em tốt thì có thể thêm chút nấm.” Khẩu vị của nó kỳ cục vậy đấy.

Mèo đen thở hắt ra, gục mặt xuống.

Ansbach nhanh chóng giải quyết vấn đề cơm nước cho nó và quay về phòng ngủ. Lỡ mất cơ hội, anh cũng chẳng nhất thiết phải thỏa mãn dục vọng gì nữa mà chỉ ôm lấy Oregon cùng ra bờ biển.

Bờ biển xanh biếc miên man, cả thế giới bỗng chốc trở nên bao la rộng lớn khó tả. Đứng trước cảnh biển, tâm trạng của Ansbach cũng cởi mở lây. Anh thả hồn bay bổng theo mây gió.

Anh chưa bao giờ thấy mình già, với một chủng tộc sống mãi không chết mà nói, vốn không có vấn đề già hay chưa già. Nhưng khi ôm Oregon, anh đột nhiên thấy ganh tỵ với những tháng ngày hữu hạn của con người.

Vì lo sợ thời gian vuột mất, bọn họ sống nghiêm túc hơn hẳn bất cứ chủng tộc nào khác. Tương lai của họ có đích đến cuối cùng. Bởi thế nên có rất nhiều người giữ lại giây phút đẹp nhất cho điểm dừng của đời mình, vậy nó sẽ biến thành vĩnh hằng.

Còn với huyết tộc, mặc cho giây phút hiện tại có đẹp đẽ nhường nào, sâu sắc nhường nào, vẫn sẽ phải trôi qua, mãi mãi không có hồi kết. Dẫu có cố gắng để giữ lấy, cuối cùng vẫn phải sợ có một ngày mất đi – Tương lai vô hạn đồng nghĩa với những khả năng vô hạn, mấy ai biết chắc sẽ ra sao.

Ansbach lại nghĩ tới một chuyện làm anh bất mãn.

“Tại sao em trễ vậy mới chịu tìm tôi?”

Hai người họ quen biết nhau là do Oregon đơn phương gây hấn trước – Oregon phủ nhận cách nói này. Theo lời của Oregon lại là: “Tôi chỉ muốn giao lưu tình cảm với đồng minh của mình trong thánh chiến, tình cờ thấy anh đang hãm hại một Gangrel, vì tình nghĩa với con cháu, tôi không thể không ra tay cứu giúp.” Ai mà biết để rồi sau đó bị anh truy đuổi đến cùng trời cuối đất.

“Biết vậy tôi đã sớm bắt vài cậu bạn nhỏ nhà Gangrel.”

Nhớ lại những ngày tháng đuổi giết Oregon, ánh mắt Ansbach dịu dàng gần như rơi lệ, “Dù bị tôi dồn vào đường cùng em vẫn phải giữ thói quen ngâm mình tắm rửa một tiếng mỗi tối trước khi đi ngủ. Không mua được sữa bò, nửa đêm nửa hôm em mò vào nông trường chăn dê vắt sữa dê uống. Lòng kiên trì với thói quen của em khiến người khác phải phì cười.”

Vì quá nhung nhớ Oregon nên trong khoảng thời gian không được gặp y, anh cố gắng mô phỏng theo y. Ban đầu là để tìm kiếm cảm giác y vẫn còn ở bên cạnh mình, sau đó lại phát hiện hóa ra cách này có thể giúp mình khống chế cảm xúc.

Anh vuốt ve mái tóc vàng óng của Oregon, “Em muốn dùng những điểm ấy để quyến rũ tôi sao? Em gian xảo thật đấy.”

“Được rồi, em đã thành công.”

“Chúc mừng em.”

Ban đêm, anh sẽ ở bên y cùng nhau ngắm sao, đến khi gió lớn mới quay vào nhà.

Mấy hôm sau, Ansbach phát hiện hồi ức mỗi lúc một ít dần thì sinh lòng bất mãn, “Em xem em kìa, cứ hết trốn đằng đông lại trốn đằng tây làm cho tôi không tìm được em, phí mất bao nhiêu thời gian để vun đắp những kỷ niệm đẹp đẽ rồi hả?”

“Đợi khi em tỉnh lại phải bù đắp hết nhé.”

Anh nhìn chằm chằm vào Oregon như đang chờ câu trả lời của đối phương.

Gió biển rít gào, bọt nước bắn tung tóa lên chân Oregon. Ansbach vừa lấy tay lau chân cho y vừa nói: “Em nhìn trời xem, thời tiết hôm nay chắc đẹp lắm.”

Vừa dứt lời, ánh mặt trời đã bị che khuất.

Trên không trung xuất hiện hai vị đọa thiên sứ đang cầm vũ khí đánh nhau, xem tình hình có lẽ còn lâu mới chấm dứt.

Ansbach đã sớm mặc định vùng này là lãnh thổ của mình nên rất khó chịu khi có người khác xông vào, song anh cũng không định tham gia vào cuộc chiến mà chỉ lặng lẽ bồng Oregon vào nhà.

Khoảng một tiếng sau, một trong hai nhân vật đánh nhau ban nãy – Zofie – xuất hiện trước cửa nhà anh.

Ansbach không mở cửa mà chỉ bảo “cút”.

Cửa bị gõ liên tục cứ như không mở quyết sẽ không dừng.

Được chừng năm phút, cửa cuối cùng cũng mở ra, Zofie thở phào nhẹ nhõm. Suýt nữa là cực hạn của hắn rồi.

Ansbach nhìn hắn bằng ánh mắt lạnh lùng, “Bọn ta phải ngủ trưa.”

Zofie lấy túi máu to chôm trong bệnh viện ra, “Quà ra mắt.”

Ansbach khinh bỉ.

“Không dẫn ta đi gặp vợ ngươi sao? Để tránh cho ngươi hiểu lầm rằng ta làm ơn để được báo đáp, ta thật sự không thể nhai đi nhai lại mấy chuyện liên quan tới ta và vợ ngươi hoài vậy được. Khi cậu nhà bị lũ huyết tộc trong vùng đất phong ấn mang đi, là ta đã cứu y và lại còn giao cho giáo hội, tạo dịp cho hai người đoàn viên.” Mỗi câu mỗi chữ của Zofie đều có ám chỉ sâu xa.

Thế nhưng Ansbach chả thèm quan tâm, “Ta không dính líu gì tới ngươi, y càng không dính líu tới ngươi.”

“Vậy thì nể tình chúng ta chẳng dính líu gì tới nhau, xin hãy cho ta ở nhờ vài hôm.” Zofie nói toạc ra mục đích của mình: “Gần đây chả biết địa ngục lại lên cơn gì mà tất cả đọa thiên sứ đều chạy tới nhân giới. Gây ra bao nhiêu rắc rối.”

Ansbach nói: “Họ gây rắc rối, họ tới tìm ngươi, tức là ngươi chính là rắc rối. Xin làm ơn né xa xa ra giùm cái.”

“Đừng vô tình vậy chứ!” Zofie tỏ vẻ đáng thương, “Lẽ nào ngươi không muốn biết nơi ở của bá tước Gordon?”

“Không.”

Thấy anh sắp sập cửa tới nơi, Zofie đành phải trơ trẽn lách nửa người vào, “Thế ngươi có muốn biết được nhược điểm của bá tước Gordon không?”

Ansbach nói: “Không phải là ngu xuẩn ư?”

Đáp án nằm ngoài sự tưởng tượng khiến Zofie nhất thời ngẩn ra, không biết nên trả lời ra sao.

Ansbach nói: “Nhìn ngươi là biết.”

“Ê. Ta đang đứng về phía ngươi đấy nhé.” Ansbach bỏ đi, hắn vội vàng đuổi theo, “Còn nhớ chứ? Ta đưa Oregon về bên ngươi, nếu ngươi không nhớ ta có thể nhắc lại lần thứ ba… Hi, ‘chị dâu’! Hôm nay trông ngươi không tệ nhỉ!”

Ansbach xuất hiện chắn ngay trước Oregon, lăm lăm gườm hắn đầy vẻ thù địch.

Zofie nói: “Đừng nhìn ta bằng ánh mắt đó, lợi ích của ta và ngươi liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta đều muốn tiêu diệt Gordon.” Hắn hung hăng huơ tay như muốn chém xuống.

Ansbach mỉm cười, nhưng Zofie chưa kịp mở cờ trong bụng thì anh đã từ tốn nói: “Lần trước ngươi kề vai sát cánh bên một vu sư, ba ngày sau vu sư đó bị phát hiện chết dưới cống rãnh.”

Zofie sượng ngắc nhưng lập tức cười to, “Vu sư đó ba mươi ngày mới tắm một lần, đầu tóc tanh như tảo biển, cổ trông như cổ vịt, gặp ngươi ngươi chịu nổi không? Quen bạn thì cần có thời gian tìm hiểu, ta và hắn chẳng qua chưa tìm hiểu trước mà thôi. Ngươi thì khác, ta và ngươi quen nhau bao nhiêu năm, gần năm trăm năm ấy chứ, hiểu nhau biết bao nhiêu.”

Hắn lân la đưa tay ra định đấm Ansbach một cái nhẹ để thể hiện tình bạn, nhưng lại nghe Ansbach tiếp tục nói: “Vậy chắc ngươi cũng biết hành vi hiện tại của ngươi ngu xuẩn đến mức nào.”

Thân là kẻ đứng đầu trong đám fan hôm mộ Gordon cuồng nhiệt, chuyện Zofie muốn giết Gordon cũng ba chấm như bảo trưởng thiên sứ muốn tiêu diệt thần.

Bên ngoài bỗng vang lên tiếng động.

Zofie cảnh giác quay lại nhìn, không đề phòng nên bị Ansbach tung cước đá bay ra khỏi cửa, lăn mấy vòng trên bãi cát mới dừng lại được. Ba đọa thiên sứ từ trên trời đáp xuống bên cạnh Zofie, mắt nhìn chằm chằm vào tên huyết tộc Ansbach đang mải kiểm tra xem cửa hư chỗ nào.

Ansbach nói: “Hắn ăn trộm.” Trước khi Zofie kịp phản bác, cánh cửa vốn đã liêu xiêu bị anh mạnh tay dập vào cái rầm.

Ánh mắt ba đọa thiên sứ chuyển sang Zofie, kẻ đang ngồi bệt dưới đất tìm cách trốn thoát.

Zofie cười gượng bảo: “Trời hôm nay đẹp vậy hay là cùng uống ly cà phê nha? Ta biết có quán khá phết.”

Đuổi Zofie đi xong, Ansbach chẳng những không an tâm mà còn cảm giác Gordon đang ở quanh đó rõ rệt hơn. Có thể trốn dưới biển hoặc trốn trong cát, cũng có thể trốn trong mấy khúc gỗ dùng để xây nhà. Tai mắt của Gordon không nơi nào không có, ông ta đang giám sát mỗi một hành động của anh.

Sự thất bại của Zofie chỉ khiến ông ta ra tay càng nhanh hơn.

Nhưng Ansbach lại không cảm thấy hưng phấn vì gặp được đối thủ tương xứng hay hoảng sợ vì phải suy tính thiệt hơn. Hình như tất cả mọi nhiệt tình, mọi cảm xúc mãnh liệt đều đã lắng đọng, cũng như tình yêu của anh. Sau khi gặp Oregon, đã không còn ai có thể làm tim anh rung động nữa.

Câu Oregon thích nói với anh nhất là “Anh bình tĩnh tí nào.”, anh không hiểu. Khi máu đang chảy rần rần trong người anh, không ngừng sục sôi kêu gào, anh ngốc đến cỡ nào mới chui vào tủ lạnh ngồi cho mình “bình tĩnh” chứ?

Nhưng giờ anh hiểu rồi. Thì ra bình tĩnh chính là, em thích làm thế nào thì làm thế nấy, tôi nên thế nào thì làm thế nấy.

Có điều sự bình tĩnh này không thể nào xuất hiện khi anh đối diện với Oregon. Mặc cho Oregon có tỉnh lại hay không, hoặc lúc nào mới tỉnh lại.

Anh vuốt ve gương mặt của Oregon, hôn lên môi y rồi cười bảo: “Không vui cũng đành chịu thôi.”

“Ai bảo vận đỏ của tôi lại là vận đen của em.”

Anh không rời khỏi Oregon nửa bước, cả mèo đen cũng không được biến mất khỏi tầm nhìn của anh.

Với việc anh dời bồn cát đến bên giường mèo đen vô cùng bất mãn, có một lần để tránh ánh mắt soi mói của anh, nó còn chui vào bụi hoa hồng giải quyết, cuối cùng bị gai đâm cho mấy chỗ. Máu rỉ ra từng những vết thương bé xíu, mùi máu lan tỏa trong không khí, dù mèo đen có cố gắng liếm sạch thế nào vẫn không qua mắt được anh.

Ansbach ngồi trên giường ngoắc tay với nó, vẻ mặt anh trông khó đoán vô cùng.

Mèo đen nằm rạp xuống vẫy đuôi nịnh bợ.

“Bắt chước chó cũng vô dụng.” Ansbach mỉm cười bảo: “Nếu em không biết cách nghe lời, vậy tôi chỉ đành dạy cho em biết cách sợ.”

Lông trên người mèo ta dựng đứng cả lên, tỏ vẻ đề phòng cao độ.

Giằng co với mèo được một lát, Ansbach đột nhiên đưa tay lên vuốt tim, “Ánh mắt của em khiến tôi khó chịu quá.”

Mèo đen ba chân bốn cẳng phóng thẳng ra cửa, nhưng móng vuốt còn chưa chạm vào cánh cửa, đuôi nó đã bị người ta túm lấy.

Ansbach túm đuôi xách ngược nó lên, từ trên cao nhìn xuống mèo đen, “Em mập lên rồi, trông chả khác nào chuột đột biến gien.”

Mèo đen vùng vẫy kháng nghị.

Ansbach nói: “Em nên giảm béo là vừa.”

Anh chế ra một cái lồng xoay hình cầu rồi thả mèo vào trong, “Em có thể bắt chước mấy con chuột bạch ấy, thừa năng lượng quá thì tiêu bớt vào mấy hoạt động vô vị này đi.”

Mèo đen quay đi, cho cái mông tròn vo của mình đối diện với anh để bày tỏ sự kháng nghị.

Nửa tháng liền không có chuyện gì mới.

Ansbach thấy hơi ngoài ý muốn.

Theo những gì anh biết, Gordon không phải kẻ biết nhẫn nại, lão ta không ăn lẩu hay thịt nướng là vì không muốn chờ lâu, thứ lão ta thích nhất là salad. Đến giờ vẫn chưa ra tay chỉ có thể do hai khả năng: Một là lão ta đang ấp ủ âm mưu nào đó, hai là bị chuyện khác ngáng chân.

Những phán đoán lướt qua não anh như làn nước, cả những giọt sót lại cũng từ từ bốc hơi sạch bách.

Tại sao phải tốn dung lượng não cho mấy thứ chẳng đâu vào đâu? Rõ ràng mỗi việc giả thành Oregon còn không đủ dung lượng để dùng.

Ansbach ôm Oregon nằm trên giường, hài lòng ngắm nhìn hình ảnh phản chiếu trong tấm gương đồng trên trần nhà.

Êm dịu xiết bao.

Ấm áp xiết bao.

Ngón tay của anh mân mê trên lưng Oregon rồi chầm chậm lân la xuống dưới…

“Meo.” Mèo đen đang ngủ ở cuối giường bỗng đứng phắt dậy, duỗi lưng một cái rồi nhảy lên cẳng chân của anh, đạp qua đầu gối đi đến trên đùi, lướt qua chỗ rốn và giẫm lên ngực Ansbach.

Ansbach rũ mắt nhìn nó, trong mắt tràn đầy bực dọc vì bị phá rối không buồn che giấu.

Mèo đen nhảy vào giữa hai người, cuộn tròn lại rồi đưa cái bụng mềm mại ra.

Ansbach xoa cái bụng mềm mại của nó, “Mập rồi.”

Anh vừa nói dứt lời, bụng mèo ta liền vang lên tiếng “ùng ục”.

Ngón tay đang mơn trớn trên bụng mèo của Ansbach dừng lại, anh nhướng mày hỏi: “Sao em không biến thành con heo luôn cho rồi?”

Mèo đen ưỡn ẹo rồi nằm nghiêng qua một bên, trông như bị tổn thương tan nát cõi lòng.

Ansbach bật dậy, bồng Oregon nhảy xuống giường rồi quay lại mỉm cười bảo với con mèo đang nằm giả chết: “Giờ đi theo tôi hoặc lát nữa tôi mang dao qua mần thịt em.”

Mèo đen lộn một vòng rồi đứng dậy duỗi người, nhảy khỏi giường, lon ton bám theo với kiểu đi quý sờ tộc.

Cho nó ăn lương khô mèo mấy ngày liền, lương tâm của Ansbach cuối cùng cũng lên tiếng, anh quyết định cải thiện bữa ăn của nó. Anh khui một hộp cá mòi trộn với hai muỗng khoai nghiền, nếm thử rồi đắc khen: “Hoàn hảo.”

Ngửi thấy mùi thơm, mèo đen nhảy lên bếp ngoan ngoãn ngồi chờ.

“Mỗi ngày em ngoan nhất là vào lúc này.” Anh để thức ăn vào bát, vừa ngước lên lại nghe thấy tiếng gõ cửa, anh lẩm bẩm: “Nếu em biết mở cửa thì càng ngoan hơn.”

Mèo đen đi vòng qua bát thức ăn, chu mông về phía anh.

Ansbach túm cổ nó lên ném vào phòng khách, đặt Oregon lên sô pha, đang chuẩn bị mở cửa thì cửa ngã xuống cái rầm. Cũng chả phải bị đập ngã, chẳng qua nó đã hư sẵn rồi.

Một đọa thiên sứ vẫn đang giữ nguyên tư thế gõ cửa, vẻ mặt từ kinh ngạc chuyển thành xấu hổ, “Ta sẽ đền.”

Ansbach trả lời không thèm khách sáo: “Gỗ thiết sam.”

“Ngươi là Ansbach?” Câu chuyện tình yêu của Oregon và Ansbach vẫn chưa lan truyền tới địa ngục, vì vậy đọa thiên sứ nhìn anh với ánh mắt rất chi là bình thường.

Ansbach khoanh tay nhìn gã.

Đọa thiên sứ nói: “Zofie bị bắt, hắn khai ngươi là đồng bọn của hắn, cũng là thành viên của Nghịch Cửu Hội.”

Ansbach nói: “Thông minh như ngươi đương nhiên sẽ không tin mấy lời nhảm nhí của hắn.”

Đọa thiên sứ mỉm cười thoáng vẻ đắc ý, “Hắn còn khai ra không ít tên. Cả ngài Lucifer, ngài Baal cũng không may mắn tránh được.” Gã ngừng lại một chốc, “Nhưng ngươi vẫn cần phải đi theo ta một chuyến.”

Ansbach nói: “Ta là huyết tộc.”

Đọa thiên sứ nhún vai, lùi lại nửa bước.

Sau lưng gã rợp những đôi cánh đen, đếm sơ có vẻ là hai, ba mươi đọa thiên sứ.

Ansbach cau mày.”

“Hắn khai ra danh sách khá dài, bọn ta không có nhiều thời gian.” Gã đang ám chỉ sẽ không giữ Ansbach quá lâu.

“…Được thôi.”

Ansbach mỉm cười quay đi, mặt anh lập tức căng cứng.

Dám uy hiếp ta!

Cơn phẫn nộ khống chế tứ chi của anh, khống chế toàn bộ thân thể của anh, mỗi tấc da thịt đều như bị lửa giận thiêu đốt.

Nhưng suy nghĩ của anh lại bình tĩnh đến lạ, nhất là khi nhìn thấy Oregon đang yên tĩnh ngồi trên sô pha. Linh hồn và thể xác chẳng khác nào hai cán cây tiểu ly đang bấp bênh không ngừng.

Thân thể thôi thúc anh xông lên bẻ gãy đôi cánh của đám đọa thiên sứ, để chúng không bao giờ bay được nữa, suốt đời suốt kiếp phải lưu lạc dưới địa ngục!

Đầu óc lại nhắc nhở anh phải bảo vệ sự an toàn cho Oregon. Anh không còn là kẻ không biết sợ là gì nữa rồi.

Ansbach gồng người đi đến bên sô pha, cúi xuống nắm lấy tay của Oregon rồi vùi mặt vào tay y. Anh nghĩ chắc mình mắc phải chứng “thèm thịt”, chỉ mỗi Oregon mới cứu được.

“Xong chưa?” Đọa thiên sứ mất kiên nhẫn. Họ còn cả đống việc phải làm, ai mà rảnh đứng đây xem kịch câm, hơn nữa còn là vở diễn không đầu không đuôi!

Ansbach đứng dậy, cõng Oregon trên lưng rồi ngoắc tay vẫy mèo đen.

Mèo đen phóng khỏi sô pha, đạp lên tay anh để trèo lên vai.

“Đi thôi.”

Đọa thiên sứu không hề gạt anh, Zofie quả thật đả nhả ra không ít tên tuổi, đều là những sinh vật quái lạ. Trong quan điểm của anh, ngoài huyết tộc và nhân loại, những sinh vật khác đều có hình thù dị dạng. Đọa thiên sứ và thiên sứ cũng thế, ai lại đem cánh gà gắn vào lưng cơ chứ?

Mặt anh lạnh như băng, luôn luôn giữ khoảng cách nhất định với các đọa thiên sứ.

Tướng mạo Ansbach vốn rất điển trai, khi anh mỉm cười thể hiện phong độ, ai cũng cho rằng anh là một cậu quý tộc được nhận nền giáo dục cao cấp, phẩm chất tốt đẹp. Nhưng khi mặt anh lạnh như tiền, không hề chê giấu sự u ám trong lòng, lại như một lữ khách cô đơn đi trong thế giới tăm tối, kiêu ngạo, lạng lùng, khó bề thân cận.

Anh rất hài lòng với tình hình hiện nay. Chỉ cần xem những sinh vật khác như xác chết, vậy Oregon và anh vẫn đang hưởng thụ thế giới hai người một mèo.

Người trong suốt, người lùn, titan… Đội ngũ của họ càng lúc càng đông, số lượng đọa thiên sứ trông có vẻ ít ỏi.

Một tên người lùn ngồi trên vai người trong suốt, dè dặt thò đầu qua dòm, “Thật không ngờ tôi lại có thể gặp được vị huyết tộc cao quý ở đây, tôi cứ tưởng chỉ có những sinh vật yếu ớt nhỏ bé như bọn tôi mới phải khuất phục trước họ.”

Gây ly gián lộ liễu cỡ nào.

Ansbach liếc gã, trông anh như đang cười lại không phải cười, anh chỉ nói cho có lệ: “Ta cũng không ngờ.”

“Chúng ta vô tội mà, bị oan đó mà. Tôi nào có biết ai là Zofie, còn chưa bao giờ nghe nói nữa chứ!”

Tìm kiếm đồng minh.

Ansbach đáp: “Ừ, vô tội.”

Người lùn thở dài nói: “Nhưng dẫu có thế thì ai tin chúng ta chứ? Các vị ma vương ở địa ngục nào có thời gian tra xét, cứ nghi ngờ là diệt trừ hết. Trong mắt bọn họ, những sinh vật bé nhỏ như chúng ta vốn không đáng để họ lãng phí thời gian.”

Ansbach đặt mình vào hoàn cảnh của đối phương, anh gật đầu đáp: “Cũng có thể.” Nếu là anh thì hoàn toàn có thể mới đúng.

Người lùn thấp giọng đáp: “Chúng ta không thể ngồi yên chờ đợi.”

“Hửm?”

“Tôi đã liên lạc xong xuôi, đa số người trong đội ngũ này đều đồng ý tham gia. Chúng ta chiếm ưu thế về số lượng, tuyệt đối có thể đánh bại họ để trốn thoát. Đương nhiên tiền đề là phải có sự giúp đỡ của quý ngài huyết tộc hùng mạnh đây ạ.”

Ansbach nói: “Ta chỉ chăm sóc cho vợ ta.”

Người lùn bấy giờ mới phát hiện Oregon không bình thường, “Ngài ấy sao vậy ạ? Mệt quá hả?”

Ansbach u ám liếc gã một cái, “Ta không thích kẻ khác nhìn y.”

Người lùn vội vã nhìn sang chỗ khác, “Nói tóm lại chúng ta sẽ hành động vào tối hôm nay.”

Họ quả thật hành động vào tối hôm đó, một buổi tối trăng rất sáng rất tròn. Titan nhổ cây ném về phía đọa thiên sứ, đọa thiên sứ tức giận phản kích! Người lùn chế tạo máy bắn đá đơn giản tấn công từ xa. Người trong suốt dựa vào ưu thế thể chất để lợi dụng đánh lén.

Nơi nơi hỗn loạn.

Ansbach ôm Oregon ngồi trên ngọn cây phía xa, vô cảm theo dõi trận chiến máu me đang xảy ra.

Cuộc chiến kéo dài thêm nửa tiếng rồi dần đi đến hồi kết.

Dù liên minh các chủng tộc có chiếm ưu thế về số lượng nhưng sức chiến đấu của đọa thiên sứ hơn hẳn bọn họ.

Máy bắn đá bị đập vụn thành đá.

Người trong suốt bị đâm rách da, máu chảy lênh láng trên con đường họ chạy trốn.

Kết quả chẳng bất ngờ chút nào.

Tên người lùn lên tiếng nhờ Ansbach giúp đỡ ban nãy bất thình lình chạy thẳng về phía anh. Đôi mắt đen láy của gã lóe lên đầy vẻ kích động, đám tàn binh hùa theo chạy ào ào về phía Ansbach như quyết tâm được ăn cả, ngã về không.

Ansbach khó chịu cau mày.

“Quý ngài, chúng tôi đã làm theo lời ngài căn dặn… Quý ngài!” Người lùn luôn mồm gào thét để thu hút sự chú ý của đám đọa thiên sứ.

Như vậy sợ rằng dù Ansbach có bỏ đi cũng không cách nào rửa sạch được mối hiềm nghi.

Ansbach nheo mắt, lúc mắt anh mở ra, tròng mắt của anh đỏ rực như máu. Anh để lộ răng nanh, quay sang nhe răng mỉm cười với gã người lùn rồi xông tới!

Cổ của người lùn đã chạm đến bờ môi, chỉ cần cắn xuống thôi là có thể nếm được vị thơm ngon của máu tươi, cũng chính là cái giá đối phương phải trả vì hãm hại anh.

Meo.

Hình như là mèo đen đang kêu.

Ansbach bắt lấy vai người lùn, từ từ há miệng ra…

Sau đó dùng sức đánh mạnh một quyền!

Ngay lập tức…

Người lùn biến mất.

Titan biến mất.

Người trong suốt biến mất.

Đọa thiên sứ biến mất.

Khu rừng rậm cũng biến mất.

Trước mắt anh là ngôi nhà nhỏ thân quen, tấm rèm sứ thanh hoa chính anh chọn rũ xuống hai bên cửa sổ. Gió lướt qua thổi tung tấm rèm, mang theo hơi ẳm đặc trưng của biển vào phòng.

Anh nghiêng đầu nhìn, Oregon vẫn đang ngồi trên chiếc sô pha phía đối diện ngủ một cách yên bình.

Mèo đen giẫm lên đùi anh, nó cũng nghiêng đầu theo, đôi mắt xanh ánh vàng lấp lánh có hồn của nó nhìn anh chăm chú.

Tất cả vẫn như một ngày bình thường.

Cũng tức là ban nãy anh mơ thấy ác mộng ư?

Không, không phải.

Anh đứng dậy đi đến bên cửa sổ và nhìn ra biển.

Nước biển xanh lam trong vắt giờ đã biến thành màu đỏ, lấn dần vào bờ cát và chậm rãi lan đến căn nhà từng chút, từng chút một.

Là Gordon. Lão ta đã tới.

Ban nãy không phải là ác mộng, là đòn phủ đầu của lão ta.

Gió bỗng nổi lên cuồn cuộn, len lỏi vào tất cả những khe hở của nhà gỗ tạo nên tiếng rít gào như sói tru quỷ khóc, cửa kính bị chấn động vỡ tan tành.

Ansbach mở cửa sổ ra.

Gió ào ạt lùa vào.

Rèm cửa bị thổi bay phần phật. Lúc này mới biết rèm dỏm cũng có cái hay của nó, ít ra không bị thổi bay tán loạn như lụa mỏng. Hộp khăn giấy trên bàn bị thổi bay ra tới gần cạnh bàn, sau đó rơi xuống lộn mấy vòng dưới đất, rồi lại tiếp tục bị thổi bay vào bếp. Mấy tờ giấy ghi chép đặt bừa trên kệ càng bay tứ tung, phấp pha phấp phới trong gió.

Đồ đạc trong nhà bị lăng nhục như vậy mà Ansbach vẫn không chịu đóng cửa sổ. Mắt anh dán vào nước biển đang lấn dần vô bờ. Dòng nước đỏ tươi giao thoa vào nhau tạo nên một câu thăm hỏi:

Ansbach, cậu ổn chứ.

Lần nào gặp Gordon, Ansbach cũng thấy trước chữ “ổn” phải thêm vào chữ “không”, hoặc nếu được dùng nhiều chữ hơn thì sẽ là “không hề”.

Lần đầu tiên gặp Gordon là khi nào?

Hình như trong con hẻm nhỏ tăm tối.

Anh ngồi gần cửa sau của quán bar nhìn mấy huyết tộc đời mười bốn, mười lăm chém giết lẫn nhau. Khi mặt trời mọc, những tên huyết tộc cấp thấp không trốn vào chỗ tối kịp lúc đều tan thành tro bụi.

Lúc bấy giờ Gorgon mặc khoác chiếc áo choàng màu xám rộng thùng thình chầm chậm xuất hiện từ đầu hẻm bên kia. Lão ta cầm cây chổi nhỏ quét hết tro bụi vào ki, sau đó đổ vào túi vải của mình.

Dù thái độ của lão vừa cứng nhắc vừa khô khan nhưng Ansbach vẫn cảm nhận được mùi của kẻ điên tỏa ra dưới lớp áo choàng.

Đồng loại và đồng loại vốn có thể bị thu hút bởi hơi thở của nhau.

Gordon đúng thật là kẻ điên. Lão ta xem thường thiên đường, xem thường địa ngục, xem thường tất cả sinh vật không phải con người, nhưng lại đau đớn vì sinh mạng ngắn ngủi và cuộc sống đơn điệu của nhân loại. Lão cho rằng con người là loài có sức sống mãnh liệt nhất trong cửu giới. Họ vừa thông minh vừa sáng tạo, gan dạ và cầu tiến. Con người không được Thần ban cho sức mạnh nhưng biết sử dụng khoa học kỹ thuật để đạt đến trình độ mà cả sức mạnh Thần ban cũng khó bì kịp.

Máy bay mang con người đến với nhau, điện thoại kết nối con người trên khắp thế giới, máy tính dùng để chia sẻ thông tin với nhau.

Càng điên hơn là lão ta cho rằng mình đại diện cho sự thông minh của nhân loại – Đây chính là nguyên nhân Ansbach khẳng định lão điên. Gordon bất mãn với sinh mạng trăm năm của con người, nhưng lại không muốn từ bỏ thân phận con người, vì vậy dùng cả trăm phương ngàn kế để tìm cách sống thọ mãi mãi.

Từ một nhà vật lý học lão ta chuyển sang học sinh vật, cuối cùng vì dục vọng trong cơ thể bộc phát mỗi ngày một mãnh liệt, lão lựa chọn trở thành hắc vu sư – tên gọi chung của nhân loại học vu thuật. Còn vu tộc mới sinh ra đã biết vu thuật, được gọi là bạch vu sư. Nhưng chỉ có mỗi nhân loại dùng cách phân biệt như vậy.

Theo quan điểm hiện tại của Ansbach, Gordon chính là một tên tự luyến chính hiệu, nhưng kỳ quái ở chỗ nếu là Ansbach của ngày xưa, anh lại cho rằng mình và lão chẳng khác nào đôi người xấu hợp nhau đến lạ.

Khoảng thời gian lúc mới hợp tác đúng là không tệ, nhưng Gorgon càng ngày càng sa đọa – Để sống thêm một giây, lão ta có thể nhét nguyên con chuột chết vào mồm không chút do dự. Tình “hữu nghị” của hai người bắt đầu rạn nứt. Gordon càng ngày càng bảo thủ, bắt đầu nghiên cứu cách khống chế tinh thần, càng ngày càng mất đi lý trí, phần lớn thời gian đều như kẻ tâm thần mắc chứng hoang tưởng, ngu ngốc đến mức Ansbach không thể nào hiểu được.

Hai người rã đám chả mấy vui vẻ, Gordon tiếp tục chiêu mộ người, còn Ansbach gặp được Oregon, cuộc sống của hai người bắt đầu thay đổi theo hướng hoàn toàn mới. Ban đầu là nước sông không phạm nước giếng, về sau Gordon tự xưng là kẻ mạnh nhất trong cả chín giới, vô cùng tức giận với hành vi phản bội của Ansbach. Nhưng Ansbach còn chả biết mình biến thành cấp dưới của lão từ hồi nào nữa chứ!

Gordon bắt đầu xuất hiện bên cạnh anh với tần số cao hơn, đồng thời lợi dụng đường tình duyên gập ghềnh của hai người để mê hoặc anh, khiến một Ansbach cảm xúc không mấy ổn định càng rơi vào trạng thái điên cuồng, đến nỗi gây ra những chuyện anh vô cùng hối hận nhưng không có cách nào sửa đổi.

Mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, tinh thần của Ansbach dao động mãnh liệt, không thể không nhìn mèo đen để cố ép mình phải bình tĩnh lại.

Ống quần của anh bỗng giật giật, cúi đầu nhìn xuống thì thấy mèo đen đang nằm lên giày anh, cọ đầu vào chân anh.

Anh khom người bồng nó lên, “Dường như càng ngày em càng thông minh.”

Nó nghiêng đầu, đôi mắt tròn xoe như hai hòn thủy tinh híp lại, sau đó ngáp một cái.

Ansbach vuốt đầu nó.

Cát trên bờ biển bỗng nhiên “bật dậy”, từ từ xếp thành hình người, hơn nữa còn là người quen.

Ansbach lẳng lặng đếm số bạn mới bạn cũ vừa xuất hiện.

Trưởng lão mười ba gia tộc.

Macewen.

Lão Benson.

Winston, Edwin.

Baal, Vương Tiểu Minh.

Yvonne.

Còn có cả Mammon.

Anh mỉm cười. Đội ngũ hùng mạnh thế này thật khiến cho kẻ khác phải kinh ngạc. Nếu thiên sứ liên lạc với anh ẩn mình trong ánh sáng thì có lẽ cũng đã xuất hiện ở đây. Đáng tiếc thật, còn tưởng vu thuật của Gordon có thể biến ra hình dáng thật của gã đấy, nào ngờ anh vẫn chỉ có thể tự tưởng tượng ra thôi.

Macewen đi đến trước mặt anh, mở miệng nói chuyện một cách cứng ngắc: “Ngươi phá giải bằng cách nào?” Vừa mở miệng là có thể nghe thấy giọng nói khô khốc ngang phè của Gordon.

Ansbach đáp: “Trí tưởng tượng của ông rất phong phú, tình tiết cũng đa dạng. Zofie bị bắt khai ra cả đống tên. Đọa thiên sứ bắt bọn ta dẫn đi. Nhưng dường như ông quên mất chuyện người lùn vốn sống trong giới người lùn, titan sống trong giới titan, làm sao chỉ đi một vòng quanh Biển Đỏ là ‘sưu tập’ được hết.”

Tượng cát của Macewen sụp đổ.

Ansbach cũng muốn hỏi xem lão bắt đầu thôi miên anh để anh đi vào ác mộng từ lúc nào. Là khi đọa thiên sứ gõ cửa, hay là từ khi đọa thiên sứ đuổi giết Zofie… Mỗi lần Gordon dùng hắc vu thuật thôi miên đều sẽ để lại một ám hiệu, lẽ nào lần này là đọa thiên sứ? Tại sao lại là đọa thiên sứ? Vì anh từng gặp Mammon và Baal ư?

Nếu đọa thiên sứ là dấu hiện anh đã đi vào giấc mộng, vậy anh của hiện tại có phải cũng đang ở trong mộng hay không?

Hay là anh vốn chưa từng tỉnh dậy.

Anh cúi đầu nhìn mèo đen.

Từ lúc tỉnh lại trên sô pha đến giờ, mèo đen vẫn nhìn anh chằm chằm nhưng chẳng kêu lấy một tiếng.

Nếu đọa thiên sứ là dấu hiệu việc anh đang nằm mơ, tiếng mèo kêu phải chăng là dấu hiệu anh tỉnh táo không nhỉ, giống như khi anh đầu hàng trước nổi cám dỗ chuẩn bị cắn người lùn, tiếng mèo hiếm hoi lại vang lên?

Trong lúc anh đã suy nghĩ, Mammon đã đến ngay trước mặt anh, “Chúng ta hãy bàn một giao dịch.”

“Giao dịch gì?”

“Giết Edwin và Winston, ta sẽ mở phong ấn của Oregon ra. Oregon do ta phong ấn, hắn biến thành thế này đều do ta cả, vì vậy kẻ đủ khả năng giúp hắn trở lại bình thường chỉ có mỗi mình ta mà thôi.”

Ansbach siết tay thành đấm.

Đối phương không hề muốn trao đổi điều kiện mà là đang chọc giận anh.

Giống như bao nhiêu lần trước.

Khiến anh nổi điên đánh mất lý trí, biến thành con rối bị chi phối bởi kích động và bạo lực.

Trong quá khứ anh đã như vậy vô số lần, nhưng hiện tại lại khác.

Anh mất đi Oregon.

Cái giá quá đắt cho sự kích động của mình.

Ansbach đột nhiên tháo nhẫn ra rồi bóp nát!

Động tác trong mơ có ảnh hưởng đến hiện thực chăng?

Lúc Ansbach mở mắt ra, nghe thấy tiếng kêu đau xót khản đặc của mèo đen thì anh đã biết, có.

Anh nhìn chung quanh, Oregon vẫn còn ở đây. Dù có đi vào giấc mộng, y vẫn được anh ôm chặt trong lòng. Mèo đen… đang đạp lên đầu của anh, cào rối tóc anh, phát hiện anh tỉnh lại nó bèn nhảy xuống, hắng giọng một tiếng rồi rúc vào lòng Oregon ngủ ngon lành.

Có thể nhận ra nó đã quá mệt, cả sức đòi vuốt cũng không còn.

Ansbach dịu dàng vuốt lưng nó.

Là em đúng không?

Dù em không có ý thức, em vẫn theo bản năng mà bảo vệ tôi?

Tâm trạng anh vốn phải rất điên cuồng, rất phẫn nộ, nhưng tình cảm mèo den dành cho anh đã xua đi hết những khó chịu trong lòng anh, cho phép anh lấy lại bình tĩnh.

Hiện giờ họ không đang ở trong nhà gỗ mà đang đi đến khu rừng rậm nhỏ sau nhà. Theo dấu vết để lại, chính là anh bồng Oregon đi qua nơi này. Là hành vi vô thức trong lúc mơ ư? Lúc đó chắc anh trông chẳng khác nào cương thi, mặt nghiêm túc, mắt nhắm lại, đi lòng vòng một cách cứng đờ.

Mèo đen nhất định bị dọa.

Nhưng anh cũng cảm nhận được cảnh trong mộng có ảnh hưởng đến hiện thực, vì vậy mới kịp thời bóp nát chiếc nhẫn.

Chiếc nhẫn trên ngón trỏ trái của anh bị bóp hở ra một cái khe nhỏ đủ để đựng một giọt nước. Giọt nước thánh bên trong đã dùng hết, nó chính là quà thiên sứ trong ánh hào quang tặng cho anh, tinh khiết hơn nước thánh của giáo hội nhiều, có thể dễ dàng giải trừ hắc vu thuật.

Chiếc nhẫn vốn do Gordon đích thân chế tạo, nó dung hợp với máu của Oregon, sau đó dùng nước thuốc luyện bằng hắc vu thuật để che giấu mùi máu của chính mình, như vậy mùi máu trên nhẫn sẽ giúp anh ngụy trang thân phận. Tiếc rằng máu bị pha với nhiều loại thuốc nên không tinh khiết, vì vậy đám huyết tộc khác không ngửi ra đời thứ mấy.

Nhìn chiếc nhẫn trống rỗng, anh miết trán.

Hơn một trăm năm chờ đợi lại thất bại trong gang tấc.

Trước khi đến Biển Đỏ, trong lòng anh đã vạch sẵn kế hoạch – Tìm Gordon, hắt nước thánh lên người lão ta, tháo gỡ triệt để gút mắt giữa anh và lão. Nhưng kế hoạch lại thay đổi, nước thánh bị dùng trước khi cần thiết, chưa kịp dính vào cả sợi lông của Gordon.

Anh không thể không tìm cách khác.

Ví dụ như tìm thiên sứ trong ánh hào quang xin thêm một giọt?

Mỗi lần họ gặp nhau đều do đối phương liên lạc với anh trước. Sau lần trước, chỉ sợ thiên sứ sẽ cho rằng mối quan hệ hợp tác của hai người đã kết thúc. Vì anh cũng nghĩ thế. Giá trị lợi dụng của thiên sứ chỉ là giải phong ấn cho Oregon, nếu không được thì đường ai nấy đi thôi.

Hay là báo với Edwin chuyện Gordon muốn giết chết hai người bọn họ? Như vậy anh sẽ có thêm đồng minh. Có Baal và Vương Tiểu Minh, phần thắng của họ sẽ cao hơn.

Nhưng thân phận đúng là mối phiền lớn cho anh. Đa số các trưởng lão chắc chắn không thích nghe tin anh đã bỏ trốn.

Trên thực tế, ngụy trang được lâu vậy đúng là ngoài sức tưởng tượng của anh.

Trong lúc thánh chiến nổ ra, anh và Oregon đang mải vờn nhau nên số lần tham gia thánh chiến chỉ đếm trên đầu ngón tay. Kẻ thật sự gặp được hai người họ không nhiều, rồi sau đó thánh chiến kết thúc, rất nhiều huyết tộc cấp cao không muốn ở lại nhân giới – nơi tràn ngập ký ức chiến tranh, nên đều quay về huyết tộc, chuyện này đúng là trời giúp cho việc anh giả dạng làm Oregon.

Để tránh thân phận bại lộ, anh chỉ ru rú trong nhà, sống âm thầm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, chỉ có hai chuyện khiến anh cảm thấy hứng thú.

Một là hợp tác với vị thiên sứ trong ánh hào quang chủ động tìm đến anh, điều kiện là tìm cách giải bỏ phong ấn của Oregon. Sau khi thăm dò, anh phát hiện thiên sứ không có ấn tượng tốt với “Ansbach” mà lại rất đồng cảm với “Oregon”, vì vậy anh giữ nguyên thân phận Oregon hùa theo thiên sứ, lên án hành vi “man rợ” của Ansbach, ngầm ám chỉ mình muốn giải phong ấn chính là để giết chết y. Quả nhiên thiên sứ nhận lời.

Một chuyện khác là tự rèn luyện, học cách khống chế cảm xúc. Anh nghĩ ra phương pháp mô phỏng. Mô phỏng theo cách ăn nói, kiểu suy nghĩ và thói quen sinh hoạt của Oregon. Ban đầu khó vô cùng, một trong những mâu thuẫn giữa anh và Oregon chính là anh không thể nào hiểu được lối tư duy của y. Nhưng dần dần đắm chìm trong mơ tưởng “Oregon đang ở cạnh mình”, thậm chí “ở ngay trong cơ thể mình”, anh bắt đầu cảm nhận được hơi thở của Oregon, hơn nữa mỗi khi nhớ lại chuyện cũ lúc còn là kẻ thù của Oregon, anh cho rằng mình đã quá vô lý.

Ai cũng bảo Malkavian đều điên cả, nhưng mấy ai ngờ được hóa ra bệnh điên ấy có thể trị khỏi?

Ansbach vuốt ve gò má của Oregon, dùng móng tay khều đi đất cát dính trên mặt y, không ngừng lắng nghe tiếng động trong rừng cây.

Bấy giờ là buổi chiều tà, trên trời bồng bềnh trôi vô số mây hồng, lá cây xanh mướt có mảng bị nhuộm đỏ rực, có mảng bị nhuộm vàng ươm như bừng cháy. Không khí gần biển ẩm ướt mà ngột ngạt, lá cây đung đưa khẽ đến mức khó lòng nhận ra.

Bất thình lình, những hàng cây rậm rạp trong rừng dạt qua hai bên tạo thành một con đường, cái bóng màu đen khổng lổ theo đó phóng ra! Ansbach nhe nanh rống lên, hai tay bắt lấy cặp sừng trên đầu bóng đen ngăn chặn thế tấn công của nó!

“Meo!!!” Mèo đen rít lên chói tai, eo Ansbach chợt nhói lên, cả người anh bị xô bổ nhào sang phải. Con quái vật bị một luồng sáng đánh trúng, hóa thành đống cát bụi khô cằn. Vị trí đó chính là vị trí mới vừa rồi của Ansbach, nếu anh không bị xô ngã, kết cục của quái vật có lẽ cũng là kết cục của anh.

Ansbach vừa chạm đất là bật dậy ngay lập tức, một tay tóm lấy người tông ngã mình, một tay ôm chặt thân thể của Oregon.

“Đừng đi.”

Tiếng gọi khẽ vang lên bên tai khiến anh cứng đờ cả người.

Ansbach chưa bao giờ thấy hoảng sợ như giây phút này đây.

Lúc Oregon bị phong ấn, anh cảm thấy phẫn nộ, cảm thấy nản lòng, cảm thấy buồn đau. Quá nhiều thứ cảm xúc phức tạp đan xen khiến trái tim anh gần như không thể chịu nổi, vốn chẳng còn chỗ trống cho hoảng sợ. Nhưng hiện tại, rõ ràng anh nghe thấy tiếng của Oregon, mới rồi còn nhìn thấy thân thể bất động của y nằm trên mặt đất.

Tình huống quá đỗi mâu thuẫn đưa anh vào ranh giới giữa hiện thực và ảo tưởng. Tiến thêm một bước sẽ lại quay về với hiện thực băng giá đến lạnh người, lùi một bước thì sẽ rơi vào ảo ảnh huyền diệu mê người.

Là hắc vu thuật của Gordon?

Đúng là mở mang tầm mắt. Trước đây lão không bao giờ dám dùng Oregon để tạo ra ảo ảnh, bởi vì không thể nào qua nổi mắt anh. Anh hiểu Oregon còn hơn chính bản thân mình, bởi thế nên Oregon trong những ảo ảnh trước đó đều chỉ là cái xác không biết động đậy giống như hiện thực.

Nếu vậy càng nên quay đầu nhìn một cái để phá nát cái bẫy vụng về của Gordon.


Ansbach bình tĩnh cân nhắc rồi chầm chậm quay đầu lại, ngón tay của anh siết lấy cổ tay đối phương càng lúc càng chặt.

Là… Người mèo?

Trên đầu mọc thêm một đôi tai mèo, đôi con ngươi hẹp dài màu vàng xanh đang chăm chăm nhìn theo hướng sau lưng Ansbach đầy vẻ cảnh giác.

Hình tượng vô cùng kỳ cục, kỳ cục hơn cả đôi cánh gà gắn trên lưng thiên sứ và đọa thiên sứ.

Thế nhưng Ansbach biết rõ…

Oregon, là y.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 7: Thú nhận

Một hương vị khác của tình yêu.

Ansbach nhanh chóng cởi áo vest ngoài quấn quanh eo đối phương, che giấu bộ phận quan trọng, giọng nói lạnh băng không để lộ chút nào muôn vàn cảm xúc thi nhau trào dâng, “Ngoại hình thay đổi nên tính tình cũng đổi, trước đây em có bao giờ chịu thoáng như vậy trước mặt tôi đâu.”

Oregon đáp: “Tôi sẵn lòng cùng anh thảo luận xem tôi hồi ấy cổ hủ nhàm chán đến mức nào, nhưng kẻ thù ở ngay trước mắt, chúng ta tập trung tí xíu được không nhỉ?”

Ansbach nói đầy ẩn ý: “Ừ, hở hang trước mặt kẻ thù.”

Oregon: “…”

Ansbach cúi đầu chỉnh lại áo vest, “Khôi phục được bao lâu?”

Oregon chớp mắt, “Một, hai phút gì đấy.”

Tay Oregon siết lại, anh ngước mắt nhìn y, trong mắt anh tràn ngập khí thế âm u nhưng cố kiềm chế, “Ồ, tối đa còn nửa phút sao?”

“Cỡ đó.” Oregon né không nhìn thẳng vào ánh mắt nóng bỏng của Ansbach, dáo dát nhìn quanh tìm kiếm tên vừa xuất hiện.

Ansbach co tay kéo mạnh y vào lòng mình và hùng hổ hôn thật sâu.

Đôi môi anh nóng bừng, đầu lưỡi linh hoạt luồng vào càn quét khoang miệng hằng nhung nhớ bấy lâu. Anh để lộ răng nanh cắn phập vào môi, máu hai người theo răng và lưỡi hối hả quyện vào nhau.

Oregon muốn đẩy anh ra nhưng chỉ tổ khiến anh siết y chặt hơn.

Những ngón tay của Ansbach đặt ngay eo Oregon, ngón nào ngón nấy như muốn ghim xuyên qua da để máu thịt hai người hòa vào làm một.

Không biết bao lâu sau, tiếng gặm mút mới từ từ dừng lại.

Ansbach dùng lưỡi liếm vào đôi môi máu me bê bết của Oregon, “Ba phút rồi.”

Oregon hổn hển trừng mắt, “Kẻ thù trước mắt.”

“Không gì.” Trong rừng bất chợt vang lên một giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng.

Oregon đứng thẳng người lên, nhìn khắp nơi đầy vẻ cảnh giác.

Ansbach không buồn nhúc nhích, nỗi lòng khi mất đi người yêu rồi lại có được đã chiếm hết toàn bộ tâm trí của anh.

“Mới nãy xin lỗi nhé.” Giọng nói đó lại tiếp tục, “Tôi cứ tưởng hai vị là tay sai của hắc vu sư.”

Oregon nhướng mày, nhìn Ansbach, trông y như đang cười nhưng lại không giống cười, “Tay sai của hắc vu sư.”

Tim Ansbach nhói lên, anh né tránh ánh mắt của Oregon.

Oregon nhẹ nhàng vỗ vai anh an ủi, cũng là để xóa hết mọi việc trong quá khứ. Những đau khổ giày vò Ansbach phải chịu bao năm nay y chứng kiến tất thảy, sự ăn năn thấu tim của anh khiến cơn giận và nỗi căm hờn của y vơi dần. Còn thứ cảm giác gọi là “đau lòng” lại dần dần tràn ngập tim y, thứ cảm giác ấy tựa như không khí phương nam, dịu mát nhưng len lỏi khắp mọi nơi.

“Giờ thì không cho là thế nữa à?” Oregon hỏi.

“Dấu vết hắc vu thuật để lại nơi này là nguyên nhân tôi nghi ngờ hai vị. Nhưng hương thơm của nước thánh lại là lý do lật đổ hết những hoài nghi của tôi.” Để bày tỏ lòng thành, một người giấu mình trong áo choàng đen thùng thình từ từ đi ra khỏi rừng rậm.

Ansbach lập tức đứng chắn giữa kẻ đó và Oregon.

Người khoác ào choàng dừng bước, lấy tấm áo choàng kiểu dáng giống mình đang mặc nhưng màu xám ném cho hai người, “Mới tinh. Có lẽ người yêu của anh cần.”

Oregon muốn né đi nhưng Ansbach lại chụp lấy mở ra xem, lúc nhìn thấy màu sắc và kiểu dáng áo choàng, cổ tay anh run khẽ, ánh mắt lóe lên suy nghĩ sâu xa nhưng vẫn nhanh chóng khoác nó lên người Oregon.

Oregon sờ áo, sắc mặt cũng thay đổi, y ngước mắt nhìn người áo choàng đen, vội vàng hỏi: “Chiếc áo choàng này là của anh sao?”

Người mặc áo choàng không ngại lặp lại: “Áo mới, tôi chưa mặc bao giờ.”

Oregon hỏi: “Vậy anh có nhìn thấy người nào mặc áo choàng hệt như vậy không?”

Người đó đáp: “Không.”

Oregon hỏi: “Anh mua ở đâu vậy?”

Người đó đáp: “Người yêu tôi mời thợ may cho.”

Tim Oregon thót mất mấy nhịp, “Người yêu của anh là…”

“Chúng ta nói vào chuyện chính đi thôi.” Ansbach cưỡng chế cắt ngang chủ đề kỳ lạ của hai người.

Người mặc áo choàng nói: “Tôi cũng không muốn chia sẻ tin tức về người yêu với kẻ khác.”

Mặt Oregon đỏ lên.

Ansbach thấy đồng cảm sâu sắc, anh dịu dàng cười bảo: “Tôi cũng vậy.”

Người mặc áo choàng hỏi: “Có thể giải thích vấn đề hắc vu thuật ở đây một tí không?”

Ansbach hỏi ngược lại: “Trước khi đặt câu hỏi, không phải nên giới thiệu bản thân sao?”

Một làn gió mát lướt qua khu rừng, thổi tung vạt áo của người mặc áo choàng đen. Lọn tóc màu trắng bất chợt len lỏi ra khỏi áo choàng nhưng nhanh chóng trở về vị trí cũ.

“Tôi đến từ giới nguyên thù, vu tộc.”

Giới nguyên thù chủng tộc đa dạng, đặc biệt nhất trong chín giới. Khác với khái niệm đa chủng tộc của nhân giới, sự phân hóa ở giới nguyên thù rõ rệt hơn nhiều, có vu tộc, người trong suốt, tộc bạch sa vân vân, tập quán khác nhau, năng lực khác nhau, diện mạo khác nhau, có tộc thậm chí không phải hình người. Tuy khác nhau là thế nhưng họ vẫn bình yên chia sẻ một vùng trời. Vu tộc chiếm địa vị cực kỳ quan trọng ở giới nguyên thù, không chỉ vậy, mấy trăm năm trước, vu tộc còn phái không ít sứ giả đến nhân giới thiết lập quan hệ ngoại giao, đây cũng là nguyên nhân phù thủy xuất hiện ở nhân giới.

Bởi vu tộc trời sinh đã có phép thuật, con người lại cần vật phụ trợ bên ngoài mới sử dụng được phép thuật, vì vậy mới có sự phân chia giữa hắc vu sư và bạch vu sư.

Ansbach nở nụ cười đầy vẻ trào phúng, “Ồ, cuối cùng cũng chịu đứng ra thu dọn tàn cục rồi à?”

Người mặc áo choàng im lặng một chốc rồi nói: “Xin lỗi.”

Ansbach nhếch mép, trả lời bằng giọng lạnh băng: “Tôi không nhận.” Nếu chẳng phải do vu tộc mặc kệ hắc vu sư, “thành tựu” của Gordon đã không được như ngày hôm nay, vả lại lão ta sớm đã phải tan thành mây khói, xuống địa ngục làm cu li.

Người mặc áo choàng nói: “Không sao.”

Oregon đành đứng ra hòa giải: “Ha ha! Theo tôi thấy anh làm như vậy nhất định là có lý do riêng đúng không.”

Người mặc áo choàng bình tĩnh nói: “Thất tình.”

Oregon nghẹn họng: “Lý do này quả là…” Quá buông thả đấy!

Ansbach gật đầu, “Hiểu được.”

Oregon: “…”

Sau khi giải tỏa hết những suy nghĩ thù địch ban đầu, hai bên cuối cùng cũng có thể ngồi xuống trao đổi tin tức đàng hoàng.

Ansbach không giới thiệu bản thân mà chỉ bán đứng Gordon sạch sành sanh không chừa cả quần.

Người mặc áo choàng nói: “Người tôi đang đuổi bắt có lẽ là lão ta.”

Người đó giới thiệu vắn tắt về cội nguồn của hắc vu sư. Ban đầu vu tộc muốn dùng nước phép và khí phép để đổi lấy tài liệu luyện kim của nhân loại, nhưng sau khi tìm hiểu rõ về năng lực của vu tộc, có một nhóm người tham lam bắt đầu nhòm ngó đến phép thuật của vu tộc. Họ dùng thủ đoạn cưới gả để dụ dỗ không ít những vu tộc nào ham mê sắc đẹp nghiên cứu cách sống mãi cho con người, đồng thời dựa vào các vật bên ngoài giúp con người sử dụng được phép thuật.

Cuối cùng khi những vu tộc nhận ra sai lầm thì đã không còn cách vãn hồi.

Nhóm người nắm được nguyên lý của phép thuật lưu lạc tứ xứ, sinh con đẻ cái.

Sau khi đến nhân giới, người mặc áo choàng đen lần theo mùi của hắc vu thuật đi khắp nơi tìm kiếm, lúc đến Biển Đỏ, mùi của hắc vu thuật dường như không nơi nào không chiếm cứ, khiến người đó cảm giác mình đã tìm được trung tâm của hắc vu thuật. Ban nãy lúc ở trong rừng, người đó cảm thấy hắc vu thuật chập chờn bất ổn, vì vậy mới lẳng lặng đuổi tới và ra tay.

Nào ngờ nhầm lẫn.

Người mặc áo choàng nói: “Tôi muốn sớm xử lý cho xong chuyện này. Người yêu tôi đang đợi tôi về nhà.” Khi nói câu cuối giọng người đó vô cùng dịu dàng.

Ansbach nhìn Oregon đang đứng cạnh mình, trong lòng bỗng thấy chua xót. Ừ, vợ nhà người ta đang đợi người ta về, ngọt ngào mỹ mãn xiết bao! Còn người yêu mình thì gạt mình nào là “một, hai phút”.

Khoảng cách tâm lý sâu sắc khiến Ansbach không khỏi buông lời chua lè: “Không phải anh bị thất tình à?”

Người mặc áo choàng đáp: “Hòa rồi.”

Oregon nói một cách chân thành: “Chúc mừng nhé. Chúc hai người âu yếm thuận hòa.” Rồi làm ơn tập trung giải quyết cái tên hắc vu sư kia giùm cái!

Giọng người mặc áo choàng pha chút ý cười, “Cảm ơn.” Từ giọng nói và phong thái của người đó, có thể đoán được đây kẻ tình tính lạnh lùng, nhưng ngữ điệu lúc nào cũng lan tỏa niềm vui lại không thể nào che giấu cuộc sống hạnh phúc của hắn. Xem ra gần đây hắn sống rất vui vẻ.

Chuyện này khiến trong lòng Ansbach càng chua xót hơn.

Hay lắm, người yêu mình biến thành con mèo mập mà còn có tâm trạng đi chúc kẻ khác âu, yếm, thuận, hòa!

Người mặc áo choàng nói: “Cảm ơn tin tức hai vị cung cấp. Đây là sự đền đáp của tôi.” Người đó ném một cái bình bằng đồng qua, “Đây là nước may mắn, uốn một ngụm có thể thay đổi thể chất, phun chút ít sẽ tăng thêm vận đỏ. Quan trọng nhất nó chính là khắc tinh của hắc vu thuật.”

Ansbach mở nắp ngửi thử, mùi hương này không nồng như nước thánh mà thoang thoảng lan tỏa vào mũi, rất giống với hương trà xanh ở nhân giới.

Người mặc áo choàng xoay lưng bỏ vào rừng.

“Tiếp theo đây chúng ta…” Đậy nắp bình xong, Ansbach quay đầu lại thì nhìn thấy giữa chiếc áo choàng thùng thình là một chú mèo đen ưỡn bụng đòi vuốt.

“Tối ăn lương khô mèo.”

Giọng nói căm phẫn tột độ.


Nhưng dù quá trình đầy kịch tính kích tình đến mức nào chăng nữa, kết quả xem như khá tốt đẹp.

Họ có được một người bạn trong vu tộc – Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn, thứ thay thế nước thánh, và còn bí mật lớn!

Ansbach ngồi ở một đầu bàn ăn, hai tay chắp lại đặt trên đùi, đôi mắt xanh biếc nhìn chằm chằm vào con mèo đen bự đang nằm dài trên bàn ăn đĩa cá được gỡ sạch xương.

Sau khi biết mèo đen còn giữ ý thức của Oregon, tuy ngoài miệng anh vẫn đe dọa uy hiếp này nọ nhưng không bao giờ cho nó ăn thức ăn của mèo nữa.

“Không giải thích sao?” Nhìn nó ăn cá xong rồi lại ung dung liếm lông, lồng ngực Ansbach sắp nổ tung vì ngột ngạt.

Mèo đen ngừng lại, ngẩng mặt nhìn anh.

Ansbach hít sâu hai hơi mới kìm chế được ý định muốn cạo sạch lông của nó, đè nó xuống bàn từ từ gặm nhắm, anh nhẹ giọng nói: “Ăn no chưa?”

Mèo đen dùng ánh mắt vô tội nhìn anh, duỗi người ra, sau đó…

Phóng cái vèo xuống bàn, liều mạng chạy ra cửa.

Ansbach nhắm mắt lại, bất thình lình xuất hiện ngay trước mặt nó.

“Méo~!!!” Mèo đen rít lên thảm thiết.

Tim Ansbach nhói lên, cơn giận chưa kịp thành hình đã bị tiếng rít của nó đánh tan, anh lập tức cúi xuống bồng nó lên kiểm tra bốn chân.

Mèo đen giơ chân trái trước ra, ánh mắt trông vô cùng tội nghiệp.

Ansbach nhẹ nhàng xoa chân cho nó, năm ngón tay của anh muốn len vào giữa móng vuốt của nó nhưng mãi không len vào được, mặt anh lập tức sầm xuống, “Giả bộ đủ chưa?”

Mèo đen: “…”

Ansbach bồng nó về giường, đặt nó nằm ngửa, vạch bốn chân của nó ra rồi từ trên cao nhìn xuống mèo đen, “Biến thành mèo thì tôi không thể làm vậy với em nữa chứ gì?”

Lông mèo ta từ từ dựng hết cả lên.

Ansbach mỉm cười, biến thành một con dơi bự.

Mèo đen lật người lại bỏ chạy, dơi bự thong thả bám theo.

Chạy một hồi mèo đen bắt đầu thấm mệt. Quá quen với những ngày tháng ăn cá ngủ nghỉ phơi nắng, trong chốc lát nó không thể nào thích ứng với vận động cường độ cao vậy.

Mèo đen nằm dài trên sô pha, dơi bự nằm bên cạnh lặng lẽ ngắm nó.

Mèo đen ngờ vực liếc dơi một cái, chắn chắn nó không có ý định nhào lên người mình mới yên tâm lon ton bỏ lên chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ ngủ trưa. Giữa trưa mỗi ngày, ánh nắng sẽ chiếu vào vị trí nó đang nằm, nhưng dạo này trời nóng quá, nó phơi mười phút là chịu hết nổi, nhưng hôm sau vẫn sẽ tiếp tục.

Ansbach đương nhiên biết nó có thói quen này, dơi bự ngồi bên cạnh mèo đen, im lặng dịu dàng ngắm nó ngắp ngắn ngáp dài, hai mắt mèo ta híp lại trông vô cùng sung sướng.

Cái bánh lớn mang tên tình yêu này hóa ra có rất nhiều hương vị.

Cắn miếng đầu tiên, vừa tanh vừa mặn. Hương vị của máu.

Anh và Oregon hệt như hai con trâu đực không ai chịu ai đánh nhau liên miên, muốn húc ngã đối phương bằng sừng của mình, bắt đối phương phải phục tùng bản thân.

Miếng thứ hai là cay.

Quan điểm sống tương phản nhau khiến mối quan hệ giữa hai người nếu không phải lâm vào tranh cãi thì chính là chiến tranh lạnh sau khi tranh cãi. Có lẽ dùng từ “chiến tranh lạnh” chưa chính xác lắm, bởi lúc đó hơn một nửa thời gian do Ansbach công kích trước, điên cuồng bám lấy Oregon, muốn giam cầm y bên mình mãi mãi.

Miếng thứ ba là chua.

Trong cuộc chiến với Oregon, cuối cùng Ansbach giành được thắng lợi, nhưng lại đánh mất trái tim của mình, đánh mất tình yêu của mình, mỗi một thứ của bản thân anh…

Cuối cùng anh phải trả cái giá thật đắt cho những kích động và liều lĩnh thuở trước, và cũng bắt hiểu ra không thể ép buộc người khác.

Hóa ra đây là hương vị của tình yêu.

Nhưng khi biến thành dơi im lặng ngắm chú mèo đen lười biếng do Oregon biến thành, lần đầu tiên anh nếm thấy…

Vị ngọt.

Nắng chiều vỡ vụn thành vô vàn đốm nhỏ, lấm tấm trải trên chiếc bàn ăn đã được trang trí tinh tế, những món ăn thịnh soạn và cả… chú mèo đen đang bị xích lại.

Nấu nướng xong xuôi, vị đầu bếp nào đó mới bế mèo lên đặt cạnh bộ dao nĩa đối diện với ghế đầu bàn.

Mèo đen kêu lên một tiếng tỏ vẻ cảm ơn, cúi đầu xuống toan dùng bữa thì bất chợt trước mặt bị một cái nĩa chặn lại.

“Meo.” Kháng nghị.

“Meo meo…” Dự báo là mình sắp dỗi rồi đấy.

“Meo, meo, MEO!” Cảnh cáo đối phương mình giận rồi đó nha.

Ansbach dịu giọng dụ dỗ: “Biến thành người là cho em ăn ngay.”

Hai chân trước của mèo đen rụt về, cổ họng đột nhiên phát ra tiếng gào tan nát cõi lòng: “Meo ~ Meo~ Meo…” Tiếng kêu ỉ ôi như đang cầu cứu nghe có vẻ đặc biệt mê ly.

Ansbach đứng dậy cầm lấy xích mèo buộc nó lại, những vết cào dài rộng khác nhau liên tục xuất hiện rồi biến mất rồi lại xuất hiện trên mu bàn tay anh cũng mặc kệ, anh chỉ cười tươi rói và nói: “Nếu em không muốn ăn cơm với tôi thì tôi chỉ đành dùng bữa với cục cưng của tôi thôi.”

Mèo đen ngẩng đầu nhìn anh bằng ánh mắt ngờ vực.

Ansbach cười cười, “Cục cưng của tôi đương nhiên vẫn là em mà.”

Trong lòng mèo đen lóe lên linh cảm không lành, quả nhiên Ansbach bồng Oregon ra khỏi phòng ngủ, đặt y ngồi vào ghế đầu bàn, dùng ngón tay gạt nhẹ lọn tóc mái vàng óng của Oregon sang một bên, nâng cằm y lên và nhẹ nhàng trao cho y một nụ hôn triền miên.

Nhưng trong lúc hôn, anh lại nhìn mèo đen không hề chớp mắt.

Mèo đen cũng nhìn anh không chớp mắt.

Thời gian trôi đi, lòng tin và cảm xúc thẳm sâu trong mắt dần lắng đọng – Đây là điềm báo cho việc anh bắt đầu mất kiên nhẫn.

Mép Ansbach nhếch lên đầy vẻ ma quái và giễu cợt, bàn tay đỡ cổ Oregon chầm chậm lần mò xuống dưới, luồn vào cổ áo, dùng ngón cái miết qua miết lại xương quai xanh của y. Tay anh sau đó dừng lại trên cút áo sơ mi của Oregon, ánh mắt anh tối lại, ngón tay búng nhẹ một cái, chiếc nút bật ra khỏi áo, để lộ da thịt nõn nà nơi vai.

Những hình ảnh nóng bỏng kích tình thi nhau hiện lên trong đầu Ansbach, đánh thức dục vọng của anh, khiến anh quên mất mục đích ban đầu và mải đắm chìm trong mật ngọt khi thân mật với da thịt của người yêu.

Anh dùng ngón tay nâng cằm y, đặt môi hôn xuống nơi gồ lên ở cổ rồi hôn thẳng xuống dưới.

“Meo!” Mèo đen kêu lên một tiếng, toàn thân bỗng nhiên phóng to ra nhào lên bàn.

Mắt Ansbach sáng lên, toan giơ tay đỡ nhưng thân thể trắng nõn ấy lại biến mất chỉ trong một giây hệt như cái bóng, khôi phục lại hình mèo. Nếu không phải trên pizza còn để lại dấu do bị đè vào, anh gần như tưởng rằng vừa rồi chỉ là ảo giác của riêng anh.

Tim Ansbach thắt lại, nhanh chóng thả Oregon ra rồi cởi xích cho mèo và kiểm tra hơi thở của nó.

Mí mắt mèo đen giật khẽ, để lộ ra một cái khe nhỏ xíu.

“Khó chịu chỗ nào?” Ansbach cố gắng khống chế các ngón tay đang run lẩy bẩy của mình để vuốt ve lưng nó.

Mèo đen rụt bốn chân vào người rồi nhắm mắt lại.

“Đừng nhắm mắt mà!” Ansbach hoảng hồn gào lên.

Mèo đen giật thót, chầm chậm mở mắt ra.

Bất thình lình Ansbach xông ra khỏi nhà, cửa sập vào cái rầm.

Í...?

Mèo đen tròn mắt. Diễn hơi bị sâu hả ta?

Nó nằm nghiêng trên bàn, đầu hơi ngẩng lên, mắt láo liên nhòm ra bên ngoài. Một lúc sau, tiếng mở cửa vang lên, đầu nó lập tức ngoẹo qua một bên, cả người đổ bẹp xuống bàn.

Dù nó phản ứng cực nhanh nhưng vẫn không qua được mắt Ansbach.

Chút xót xa còn lại trong lòng bốc hơi sạch sành sanh, lửa giận lại bùng lên hừng hực, anh đi đến cạnh mèo kéo ghế ngồi xuống.

Trong phòng khách bỗng nghe bịch một tiếng.

Là do gió thổi tung rèm nửa, hất chậu hoa nhỏ đặt bên cửa sổ xuống đất. Hoa giả rơi ra khỏi chậu, sỏi vụn màu sắc sặc sỡ rơi tung tóe trên mặt đất.

Người mèo đen giật bắn lên rồi lại co chân ngã ập xuống bàn, miệng khẽ rên hừ hừ. Nếu chẳng phải bắt gặp bản mặt tươi rói của nó, trong lòng Ansbach chắc đã xót xa áy náy không biết làm sao.

Còn giờ đây…

Vẫn chả biết nên làm thế nào, không biết nên dùng cách gì để trừng phạt nhóc con gian xảo này đây!

“Tôi nhìn thấy rồi.” Ansbach nói.

Đôi mắt mèo đen đảo tròn, nó cúi đầu xuống, tròng mắt trong veo như pha lê không ngừng liếc trộm anh.

Ansbach xoay lưng đi vào phòng khách, cúi người nhặt chậu và hoa giả lên, xếp sỏi vào chậu từng viên từng viên một. Đến viên cuối cùng, tâm trạng của anh đã đỡ hơn nhiều. Anh mang chậu hoa đến đặt trên bàn ăn trước mặt mèo đen, “Không muốn trò chuyện với tôi sao.”

Mèo đen nhắm mắt giả chết.

Anh giơ tay lên để cách người mèo khoảng hai tấc, làm như đang vuốt dọc theo người nó, chầm chậm “vuốt” xuống tới đuôi rồi rụt tay lại, xoay người bỏ vào phòng ngủ.

Mèo đen bật dậy nhìn cánh cửa phòng ngủ mở toang xong lại quay sang nhìn Oregon ngồi gần bàn ăn, vẫy đuôi phóng tới ngay cạnh bánh pizza bắt đầu ăn trông rất sang chảnh.

Nằm trong phòng ngủ, Ansbach chẳng muốn nghe thấy tiếng động bên ngoài chút nào. Mãi không thấy mèo ta xuất hiện với vẻ mặt áy náy, anh biết ngay những gì nó làm sau đó tuyệt đối không phải những việc anh thích. Quả nhiên anh nghe thấy tiếng chén dĩa leng keng.

Ăn sướng miệng quá nhỉ.

Ansbach hờn dỗi nghĩ.

Tôm chắc vừa ăn lắm chứ gì?

Còn có tiếng húp nước, chắc là đang nhấm nháp canh cá?

Mình không bỏ thêm “phụ gia” vào canh cá đúng là mình hơi bị hiền quá!

Ansbach trở người nằm nhìn khung cửa sổ nhỏ, trên cửa sổ cũng đặt một chậu hoa giả.

Nghe nói là tử la lan, hoa nho nhỏ, mềm mềm, xinh xinh, giữa nền lá xanh mướt trông càng tràn trề sức sống.

Người thích trồng hoa là Oregon. Có một khoảng thời gian y thậm chí còn đội vòng hoa đi dạo khắp nơi, chẳng buồn để ý việc người ngoài nhìn mình bằng ánh mắt quái dị. Lúc nào y cũng thích làm theo ý mình.

Nhưng theo cách nhìn của Ansbach lúc ấy, Oregon thà rằng chuyên tâm chăm sóc mấy thứ chẳng có sự sống như hoa cỏ chứ không thèm quan tâm tới mình, đúng là cố ý gây sự với anh! Khinh miệt anh! Xem thường anh!

Vì vậy anh bèn dẫn dắt đám người điên của Malkavian đến càn quét lãnh địa của Gangrel.

Nhìn Oregon và đám con cháu của y nhảy nhót trên chiến trường, đánh rơi cả vòng hoa xuống đất, anh vô cùng đắc ý.

Anh cảm thấy địa vị của mình trong mắt Oregon tăng lên đáng kể.

Sau đó…

Anh mất đi Oregon, mất đi triệt để.

Nỗi đau tột độ đánh tan lòng kiêu ngạo của anh, ép anh không thể nào không học lại khóa dạy “tôn trọng”, nhưng khóa này không bao gồm việc trồng hoa tỉa cỏ. Nếu không nhờ Macewen, khu vườn nhà anh đừng nói hoa hồng, e rằng cả lá cũng chẳng mọc nổi. Giờ xem ra có lẽ do anh tự chuốc lấy phiền phức mà thôi.

Căn nhà gỗ nhỏ trên Biển Đỏ không có Macewen, vì vậy khi bày biện, anh phải phí bao công sức mua hoa giả để trang trí. Ngoài việc không cần tưới nước, chúng trông không khác hoa thật là bao.

Ansbach còn phải tự thấy cảm động cho việc anh dày công suy nghĩ, thế nên hành vi lạnh nhạt của Oregon khiến anh bốc hỏa!

Cái tên không có lương tâm!

Anh đột nhiên bắt lấy chậu hoa ném mạnh xuống đất.

Mèo đen ăn uống no nê, đang tập trung “xử lý” bộ lông thì thấy một chậu hoa bay theo hình vòng cung trên không lướt qua đầu mình. Nó hứng thú nhìn và ngáp một cái.

Tối nay không được ngủ trong phòng ngủ rồi.

Sô pha ngoài phòng khách cũng khá êm.

Ansbach nằm giận dỗi cả đêm, cảm thấy uất ức vô cùng cực, cuối cùng quyết định tự đi chấm dứt màn chiến tranh lạnh do chính anh khởi xướng. Vì anh nhận ra với mèo đen mà nói, nó còn cầu cho anh phớt lờ nó đi.

Nếu đã vậy sao anh phải chiều theo ý nó chứ?

Ansbach nhếch mép trào phúng.

Xem ra mình đóng vai người tốt hơi bị lâu làm y quên mất bộ mặt thật của mình rồi. Đến lúc phải nhắc nhở y một tí.

Anh sải bước ra khỏi phòng ngủ, và rồi… Anh sững người.

Oregon mà hôm qua anh đặt trên ghế gần bàn ăn vẫn vô cảm ngồi đấy, nhưng trong bếp lại thấp thoáng bóng lưng của một Oregon khác.

Anh bước thật khẽ vào nhà bếp như sợ quấy rầy đến Oregon, và cũng sợ mình tỉnh khỏi giấc mộng. Mãi đến khi Oregon nhấc nồi đặt lên bếp, tiếng nước trong nồi sôi sùng sục, anh mới choàng tỉnh, bổ nhào lên ôm lấy Oregon từ sau lưng, cắn thật mạnh vào cái cổ trắng mềm của y.

Vị máu quen thuộc phun ra từ vết thương bắn vào trong miệng, tràn ngập đầu môi chót lưỡi. Cảm giác thỏa mãn khi máu của người yêu và nước bọt của mình hòa lẫn vào nhau khiến anh kìm lòng không đặng rên khẽ một tiếng.

Sắc mặt Oregon hơi thay đổi, y cười khẽ, lấy tay vuốt ve gáy anh, “Anh khiến thời gian tôi biến thân bị rút ngắn.”

Vừa nói xong, trong lòng Ansbach xuất hiện một chú mèo đen.

Ansbach: “…”

Mèo đen ngáp dài đầy vẻ lười biếng, vẫy đuôi rồi ngủ mất.

Ansbach đẩy nó.

Mèo đen không nhúc nhích.

“…Này.” Ansbach nói bằng giọng hoài nghi: “Lại đóng phim nữa hả?”

Mèo đen thả lỏng bốn chân, ngoẹo đầu qua một bên như đang hôn mê.

Ansbach kiên trì lắc nó, “Ít nhất nấu xong bữa này cho tôi đã.”

“Dậy đi nào.”

Vẫn là chàng đầu bếp Malkavian phụ trách nấu nướng ngày ba bữa.

Thức ăn rất phong phú, bữa sáng đầy đủ dinh dưỡng bao gồm sữa tươi và sandwich hải sản, món chính bữa trưa là tôm hùm, cộng thêm súp sò điệp, bữa tối là cá nướng và cà ri cua, tất cả đều là món khoái khẩu của mèo ta, hại nó ăn miết đến nỗi cái bụng tròn vo. Lúc đi vòng vòng cho tiêu đồ ăn, đầu nó cứ lúc lắc trông vô cùng thỏa mãn.

Quý ngài đầu bếp lại hoàn toàn tương phản. Từ sáng tới giớ sắc mặt anh đã u ám, cả người đen sì như mới chui ra khỏi mỏ than, cả CO2 thở ra cũng sắp biến thành khói đen. Tối đến, anh chìm hẳn vào bóng đêm, chỉ có cặp mắt vẫn sáng lấp lánh mặc dù không hề bật đèn, lúc nào cũng chăm chú theo dõi mỗi cử động nhỏ nhất của mèo đen.

Mèo đen quyết định lên sô pha đi ngủ sớm.

Ansbach không xua nó vào phòng ngủ mà chỉ pha một cốc hồng trà ngồi đối diện nó đọc sách.

Mỗi lần anh cúi đầu xuống, mèo đen sẽ ngước mặt lên liếc anh một cái, nhưng lúc Ansbach phát hiện, nó lại gục mặt vờ như ngủ say.

Đến mười hai giờ, Ansbach đột nhiên đổi tư thế ngồi, nhìn chòng chọc vào mèo đen với đôi mắt sắc như dao.

Mèo đen vốn đang mơ màng, bị anh nhìn chằm chằm như vậy nó không thể không giật mình tỉnh mộng.

Ansbach phấn khởi nhìn nó, “Mười hai giờ rồi.”

Mèo đen: “…”

Ansbach hỏi: “Đây là điều kiện biến thân của em đúng không? Mỗi ngày một lần?”

Mèo đen nhìn anh đã đời rồi nằm xuống ngủ tiếp. Từ sau ngày biến thành mèo, Oregon vẫn luôn sinh hoạt theo thời gian biểu của mèo, mười giờ tối trở đi mà không ngủ thì sáng hôm sau sẽ như uống thuốc ngủ, nhất quyết không cho ai quấy rầy.

Ansbach trợn mắt nhìn nó một hồi, xác định nó quyết định ngủ thật thì chỉ đành chấm dứt màn “vọng phu” đơn phương, tắt đèn biến thành dơi rồi nằm xuống cạnh mèo đen, sải cánh choàng qua người mèo. Mèo đen nửa tỉnh nửa mơ hé mắt ra nhìn, sau đó cong đuôi quấn lấy cổ dơi.

Dơi: “…”

Tuy tư thế hơi kỳ cục nhưng xem như đã được cận kề như một.

Hôm sau, trời mới tờ mờ sáng.

Ansbach ôm mèo trong lòng ngồi trên sô pha, nhìn chằm chằm vào nó không nói câu nào.

Mèo đen thức dậy nhìn thấy anh thì duỗi lưng ngồi dậy, chuẩn bị chạy vòng vòng quanh nhà để rèn luyện thân thể. Ba bữa hôm qua ăn hơi no quá, nếu không vận động thêm tí xíu y sợ mình thật sự biến thành mèo mập mất thôi.

Chân nó vừa thò ra, mũi đã ngửi thấy mùi máu tươi lan tỏa trong không trung.

Ansbach cầm dao găm thong thả cắt vào cổ tay.

“Máu là nguồn năng lượng để em biến thân đúng không?”

“Uống máu của tôi đi.”

Anh mỉm cười nhìn nó đầy về yêu chiều.

Mèo đen cảm thấy tim lạnh buốt.

Sao mình lại quên nhỉ, mặc cho Ansbach trăm năm gần đây thay đổi thế nào, anh vẫn mang bản chất của Malkavian.

Nó nhẹ nhàng nhảy lên sô pha, thè lưỡi liếm vết thương của anh.

Ansbach nhìn xuống chú mèo trong lòng, để mặc cho nó liếm láp vết thương, nhưng khi lưỡi nó vừa rời khỏi cổ tay, dao găm của anh lại nhanh chóng lướt qua chỗ cũ, máu tươi phun ra tung tóe.

“MEO!!!” Mèo đen xù lông, lăm lăm gườm con dao trong tay anh như kẻ thù không đội trời chung.

Ngắm nó một lúc thật lâu, anh phì cười đặt dao xuống rồi ôm nó lên, dùng mũi cọ vào cổ nó, “Tôi nhớ em lắm, nhớ em vô cùng.”

Cảm giác lông mèo cà vào miệng đột nhiên biến mất, thay vào đó là thớ thịt mềm mại mang theo hơi thở ấm áp, cảm xúc của anh bỗng chốc vỡ òa. Có nhung nhớ, có giận dỗi, có sầu thương, có nhượng bộ… Anh hung hăng siết chặt vòng tay, ép con người kia vào sâu trong lòng, dường như chỉ có như vậy, anh mới dám khẳng định…

Người yêu của anh đã quay về.

Không bao giờ biến mất nữa.

Niềm vui mất đi rồi lại có được đúng là khó lòng tả xiết.

Anh chỉ có thể dùng cơ thể của mình để cảm nhận sự tồn tại của đối phương, cảm nhận sự gắn kết bền chắc tuyệt đối giữa hai người.

Oregon bị giày vò chết đi sống lại, không thể không nhượng bộ, “Không phải anh muốn trò chuyện với tôi sao?” Giọng nói khản đặc đến chính y cũng không nhận ra là giọng mình.

Môi Ansbach dán sát vào tai đối phương chẳng chịu rời đi dù chỉ một giây, “Ừm? Em nói tôi nghe.” Đầu lưỡi của anh liếm dọc theo vành tai Oregon, đến khi anh nhắm mắt lại, đường nét hoàn hảo của y cũng đã khắc sâu vào trí não của Ansbach.

“Hóa thú là năng lực của Gangrel nhưng xưa nay chưa từng có ai bị gián đoạn trong lúc hóa thú.”

Động tác của Ansbach ngừng lại.

Cảm nhận được sự căng thẳng của anh, Oregon nghiêng đầu hôn lên mặt anh một phát, “Bị tách làm hai thân thể là chuyện ngoài ý muốn. Hiện tại tôi không thể cảm nhận được thân thể còn lại của mình, có lẽ khi giải được phong ấn, tôi mới trở lại hoàn chỉnh lại được.” Oregon nói.

Nỗi đau cắm sâu trong tim khiến tay chân Ansbach tê dại, hai tấm thân mới nãy còn khít khao dán sát vào nhau bởi vì cử động của anh mà bắt đầu tách ra.

Oregon trở tay ôm lấy anh, thấp giọng nói: “Tôi có rất nhiều cơ hội bỏ đi.”

Ansbach không đáp. Y nói không sai, lúc ban đầu mình quản lý chặt chẽ, nhưng về sau mèo đen được hoàn toàn tự do ra vào biệt thự, chỉ cần mỗi tối về ăn đúng giờ là dược. Tất cả những tự do và tôn trọng chưa từng trao cho Oregon anh đều phó thác vào mèo đen, nào có ngờ được, trời xui đất khiến thế nào cũng chính là đã hoàn trả hết cho Oregon.

Oregon vuốt gáy Ansbach, từ từ nói tiếp: “Nhưng tôi ở lại.” Ở lại với thân phận của người ngoài cuộc để nhìn anh hối hận áy náy, nhìn anh đau khổ vùng vẫy, nhìn anh từng chút một bù đắp những chuyện đã làm, để rồi không thể nào bỏ đi được nữa.

Tứ chi Ansbach như lấy lại sức lực, anh ôm chặt Oregon vào lòng, chỉ là lần này anh cố gắng ôm sao cho y thật thoải mái.

“Xin lỗi.” Cái đầu luôn ngước lên cao đầy kiêu ngạo cuối cùng cũng chịu cúi xuống.

Oregon mỉm cười hôn lên trán anh, “Tha thứ cho anh.”

Đôi tình nhân xóa bỏ khúc mắc xong xuôi cuối cùng cũng bước vào thời kỳ honeymoon trễ.

Dù người yêu không thể tiếp tục giữ được hình người, biến trở lại thành mèo đen, Ansbach vẫn tuân thủ nghiêm ngặt thực đơn do Oregon đặt ra.

“Tôm hùm ngũ vị hương… Cá dưa chua… Cá chưng…” Vị đầu bếp nào đó đầu óc quay cuồng, đặt thực đơn xuống rồi ngồi xổm bên cạnh đại tổng quản mèo đen, mặt bất đắc dĩ hết biết, “Ít nhất cho tôi biết đào đâu ra công thức chứ.”

Sau khi tìm ra công thức, vị đầu bếp của chúng ta dựa vào kinh nghiệm ra vào nhà bếp bao năm để tiến hành thực thi hóa thực đơn.

“Đừng có nhìn tôi bằng ánh mắt đó, tôi làm theo đúng công thức mà… Ừa thì, tôi có cho thêm tí bơ. Em không cảm thấy tôm sốt bơ ngon lắm à? Ngũ vị hương có sẵn năm vị, thêm bơ là lục vị hương chẳng phải càng ngon hơn à? Vận động viên Trung Quốc đều thích lấy tên Lục Hương mà.”

“Đây quả thật không phải dưa chua, nhưng chỗ này là Ai Cập chứ bộ! Tôi đi đâu tìm dưa chua Trung Quốc cho em? Dù sao đều là mấy thứ rau cải chua chua, cải ngâm giấm chắc mùi vị cũng na ná à? Tôi ngâm hai lần lận đó… Hay thôi em ăn thử cá chưng đi, tôi bảo đảm không có vấn đề.”

“Nhỡ mà có vấn đề thì chắc là tại mỡ bò với bột cà ri đó.”

Đêm đến, mèo đen sầu thương ngồi bên khung cửa sổ ngắm ánh trăng sáng vằng vặc.

Trong bếp có bóng người chạy tới chạy lui, một lát sau, con dơi bay vèo ra ngoài đậu lên cửa sổ, ngồi sát rạt bên cạnh con mèo.

Mèo đen liếc nó một cái, thò đuôi ra vỗ nhẹ vào lưng dơi như đang khen ngợi cho tính cần cù của nó.

Dơi cũng giang cánh vỗ vào lưng mèo.

Cuộc sống tạm thời không có sóng gió, yên bình trôi qua.

Thi thoảng sẽ là huyết tộc và huyết tộc, thi thoảng là mèo và dơi.

Phong cảnh ở Biển Đỏ đẹp vô cùng, có rất nhiều nơi đáng để để lại dấu chân.

Anssbach mua máy ảnh chụp lại kỷ niệm của hai người. Trước đây quá tự phụ, cứ cho rằng mình hùng mạnh, có thể xây dựng căn phòng bí mật tường đồng vách sắt để hai người dù là giận hờn, vui vẻ, sung sướng, chán ghét đều có thể mãi mãi ở bên nhau. Vì vậy khi bị chia cắt, những thứ để kỷ niệm cũng chả có được bao nhiêu.

Ở những địa điểm du lịch đông đúc, người ta thường nhìn thấy một chàng trai bảnh bao ôm ấp một chàng trai bảnh bao khác cười với ống kính, mèo đen đôi khi sẽ nhảy ra giành mất ống kính, đôi khi bị chàng trai ôm vào lòng tạo đủ kiểu dáng kỳ cục – Mắt mèo trừng to đầy vẻ kinh dị, mắt híp lại trông rất thỏa mãn, hoặc co cẳng tấn công thiệt oách xà lách…

Gặp ma hả trời! Này mà gọi là mèo sao?

Khách du lịch thi nhau lấy máy ra chụp lia lịa nhưng vừa chớp mắt một cái, cả người vào mèo đã mất tăm.

Quả nhiên gặp ma.

Vì áy náy và đền bù, phần lớn thời gian Ansbach đều nhường Oregon.

Thế nhưng trên đời vẫn luôn có chuyện không thể nhường được.

Ví dụ như – Lăng nhăng.

Oregon vừa mở giấy viết thư chưa kịp đặt bút đã cảm thấy chiếc áo len hở cổ mới mua bị ánh mắt nóng bỏng của ai kia soi thủng hai cái lỗ bự. Y ngẩng đầu lên nhìn vào gương, Ansbach đang sải bước đi tới.

“Đang viết gì đấy?” Ansbach từ phía sau ôm choàng lấy cổ Oregon, cánh tay từ từ siết lại hệt như chiếc khăn quàng cổ cứng cáp quấn chặt lấy cổ y.

Oregon bực bội vỗ vào tay anh, “Anh cắt đứt nguồn cảm hứng của tôi.”

“Viết thư tình? Biết đâu tôi truyền thêm cảm hứng cho em được đấy?” Ansbach cúi đầu xuống, dùng môi mổ vào cổ y rồi bắt đầu tấn công xuống dưới.

Oregon nói: “Để tôi yên tí coi.”

Ansbach rũ mắt, môi hơi nhếch lên để lộ răng nanh. Cổ họng anh phát ra tiếng nhấm nuốt khô khốc, mặt bỗng dưng vùi sâu vào hõm vai Ansbach, cánh tay run lên nhè nhẹ.

Oregon xoay bút, bất đắc dĩ đặt xuống rồi vuốt tóc anh, “Được thôi, chúng ta cùng nhau nghĩ xem có trò chơi nào mặc quần mà chơi không nhé.”

Một lúc sau, Ansbach bình tĩnh lại, anh ngước mặt lên, nói bằng giọng tỉnh như ruồi, “Không phải muốn viết thư sao? Tôi viết chung với em.”

Oregon giơ tạp chí lên, “Tôi chỉ muốn viết thư cho chủ biên của tạp chí để nói thức ăn ở Anh không đến nỗi quá tệ, ít ra khoai tây chiên đâu cũng được mà.”

Ansbach nhận lấy tạp chí lật qua lật lại, “Em có thể bình luận ở trang web chính thức của hắn.”

Orgeon hỏi: “Đừng nói anh hy vọng một con mèo có thể làm được từng đấy chuyện nhá?”

Ansbach quàng tay qua vai Oregon, ngón trỏ và ngón giữa mân mê trái cổ của y, “Hay mình làm tí việc không cần mặc quần đi?”

Oregon kéo tay anh xuống, trước khi Ansbach kịp trở tay bắt lấy y, Oregon cúi đầu hôn lên mu bàn tay anh, “Tụi mình phải sống lành mạnh tí xíu.”

“Hoàn toàn đồng ý, ví dụ như mấy loại vận động tốt cho cả thể xác lẫn tinh thần.” Ansbach kéo y đứng dậy rồi sấn tới.

Oregon nói: “Tôi muốn phơi nắng.”


Ansbach nâng cằm y lên, “Gangrel có phải là huyết tộc thật không đấy? Có lẽ các người biết biến thành bất cứ con vật nào ngoài dơi ra?”

Oregon cười hì hì trả lời: “Cứ nhìn tiêu chuẩn chọn bạn đời của tôi là biết tôi mù thật mà.”

“Ồ.” Ansbach cúi xuống mân mê ngón tay của y không nói lời nào.

Oregon vừa thấy kỳ kỳ vừa thấy rờn rợn. Y rụt người xuống trộm liếc Ansbach, để rồi bắt gặp đôi mắt đỏ au tràn ngập đố kỵ, điên loạn, mờ mịt của anh.

Ansbach nâng cằm y lên và hôn thật mạnh, nhưng lại sợ hôn mạnh quá làm y bị thương nên chỉ đành giữ lực về phần mình.

Oregon nghe rõ tiếng xương cốt răng rắc vang lên từ trong người anh.

Y lặng lẽ nhích về sau nhưng hành động này lập tức đốt lên ngọn lửa nóng nảy trong người Ansbach. Anh xé toạc áo mình rồi xé luôn áo của Oregon, để hai cơ thể dán lại sát vào nhau.

Oregon bất đắc dĩ vuốt gáy anh, “Ít ra cho tôi biết nguyên nhân.”

Lồng ngực Ansbach phập phồng bất ổn, thật lâu sau mới nói: “Hối hận rồi sao?”

“Chuyện nào? Là chuyện cứ ở lỳ ở Anh để thưởng thức đặc sản duy nhất là khoai tây chiên? Hay chuyện chọn cái khách sạn có thảm cứng ngắc để giờ nằm khó chịu muốn chết? Hay là chuyện sáng nay lúc mới ngủ dậy không đề nghị ra ngoài phơi nắng, khiến giờ hai đứa chẳng làm được gì ngoài việc giữ nguyên tư thế kỳ cục này?”

“Không chọn Joseph Miller.”

“Hơ.”

Ansbach đột nhiên bế thốc y, đi băng qua phòng ngủ rồi vào nhà tắm, đè y vào bồn tắm rồi từ trên cao nhìn xuống, u ám nói: “Hối hận cũng muộn rồi!”

“Thật ra…”

“Câm miệng!” Ansbach táo bạo hôn y.

Oregon giãy vài cái tượng trưng rồi thôi.

Dù gì từ sau khi quen biết Ansbach, mấy vụ cưỡng ép bắt mình ngậm mồm bị hoài cũng quen, còn mình cũng tập thành thói nhường nhịn.

Mãi đến lúc Oregon biến thành mèo đen, Ansbach vẫn chưa nghe được đáp án của y.

Nhưng lần này anh không hối hận.

Không nghe thấy đáp án còn hơn nghe thấy đáp án mình không muốn nghe.

Chẳng qua ngày hôm sau, vừa mở mắt ra, anh đã nhìn thấy trên trần nhà khách sạn viết một dòng chữ to tướng: “Chọn anh! Chọn anh! Khốn nạn, tôi chọn anh!”

Nỗi vui sướng điên cuồng chưa kịp bùng nổ thì Ansbach lại nhìn thấy tờ giấy Oregon đặt trên đầu giường.

“Tôi ra ngoài để câm miệng.”

Bị dội cả chậu nước lạnh, Ansbach: “…”

Bữa sáng, không có mèo đen.

Không muốn ăn.

Bữa trưa, vẫn chưa về.

Không muốn ăn.

Bữa tối…

Không muốn ăn!

Mãi đến hơn mười một giờ đêm, lan can mới vang lên tiếng động.

Mèo đen trở về, cả người nồng nặc mùi rượu, liêu xiêu bước đi nhưng còn chưa kịp vào phòng, rèm cửa đã bị kéo ra cái rẹt, một bóng người cao to u ám xuất hiện bên cửa sổ và nhìn chòng chọc vào nó.

Chân mèo dừng lại trên không rồi chìa ra, nịnh nọt gãi gãi vào giày ai kia nhưng đối phương lại chẳng thèm động đậy, thế là mèo ta lại lon ton chạy tới cọ vào chân Ansbach.

Ansbach khom người bồng nó lên, hôn vào mũi nó, môi nó và thấp giọng nói: “Xin lỗi.”

Mèo đen nghiêng đầu nhìn anh bằng ánh mắt ngạc nhiên, sau đó hài lòng gật đầu. Xem ra Ansbach tu hành bao nhiêu năm nay cũng có chút thành quả, ít ra bắt đầu biết nhận lỗi.

Ansbach mỉm cười lấy bút lông chim ra và nói: “Tôi đã xin lỗi xong, giờ là trừng phạt của em.”

Mèo đen: “…” Co chân sau mau!

Không thoát khỏi ma trảo.

Từ đó về sau, cả Ansbach và mèo đen đều yên phận cho tới khi về đến nhà.

Cuộc sống yên bình thanh thản khiến Ansbach như từ địa ngục lên thiên đường, đây chính là cảnh tượng mà anh nằm mơ cũng không dám mơ tới. Nếu còn gì không trọn vẹn thì chính là thời gian mèo đen biến thành người quá ngắn. Có đôi lúc hai người cãi cọ hăng quá, mèo đen hờn dỗi bèn giữ thân mèo đi tới đi lui ba ngày liên tiếp, hoàn toàn phớt lờ con dơi đói khát đến xanh cả mắt.

Gordon, hắc vu sư, hắc vu thuật… dường như đều là chuyện của quá khứ.

Đôi khi Ansbach còn nghĩ, có lẽ người khoác áo choàng đến từ vu tộc đã xử lý xong xuôi hết mọi chuyện.

Cho đến ngày nhà gỗ nhỏ có khách ghé thăm.

Không cần mở cửa Ansbach cũng cảm giác được hơi thở khiến người khác chán ghét. Anh bồng mèo lên thả vào bàn ăn đặt ngay mép phòng khách, gần chỗ của Oregon.

Cộc, cộc, cộc.

Tiếng gõ cửa vang lên ba lần không nhanh không chậm.

Ansbach dám chắc nếu mình không đi mở cửa, đối phương sẽ cứ tiếp tục gõ như vậy cho đến khi bề ngoài trầm tĩnh bong ra từng mảng, lộ ra nội tâm điên cuồng vô phương cứu chữa.

Cửa tự động bật vào trong.

Ansbach khoanh tay nhìn lão.

“Quấy rầy rồi.” Gordon ngả mũ chào hỏi.

Ansbach kinh ngạc vì gương mặt già nua gần như mục nát của đối phương. Lần đầu gặp mặt, đối phương trông có vẻ như ngoài năm mươi, mặt mũi in hằn dấu vết của năm tháng, nhưng động tác lại tràn ngập sức quyến rũ nam tính, chính là loại đàn ông mà các thiếu nữ ngây ngô mới bước vào đời ưa thích. Nhưng giờ đây mặt mày lão ta cả mắt mũi miệng cũng khó bề phân biệt rõ.

Gordon chống gậy chậm chạp bước vào nhà.

Lão mặc áo khoác dài màu đen, đệm vai vừa cao vừa tương xứng tạo nên một đường thẳng tắp che khuất cả cổ, trông như quái vật có đầu mọc trên khối chữ nhật. Dưới áo khoác đen là đôi giày bóng loáng, dù bước đi trên bãi biển dài thăm thẳm vẫn không dính tí bùn đất nào.

Lão lướt nhìn hết phòng khách cứ như người bạn cũ quen biết đã lâu, ánh mắt dừng lại trên chậu hoa giả đặt ngay cửa sổ một lúc rồi mới cười bảo: “Ngươi vẫn không thay đổi. Vẫn si mê vẻ đẹp của hoa nhưng lại căm ghét sức sống tràn trề của chúng.”

Ansbach nói: “Người yêu ta thích hoa, ta ghét chăm sóc.”

Gordon cười như kiểu ‘ta hiểu rõ ngươi quá mà, cần gì phải giấu diếm’ rồi ngồi xuống, “Ngươi nói thế nào thì là thế nấy.”

Ansbach: “…”

Xem ra bệnh tâm thần của lão ta nặng hơn rồi.

Người bệnh tâm thần đều khiến kẻ khác chán ghét vậy ư?

Không biết trước đây mình có vậy không nhỉ?

Chắc chắn không.

…Anh có nhan sắc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 8: Sa lưới

Cái bẫy được chuẩn bị tỉ mỉ.

Gordon nói: “Một tách hồng trà, cảm ơn.”

Ansbach đáp: “Không có.”

Gordon lấy khăn tay từ túi áo từ từ thấm sạch nước trên bàn trà rồi đưa lên mũi ngửi: “Hồng trà Anh Quốc.”

Ansbach nói: “Thú cưng của ta đôi khi cũng sẽ đi bậy trên bàn, ông biết đấy, giống đực thường thích mấy trò đó.”

Tay Gordon run khẽ, lão ngước mặt nhìn anh.

Ansbach chú ý thấy, đôi mắt của lão vốn có màu xanh lam nhuộm tro, khó nói rõ là đẹp hay không, dù sao cũng là loại thường thấy ở Anh, nhưng lúc này đã biến thành màu vàng xanh ma quái, cứ như bên ngoài màu xanh phủ thêm một lớp vàng kim kỳ dị, “Ông sắp điếc rồi hả?”

Gordon nói: “Không nhanh như cậu đâu.”

“Ta cho rằng ông bị đột biến gien lặn giống mấy con mèo xui xẻo ấy.” Từ ngày người yêu biến thành mèo, anh bắt đầu chú ý đến vô số tin tức về mèo. Ansbach xoay người bỏ vào trong bếp.

Mùa thu vừa qua, khí hậu ở Ai Cập vẫn ấm như những ngày xuân.

Thế nhưng Gordon ăn mặc kín mít, chỉ chừa ra mỗi gương mặt bóng loáng như bôi sáp thật dày. Lúc lão ta cười, ánh đèn sẽ phản chiếu lên mặt tạo ra những hình thù khác nhau.

Ansbach nhanh chóng rời bếp, đặt lên khay trà chai nước suối thường được tặng miễn phí trong các hội chợ triển lãm. “Không biết hết hạn chưa nữa. Nhưng hết hạn cũng không sao, cơ thể ông hết hạn mà vẫn dùng lâu vậy được đấy thôi.”

Bàn tay cầm gậy của Gordon khẽ run lên, lão ta cười bảo: “Rất vui khi thấy cậu chẳng thay đổi tí nào, vẫn cứ khiến người ta phải căm ghét như hồi xưa.”

Liếc thấy mấy móng vuốt không chịu an phận của mèo đen thó ra khỏi bếp, Ansbach bèn kéo ghế chắn ngay chính giữa, “Ông muốn cái gì?”

Gordon nói: “Thăm bạn cũ thôi, cậu căng thẳng quá làm gì.”

Ansbach đáp: “Sau khi ông sử dụng hắc vu thuật với ta, ta còn tin ông được nữa ư?”

Gordon hưng phấn cười bảo: “Hiệu quả khá đấy chứ nhỉ? Cậu trúng chiêu mà.”

Ansbach nói: “Ta còn đang yên ổn ngồi ở đây.”

Gordon thôi không cười nữa, lão lạnh lùng nói: “Còn chưa chúc mừng cậu, con chó săn của thiên đường.”

Ansbach đáp: “Nghe có vẻ cao giá hơn làm bạn bè với hắc vu sư.”

“Bạn bè?” Gordon chế nhạo: “Mơ mộng hão huyền! Ta không có bạn bè, không có ai xứng làm bạn với ta cả! Cả thế giới này, không, cả chín giới này đều là những sinh vật không có đầu óc, không có tình cảm, không có năng lực, chẳng có một ai được đứng ngang hàng với ta! Hoặc có lẽ miễn cưỡng cũng có một kẻ.” Lão ngừng lại đôi chút rồi tiếp: “Kẻ mà các ngươi xưng là Thần.”

Ansbach nói: “Đúng, một được xưng là Thần, còn lại là thần kinh.”

Gordon nhìn chằm chằm vào anh, “Chớ quên cậu cũng từng làm bạn với kẻ thần kinh này đây.”

Ansbach nói: “Ông mới chớ quên rằng, mới nãy ông còn bảo tên thần kinh nhà ông không có bạn bè!”

Bàn trà trước mặt Gordon bỗng nhiên bay thẳng lên trần rồi rơi xuống đất cái rầm.

Cái ghế và Ansbach cùng lùi về sau hai mét, mặc cho bàn trà rơi xuống đất vỡ tan tành.

“Bàn trà này do chính tay ta làm, tiền bồi thường đắt hơn ông tưởng nhiều đấy.” Anh nói.

Gordon chống gậy đứng dậy, giày của lão đạp lên mảnh vỡ của bàn nghe lạo rạo. Lão gõ gậy xuống đất, hai tay đặt lên đầu gậy và đứng thẳng người lên, “Ansbach Malkavian, cậu có nguyện thề sẽ thành tâm cống hiến, kính dâng cả thân xác lẫn linh hồn cho Gordon Creator, mãi mãi không hối hận hay không?”

Mang tiếng là kẻ điên nổi danh nhất giới huyết tộc, thậm chí lẫy lừng ở cả nhân giới, nhưng Ansbach vẫn thấy như được mở mang tầm mắt, “Họ của ông độc đáo quá đấy.”

Gordon chần chừ đáp: “Nếu cậu chịu phụng thờ ta một trăm năm, không, một ngàn năm, ta sẽ cho phép cậu được thừa kế họ của ta.”

Ansbach trêu lão: “Nếu như ta lén đi đổi chứng minh thư thì sao?”

“Ta sẽ giết cậu!” Gordon vốn không muốn có bất cứ kẻ nào dùng chung cái họ cao quý nhất trần đời ấy với mình! Nếu là là đấng vạn năng đương nhiên khắp trời đất này chỉ có thể có duy nhất một mà thôi!

Nhìn bộ dạng nửa tỉnh nửa hâm của lão, Ansbach vừa thương hại vừa sung sướng.

Năm xưa nếu không nhờ Oregon, có lẽ anh đã trở thành kẻ nối nghiệp của dòng họ “Creator”.

Thiệt tội cho những gã đàn ông độc thân.

Ansbach thỏa mãn nghĩ.

Sự im lặng của anh lại được Gordon tưởng nhầm thành do dự.

Sắc mặt lão dịu lại, mỉm cười bảo: “Không cần căng thẳng, ta và cậu không phải chiến đấu trong đơn độc. Bọn ta có quân đội mạnh mẽ ủng hộ, thiên sứ, đọa thiên sứ, người lùn, titan, vu sư, đương nhiên cũng có cả huyết tộc, nói chung là rải khắp các giới. Bọn ta tụ hội lại với nhau chỉ vì một lý tưởng cao đẹp nhất: Đánh bại những kẻ thống trị chín giới, tự lên làm chủ!”

Ansbach nói: “Bởi vậy ai cũng ghét Nghịch Cửu Hội.”

“Từ Nghịch Cửu Hội này không chính xác lắm. Hiện giờ bọn ta gọi là Hội Cao Quý.” Gordon nói bằng giọng xem thường: “Bọn ta khác với Nghịch Cửu Hội, không phải ai cũng xin vào được. Nếu muốn gia nhập cần phải thông qua thử thách nghiêm khắc, đương nhiên về sau bọn ta sẽ bồi dưỡng bọn họ, để họ trở thành những vị thần cấp dưới của ta. Cậu không cần lo lắng, cậu và Zofie đều đã được ta chọn làm các vị thần đứng đầu.”

Ánh mắt Ansbach lướt qua cằm lão, mỉm cười bảo: “Nghe ra có vẻ là tổ chức khá chặt chẽ, có thể giới thiệu thêm đôi nét chăng?”

“Cậu có hứng thú rồi đúng không?” Gordon cười ranh mãnh, làn da cũ kỹ xếp lại thành nhiều lớp, “Ta biết ngay cậu sẽ thế mà.” Lão liếc nhìn chai nước suối nằm giữa đống mảnh sứ, đang định khom người nhặt lên thì bất chợt cứng đờ cả người.

Ansbach hỏi: “Sao thế?”

Gordon đứng lên, chân lảo đảo lùi về sau hai bước, tay nhanh chóng đưa vào túi lấy khăn tay ra lau cổ. Từng vệt máu lớn thấm lên khăn tay, đỏ chói cả mắt.

“Không! Không thể nào!” Lão gào thét thảm thiết: “Zofie! Zofie!”

Nóc nhà bị đụng sầm vào làm lõm vào một lỗ.

Ansbach nhìn lên nóc nhà rồi dịch người qua bên cạnh, đúng giây tiếp theo, một vật thể đông lạnh rơi vào nóc tạo thành lỗ thủng hình cầu.

Từ trong nhà nhìn lên.

Sao sáng lấp lánh. Thời tiết ngày mai chắc đẹp lắm.

Gordon lấy lại tinh thần, “Cậu làm thế nào vậy hả?”

“Kinh nghiệm từ vô số lần thất bại dạy ta biết,” Ansbach trong nháy mắt di chuyển đến trước mặt lão, cầm một cây dùi mài dao từ từ đâm vào cổ lão, “những lúc thế nào không bao giờ được phí thời gian giải thích nguyên lý.” Anh di chuyển cây dùi để giữ cho nó thật thăng bằng.

Gordon không dám tin trợn tròn hai mắt, ngơ ngác nhìn anh cứ như đang thầm chất vấn anh tại sao lại xảy ra chuyện thế này.

Ansbach buông tay ra để dùi mài dao cứ thế cắm trên cái giá mới, “Đừng cử động. Phải cố gắng lên, tốc độ bào mòn gỉ sét của nước may mắn hơi chậm, thân thể của ông chịu khó bị giày vò thêm tí xíu nhé. Bây giờ chúng ta có thể pha hồng trà và giải thích nguyên lý rồi.”

Mèo đen đẩy khay ra, trên khay có lá trà, nước sôi và tách trà.

Tuy cả Gordon và Zofie đều đã sa lưới nhưng anh không muốn nó mạo hiểm dù chỉ đôi chút. Anh nhấc khay lên, dùng chân móc lấy mèo đen đẩy nó vào bếp rồi đóng cửa lại.

Sau cửa phát ra tiếng cào phẫn nộ.

Bàn trà đã bị Gordon phanh thây trong lúc giận dữ, Ansbach chỉ đành đặt khay trà lên tủ trang trí rồi pha hai tách trà, một đặt bên chân Gordon, một cho chính anh, “Ông cẩn thận lắm, từ lúc vào nhà tới giờ luôn đề cao cảnh giác chẳng hề tiếp xúc với bất cứ thứ gì, nhưng có những thứ bất kể ông tránh thế nào cũng tránh không khỏi. Không khí.”

“Nếu da của ông nhạy cảm sẽ cảm nhận được nhiệt độ khác thường của căn nhà, nó giống như phòng xông hơi vậy.”

“Nước may mắn bốc hơi lan tỏa trong không khí, thấm vào cổ áo của ông rồi từng chút từng chút ăn vào da.”

“Mùi vị của dùi mài dao như thế nào? Xin lỗi, động tác của ta có lẽ hơi thô bạo.”

Tròng mắt Gordon xoay vòng vòng, chuyển hướng sang Zofie đang bị đông thành đá.

Ansbach nhướng mày, đi đến gần “hàng hóa đông lạnh”, “A! Quên giới thiệt! Ta và Oregon lâu ngày mới được gặp lại nhau, tình cảm trào dâng khó lòng kìm chế nên đã hưởng tuần trăng mật ở gần đây. Đây là cách một hắc vu sư ở Ai Cập dạy cho ta, vốn là quả cầu lớn bằng quả banh bóng rổ được lắp vào cung, kéo nhẹ một cái là sẽ bay lên bọc lấy vật trên không trung, đặc biệt thích hợp dùng với mấy loài chim chóc. Tên ấy nói cũng đúng quá chứ.”

Bất thình lình, dùi mài dao từ trên cổ họng Gordon rớt xuống đánh keng một tiếng, vết thương đã bị nước may mắn ăn mòn thành cả cái lỗ to như quả bóng bàn. Ngay sau đó, thân thể của Gordon thẳng tắp ngã ngược về sau.

Cửa nhà bếp bị đẩy ra nhè nhẹ, giữa khe cửa bé xíu ló ra một cái mũi mèo, sau đó là cả cái mặt mèo bị ép cho biến dạng. Cửa mở hẳn ra, mèo đen lắc người, lon ton chạy thoát khỏi bếp.

“Đừng qua đây.” Ansbach chắn trước mặt nó, mặt có vẻ nghiêm trọng.

Phòng khách vô cùng yên lặng, cả tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy.

Thi thể của Gordon nằm trên mặt đất không hề động đậy.

Tên hắc vu sư từng dấy lên bao phen sóng gió đã kết thúc cuộc đời một cách đơn giản vậy ư?

Kiêu ngạo như Ansbach còn phải cảm thấy hơi bị thuận lợi lạ thường. Anh lùi về mấy bước nhìn tên tù binh còn lại.

“Hàng đông lạnh” trong suốt nên vật bên trong dù có vặn vẹo cũng vẫn nhìn ra được đại khái. Thế nhưng Ansbach không hề nhìn thấy tí gì kinh hoảng, sợ hãi, giận dữ hay thù hằn… Gã rất bình tĩnh, thậm chí ẩn sau trong mắt còn có chút gì như là đắc ý.

Đây tuyệt đối không phải là dấu hiệu tốt.

“Cộc, cộc, cộc.”

Tiếng gõ cửa vang lên không nhanh không chậm hệt như từng viên đá nhỏ ném vào mặt hồ làm dậy nên những làn lăn tăn, khiến cho sóng ngầm phải cuộn trào lên bề mặt.

Ansbach cất bước toan ra mở cửa nhưng vừa đi được một bước, ống quần chợt bị cắn chặt.

Chân trước của mèo đen quấn vào mắt cá chân anh, răng ghì chặt lấy quần anh, hai chân sau của nó liên tục nhích về phía sau để mượn lực kéo Ansbach lại.

“Vào bếp đi.” Ansbach nói.

Cái đầu nhỏ của mèo đen lắc lư, chân sau không ngừng co lại nhưng muốn kéo anh đi.

“Cộc, cộc, cộc.”

Tiếng gõ cửa lại tiếp tục.

Ansbach cúi đầu nhìn chú mèo đang không ngừng cố gắng, “Tôi không ngại cởi quần trước mặt người khác.”

Mèo đen cứng đờ.

Thừa cơ nó hơi nhè quần mình ra, Ansbach bồng nó lên phóng vào phòng ăn, cõng lấy Oregon trên lưng rồi vọt ra ngoài từ cửa sổ nhà bếp.

Trăng đêm nay rất tròn.

Bóng trăng tròn vành vạnh phản chiếu trên mặt biển, mặt biển dập dìu, sóng gợn lăn tăn, ánh trăng lay động theo từng làn sóng nhấp nha nhấp nhô, cao cao thấp thấp, trùng trùng điệp điệp. Hai mặt trăng trên trời và trên biển đều sáng tỏa, sáng hơn hẳn bất cứ mặt trăng nào Ansbach từng được ngắm.

Vậy mà dưới vầng trăng ấy, giữa màu đen của biển đêm lại còn có một bóng người sáng chói hơn cả ánh trăng.

Đôi cánh trắng không chút tì vết tỏa ra hào quang sáng ngời nhưng không chói mắt. Rạng rỡ hơn cả đôi cánh ấy chính là gương mặt chủ nhân của nó. Đó là một gương mặt mà dù có cộng hết những từ ngữ miêu tả đẹp nhất trên đời cũng khó lòng tương xứng. Mắt y rũ xuống, giấu mình dưới hàng mi cong vút dài rậm là đôi mắt xanh lam trong trẻo như bầu trời mới được gột rửa sau cơn mưa, bờ môi y hơi cong, mang theo nụ cười thân mật, dịu dàng lại thánh khiết.

Mặc dù bản năng khiến tất cả huyết tộc không mấy hảo cảm với thiên sứ nhưng đứng trước y, trong lòng bất cứ một ai cũng khó có thể cảm thấy ác cảm.

“Nhốt bạn bè ngoài cửa là hành vi bất lịch sự biết nhường nào.”

Giọng đàn ông hùng hồn vang lên từ trong nhà gỗ.

Một người đàn ông trung niên đội nón tây, mặc áo khoác đen dài đút tay vào túi bước đi trên bãi cát. Lão đi có vẻ rất bình thản, trên giày không hề dính bất cứ hạt cát nào.

Zofie đi theo sau lưng lão ta, luôn tay mân mê lớp keo dính trên lông vũ, ánh mắt nhìn Ansbach tràn ngập oán trách.

Ansbach chầm chậm xoay người lại, “Là ông.”

Gã trung niên híp mắt cười và ngả mũ chào hỏi: “Viên bắt chim bán cho cậu xài cũng được đấy chứ? Trông cậu có vẻ vừa ý. Nhớ đánh giá năm sao cho ta.”

Ansbach nói: “Gordon.”

Ở đất nước Trung Quốc xa xôi có một kỹ thuật gọi là đổi da, Gordon rõ ràng đã thành thạo với kỹ thuật này.

Gordon giang hai tay ra xoay một vòng trước mặt Ansbach, “Trông ta như thế nào? Có giống với lúc chúng ta mới gặp nhau không, lúc hồi còn đánh bi da với nhau ấy? Chỉ cần cậu không chơi xấu, chúng ta chơi sẽ vui lắm.”

Ansbach đáp: “Không thuận mắt như hồi đó.”

Gordon nói: “Không chỉ không thuận mắt mà còn thuận tay chứ nhỉ.” Lão làm động tác như đang đâm vào.

Ansbach nói: “Ta cứ tưởng ông sẽ là một hắc vu sư luôn xem trọng tôn nghiêm của con người.”

“Đương nhiên!”

“Ông vứt bỏ thân thể của chính mình.”

“Nhưng ta vẫn sử dụng lại thân thể của con người.” Gordon nói: “Ta gọi đây là ‘hồi sinh’.”

Ansbach nói: “Lần sau nếu gặp được bạch vu sư, ta sẽ nhờ họ chuẩn bị một ít nước thuốc nhắm vào linh hồn.”

“Chỉ sợ cậu sẽ phải thất vọng.” Gordon lấy từ túi áo ra một cái hộp nhỏ. Cái hộp không dẹp nhưng để trong túi áo Gordon lại không bị cộm lên. Lão ném hộp lên không trung, cái hộp dừng lại ở giữa đường vòng vung rồi tự động mở ra.

Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, bên trong chiếc hộp được chiếu hết sức tỏ tường.

Trên nhúm lông vũ màu đen là một sợi tóc trắng muốt sáng bóng.

Gordon giơ tay lên vuốt ve sợi tóc trong hộp như đang vuốt ve thú cưng của mình, “Cậu đang ám chỉ hắn đấy a? Tên bạch vu sư có duyên gặp cậu một lần. Sau lần chia tay hôm ấy nhất định cậu rất vương vấn hắn, nào ngờ hắn lại gặp được ta, cũng lấy dao đâm vào họng ta y hệt như cậu.”

Mặt Ansbach không chút biểu cảm. Từ lúc Gordon xuất hiện với bộ mặt của hắc vu sư anh gặp được ở Ai Cập, Ansbach đã biết mỗi một hành động của mình đều nằm trong tính toán của đối phương.

Vốn tưởng mình là thợ săn, hóa ra chỉ là con mồi, cảm giác này chẳng ai không thấy khó chịu.

Người hơi yếu đuối chắc đã đắm chìm trong tuyệt vọng chê trách bản thân.

Nhưng Ansbach là người từng trải biết bao tự trách cùng giày vò nên quá quen với việc tự đánh giá và khẳng định giá trị của bản thân.

Đúng, anh thất bại rồi, nhưng vậy thì đã sao?

Anh từng trải qua thất bại còn đau khổ hơn thế này.

Nhưng anh chịu đựng nổi, vả lại còn cứu chữa được.

Gordon ngẩn ra. Phản ứng lạnh nhạt của Ansbach hoàn toàn nằm ngoài dự tính của lão ta.

Đặc điểm nổi bật của Malkavian là gì chứ?

Điên!

Cái tôi cực đoan của họ khiến họ một khi rơi vào bế tắc, dù có là Thần cũng khó lòng thay đổi ý chí của họ.

Nội tâm tràn ngập những cảm xúc cực đoan như hung tàn, buông thả, hưng phấn, kích động, điên cuồng, si mê… thì phải bất chấp quy tắc, tự ý phát tiết mới vui!

Gordon tưởng niệm Ansbach của quá khứ đến mức thèm khát.

Nhưng hiện thực luôn tàn nhẫn. Cảm xúc của Ansbach bây giờ ổn định như một người tu hành lâu năm.

Chẳng khác nào bãi nước đọng.

Không hề mang tính kích thích!

Không hề có sức sống!

Hệt như cái xác đã mất hết tính sáng tạo và sinh mệnh!

Khiến người ta đau đớn đến nhường nào.

“Đã hết hy vọng.” Đôi mắt tràn ngập ác ý cứ ghim chặt lấy mặt Ansbach để tìm ra dấu vết của sự bất an và kinh hãi, “Tên bạch vu sư cậu gửi gắm hy vọng…”

“Thất. Bại. Rồi.”

“Chẳng khác nào con chó mất chủ…”

“Cúp đuôi bỏ chạy về thế giới của hắn.”

“À phải, có lẽ cậu vẫn chưa biết thân phận của hắn.”

“Lũ bạch vu sư xưng hắn là…”

“Tộc trưởng.”

Ansbach đổi tư thế đứng, vẻ mặt ung dung như đã chuẩn bị sẵn sẽ nói chuyện khá lâu.

Đây không phải là kết quả Gordon muốn thấy.

Gordon gạt sợi tóc trắng, lấy ra một sợi lông vũ màu đen, “Giờ thì hãy nhìn xem thứ này! Chắc cậu sẽ cảm thấy hứng thú, đúng vậy, là lông vũ của đọa thiên sứ. Ta sưu tập nhiều lắm, mỗi cọng lông đều được nhổ ra từ những đôi cánh khác nhau. Mớ này chỉ là một phần nhỏ thôi, trong kho của ta còn nhiều lắm. Ta tính may một chiếc áo choàng, sợi tóc này có thể dùng làm đường viền, nhất định sẽ rất đẹp.”

Ansbach nói: “Áo choàng lông quạ đúng là rất hợp với phong cách của hắc vu sư.”

Nghi vấn của anh chẳng những không khiến Gordon nổi giận mà ngược lại còn mừng rỡ, “Không phải ai cũng vinh hạnh được gặp quân đoàn đọa thiên sứ.”

Ansbach cảm thấy bệnh của lão này hình như đã vào giai đoạn cuối, chẳng còn thuốc chữa nữa, “Ý ông là ông đánh bại quân đoàn đọa thiên sứ?”

“Ai biết địa ngục bị cái gì, tự dưng phái chúng đến nhân giới tìm cái chết.” Nói đến đây, Gordon như đang vô cùng bất bình hậm hực, “Nhìn lại cái gọi là công bằng của Thần đi. Đọa thiên sứ phản bội thiên đường, vậy mà chỉ bị thay đổi tạo hình. Còn nhân loại chỉ vì ăn nhầm quả cấm mà mất sự bất tử! Cứ nhìn huyết tộc mà xem, tên Cain giết hại anh em bị trừng phạt thế nào? Hắn đạt được sự bất tử, còn được Thần che chở, không cho bất cứ sinh vật nào gây tổn thương cho hắn! Đương nhiên là ngoài hàm răng chẳng biết để làm gì và một khoản chi không nhỏ cho nha khoa!”

Ansbach nói: “Ta từng hoan nghênh ông gia nhập huyết tộc.”

“Tại sao ta lại phải gia nhập vào thứ chủng tộc thấp hèn, đồi bại, tràn ngập mùi thối nát ấy chứ?” Gordon vung nắm tay, “Nhân loại mới là sinh vật cao quý nhất trong chín giới! Là tác phẩm hoàn mỹ nhất của Thần! Bọn ta vốn nên sống trong vườn Địa Đàng, sử dụng trí tuệ của mình để thay đổi cả thế giới!”

Dẫu có đổi sang một cơ thể trẻ tuổi hơn, tâm hồn Gordon vẫn đã thối rữa đến tận cùng.

Suy nghĩ của lão ta còn rối hơn mớ len bị mèo cào.

Ngoài miệng lão luôn đề cao mình ngang ngửa với Thần, nhưng trong tư tưởng vẫn xem mình như nạn nhân bị đối xử bất công.

Một mặt lão ta ngưỡng mộ quyền năng của Thần, mặt khác lại không ngừng phát triển những kế hoạch ảo tưởng.

Hai tư tưởng cực đoan xoắn xuýt trong đầu lão ta, va chạm kịch liệt tạo ra một nồi canh mùi vị quái dị.

Ansbach cố uốn nặn lại suy nghĩ của lão, “Nếu Adam và Eva không ăn trái cấm, vẫn còn sống trong vườn Địa Đàng thì sẽ không có con cháu, tức là không có ông của bây giờ. Còn nếu Adam và Eva ăn trộm trái cấm, tức là ông sẽ đoản mệnh. Vậy nên tưởng tượng của ông sẽ không bao giờ biến thành sự thật.”

Gordon im lặng một giây rồi rống lên: “Bởi thế ta mới phải khiến cho nó phát sinh! Ta muốn Thần biết lựa chọn của ông ta là sai lầm! Trí tuệ mà nhân loại sở hữu có thể thay đổi thế giới này!”

Ansbach nói: “Có lẽ đây mới là nguyên nhân nhân loại chết sớm.”

Trái tim Gordon như bị đâm trúng, dáng vẻ kiêu ngạo của lão yếu thế hẳn đi.

Từ cái xác khỏe mạnh sung sức chợt hiện lên điệu bộ ủ rũ chỉ có ở người lớn tuổi.

Lão khom lưng ho sù sụ.

Ansbach vừa lặng lặng cử động chân thì nhìn thấy biểu cảm hả hê lóe lên trong mắt Zofie.

Điều gì khiến hắn không biết sợ là gì?

Ansbach cố gắng kìm chế sóng ngầm đang cuộn trào trong lòng. Gánh nặng trên người và trong lòng khiến anh không dám mạo hiểm như trước. Nhỡ mà… Nhất định phải tính toán kỹ lưỡng trước khi hành động.

Gordon ngừng ho, đứng thẳng người lên, “Còn nhớ tôn chỉ của Nghịch Cửu Hội không?”

Ansbach cau mày.

Ai mà nhớ.

Với anh của ngày xưa, Nghịch Cửu Hội, Nghịch Thập Hội, thậm chí là Nghịch Thần Hội chẳng qua chỉ là cái cớ để anh thỏa thuê buông thả.

Nếu không phải cứ bị nhắc đi nhắc lại, chắc anh đã sớm quên mất sự tồn tại của nó.

Gordon chậm rãi nói: “Thế giới cần có thay đổi.”

“Nghịch Cửu Hội chân chính không phải là một tổ chức.”

“Cũng không phải là một đám người.”

“Mà là, lý tưởng.”

Bệnh tâm thần quả là đáng sợ.

Càng đáng sợ hơn nữa chính là, người ta cứ nghiêm chỉnh đi thuyết phục kẻ khác với mớ lý luận giẻ rách mơ mơ hồ hồ.

Cảnh tượng trước mắt quen thuộc đến đáng sợ. Ansbach nhớ hình như mình cũng từng như vậy. Chọn đại ai đó rồi bắt đầu công cuộc tẩy não từng bước một, hoặc khủng bố tinh thần người ta đến mức thân tàn ma dại. Anh chẳng buồn để ý xem họ nghĩ gì, hay sẽ đạt được thứ gì, mà đơn thuần chỉ vì anh hưởng thụ quá trình chinh phục.

Một người được xã hội tô vẽ cho đủ các sắc màu lại bị mình tẩy trắng từng ly từng tí, sau đó để mặc cho mình sơn phết lên những màu mình thích.

Cứ như khiến một người sống cuộc đời mới.

Thích thú nhường nào.

Chắc đây cũng là tâm trạng của Gordon.

Thuyết giáo không mệt mỏi, vừa đấm vừa xoa, uy hiếp dụ dỗ đủ cả, rốt cuộc chỉ để có được giây phút người khác khuất phục dưới mình.

Ngón tay Ansbach mân mê cái bụng mềm mại của mèo đen, trong đầu không ngừng suy nghĩ.

Nếu khuất phục trước lão ta có thể giúp anh và Oregon chuyển nguy thành an, Ansbach cũng chả ngại gì từ bỏ chút tự trọng. Nhưng Gordon rõ ràng không hề đơn giản như vậy. Vì vậy phải luôn làm giá để Gordon dù khát khao lại không đạt được, ấy mời là cách đảm bảo sự an toàn cho anh và Oregon.

Ansbach không hề nhúc nhích, việc này đã khiến lòng kiên nhẫn của Gordon bay sạch không còn tăm hơi. Lão lạnh lùng nhìn sang chú mèo đen đang ngoan ngoãn nằm trong lòng Ansbach.

Mèo đen: “…” Gì vậy trời, đừng nói nằm mà cũng trúng đạn nha!

Quả nhiên, Gordon nói: “Hắn đã thay đổi cậu.”

Ansbach nói: “Trước khi thay đổi thế giới, chúng ta phải thay đổi tình yêu trước.”

Gordon nói: “Ngu xuẩn! Ấu trĩ! Nông nỗi! Ngốc nghếch! Vô tri!” Một chuỗi năm từ chửi liên tiếp thể hiện rõ nội tâm dữ dội của lão. “Tình yêu? Chỉ là kích thích do nội tiết tố gây ra mà thôi! Còn nếu muốn tìm cảm giác tim đập nhanh cậu có thể đi nhảy dù thử! Bảo đảm kết quả ngoài sức tưởng tượng!”

Ansbach nhìn lão bằng ánh mắt thương hại. Lão già FA đáng thương.

Gordon nói: “Cậu không có tư cách nhìn ta bằng ánh mắt đó!”

Ansbach ngẫm nghĩ rồi đáp: “Đúng vậy. Có người thích ăn chay, có kẻ ưa ăn thịt, không phân sang hèn mà chỉ vì sở thích khác nhau thôi. Bất hạnh là ông thích ăn chay, còn ta thích ăn mặn.”

“Đừng tưởng ta không nhận ra sự giễu cợt trong lời cậu.”

“Đã giễu cợt gì đâu, chỉ đang khoe mẽ thôi.”

Ansbach sở hữu một gương mặt Gordon không thể không thừa nhận là rất đẹp trai, cũng có nghĩa là ai cũng phải công nhận đẹp trai, gương mặt đó đủ để tung hoành phương Đông lẫn Tây, lại không chịu sự thử thách của thời gian. Trước đây Gordon rất thích vừa nói chuyện vừa thưởng thức gương mặt ấy, nhưng còn hiện tại lão chỉ hận không thể xé nát gương mặt đắc ý ấy!

Dám sử dụng thứ lão luôn khinh bỉ để khinh bỉ lão, đúng là khó lòng nhẫn nhịn.

“Tình yêu của cậu và Oregon chẳng khác nào khúc gỗ từng bị đàn mối viếng thăm, dù bề ngoài có hào nhoáng bao nhiêu thì bên trong cũng đã mục nát có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.”

“…Đúng là có mối nhưng cũng chỉ như kiến càng muốn lay đổ cây, không biết tự lượng sức mình.”

“Vậy tại sao Oregon lại bị phong ấn?”

Mặt Ansbach cứng đờ.

Mèo đen đang thoải mái nằm trên khủyu tay Ansbach, nó giơ chân vỗ nhẹ lên tay anh mấy cái tỏ vẻ an ủi.

Ansbach yên lòng trả đòn: “Có một từ gọi là tình thú, ông không hiểu đâu.”

“Ha! Ta không hiểu. Người trong cuộc mù mờ, kẻ đứng ngoài tỏ tường, chỉ có một mình ta mới hiểu loại tình yêu của hai người là không có nền móng, lúc nào cũng chao đảo chực đổ.” Gordon cười lạnh, “Nếu cậu đã cảm thấy tình cảm giữa cậu và Oregon là hoàn mỹ vô khuyết, long trời lở đất, vậy ta sẽ cho cậu cơ hội để chứng minh. Nếu chứng minh hắn quả thật hoàn mỹ như cậu tưởng tượng, cậu sẽ được tự do, ta đảm bảo không làm phiền cậu nữa. Còn nếu ngược lại cậu sẽ mất đi tình yêu cậu luôn xem trọng! Hệt như năm xưa vậy, do chính tay cậu phá hủy!”

Sắc mặt Ansbach trở nên u ám.

“Hối hận rồi ư? Sợ rồi ư? Nhưng ta không cho cậu cơ hội lựa chọn.” Gordon cười lạnh, “Cậu phải trả giá đắt cho sự khoe mẽ ban nãy của mình! Dù bây giờ có hối hận quỳ xuống cầu xin ta, ta cũng sẽ không đổi ý.”

Ansbach siết tay ghì chặt mèo đen, những ngón tay giấu dưới bụng mèo nhẹ nhàng gõ nhịp.

Không có ngôn ngữ ra hiệu, không giao lưu bằng mắt, anh chỉ có thể đánh cược vào sự ăn ý giữa hai người.

“Gordon.” Ansbach cau mày, “Ông nhất định phải tiến hành loại thí nghiệm vô bổ này sao?”

“Cậu đang nhận lỗi với ta ấy à?” Gordon nói trong hưng phấn, “Hỡi bầu trời ban đêm, hỡi biển cả mênh mông, hãy cho ta biết đây là ai thế này? Là ai đang phải cúi thấp cái đầu cao quý của hắn! Là ai…”

Trong nháy mắt Ansbach phóng nhanh xuống biển.

“Bắt lấy hắn!” Đang phát biểu giữa chừng mà bị ngắt lời, Goron nổi giận đùng đùng.

Sau màn xuất hiện ấn tượng, vị thiên sứ đẹp đẽ tĩnh lặng như món trang sức giờ phút này bỗng tao nhã giơ tay lên…

Thời gian ngừng trôi.

Biển cả ngừng nhấp nhô.

Gió ngừng thổi.

Những con muỗi ngừng bay lượn.

Và còn cả Ansbach đang chuẩn bị nhảy xuống nước, chân chỉ cách mặt biển một ly.

Trên bờ biển, đôi cánh của Zofie giữ nguyên tư thế nửa khép nửa mở, tay trái vung ra sau, tay phải vung đến trước, chân trái giơ ra trước, chân phải đạp về sau, cả người như sắp tung bay, thế nhưng… lại cứng đờ.

Chỉ có Gordon là khẽ nhếch mép, từ từ cất bước đi đến bên cạnh thiên sứ, “Đưa tên huyết tộc trên lưng hắn qua đây!”

Ngón trỏ phải của thiên sứ hơi nhúc nhích.

Thân thể của Oregon trên lưng Ansbach chầm chậm bay lên, dần dần trôi đến trước mặt Gordon rồi đáp xuống ngay mũi chân lão ta.

Thiên sứ mở mắt ra, đôi mắt xanh lam trong trẻo hiện lên chút nghi ngờ, “Ngươi đang đố kỵ?”

Gordon ngẩn ra rồi giật mình đáp: “Ngươi đang nói chuyện với ta?”

Thiên sứ lại im lặng.

Dường như Gordon đã quen với việc này, lão tự nói tiếp: “Hai người bọn họ là một cặp tình nhân, bình thường cứ thích giày vò lẫn nhau, xem việc giày vò nhau là tình thú. Ta phải cho họ thấy sự thật. Bọn họ căn bản không hợp với nhau. Vị trí thích hợp nhất dành cho Ansbach là ở bên cạnh ta, đi theo ta để thống trị cả thế giới này.”

Thiên sứ chớp mắt nói: “Là đố kỵ.”

Gordon nói: “Ta đang giúp họ giải thoát! Ngươi chưa thấy cảnh bọn họ chung đụng với nhau đâu. Tính cách hai người họ hoàn toàn tương phản, lại không biết thông cảm cho nhau, chỉ biết hoài nghi trách móc lẫn nhau, bầu không khí quanh họ chẳng lúc nào không đậm mùi thuốc súng. Nếu có xảy ra chuyện gì bất hạnh, suy nghĩ đầu tiên chính là đổ lỗi cho đối phương! Dù đối phương có vào nhà vệ sinh cũng sẽ nghi ngờ người còn lại dùng bồn cầu tự xả để che giấu gì đó!”

Thiên sứ nói: “Nhưng họ yêu nhau.”

“Ta sẽ chứng minh đó chỉ là ảo giác của họ.” Gordon thì thầm tự nhủ: “Ansbach sẽ nhận ra phản bội ta là sai lầm to tác nhường nào. Đúng vậy, cậu ấy sẽ nhận ra.”

Cứ như tìm được động lực, lão chợt phá ra cười đầy vẻ ma quái, chầm chậm giơ tay lên chỉ vào mèo đen và đọc cả tràng thần chú dài dòng tối nghĩa…

Trời vẫn tối đen như mực, trăng vẫn sáng vằng vặc, mặt biển vẫn dập dìu gợn sóng.

Nhưng một người một mèo trên biển đã biến mất không còn bóng dáng.

Zofie đang định ra tay, thấy vậy thì không khỏi ngẩn ngơ nhìn quanh quất.

Trên cát không có dấu chân dù là của người hay mèo.

“Xảy ra chuyện gì?” Gã ngờ vực nhìn Gordon.

Gordon hoàn hồn, nhìn thiên sứ với vẻ kích động, “Thành công rồi? Ta thành công rồi? Ta thật sự đã quay ngược thời gian rồi!”

Thiên sứ nghiêng đầu, mờ mịt nói: “Ta cảm thấy sức mạnh của mình đang từ từ tăng lên.”

Gordon đương nhiên chả buồn quan tâm vì sao, lão đang kích động đến mức nói năng lung tung: “Quá tuyệt vời! Có Thần trên cao, kỳ tích thật sự đã xảy ra! Ta biết ta vốn không phải người bình thường. Thần đang quan tâm tới ta! Ta sẽ đánh bại Thần, ta có thể.” Lão vừa nhảy nhót vừa kêu gào, để lại cả đống dấu chân lộn xộn trên cát, một lúc lâu sau mới bình tĩnh lại. “Thiệt hy vọng được nhìn thấy vẻ mặt của Ansbach khi đọc lá thư của ta.”

“Trong thời gian ba tháng nếu không tìm được cách quay về, Oregon này sẽ chết.” Gordon cúi đầu nhìn thân xác Oregon nằm lặng lẽ trên bãi cát, lắc đầu tỏ vẻ thương hại, “Nếu trên đời thật sự có tình yêu thì cái cảm giác sự sống chết của người yêu nằm trong tay mình chắc hẳn rất thú vị. Cố gắng một cách điên cuồng, phấn đấu đến kiệt sức, thời gian mỗi lúc một ít dần, thất vọng bắt đầu sinh sôi, hoảng hốt, mông lung, rối bời… Cho đến giây phút cuối cùng, trong tim sẽ tràn ngập tuyệt vọng vì sự vô năng của bản thân. Biết trước kết cục lại không thể nào thay đổi, chỉ mới tưởng tượng thôi mà ta đã thấy tim sắp tan nát.”

“Y có cơ hội thành công nhất định.”

“Tiếc quá, đây là đề thi có liên quan đến lòng tin cùng sự ăn ý.” Gordon khoanh tay lại, “Với Malkavian, đề thi này không có lời giải.”

Mới giây trước còn là biển rộng mênh mông bát ngát, giây sau lại trở thành mặt đất rắn rỏi ẩm ướt… Quá rõ ràng, trong một giây thời gian chuyện gì đó đã xảy ra…

Ansbach còn chưa đứng lên đã vô thức kiểm tra mèo đen trong lòng và Oregon trên lưng.

Mèo đen, Oregon…

Oregon!

Khoảng trống trên lưng khiến anh lạnh người như chìm vào hầm băng.

“GORDON!” Ansbach giận dữ gầm lên.

“Meo.” Mèo đen cào nhẹ vào ngực của anh, kéo ra một lá thư.

Ansbach lập tức mở ra xem.

“Ansbach thân yêu,

Rất vui được biết khi cậu đọc lá thư này, nó vẫn chưa bị lửa giận của cậu đốt thành tro bụi, vậy trò chơi mới phát triển thuận lợi được.

Nhất định hiện tại cậu đang có vô số nghi vấn. Biển cả xanh thẳm biến đâu mất rồi, ta đang giở âm mưu quỷ kế gì đây, Oregon thân yêu của mình có an toàn hay không. Đừng vội, để ta trả lời cậu từng câu một.

Đầu tiên, Biển Đỏ đáng thương vẫn bị kẹp giữa châu Á và châu Phi, nó chẳng đi đâu hết, người chuyển chỗ là cậu.

Thứ nhì, ta không hề giở trò gì hết, lần này là trò chơi quang minh quang minh chính đại đến không thể nào quang minh chính đại hơn được nữa. Không phải là ảo giác, cũng không lừa gạt cậu, quả thật cậu đã quay về một trăm hai mươi lăm năm trước. Thiệt hâm mộ cậu quá, nếu cậu may mắn còn được tận mắt chứng kiến Van Gogh sáng tác ‘Chân dung bác sĩ Gachet’.

Cuối cùng là vấn đề cậu quan tâm nhất: Sự an toàn của Oregon. Vấn đề này có liên quan đến trò chơi. Giả sử trong vòng ba tháng cậu tìm được cách trở về hiện tại, cũng tức là năm 2015, vậy là cậu có thể nằm trong nhà gỗ chờ đoàn tụ với Oregon. Còn nếu không thể, cậu chỉ đành đến bãi phế liệu tìm tro cốt của Oregon.

Về phần hướng giải quyết, tuy ta rất muốn gợi ý cho cậu nhưng chắc cậu sẽ không tin.

Thôi được rồi, vẫn nên gợi ý chút đỉnh, ai bảo ta rộng rãi cơ chứ. Gợi ý chính là: Phong ấn. Tin hay không tùy cậu.

Mọi chuyện tốt lành.

Gordon Creator của cậu.”

“Một trăm hai mươi lăm năm trước?”

Ansbach phì cười. Lão tưởng anh tin sao?

Mèo đen nhảy ra khỏi lòng anh, đi chung quanh nhìn tới nhìn lui như vị vua đang tuần tra lãnh thổ.

Chỗ này là một con hẻm nhỏ tối tăm, trời vửa đổ mưa, mái hiên bên hẻm tí tách rỉ nước, cả tường lẫn đất đều ướt nhẹp. Sau cơn mưa, trời đêm trong vắt, ánh trăng sáng tỏ hệt như ánh trăng trên BIển Đỏ. Ánh trăng bàn bạc phủ khắp mặt đất, phủ trên cả giày, cả những thùng gỗ đặt hai bên hẻm.

Một cánh cửa giữa hẻm đột nhiên mở toang, tiếng ồn ão đinh tai nhức óc vang lên ầm ầm.

Cô gái tóc vàng say khướt từ bên trong lảo đảo bước ra, nôn thốc vào vách tường đối diện. Nôn xong, cô nàng lả lướt xoay người đi thẳng về phía đầu hẻm đối diện, mặc cho tà váy quét qua bãi ói.

Một lúc sau, người đàn ông đội nón Tây cúi đầu đi ra, dáo dát nhìn quanh đầy vẻ cảnh giác, cả khe hở giữa đống thùng gỗ cũng không bỏ qua. Khoảng nửa phút sau, gã mới bắt đầu đuổi theo hướng cô gái tóc vàng vừa đi.

Trên thùng gỗ ban nãy gã nhìn có mái hiên cao, trên mái hiên là một con dơi và một con mèo sóng vai ngồi cạnh nhau, cả hai đều nhìn về phía cô gái bỏ đi.

“Em có tin đây là thế kỷ 19 không?”

“Meo.”

“Không phải trò mới Gordon học được sau khi đổi da?”

“Meo.”

Thật ra trong lòng Ansbach cũng bị thuyết phục.

Một là thế giới này quá chân thật, chân thật đến từng chi tiết nhỏ nhất. Chuyện này Gordon không làm nổi, thuật mê hồn của lão chưa đạt đến mức không bỏ qua cả những sinh vật nhỏ xíu như kiến, bướm hay giun…

Và anh nghe thấy tiếng mèo.

Anh không hề quên, hai lần trước đều là nhờ y giải cứu anh khỏi ảo ảnh.

Con dơi từ từ cao lên, biến thành hình người, cúi xuống bồng mèo đen vào lòng. “Nếu em nói thế thì tôi đành tạm thời tin rằng lão ta có khả năng đấy. Hiện tại chúng ta phải tìm chỗ nào ở tạm trước… Đều là bảng cả, chẳng biết bảng Ai Cập có dùng như bảng Anh được không.”

Bảng Ai Cập đương nhiên không thể dùng như bảng Anh, đặc biệt là bảng Ai Cập của hơn trăm năm về trước, thế nhưng Ansbach vẫn tìm được chỗ ở vô cùng thoải mái – Biệt thự của Oregon.

Mèo đen trợn mắt nhìn anh suốt dọc đường đi.

Ansbach nhún vai đáp: “Hơn trăm năm nay tôi đổi chỗ ở không biết bao nhiêu lần, tự nhiên quên mất ‘bây giờ’ đang ở đâu rồi. Đừng hẹp hòi vậy mà, em ở nhà gỗ bấy lâu nay thì cũng nên có qua có lại chứ. Dù sao ‘năm nay’ cả tôi lẫn em đều không sống ở châu Âu.” Giọng anh chùng xuống, “Tiếc rằng lão chỉ cho chúng ta thời gian ba tháng, bằng không…”

Trong đầu anh bỗng lóe lên ý tưởng quái lạ và to gan, hơn nữa còn rất chi phấn khích.

“Nếu chuyện này là thật, có phải… Chúng ta có thể thay đổi lịch sử không?”

“May mà trong nhẫn của tôi còn chút nước may mắn, giả sử sớm bắt được Gordon, biết đâu chúng ta có thể quay về nhanh hơn! Bởi vì Gordon của một trăm năm sau sẽ không tồn tại, thế nên chẳng có ai tống chúng ta về thời đại này cả!”

Anh đi vòng vòng phòng khách tự biên tự diễn, giọng nói tràn ngập kích động: “Tôi còn có thể ngăn cản sai lầm của mình… Một trăm hai mươi lăm năm trước! Chính là thời gian em bị phong ấn, tôi phải xem hôm nay là ngày mấy mới được!”

Mèo đen ngậm một tờ giấy, sang chảnh bước đến bên cạnh anh.

Ansbach từ xa đã nhìn thấy nó, anh lập tức quay đầu đi, “Đừng qua đây. Tôi thấy ý kiến này cực hay, không cần ý kiến khác!”

Mèo đen nhảy lên bàn trà và đẩy giấy qua.

Giằng co được một lúc thì Ansbach thỏa hiệp, cam chịu nhận lấy tờ giấy, “Cứ lần nào tôi thấy ý tưởng không tồi thì em lại tạt nước lạnh. Chẳng lẽ không có một lần ngoại lệ sao?”

Mèo đen nằm trên bàn trà mở to hai mắt nhìn anh đầy vẻ vô tội.

Ansbach nói: “Tìm đọc tư liệu liên quan đến dịch chuyển thời gian? Em lo đây là bẫy của Gordon à? Tôi thấy không cần phải lo… Đương nhiên lão sẽ gài bẫy.”

Mèo đen dường như muốn nói gì đó, đuôi nó cong lên toan viết nhưng lại phát hiện quên mang theo bút, muốn dùng vuốt khắc chữ lại xót cho bàn trà gỗ lê hoa vàng đắt tiền của mình, vì vậy nó cứ nhíu tít mày và đi vòng vòng. Ansbach nhìn mà chịu hết nổi, bèn kéo nó vào lòng, “Ngày mai sau khi khôi phục hình người rồi nói là được chứ gì.”

Mèo đen “meo~” một tiếng ra chiều đồng ý.

Nhưng mấy ai đoán được chữ “ngờ”…

Ngày hôm sau thức dậy, mèo đen phát hiện máu trong người tràn trề năng lượng, nhưng lại không thể biến thành người.

Ansbach lười biếng nằm dài trên giường, đầu kê lên gối cao chuẩn bị thưởng thức vóc dáng khỏa thân mỹ miều của người yêu, nào ngờ chờ cả buổi trời, nắng sắp chiếu tới mông mà mèo vẫn cứ hoàn mèo.

“Sao thế?” Anh lấy ngón trỏ khều khều cằm mèo.

Mèo đen đổ gục xuống giường nằm ngay đơ cán cuốc.

Ansbach bật dậy, lo lắng ôm lấy nó, “Rốt cuộc là làm sao?”

Mèo đen nhảy lên rồi nằm dài trên bàn sách, giơ móng cào lên mặt bàn: Không biến được.

Ansbach biến sắc.


Mèo đen tiếp tục viết: Bị phép thuật nào đó giam cầm.

Nhớ tới dòng cuối trong thư Gordon có nhắc đến chuyện phong ấn, sắc mặt của anh trở nên u ám.

Thấy anh còn khó chịu hơn mình, mèo đen đành lấy lại tinh thần, dùng đôi chân bé xíu dịu dàng vỗ lên mu bàn tay anh tỏ vẻ an ủi.

Ansbach đấm mạnh lên bàn, một lúc sau lại bắt đầu lẩm bẩm: “Lẽ nào thật sự phải thử chơi dơi mèo?”

Mèo: “…”

Dẫu Ansbach có tức giận đến mức nào thì vẫn không thay đổi được một việc: Họ đang rơi vào tình cảnh hết sức nguy hiểm.

Bị ném về nước Anh, London, năm 1890.

Oregon tạm thời không thể biến thành người, chỉ đành làm chú mèo đen biết viết chữ.

Trong vòng ba tháng không quay về 2015, thân thể của Oregon có thể bị thiêu rụi.

Giả sử còn chuyện gì bi thảm hơn những chuyện kể trên, vậy chắc là chuyện dù có quay về quá khứ nhưng lại không thay đổi được gì.

Trên dường tới Thư viện Anh, Ansbach luôn thầm hy vọng hai chữ “giả sử” này không bao giờ xảy ra.

Nhưng hiện thực càng tàn nhẫn hơn những gì họ tưởng. Trong hơn cả vạn quyển sách, muốn tìm một quyển sách không biết tên gì, không biết tác giả, không biết nội dung đúng là quá khó. Mà khó hơn nữa là hai người không biết quyển sách đó có tồn tại hay không.

Để tiết kiệm thời gian, Ansbach bèn thôi miên nhân viên quản lý.

“Xoay ngược thời gian? Chỉ có mấy tác giả hâm dở mới nghĩ ra.” Quản lý mơ hồ nói: “Đó là năng lực của Thần.”

Ansbach: “…Ta muốn biết Thần có những năng lực gì.”

“Thần không gì là không làm được.”

Cuối cùng, vị quản lý bị thôi miên còn giới thiệu cho họ sang thư viện Tôn giáo.

Trên đường đến đó, mèo đen bỗng nghĩ ra một chuyện. Nó dùng móng cào lên tấm gỗ xốp Ansbach luôn mang theo bên mình: Thiên sứ.

Ansbach hiểu ý đáp: “Ý em là vị thiên sứ đóng vai phông nền trên biển?”

Mèo đen gật đầu.

Ansbach nói: “Khống chế thời gian không phải là năng lực bình thường, dù có là thiên sứ nhưng không phải ai cũng biết. Thiên sứ đó chỉ có một đôi cánh, địa vị trên thiên đường tuyệt đối không cao.”

Mèo đen thấy cũng có lý.

“Nhưng trong ba người có mặt ở đó, khả năng cao nhất chính là y.” Ansbach nói: “Tôi không hy vọng là hai tên còn lại tí nào.”

Zofie, hừ.

Gordon, hừ hừ!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 9: Quá khứ

Hành trình ở thế kỷ 19.

Vào thế kỷ 19, sức ảnh hưởng của giáo hội tuy không còn như xưa nhưng vẫn có thể nhận ra chút dấu vết của hưng thịnh ngày trước. Trong thư viện của tôn giáo, những tu sĩ vẻ mặt nghiêm trang ra ra vào vào, vô cùng ít giao tiếp với nhau, nhưng mùi nước thánh nồng nặc trên mình họ làm Oregon và Ansbach cau tít mày lại.

“Nước thánh thời nay tinh khiết hơn một trăm năm sau nhiều nhỉ.” Ansbach nói: “Bọn chúng hao phí quá nhiều thời gian và sức lực một cách không cần thiết trong thánh chiến.”

Mèo đen “meo~” lên mấy tiếng.

“Em cũng muốn phát biểu cảm tưởng?”

Mèo đen cào ra một từ: “Công dụng.”

Ansbach nói: “Ý em là sự tồn tại của huyết tộc khiến nhân loại phải nhờ cậy vào tôn giáo, Hiệp nghị Đình chiến ngược lại đã làm suy yếu công dụng của giáo hội?”

Một người một mèo cùng nhau rơi vào im lặng.

Ansbach lại nói: “Nhân loại đang phát triển theo con đường xưa nay chưa từng có nhưng lại phát triển rất khả quan. Dù tôi có dè bỉu những phát ngôn của Gordon đến mức nào thì vẫn không thể không thừa nhận, máy vi tính rất dễ dùng.”

Nếu nhà triết học hay xã hội học có mặt tại đây trong lúc này, câu nói của anh có thể khơi mào những tràn tranh luận vô tận, chỉ đáng tiếc, bây giờ chỉ có một huyết tộc buồn hiu và một chú mèo đen ỉu xìu, vậy nên chủ đề nhanh chóng chấm dứt.

Đợi đến nửa đêm khi cả thư viện chìm vào giấc ngủ, hai người mới rón rén chạy vào nơi cất giữ sách cổ.

Nhìn gian phòng sạch sẽ sáng loáng, Ansbach nhún vai bảo: “Xem ra không có con chuột nào cho em làm bữa khuya rồi.”

Mèo đen vờ như chẳng nghe thấy gì, tự động nhảy lên một giá sách.

“Chúng ta bắt đầu từ đâu bây giờ? Theo bản chữ cái? Năm? Hay thể loại? Ơ kìa!” Ansbach kịp thời đỡ lấy một “cục gạch” dày cui rồi vỗ vào người chú mèo suýt bị “núi đè”, “Đừng khiến tôi phải lo lắng có được không?”

Mèo đen vẫy đuôi ra chiều đã rõ.

Ansbach kéo nó xuống tầng dưới cùng, “Chỗ này là địa bàn của em, bên trên cứ để tôi.”

Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt tràn đầy ngờ vực.

Ansbach đã dùng tốc độ mắt thường khó có thể bắt kịp xem hết số sách trên kệ cao nhất, anh đau khổ bưng trán, “Huyết tộc đi đọc sách do giáo hội viết còn vật vã hơn mèo không được ăn thịt chuột.”

Mèo đen: “…”

Hai ngày một đêm, bọn họ cuối cùng cũng đọc xong hết tất cả sách cổ.

Nhiệm vụ đọc sách nặng nề khiến cả hai không ngủ không nghỉ, thí mạng tận dụng cả ban ngày, khiến người ra vào thư viện cứ nghe tiếng lật sách soạt soạt soạt rõ rệt. Chẳng qua khu sách cổ quá vắng người, ngoài đêm thứ hai có bảo vệ mang đèn đi tuần tra bên ngoài, những lúc khác nơi đây chẳng khác nào hoang đảo.

Thế nhưng cũng chẳng có tác dụng gì.

Ansbach tự tin kiến thức về tôn giáo của mình dư sức tham gia cuộc thi khảo hạch giám mục, nhưng vẫn không tìm thấy bất cứ thông tin nào liên quan đến khống chế thời gian. Nếu có thì chỉ là câu nói quản lý thư viện tặng anh hôm nọ:

“Thần không gì là làm không được.”

“Thần không gì là làm không được… Câu này hay thật đấy chứ!” Bị giày vò hai ngày, Ansbach có chút nắng mưa thất thường, “Ba mươi sáu tiếng đồng hồ chỉ để chứng minh Gordon là Thần? Còn câu chuyện cười nào tiếu lâm hơn nữa không?”

Mèo đen lấy chân vỗ đầu anh theo thói quen.

“Tụi mình làm đi!”

Giây sau Ansbach đã biến thành dơi, nhìn chằm chằm mèo đen đầy vẻ mong ngóng.

Mèo đen kêu hoảng một tiếng, nhảy khỏi giá sách và liều mạng phóng ra ngoài.

Con dơi thong thả đuổi theo, thái độ đắc ý như thể mèo đen đang chạy thụt mạng phía trước đã là bữa tối của nó.

Chạy tới cuối hành lang, mèo đen bèn giơ vuốt cào cửa nhưng phát hiện không đẩy ra được, chỉ đành hoảng loạn quay lại…

Con dơi đã biến lại thành người, từng bước từng bước trang nhã tiến đến gần nó. Đèn dầu hai đầu hành lang kéo cho bóng của anh dài ra, cái bóng từ từ nuốt chửng mèo đen.

Mèo đen đột nhiên nghiêm túc đứng dậy, dù có không đủ chiều cao hay ngoại hình ngộ nghĩnh, nó vẫn cố gắng bày tỏ nguyện vọng được nói chuyện bình đẳng với Ansbach.

Ansbach cười bảo: “Em không cảm thấy nếu tôi biến thành dơi mình càng dễ giao lưu hơn sao?”

Hổng dám đâu!

Mèo đen múa vuốt như định tấn công.

Mặt Ansbach đanh lại: “Em muốn chiến đấu với tôi?”

Mèo đen tung người bắn vọt về trước, nhảy đến cạnh chân rồi cọ mặt vào giày của anh, sau đó trở người, để lộ cái bụng mềm mại và kêu meo meo đầy vẻ nịnh nọt.

Ansbach bồng nó lên, dùng mũi cọ vào bụng nó rồi đặt nó lên vai mình, nói bằng giọng yêu chiều: “Được rồi, lần này tha cho em. Ba tháng bảo dài không dài, bảo ngắn không ngắn, chúng mình phải tìm cách nắm bắt thời gian.”

Tommy Thompson từ trên giường bật dây, quả cầu lông trên chóp nón ngủ chắn trước mũi gã, khiến gã không thể không hắt hơi mấy cái. Quá quen với lối sống chỉ cần ăn, uống, ngủ, nghỉ và thi thoảng nộp vài báo cáo nhỏ, đây là lần đầu tiên gã bị thức giấc vào nửa đêm nửa hôm.

Một chiếc khăn tay xuất hiện trước mặt gã, gã nhận lấy xì mũi rồi buột miệng: “Cảm… Á! Ai?!”

Ansbach rất chu đáo, anh bật đèn giúp và còn rót cho gã một ly nước, “Uống chút nước rồi nói từ từ.”

Tommy lôi thánh giá trong áo ngủ ra giơ lên trước mặt mình, “Đừng lại gần tôi, bằng không tôi sẽ không khách sáo với anh đâu!”

Ansbach đặt ly nước xuống, giơ tay lên tỏ vẻ vô tội rồi chầm chậm lùi lại ba bước, “Ta là huyết tộc.”

“Ối, Thần của tôi ơi!” Tommy đẩy cửa sổ toan phóng ra.

Vị huyết tộc sau lưng chợt nhắc nhở: “Chỗ này là lầu bốn, cậu mang dù chưa đấy?”

Tommy nhanh chóng đóng cửa sổ lại, lần mò lục tìm thánh giá trước ngực, “Tí nữa quên mình sợ cao.”

“Ta không có ác ý…”

Tommy chợt rên lên: “Ôi, Thần của tôi ơi… Trước khi huyết tộc làm bậy đều nói câu này.”

Ansbach: “…”

Tommy càng khóc càng bi thảm, “Tôi mới lên làm quản lý thư viện được ba tháng… Hu hu, lương tháng này còn chưa được phát. ‘Thần cố’ còn mới đọc có ba chương… Sớm biết có ngày này đã lật về sau đọc ngược lên trước. Còn có luận văn của tôi, tôi đã sắp xếp xong đại cương rồi, hu hu, còn hứa sẽ đưa cho giáo hoàng đọc.”

Ansbach nói: “Ta chỉ muốn hỏi vài vấn đề liên quan đến Thần.”

“Tôi không biết gì hết.” Tommy ngồi xổm trên giường, sợ hãi ôm chặt đầu, nước mắt nước mũi tèm lem.

Ansbach hỏi: “Ai có thể khống chế thời gian?”

Tommy buột miệng đáp: “Thần.”

Ansbach nói: “Còn ai nữa? Ví dụ như thiên sứ?”

Tommy vừa thút thít vừa nói: “Anh hỏi mấy cái này làm gì?”

Ánh mắt Ansbach lướt qua quyển sách và luận văn đặt trên đầu giường, “Để… Viết luận văn.”

Tommy ngây người, “Huyết tộc cũng cần viết luận văn?”

Ansbach nói: “Ừ, sát hạch mỗi năm một lần.”

Tommy đáp: “Đây là phát hiện trọng đại à nha!” Gã lập tức chụp bút viết lia lịa, “Tại sao các người cần phải viết luận văn? Về đề tài nào? Có yêu cầu hình thức gì không? Công bố ở đâu?”

Nụ cười của Ansbach càng lúc càng đơ, ung dung vuốt ve chú mèo trong lòng.

Hay anh cứ thử thôi miên cho lẹ?

Tuy có khả năng vẫn sẽ thất bại nhưng nếu không làm gì đó, có lẽ anh bị “thôi miên” mất thôi.

Tommy lải nhải cả tràng dài, phát hiện đối phương không có phản ứng thì mới thấy xấu hổ, “Hồi nãy anh hỏi ngoài Thần còn có ai làm được chuyện này sao? Tuy không chắc lắm nhưng có một quyển sách viết thế này: Núi lửa đột nhiên phun trào, người dân không có chỗ trốn nên đành cầu xin Thần giúp đỡ. Sứ giả của Thần đang xây dựng thế giới, người nghe thấy tiếng khóc than thì cho thời gian ngừng lại, dời nạn nhân đi nơi khác.”

Ánh mắt Ansbach lóe lên, “Sứ giả của Thần là ai?”

Tommy nói: “Tể tướng của thiên đường, Metatron.”

Thiên sứ bên cạnh Gordon chính là Metatron?

Chuyện này nực cười hệt như bảo Gordon là Thần. Nếu Gordon có thể chỉ huy Metatron thì có khác gì với Thần đâu?

Tuyệt đối không có khả năng!

Ansbach nói: “Nhất định có đáp án khác.”

Tommy không vui bảo: “Anh dám nghi ngờ câu trả lời của tôi?”

Ansbach nói: “Lẽ nào cậu dám bảo mình tường tận hết tất cả những điều huyền bí trong chín giới?”

“Chín giới?” Tommy nói: “Lẽ nào những gì trong sách nói là thật ư? Thần tạo ra chín giới, bọn tôi chỉ là một trong số đó?”

Ansbach hỏi tiếp: “Còn có cách nào khống chế thời gian không?”

Tommy tưởng anh có mưu đồ khác nên kiên quyết phủ định khả năng đó, “Khống chế thời gian cũng đồng nghĩa với việc khống chế quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu người nắm giữ sức mạnh ấy mà có lòng dạ xấu xa thì chẳng phải thế giới sẽ loạn hết cả lên sao.”

Đúng.

Thế giới loạn rồi.

Ansbachh nói: “Thế có cách nào mượn sức của Thần hoặc Metatron không?”

Có lẽ cử chỉ của Ansbach quá giống con người nên Tommy cũng chẳng còn mảy may cảnh giác, gã phì cười bảo: “Anh tưởng sức mạnh của Thần là sách trong thư viện à?”

Mấy câu hỏi trừu tượng thế này rất khó có được đáp án.

Ansbach yêu cầu được xem tất cả những quyển sách liên quan đến Thần và Metatron.

Tommy nói: “Xem hết sách trong thư viện đi. Chỗ này là thư viện Tôn giáo, đều là quà tặng của Thần.”

Vì để giảm lượng công việc, Ansbach chọn cách tìm sách về Metatron trước, nhưng kết quả lại ít đến bất ngờ.

Tommy nói: “Trong bảy đại thiên sứ, người là vị khiêm tốn nhất.” Ngừng một lúc gã tiếp: “Tạo hình lại nhiều hơn những thiên sứ khác.” Gã lấy một quyển sách vừa dày vừa nặng đặt lên bàn, lật ra trang thứ nhất thì nhìn thấy thiên sứ tóc vàng mặt mũi mơ hồ. Trên lưng người ấy là mười mấy đôi cánh, trông hệt như những dãy núi tuyết áp sát vào nhau.

Ansbach thấp giọng bảo: “Tóc vàng, mắt xanh.”

Tommy nói: “Còn có mười tám đôi cánh.”

Ansbach hỏi: “Cánh của thiên sứ có rụt vào được không?”

“Đương nhiên, chắc cũng linh hoạt như cổ tay mình nhỉ. Dù chưa gặp thiên sứ nhưng chắc anh từng nhìn thấy chim chứ?”

“Ý ta là giấu hẳn vào, không ai nhìn thấy.”

Tommy nghẹn lời. Gã có gặp được thiên sứ bao giờ đâu, làm sao biết trả lời thế nào. Có điều để thể hiện mình học thức sâu sắc, gã nói bằng giọng khinh miệt: “Anh thử giấu bộ phận cơ thể nào vào trong xem xem!”

Ansbach hé miệng để lộ răng nanh rồi nhanh chóng thu chúng vào.

Tommy: “…”

Ansbach thoáng cái đã đọc xong.

Thấy anh nhắm mắt trầm ngâm, Tommy vui mừng nói: “Nhất định là anh được người dẫn dắt rồi đúng không? Metatron là thiên sứ tôi sùng bái nhất! Người cao thượng, nhân từ, khoan dung, kỷ luật, liêm khiết, chính trực, sáng suốt, thông tuệ…”

“Có khi nào bị lừa không?”

“Không đời nào!” Tommy nổi giận. Muốn phá đám hả?

“Meo.” Mèo đen dùng chân lật sang một trang, chính là trang có bức họa của Metatron.

“Coi chừng vuốt của mày! Sách hiếm không phát hành lại đâu!” Tommy lo lắng đưa tay ra muốn hất nó ra nhưng lại bị Ansbach hất tay ra trước.

Ansbach ngăn Tommy, cúi đầu vuốt đầu mèo đen và dịu dàng hỏi: “Phát hiện gì ư?”

Mèo đen dùng chân vỗ lên bức họa.

Ansbach liếc một cái rồi nhướng mày, “Chỉ có bốn đôi cánh.”

Đây chẳng phải chứng minh cánh của thiên sứ có thể giấu vào ư?

Cũng đang gián tiếp đề cao khả năng thiên sứ Gordon thu phục chính là Metatron?

Ansbach cảm thấy Malkavian làm sao xứng với danh “điên” cho được, cái thế giới này chẳng phải còn “điên” hơn sao.

Tommy đứng trong cái bóng của anh, vỗ vai anh, cuối cùng nhịn hết nổi mới nói: “Chuyện này có nguyên nhân đấy.”

“Ta đang nghe đây.”

“Truyền thuyết kể rằng vào thời kỳ thế giới đang được kiến tạo, các lục địa không ổn định lắm, để tránh cho các lục địa sụp đổ, tan rã thành những hòn đảo nhỏ, Thần chôn dưới các lục địa mười bốn cọc gỗ. Cũng có người nói đó chính là mười bốn đôi cánh của Metatron.”

Ansbach nói: “Có khả năng. Cánh chính là biểu tượng cho sức mạnh của thiên sứ. Sau khi các thiên sứ bốn cánh và sáu cạnh sa đọa, Thần thu hồi những đôi cánh thừa thãi, chỉ để lại một đôi với hy vọng khi biết sai, bọn họ sẽ dùng đôi cánh ấy để quay về thiên đường.”

Tommy đau xót nói: “Đáng tiếc đọa thiên sứ bị sức mạnh tà ác xâm chiếm, càng lúc càng cách xa thiên đường.”

Mắt Ansbach lóe lên, nảy ra một suy nghĩ, “Nếu có người tìm được cánh của Metatron, có phải sẽ sử dụng được sức mạnh của người hay không?”

“Không thể nào!” Tommy phủ định.

“Tại sao?”

Tommy đáp: “Răng của anh rụng rồi còn dùng được không?”

Ansbach đáp: “Sao lại không?” Vẫn cứng rắn như cũ à nha.

Tommy sợ huyết tộc nảy sinh ý định không hay với cọc gỗ nên vẫn kiên trì khuyên: “Nếu dễ để người khác dùng như vậy thì nhân giới đã sớm nát như tương.”

Ansbach nói: “Nghe đồn thế giới ban đầu vốn chỉ có một khối lục địa, hiện tại… Từ ‘nát như tương’ này cũng đúng ấy chứ?”

Tommy nghẹn họng.

Ansbach càng nghĩ càng thấy mình đi đúng hướng. Bất kể có phải Gordon đã lợi dụng cánh của Metatron để xoay vần thời gian hay không thì anh vẫn có thể dùng cách đó để đưa mình về tương lai!

“Đi đâu để tìm được mười bốn đôi cánh đó?”

Một tên huyết tộc nắm giữ thời gian để làm cái gì?

Dẫn cả đội quân trở về tham gia thánh chiến?

Hay là đốt sạch Adam lẫn xương cốt của người trước khi Eva được sinh ra?

Dù sao chắc chắn chẳng phải để tham quan kỷ băng hà đúng không?

Tommy thấy máu trong người như chảy ngược. Gã tự trách mình không biết giữ mồm giữ miệng gây ra họa lớn, vì vậy bèn phẫn nộ từ chối: “Tôi sẽ không để lộ nửa chữ! Anh đừng hòng tìm được chúng!”

“Ta vì viết luận văn mà thôi.”

“Đừng có gạt tôi, trông anh còn chả bịa nổi đề tài luận văn nữa là!”

Ansbach nhìn mèo đen, mèo đen thè lưỡi bày tỏ không giúp được gì, “E hèm, ‘Bình luận về ảnh hưởng sức hút trái đất đối với cánh của thiên sứ’ có được không?”

“Cảm giác bịa đặt qua quýt quá.”

Tức là rượu mời không uống muốn uống rượu phạt. Nụ cười của Ansbach lạnh dần, “Hình như ta còn chưa tự giới thiệu bản thân?”

Tommy kiên quyết không nhảy vào tròng, “Nếu anh không bị suy não thì chắc anh vẫn còn nhớ lúc mới vào anh có tự giới thiệu mình là huyết tộc.”

“Nhưng đâu có nói là gia tộc nào của huyết tộc nhỉ.”

Linh cảm không lành!

Tommy tự lừa dối bản thân, “Tôi không muốn biết đâu!”

Ansbach khoe ra hai chiếc răng nanh đối xứng và cười hiền dịu, “Lúc thánh chiến từng ra sức giúp đỡ giáo hội đấy.”

Tưởng gã khùng hả? Huyết tộc ra sức trợ giúp giáo hội trong thánh chiến?

Tommy lắc đầu bảo: “Lôi kéo quan hệ cũng vô dụng, tôi không nói với anh đâu.”

“Malkavian.”

“Ôi không!” Tommy đập đầu vào bàn.

Ansbach thương hại hỏi tiếp: “Có cần nói thêm một tin tốt không?”

Tommy đáng thương giương mắt nhìn anh.

Ansbach nhếch miệng cười, “Hiện tại tâm trạng của ta không tồi, sẽ không giày vò cậu thảm lắm đâu. Ít ra không rút xương sườn của cậu ra như Thần đã từng làm.”

Tommy thấy tay anh đang từ từ vươn tới cổ mình thì cả kinh nói: “Khoan đã! Tôi thật sự không biết mười bốn cọc gỗ đang ở nơi nào. Làm sao Metatron lại báo mộng cho tôi biết mấy chuyện này được.”

Ansbach nói: “Ngại quá, đáp án này ta không chấp nhận.”

“Nhưng mà!” Tommy nuốt một ngụm nước bọt, “Thầy của tôi biết nhiều hơn tôi. Có lẽ thầy sẽ cho anh một đáp án hay hơn.”

“Thầy của cậu ở đâu?”

“Tòa thánh trung ương.”

“Ha ha.” Anh không ngại đi thăm tòa thánh trung ương một vòng nhưng không phải là bây giờ.

“Nhưng mà!” Tommy nhanh chóng nói: “Hai ngày trước thầy vừa tới London tổ chức hội nghị.”

Ansbach cười vui vẻ, “Tham gia hội nghị đúng hẹn là thói quen tốt.”

Mèo đen liếc anh một cái. Không biết vị nghị viên nào thường vô cớ trốn họp.

Như cảm giác được ánh mắt của nó, Ansbach che mắt nó lại rồi ôm nó vào lòng, “Trong lúc tôi không biết gì cả thì em biết được nhiều chuyện đấy chứ.”

Mèo đen đơ.

“Đợi hai đứa mình rảnh rỗi sẽ thanh toán từng chuyện một nhé.” Anh vừa mỉm cười vừa đặt lên tai nó một nụ hôn vô cùng dịu dàng.

Tommy thầm cầu nguyện với Thần: Huyết tộc họ Malkavian đúng là biến thái, không ngờ còn đi ăn hiếp cả mèo nhà mình! Còn là mèo đực nữa chứ! Hy vọng cái lưỡi dẻo quẹo của thầy có thể xua tan ý xấu của hắn, để mười bốn cọc gỗ yên ổn ở nguyên vị trí ban đầu.

John White từ trên giường ngồi bật dậy, quả cầu lông trên chóp nón ngủ chắn trước mũi ông, khiến ông không thể không hắt hơi mấy cái.

Ansbach: “…” Hết khăn tay để dùng, anh bèn kéo tay áo Tommy đưa đến trước mặt ông lão.

John lấy tay áo xì mũi rồi hít vào và nói: “Cảm ơn! A… Anh là ai?!”

Ansbach biết điều lùi ra sau ba bước.

Tommy tiến lên một bước, thuật lại đầu đuôi mọi chuyện cho vị thầy gần tám mươi tuổi của mình.

“Cái gì?” John thét lên chói tai: “Con đã tiết lộ tung tích của mười bốn cây cọc gỗ với hắn ta?”

“Không, con không có ạ.” Chợt thấy sau lưng ớn lạnh, Tommy vội vã sửa lời: “Nhầm! Nào có ạ, vốn con đâu có biết!”

“Ý con là nếu biết con đã tiết lộ với huyết tộc – Kẻ thù của chúng ta rồi ư?”

“Không, con không có ý đó.”

Còn chưa vào đề hai thầy trò đã sa vào đấu khẩu không có hồi kết, từ chỉ trích từ một phía thăng cấp thành oán trách lẫn nhau với tiết tấu điên cuồng. Thấy mọi chuyện càng lúc càng căng, không thể khống chế, John lôi tuyệt chiêu “sắp tắt thở” ra dùng và giành được thắng lợi.

Nhìn gương mặt não nề của Tommy, John đắc ý vén chăn xuống giường, “Ủa? Huyết tộc con dẫn đến đâu?”

Tommy đáp: “Con mới thấy họ đi về phía nhà bếp.”

John ngờ vực hỏi: “Họ xuống bếp làm cái gì? Thức ăn hợp khẩu vị họ trong căn nhà này chẳng phải chỉ có hai thầy trò chúng ta sao?”

Tommy: “…”

Nhà bếp rất yên tĩnh.

Ansbach dùng dao ăn xén mẩu bơ nhẹ nhàng phết lên sandwich, sau đó cắt sandwich thành từng miếng nhỏ, đút cho mình một miếng, mèo đen một miếng, mình một miếng…

Trông hình ảnh ấm cúng của họ, John và Tommy thấy nổi hết cả da gà.

Ansbach đột nhiên ngẩng đầu lên, “Các người muốn ăn không?”

Tommy vô thức lắc đầu, “Không, hai vị từ từ dùng.” Dù bóng đèn đã được phát minh nhưng nghĩa bóng vẫn chưa phổ biến rộng rãi, Tommy đương nhiên không biết vì sao mình lại vô thức lắc đầu.

John nhẹ giọng kháng nghị: “Đó là bữa sáng của tôi.”

Ansbach đáp: “Cảm ơn.”

“Chẳng kính lão tí nào.” John làu bàu.

Ansbach mải mê thưởng thức dáng vẻ quyến rũ khi mèo đen dùng lưỡi liếm mép, lơ đãng nói: “Ông có chắc ông muốn thảo luận chuyện tuổi tác với ta không?”

John đáp: “Không, tôi đang muốn thảo luận trạng thái của sinh mạng. Tôi sắp phải vào quan tài.”

Ansbach nói: “Với trạng thái sinh mạng của ta, ta lúc nào cũng sẵn sàng vào quan tài nằm.”

John nhìn Tommy bằng ánh mắt không dám tin, “Có phải thầy vừa thảo luận chuyện vào quan tài nằm với một tên huyết tộc không?”

Tommy đáp bằng giọng đồng tình: “Con có thể cắt bỏ đoạn ký ức này.”

John hắng giọng rồi quay sang bảo với Ansbach: “Đi thôi.”

Ansbach nhướng mày.

“Anh có thể mang theo bữa sáng của tôi đi cùng.” John xoay lưng bỏ đi, quả cầu lông đánh một vòng cung trên không và đập vào mặt Tommy, sau đó vênh váo đi về phía trước hệt như chủ nhân của nó.

Tommy hít sâu một hơi và nhanh chóng đi theo.

John mang đèn dầu xuống kho sách dưới tầng hầm nhưng không nghe thấy tiếng động gì sau lưng thì khó chịu quay đầu lại hỏi: “Sao hắn ta còn chưa theo xuống?”

Tommy chỉ về phía trước.

John quay ngoắt lại, nhìn thấy đối tượng mình vừa mới than phiền đang chiếm cứ chiếc ghế của mình, ôm mèo dịu dàng vuốt ve nó. Khóe miệng ông lão giật nhẹ, vờ như chẳng có việc gì, thản nhiên gác đèn dầu lên tường rồi bước đến trước giá sách, rút quyển bút ký giữa đống sách dày cộm đưa cho Ansbach.

“Đây là cái gì?” Ansbach giở sách ra xem, bên trong là mấy hình vẽ kỳ lạ.

John nói: “Nắm giữ thời gian chẳng khác nào nắm giữ cả thế giới. Đây là lời của chủ nhân quyển bút ký.”

Ansbach lật qua trang bìa, nhìn thấy một cái tên quen thuộc: Gordon Turner.

“Kẻ điên muốn nắm bắt điều huyền diệu khi khống chế thời gian không chỉ có mình anh, ít ra tên hắc vu sư này cùng chung chí hướng với anh. Anh có thể xem bút ký của gã, biết đâu có thể tìm ra chút gợi ý.” John vờ nhơ không thấy ánh mắt ám hiệu của Tommy, “Nhưng tôi phải nhắc nhở anh, có khả năng hắc vu sư này không còn trên đời nữa. Suy cho cùng ham muốn giành được quyền lực của Thần chẳng khác nào đi tìm cái chết.”

Ansbach nhanh chóng lướt hết bút ký, “Lão ta chưa chết.”

John cả kinh hỏi: “Anh quen biết ông ta?”

“Hơn nữa thí nghiệm của lão rất có thể đã thành công.”

John hốt hoảng hô lên: “Không thể nào!”

Ansbach không nói ra chuyện mình đến từ tương lai, quen hệ giữa anh và giáo hội còn chưa tốt đến mức không giấu diếm chuyện gì, “Lão ta có thể sử dụng phép đóng băng thời gian.” Anh xuyên tạc sự thật, “Ta muốn tìm ra nguyên nhân và cản trở lão ta.”

John không tin lời anh, hoàn toàn không tin. Giáo hội thế kỷ 19 chưa bước vào giai đoạn hòa bình lâu dài với huyết tộc, hai bên vẫn mang địch ý và cảnh giác với nhau. Ông nói: “Nếu vậy tôi đây không giúp được gì. Tôi cũng không biết vị trí mười bốn cọc gỗ ở đâu.”

“Được thôi.” Ansbach bồng mèo đứng dậy, trong nháy mắt biến mất khỏi tầng hầm khiến John và Tommy trở tay không kịp.

Jonh đột nhiên kêu lên: “Hỏng bét!”

Ông chạy vội lên lầu, quả nhiên nhìn thấy mớ sách mình khổ công sưu tầm bị Ansbach lục tung cả lên.

Ansbach nhét quyển sách mình cần vào lòng rồi mỉm cười với John, “Cảm ơn.”

John nói: “Không! Anh không được đi!”

Ansbach nói: “Ngại quá, tầng hầm của ông không nhốt được ta nên không thể hoàn thành di nguyện muốn hi sinh cái tôi của các người được.”

John sợ hãi hỏi: “Sao anh biết được?”

Ansbach nói: “Ta đã sớm xuống tầng hầm nhà ông xem qua tất cả số sách trong đó một lần, không tìm thấy bút ký của Gordon. Tức là ông mang nó từ trên lầu xuống. Tại sao ông lại muốn dẫn ta vào tầng hầm? Có hai khả năng. Một là để đánh lạc hướng ta, một là để nhốt ta lại. Ta đoán cả hai khả năng đều đúng. Vì vậy ta đã lục soát phòng ông, tìm thấy những quyển sách và bút ký ông thường đọc để dưới giường. Nghĩ cũng phải, ông đã bước vào độ tuổi đáng được ‘kính lão’, không thể nào cứ chui xuống tầng hầm lấy sách.”

John nói: “Chúng ta đã ký Hiệp nghị Đình chiến! Anh không thể phá hoại trước!”

Ansbach vô tội nói: “Ta phá hoại cái gì?”

“Anh trộm bút ký của tôi!”

“Bảo giáo hoàng cứ kiện ta tội trộm cắp đi.”

Anh mỉm cười biến mất trong tràng rít gào điên cuồng của John.

Không thể không khen số Ansbach đỏ, hình như sau khi quay về thế kỷ 19, tất cả đều thuận lợi.

Lúc Tommy dẫn Ansbach đến tìm John, gã nào ngờ John lúc trẻ từng vì bút ký của Gordon mà nghiên cứu về Metatron, thậm chí còn điều tra tung tích cọc gỗ, dù thất bại nhưng lại cung cấp cho Ansbach một tin vô cùng hữu dụng:

Bản đồ của cọc gỗ.

Dùng những câu chữ lẻ tẻ ghi chú cùng với sự tưởng tượng của bản thân để vẽ ra bản đồ.

Mèo đen kích động kêu lên, nhanh chóng hất gã ván gỗ hí hoáy cào cào, nhưng để rồi phát hiện ra bi kịch: Móng mình bị mòn.

Nghe tiếng kêu đáng thương của mèo đen, Ansbach tâm trạng đang vui nên có lòng tốt đưa cho nó một cây bút lông đã thấm mực.

Mèo đen muốn dùng đuôi quấn bút nhưng cứ hết lần này đến lần khác làm lọt bút, Ansbach vui vẻ cười vang không ngớt.

Mèo đen lẳng lặng đi đến bên cửa sổ, ưu thương ngẩng đầu nhìn trời.

Sinh vật trong chín giới nhiều như vậy, cần nhan sắc thì có tinh linh, cần dễ thương thì có người lùn, cần huyền bí thì có vu tộc, cần vóc dáng thì có người sói, cần cái gì cũng có thì tìm thiên sứ và đọa thiên sứ đấy! Mắc chi y lại gặp phải tên Ansbach kia!

Hơn nữa không yêu đương không được!

Nhớ lại những ngày tháng bị đuổi giết, y thật sự kìm lòng không đặng chảy cả vũng nước mắt đồng tình cho bản thân.

Bóng ngược dưới cửa sổ lại xuất hiện thêm một cái. Ansbach ngồi xuống sau lưng nó, hai chân bắt chéo, nhẹ nhành khều khều chân mèo ta, “Em hối hận vì đã yêu tôi?”

Mèo đen cố gắng lắc đầu.

Ansbach nói: “Vậy là hối hận đã gặp được tôi.” Sau khi người yêu biến thành mèo, anh tranh thủ thời gian nghiên cứu cách đọc suy nghĩ qua ánh mắt, nhờ vào sự ăn ý về mặt tinh thần, thông thường đều đoán được chính xác tám, chín mươi phần trăm.

Mèo đen hơi do dự nhưng vẫn lắc đầu. Bỏ đi, chuyện đã thế này thôi thì cứ lo yêu đương sống qua ngày. Loại người như Ansbach ngoài mình ra còn ai có thể nuốt nổi chứ.

Mình quả nhiên oách xà lách quá đi!

Mèo đen tự hào lúc lắc cái đuôi.

Lửa giận của Ansbach đã dâng cao trong lòng, nhưng nhìn vẻ mặt của mèo ta thì cố đè nén, kìm lòng không đặng vuốt ve lưng nó, sau đó lại cúi đầu hôn hít, một lát sau mới nói: “Tôi còn nhớ rõ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau.”

Mèo đen dựng thẳng lỗ tai. Lẽ nào bị tiếng sét ái tình với mình? …Khó trách. Tuy mình không phải kiếm cơm nhờ cái mặt nhưng vốn liếng vẫn đủ xài.

Ansbach nói: “Tôi nghĩ, tên này nhất định là kẻ ăn bám.”

Mèo đen: “…”

Ansbach tiếp: “Nào ngờ không phải.”

Mèo đen: Nhất định là do sự tương phản rõ rệt giữa ấn tượng đầu và thực lực của y khiến anh trầm luân trong lưới tình.

Ansbach liếm môi một cái, “Vừa gian xảo vừa nhạy cảm, đuổi giết chắc sướng lắm!”

Mèo đen: Cái này gọi là vừa linh hoạt vừa sắc bén.

Ansbach im lặng ngắm bầu trời đen thẳm bên ngoài cửa sổ, dường như đang mải đắm chìm trong hồi ức, lâu đến nỗi mèo đen phải đổi tư thế nằm xuống, anh mới nói bằng giọng xa xăm: “Sau đó không muốn giết nữa mà muốn đè.”

Mèo đen: “…” Không muốn giết mà sao y chẳng cảm nhận được tí nào vậy! Trăm phần trăm đúng kiểu không cho đè là giết!

Ansbach nói: “Thật ra lúc đó tôi không ngờ em nhanh chóng chịu phối hợp như vậy.”

Hoa cúc của mèo đen thắt lại, nó vội cuộn đuôi lót dưới mông.

Hồi ức đã đời, Ansbach mới ngồi dậy đem mực đến đặt trước mặt nó: “Viết lên sàn nhà đi, chốc nữa tôi chùi móng cho em.”

Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt hoài nghi, không biết anh giấu mực ở chỗ nào trên người.

“Tôi còn giấu nhiều thứ trong người lắm, em muốn xem không?” Dứt lời, Ansbach từ trong lòng lấy một góc vải, sau đó từ từ rút ra thành tấm áo choàng màu xám đậm.

Mèo đen: Ngực tên kia bị trũng sao? Bởi vậy giấu bao nhiêu thứ cũng không bị phát hiện.

Ansbach nói: “Lúc rời khỏi nhà gỗ thuận tay cầm theo, tránh khi em hồi phục hình người lại phải khỏa thân.”

Có huyết tộc làm người yêu đâu đến nỗi nhỉ?

Ít ra lúc không lên cơn điên cũng chu đáo lắm chứ.

Nhớ lại vẻ mặt dịu dàng khi người ta đút bánh bao cho mình ăn, mèo đen tạm thời không thầm oán trách nữa, nhún vuốt vào mực viết lên sàn nhà: Từng nhìn thấy.

Ansbach ngẩn ra: “Nhìn thấy? Em từng nhìn thấy cọc gỗ? Ở đâu?”

Mèo đen thong thả viết năm chữ cái:

CHINA.

Nhìn từ đơn này xong, Ansbach rơi vào im lặng. Anh bồng mèo lên, dùng bông gòn thấm nước từng chút một lau sạch mực dính trên đệm chân mèo cưng.

Những đường nét trên mặt anh vốn rất sắc sảo, vô cùng đạt tiêu chuẩn điển trai truyền thống, lúc không nói gì trông càng lạnh lùng, cương nghị.

Mèo đen liếm liếm má anh.

Ansbach nghiêng đầu hôn nó.

Mèo đen cuộn người lại, ngoan ngoãn nằm trong lòng anh.

Một lúc lâu sau Ansbach mới mở miệng: “Vẫn chưa hỏi em, năm 1890 đến Trung Quốc để làm gì vậy?”

Mèo đen vẫy đuôi đầy vẻ lười biếng, lúc anh nhìn nó, nó liền nhắm mắt lại.

“Vẫn không muốn nói sao?” Lạ thay Ansbach lại không nổi giận, anh chỉ nhè nhẹ vuốt ve lông mèo, “Em nói xem lần này trở về quá khứ có phải là cơ hội chuộc tội Thần ban cho tôi không? Bằng không sao có thể trùng hợp như vậy, hết lần này đến lần khác hướng chúng ta đến Trung Quốc?”

Ansbach và Oregon của năm 1890 đều ở Trung Quốc.

Còn hiện tại, Ansbach và Oregon của năm 2015 cũng cần phải đến Trung Quốc.

Khác nhau ở chỗ, Ansbach năm 1890 chìm trong hận thù.

Còn Ansbach năm 2015 lại chìm trong hối hận.

“Bất kể thế nào, tôi cũng sẽ ngăn cản mình trước đây, sau đó dẫn em quay về với thời đại chúng ta nên ở!”

Trong lòng Ansbach như đang có ngọn lửa rực cháy, cả người tràn trề năng lượng.

Giờ phút này anh chẳng còn hận Gordon tí nào.

Nếu không phải nhờ Gordon, sao anh có thể quay về quá khứ, cứu vãn những sai lầm mình đã phạm phải?

Mèo đen cảm thấy chuyện này không hề đơn giản nhưng trông dáng vẻ tràn ngập tự tin của Ansbach, nó chỉ đành tạm giấu lo lắng trong lòng.

Trung Quốc của thế kỷ 19 hệt như một mỏ vàng khổng lồ, thu hút các nước châu Âu dùng mọi thủ đoạn khai thác. Muốn đi nhờ thuyền từ Anh đến Trung Quốc không phải chuyện khó, chỉ mỗi cái thời gian quá dài, vì vậy chỉ đành đi xuyên lục địa.

Chuyện này với huyết tộc mà nói…

Đương nhiên không phải quá khó.

Pháp, Thụy Sĩ, Ý, Hy Lạp… Cứ đi thẳng về hướng đông.

Theo kế hoạch ban đầu Ansbach dự tính chỉ cần nửa tháng – Đây đã là cách tính khá thoải mái. Thế nhưng kế hoạch vẫn không tránh khỏi có biến. Ansbach không thể nào ngờ, có ngày mình lại bị lạc, đường!

Lúc đó trong tay anh không có bản đồ chi tiết… Vậy nên không thể nào không tốn phần lớn thời gian để đi tìm đường.

Đợi khi hai người đến được Trung Quốc đã là chuyện của một tháng sau.

Ansbach bắt đầu sốt ruột. Dọc đường có vài lần anh nổi trận lôi đình nhưng để tránh giận cá chém thớt tổn thương mèo đen, lúc nào anh cũng lẳng lặng bỏ đi chỗ khác trút giận, sau đó mới lẳng lặng trở về. Anh không nhắc tới, mèo đen cũng vờ như không biết.

Thời gian mỗi lúc một ít dần, tâm trạng của Ansbach bắt đầu mất kiểm soát, số lần nói chuyện càng lúc càng ít, phần lớn thời gian chỉ im lặng ôm mèo, vuốt mèo, hôn mèo…

Có vô số lần mèo đen cảm thấy dường như đôi mắt chú dơi ngủ cạnh còn xanh rì hơn cả mắt mình.

Khó lắm mới tới Trung Quốc, cả Ansbach và mèo đen đều thở phào nhẹ nhõm.

Sau đó, Ansbach phát hiện, đến Trung Quốc rồi vẫn bị lạc đường!

Cũng may trước khi anh kịp biến thành núi lửa di động, hai người họ gặp được một buôn. Đội buôn này vô cùng nhiệt tình với họ, vì vậy Ansbach cho rằng họ định đánh cướp, cố tình yên tĩnh cả đêm đợi “tai nạn” ập tới, nhưng mà… Chẳng xảy ra chuyện gì.

Đội buôn để lại hai người gác đêm rồi say giấc nồng, chẳng có dấu hiệu như muốn nửa đêm thức giấc giết người cướp của.

Ansbach vừa thấy yên tâm vừa thấy buồn chán, may sao dọc đường xuất hiện mấy tên cướp không có mắt để anh tiện tay giải quyết. Cả đội buôn đều hết sức biết ơn Ansbach, vài võ sư trong đội còn cố ý tìm anh so tài, tất cả đều bại chỉ trong một chiêu. Bọn họ chỉ tưởng võ thuật của người ngoại quốc đặc biệt chứ không thấy có gì bất thường.

Từ đó về sau cả đội buôn càng tỏ ra o bế Ansbach, cả mèo đen cũng được hưởng sái, được chiều chuộng đến tận trời.

Tới tỉnh Ngọc Lâm đôi bên chia tay, đội buôn muốn xuống nam, còn Ansbach nghe theo lời mèo đen chọn đường đi Thái Nguyên, muốn đến kinh đô.

Trước khi đi, đội buôn còn tặng Ansbach một ít tiền bạc.

Ansbach nhận lấy. Kinh nghiệm đau thương đã dạy anh nhiều bài học đường đời, anh không muốn một lần nữa lâm vào cảnh khốn cùng phải dùng tiền Ai Cập ở nước Anh.

“Tiếp theo tụi mình phải tìm người dẫn đường.” Anh tự lẩm bẩm rồi cầm theo tiền, bắt đầu dùng thứ tiếng Trung đơn giản đi khắp phố lớn ngỏ nhõ “buôn người”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 31 May 2020

Chương 10: Thân phận

Chẳng lẽ tình địch của mình lại là mình..?

Mang gương mặt người nước ngoài lại không nói tiếng Trung lưu loát, con đường tuyển người của Ansbach khá là gập ghềnh. Sau đó mèo đen chịu hết nổi đành phải giành quyền dẫn đường.

Ansbach nửa tin nửa ngờ, “Em từng tới đây?”

Mèo đen kiêu ngạo ưỡn ngực.

“Lần trước em không phải ngồi thuyền đến? Thế em đến bằng cách nào?” Ansbach ôm nó vừa gấp rút lên đường vừa hỏi.

Mèo đen giơ hai chân trước lên vẫy vẫy mấy cái.

“Bay?” Ansbach hỏi: “Thời đại này có máy bay? Tôi tưởng phải đợi mười ba năm nữa.”

Mèo đen lắc đầu, nhắm mắt lại rồi quạt quạt chân.

Sóng điện não của Ansbach rốt cuộc cũng bắt kịp, “Xe dơi?”

Mèo đen gật đầu.

Ansbach im lặng một lúc rồi dùng ngón tay nhẹ nhàng nghịch đuôi mèo, từ tốn mở miệng: “Cách hay đấy. Trước khi xuất phát em không nhắc tới nhỉ.”

Giọng điệu rất bất thường, có chút gì đó như thẹn quá hóa giận.

Mèo đen nhanh trí rúc đầu vào lòng anh.

Ansbach dùng ngón trỏ nâng cằm nó lên, hỏi cho tới cùng: “Cố ý xem tôi làm trò hề?”

Tội danh này hơi bị lớn à nha! Mèo đen đương nhiên không dám gánh tội này, nó kiên quyết lắc đầu phủ nhận, đồng thời nhảy tót xuống bắt đầu đào đất.

Ansbach tò mò ngồi xổm xuống cạnh nó, “Nghe nói lúc mang thai, động vật thường thích đào hang làm ổ.”

Mèo đen im lặng trừng mắt anh.

Ansbach chống cằm, “Vừa nãy ý em là tôi nỗ lực chưa đủ hay sao?”

Mèo đen nhảy sang một bên, để lộ những chữ khó khăn lắm mới cào ra được.

“Thế giới hai người.” Ansbach thoáng sửng sốt rồi bật cười bảo: “Em cho rằng tôi muốn tận hưởng thế giới hai người với em nên mới cố ý không nhắc nhở tôi?”

Mèo đen gật đầu.

Ansbach nói: “Tuy có vẻ như đang kiếm cớ nhưng cái cớ này tôi thích. Xem như em qua ải.”

Mèo đen đắc ý nhảy tót vào lòng anh, ngông nghênh lắc đuôi ra chiều nhắc nhở mau chóng khởi hành.

Dáng vẻ vênh váo của nó khiến lòng Ansbach ngứa ngáy, lại hận mình không thể làm nó, trong bụng cứ sùng sụng như dầu sôi, lúc đi đường vô cùng sung sức, cuối cùng đến đích còn sớm hơn dự định nửa ngày – Đích đến là quán ăn dưới chân núi.

Ansbach đánh giá căn nhà cũ kỹ trước mặt bằng ánh mắt ngờ vực, “Người em muốn tìm sống ở đây sao?”

Ngửi thấy mùi thức ăn lan tỏa trong không khí, đuôi mèo ta hết cuộn lại thẳng, hết thẳng lại cuộn, kích động đến dựng hết cả lông. Nó nhanh chóng nhảy phắt lên một chiếc bàn. Tiểu nhị trong quán thấy thế bèn vung khăn toan đuổi, nhưng Ansbach lại lạnh lùng ngồi xuống.

“Khách… Khách quan, ngài muốn dùng gì?” Tiểu nhị giật mình, vội vàng khom lưng, thái độ vô cùng ân cần.

Hai mắt mèo đen dán chặt vào bàn bên cạnh.

Ansbach nhìn về cái bàn đó và gật đầu.

Tiểu nhị hiểu ý vội bảo: “Dạ được! Làm cho ngài một bàn giống như vậy, bảo đảm ngài ăn uống no say!”

Gã lui xuống, Ansbach lấy đũa gõ bàn, “Từng ghé ăn?”

Mèo đen dường như đang chìm đắm trong hồi ức, thỏa mãn lúc lắc cái đuôi.

“Đến một mình?” Ansbach vờ như chỉ đang vô tình hỏi.

Đuôi chợt ngừng ngay, mèo đen ngẫm nghĩ xem nên trả lời thế nào cho an toàn.

Ansbach mỉm cười nói: “Từ từ suy nghĩ, tôi không vội.”

Mèo đen đẩy nghiêng bình trà, chấm vuốt vào nước trà chảy ra rồi viết lên bàn những chữ rồng bay phượng múa: Muốn đến cùng anh.

Ansbach không nhịn được phì cười, một tay giữ mèo, dùng ngón tay xoay đuôi nó vòng vòng, “Tôi thấy hơi nhớ khoảng thời gian em trở lại làm người. Trước đây em đâu có ngoan thế này, lúc nào cũng sợ tôi nổi giận.”

Mèo đen: Ngủ không ngon trách giường nghiêng, tính khí thất thường thì trách người khác không ngoan, đúng là hành vi của lũ cướp.

Ansbach ghé sát vào tai nó, nhẹ giọng nói: “Nhưng hiện tại quan trọng nhất là tìm ra đường đi để cứu em. Nếu em muốn cùng tôi thưởng thức mỹ thực Trung Quốc, tôi có thể dẫn em đi.”

Mèo đen nghiêng đầu nhìn anh, đôi mắt vàng xanh ẩn chứa bao lời muốn nói.

Ansbach hôn nhẹ lên trán nó, mũi nó, môi nó, “Ăn xong rồi nói.”

Tiểu nhị đang chuẩn bị mang thức ăn lên, nhìn thấy hành vi “sỗ sàng” giữa người và mèo thì ngượng đỏ mặt, không biết nên nhìn đi đâu, thầm nhủ trong bụng: Người sinh ra ở vùng đất ngoại bang quả nhiên chẳng có liêm sỉ. Gã đặt thức ăn lên bàn, lại nhịn không được liếc mèo đen mấy lần.

Sức chú ý của mèo đen tập trung hết vào các món ăn trên bàn nên chẳng buồn để ý, còn Ansbach lại không thoải mái, mắt anh nheo lại, tiểu nhị chợt thấy hai chân mềm nhũn, quỳ mọp xuống đất, đầu va phải ghế nghe cốp một tiếng, khiến người chung quanh tò tò quay sang nhìn.

Chưởng quỹ thấy có người nước ngoài vào tiệm vốn đã cảnh giác, giờ lại thấy tiểu nhị làm trò hề thì đánh thót trong lòng, vội vàng ra khỏi quầy kéo gã tiểu nhị rồi quay sang xin lỗi với Ansbach.

Ansbach cũng không định so đo.

Sóng gió tuy đã qua nhưng những ánh mắt tò mò chung quanh càng lúc càng trắng trợn.

Ansbach không để ý chuyện họ nhìn mình như nhìn khỉ trong sở thú, nhưng lại không vui khi những người đó cứ nhìn luôn cả mèo đen.

Khó khăn lắm mới ăn hết được bữa cơm, vừa ra khỏi quán ăn, Ansbach lập tức lôi tấm áo choàng xám đậm ra nhét mèo đen vào trong.

Mèo đen thấy anh vội vã lên đường thì có chút cảm động, có chút hạnh phúc, lại có chút bất an. Loại bất an này từ sau khi quay về quá khứ đã có, nó luôn có cảm giác mọi chuyện không đơn giản như Ansbach nói.

Đêm đó, mèo đen đề nghị nghỉ ngơi, Ansbach tuy sốt ruột trong lòng nhưng vẫn lén lẻn vào một khách điếm, chọn căn tốt nhất trong số các gian phòng còn trống.

Mèo đen quyết định dùng đủ cả ánh mắt, động tác và móng vuốt để viết.

Ansbach nhìn dáng vẻ như gặp kẻ thù lớn của nó thì trong đầu lóe lên, có hơi thở gấp, “Em có thể biến thân rồi?”

Kiên quyết lắc đầu.

Ansbach nhất thời lại mất tinh thần.

Mèo đen vỗ vỗ chân anh, bày tỏ có lời muốn nói.

Ansbach tựa vào lưng ghế, dùng một tay chống đầu, nhìn mèo bằng ánh mắt chờ đợi.

Mèo đen dùng nước chầm chậm viết lên đất: Không quay về, không sao.

Ansbach biến sắc, đứng phắt dậy, dùng chân xóa ngay vết nước dưới đất và lạnh lùng nói: “Sẽ không có chuyện không quay về.” Anh cúi xuống thì trông thấy mèo đen đang nhìn mình đầy vẻ lo lắng, bèn dịu mặt nói: “Tôi không giận.”

Mèo đen giữ vẻ mặt ngờ vực.

Ansbach ôm nó vào lòng, mạnh tay xoa người nó vài lần, đến khi bị cào cho vài vết chảy máu mới thôi, “Được rồi, đúng là tôi giận. Tôi giận em không tin tôi. Tôi sẽ mang em về, tôi đảm bảo.”

Tự tin tột độ và kỳ vọng quá cao khiến anh một khi gặp phải trắc trở sẽ dễ rơi vào trạng thái điên cuồng. Khó khăn lắm bệnh điên của Ansbach mới tốt lên một chút, mèo đen không muốn anh lại giẫm vào vết xe đổ cũ.

Nó kêu lên một tiếng, định viết gì đó nhưng lại bị Ansbach ôm chặt lấy không chịu buông tay.

“Có tinh thần như vậy xem ra em không muốn nghỉ ngơi, chi bằng tụi mình làm vài việc tiêu hao bớt năng lượng.”

Trên giường.

Con dơi sung sướng chà xát mèo đen, dùng cánh, dùng cả người… Đủ các loại đụng chạm.

Mèo đen chẳng buồn cử động mà chỉ nằm sấp giả chết.

Cuối cùng cũng đến kinh thành.

Trông bản mặt thèm nhỏ dãi của mèo đen khi ngửi thấy mùi thức ăn từ hẻm nhỏ bay ra, Ansbach vừa bực vừa buồn cười, “Thèm dữ vậy thật à?”

Mèo đen nhìn anh bằng ánh mắt u oán.

Để triệt để bài trừ tác phong làm việc “không chuyên” của mèo đen, mấy ngày nay Ansbach cực lực lên đường. Dù mèo đen có chỉ đường đến quán rượu, quán cơm hay quầy thức ăn nào anh vẫn có thể vờ như mắt điếc tai ngơ với tiếng kêu thảm thiết của nó, cứ cắm đầu đi thẳng một mạch.

“Được rồi, chỉ thử một lần thôi đó.” Ansbach rất hiểu cách kiềm chế, nếu cứ đàn áp mãi sẽ dễ khiến đối phương nảy sinh tâm lý phản nghịch, được không bằng mất.

Quả nhiên mèo đen kêu lên một tiếng hoan hô, chìa vuốt chỉ đường.

Theo đề nghị của mèo đen, Ansbach đến một quán rượu nhỏ sau hẻm. Đừng trông quy mô nhỏ mà lầm, quán rượu này buôn bán rất khá khẩm. Hai người số đỏ, vừa vào là có một bàn khách mới đi ra nên mới có một chỗ nhỏ để ngồi.

Ansbach làm theo cách cũ, gọi thức ăn giống bàn bên cạnh.

Có lẽ ở kinh thành có nhiều người nước ngoài ghé thăm, vả lại còn có áo khoáng xám đậm che khuất hơn nửa gương mặt nên khách khứa và tiểu nhị đều không đặc biệt chú ý đến anh.

Ansbach vừa ăn vừa đút cho mèo, hưởng thụ những giây phút chỉ có hai người hiếm hoi.

Ăn no, Ansbach toan đứng dậy tính tiền nhưng chợt ngửi thấy mùi máu quen thuộc.

Mèo đen đang ngồi trong lòng anh sung sướng nhấm nháp miếng thịt bò cuối cùng, bỗng nhiên cứng đờ cả người, như bị thứ gì đó bài xích nên muốn tránh đi. Nó tò mò thò đầu ra nhìn, chăm chú đánh giá người mới vào quán.

Người nọ đi thẳng đến bàn họ rồi ngồi xuống, “Xưa nay, gây nên nỗi đói khát cho con người nào phải máu tươi, mà là dục vọng. Xưa nay, mang lại thỏa mãn cho con người cũng nào phải máu tươi, mà là hạnh phúc.” Lời người này nói chính là câu mở đầu của các luật lệ cơ bản huyết tộc nào tới nhân giới cũng phải biết.

“Anh cũng là Gangrel?” Đối phương tỏ vẻ ngạc nhiên. Tại nơi phương đông xa xôi gặp được huyết tộc đã là chuyện là, nào ngờ còn là người chung dòng tộc.

Ansbach cúi đầu xuống để áo choàng che khuất mặt mình, chỉ để lại một bóng đen. Anh vừa khẩn trương vừa sung sướng, thậm chí chân tay run lên, nhưng lại phải cố gắng kìm chế tâm trạng, trả lời bằng giọng vừa thấp vừa trầm, “Ừ.”

“Thiệt trùng hợp quá.” Đối phương vô cùng dễ quen, tiện tay thó miếng thịt bò còn lại trên bàn cho vào miệng. “Tôi tên Oregon. À, không ngờ tôi lại không đoán được anh là đời thứ mấy, lẽ nào mũi tôi không hợp với khí hậu ở đây nên hỏng mất rồi?”

Mèo đen: “…” Nó có thể không thừa nhận cái tên ngốc này là mình trước đây không?

Ansbach không ừ hử.

Oregon cũng không để ý, y tiếp tục nói: “Anh đến đây làm gì? Đừng nói là đến làm ăn nha”

Ansbach gật đầu.

Oregon rất tò mò, “Anh huyền bí quá à, làm ăn gì mà phải huyền bí như vậy? Lẽ nào là nhiệm vụ bí mật Nữ hoàng giao cho anh. Ý tôi là Nữ hoàng Victoria, đừng nghĩ tôi gán cho ngài Cain mấy danh xưng quái lạ nhé. Nhiều người hiểu lầm lắm.”

Lời thoại này nghe quen quen.

Não của mèo đen cuối cùng cũng hoạt động lại. Nếu nó nhớ không lầm, một trăm hai mươi năm trước đúng là mình từng nói câu này với một người trong quán rượu, nhưng người đó rõ ràng là…

Con ngươi nó nheo lại như chợt nghĩ ra khả năng nào đó. Nó ngay lập tức dùng vuốt cào Ansbach một cái, Ansbach không có phản ứng. A a! Cảm giác có lời muốn nói mà không nói ra được đúng là ức chế muốn chết! Gordon chết giẫm!

“Còn chưa được biết tên của anh?” Oregon như không nhìn thấy một mèo một người đang xoắn xuýt dưới lớp áo choàng, y vừa thưởng thức món ngon của người ta vừa tán gẫu như người quen cũ.

Ansbach mất một lúc lâu mới mở miệng đáp: “Joseph.”

“Joseph Miller.”

Mọi chuyện quả nhiên tiến triển đến bước này.

Mèo đen im lặng nằm nghe cuộc đối thoại “vượt thời gian” của Oregon và Ansbach – Đa số đều do Oregon độc thoại. Nghe tiếng mèo lâu rồi, Ansbach rất nhớ cách nói chuyện của Oregon, nhưng Oregon vô cùng hiểu anh, vì vậy anh chẳng dám manh động chỉ sợ bị y nhận ra.

Ăn uống no say, Oregon chủ động thanh toán, sau đó thẳng thắn nói: “Tuy nói cả nửa ngày vẫn chưa biết mục đích của anh là gì nhưng chỉ muốn nhắc nhở một chút, nơi này không phải nơi có thể một mình làm càn.”

Ansbach nhẹ nhàng gật đầu.

Oregon đi hai bước lại quay trở lại, “Tôi ở khách điếm Duyệt Lai phòng chữ Thiên số một, nếu anh gặp phải phiền phức hoan nghênh anh tới than thở. Mấy chuyện như cười trên nỗi đau của người khác tôi không ngại tí nào đâu.”

Ansbach nói: Cũng tức là lúc trước mình nhiều lần lỡ tay phạm lỗi đều có dính líu đến tính cách của Oregon. Có một khoảng thời gian, anh cơ bản không muốn bất cứ âm thanh gì ngoài tiếng thở của Oregon mà thôi.

Oregon vừa đi, cảm giác bài xích của mèo đen liền biến mất, nó thở hắt ra, ngoan ngoãn nằm ghé vào đầu gối Ansbach, cùng anh rơi vào trầm tư.

Vào lúc này trong đầu cả hai đều có quá nhiều tin tức, nhất thời không thể nào xử lý hết.

Cuối cùng hai người bản cũ soạn lại, tìm một khách điếm yên tĩnh để “ở nhờ”.

Ansbach nói: “Chúng ta phải nói chuyện nghiêm túc về ‘Joseph Miller’ thôi.” Vì cái tên “cùng gia tộc với Oregon” và lúc nào cũng bám dính lấy y không chút ngại ngùng, anh đã lên cơn ghen bóng ghen gió hết bao lần, để rồi phát hiện người đó chính là mình?! Hoang đường buồn cười đến cỡ nào! Nhưng chuyện như vậy thật sự đã phát sinh.

Mèo đen mặt mày ngơ ngác. Quả thật không trách nó được. Bởi vì từ ngày hôm nay gặp được Joseph Miller đến lúc biến thành một con mèo suốt ngày giả ngốc ra vẻ đáng yêu, nó chưa bao giờ phát hiện Joseph Miller chính là Ansbach! Nó cứ tưởng người nọ là bề trên nào đó của tộc Gangrel ở ẩn! Thậm chí nó từng nghi anh chính là trưởng lão của Gangrel!

Nhưng mọi chuyện lại xảy ra một cách hợp lý như vậy.

Áo choàng xám đậm, nhẫn giấu mùi huyết tộc, lại cảm giác thân quen khi chưa biết mặt, tất cả đều đã có lời giải!

Ansbach nheo mắt nói: “Nếu tôi là Joseph Miller, vậy về sau cái tên mang mấy lần mang em ra khỏi biệt thự là ai nữa?”

Sau khi Oregon bị phong ấn, ác cảm của anh với Joseph Miller giảm đi không ít. Đây là một trạng thái tâm lý rất lạ – Trên đời này không chỉ có mình anh quan tâm Oregon. Vì vậy mỗi lần Joseph Miller viết thư “mượn” mèo đen, mà mèo đen cũng không phản đối, anh đều ngầm cho phép. Thậm chí còn chuẩn bị sẵn vé máy bay cho.

Nhưng nếu Joseph Miller chính là anh, vậy thì người ra ngoài cùng mèo đen lại là ai?

Trong đầu Ansbach chợt nảy ra một suy nghĩ vô cùng tiêu cực:

“Lẽ nào tôi không trở về năm 2015 được nên sau 1980, có hai ‘tôi’ cùng tồn tại?”

Nhớ lại lời cam đoan của mình dành cho mèo đen, Ansbach bị viễn cảnh tự vẽ ra trong đầu làm cho cả người bứt rứt.

Nếu Joseph Miller năm 2015 cũng là anh vậy tại sao lại cần thường xuyên mượn mèo? Rõ ràng anh cũng có một con ở ngay bên cạnh! Trừ phi, trừ phi…

Nhìn mắt Ansbach càng lúc càng đỏ lên, mèo đen cuối cùng nhịn hết nổi đành lên đầu gối anh, đặt hai chân lên ngực anh, dùng lưỡi liếm cổ họng của anh ra chiều có điều muốn nói.

Ansbach kích động ôm mèo vào lòng, nóng nảy nói: “Tôi nhất định không để em rời xa tôi.”

Mèo đen nhảy lên bàn, mở nắp bình trà nhúng chân vào trong, vừa rút ra định viết thì bắt gặp bóng Ansbach nhoáng lên!

Oh no!

Nó vội rút chân ra nhưng đã chậm mất một bước, cửa sổ rung rinh, sau đó trong phòng không còn ai.

Đây không phải lần đầu xảy ra chuyện này, lần nào Ansbach cảm thấy mất khống chế đều tự động chạy ra ngoài trút giận để tránh làm tổn thương nó.

Nhưng mà…

Lần này đâu cần mất khống chế chứ.

Chân mèo đen giữ nguyên tư thế cũ một hồi mới ngượng ngùng rụt về, bất đắc dĩ nằm gục xuống bàn. Một lúc sau nó lại ghé vào cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn về hướng Ansbach vừa biến mất.


Trút giận thì trút giận nhưng nhớ mang đồ ăn về nha.

Oregon đóng gói cả đống thức ăn để về khách điếm từ từ hưởng thụ, nhưng đột nhiên cảm thấy có gì kỳ kỳ, hình như có ai đó đang nhìn chằm chằm vào mình.

Y đứng dậy đến bên cửa sổ và nhìn xuống.

Đường phố tấp nập phồn hoa, người qua kẻ lại, ngựa xe như nước, duy chỉ có một người khoác áo choàng xám đậm ngồi như pho tượng ven đường tĩnh lặng đến lạ.

Từ vị trí của người đó cùng lắm nhìn thấy trần nhà phòng mình, hẳn không phải đang nhìn chòng chọc vào mình… Nhưng còn cảm giác kỳ lạ kia vẫn cứ tồn tại.

Lẽ nào lại có thêm một người thầm mến?

Ôi. Có trách thì trách mình quá quyến rũ, khiến người ta vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình. Đối phương vẫn đang trong giai đoạn thầm mến, mình cũng khó mở miệng từ chối. Nhưng nếu không từ chối lại như đang “câu” người ta, chỉ sợ khiến người ta càng lún càng sâu. Tốt xấu gì cũng là người cùng tộc, không nên gieo hy vọng hão huyền cho đối phương.

Cuộc sống của người điển trai luôn phải sầu não vì những kẻ theo đuổi vậy đấy!

Thấy người mặc áo choàng hơi ngước lên, trong lòng Oregon cảm xúc ngổn ngang, giơ tay toan chào hỏi thì đối phương đã quay ngoắc đi mất.



Chắc tại mình nghĩ nhiều, người ta chỉ đi ngang qua thôi mà.

Oregon đóng cửa sổ lại tiếp tục ăn.

Ansbach đi một vòng bên ngoài, nghe đầy tai những tiếng xí xa xí xồ trên đường, trong lòng dần bình tĩnh lại.

Cái gọi là mai sau tức là những ngày của sau này. Nếu đã chưa tới hay chưa xảy ra thì vẫn còn khả năng thay đổi, mình cần gì phải tự hù mình.

Sau khi suy nghĩ thông suốt, đầu óc của anh tỉnh táo hơn hẳn, cảm giác được mùi máu quen thuộc bèn liếc nhìn một cái, bắt gặp Oregon đang thò đầu ra khỏi cửa sổ. Đây là Oregon của một trăm hai mươi lăm năm trước, diện mạo xinh đẹp lúc nào cũng sáng ngời, mỗi nụ cười, mỗi cái chau mày đều tràn ngập sức sống.

Nhìn dáng vẻ sinh động của người yêu, trong đầu Ansbach hiện lên hình ảnh một Oregon im lặng bị anh đặt vào quan tài, và còn cả chú mèo đen lúc nào cũng ở bên anh cả trăm năm nay nhưng lại không nói lời nào với anh.


Thay vì ngồi sầu não, chi bằng tìm cách thay đổi kết quả.

Anh hơi nhướng mắt, nhìn nụ cười của Oregon bằng ánh mắt tiếc nuối nhưng rồi vẫn quyết đoán xoay người bỏ đi.

Dù con đường phía trước có là một con đường đã được sắp xếp, anh cũng không định buông xuôi cho số phận.

Trên đường về, Ansbach mua cả đống thức ăn thơm ngon, đắc ý đẩy cửa phòng ra nhưng lại không nhìn thấy cái tên đáng lý phải đang nằm dài trên bàn đợi mình.

Giận dữ và hoang mang trong nháy mắt tràn ngập tim anh.

Thức ăn trong tay rơi xuống đất, giấy gói mở toang, bánh ngọt rơi vung vãi khắp nơi.

Một cái đầu mèo thò qua cửa, len vào giữa hai chân Ansbach để vào phòng, mũi khịt khịt ngửi bánh, há mỏ toan ngậm lấy miếng bánh, nào ngờ răng vừa chạm đến vỏ bánh, cổ đã bị bàn tay to đùng kéo lên đặt trên bàn.

Ansbach trở tay đóng cửa, từ trên cao nhìn xuống tên oắt không lúc nào không khiến mình sợ bóng sợ gió, thoắt vui thoắt buồn mà lại chẳng còn nên thân.

“Nếu không giải thích hợp lý vì sao ra khỏi nhà,” Anh nhặt giấy dầu dưới đất lên cầm trong tay, từ từ nghiền nó thành bột vụn, “thì chỉ được ngửi thôi.”

Dám chà đạp mỹ thực Trung Hoa! Quả nhiên có bệnh thần kinh!

Mèo đen đau khổ nhấc móng lên, cố gắng dùng mắt biểu đạt: Hajima~! (tiếng Hàn 하지마: đừng làm thế ==)

“…” Ánh mắt sinh động của nó khiến Ansbach phải rùng mình một cái, anh dùng ngón tay chỉ vào đầu nó, “Đã biến thành mèo đừng có mô phỏng mấy màn biểu diễn kỳ cục kia nữa.”

Hồi xưa có một khoảng thời gian Oregon cuồng tác phẩm của Shakespeare gần như tẩu hỏa nhập ma, cả hành vi lẫn cách nói chuyện ngày thường đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vậy nên thường xảy ra trường hợp Ansbach phải nghe lải nhải cả đoạn mới biết y định nói gì. Đại loại như khi muốn cùng anh uống rượu vang hoặc càm ràm về thời tiết tệ hại của London.

Màn biểu diễn bị cắt ngang khiến mèo đen lườm anh bằng ánh mắt u oán. Thảo nào mình là người duy nhất có dây dưa tình cảm với anh, loại sinh vật chẳng biết lãng mạn là gì này đúng là chán hơn cả khúc gỗ.

Ansbach đặt bình trà xuống trước mặt nó, “Nói mau.”


“Meo…” Chuyện này nói ra thì dài lắm…

Theo kể lại, lúc Ansbach ra ngoài trút giận, mèo đen đang ngồi chồm hổm trên cửa sổ đóng giả làm hòn vọng phu thì bắt gặp một bóng người quen quen đi ngang trên đường.

Quen đến cỡ nào?

Quen cỡ con người vừa mới ra khỏi phòng kia.

Thấy Ansbach nghênh ngang đi bên dưới mà không buồn ngẩng đầu nhìn mình cái nào, trong lòng mèo đen sốt ruột, lập tức từ trên cửa sổ nhảy xuống đường, bám theo sau anh.

Ansbach vẫn chưa biết phía sau có một con mèo đang lén lút bám theo, anh nôn nóng chạy vào một quán ăn, lấy một bức tranh ra cho chưởng quỹ xem.

Chưởng quỹ ngờ vực nhìn anh.

Ansbach hỏi bằng tiếng Anh: “Từng gặp chưa?”

Chưởng quỹ trả lời bằng tiếng Trung: “Ngài nói cái gì? Tôi không hiểu tiếng nước ngoài. Nơi này của bọn tôi là quán ăn, kinh doanh nhỏ thôi, không có mối lớn đến thế, cũng không mua nổi người này đâu, hay ngài đến nơi khác tìm đi. Đi thẳng xuống dưới kia có quán do người Tây mở, ngài đến đó hỏi thử xem biết đâu sẽ có.”

Ansbach nghe gã thao thao bất tuyệt thì tưởng rằng gã biết gì đó, bèn dùng một tay kéo gã ra khỏi quầy.

Chưởng quỹ giật thót, miệng kêu oai oái: “Ôi chu choa mẹ tôi ơi! Quỷ Tây muốn ăn thịt người kìa!”

Ansbach thấy mọi người xúm lại thì biết ngay đã hiểu lầm, anh buông gã ra, chỉ chỉ vào bức tranh.

Ban nãy anh đứng xoay lưng về phía nó nên mèo đen không nhìn thấy, giờ nhìn kỹ được lại phát hiện ra người trong hình rõ ràng là mình, Oregon! Có điều hình như người vẽ bức tranh đó đang căm hận mình lắm, người trong tranh nhìn thế nào cũng thấy gian trá xảo quyệt lạnh lùng vô tình…

Trong lòng Ansbach chợt có cảm giác, cái tên phụ tình kia hình như đang ở nơi này, ẩn trong bóng tối theo dõi mình.

Máu trong người lại sôi trào.

Không rõ là do oán hận hay vì cảm xúc nào khác.


Trong đầu anh hiện tại chỉ có một suy nghĩ duy nhất – Tìm được Oregon rồi dùng xích sắt khóa tứ chi y lại, nhốt vào lồng sắt và đặt dưới ánh nắng mặt trời, để y đời đời kiếp kiếp không bao giờ nhìn thấy bất cứ sinh vật nào khác ngoài mình ra, cả con ruồi cũng không được. Để y vĩnh viễn không dám phản bội mình nữa, thậm chí không dám có suy nghĩ rời khỏi anh.

Mèo đen thấy Ansbach lộ ra ánh mắt vừa quen vừa lạ thì rùng mình ớn lạnh.

Nó lập tức nhận ra Ansbach trước mắt chính là Ansbach của năm 1980. Thì ra anh tới Trung Quốc còn sớm hơn nó tưởng, nhưng vì đủ thứ nguyên nhân nên không gặp nhau.

Ansbach nhìn khắp đám đông lại không phát hiện ra người cần tìm, cuối cùng cũng chú ý đến chú mèo đen kỳ lạ.

Mèo đen lúc này đã tính đường lui, nó vòng qua đám đông, len lỏi chui ra khỏi đó.

Dù mùi máu vô cùng nhạt nhưng Ansbach vẫn nhận ra nó thuộc về gia tộc Gangrel!

Mắt anh lóe lên, bất thình lình phóng ra khỏi quán ăn.

Cả đám người bị tốc độ kinh hồn và sức mạnh của anh dọa cho thét lên oai oái, ai nấy nhao nhao tránh né hỗn loạn vô cùng, mèo đen thừa cơ bỏ trốn.

Nghe nó kể xong, Ansbach sợ hãi ôm nó vào lòng.

Ansbach của hơn trăm năm trước nghĩ gì trong đầu không ai rõ bằng anh. Vừa tưởng tưởng cảnh mèo đen suýt nữa rơi vào tay mình, trong lòng anh khiếp sợ tột độ!

Mèo đen dùng đuôi vỗ vào tay anh, dùng mắt nói với anh: Anh biết trước đây mình đáng sợ đến cỡ nào rồi đúng không, còn không mau bồi thường cho tôi?

Ansbach tuy không hiểu hết nó muốn nói gì nhưng vẫn cúi xuống nhặt những miếng bánh còn nguyên vẹn lên bày ra trước mặt nó xem như an ủi.

Mèo đen vừa ăn vừa sung sướng vẫy đuôi.

So với mèo đen, Ansbach không được bình tĩnh như nó.

Mình và Oregon của năm 1980 đều đã lên sân khấu, cũng có nghĩa là bánh xe vận mệnh bắt đầu chuyển động. Làm thế nào để ngăn cản không cho bi kịch trong quá khứ phát sinh một lần nữa đây?

Ăn no nê xong, mèo đen ngẩng lên, đập vào mắt nó là gương mặt viết đầy hai chữ “sầu lo” của Ansbach.


Ansbach của trước đây lúc nào cũng đứng ở trên cao, kiêu ngạo tự đại ít ai sánh kịp. Nhưng từ khi mình bị phong ấn, gương mặt điển trai ấy dần dần xuất hiện những biểu cảm không hợp với tính anh – Áy náy, chán nản, u buồn… Khiến nó cảm thấy chẳng quen chút nào.

Mèo đen liếm liếm môi anh.

Ansbach mỉm cười, dùng lưỡi mình chầm chậm liếm lại những chỗ nó vừa liếm, “Quả nhiên rất ngọt.”

Mèo đen duỗi chân vào ấm trà, từ từ viết một câu lên bàn.

Cả gian phòng rơi vào im lặng.

Nửa phút sau, một giọng nói u ám bất chợt vang lên:

“Ý em là, Joseph Miller sau này do em giả dạng?”

“…Meo.”

Biết bản thân không bị dồn vào con đường phải giả dạng Joseph Miller hơn trăm năm sau, tâm trạng Ansbach khá hơn đôi chút, bắt đầu thanh toán chuyện mèo đen giả làm Joseph Miller. Tâm trạng này, bầu không khí này hệt như phụ huynh biết con mình thi rớt mà còn dám lén ký tên gạt giáo viên.

Mèo đen nằm trên đất giả chết.

Ansbach lấy chân khều nhẹ lên bụng nó, “Nói vậy tức là em đã biến thành người được từ lâu rồi?” Khi biết y có thể biến thành người, mình phải sớm đoán ra rồi chứ!

Mèo đen cảm thấy vô cùng uất ức.

Thân là huyết tộc phải biến thành mèo đã đủ mệt rồi, thỉnh thoảng biến lại thành người ra ngoài đổi gió chẳng phải bình thường lắm sao? Để anh không lo, mình còn phải giả làm Joseph Miller viết thư báo cáo hành trình, làm sao mà giống mấy đứa oắt con trong thời phản nghịch ra ngoài cả đêm không về. Mình sống quá khuôn khổ luôn ấy! Lúc này phải cảm động chảy cả nước mắt chứ ở đó mà mặt lớn mặt nhỏ.

Ansbach cũng cảm thấy vô cùng uất ức.

Có trời biết đất biết, mỗi lần mèo đen bỏ đi chơi với Joseph Miller, trái tim của anh cứ như vừa bị nhúng vào chảo dầu, vừa tự dặn mình phải kiềm chế, đây là cách để tôn trọng Oregon, vừa bị bản tính chiếm hữu cao độ của giống đực và của Malkavian giày vò, chỉ hận không được bằm thây Joseph Miller, nhét mèo đen vào lòng không cho ai chạm vào!


Một người một mèo trừng mắt nhau thật lâu, ai đều cảm thấy mình vô tội, đối phương vô lý.

Trừng được nửa ngày, Ansbach đành nhận thua trước: “Em bảo từng nhìn thấy cọc gỗ, vậy rốt cuộc là ở đâu?”

Mèo đen tính giờ, cảm thấy cũng đến lúc ghé thăm người kia rồi.

Ansbach chẳng hứng thú gì với người đó mà chỉ tò mò muốn biết vì sao Oregon lại đến tìm người nọ. Theo sự hiểu biết của anh, Oregon tuy sớm đã có suy nghĩ “không an phận” với Trung Quốc nhưng xưa nay khả năng hành động của y đều kém hơn trí tưởng tượng của y nhiều lắm, vì vậy không ít kế hoạch đều chỉ bàn ngoài miệng rồi chết non.

Lý do gì khiến y phải trèo đèo lội suối tìm đến nơi xa lạ này?

Anh vô cùng hiếu kỳ.

Đằng sau hiếu kỳ là ganh tỵ.

Có kẻ lại thu hút được người trong lòng mình, bất luận vì lý do gì, anh đều cảm thấy khó chịu.

Mèo đen không muốn giải thích mà chỉ lười biếng nằm dài trên đất chẳng thèm động đậy.

Uy hiếp dụ dỗ mãi không có kết quả, Ansbach đành ra đòn sát thủ: “Tôi cho em hai lựa chọn. Hoặc giải thích vì sao năm đó phản bội tôi, hoặc giải thích vì sao tìm người đó.”

Mèo đen kinh ngạc.

Từ khi thân phận của nó bị Ansbach phát hiện, anh luôn nuông chiều nó hết mực, không hề nhắc đến chuyện xưa nửa lời, hoặc nếu có đề cập đến đều là áy náy nhận lỗi. Nhưng nó đã quên, Ansbach tuyệt đối không phải người dễ quên chuyện cũ, ngược lại anh vốn bụng dạ hẹp hòi, việc nó làm năm xưa mang đến ảnh hưởng sâu tận xương tủy cho anh, chẳng qua nhiều chuyện xảy ra tiếp đó khiến lòng áy náy của anh tạm thời lấn át tất cả, vậy nên mới không nhắc lại sai lầm của nó.

Thấy động tác cứng đờ của mèo đen, trong lòng Ansbach dấy lên nỗi xót xa.

Có những thứ đã đâm sâu vào máu thịt, gần như biến thành một bộ phận của cơ thể, dù có đau đớn vẫn phải giả vờ như chúng vốn là bẩm sinh. Nhưng khi vạch máu thịt ra lại nhìn thấy cây gai nằm lồ lộ trong đó, lâu đến đâu cũng không thể biến mất.

Mèo đen trở người ngồi dậy, nghiêm túc nhìn anh.

Ansbach nơm nớp lo sợ. Kẻ địch trước mắt, nội bộ trong anh không nên tranh đấu với nhau!


“Sáng mai muốn ăn điểm tâm gì?”

Cách chuyển chủ đề mới sượng sùng làm sao.

Mèo đen phóng xuống giường, nhảy lên bàn, nhúng chân vào bình trà… Lúc nó biến thành người, số chữ viết trong một năm còn chưa nhiều như bây giờ.

Muốn giúp anh bình tĩnh lại.

Phản bội anh, phong ấn anh, là để anh bình tĩnh lại, tránh cho anh đánh mất bản thân trong cơn điên cuồng.

Không ngại đường sá xa xôi đến Trung Quốc là vì muốn tìm cách giúp anh bình tĩnh.

Dù có bị anh căm hận cũng phải đưa ra lựa chọn tốt nhất cho anh, đây là cách tôi yêu anh.

Trời đã về đêm, trong phòng có ánh đèn, nét nước trên bàn sóng sánh ánh vàng khiến tâm Ansbach dần dần lắng đọng.

“Em phát hiện ra khi nào?”

Mèo đen nhanh chóng viết xuống: Chính vào lúc anh bắt đầu bất thường.

Nhìn đôi mắt trong veo của mèo đen, hàng phòng ngự cuối cùng trong tim Ansbach sụp đổ.

Sau cơn mưa là một ngày mai tươi sáng.

Chủ đề từng bị cấm nay lại có thể thoải mái bàn luận.

Mèo đen múa vuốt kể lại hết mọi chuyện. Sau khi phát hiện tính tình Ansbach càng lúc càng tàn nhẫn, nó vô cùng lo lắng bàng hoàng. Kể đến chuyện quyết định phong ấn Ansbach, nó chợt ngừng chân, đôi mắt đảo tròn trộm liếc xem sắc mặt anh một cái, thấy không có sự giận dữ như mình tưởng tượng, nó mới thở phào nhẹ nhõm, ngã nghiêng xuống bàn nằm phịch ra đó, bốn chân chổng vó, đuôi nhỏ ngoe nguẩy làm nũng.

Ansbach đang tập tung tiếp thu.

Dáng vẻ của mình năm đó thế nào anh là người rõ hơn ai hết.

Những suy nghĩ trong tim anh nói phức tạp thì rất phức tạp, nói đơn giản cũng rất đơn giản. Anh muốn hoàn toàn độc chiếm Oregon.

Nếu đã là yêu nhau, anh muốn đối phương phải dâng hiến cả người lẫn tâm cho mình.

Nếu đã là chiến đấu, anh muốn giành được thắng lợi áp đảo!

Nhưng tính cách trời sinh của Oregon lại định sẵn, bất luận anh có cố gắng tiếp cận y đến mức nào, ngoài mặt y vẫn tỏ ra thờ ơ dửng dưng, có cũng được không cũng chẳng sao. Dù là hiện tại biết được nội tâm y nào có bình tĩnh như bề ngoài, trong lòng anh vẫn khó tránh cảm thấy bất mãn.

Tại sao không thể bày tỏ tất cả quan tâm ra ngoài như anh?


Tại sao không thể ở sát ngay bên cạnh anh, để anh chỉ cần quay đầu là có thể nhìn thấy, chỉ cần vươn tay là có thể chạm vào?

Tại sao không thể…

Lúc ấy trong đầu anh toàn những nghi vấn, vì vậy sự uất ức tích tụ mỗi lúc một nhiều, hành vi mỗi lúc một điên cuồng, cuối cùng dồn cả hai đến sát bờ vực.

Nếu không cùng nhau sa đọa, thì chỉ có một bên giành được chiến thắng.

Giờ đây nghĩ lại, có lẽ chiến thắng của Oregon là lối giải thoát tốt nhất.

Nếu mình thắng, với tâm lý biến thái khi ấy của mình, quan hệ giữa hai người sẽ càng ngày càng mâu thuẫn, càng ngày càng biến chất… Kết quả biết đâu còn be bét hơn hiện tại.



Đúng là khó có thể tưởng tượng nổi, bây giờ mình lại bình tâm suy xét được như vậy.

Có lẽ lúc mô phỏng Oregon, anh đã bị ảnh hưởng quá sâu.

Ansbach đang lâm vào trầm tư, bị đuôi mèo quét trúng mấy cái mới hoàn hồn, thấy dáng vẻ nũng nịu của nó thì sự lạnh lẽo trong lòng vơi đi quá nửa. Anh đưa tay đè xuống bụng nó: “Sao nữa đây?”

Mèo đen hơi ngẩng đầu lên nhìn mấy ngón tay đang chọt chọt bụng mình, chắc chắn anh không nổi giận mới yên tâm dùng lưỡi liếm móng, ra vẻ mình viết nhiều nên mệt rồi.

Ansbach cầm lấy chân nó và nhẹ nhàng xoa bóp.

Được hầu hạ thoải mái, mèo đen sung sướng híp mắt, vẻ mặt thỏa mãn đến phát ghét.

“Tức là em liên lạc với mười ba trưởng lão phong ấn tôi là vì muốn tốt cho tôi?” Ansbach bình tĩnh hỏi.

Người mèo đen hơi cứng lại, nó nhìn anh một cái, “Meo.” Tiếng kêu vừa ngọt vừa dịu.

Ansbach nói: “Sau khi phong ấn, em đến Trung Quốc là để tìm cách khống chế tính nóng nảy của tôi?”

Mèo đen gật đầu thật mạnh, hơn nữa còn ngồi dậy, ưỡn ngực ra vẻ ta đây thật lòng.

Ansbach suy nghĩ rồi nói: “Thảo nào sau khi phong ấn, tôi không bị đưa đến vùng đất phong ấn mà được giấu trong nhà của em.” Thấy mèo đen gật đầu lia lịa, anh phì cười, chậm rãi nói tiếp: “Hóa ra em muốn nhốt tôi lại để độc chiếm.”


Mèo đen: “…” Thật ra là do mười ba trưởng lão lười phải đưa anh đi, mà tôi cũng… lười.

Vừa nghĩ đến chuyện người yêu phải chạy đôn chạy đáo vì mình, trong lòng Ansbach thấy ngọt ngào êm dịu, nhưng vấn đề vẫn cần phải hỏi: “Vậy tại sao gặp tôi ở Trung Quốc, trông em lại kinh hãi và rầu rĩ như vậy?”

Nếu không phải lúc gặp lại nhau, sự kinh hoàng và thất vọng của Oregon thể hiện quá rõ trên mặt, anh cũng sẽ không mất đi chút lý trí cuối cùng.

Mèo đen nghĩ: Tại bản mặt của anh lúc đó quá sức hãi hùng chứ bộ!

Đương nhiên, dù có muốn nói sự thật thì cũng phải dùng kỹ xảo để biểu đạt.

Nó vẫy đuôi lướt qua bình trà thấm chút nước rồi từ từ viết chữ.

Rốt cuộc Ansbach vẫn biết xót mèo, thường nó mới viết được một nửa chữ, anh đã đoán ra trước ý của nó: “Em lo lắng cho tôi càng lúc bệnh càng nặng hơn. Sợ không chữa khỏi được cho tôi thì hai đứa không được ở bên nhau.” Miệng anh nhoẻn lên, dường như muốn cười nhưng khi ánh mắt nịnh bợ của mèo nhìn qua, anh lấy lại vẻ lạnh lùng. “Lời em nói càng ngày càng ngọt nhỉ.”

Mèo đen cúi đầu xuống, dùng đầu cạ vào cánh tay anh.

Lòng Ansbach lại chộn rộn, anh bèn hắng giọng một tiếng: “Làm sao em biết ở Trung Quốc có cách giúp tôi?”

Mèo đen viết ra một cái tên.

Ansbach cau mày, “Trưởng lão?”

Chỉ mèo đen đến Trung Quốc hóa ra là trưởng lão của Malkavian.

Mèo đen gật đầu, ngẫm nghĩ một chút rồi lại dùng đuôi viết tiếp. Ý nó muốn khuyên anh đừng bao giờ hận trưởng lão Malkavian. Nó vẫn nhớ rõ cơn giận của anh khi biết trưởng lão của Malkavian liên kết với trưởng lão các tộc khác. Phải biết chứng điên loạn này vốn di truyền từ trưởng lão, thường ngày ông ấy vô cùng dung túng bao che cho con cháu, lần đó không chỉ Ansbach thấy khó tin, những trưởng lão khác cũng vô cùng ngạc nhiên. Chỉ có mèo đen biết, ông ấy vì muốn giải quyết triệt để chứng điên loạn của dòng họ Malkavian.

Nhưng vẻ mặt Ansbach vẫn rất lạ.

Sợ anh để bụng chuyện vụn vặt, mèo đen cố dùng đầu huýnh anh.

Ansbach vuốt lưng nó, chậm rãi nói: “Em có biết là ai giải bỏ phong ấn và thả tôi ra không?”


Mèo đen ngây ra, cái đuôi xìu xuống một lúc mới viết lên bàn: Gordon.

Ansbach lắc đầu: “Là trưởng lão.”

Mèo đen sửng sốt.

Hành vi của trưởng lão nhà Malkavian dù giải thích bằng góc độ của mèo đen hay Ansbach đều rất vô lý.

Mèo đen nghĩ: Ông ấy vì muốn cứu Ansbach, vì muốn tìm cách giải thoát cho gia tộc.

Ansbach lại nghĩ: Ông ấy muốn giúp mình nên mới lật mặt với những trưởng lão khác.

Nhưng nếu hai mạch suy nghĩ này hợp lại, hành vi của Malkavian lại chỉ có thể dùng từ “quái dị” để miêu tả.

Tại sao ông ấy lại làm như vậy?

Mèo đen ngẫm nghĩ rồi tìm ra cách giải thích duy nhất: Ông ấy là trưởng lão tộc Malkavian.

Thân là người sáng lập ra dòng họ điên loạn, thỉnh thoảng lên cơn cũng là bình thường.

Ansbach cũng chỉ đành chấp nhận lời giải thích đó.

Đêm hôm ấy, khúc mắc giữa hai người đều được hóa giải, hai trái tim trở nên gần nhau hơn bao giờ hết.

Sau khi biến thành dơi, Ansbach tựa vào mèo đen ngủ yên. Hai trái tim vốn đã rất gần gũi, thể xác không cần tiếp xúc quá nhiều cũng cảm thấy vô cùng ấm áp.

Ngày hôm sau, trong tay Ansbach xách một cái giỏ to, mang mèo đen đi dạo khắp kinh thành một lần để mua đủ hết tất cả các món ngon bỏ vào giỏ. Mèo đen sung sướng, đoàn buôn ấy tốt thật, số bạc cho họ đều tiêu được cả.

Tiêu tiếp cho đến tối, Ansbach chỉ còn vài đồng trong túi.

Ansbach nghiêm túc cân nhắc nên cướp hay trộm để có tiền nhanh hơn, hay cứ phát triển đời sau ở đây rồi thành lập một lãnh địa của Malkavian? Dù sao ngoài Oregon và anh cũng đâu còn huyết tộc nào đến để giành địa bàn. Người có tư cách tranh giành duy nhất là Vương Tiểu Minh, nhưng hơn trăm năm sau mới sinh ra cơ mà.

Mèo đen biết cách nghĩ của anh, đầu tiên nó nhấn mạnh với anh đây là một sự nghiệp vĩ đại, sau đó mới phát biểu cảm nghĩ cá nhân: Dòng tộc cao quý như Malkavian tuyệt đối không thể cứ tìm đại con chó con mèo nào để nối dõi, nhất định phải có thử thách nghiêm túc, nhưng hiện tại không đủ thời gian, ngày mai họ phải đến núi Vụ Linh thăm vị thầy pháp trốn ở Trung Quốc kia.


Ansbach nhìn vẻ mặt nghiêm túc của nó thì khóe miệng bất giác nhoẻn lên, “Không đồng ý thì cứ nói thẳng là được mà.”‘

Mèo đen cười thầm trong bụng. Ha ha. Đúng rồi, cứ nói thẳng là được, sau đó để anh lấy cớ ăn hiếp.

Dường như nhìn thấu suy nghĩ của nó, Ansbach nói: “Từ nay về sau, chỉ cần không vi phạm nguyên tắc, tôi có thể chiều ý em bất cứ chuyện gì.”

Mèo đen lại ha ha cười thầm. Đúng rồi, không vi phạm nguyên tắc. Nhưng nguyên tắc của anh là không có nguyên tắc gì hết.

Ansbach thật sự bị ánh mắt quá sức biểu cảm quá sức phức tạp của nó chọc cười, “Nguyên tắc duy nhất của tôi chính là em phải mãi mãi yêu tôi, mãi mãi không được rời khỏi tôi, không làm bất cứ chuyện gì phản bội tôi nữa, nếu có ý kiến hoặc quyết định gì phải thương lượng với tôi, nhỡ mà…”

Ban đầu mèo đen còn lắng tai nghe, đến cuối nó híp mắt lại và ngáp dài một cái.

Ansbach dùng tay chọt nó, nó rơi thẳng xuống đất. Vừa tiếp đất, lông trên người mèo ta dựng ngược lên, cả người cong lại, cảnh giác nhìn chung quanh, thấy chỉ có Ansbach mới thả lỏng.

“Buồn ngủ vậy cơ à?” Ansbach nửa đùa nửa thật.

Mèo đen vẫy đuôi, dùng nước viết lên bàn: “Nguyên tắc duy nhất của anh nói xong chưa?” Nó cố ý viết chữ “duy nhất” thiệt to.

Ansbach mỉm cười đáp: “Chỉ cần không liên quan đến em, tôi đều nghe lời em hết.”



Cũng tức là từ nay về sau nó chỉ có thể vì dân vì nước, không còn được mưu lợi cá nhân nữa rồi.

Mèo đen rầu rĩ ngã xuống bàn.

Trời hơi âm u, mây có vẻ chìm, gió khá lớn, mưa phùn bị thổi lất phất, có mang theo dù vẫn bị tạt dính vài giọt.

Nhưng Ansbach bồng mèo đen di chuyển bằng tốc độ phi thường đến thẳng dưới chân núi, cả người không hề dính một giọt nước mưa nào.

Mèo đen lười biếng đứng dậy duỗi người, nhìn cả tòa núi bị vây trong mây mù, bắt đầu lục lại lộ trình trong ký ức xa xăm, một lúc thật lâu mới vươn móng ra chỉ đường.


Thật ra còn ba ngày nữa mới tới cuộc hẹn của Oregon và thầy pháp, nhưng để tránh Ansbach suy nghĩ hồ đồ thật sự phát triển tập đoàn huyết tộc ở Trung Quốc, nó mới vội đến đây. Dù sao thầy pháp đó từng nói, ba ngày trước ả không có nhà, mình và Ansbach có thể thỏe thuê dạo chơi trên núi.

Ansbach đi theo đường nó chỉ, nhìn thấy căn nhà nhưng không có khói bếp thì cảm giác là lạ, “Tại sao không có ai?”

Mèo đen vươn vuốt cào lên cổ anh. Dù sao có cào thành chữ anh cũng không thấy, vậy nên nó cứ cào bừa.

Ansbach đang vui nên cũng hùa theo đoán mò, chốc chốc thì nói đường xá không phát triển, chưa có xe hơi và tàu điện ngầm, nơi này cách thành thị lại xa, đi tới đi lui mua đồ không tiện, chốc chốc lại bảo thời tiết nơi này giống với London nên người dân mới chán ngán bỏ đi.

Để anh đoán sai mãi mèo đen bắt đầu thấy ngứa ngáy tay chân, nó nhảy khỏi người anh, lấy đuôi cuộc một cành cây viết xuống đất.

“Núi bị phong tỏa?” Ansbach nhún vai, “Đáp án chẳng thú vị gì hết.”

Lúc đó, hai người đã lên đến vị trí cao hơn tầng mây, dõi mắt nhìn ra xa, bốn bề đều là tầng tầng lớp lớp những đám mây nhưng không dày lắm, vẫn có thể thấy được phong cảnh dưới chân núi mờ mờ ảo ảo, như thật như giả.

Mèo đen ngồi xổm xuống một hòn đá ngắm nhìn đắm đuối như hoàn toàn bị phong cảnh trước mặt mê hoặc.

Bên cạnh nó sớm đã chẳng còn bóng người mà chỉ có một con dơi đang giang rộng cánh che trên đầu nó, ngồi sóng vai với nó cùng ngắm cảnh mây trôi lững lờ.

Mưa tạnh dần, mây cũng tan đi.

Mèo đen có vẻ buồn buồn.

Ansbach biến lại thành người bồng nó vào lòng, “Sao thế?”

Mèo đen u sầu ngước mặt lên, dùng cành cây viết xuống: “Thèm kẹo bông đường quá.”

Ansbach: “…”

Mèo đen nhìn khắp bốn phía. Những chiếc “kẹo bông đường” to tướng chẳng còn nữa rồi.

Ansbach mỉm cười nâng mặt nó lên để mắt hai người nhìn thẳng vào nhau, trong mắt nó chỉ còn hình ảnh phản chiếu của anh, “Tôi quan trọng hay kẹo bông đường quan trọng?”


Trong lòng mèo đen còn đang suy nghĩ xem vấn đề này có liên quan tới mình hay không.

Sự chần chừ của nó khiến sắc mặt Ansbach từ từ sầm xuống, còn u ám hơn cả màu trời ban nãy.

Mèo đen giật mình hoàn hồn, vung đuôi cuốn lấy cành cây viết xoẹt xoẹt xuống đất: “Kẹo bông đường là cái quái gì mà dám so sánh với anh!”

Sắc mặt Ansbach thay đổi trong vòng một giây, “Có tôi bên cạnh, em còn lý do gì để buồn?”



Anh có ăn được đâu, mà cũng chả ngon lành gì.

Mèo đen vừa nghĩ vừa vẫy đuôi tỏ vẻ em đây đang rất chi rất chi là vui vẻ!

Đêm hôm ấy, hai người tìm đại một căn nhà nào đó để ở tạm chứ không ở trong ở trong nhà của thầy pháp.

Một là do nơi ở của thầy pháp nhất định có đặt vài loại bùa phép mang tính nguy hiểm tương đối. Hai là bởi mục đích của họ là cọc gỗ, lần mèo đen được nhìn thấy là khi ả đang cầm trong tay, rất có khả năng lúc nào cũng giữ bên người, xâm nhập vào nhà cũng chỉ đánh rắng động cỏ.

Hiếm khi Ansbach không phản đối ý kiến của nó.

Trải qua bao nhiêu chuyện, tính nóng nảy của anh chẳng những đỡ hơn rất nhiều, khôi phục lại lý trí, mà gan cũng nhỏ lại như bình thường. Bị dạy dỗ một lần, anh mới rõ thì ra trên đời còn có việc anh không thể không sợ.

Nửa đêm trời lại đổ mưa.

Gió núi mạnh làm mưa ào ạt quất vào nhà hết đợt này đến đợt khác. Ngôi nhà này lâu năm chưa tu sửa, cửa sổ đã hư hại phần lớn, gió vừa thổi là bật tung ra.

Nước mưa tạt trúng vào đầu mèo đen, đôi tai nhỏ xíu run rẩy không ngừng do bị những giọt mưa đập trúng, cuối cùng nó cũng giật mình tỉnh giấc, mơ màng mở mắt ra.

Nó vừa nhúc nhích, con dơi bên cạnh cũng thức dậy, nhìn thấy đôi tai ướt sũng của nó cụp xuống trông vô cùng tội nghiệp thì lập tức biến lại thành người, lấy áo choàng xám đậm lau người cho nó, rồi kéo bàn đến dựng lên chắn ngay cửa sổ để mưa khỏi tạt vào.

Lúc đóng cửa sổ, anh nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc đang đi men theo đường núi cách đó không xa, chỉ chớp mắt là không thấy đâu nữa.


Dù có hóa thành tro anh cũng chỉ cần liếc một cái là nhận ra ngay.

Nhưng tại sao lại xuất hiện ở đây vào đúng thời điểm này?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 04 Jun 2020

Chương 11: Vận mệnh

Về chân tướng của năm xưa.

Thấy anh cứ nhìn ra ngoài cửa sổ mãi không động đậy, mèo đen sốt ruột kêu lên một tiếng.

Ansbach xoay người lại ôm lấy nó và vọt ra khỏi cửa sổ tiến vào màn mưa.

Mèo đen bất ngờ bị ướt chèm nhẹp: “…” Sao tưởng bớt điên rồi nhỉ?

Sợ đối phương phát hiện, Ansbach không dám bám theo quá gần, cố gắng giữ cho khoảng cách vừa đủ, không để đứt đuôi cũng vẫn tránh được đối phương phát hiện. Tiếng mưa tí tách che giấu bước chân của anh, đối phương đi cả con đường vẫn không hề phát hiện ra Ansbach.

Phía trước xuất hiện một ngọn đèn le lói, bóng người đó xẹt qua ánh lửa rồi nhanh chóng biến mất.

Đôi mắt vàng xanh của mèo đen trợn tròn, căng thẳng ngưỡng cổ lên nhìn, rõ ràng đã nhận ra kia là ai.

Ansbach an ủi nó, áp môi vào tai nó và thấp giọng nói: “Không sao đâu.”

Mèo đen không dám lên tiếng nhưng trong lòng lại đang gào thét om sòm: Sao mà không sao! Hướng đó là hướng nhà thầy pháp!

Nó nghĩ tới thì Ansbach cũng nghĩ tới.

Anh ôm mèo chầm chậm tiếp cận căn nhà cũ kỹ tan hoang. Nếu không phải mèo đen thề thốt thầy pháp ở đây, anh gần như cho rằng đây là một căn nhà bị bỏ hoang.

Ngọn đèn dầu trong căn nhà cháy lập lòe, phản chiếu ra hai chiếc bóng dài. Có lẽ không ngờ vào thời điểm thế này lại có người xuất hiện trên núi Vụ Linh, người trong nhà không hề đề phòng chút nào.


Ansbach căng tai lẳng lặng lắng nghe.

Nghe không hiểu.

Nói tiếng Trung mà.

Xì xà xì xầm, xí xa xí xồ…

Ansbach và mèo đen đứng ngay chân tường, ngước đầu nghe “tiếng trời”.

Dù Ansbach kịp thời mở kết giới ngăn không cho nước mưa rơi vào đầu mèo thì cũng chẳng thể thay đổi kết cục nó đã trở thành một con mèo vừa được vớt dưới sông lên.

Nó khó chịu lắc đầu giũ nước.

Nước bắn lên áo Ansbach phát ra âm thanh rất khẽ như chìm vào tiếng mưa rơi.

Nhưng người phụ nữ trong nhà đột nhiên hỏi bằng tiếng Trung: “Ai?”

Cửa bật ra, Gordon bất thình lình xuất hiện ngay ở chân tường.

Ngay lúc tiếng người phụ nữ vang lên, Ansbach đã giấu mèo vào sau gốc cây, còn mình thì khoác áo choàng xám đậm chạy đi như bay để thu hút sự chú ý của Gordon.

Áo choàng mang đậm phong cách phương Tây quả nhiên Gordon lập tức đuổi theo không cần suy nghĩ.

Hai người rời khỏi đó chưa được bao lâu thì giọng nữ lại vang lên: “Còn ai ở bên ngoài?”

Mèo đen không hiểu ả đang nói gì nhưng lại cảm giác thấy như có một luồng khí cực mạnh đang nhắm vào mình, chỉ cần nó hơi nhúc nhích là luồng khí ấy sẽ bắn qua ngay.

Nó do dự một thoáng rồi chầm chậm ra khỏi sau gốc cây.

Cửa nhà gỗ lại mở ra thêm đôi chút, một người phụ nữ cầm dù yểu điệu đi đến gần nó. Nước mưa bắn lên váy ả nhưng lại văng ngược ra. Ả đi đến trước gốc cây, cúi đầu nhìn mèo đen một lúc rồi khóe miệng khẽ nhoẻn lên, “Là mèo à.”

Mèo đen nhận ra ả chính là thầy pháp lần trước nó gặp, nghĩ đến cộc gỗ nằm trong tay ả thì chợt nảy ra sáng kiến, vì vậy bèn vẫy đuôi tỏ vẻ nịnh nọt.

Thầy pháp ngồi xổm xuống chìa tay ra.

Mèo đen nhìn ả đầy vẻ nhút nhát, sắm vai chú mèo hoang vừa tò mò lại vừa sợ hãi một cách sinh động.

Ả thấp giọng nói: “Ngoan.”

Mèo đen cuối cùng cũng chịu cất bước đến trước mặt ả. Ả mỉm cười, sau đó mặt trở nên lạnh tanh, hừ một tiếng rồi nhấc cổ nó mang vào nhà.

Mèo đen bị xách lắc qua lắc lại: “…”

Vào nhà xong, thầy pháp ném nó lên bàn, đóng chặt cửa lại rồi tự lẩm bẩm: “Đi sớm cũng tốt.”

Mèo đen thừa cơ đánh giá nhà gỗ. Tổng cộng có hai gian phòng một trong một ngoài, bày trí giản dị, hệt như lần trước nó nhìn thấy, có điều chẳng thấy cộc gỗ đặt ở đâu. Không biết do ả đề phòng Gordon nên không lấy ra hay do không đề phòng Gordon nên mới không lấy ra.

Khi lấy thân phận Oregon tiếp xúc với ả, nó không hề biết ả có qua lại với Gordon, vì ả là do trưởng lão của Malkavian giới thiệu nên nó rất tin tưởng, song lần này không thể không đề phòng. Liên kết với những hành vi kỳ lạ của trưởng lão Malkavian, chuyện lần này hệt như một mắc xích trong chuỗi các sự việc, khiến mọi chuyện càng lúc càng mơ hồ nhưng hình như cũng càng lúc càng rõ nét.

Sau khi mang nó vào nhà, ả không để ý đến nó nữa mà tự lấy ra những cái chum vại kỳ quái, sau đó lại lấy thêm một cái bát to, nhặt đầy thuốc bỏ vào chén rồi bỏ thuốc vô nồi cát và đặt dưới mái hiên hứng nước mưa.

Nghe tiếng mưa tí tách rơi vào nồi cát, mèo đen: “…” Xưa giờ chỉ thấy người ta đem thuốc đi phơi, chưa thấy ai mang thuốc đi dầm mưa, các vu sư của Trung Quốc đúng là quái lạ.

Làm xong, cuối cùng ả thầy pháp cũng có thời gian để ý đến nó, ả đặt nó lên bàn rồi cúi đầu nhìn nó, “Ngươi tên gì?”

Đừng nói nó nghe không hiểu, dù có hiểu cũng chẳng thể nào trả lời.

Mèo đen chỉ đành kêu meo meo.

Thầy pháp uy hiếp: “Nếu ngươi không chịu mở miệng, ta sẽ cắt đứt hết tứ chi của ngươi rồi ném ngươi cho chuột ăn!” Theo suy nghĩ của ả, một con mèo bị ném cho chuột ăn là cảnh tượng quá thê thảm, chẳng còn tí tôn nghiêm nào.

Nhưng mèo đen có hiểu đâu, nó chỉ tập trung sắm vai dễ thương.

Thầy pháp đổi mấy cách uy hiếp đều không có hiệu quả, cuối cùng cũng rầu rĩ nói: “Lẽ nào chỉ là một con mèo bình thường.”

Ả ngẫm nghĩ, bất chợt hai mắt sáng lên, cười bảo: “Ta có cách để biết rốt cuộc ngươi là mèo hay yêu rồi.” Ả lật sàn giường lên, lục lọi chốc lát rồi lấy mấy thứ ra.

Hai mắt mèo đen đứng tròng.

Cọc gỗ!

Thầy pháp vẫn chưa biết mình vừa mới bất cẩn lấy “vật phẩm nhiệm vụ” của người ta ra, ả đặt cộc gỗ lên bàn, sau đó nhấc một tấm gương lên và xì xầm: “Úm ba la cà na xí… Muội!”

Con mèo trong gương đồng ngẩng đầu nhìn ả bằng ánh mắt kỳ quái.

Thầy pháp bực mình gặm gương, “Rốt cuộc là mèo giả hay là gương giả!”

Ả đặt gương xuống, lấy một sợi dây thừng rồi tóm lấy mèo đen, nhanh tay trói nó lại và thắt một cái nơ bướm.

Mèo đen nằm hơi ngửa lên, một chân sau giơ cao, sau đó phát hiện ánh mắt của đối phương đang nhìn vào nơi giữa hai chân mình một cách kỳ cục thì trong đầu như bị sét đánh, mau chóng lật người lại, âm thầm cầu nguyện Ansbach đừng bao giờ xuất hiện vào thời điểm này!

Ả thầy pháp nào biết được suy nghĩ của nó, ả chỉ tưởng dây trói yêu không có tác dụng nên đành bỏ cuộc, lấy cọc gỗ bỏ xuống đất rồi đặt mèo đen lên trên và nói: “Nếu ngươi có thể ngủ một đêm trên cọc gỗ mà không rơi xuống, ta sẽ tin ngươi chỉ là một con mèo bình thường.” Chuyện này đương nhiên chẳng có căn cứ gì, vốn ả chỉ muốn giày vò nó cho vui thôi.

Mèo đen không biết ả đang nói gì, nhưng nó biết, nó đã ôm được cọc gỗ rồi!

Hạnh phúc gì đâu!

Ngày hôm sau, Gordon không xuất hiện, Ansbach cũng không. Thầy pháp ngồi xếp bằng trên giường cả buổi tối như đang nhắm mắt dưỡng thần, nhưng mèo đen rõ ràng nghe thấy tiếng ngáy rất khẽ phát ra từ cổ họng ả vào lúc rạng sáng.

Vừa nghĩ đến chuyện mình từng đặt hy vọng lên một người thiếu chuyên nghiệp như vậy, mèo đen thấy khó chịu cả người.

Thời tiết hôm nay không tệ, mới hơn sáu giờ, mặt trời đã chiếu sáng qua khung cửa sổ.

Thầy pháp duỗi lưng, nghiêng đầu liếc thử thì thấy mèo đen vẫn đang còn trên đỉnh cọc gỗ to bằng miệng chén và duỗi lưng đầy vẻ lười biếng.

Quả thật cả đêm không rơi xuống.

Thầy pháp cảm thấy mình nên đánh giá lại nó là mèo hay yêu.

Ả mở cửa lấy nồi cát vào nhà. Trong nồi quả nhiên ngập nước quá nửa.

Ả lấy lô ra châm lửa, đặt nồi lên đun rồi mặc kệ, lấy một cành liễu đứng trước nhà đánh răng.

Nhớ khi Ansbach còn ở bên cạnh sẽ dùng bàn chải nhỏ tự chế đánh răng cho nó, mèo đen cảm thấy chua xót trong lòng, sao mà cô đơn quá.

Đánh răng xong, ả thầy pháp lấy thứ gì đó trông như khăn lông chùi lung tung lên mặt rồi ném vào chỗ cũ, không xả cũng không giặt.

Lười đến mức này thôi thì khỏi mong người ta rửa mặt cho mình.

Mèo đen cúi đầu liếm vuốt, bắt đầu lau mặt.

Thuốc nấu hết một ngày, thầy pháp không làm gì ngoài châm tí nước, thi thoảng thổi lửa rồi lại tiếp tục ngồi trên giường, nhưng lần này ả không ngáy nữa, mèo đen rõ ràng cảm giác được sau khi ả ngồi thiền, không khí chung quanh liền khác ngay, dường như… tươi mát hơn?

Đến tối, lương tâm của ả thầy pháp rốt cuộc cũng quay về, ả thả mèo xuống, ném cho nó một quả trái cây chẳng biết từ đâu hái xuống.

Mèo đen ngửi ngửi, do dự không biết có nên ăn hay không.

Mèo đen nhìn biểu hiện của nó rồi lại lẩm bẩm một mình: “Đúng là mèo phải ăn thịt chuột sao nhỉ?”

Ả lấy nồi cát xuống, đổ thuốc nấu xong vào một cái hủ đặt lên giá gỗ. Trên giá có rất nhiều hủ, nhưng cái hủ ả mới bỏ lên mèo đen cảm thấy quen quen. Nó nhìn những cái hủ khác rồi nhìn lại cái hủ đó, đột nhiên nhớ ra đây rõ ràng là cái hủ khi mình đến xin thuốc trị cho Ansbach ả đã lấy ra!

Lúc đó nó tưởng ả thầy pháp này thường chế sẵn các loại thuốc như tiệm thuốc vậy, căn cứ theo nhu cầu khách hàng để giao ra loại thuốc tương ứng. Nào ngờ thứ thuốc nó tưởng trị được chứng điên cuồng cho Ansbach lại do thầy pháp mới pha chế hai ngày trước?

Sao ả lại biết mình cần thuốc gì?

Mèo đen cảm thấy hình như mình đang phát hiện ra một sự thật nào đó. Nó nhìn thầy pháp rời khỏi nhà, lắng tai nghe ngóng để xác định ả đã đi xa mới nhảy phóc lên giá gỗ, vươn vuốt đẩy nắp những cái hủ khác ra xem, phát hiện đều là hủ rỗng!

Cũng tức là ả cố tình chế loại thuốc đó chờ mình!

Tuy trước đó mình có viết thư liên lạc với thầy pháp nhưng trong thư không hề đề cập vấn đề của Ansbach, chỉ bảo gặp tí chuyện phiền phức, ngưỡng mộ tài năng của ả trên phương diện vu thuật nên mới đến xin giúp đỡ. Ả không thể nào đoán được trước…

Trừ phi ả có năng lực khống chế thời gian như Metatron, đến tương lai để hỏi thăm mình. Hoặc là toàn năng như Thần!

Đương nhiên còn có một khả năng: Người biết chuyện còn lại báo với ả – Trưởng lão tộc Malkavian.

Nhưng thế lạ quá.

Dù có lấy lý do rằng trưởng lão Malkavian là người bệnh thần kinh thay đổi thất thường, vui buồn lẫn lộn cũng quá kỳ cục.

Nó có cảm giác mình đã nhìn thấy hơn nửa hình ghép, nhưng lúc nào cũng thiếu vài mảnh quan trọng khiến hình ghép mãi không hoàn thành được.

Rốt cuộc là cái gì?

Nó đang mãi suy nghĩ thì chợt bị nhấc bổng lên, còn chưa hoàn hồn đã nằm trọn trong vòng tay quen thuộc và được đưa đi xa mấy chục mét.

Khi thầy pháp bắt được chuột sống quay về thì đã không còn thấy bóng dáng mèo đâu.

“Vậy nên cuối cùng là mèo hay yêu nhỉ.”

Ả vô cùng phiền não.

Ansbach ẵm mèo đen chạy thẳng một mạch về kinh sư.

Mèo đen ngoan ngoãn nằm trong lòng anh không dám động đậy. Nó cảm giác được sự lo lắng của anh, sự hoảng sợ và phẫn nộ của anh, vậy nên nó biết vào giờ phút này, theo Ansbach thì sống, còn làm trái lời Ansbach là sống không bằng chết.

“Chỉ một chút nữa thôi là tôi mất em rồi.”

Ansbach đưa nó ra ngoài nhìn cho thật kỹ, cả nơi riêng tư cũng không tha, sau khi chắc chắn không sứt mẻ tí nào mới thở phào nhẹ nhõm, dùng cằm cạ vào đầu nó rồi lại áp má vào đầu nó, sau đó ghì chặt nó không chừa chút khe hở nào giữa cả hai.

Mèo đen cảm thấy mình sắp đứt hơi tới nơi bèn dùng đuôi quét qua mặt anh.

Ansbach đổi tư thế ôm tiếp.

Mèo đen: “…” Thôi kệ, dù sao cũng chừa chỗ cái mũi ra là được rồi.

Người và mèo ôm nhau mấy tiếng đồng hồ liên tục cho đến khi Ansbach bình tĩnh lại.

“Ả có làm gì em không?” Ansbach nhìn chằm chằm mèo đen.

Mèo đen vừa nhớ lại cảnh ả nhìn vào hoa cúc rồi nơi riêng tư giữa hai chân của mình vừa lắc đầu.

“Thật không?” Ansbach nói: “Cả chạm cũng không chạm vào sao? Thế em vào nhà ả bằng cách nào? Tự em vào ư?”

Bị bắt vào?

Tự vào?

Chọn cái nào nhỉ?

Dù trong đầu nó đang đấu tranh dữ dội nhưng ngoài mặt vẫn chỉ là chuyện trong mấy giây. Nó vô thức tìm cành cây nhưng Ansbach ngăn lại, lấy than và giấy đã chuẩn bị sẵn ra cho nó. Cành cây thô ráp có khi dằm sẽ đâm vào đuôi. Lông mèo đen lại dày, rất khó nhổ ra, nếu không phải cạo sạch lông…

Mèo đen nhìn Ansbach cầm giấy mà trong mắt dần có gì đó không đúng thì hoa cúc vô thức thắt lại, không khỏi kêu lên một tiếng.

Hồn Ansbach bị tiếng kêu của nó gọi về, trông dáng vẻ nho nhỏ lông lông của nó thì hứng thú nói: “Ừm, em định bảo cái gì?”

Mèo đen quấn bút than toan nói cọc gỗ, nhưng…

Nó bất chợt kêu lên một tiếng thất thanh, sau đó dùng móng trước liều mạng đào hố rồi vùi đầu vào đó nằm bất động.

Ansbach bị dọa hết hồn, anh bồng nó lên, nói bằng giọng lạnh giá: “Ả đã làm gì em?”

Mèo đen khóc không ra nước mắt.

Cơ hội giành lấy cọc gỗ đã hiện ra trước mắt vậy mà nó lại không biết trân trọng, đến khi mất đi hối hận đã muộn, nếu trời cao cho nó thêm một lần cơ hội, nó thề nó sẽ ghim chặt móng vuốt vào cọc gỗ!

Đợi mèo đen giải thích đâu vào đấy xong, Ansbach cũng rơi vào trầm tư.

Từ khi mèo đen biến mất, anh lại rơi vào trạng thái hoảng loạn cực độ. Có thể đợi đến khi ả thầy pháp rời khỏi nhà mới xông vào đã là công lao to tác của chút ít lí trí còn sót lại, đừng nói gì đến chuyện đi một vòng quanh nhà.

Người và mèo nhìn nhau một lúc, trong lòng đều nảy lên cảm giác kỳ quái.

Dường như có những chuyện đã được định sẵn, làm cách nào cũng khó lòng thay đổi.

Ví dụ như lúc Oregon và thầy pháp gặp nhau sẽ nhìn thấy cọc gỗ đó – Nếu Ansbach lúc vào nhà nhìn thấy cọc gỗ, hoặc mèo đen nhắc anh lấy cọc gỗ đi thì Oregon sẽ không nhìn thấy nữa.

Lại ví như khi tộc trưởng vu tộc tặng anh chiếc áo choàng xám đậm, lúc gặp Oregon ma xui quỷ khiến anh lại mặc vào và còn tự xưng là Joseph Miller.

Vậy có phải có nghĩa là cuộc xung đột giữa anh và Oregon vào năm 1890 vẫn sẽ diễn ra chăng?

Bầu không khí quanh người Ansbach càng lúc càng nặng nề đến nghẹt thờ…

Sợ Ansbach trong cơn rối loạn gây họa, mèo đen vội vàng hết liếm lại hôn, hết hôn lại liếm để cố gắng thu hút sự chú ý của anh.

Ansbach miễn cưỡng lấy lại bình tĩnh, vuốt ve đầu mèo đen và nói bằng giọng u ám: “Những thứ này đều là chuyện nhỏ, chỉ cần thay đổi được việc em bị phong ấn là tốt rồi.”

Nhắc đến phong ấn, mèo đen nhớ lại những hành động kỳ quặc của ả thầy pháp, nó cong đuôi cuốn bút than hí hoáy viết, chẳng mấy chốc đã viết kín hai mặt giấy, Ansbach lại mang nó đến viết lên tường trắng sau nhà người ta.

Nhà nọ sáng hôm sau thức dậy liền nhìn thấy “bùa” được vẽ trên tường nhà mình – Khi ấy Anh văn vẫn chưa nằm trong chương trình phổ cập giáo dục, thì sợ đến nhũn cả chân, vội vã mời không biết bao nhiêu hòa thượng đạo sĩ đến làm phép, đương nhiên đây là chuyện sau này.

Lại nói về mèo đen, sau khi viết hết gần nửa bức tường nhà người ta, cuối cùng cũng bày tỏ hết những gì muốn nói.

Sắc mặt Ansbach càng lúc càng u ám, song giọng nói lại rất bình tĩnh: “Miếng ghép còn lại rất đơn giản.”

Anh mỉm cười, nhưng mèo đen lại thấy lạnh run cả người.

“Dustin,” – Tên trưởng lão tộc Malkavian, “Gordon và ả đàn bà kia là một bọn.” Giọng nói thể hiện sự chán ghét cực độ.

Mèo đen ngây ra, cảm thấy hình ghép dường như sắp hoàn chỉnh nhưng vẫn còn thiếu một mảnh, mảnh ngay chính giữa vẫn chưa được ghép vào là gì?

Hình ghép của Ansbach lại đã hoàn chỉnh, anh bắt đầu dẫn dắt nó: “Thứ thuốc em lấy được từ chỗ ả đàn bà đó có phải là thứ em pha vào tách trà khi gặp tôi lúc sau không?”

Trong đầu mèo đen lóe lên, lông trên người dựng ngược, cong đuôi cuốn bút nhanh chóng viết lên tường: Thuốc có vấn đề?

Ansbach cười đến tỏa ra hơi lạnh, “Sau khi uống xong, tính tình của tôi càng nóng nảy táo bạo hơn.”

Mảnh ghép cuối cùng cũng đã được lắp vào.

Mọi chuyện đều đã liên kết với nhau.

Mèo đen dựa sát vào người Ansbach và nghe anh thuật lại mọi chuyện từ đầu đến đuôi.

Đầu tiên là giải thích về hành vi tréo ngoe của trưởng lão Malkavian.

Ansbach đoán không sai, đúng là Dustin không muốn phong ấn anh nhưng nguyên nhân nào phải vì bao che mà là muốn anh hoàn toàn nổi điên sau khi bị Oregon phản bội. Nếu không đoán ra được nguyên nhân ông ta làm vậy thì hãy thử liên tưởng đến việc ông ta cùng phe với Gordon, đáp án sẽ rõ như ban ngày. Với Nghịch Cửu Hội, một kẻ điên phá rối trật tự của nhân giới và giới huyết tộc đúng là đáng để ao ước.

Í! Hôm nay tâm trạng không vui sẽ phá sập vài tòa giáo đường.

Ồ! Hôm nay tâm trạng tốt sẽ hù chết cả đám nhân loại.

Ansbach cười lạnh, “Bọn chúng nhất định vừa uống rượu vừa bảo, làm hay lắm!”

Bảo Oregon đến Trung Quốc là để gài bẫy anh và Oregon, tạo ra hoàn cảnh lý tưởng cho âm mưu của chúng.

Khi ở trong hoàn cảnh xa lạ, sức phán đoán sẽ dễ kém đi.

Hành vi của Oregon đã chứng thực điều này.

Từ việc phong ấn Ansbach, lừa gạt Oregon, giải thoát Ansbach, mua chuộc thầy pháp hạ độc… Tất cả đều là một kế hoạch được bày vẽ tỉ mỉ!

Lần trước hai người đúng là đã mơ hồ đi theo từng bước kịch bản được viết sẵn, lần lượt diễn hết cả vở cho đến cái kết bi thảm cuối cùng!

Ansbach gần như có thể tưởng tượng ra cảnh khi nhìn thấy mình và Oregon tàn sát lẫn nhau, chúng sẽ nói…

Làm hay lắm!

May mà được quay lại.

Đúng là phải cảm tạ Gordon.

Cảm tạ sự tự tin mù quáng và điên cuồng của lão đã cho hai người một cơ hội để làm lại từ đầu.

Lần này họ sẽ giành lấy quyền chủ động, nhất định có thể thay đổi kết cục.

Mèo đen sơ lược lại mọi chuyện trong đầu, khẽ lúc lắc đuôi, bút than liên tục viết hết chữ “cọc” này đến chữ “cọc” khác trong lúc nó không để ý.

Thấy nó vẫn canh cánh trong lòng chuyện không lấy được cọc gỗ, Ansbach bèn an ủi: “Chỉ cần nó còn ở đây, sớm muộn gì cũng thuộc về chúng ta thôi.”

Mèo đen hoàn hồn, xoèn xoẹt viết lên tường: Khả năng khống chế thời gian của Gordon có liên quan gì đến cọc gỗ không nhỉ?

Ansbach rúng động trong lòng, “Chúng đấu tranh nội bộ?” Với tính cách phản pháo vô ơn của Gordon, nếu lão biết được lai lịch của cộc gỗ thì nội chiến là chuyện hiển nhiên.

Anh ngẫm nghĩ, tạm thời quẳng suy nghĩ đó ra khỏi đầu, “Nhưng mặc kệ thế nào, chúng ta chỉ cần giành được cọc gỗ, cản trở…” Lời còn chưa dứt, anh đã đứng lên đầy vẻ cảnh giác, ôm mèo đen vào lòng mình. Chuyện lần trước để mèo đen ở lại trong bụi cỏ khiến nó rơi vào tay thầy pháp khiến anh vẫn canh cánh trong lòng, lần này tuyệt đối không thả nó ra nữa.

Dưới ánh trăng tròn vành vạnh, một cái chấm đen dần dần to lên, đến khi bằng to nắm tay mèo đen mới thấy rõ ấy hình như là một con chim đang giương cánh.

Ansbach kéo áo choàng lên che khuất mèo đen và nhanh chóng biến mất.

Trước sau chưa quá hai giây, cái bóng giương cánh thoáng dừng lại vị trí Ansbach mới đứng một chút rồi nhanh chóng đuổi theo hướng đi của anh.

Dù tốc độ Ansbach vô cùng nhanh, đối phương đuổi theo ráo riết, từ phía đông kinh sư đuổi bám đến phía tây kinh sư, bay vòng quan tường thành, lúc đến Vĩnh Định Môn Ansbach đột nhiên rẻ xuống hướng nam. Vừa chạy được sáu dặm, anh chợt cảm thấy cả người lạnh toát, cái lạnh như thấm ra từ xương tủy. Ngay sau đó, tốc độ của anh dần chậm lại.

Sương mù mờ mịt tạo nên một tấm màn trắng xám giữa đêm đen.

Giữa màn sương, một bóng người chầm chậm bước đến.

Đợi người đó đến gần mới thấy rõ là Leslie. Hắn nghiêm mặt, lạnh lùng trừng Ansbach, “Ai cho cậu trốn khỏi phong ấn?”

Thế ai cho ngài phong ấn ta?

Lửa giận phừng cháy, Ansbach đang định phản bác thì thấy có gì là lạ.

Lạ ở điểm nào nhỉ?

Một suy nghĩ loáng thoáng hiện lên, nhưng lại như bị vây trong sương mù dày đặc không thể thoát ra.

“Đừng đấu tranh nữa, lần này cậu sai thật rồi.” Dustin đứng bên trái của Leslie, giọng nói vẫn đáng ghét như thuở nào.

Nhìn thấy ông ta, đầu óc của Ansbach dường như tỉnh táo hơn đôi chút, ít ra ác cảm của anh với Dustin luôn rất rõ nét.

“Ansbach!”

Có tiếng kêu vang lên từ sau lưng anh.

Oregon?

Ansbach quay ngoắt lại, quả nhiên nhìn thấy chàng thanh niên tóc vàng mắt xanh đang lao tới, anh vô thức muốn giang tay ra đón nhưng mèo đen trong lòng lại điên cuồng kêu lên. Đầu óc Ansbach mơ màng trong giây lát rồi đột nhiên nảy ra một suy nghĩ rõ ràng:

Mèo đen còn trong lòng anh, vậy lấy đâu ra Oregon?!

Ansbach chớp mắt, Oregon trước mắt bỗng biến thành Zofie giương nanh múa vuốt vác đao bổ tới. Anh vội lùi về sau, vị trí anh vừa mới đứng xuất hiện một khe nứt rộng bằng một ngón tay dài bảy, tám mét.

“Ngươi phải tu bổ, không thì người dân sẽ bị té ngã đấy. Thời đại này chưa có xi măng, ngươi định dùng keo dán lại sao?” Ansbach nhạo báng.

Zofie ngẩn ra, Ansbach trong ký ức của hắn sẽ không nói chuyện kiểu thế này, chỉ cần một câu không hợp là dùng nắm đấm tiếp đãi.

Thừa cơ hắn ngây người, Ansbach vội vàng bỏ chạy.

Dù có Gordon âm thầm trợ giúp, anh muốn đánh thắng Zofie không phải là chuyện không thể nào, nhưng sẽ rất phí công, hiện tại anh không có dư thời gian.

Anh quay về thời đại chỉ với một mục đích: Thay đổi lịch sử để Oregon có thể trở lại hoàn chỉnh và ở bên cạnh anh!

Thấy Ansbach bỏ chạy, Zofie lập tức đuổi theo.

Ansbach bị hắn bám đuôi đến lúc trời sáng, tâm trạng của anh bắt đầu nóng nảy. Để tránh không rời khỏi kinh đô quá xa làm lỡ mất những chuyện quan trọng của năm đó, anh cứ chạy vòng vòng trong thành, nhưng có chạy thế nào cũng không cắt được cái đuôi phía sau, hơn nữa do bị nắm được quy luật mà hai lần rơi vào cạm bẫy ảo ảnh của Gordon.

Cứ tiếp tục thế này sẽ nhỡ mất việc Oregon lên núi Vụ Linh!

Anh vừa mải suy nghĩ làm sao để cắt được cái đuôi phía sau vừa quẹo cua gấp khiến thân thể hơi nghiêng xuống, tấm áo choàng rộng thùng thình quét đất như màn cửa, chắn mất tầm nhìn của kẻ chạy sau.

Thời cơ tuyệt vời!

Mèo đen đã chờ cơ hội này cả ngày trời, nó liền thừa cơ trượt xuống theo áo choàng, mượn các góc khuất giữa nhà cửa lẻn vào trong bụi cỏ.

Trong lòng vừa nhẹ hẫng là tim Ansbach lập tức trĩu nặng, lúc nhận ra mèo đen định làm gì, suýt chút nữa anh đã bất chấp tất cả đuổi theo bắt nó lại, nhưng trước khi hành động, may thay thói quen nhiều năm nay khiến anh tự động thay đổi góc độ để cân nhắc, phán đoán nguyên nhân vì sao đối phương làm vậy, cuối cùng kết luận rằng nó đi ngăn cản Oregon.

Đúng là trong trường hợp bị bám đuôi thế này, chia ra hai đường là ý kiến đúng đắn.

Mèo đen lại quá quen thuộc với hành vi cử chỉ của Oregon.

Anh dùng cả ngàn lý do để giải thích cho hành động của mèo đen mới có thể tạm khống chế tâm trạng sắp bùng nổ của mình, tiếp tục chạy theo đường cũ để thu hút sự chú ý của Zofie và Gordon. Nhưng trong lòng anh đang vung đao chặt chém hai tên này không biết bao nhiêu là lần!

Mèo đen trốn trong bụi cỏ nhìn Ansbach và Zofie rời đi mới thở phào nhẹ nhõm, ngồi lại thêm một lúc rồi đi vòng qua đầu bên kia.

Thân là một con mèo, nếu muốn chạy lên núi Vụ Linh là chuyện không hề dễ dàng. Nó quan sát thật lâu mới tìm được một nơi khá gần núi Vụ Linh để nhảy xuống.

Cũng may trên đường luôn có xe ngựa ngược xuôi, nhờ vào thân thủ nhanh nhẹn nó đi nhờ được vài chuyến xe, cuối cùng tới được núi Vụ Linh.

Bây giờ còn cách lúc Oregon lên núi nửa ngày.

Nó sợ lỡ mất nên cố ý ngồi ngay giữa đường, trừng to hai mắt theo dõi.

Thời gian trôi qua từng phút từng giây, trời bắt đầu tối dần.

Mèo đen thấy bất an. Theo lý mà nói, lúc này mình hẳn đã lên núi rồi chứ. Lẽ nào lịch sử bị thay đổi?

Nó cố gắng nhớ lại.

Dù sao cũng là chuyện hơn trăm năm về trước, nó lại có một khoảng thời gian rơi vào tình trạng đầu óc mơ màng, muốn nhớ lại chuyện xưa không sai tí gì quả thật hơi khó. Tuy nhiên nó vẫn rất cố gắng suy nghĩ…

Hình như lúc đó mình chọn con đường rộng nhất rồi xẹt qua một cái…

Xẹt qua một cái?

Xẹt qua?

Mèo đen giận muốn rụng lông, xui thay đối tượng nó giận lại là chính bản thân nó.

Tại sao?! Mình rõ ràng có hai cái chân, mắc chi không chịu đi đứng cho đàng hoàng mà cứ dùng dịch chuyển tức thời làm cái quái gì?

Chả trách ban nãy có trong một giây nào đó nó tự dưng thấy như bị bài xích, thiếu điều văng đi. Nhất định là khi Oregon băng qua, cơ thể nó có phản ứng.

Lẽ nào mọi chuyện vẫn sẽ từng bước tiến triển theo kịch bản của Gordon?

Rốt cuộc là hai người họ quay về năm 1890 hay là bị xuyên vào quyển “Tự truyện của Gordon”?

Nó vừa điên cuồng phỉ nhổ trong lòng vừa thục mạng chạy đuổi theo.

Nó vội vã đuổi đến, đúng lúc Oregon vừa mới bước ra từ trong nhà gỗ. Nó theo bản năng khựng lại, giơ chân trước lên như muốn vẫy tay nói “hello”. Thế nhưng chỉ như nước đổ lá khoai, Oregon chả buồn liếc nó lấy một cái mà chỉ cắm đầu… biến mất.

KHÔNG!!!

Trong lòng mèo đen gào lên thảm thiết, cả người cứng đờ, chỉ đành nghệch ra nhìn nơi Oregon vừa biến mất.

Nó nhớ Ansbach từng bảo nó đáng bị đánh lắm, nhưng nó luôn cho rằng đây chỉ là mấy lời thoại nhàm chán khi diễn kịch – Đại loại như trước khi đánh nhau người ta hay nói, “Thằng oắt con nhà ngươi quá kiêu ngạo.”, “Bố mày chướng mắt mày đấy.” vân vân thôi. Không ngờ anh nói đúng thật.

Nhìn từ góc độ khác đúng là đáng ăn đòn.

“Ngươi về rồi à.”

Nó nghiêng đầu thì thấy thầy pháp đang đứng trước cửa vui vẻ nhìn nó và cầm trong tay một quả cầu trúc.

Đừng nói ả tính dùng một quả cầu trúc để dụ mình chứ?

Mèo đen cười lạnh, ít ra phải là banh bóng đá mới có sức hấp dẫn.


Nó xoay người phóng lên đường ban nãy chạy tới.

“Đừng chạy.” Thầy pháp vén váy đuổi theo.

Mèo đen quay đầu lại ấy lần, phát hiện ả thầy pháp vẫn nằm ngoài phạm vi hai mét bèn mỉm cười chào hỏi, vẻ mặt như đang chơi cút bắt.

Được nửa ngọn núi, nó mệt muốn đứt hơi, chạy không nổi nữa nên quyết định ngừng lại nghỉ một lát, dù sao cũng có chạy được nữa đâu, thôi thì để dành sức còn hơn.

“Không chạy nữa?” Thầy pháp có vẻ tiếc nuối, ả lại lấy quả cầu ném qua ném lại trước mặt nó, nhưng thấy mèo đen chẳng buồn động đậy thì dần mất hứng, ném cầu xuống đất và nói bằng giọng lạnh lùng: “Hay phải bắt ngươi lại, lấy dao mổ bụng xem có yêu đan không?”

Tuy không hiểu ả đang nói gì nhưng mèo đen nhận ra sự thiếu kiên nhẫn trong mắt ả, nó cúp đuôi, chân sau đạp mạnh một cái để rơi xuống một tảng đá lớn gần đó, rồi không để thầy pháp kịp có phản ứng, nó nhảy xuống thêm ba lần nữa, lần cuối cùng vì không đáp vững nên trượt chân bổ nhào, lăn liên tục mấy vòng cho đến khi va vào gốc cây. Nó mặc kệ vết thương trên mình, vội vàng đứng dậy định chạy nhưng chợt nghe thấy tiếng của ả thầy pháp vang lên trước mặt: “Trông ngươi lăn đáng yêu thật đấy. Hay để ta làm cho ngươi một cái lồng rồi nhốt ngươi vào đấy cho ngươi mỗi ngày lăn vòng vòng?”

Ả thầy pháp đứng ngược sáng nên dù gương mặt có xinh xắn thế nào trông cũng u ám đáng sợ.

Mèo đen ngẩng đầu nhìn ả không hề nao núng.

“Thì ra cô đang ở đây.” Lại một tiếng nói vang lên.

Con người này nó vốn cực ghét nhưng bởi xuất hiện vừa đúng lúc nên gỡ gạc lại được chút ấn tượng với mèo đen.

Thầy pháp bực mình quay lại, “Chuyện gì?”

Gordon của bấy giờ trông vẫn chưa xấu xí đáng sợ như lúc xuất hiện trong nhà gỗ, lão đang trong độ tuổi hoàng kim của đàn ông, chững chạc, đượm buồn nhưng vẫn chưa mất đi vẻ điển trai. Nhưng ả thầy pháp chẳng thấy chút hứng thú gì. Trong mắt của ả, dáng vẻ của người Tây lúc nào trông cũng kỳ cục, cứ như đời trước làm chuyện xấu, bị người ta đánh rồi mới đi đầu thai. Nếu chẳng phải trong tay người đàn ông đó có thứ ả cần, ả chẳng thèm qua lại với hắn.

Gordon nói: “Ta có việc muốn giao dịch với cô.”

Thầy pháp hỏi: “Giao dịch gì?”

“Ta nghe nói cô đang giữ một vật thế này.” Hắn lấy ra một tờ giấy.

Bị thầy pháp che mất nên mèo đen không thấy trên giấy là gì, chỉ biết giọng điệu của ả chợt thay đổi, có gì đó như đang phẫn nộ: “Ai nói cho ngươi biết?”

Gordon đáp: “Để trao đổi, ta có thể cho cô một tiêu bản của huyết tộc.”

Cuộc đối thoại ngừng lại.

Ả thầy pháp dường như đang cân nhắc.

Mèo đen không biết hai người đang nói gì, nó nôn nóng vò đầu, còn có việc gì bứt rứt hơn việc tìm thấy bí mật mà lại không giải mã được chứ?

“Không được.” Cuối cùng ả từ chối.

Gordon vẫn kiên trì: “Huyết tộc đời thứ tư!”

Cái giá tăng lên khiến quyết tâm của thầy pháp lung lay. Thân là thầy pháp phương Đông, ả đương nhiên cũng có tìm hiểu vể huyết tộc phương Tây nên biết rõ thân phận của huyết tộc đời thứ tư vô cùng cao quý, nếu đối phương đã muốn dùng tiêu bản sống của huyết tộc đời thứ tư chứng tỏ vật trong tay ả vô cùng quan trọng.

Nếu đã thế thì mình cần gì phải đổi?

Sau khi bị ả cự tuyệt một lần nữa, Gordon nở nụ cười.

Mèo đen cảm thấy ả thầy pháp xui rồi. Đương nhiên cũng có khả năng Gordon gặp phải loại khó nhằng. Bất luận thế nào đều là chuyện của chúng, tốt nhất đừng để liên quan đến mình. Nó lén nằm xuống trong bụi cỏ, cố gắng dịch người từng chút một ra khỏi tầm nhìn của Gordon. Nó lại nhớ đến cộc gỗ lần trước không lấy được, sau đó sẽ rơi vào tay Gordon bèn len lén chạy về nhà gỗ của thầy pháp.

Trong nhà thầy pháp chẳng có gì cả, mèo đen nhớ lần trước ả có giở sàng giường lên nên liền học theo, dùng chân cố đẩy nhưng sàng chẳng suy suyễn chút nào. Nó lại dùng đuôi để đẩy, dùng đầu để đẩy, muốn dùng cả người… nhưng tiếc rằng không đủ cao.

Lăn lộn cả buổi trời, chút sức lực còn sót lại của nó đều tiêu hao cạn kiệt, ván gỗ thì chẳng động đậy tí nào. Trời càng lúc càng tối, ả thầy pháp và Gordon có thể quay về bất cứ lúc nào, nhưng dù có sốt ruột nó cũng đành chịu, trong bụng vì chuyện không thể biến thành người mà mắng chửi Gordon không biết bao nhiêu lần.

Nó nghỉ một lát rồi bắt đầu đi quanh nhà tìm dụng cụ.

Hủ trên kệ?

Vô dụng.

Bàn?

Bàn không nhấc nổi.

Ghế?

Nó dùng người đẩy thử nhưng không được, nó bất thình lình nghe “két” một tiếng và cửa mở ra.

Gordon bước vào, trên người hắn tỏa ra mùi máu nồng nặc. Ráng lam chiều phủ lên mặt hắn khiến những nếp nhăn hằn sâu rõ rệt, một gương mặt trung niên điển trai bỗng chốc trở nên gồ ghề đến dữ tợn.

Hắn nhìn quanh căn nhà một lượt rồi dừng mắt trên sàng giường. Chịu tôi, ai bảo trông chỉ có nơi đó là giấu đồ đạc được. Hắn bước đến bên giường vuốt ve ván gỗ mấy lần, sau đó lập tức lật nó lên lấy cộc gỗ ra.

Mèo đen đứng kế bên giả làm tiêu bản, trông thấy cảnh đó mà lòng đau như cắt.

Gordon như có linh cảm, mắt khẽ liếc qua, mèo đen đứng im không dám nhúc nhích. Hắn vừa lấy được của quý nên cũng chả buồn soi mói, chỉ vui vẻ cầm cộc gỗ bỏ đi.

Hắn đi chưa bao lâu thì mèo đen vội chạy tới sân sau, buồn bực đào một cái lỗ rồi vùi đầu vào đó để lấy lại bình tĩnh.

Thôi kệ.

Tuy báu vật đã bị lấy đi nhưng cuộc sống vẫn đang tiếp diễn.

Mèo đen nhanh chóng lấy lại tinh thần, lê bốn cái chân mỏi nhừ chạy bộ xuống núi.

Nó nhớ Ansbach từng nói, mục tiêu của cả hai là thay đổi kết cục, vậy đành phải ra tay từ tên Oregon hâm dở kia thôi – Nó đã không còn muốn thừa nhận “tên hâm dở” kia chính là nó trong quá khứ.

Thứ gì đáng ghét quá chừng, ai lại đi bắt một con mèo chạy marathon chứ!

Trong lúc chạy, mèo đen cũng không quên ngẫm lại xem năm xưa sau khi rời núi Vụ Linh, nó đã làm gì.

Ừm, hình như khi ấy nó…

Đang hớn hở chuẩn bị quay về châu Âu, trên đường đóng gói các món ngon vật lạ ở Trung Hoa, nó bắt gặp Zofie đang ăn hiếp người bạn mới tên Joseph Miller của mình.

Trong mắt Oregon, Zofie là tay sai của Gordon và một trong các thủ phạm dạy hư Ansbach – Dù theo lời phân trần của Zofie, Ansbach đã “hư” đến không thể “hư” hơn được nữa, nhưng yêu thì củ ấu cũng tròn, ghét thì bồ hòn cũng méo, với Oregon, nếu không có Zofie cùng Gordon, Ansbach chỉ hư một mình, không thể nào gây án hàng loạt vậy được. Thù mới hận cũ, Oregon bèn xông xáo xắn tay áo sắm vai anh hùng cứu mỹ nhân.

Tuyệt cú mèo! Chỉ cần tới kịp, nó sẽ gặp được cả Orgeon năm 1980 lẫn Ansbach năm 2015!

Mèo đen vui sướng.

Nhưng thực tế và suy nghĩ lúc nào cũng giữ một cự ly nhất định. Muốn một huyết tộc quen dùng dịch chuyển tức thời hoặc biến thành dơi vỗ cánh bay bay tính được vận tốc và thời gian chạm đích của một con mèo là chuyện vô cùng phản khoa học.

Kết quả của sự phản khoa học ấy là, lúc nó đuổi đến, những gì phải xảy ra đều đã xảy ra.

Nó lả người nằm dài trên đường chẳng muốn động đậy.

Nghỉ ngơi một lát nó lại phấn chấn. Nếu Ansbach hiện tại đã gặp được Orgeon năm ấy thì nhất định sẽ có hành động. Hy vọng trước mắt! Chỉ cần Ansbach vạch trần chuyện thuốc có vấn đề cho Oregon biết, kết cục sẽ thay…

Trong đầu mèo đen chợt lóe lên một hình ảnh khiến nó sững người ngay tại chỗ!

Nó mải mê suy nghĩ nên chưa phát hiện một người khoác áo choàng xám đậm đã xuất hiện phía sau lưng nó.

Ansbach khom người bồng nó lên. Có lẽ vừa gặp lại Oregon, hoặc có lẽ lại được ôm mèo đen trong lòng, tâm trạng bây giờ của anh không đến nỗi nào, khóe miệng còn hơi nhoẻn lên, giọng nói cũng rất dịu dàng: “Về rồi à.”

Mèo đen hoàn hồn, vội túm lấy áo anh và lúc lắc cái đuôi đòi nói chuyện.

Ansbach biết ý, vừa đi tìm tường trắng cho nó vừa kể lại chuyện gặp Oregon ban nãy.

Zofie bám theo gắt gao khiến Ansbach nổi giận đùng đùng, hai người bắt đầu đánh nhau. Đánh được một lúc thì Oregon xuất hiện, chẳng nói tiếng nào đã bổ tới giúp đánh Zofie, cuối cùng Zofie bỏ chạy.

Ansbach không dám làm lộ thân phận, Ansbach của năm 1980 vừa bị Oregon phản bội, Oregon đang đề cao cảnh giác với Ansbach, vậy nên anh chỉ đành lấy phận là người chung gia tộc để tiếp cận y, mượn cơ hội ám chỉ ả thầy pháp ở núi Vụ Linh không đáng tin cậy, rất có khả năng thông đồng với Gordon.

Oregon nửa tin nửa ngờ. Từ góc độ của y, Joseph Miller là người mới quen, còn Dustin Malkavian lại là một trong mười ba trưởng lão, có quan hệ huyết thống với Ansbach, nếu so ra y tin Dustin hơn một chút. Nhưng y cũng không bày tỏ sự ngờ vực của mình.

Ansbach thấy y không tin thì lợi dụng lúc Orgeon không chú ý để đổi bình thuốc. Trước khi chia tay, anh còn cố ý để lại tin tức mình đang điều tra Nghịch Cửu Hội, bảo rằng mình biết Ansbach không phải đồng bọn của Gordon, hơn nữa còn biết quan hệ giữa hai người đang rất căng thẳng.

Những lời này Oregon thích nghe, y vui vẻ cảm ơn anh đã tiết lộ thông tin.

Nghe xong, mèo đen chỉ biết câm nín.

Ansbach lúc đầu chẳng hiểu ra sao, nhưng đọc xong những gì mèo đen viết trên tường trắng thì cũng câm nín theo.

Thứ nhất, chiếc bình Ansbach tráo đổi không phải là bình thuốc ả thầy pháp giao cho nó, mà là bình rượu nếp nó định mang về châu Âu.

Thứ nhì, sau khi nghe tin Ansbach và Gordon không cùng một bọn, đúng là Oregon rất vui, nhưng chẳng bao lâu sau nó lại nhìn thấy anh của năm đó và Gordon đang ngồi với nhau.

Ansbach cả kinh: “Em nhìn thấy à?” Gordon chỉ xuất hiện chóng vánh, anh cứ tưởng không bị phát hiện.

Thảo nào lúc nhìn thấy mình của năm đó, Oregon trợn tròn hai mắt, trong mắt tràn ngập ngạc nhiên, thất vọng và giận dữ, anh cứ tưởng những cảm xúc đó là dành cho anh, nào ngờ là dành cho Gordon?

Mèo đen nhớ tới phong ấn trên người mình thì hừ lạnh một tiếng, sau đó vùi trong lòng anh nằm im như chết.

Mọi chuyện đã đến nước này, niềm tin có thể thay đổi quá khứ của nó dao động rồi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 04 Jun 2020

Chương 12: Lựa chọn

Lựa chọn cuối cùng là gì.

Mèo đen và Ansbach bắt đầu nảy sinh bất đồng ý kiến.

Ansbach một mực muốn thay đổi kết cục của anh và Oregon, còn mèo đen lại muốn tập trung vào cọc gỗ. Thay vì sa vào vũng lầy quá khứ, chi bằng nắm tay nhau cùng hướng tới tương lai.

Hai bên chẳng ai thuyết phục được ai, Ansbach nhét mèo vào lòng, mèo ta chỉ có thể vẫy đuôi meo meo kháng nghị.

Mèo đen giận dữ trừng anh nhưng cũng thừa biết một tên Malkavian khi đã đâm đầu vào ngõ cụt thì khó lòng ra được, nó chẳng biết phải làm thế nào.

Ansbach ôm nó đứng trên lề đường hứng gió một lúc để bản thân bình tĩnh lại, “Tôi nhìn thấy y.”

Y nào nữa?

Mèo đen vẫn chưa nguôi giận.

“Ansbach Malkavian.” Ansbach đưa ra quyết định.

Mèo đen có phần xúc động.

Nếu bản thân của tương lai chạy tới gặp mình bảo rằng Gordon sẽ thế này, mình sẽ thế kia, có ai lại tin cho được?

Thôi thì xem như có lòng.

Nhưng nếu mình của tương lai dám nói sau này Oregon và Ansbach sẽ không có kết cục tốt đẹp, nhất định sẽ trở mặt thành thù…


Chắc nó sẽ đánh chết tươi “mình” kia luôn!



Sao mình của quá khứ và mình của tương lai đều đáng ghét thế nhỉ?!

Vẫn là mình của hiện tại tốt nhất.

Mèo đen vừa tự luyến vừa tự ghét bản thân.

Thấy mèo đen không động đậy cả buổi trời, Ansbach tưởng nó bị mình thuyết phục rồi chứ không ngờ nó đang rơi vào ảo tưởng của chính nó.

Nếu đã có quyết định, Ansbach lập tức xuất phát.

Thật ra anh còn một suy nghĩ khác, đó là thuyết phục mình của quá khứ để bắt tay nhau đánh bại Gordon. Nếu vậy thì cọc gỗ cũng sẽ tới tay.

Nhưng cơ hội thành công quá mỏng manh nên anh không nói cho mèo đen nghe.

Ansbach của năm 1980 gần như hoàn toàn điên cuồng, giả sử có gặp anh cũng không nắm chắc sẽ khuyên được, ôi, ai bảo hiện giờ anh đang trong giai đoạn hồi phục, không thể nào giải thích nổi suy nghĩ của mình khi xưa!

Nhưng nói gì thì nói, nhiệm vụ trước mắt vẫn là tìm thấy “mình” đã.

Bởi vì Gordon cũng sắp tìm thấy “mình” rồi.

Ansbach của năm 1980 đã mấy lần cảm nhận được mùi của Oregon xuất hiện quanh mình, nhưng lần nào cũng nhạt nhòa và bị gió thổi tan đi khiến anh không tìm thấy người đâu, thứ cảm giác cả người cứ sục sôi nhưng không thể trút ra làm anh mỗi lúc một táo bạo.

Nếu còn gặp lại một lần nữa, anh sẽ không thèm để ý đến hiệp ước giữa giáo hội và huyết tộc nữa mà chỉ làm theo ý mình.

Có lẽ Thần không muốn nhìn thấy nhân gian gặp phải nạn kiếp, đúng vào lúc sự kiên nhẫn của Ansbach cạn kiệt, hơi thở của Oregon lại xuất hiện, tuy mỏng manh nhưng không đến nỗi mơ hồ khó lòng nắm bắt như những lần trước.

Ansbach đuổi theo vào trong hẻm. Vài bà lão đang ngồi trên ghế vá quần áo và tán gẫu bất thình lình nhìn thấy có người Tây xuất hiện, tất cả hoảng đến không nói thành lời, đang định thu dọn chạy vào nhà thì người Tây nọ bỗng chốc chẳng còn tăm hơi.


“Á!”

“Quỷ!”



Không biết về sau người Tây thường bị gọi là quỷ Tây có phải công lao của anh hay không.

Ansbach không biết thuật dịch chuyển tức thời của mình đã hù dọa bà con chòm xóm sống trong khu đó, đương nhiên dù có biết anh cũng chẳng buồn để ý. Anh đuổi đến cuối hẻm thì không gặp được người muốn gặp, nhưng lại nhìn thấy người không muốn nhìn thấy.

“Lâu quá không gặp.” Gordon ngả mũ chào hỏi.

Ansbach cau mày, “Là ông?”

Gordon lấy ra một hủ khói, “Grangrel…”

Lời còn chưa dứt Ansbach đã bổ tới, Gordon biến thành một làn khói và biến mất, đợi anh bước xuyên qua làn khói, hắn mới xuất hiện ngay sau lưng anh. “Như thường lệ, cậu chẳng biết kiên nhẫn là gì cả.”

Ansbach trở tay ra ngay một đấm.

Gordon trúng đòn lảo đảo bưng mũi lùi lại hai bước, cúi đầu thấy có máu trong tay nhưng chẳng giận mà còn cười bảo: “Thoải mái hơn chưa?”

“Trừ phi đi dự tang lễ của ông.” Ansbach lạnh lùng đáp.

Gordon hỏi: “Không giải quyết được chuyện của người yêu thì đi trút giận lên người kẻ khác?”

Ansbach từ từ xoay lại, hơi lạnh toát ra trên người như muốn biến thành hàng ngàn vạn mũi tên bắn vào Gordon.

Gordon nói: “Giao dịch đi nào, ta có cách để y ngoan ngoãn nghe lời.”

Khóe miệng Ansbach nhoẻn lên, lòng Gordon lập tức chùng xuống.

Quả nhiên anh chỉ bảo: “Cút.”

Ansbach bước ra khỏi con hẻm, đứng trên đường chính nhìn người qua kẻ lại và lộ ra nụ cười khát máu. Nếu Oregon không chịu xuất hiện vậy thì nghĩ cách đi tìm y thôi.


Không đủ người đi tìm thì biến hết những người trên đường này thành tay sai của mình.

Anh hé răng ra, nhưng chưa kịp hành động thì trước mặt đã bị chắn bởi chiếc mũ của Gordon.

Gordon nói: “Ta biết Oregon đang ở đâu.”

Môi Ansbach từ từ khép lại, anh ngẩng đầu lên nhìn hắn.

Gordon nói: “Ta muốn ăn bánh bao, cậu mời ta nhé?”

Ansbach quay đầu đi thẳng vào một quán ăn.

Gordon mỉm cười theo sau, gọi hai bàn bánh bao to tướng cùng với một vài món mặn, “Bánh bao ngon thật.”

Ansbach hỏi: “Giao dịch thế nào?” Anh không tin đối phương sẽ có lòng tốt cho anh biết nơi ở của Oregon.

“Đơn giản lắm, thay ta làm một chuyện.” Gordon nói: “Dò la tin tức giữa huyết tộc và giáo hội, thỉnh thoảng gây ra chút phiền phức cho chúng, giống như chuyện cậu hay làm ấy, với cậu mà nói vô cùng dễ dàng.”

Ansbach không đồng ý cũng chẳng từ chối, “Y đang ở đâu?”

Gordon đáp: “Tìm được y không khó, khó là khó ở chỗ níu kéo trái tim của y.”

Ansbach cau mày.

“Cậu không biết sao?” Gordon vờ như ngạc nhiên lắm nhưng lại nói bằng giọng cười trên nỗi đau của người khác, “Y có người yêu mới rồi.”

“Rầm.”

Chiếc bàn trong quán ăn bất thình lình đổ ập xuống.

Khách khứa đang ăn giữa chừng đều ngây người, sau đó quýnh quáng bỏ chạy, tiểu nhị và chưởng quỹ cũng hô hoán, vừa la lối vì chuyện lạ vừa réo gọi những vị khách chạy mất không chịu trả tiền.

Chung quanh nháo nhào cả lên, chỉ còn Ansbach và Gordon bình tĩnh ngồi yên chỗ cũ.

Gordon nhặt chiếc bánh bao rơi trên mặt đất lên thổi nhẹ rồi cắn một phát, “Là một người mặc áo choàng màu xám đậm…” Hắn chợt ngưng bặt, hình như vừa nhìn thấy người mình nhắc đến.


Ansbach cảm thấy có gì kỳ lạ nên cũng quay đầu lại…

Tiểu nhị và chưởng quỹ đang mải giữ khách, cảnh tượng nhốn nháo khó tả, có một đám người vây xem chuyện vui, người đi đường có kẻ dừng chân hóng hớt, có kẻ bỏ ngoài tai chẳng thèm để ý.

“Ông đang nhìn cái gì?” Ansbach hỏi.

Gordon mỉm cười, “Ta có một loại phong ấn khóa được trái tim của Oregon để y chỉ thuộc về một mình cậu.”

Trông bản mặt còn đen hơn cả lông mình của Ansbach năm 2015, mèo đen khẽ nhấc móng lên vỗ nhè nhẹ vào mặt anh.

Ansbach kéo nón lên che khuất cả gương mặt.

Mèo đen rúc đầu vào nón liếm láp môi anh.

Ansbach hỏi nó: “Thật sự không thay đổi được ư?” Ngay lúc vừa rồi khi đang định đến gần mình của quá khứ, anh cảm nhận được một lực bài xích mạnh mẽ đánh văng anh đi, sau đó có cố thế nào anh cũng không đến gần được nữa.

Nếu như trước đây vẫn còn dám khịt mũi dè bĩu hai chữ “vận mệnh” thì giờ đây phải đối mặt với sự thật khiến anh không thể không cúi đầu.

Mèo đen rất muốn há mỏ cười to chế giễu anh lúc xưa không tin tưởng nó, nhưng nó lại không nỡ, cuối cùng vẫn tiếp tục an ủi anh. Nó dùng chân vỗ ngực anh lấy lệ, sau đó ghé vào ngáp dài chuẩn bị đánh một giấc.

Bởi là chuyện của một trăm hai mươi năm về trước nên Ansbach không quen lắm với đường xá Trung Quốc, cuối cùng tìm cả ngày mới đến được nơi cần đến.

Nó nằm ngủ chưa được bao lâu thì Ansbach đã đứng dậy.

Mèo đen bị rớt xuống đất: “…”

Ansbach nói: “Phải tìm thấy Gordon để lấy lại cọc gỗ.”

Mèo đen: “…” Hai chữ “lấy lại” hình như không đúng cho lắm.

Ansbach cúi đầu nhìn nó, “Có vấn đề gì ư?”

Mèo đen lập tức ưỡn ngực đứng thẳng!


Không vấn đề gì, đúng là phải “lấy lại” cọc gỗ!

Ansbach năm 2015 mang mèo đen ra khỏi con hẻm, vừa đúng lúc bắt gặp Oregon đang đi từ đầu kia tới, chỉ cần liếc mắt một cái là nhìn thấy Ansbach năm 1980 ngồi trong quán ăn cùng với Gordon.

Thì ra hồi đó đúng là bị bắt gặp thật, thảo nào Oregon lại giận như vậy.

Nếu đã không thể thay đổi những chuyện đã xảy ra thì phải cố gắng nắm bắt những chuyện chưa xảy ra!

Anh cúi đầu áp môi hôn lên lưng mèo đen.

Mèo đen dùng đuôi quất vào mũi anh.

Ansbach xùy cười, vừa ngẩng lên là nhìn thấy Gordon rời đi theo hướng ban nãy Oregon đến, anh bèn lập tức đuổi theo.

Dường như biết có người bám theo, Gordon chỉ toàn chọn những nơi đông người để đi.

Gordon trong bộ quần áo lịch lãm kiểu quý tộc Anh cùng với Ansbach trong áo choàng xám đậm vô cùng nổi bật, đi đến đâu cũng thu hút bao người chú ý, Ansbach đuổi theo được một lúc, thấy đối phương không vội lắm thì cũng đi chậm lại.

Mèo đen trượt xuống khỏi người anh, một mình đuổi theo Gordon.

Ansbach rủa thầm một tiếng, đẩy đám người trên đường ra túm chú mèo vừa chạy được bảy, tám mét về.

Mèo đen “meo” lên một tiếng, Ansbach cảm thấy có gì bất thường nên xông lên trước cản đường vị quý tộc Anh.

Không phải Gordon.

Trời cao trong xanh.

Đất bằng thăm thẳm.

Giữa nền trời xanh lam và nền đất xanh lá có hai bóng người đang chuyển động cực nhanh.

Đã chiến đấu được gần tám tiếng đồng hồ, hai bên ban đầu còn nhẹ nhàng với nhau, nhưng càng đánh càng thẳng tay không chút nương tình.


Bàn tay Ansbach siết cổ Oregon, răng nanh anh ghim chặt vào vai y, máu tươi chảy xuống thành dòng thấm ướt cả nửa cánh tay anh.

Oregon ngẩng đầu lên, cổ họng chợt phát ra tiếng gầm giận dữ của loài thú hoang hung hãn. Y đẩy mạnh Ansbach đang bám chặt lấy mình ra, cả người dần dần nhạt đi, trước mặt y từ từ hiện lên một con báo đen.

Khả năng hóa thú của gia tộc Gangrel! Cũng là trạng thái chiến đấu tối cao của Gangrel!

Không ngờ y lại sử dụng khả năng hóa thú để đối phó với mình.

Đôi mắt Ansbach đã chuyển màu đỏ rực! Phong ấn đặt trong lòng bàn tay bất thình lình bay ra, đánh trúng vào ngay trên người Oregon đang trong quá trình hóa thú.

Oregon thét lên một tiếng thảm thiết, thân hình biến trở lại thành người rồi ngã ngửa ra đất. Báo đen đang biến hình vì mất đi sức mạnh nên dần thu nhỏ lại, cuối cùng hóa thành một chú mèo đen.

Ansbach giờ đây hoàn toàn điên cuồng, anh nhấc Oregon lên rồi dùng răng cắn mạnh vào cổ y, tham lam hút lấy hút để dòng máu tươi ngon như muốn nuốt chửng cả thể xác ấy.

Ở đằng xa, người mặc áo choàng xám giơ tay che mắt mèo đen và nói thật khẽ:

“Đừng nhìn. Van em đấy.”

Mèo đen đã quá quen với cách đối xử chiều chuộng tận trời của Ansbach, trong chốc lát phải nhớ lại bộ mặt hung tàn của anh năm xưa khiến nó lúc về cứ ủ rũ, rúc miết trong lòng anh chả buồn động đậy.

Ansbach vừa chột dạ vừa lo lắng, vòng tay ôm mèo vô thức siết lại.

Mèo đen há miệng cắn cho anh một cái.

Ngón tay Ansbach khẽ nhúc nhích nhưng lại thôi, nhẹ giọng bảo: “Cắn từ từ, coi chừng đau răng.”

Mèo đen: “…” Tự dưng không nỡ cắn nữa.

Thấy nó không cắn nữa, Ansbach lôi mông nó đặt lên vai, hơi nghiêng đầu để lộ cổ và nói: “Hay là cắn ở đây đi?”

Mèo đen im lặng nhìn anh.

Ansbach nói: “Giải khát ấy mà.”

“…” Mèo đen dè dặt liếm mấy cái.

Mắt Ansbach hơi đỏ lên.

Mèo đen giật thót. Đừng nói hồi nãy là lạt mềm buộc chặt, cố ý thử nó nha? Nhưng nó cũng đâu có cắn câu, sao lại không vui thế kia.


Ansbach nghiêng đầu nhìn nó.

Mèo đen chớp mắt, lộ ra ánh nhìn hết sức đáng yêu và vô tội, sau đó kêu lên một tiếng đầy vẻ nịnh nọt.

Ansbach nâng mặt nó lên hạ xuống một nụ hôn chan chứa tình cảm.

Mèo đen: “…” Hú hồn, cứ tưởng bên kia cắn cổ còn bên này cắn mặt chứ.

“Tiếp đến tụi mình đi đâu đây?” Ansbach cố gắng khống chế cảm xúc mang mèo đen lên đường.

Mèo đen dùng đuôi quất nhẹ vào gáy anh ba lần.

Ansbach mỉm cười: “Em suy nghĩ cũng giống tôi.”

Núi Vụ Linh, vẫn là núi Vụ Linh.

Sau mấy ngày mưa rả rích, cả ngọn núi sáng sủa hẳn ra, phong cảnh không còn bị màn sương mù dày đặc bao phủ nữa. Ánh nắng chiếu lên đường núi khiến những bước chân dường như cũng ấm áp hẳn lên.

Ansbach không biết cảm giác ấm áp ấy đến từ đâu, từ dưới chân, hay bên cạnh, hay là trong lòng. Một lần nữa ôn lại chuyện cũ, những thước phim khiến anh lo bóng sợ gió luôn cũng thấy thấp thỏm chẳng biết từ lúc nào đã bị phá hỏng, hai người càng trở nên gần gũi với nhau hơn bao giờ hết.

Mèo đen cũng thấy trong lòng nhẹ nhõm. Oán hận đã bị thời gian hơn một trăm năm mài mòn chẳng còn bao nhiêu, sự dịu dàng của Ansbach đã xóa nhòa vẻ mặt của anh mỗi khi phát cuồng, nếu khi xưa tình yêu của nó sinh ra từ bất đắc dĩ, không biết nên làm thế nào, thì hiện tại, tình yêu của nó lại là do kìm lòng không đậu, khó bề khống chế.

Người và mèo vui vẻ trở về bên ngoài nhà gỗ.

Ả thầy pháp đang ngẩn người bên song cửa sổ, nghe thấy có tiếng động liền quay đầu nhìn, sau đó…

Hai người một mèo đều ngẩn ra.

Ả thầy pháp nghĩ: Mèo tinh quả nhiên dẫn đồng bọn tới rồi! Lẽ nào muốn báo thù?

Ansbach và mèo đen lại nghĩ: Không ngờ trong tay ả vẫn còn một cây cọc gỗ!

Ả thầy pháp có ngốc đến đâu cũng vẫn nhận ra có hai ánh mắt cháy bỏng đang dán vào cọc gỗ, ả theo bản năng toan giấu nó đi nhưng nào ngờ Ansbach đã xông tới chụp lấy cọc.


“Không!!!” Thầy pháp gào lên thảm thiết. Ả đã phải sống ở nơi hoang vu như núi Vụ Linh mà còn ba ngày bị hai bận cướp, kẻ cướp lại chẳng phải con người!

Ansbach vô cảm nhấc chân lên đá.

Thầy pháp giận dữ túm lấy đuôi mèo.

Đây chẳng khác nào chạm tới giới hạn của Ansbach. Anh càng giận hơn ả, hung hãn nhe răng ra, cả gian nhà gỗ phút chốc sụp đổ tan nát!



Ả thầy pháp bị xà ngang rơi xuống đè bẹp dí dưới đất, chỉ chừa mỗi cái đầu.

Mèo đen chễm chệ ngồi trên vai Ansbach, trong tay anh là cọc gỗ, anh ung dung bước đến trước mặt thầy pháp và nhìn xuống ả bằng ánh mắt khinh bỉ. Yếu ớt như vậy mà dám thông đồng với Gordon hãm hại anh ư, đúng là tự tìm đường chết.

Thầy pháp nhìn mũi giày của anh, bất chợt phun ra hai ngụm máu tươi, không biết vì tức hay vì bị đè.

Ansbach hỏi: “Cọc gỗ lấy ở nơi nào?”

Thầy pháp nhìn anh đầy vẻ vô tội.

Ansbach nhướng mày.

Thầy pháp trả lời bằng tiếng Trung: “Có thể lôi cây xà ra hộ ta được không.” Ả còn giơ tay ra hiệu cho dễ hiểu.

Ansbach cúi xuống nâng xà lên từ từ.

Thầy pháp đang định bò ra thì chợt thấy lưng bị đè thêm lần nữa, xà ngang lại nặng nề giáng xuống, lần này Ansbach còn giẫm lên xà đạp thêm vài cú. Ả đau muốn xỉu.

Ansbach ngồi xổm xuống.

Thầy pháp cẩn thận đánh giá anh. Lại là một tên quái thai.

Ansbach và mèo đen tìm một căn nhà hoang trên núi Vụ Linh để nghiên cứu cọc gỗ. Theo bút ký của John White, cọc gỗ đáng lẽ phải được chôn ở những vị trí đặc biệt trên đất liền, gần như đinh gỗ đóng xuống để tránh cho các mảng châu lục bị tách khỏi nhau. Nhưng với tình hình đất liền bị chia năm xẻ bảy như hiện tại thì rõ ràng không phải chỉ có một cọc gỗ bị nhổ lên.


Vấn đề bây giờ là làm sau khi nhổ lên, làm sao để sử dụng cọc gỗ?

Ansbach nghĩ đủ mọi cách, còn dùng cả máu để thử nhưng cũng vô dụng. Trước đó trông dáng vẻ ngây ngô của thầy pháp khi nhìn cọc gỗ thì có lẽ ả cũng không biết cách sử dụng. Người duy nhất có khả năng biết chỉ còn mỗi Gordon.

Thời hạn ba tháng chỉ còn lạ chưa đầy một tháng, Ansbach cuối cùng cũng bắt đầu sốt ruột.

“Tìm Gordon.”

Mèo đen cảm thấy hy vọng quá đỗi mong manh. Trong ký ức của nó và Ansbach, từ sau lần Gordon lấy danh nghĩa giao dịch để trao phong ấn cho Ansbach, hắn ta gần như bốc hơi khỏi thế gian, mãi đến sau này mới xuất hiện trong căn nhà nhỏ ở Địa Trung Hải. Rất có thể hiện giờ hắn đang trốn ở nơi nào nó bí mật nghiên cứu, không dễ dàng để kẻ khác phát hiện.

Khi hai người rơi vào cảnh khốn khó, vận mệnh lại mang đến một tia hy mọng.

Ả thầy pháp đi qua đi lại trước cửa nhà hoang ba lần, cuối cùng cũng đánh bạo tiến vào.

Mèo đen ngạc nhiên nhìn ả. Không ngờ khả năng hồi phục của ả mạnh vậy, người bình thường bị thương gân cốt phải mấy tháng mới lành, mà còn sẽ khôn ra tránh đi nguy hiểm, trong khoảng thời gian ngắn tuyệt đối sẽ không dâng mặt cho kẻ khác đánh tiếp, nào ngờ gan ả lại lớn đến thế.

Thật ra nào phải. Từ giây phút rời khỏi nhà, ả đã chuẩn bị sẵn tinh thần, sợ thì sợ thật nhưng không nỡ bỏ cọc gỗ nên đành cố lấy can đảm. Để thể hiện thành ý, trước hết ả lấy ra một giỏ điểm tâm, khách sáo nói: “Của ít lòng nhiều.”

Mèo đen liếc qua rồi hất bay. Hình ảnh ả chế thuốc đã để lại ấn tượng quá sâu sắc cho nó, mấy thứ thức ăn của ả đụng vào nó còn chả muốn nữa là.

Lần này ả thầy pháp dám chắc nó là yêu tinh, mèo thật làm gì đáng ghét như thế!

Ánh mắt ả vừa lóe lên ác ý thì Ansbach cũng nảy sinh sát ý, thế rồi ả lập tức xìu xuống. Ả cố nhịn xuống và lấy một xấp giấy ra.

Ansbach nhận lấy.

Trên tờ thứ nhất là một mặt cười toe toét.

Ansbach thẳng tay vo lại rồi ném đi.

Thầy pháp: “…”


Trên tờ thứ hai vẽ hình mặt trời, bên dưới là nơi đào hố.

Ansbach lật sang tờ thứ ba, trong cái hố xuất hiện một cọc gỗ.

Bắt đầu thú vị đây.

Ansbach giở đến tờ thứ tư, là cảnh ả thầy pháp mang cọc gỗ về nhà.

Trên tờ cuối cùng, ả vẽ hình hai người một mèo đứng cạnh miệng hố.

Ansbach nhướng mày: “Cô muốn dẫn bọn ta đến nơi phát hiện cọc gỗ?”

Không cần biết anh đang nói gì, ả vẫn cứ gật đầu.

Ansbach lại chẳng cần biết thái độ của ả là gì, anh hỏi tiếp: “Cô muốn gì?”

Cứ ông nói gà bà nói vịt mãi cũng chán, cuối cùng họ quay về kinh thành, tìm được một giáo sĩ truyền đạo đến từ châu Âu. Có người phiên dịch, rốt cuộc hai bên cũng hiểu được ý nhau.

Yêu cầu của thầy pháp rất đơn giản, ả muốn biết rốt cuộc cọc gỗ là thứ gì, có giá trị thế nào.

Thấy Ansbach cười lạnh, thầy pháp chỉ tay lên trời thề thốt: “Tôi tuyệt đối không nhòm ngó món đồ của các vị.” Hừ, cọc gỗ ban đầu vốn của bà nhé! “Nếu vi phạm lời thề, tôi tình nguyện chịu hình phạt sét đánh!”

Giáo sĩ phiên dịch: “Thần chứng kiến tất thảy mọi việc trên thế gian, tuyệt đối không khoan hồng cho lũ cướp.”

“…”

Ansbach lạnh lùng trừng mắt thầy pháp.

Ả thầy pháp ngơ ngẩn.

Sau đó giáo sĩ lại truyền đạt thêm cả buổi mới khiến Ansbach bắt đầu tin thầy pháp không cố ý giễu cợt anh – Dù có cũng không nói ra miệng, vấn đề là ở phần phiên dịch của giáo sĩ.

Bất luận thế nào, vì để có thể quay về tương lai, Ansbach miễn cưỡng đồng ý với thỉnh cầu của ả bằng thái độ bố thí.

Thầy pháp dẫn họ đến Vạn Lý Trường Thành, giáo sĩ bất đắc dĩ cũng bị mang theo – Trước khi ngủ rõ ràng mình còn nằm trên giường mà, tự dưng vừa tỉnh là tới Trường Thành rồi?!


Về việc này Ansbach và thầy pháp lại có chung quan điểm. Cả hai đều bảo do gã nửa đêm mộng du đến Trường Thành.

Giáo sĩ: “…” Lúc mộng du gã còn biết bay sao?

Nhưng dù thế nào thì giáo sĩ cũng chỉ biết chấp nhận số phận, cố gắng sắm trọn vai phiên dịch.

Suốt dọc đường đi, thầy pháp luôn mồm giới thiệu về Trường Thành, giọng điệu đầy niềm tự hào dân tộc.

Nét đẹp của Trường Thành không phải chỉ ở nét khí thế bàng bạc, mà còn bởi nó được xây quá hài hòa với phong cảnh tươi đẹp, đúng là minh chứng cho sự hợp tác hoàn hảo của con người và thiên nhiên.

Tuy không ừ hử gì nhưng trong lòng Ansbach cũng thầm thán phục vẻ đẹp của nó, tiếc rằng hiện tại có quá nhiều kỳ đà đứng đây, khó tránh cụt hứng hẳn đi, sau này nhất định phải cùng Oregon đến thăm lần nữa.

Anh cảm thán: “Đúng là nên phát triển đời sau ở Trung Quốc.”

Giáo sĩ tưởng anh đang muốn thu hút nhiều con chiên hơn nên phụ họa rất tích cực: “Chúng ta phải để ánh hào quang của Thần chiếu rọi đến khắp các ngõ ngách trên thế gian.”

Ansbach: “…” Giáo hội quả nhiên thích làm trái ý người khác.

Mục đích của thầy pháp là vùng Trường Thành ở Xương Bình.

Vừa vào đến Xương Bình, cọc gỗ bắt đầu không chịu nằm yêu, lúc ban đầu thì run lên không ngừng, sau đó bắt đầu đổi màu, càng lúc càng trắng, khi còn cách điểm đến chừng mấy chục mét, nó đột nhiên sáng bừng lên và hóa thành một luồng sáng bay mất.

Ansbach và thầy pháp vội vàng đuổi theo.

Trông hai người mới chớp mắt đã chẳng còn tăm hơi, giáo sĩ bị bỏ lại chỉ còn biết: “…”

Quả nhiên mộng du chỉ là một lời nói dối.

Cọc gỗ bay đến bên trên của một cái hố trông như giếng nước, không ngừng xoay vòng vòng, hào quang tỏa ra càng lúc càng sáng gần như khiến người ta không mở nổi mắt.

Ansbach đến gần cọc gỗ, đang định vươn tay bắt lấy thì nghe thấy một giọng nói dịu dàng: “Cuối cùng các người đã đến.”


Ansbach lùi lại hai bước đầy vẻ cảnh giác.

Cọc gỗ dần dần hóa thành một bóng người, chính là hình dáng của thiên sứ anh từng nhìn thấy trên bờ biển Địa Trung Hải.

“Người đó đang nói gì vậy?” Thầy pháp nhìn trái ngó phải, phát hiện giáo sĩ đã bị bỏ lại giữa đường thì không khỏi rủa khẽ một tiếng.

“Xin hãy tạm tránh mặt.” Thiên sứ nói với ả.

Ả ngơ ngác nhìn Ansbach, “Y đang nói cái…” Mà thôi, dù Ansbach có hiểu nhưng cũng đâu thể nào nói cho ả biết. Ả đang cân nhắc xem có nên quay lại đưa giáo sĩ qua không. Dù sao…

Đây là lần đầu tiên ả được nhìn thấy thiên sứ!

Thì ra sứ giả với đôi cánh to chuyên đi truyền đạt lời dạy của Thần là thật, mà còn xinh đẹp nhường ấy…

Ả vốn lúc nào cũng thấy mặt mũi người Tây quá sức kỳ cục, nhưng lại không thể không thừa nhận vẻ đẹp của thiên sứ này đã xóa nhòa sự khác biệt giữa hai quan điểm thẩm mỹ Đông Tây.

Tâm trạng của ả vô cùng kích động, nhìn chằm chằm vào thiên sứ không hề chớp mắt, nhưng trong đầu lại âm thầm tính kế đoạt lại cộc gỗ. Đúng là ả từng thề không lấy đồ của người khác, nhưng cộc gỗ nào phải của người khác mà vốn thuộc về ả, giành về là chuyện đương nhiên. Đáng tiếc kế hoạch của ả còn chưa thành hình thì cảnh vật trước mắt thoáng cái đã đổi thành Trường Thành.

Thầy pháp: “…” Chưa ngắm đã mắt mà!

Giáo sĩ hứng gió lạnh cả nửa ngày trời đến mức gần như tuyệt vọng, bất thình lình nhìn thấy thầy pháp xuất hiện thì xúc động nhào qua, nói tiếng Trung rõ từng chữ: “Cô quay lại rồi.”


Thầy pháp ngẩn ra nhưng lập tức nở nụ cười: “Phải đó, cố ý về đón ông.” Dứt lời, ả không thèm đợi giáo sĩ bày tỏ ý kiến đã túm lấy gã kẹp dưới nách vác đi.

Giáo sĩ chúi đầu xuống đất: “…” Giày của gã hình như đang bén lửa.

Sau khi ả thầy pháp bị đưa đi chỉ còn lại Ansbach, mèo đen và thiên sứ.

Thiên sứ nói: “Ta vẫn luôn chờ hai người.”

Câu này chẳng khác nào bảo “Cuối cùng hai người cũng đến.”, và trong trường hợp thầy pháp được mời đi thì đối tượng nhằm vào đã rõ vô cùng.

Ansbach hỏi: “Ngươi chính là đường về của bọn ta?”

Một câu không đầu không đuôi nhưng thiên sứ lại hiểu ý của anh, “Đúng.”

Ansbach hỏi: “Ngươi nghe theo mệnh lệnh của ai?” Gordon của năm 2015? Gordon của năm 1980? Hoặc là lão ta cũng xuyên không và cả hai đã vạch sẵn kế hoạch, nên là mệnh lệnh của hai Gordon?

Thiên sứ đáp: “Ta.”

Ansbach lại hỏi: “Vậy ngươi là ai?”

Nghe câu hỏi ấy xong, thiên sứ chỉ nhìn anh bằng ánh mắt mơ hồ.

Ansbach quan sát y.

Đôi mắt xanh thẳm gần như trong suốt, những cảm xúc ẩn sâu bên trong chẳng khác nào quyển sách đã mở sẳn để ai cũng có thể đọc và thấu hiểu. Trông y có vẻ như đang ngẫm nghĩ câu trả lời, “Ta không biết. Ta không có ký ức lúc xưa. Khi ta tỉnh lại đã ở sẵn đây để đợi hai vị.”

Ansbach hỏi: “Là ai đã đánh thức ngươi?”

Thiên sứ đáp: “Ta.”

Ngủ rồi mà còn có thể tự đánh thức mình, có đúng là không phải tâm thần phân liệt không vậy?

Mèo đen vẫy đuôi vỗ nhẹ vào gáy Ansbach.

Bị sự bình tĩnh của nó ảnh hưởng, Ansbach thôi không gặn hỏi tới cùng nữa. Nếu đã là cộc gỗ do Thần để lại thì dù nó có phải là cánh của Metatron không cũng sẽ rất đặc biệt. Biết đâu tự do qua lại giữa các không gian cũng là một trong các đặc điểm đó?


Ansbach hỏi: “Thử thách gì?”

Thiên sứ đáp: “Hai người phải tách ra…”

Lời y còn chưa dứt, Ansbach đã nhe nanh như muốn tấn công.

Thiên sứ nói tiếp: “Tách ra để trả lời câu hỏi, trả lời đúng mới được quay về. Trả lời sai sẽ phải ở lại.”

Trong lòng Ansbach giật thót, đang định “tham khảo đáp án” với mèo đen thì nó đã bị đưa đến sau lưng thiên sứ. Thiên sứ hóa ra một phiên bản nữa, một đối diện với mèo đen, một đối diện với Ansbach.

“Câu hỏi là, nếu tối đa chỉ có một người được phép quay về, ngươi sẽ lựa chọn thế nào?”

“A. Để Ansbach Malkavian quay về.”

“B. Để Oregon Gangrel quay về.”

“C. Cùng ở lại.”

Mèo đen và Ansbach cùng ngẩn ra.

Đây là thử thách?

Hay là bẫy?

Nỗi lo của họ không phải không có lý. Thiên sứ yêu cầu họ phải trả lời đúng, nhưng loại câu hỏi này làm sao có đáp án tiêu chuẩn được?

Trừ phi là kiểm tra mức độ ăn ý, xem xem hai người bọn họ có đưa ra cùng một đáp án hay không?

Hoặc có lẽ đang kiểm tra tinh thần hy sinh, xem họ có bằng lòng hy sinh cho đối phương hay không?

Nhưng biết đâu lại là một cái bẫy, để khi họ chọn bất cứ một đáp án nào xong sẽ lập tức biến nó thành hiện thực.

Ansbach nghiêng đầu, muốn liếc ra sau lưng thiên sứ để xem mèo đen có ra hiệu gì không, nhưng giữa người và mèo như bị hào quang chắn mất, mèo đen trông chỉ như một quả cầu lông tròn quay đen sì, đừng nói mắt mũi, cả tứ chi cũng khó lòng nhận rõ.

Thiên sứ thấy cả hai mãi không trả lời thì cất giọng nhắc nhở: “Mời đưa ra đáp án.”


Ansbach hỏi: “Không có gợi ý sao?”

Thiên sứ đáp: “Không có.”

Ansbach cười lạnh bảo: “Không công bằng! Bất cứ đề thi nào cũng sẽ công bố tiêu chuẩn chấm điểm, bằng không bọn ta làm sao biết được ngươi có ăn gian hay không?”

Thiên sứ đáp: “Ngươi sẽ không biết.”

Ansbach: “…”

Thiên sứ nói: “Còn ba phút.”

Ansbach nhìn chằm chằm vào mắt thiên sứ, cân nhắc xem nếu đánh trực diện có khả năng thắng y hay không. Nhưng dù có thắng cũng không bắt y làm theo lời mình được, dù sao y cũng chỉ là… một cây cộc gỗ.

“Hai phút ba mươi giây.”



Dù không hài lòng nhưng Ansbach đành phải nắm bắt thời gian để suy nghĩ cho kỹ.

Đương nhiên trong ba lựa chọn ấy, anh sẽ không ngần ngại chọn C. Thay vì để mình hoặc mèo đen quay về, anh thà cả hai cùng ở lại, ít nhất còn được ở bên cạnh nhau.

Nhưng nếu như mèo đen không quay về, Oregon của năm 2015 sẽ tan thành mây khói, chuyện này anh không thể nào chấp nhận nổi.

Nếu đã thế, đáp án không cần phải cân nhắc nữa.

“Ta chọn B.”

Anh bình tĩnh nói ra đáp án.

Lớp màn ánh sáng đột nhiên biến mất, mèo đen ba chân bốn cẳng chạy qua nhảy phóc vào lòng anh. Ansbach siết lấy nó thật chặt, cứ như sợ rằng chỉ khẽ buông ra nó sẽ biến mất ngay lập tức.

Mèo đen liếm mặt anh lấy lòng, đuôi cong lên thành hình chữ C.

Mặt Ansbach cứng đờ lại: “Cái gì?”

Thấy anh biến sắc, ánh mắt nó đổi ngay từ thông điệp “xin hãy biểu dương” thành “xin được vuốt ve”.


Ansbach nhìn nó, ánh mắt của anh sắc bén như muốn xuyên qua đôi mắt của nó, chèn ép trái tim của nó.

Mèo đen tủi thân. Muốn ở cùng anh cũng không được hả? Cái tên quỷ hút máu già nua này càng ngày càng khó chiều!

Ansbach cảm nhận được nỗi buồn của nó thì thả lỏng đôi chút, thấp giọng nói: “Tôi biết.”

Hừ, muộn rồi.

Mèn đen lên cơn chảnh chọe, quay đầu sang chỗ khác không thèm nhìn anh.

“Chúc mừng hai người, đáp án chính xác.” Thiên sứ bình thản nói.

Giọng của y hệt như âm thanh tự nhiên của đất trời.

Ansbach và mèo đen vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ.

Ansbach dằn lòng không được bèn hỏi: “Đáp án chính xác là gì?”

Thiên sứ nói: “Ngươi lựa chọn để y ra đi.”

Ansbach ngẩn ra, nhưng lập tức nhìn thấu ý đồ của Gordon. Theo cách nhìn của lão ta, để mình ở lại còn đối phương quay về là khả năng nhỏ nhất. Đúng vậy, nếu đổi lại là Ansbach của năm 1980, anh sẽ lựa chọn như thế.

Nhưng hiện tại vì để người yêu được thoải mái một chút, anh tình nguyện chờ đợi, nhượng bộ, nhẫn nại. Buông tay là chuyện không thể nào. Vốn anh đã dự định sẽ chờ qua một trăm hai mươi năm dài đăng đẵng rồi núp sẵn gần nhà gỗ để cứu Oregon ra.

Đương nhiên kết quả này càng tốt đẹp hơn.

Anh thì vui mừng hớn hở, còn mèo đen lại rầu rĩ khôn nguôi. Mất công hồi nãy nó xoắn xuýt cả buổi, hóa ra câu trả lời của nó chẳng có tí sức ảnh hưởng nào.

…Đầu năm nay còn thịnh hành cả “thi ké” nữa cơ đấy.

Thiên sứ nói: “Ta đưa hai người quay về.”

Ansbach ôm mèo, đang định yêu cầu địa điểm thì trước mắt chợt lóe lên, thiên sứ đã không còn tăm hơi.

Thầy pháp dẫn giáo sĩ vội vã đuổi đến.


Không còn mèo đen.

Không còn Ansbach.

Cộc gỗ cũng không.

Giao sĩ thấy thầy pháp chạy vòng vòng quanh hố như sắp phát điên thì trắng bệch cả mặt, siết chặt thánh giá và cầu nguyện: “Thần ơi! Xin hãy cứu vớt cho con người khốn khổ kia.”

Thấy giáo sĩ rảnh rỗi đứng nhìn, thầy pháp tức anh ách, lập tức kéo gã gia nhập đội ngũ chạy vòng vòng quanh hố.

Giáo sĩ vừa chạy vừa chảy nước mắt ròng ròng, thầm nhủ: “Thần ơi! Xin hãy cứu vớt con với!”

Cảnh sắc trước mắt Ansbach và mèo đen nhoáng lên rồi biến thành bờ biển Địa Trung Hải.

Sao sáng giăng đầy trên màn trời cao thẳm, mặt biển sóng sánh ánh bạc, ngôi nhà gỗ trên bờ biển giờ đã biến thành tòa biệt thự lớn. Đèn trong biệt thự sáng rực, hai người vừa xuất hiện đã bị phát hiện.

Zofie xông ra trước tiên, mặt tràn đầy vẻ ngạc nhiên: “Hai người thật sự có thể quay về?”

Ansbach cũng ngẩn ra, trông Zofie có vẻ thảm, trên cánh vết thương chi chít, lông thì lưa thưa. Nhưng chẳng có gì liên quan đến anh, anh hỏi thẳng hắn: “Oregon đâu?”

Zofie nhướng mày toan đáp thì Gordon đã chạy ra. Lão cả kinh nhìn Ansbach, đột nhiên phá ra cười to, cười đến suýt tắt thở, qua một lúc mới bình tĩnh lại được, lấy ra một cây cộc gỗ – Chính là cây mèo đen và Ansbach từng thấy trong tay thầy pháp.

Cộc gỗ hóa thành thiên sứ: “Hai người về rồi.”

Khóe miệng Gordon vẫn mang nụ cười nhưng mắt lại long sòng sọc, “Ngươi từng nói họ sẽ không thể quay về!”

Thiên sứ nói: “Là ngươi nói.”

Gordon nghẹn họng một lúc rồi nói: “Ngươi đã lén dùng thủ đoạn gì?!”

Thiên sứ đáp: “Không có.”

Gordon nói: “Không thể nào! Ansbach không thể nào vượt qua được thử thách đó.”

Thiên sứ im lặng.


Gordon trừng mắt Ansbach, đột nhiên lại cười: “Được thôi. Chúc mừng cậu đã thông qua thử thách.”

Ansbach hỏi Zofie: “Ngươi có chắc ngươi muốn đi theo một thằng bệnh thần kinh bất cứ lúc nào cũng có thể lên cơn và nhổ lông người ta?”

Zofie đáp: “Ông ấy thích ăn canh dơi hơn.”

Gordon chỉ vào Ansbach và mèo đen: “Bắt chúng lại!”

Đối tượng lão ra lệnh đương nhiên là thiên sứ.

Thiên sứ chớp mắt, thời gian quanh Ansbach và mèo đen chợt ngừng lại. Không biết vì sao, y cảm thấy sức mạnh của mình càng lúc càng dồi dào, hình như sắp tới thời điểm đột phá nào đó.

Gordon không phát hiện sự thay đổi trên nét mặt thiên sứ, lão đắc ý nói: “Quá tuyệt vời. Khi đã khống chế được thời gian, ta sẽ có thể khống chế cả thế giới, làm chúa tể của quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây còn chẳng phải là khả năng của Thần sao?”

Lão nghiêng đầu nhìn Zofie trong bộ dáng thảm hại, mắt tối lại nhưng rồi chợt phá ra cười: “Yên tâm đi Zofie. Những tổn thương quân đoàn đọa thiên sứ gây ra cho ngươi, hôm khác ta sẽ bắt chúng đền bù gấp bội.”

Khoảng thời gian này quân đoàn thiên sứ truy đuổi sát sao, có vài lần đã sắp bắt được họ. Để bảo vệ cho đại bản doanh khó khăn lắm mới tìm được của họ, Zofie không thể không chạy ra đánh lạc hướng các đọa thiên sứ.

“Nhưng bây giờ chúng ta phải giải quyết chúng trước.” Gordon đi đến trước mặt Ansbach, đau đớn vào phẫn nộ tràn ngập trên mặt lão khó lòng che giấu, “Cậu vượt qua thử thách tức là đã vứt bỏ bản tính của con người – Ích kỷ. Vậy cậu còn lại những gì đây? Đôi cánh dơi lạnh giá sao? Cậu khiến ta quá thất vọng. Nếu để cậu phải sống phàm tục và tầm thường như vậy, thôi thì hãy để một Ansbach Malkavian điên cuồng tiếp tục sống trong truyền thuyết.”

Gordon rút dao găm ra đâm thẳng vào cổ Ansbach không chút nương tay…
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 04 Jun 2020

Chương 13: Nhờ vả

Mọi chuyện vẫn chưa đến hồi kết.

Mép dao mỏng như mép giấy, dường như chỉ cần quét nhẹ một nhát là sẽ rạch ra một vết thương lớn. Tim Gordon đập dồn dập, hình ảnh máu tươi bắn ra từ cổ Ansbach khiến lão thấy cả người hưng phấn.

Một bàn tay khác bất thình lình giữ lấy bàn tay đang run lên của lão.

Gordon cả kinh, Ansbach cúi đầu nhìn con dao đang gần trong gang tấc, sau đó ngẩng lên, lật cổ tay một cái ném lão ra xa, “Tay ông run dữ quá, ta không muốn trên cổ mình xuất hiện vết thương hình răng cưa đâu.”

Gordon ngã xuống trước mặt thiên sứ, lão phẫn nộ đứng dậy, vung vẩy dao găm chỉ vào thiên sứ, “Ngươi đã làm gì hắn?”

Thiên sứ bình thản đáp: “Ngươi không nên làm thế.”

Gordon giật mình hỏi lại: “Ngươi nói cái gì?”

Thiên sứ nói: “Đó là sai.”

Tay cầm dao găm của Gordon run càng dữ dội hơn, một lúc sau lão mới nói: “Là ta đã thức tỉnh ngươi, ta là chủ nhân của ngươi, ngươi phải nghe theo mệnh lệnh của ta!”

Thiên sứ đứng im, ánh mắt mơ màng nhìn về phía các vì sao xa xôi, “Đó là sai.”

Gordon thấp giọng chửi rủa, lấy từ trong lòng ra một bình nước thuốc, xông đến trước mặt thiên sứ và vẩy lên đầu y. Thiên sứ chỉ là ảo ảnh, nước thuốc xuyên qua làn tóc của y, rơi lên cộc gỗ mờ ảo thoắt ẩn thoắt hiện.


Hào quang trên cộc gỗ sáng lên rồi lại tối dần.

Ansbach xông qua đá bay Gordon, đang định chuyển hướng sang cộc gỗ thì đã bị thiên sứ “cầm chân”.

Gordon thấy những cảm xúc mơ hồ trong mắt thiên sứ biến mất, thay vào đó là vẻ tĩnh lặng thì hớn hở gọi to: “Giết chết hắn!”

Ansbach lắc người một cái biến thành dơi, nhưng còn chưa bay được bao xa đã bị cố định giữa không trung.

Gordon cười điên cuồng: “Ha ha ha ha! Cuối cùng vẫn là ta thắng!”

Mèo đen cố gắng ngồi im để không ai chú ý đến mình, chân khẽ nhích từng bước nhỏ lân la tiếp cận biệt thự. Một bóng đen đột nhiên phủ xuống đầu nó, nó ngưỡng mặt lên nhìn thì thấy gương mặt tươi cười của Zofie.

Zofie túm gáy nó xách lên: “Nghe nói thịt mèo có vị chua, dùng để trộn salad là hết xảy.”

“…” Mèo đen rũ bốn chân xuống giả chết.

Gordon bảo hắn ném xuống biển: “Chúng ta có thể để Ansbach chính mắt nhìn thấy nó bị nước biển nhấn chìm từng chút một, từ đầu đến chân, giống như công chúa ngủ trong rừng. Ôi, hắn yêu nó như vậy, nhất định sẽ có thể dùng một nụ hôn để đánh thức nó nhỉ.”

Zofie thì thầm: “Bị thấm nước biển chắc mùi vị sẽ không còn ngon nữa.” Hắn xách mèo ra biển rồi buông tay ra, mèo đen rơi xuống nhưng lập tức nhảy lên bờ, nhưng chưa chạy được bao xa đã bị hắn túm đuôi bắt lại. Bất luận nó có cố gắng ưỡn ngực hay ngẩng đầu bao cao, nước biển vẫn luôn giữ mức không ngập quá đỉnh đầu.

Gordon sung sướng đi đến bên cạnh dơi, “Nhìn thấy chưa?”

Dơi không hề động đậy.

Gordon không vui bèn nói với thiên sứ: “Thả hắn ra.”

Dơi bay vọt đi. Lúc nhìn thấy Zofie và mèo đen, nó gầm lên một tiếng rồi hóa thành người, nhưng ngay lập tức lại bị cố định.

“Ta là Thần.”

“Ta là Thần!”


Gordon giơ tay lên trời hô to rồi cười không ngừng. Lão lảo đảo ngã vật xuống đất nhưng cũng chả buồn để ý.

Con người có tuổi thọ ngắn nhất trong chín giới thì đã sao! Lão đã dùng cách của mình để đạt được sự trường sinh.

Trời sinh không đủ sức mạnh thì đã sao? Lão đã khống chế được “người phát ngôn của Thần” đấy thôi!

Đây chỉ là bước đầu tiên.

Tiếp theo sau lão sẽ thu hút tín đồ để truyền dạy vu thuật hắc ám, để toàn bộ loài người được tận hưởng cảm giác trường sinh! Để loài người đứng trên tất cả, để thiên đường và địa ngục chỉ biết trơ mắt mà nhìn!

Lão nửa quỳ nửa ngồi trên đất, bưng mặt áp sát vào cát và đắm chìm trong mộng tưởng của mình. Một lát sau lão mỉm cười ngẩng mặt lên, đang định mở lời thì bị tình hình trước mắt giáng cho một đấm tỉnh mộng.

Ansbach ôm mèo đen lạnh lùng nhìn lão.

Cách đó không xa, Zofie đứng im như một pho tượng, vẫn giữ nguyên tư thế nắm đuôi mèo.

Gordon ngây ngẩn nhìn hắn rồi lại nhìn Ansbach và mèo đang hưng phấn, thật lâu sau vẫn chưa hoàn hồn.

Mộng đẹp chưa dứt mà ác mộng đã ập tới.

Vừa mới xảy ra chuyện gì?

Tại sao chỉ trong vài giây ngắn ngủi mà tất cả đều như điên đảo?

Điên đảo?

Làm được chuyện này chỉ có…

Lão đứng phắt dậy, giận dữ gào lên với thiên sứ: “Ngươi lại đang bày…” Giọng lão nghẹn lại như bị ai đó bóp cổ.

Thiên sứ dịu dàng nhìn lão cứ như đang nhìn đứa con bướng bỉnh nhà mình. Trong đôi mắt vốn chỉ có mơ màng và tĩnh lặng ấy lần đầu tiên xuất hiện hào quang kinh người, rõ ràng chỉ mang màu xanh nhưng lại xán lạn bắt mắt tựa như cầu vồng.


Khóe môi y như đang nhoẻn lên lại như không phải, tạo nên cảm giác hiền hòa thân thiết khiến người khác chỉ muốn nhào vào lòng y, đón nhận tình yêu của y, song lại vì ánh hào quang quá mức thánh khiết khó lòng với tới của y mà đành chùn bước.

Gordon lùi lại mấy bước, khóe miệng giật khẽ, căng thẳng đến không nói nên lời, muốn co giò bỏ chạy nhưng chân chợt nặng như đeo chì, khó bề động đậy.

Giằng co như vậy trong mười mấy giây, cuối cùng thiên sứ cũng mở miệng nói: “Chào ông, Gordon.”

Giọng nói của y cứ như vang lên ngay từ trong đầu, trong linh hồn của lão.

Gordon đột nhiên bỏ chạy theo hướng ngược lại. Tốc độ của lão cực nhanh, mới chớp mắt đã chạy được mười mấy mét. Ansach đang định đuổi theo thì phát hiện lão đang chạy ngược lại. Gordon rõ ràng vẫn chưa nhận ra, mãi đến khi nhìn thấy Ansbach xuất hiện trước mắt, lão mới biến sắc, dừng bước đứng ngây tại chỗ.

Thiên sứ đứng trong ánh hào quang, nụ cười vẫn không mảy may thay đổi: “Ta là Metatron. Ta đang tìm ông.”

Bờ biển tĩnh lặng.

Không biết là do quá mức chấn động hay đều thừ ra cả rồi.

Ansbach từng gặp Lilith, từng gặp Baal, từng gặp Mammon, nhưng chưa bao giờ anh có cảm giác như hiện tại – Không tự chủ được mà sinh ra cảm giác sùng bái từ tận đáy lòng, song lại thẹn mình ô uế không dám tiếp cận người đó.

Gordon đột nhiên lấy lại bình tĩnh, ôm đầu ngồi thụp xuống một lúc. Trước khi Ansbach mất hết kiên nhẫn, lão đứng bật dậy, như biến thành một người khác, mỉm cười vô cùng phong độ và nói: “Ngày này cuối cùng cũng tới.”

Metatron lẳng lặng nhìn lão.

Hơn trăm năm trước y đã có cảm giác mơ hồ về vị trí đôi cánh bị chôn ở nhân giới làm trụ cột, nhưng lúc bấy giờ y đang chìm sâu trong hoang mang và mờ mịt, cố gắng đấu tranh với dục vọng của bản thân nên không mấy để tâm. Đến gần đây y chợt cảm nhận rõ ràng phần kia của mình bắt đầu có ý thức. Để tránh sức mạnh ấy bị người khác lợi dụng, y chỉ đành vùi mình ngủ say để dùng tinh thần liên hệ với những đôi cánh ấy, tìm đến vị trí từng cộc gỗ một.

Việc này khiến tinh thần y vô cùng mệt mỏi, nhất là khi sức mạnh của y không còn như xưa. Vì vậy mãi đến hôm nay, khi phân thân sinh ra dao động cảm xúc mãnh liệt mới thu hút được sự chú ý và giúp y tìm tới được đây.


Y không hề trách Gordon, vì dưới lớp áo quần bảnh bao kia, y nhìn thấy một linh hồn hắc ám méo mó vì đố kỵ.

Đối với linh hồn như vậy, trách cứ cũng chẳng có ý nghĩa gì.

“Thật ra ta đã sớm biết sẽ có ngày hôm nay.” Đến nước này Gordon mới chịu triệt để buông tay, “Có thể sai khiến ‘người phát ngôn của Thần’ làm việc cho mình, cả đời này của ta đã quá đáng giá!”

Metatron bình tĩnh hỏi: “Có thể giao danh sách tín đồ của ông cho ta không?” Thân là chủ chi nhánh lớn nhất của Nghịch Cửu Hội ở nhân giới, Gordon nắm được không ít tin tức.

Gordon ngẩn ra, không ngờ y lại hỏi thẳng như vậy, lão xùy cười đáp: “Ngươi cho rằng ta sẽ giao cho ngươi sao?”

Metatron cười hỏi: “Tại sao lại không?”

Gordon lại ngây người, bởi vì khi Metatron cười lên, trong lòng lão bỗng dưng nảy ra ý định làm theo lời y, kể hết tất cả với y. Lão vội lắc đầu để tránh ánh mắt của y, “Dù ngươi có nói thế nào, ta cũng không…”

Lời còn chưa dứt, lão đã bị đánh bay lên bãi cát, lún xuống thành một cái hố hình người.



Ansbach hả giận vô cùng, anh khoanh tay nói: “Không phải ta.”

Mèo đen cũng hả giận không kém, nó giơ vuốt tỏ vẻ vô tội.

Metatron nói: “…Cũng không phải ta.”

Zofie vẫn đứng ngây như phỗng.

“Là ta.” Sau lưng Zofie từ từ xuất hiện một người. Áo sơ mi đen, vest hồng với một người đàn ông quả là quá màu mè và ngả ngớn, nhưng khi sánh cùng với dung mạo của hắn thì lại đẹp mắt đến lạ.

Ansbach giới thiệu với mèo đen: “Mammon.”

Mammon mỉm cười giẫm lên người Gordon để đến bên Metatron, dịu dàng cầm lấy tay y và hôn nhẹ rồi thấp giọng hỏi: “Ngươi còn bao nhiêu đôi cánh lưu lạc bên ngoài?”

Metatron chớp mắt đáp: “Không còn bao nhiêu.”


Tức là còn.

Mammon rủa thầm một tiếng.

Ansbach chợt hỏi: “Phong ấn trên người Oregon có phải có liên quan đến ngài không?”

Nghe trong giọng anh có ý trách cứ, Mammon cau mày, hai mắt lóe lên.

Metatron bước lên chắn đi ánh mắt của Mammon, khẽ cúi đầu nói: “Xin lỗi.”

Mammon thò đầu qua vai y, lặng lẽ trừng Ansbach bằng ánh mắt u ám ra chiều cảnh cáo.

Ansbach vờ như không thấy, tiếp tục trò chuyện với Metatron: “Vậy nhất định ngài phải có cách xử lý.”

“Đương nhiên.” Metatron nhoáng cái biến mất rồi lại xuất hiện, lần này trong lòng y đã có thêm một người.



Mammon và Ansbach cùng ra tay giành lấy.

Mammon nghĩ: Dám để Metatron ôm!

Ansbach thì nghĩ: Dám ôm Oregon!

Metatron rụt tay lại, Oregon nhẹ nhàng rơi vào vòng tay của Ansbach.

Mèo đen ngồi trên vai Ansbach, thấy thế thì sướng rơn: Không ngờ mình có giá quá.

Metatron nói: “Ta sẽ giải bỏ phong ấn cho y.”

Ansbach hỏi: “Phong ấn này là do ngài hạ?”

Metatron đáp: “Có thể nói thế.”

Mặt Ansbach sầm xuống.

Mammon nhướng mày, “Ngươi có thể đưa ra yêu cầu bồi thường.”

Ansbach ngước lên nhìn mèo đen, mèo ta gật đầu cái rụp. Muốn muốn muốn chứ! Muốn gần chết! Metatron của thiên đường, Mammon của địa ngục muốn bồi thường thì mắc gì không nhận, có lý do gì mà không nhận chứ!


Metatron nhắm mắt lại, đặt một ngón tay lên người Oregon. Một luồng sáng màu trắng tinh khôi tuôn ra từ đầu ngón tay y và hòa tan vào người Oregon. Thân thể của Oregon run nhẹ, mèo đen đột nhiên “meo” lên một tiếng và nhảy khỏi vai Ansbach, bốn chân từ từ dài ra, đôi mắt ngây thơ mơ màng bỗng chốc trở nên sắc bén vô cùng.

Đến khi thân thể Oregon hoàn toàn biến mất, mèo đen đã hoàn toàn hóa thành báo đen, nó ngẩng đầu gầm lên một tiếng vang trời như muốn bày tỏ sự vui mừng và kích động khi hai thân thể được hợp lại với nhau!

Nghĩ đến việc y phải biến thành mèo hơn trăm năm, ngay cả Mammon cũng trở nên vô cùng kiên nhẫn không cắt ngang niềm vui của y. Đừng nói gì tới Ansbach, anh gần như dùng hết sức lực toàn thân siết chặt nắm tay, cố dằn dục vọng muốn xông tới ôm y vào lòng.

Báo đen xông xuống biển nghịch nước thỏa thuê, đến khi ướt sũng mới chịu quay về, nhưng vừa biến thành người thì hai mắt chợt tối sầm, một chiếc áo choàng xám đậm đã phủ lên đầu y, che kín từ đầu xuống chân chẳng lộ cả ngón.

Oregon câm nín nhìn mình bị biến thành nhộng, khó chịu vùng vẫy mấy cái, “Hơi nóng.”

Ansbach thổi vào lỗ tai y.

Oregon: “…”

Mammon hắng giọng cắt ngang màn ve vãn không coi ai ra gì của hai người, “Ngươi có thể đưa ra yêu cầu rồi đó.”

Tròng mắt Oregon đảo tròn: “Để tôi nghĩ xem.”

Mammon nói: “Nếu hai người đã muốn sống ở nhân giới, ta có thể tặng cho hai người một mỏ vàng ở đó.”

Metatron nói: “Chuyện này do ta mà ra, theo lý nên để ta bồi thường.”

Mammon nhướng mày tỏ vẻ không hài lòng: “Ngươi đang khách sáo với ta ư?”

Metatron im lặng một chốc rồi mới trả lời: “Tiền bạc ta có đều là do ngươi tặng.”

Mammon phất tay đáp: “Đó là tiền tiêu vặt của ngươi.”

Metatron: “…”

Mắt Oregon sáng lên, y đã nghĩ ra được một ý hay, “Tôi muốn được chụp ảnh chung với bảy đại thiên sứ của thiên đường và bảy đại ma vương của địa ngục.”


Mammon, Metatron: “…”

Mammon hỏi: “Mỏ kim cương được không? Hai mỏ nhé.”

Oregon nói: “Tôi không thiếu tiền mà.” Dù là mỏ vàng hay mỏ kim cương cũng đâu có xài được.

Ansbach lại chém thêm một đao: “Đúng đấy, hơn trăm năm nay y chỉ ăn cá và thức ăn của mèo.”

Mammon: “…”

Metatron nói: “Được rồi.”

“…” Mammon nhìn y bằng ánh mắt đầy dấu chấm hỏi, ý rằng ngươi nghiêm túc đấy à? Để bảy đại thiên sứ và bảy đại ma vương họp mặt… Nghĩ thế nào cũng cảm giác sẽ gây ra một trận thánh chiến khác.

Metatron mỉm cười nói: “Lâu lắm rồi chúng ta không họp mặt.”

Mammon nói: “Tin ta đi, thay vì họp mặt, mọi người thích hẹn hò hơn.”

Metatron hỏi: “Nếu không họp mặt thì làm sao có cơ hội hẹn hò?”

Mammon ngẩn ra, nghĩ tới những chàng FA đáng thương trong số đó thì phì cười đắc ý: “Cũng có lý. Có lẽ chúng ta nên mời thêm nhiều người nữa, làm ở Con Thuyền Noah cho thật náo nhiệt.” Ha ha ha, nhất định phải nắm bắt cơ hội để show ân ái!

Metatron cười nói: “Thạch Phi Hiệp chắc sẽ vui lắm.”

Mammon nói: “Ta có thể lấy thân phận người tổ chức bàn chuyện hợp tác với hắn.” Trong vài giây ngắn ngủi, trong đầu hắn đã phác thảo rõ nét đủ loại kế hoạch.

Xương Bình, Trường Thành.

Đêm khuya, trăng sáng.

Dưới ánh trăng, một bóng người băng qua rừng cây rồi dừng bước trước một cái hố. Trên tay người đó là một cây cộc gỗ, cộc gỗ dần dần hóa thành một thiên sứ xinh đẹp vô ngần.

“Chính là nơi này.”

“Ta không nghĩ chôn ngươi ở đây là ý kiến sáng suốt chút nào.” Người đàn ông điển trai đang cầm cộc gỗ, trên mặt lộ rõ vẻ không hài lòng.


Thiên sứ không nói gì mà chỉ im lặng nhìn người đàn ông.

“Được rồi.”

Người đàn ông thua cuộc, từ từ ghim cộc gỗ xuống hố.

Cộc gỗ hoàn toàn ghim hẳn xuống đất, thiên sứ nở nụ cười dịu dàng với người đàn ông và biến mất trong đêm đen.

Người đàn ông lẳng lặng đứng nhìn một chốc rồi xoay lưng bỏ đi.

Trước khi trời sáng, chính là bóng đêm.

Một bóng người bất thình lình xuất hiện bên cạnh hố, không ngờ chính là người đàn ông ban nãy quay lại. Trên tay người đó là tấm vải đen không biết làm từ chất liệu gì, người đó phất vải lên miệng hố. Không bao lâu sau, cộc gỗ từ từ trồi lên và bị vải đen bọc lấy.

Người đàn ông quấn nó lại và ôm vào lòng, sau đó biến mất.

Dù đó không phải là hình thức bồi thường trong tưởng tượng của Ansbach nhưng Oregon vui là được rồi.

Gordon thì sao, Zofie thì thế nào, còn cả Nghịch Cửu Hội nữa, tất cả đã chẳng còn nằm trong đầu óc của anh, dù sao có Mammon lo liệu, bọn chúng khó lòng mà sống yên ổn. Hiện tại anh phải nắm bắt từng giây từng phút để nhấm nháp niềm vui giành lại thứ từng mất đi. Tiễn Mammon và Metatron đi xong, Ansbach ôm lấy Oregon cùng nhau biến mất trên bờ biển.

Biệt thự bị Gordon sửa sang, ai biết trong đó có lắp mấy thứ kỳ quái gì không. Thứ hiện tại anh cần là thế giới của hai người, là an tĩnh, an toàn, an tâm.

Anh tìm một khách sạn rồi đặt phòng, sau đó ném Oregon lên giường, bắt đầu chuỗi ngày tháng ngọt ngào như mật bất chấp đêm ngày. Một trăm hai mươi năm là con số đáng sợ, anh nhất định phải bù lại cho bằng hết.

Oregon ban đầu còn phối hợp nhiệt tình, về sau bắt đầu vắt óc tìm cách bỏ trốn.

Sau vài lần bị tóm, mà trừng phạt cứ mỗi lần lại nặng thêm, cuối cùng y chỉ còn đành nằm trên giường lảm nhảm xin tha chẳng rõ đang nói gì.

Ansbach vừa yêu vừa xót, hôn lên mỗi tấc da thịt của y, “Chúng mình hãy trải qua một trăm năm thế này có được không?”

“Không.” Oregon lười đến chả buồn nhấc tay.

“Sao lại không?” Ansbach không nổi giận mà chỉ gặm mãi cổ y không nhả.


Oregon híp mắt trả lời: “Anh không nhớ Macewen à?”



Dám nhớ tới Macewen khi còn nằm trên giường của mình?

Răng Ansbach cắn mạnh hơn để lại dấu hằn, sau đó lại dùng lưỡi liếm nhẹ, cười đáp: “Ngày mai xử lý y.”

“…” Oregon chuyển sang chủ đề an toàn hơn: “Còn Gordon thì sao?”

Ansbach cau mày đáp: “Xuống địa ngục.”

“…Được rồi. Còn Zofie? Vốn hắn từ địa ngục chui lên mà?”

“Nghe nói địa ngục có Thác Máu.”

Oregon tưởng tượng cảnh đó thì toát cả mồ hôi lạnh, thở dài nói: “Vốn họ cần gì phải thế.”

Tiếng thở dài của y khiến lửa giận và cơn điên cuồng trong Ansbach lại trỗi dậy, nhưng anh cố gắng kìm chế, ôm Oregon và cọ nhẹ vào người y, “Từ nay về sau, em lúc nào cũng phải ở bên cạnh tôi.”

Oregon quay đầu nhìn anh.

Ansbach mỉm cười với y, “Thế thì tôi sẽ ngoan ngoãn.”

Oregon bắt bẻ: “Không ngoan thì thế nào?”

Ansbach hôn lên vai y, qua loa đáp: “Em không muốn biết đâu.”

Nhớ lại hình ảnh Ansbach điên cuồng cắn vào cổ mình, Oregon chợt nổi da gà, thân thể vô thức co lại. Tuy là do y bất cẩn đưa nhầm thuốc cho anh nhưng hình ảnh đó đánh vào tâm lý khá nặng nề.

“Lạnh?” Chân Ansbach len vào giữa hai chân y, ôm y càng chặt hơn, “Như vầy thế nào?”

“Hoàn hảo.” Oregon trở người nằm đối diện với anh, “Dustin tính sao đây?”

Khả năng rất cao Dustin Malkavian là đồng bọn của Gordon. Khác với Gordon, ông ta là huyết tộc, còn là một trong những huyết tộc đời thứ ba, về công về tư, về tình về lý đều phải do huyết tộc giải quyết nội bộ. Đây cũng là lý do Ansbach và Oregon không vạch trần ông ta trước mặt Mammon và Metatron.


Nhưng thông đạo kết nối huyết tộc và nhân giới đã đóng lại rồi.

Oregon hỏi: “Chuyện thông đạo bị đóng có khi nào liên quan đến ông ấy không nhỉ?”

Cánh cửa vào giới huyết tộc khép lại đột ngột thế này chứng tỏ đã xảy ra chuyện. Nếu Gordon làm mưa làm gió ở nhân giới thì có khả năng Dustin cũng đang làm mưa làm gió ở giới huyết tộc.

Ansbach hôn y rồi lại hôn y, khóe môi nhếch lên đầy vẻ tàn nhẫn, “Các trưởng lão sẽ giải quyết.” Anh có thể tha thứ chuyện người yêu bất đắc dĩ ra quyết định phong ấn mình, nhưng không thể nào tha thứ cho mười ba trưởng lão đã xuống tay thực hiện phong ấn, bất kể có là nguyên nhân gì đi nữa.

Oregon đương nhiên nhận ra. Y liếm môi rồi nói: “Thật ra…”

Ansbach dùng miệng chặn không cho y nói tiếp. Dù sao cũng là lời anh không muốn nghe.

Sinh hoạt trong khách sạn gần cả tháng, Ansbach cuối cùng cũng hạ lệnh tha bổng.

Lúc Oregon bước chân ra khỏi khách sạn, ngửi thấy hương vị của đường phố, y kích động cảm thán: “Ôi! Đây chính là hương vị của tự do!”

Ansbach siết lấy eo y, “Em cần tự do gì hả?”

“…Tự do yêu đương!” Oregon nhanh chóng xoay lại, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên môi của anh, “Với anh đấy.”

Khóe miệng Ansbach nhoẻn lên, cánh tay vòng qua eo y càng thêm siết lại.

Oregon hỏi: “Vậy giờ đi ăn cơm được chưa?”

“Ừ.”

Từ sau khi mèo đen biến lại thành người, tư thế chụp ảnh của Oregon được nâng lên một tầm cao mới, gần như mỗi tấm ảnh đều truyền đạt một câu chuyện độc lập.

Ví dụ như:

Oregon nằm bẹp dưới đất ôm chặt mắt cá chân của Ansbach, ngẩng đầu lên lộ ra vẻ mặt đau thương: “Hajima~! Honey~! Đừng rời bỏ em!!!”

Ansbach: “…”

Hoặc ví dụ như:


Ấn Ansbach lên ghế dài trong công viên, sau đó túm cổ áo anh và nói thật hung hăng: “Nói, thích Gordon hay thích tôi!”

Ansbach: “…”

Hoặc ví dụ như:

Oregon nâng mặt Ansbach và nói bằng giọng đượm buồn: “Cưng ơi, cha nói chúng ta không thể ở bên nhau! Anh nghèo quá, không xứng với em…”

Ansbach ôm y chạy mất.



“Máy ảnh, đừng để quên máy ảnh!”

Đi hết Ai Cập, họ lại ghé thăm Libya, Tunis… Rồi quay về Ý.

Macewen nhận được tin nên đã đợi sẵn ở sân bay. Lúc nhìn thấy Oregon, trên mặt gã không thể hiện bất cứ ngạc nhiên hay giật mình gì cả, vẻ mặt thản nhiên vẫn như một quản gia chuyên nghiệp. Gã gật đầu chào Oregon rồi đón Ansbach: “Hoan nghênh quay về, tiên sinh Gangrel.”

Oregon ngẩn ra, đang định trả lời nhưng sực nhớ ra, nghiêng đầu nhìn Ansbach. Anh đang vòng tay qua eo y, vẻ mặt đắc ý vô cùng, chẳng có dấu vết gì của sự xấu hổ hay ngại ngùng vì trộm dùng thân phận của người yêu. Anh thản nhiên nói: “Từ nay về sau cậu có thể gọi tôi là tiên sinh Ansbach Malkavian, gọi y là tiên sinh Oregon Gangrel.”



Đúng thật trên người Oregon có mùi của Gangrel đời thứ tư. Ông chủ gạt mình bao nhiêu năm giờ chắc cuối cùng cũng chịu nói thật.

Nhưng mà sự thật này hơi bị giật mình.

Tuy Macewen đã nhanh chóng giấu đi nét ngạc nhiên như Oregon vẫn kịp bắt gặp.

Macewen trả lời với vẻ mặt vô cảm: “Dạ vâng, thưa tiên sinh.”

Oregon mỉm cười phá vỡ bầu không khí sượng ngắt: “Tôi đặc biệt nhớ món soup hành tây chiên giòn, chân vịt chiên bơ và bánh crepe kiều mạch của cậu, không biết có được vinh dự thưởng thức lần nữa hay không?”

Dù y dùng từ “nhớ” và “lần nữa” khá đột ngột nhưng Macewen vẫn giữ vẻ tỉnh rụi, bình tĩnh đáp: “Niềm vinh hạnh của tôi.”


Nhìn chàng quản gia lòng rối như tơ vò nhưng vẫn cố tỏ vẻ nghiêm trang, Oregon kìm không được bật cười thành tiếng.

“Cười cái gì?” Ansbach cúi đầu hỏi y.

Oregon đáp: “Macewen…” Còn chưa nói xong đã nhìn thấy mày Ansbach chau tít lại, lời sắp buột ra khỏi miệng chợt đổi sang hướng khác ngay: “Đúng là kỳ đà thiệt to.”

Ansbach nhìn Macewen rồi gật đầu: “Tôi cũng thấy thế.”

Vì vậy, quản gia bị bỏ rơi lại sân bay, còn ông chủ vô lương tâm lái xe mang người yêu bất đắc dĩ của mình rời đi.

Macewen: “…”

Vừa phát hiện mình từng sống chung với gã điên lừng danh của Malkavian hơn trăm năm, gã đúng là cần chút thời gian để lấy lại bình tĩnh.

Tuy Ansbach có vẻ như hiền hơn nhiều hơn trong xương tủy của anh vẫn chảy dòng máu chiếm hữu điên cuồng cực đoan. Sau khi bị bám dính cứng suốt hai tháng, Oregon cuối cùng cũng đuối, quyết định nói gì đó để chuyển đi sự chú ý của anh.

“Chúng ta nên sớm đến chào hỏi ngài Tiểu Minh Vương để nhắc nhở cậu ấy chuyện Dustin Malkavian thông đồng với Gordon.”

Ansbach vuốt ve cái cổ trắng ngần của y, lơ đễnh đáp: “Baal sẽ không vui đâu.”

Oregon nói: “Đây là chuyện nội bộ của huyết tộc.”

Ansbach đáp: “Đúng, vậy nên ngài ấy sẽ không để Tiểu Minh Vương bận tâm.”

“Thân là một huyết tộc đời thứ hai…”

“Cậu ấy chỉ là bù nhìn.” Lúc vị huyết tộc đời thứ hai này mới đến châu Âu, phần lớn huyết tộc cấp cao đều từng chú ý quan sát cậu, cuối cùng khẳng định sự hiện diện của cậu có cũng như không. Nếu chẳng phải lần này Lilith ra mặt và mang đến cảm giác tồn tại cho cậu, chắc có lẽ tất cả huyết tộc sống ở nhân giới đều quên bẵng mất người này. “Nếu em thật sự quan tâm chuyện này thì có thể kể với Lawrence Ventrue.”

Oregon nói: “Cậu ta chỉ là đời thứ năm.”

Ansbach nói: “Nhưng cậu ta là người của Ventrue, là nhân tuyển thích hợp nhất.”


Oregon bị anh thuyết phục.

“Tôi đã giải tỏa mối lo của em, có phải em cũng nên báo đáp bằng cách giải tỏa giúp tôi không.” Ansbach dán vào lưng, vẫn trong trạng thái nhiệt tình hơn bao giờ hết.

Oregon cố gắng giãy dụa, “Tôi cảm thấy tâm sự của mình vẫn còn cơ hội lặp lại.”

Ansbach ấn y xuống sô pha, mỉm cười nói: “Quá tốt, tôi thích lặp đi lặp lại.”

“…”

Sau khi hoàn thành một cuộc vận động kịch liệt, Oregon cùng Ansbach nằm trên giường ngủ say.

Nhiệt độ ở Rome bắt đầu hạ thấp, sương mỏng phủ lên cửa sổ như cánh ve sầu. Gió rét thấu xương rít gào bên ngoài. Bất thình lình, cửa sổ bật ra, gió lạnh lùa vào, quét qua hai gương mặt đang chìm trong giất ngủ.

Oregon cùng Ansbach đồng loạt tỉnh dậy và đứng ngay cuối gường. Đối diện với họ vốn phải là một bước tường có treo bức “Chân dung của bác sĩ Gachet”, nhưng giờ đây tường biến đâu mất, trước mặt họ lại là hành lang dài dẫn tới cung điện.

Cuối hành lang là cầu thang, trên cùng là một cung điện rộng lớn.

Có một người đang đứng trước cung điện nhìn xuống.

Oregon siết chặt nắm tay: “Gordon.”

Tay Ansbach khẽ đặt lên mu bàn tay Oregon và bao lấy, ấm áp lan tỏa như muốn bày tỏ sự bảo hộ của anh. Anh dắt tay Oregon từng bước vững chãi đi về phía trước.

Oregon nhắc nhở anh: “Đây là ảo ảnh.”

Ansbach nói: “Em không phải.”

“Là đủ rồi.”

Anh sẽ chiến đấu vì người mình yêu, bất luận đối thủ là ai.

Gordon lẳng lặng nhìn hai người từ từ bước đến, cuối cùng lão lùi lại hai bước.

Một Gordon tự cao tự đại mà lại chủ động lùi bước?

Chuyện gì cũng có nguyên nhân của nó.

Ansbach thấy vậy bèn lập tức dừng bước, “Đây là thế giới mà ông tưởng tượng ra?” Những cây cột bạch ngọc cao mười thước, cung điện tráng lệ không thấy điểm cuối, hai bên cầu thang mây trắng uốn lượn, ở nơi xa xăm phát ra hào quang chói mắt, đây chính là thiên đường trong tưởng tượng của lão ta sao? Vẫn còn mộng làm Thần à?

Dường như nhận ra được ẩn ý sau câu hỏi của anh, sắc mặt Gordon chợt cứng đờ, lão rũ mắt, cúi đầu và khom người xuống trông khiêm tốn vô cùng.



Tới đây thì Oregon cũng nhịn hết nổi, y hạ giọng hỏi: “Anh làm gì ổng vậy?”

Ansbach chần chừ đáp: “…Khinh miệt truyền qua không khí?”

Oregon: “…”

“Là ta mời hai vị đến đây.” Một giọng nói trong trẻo dịu dàng vang lên trong cung điện, chỉ trong chớp mắt, Metatron đã xuất hiện sau lưng Gordon. Trên người y tỏa ra hào quang dìu dịu, thắp sáng cả cung điện âm u, khiến cho hai kẻ huyết tộc máu lạnh tim lạnh cũng cảm nhận được sự ấm áp dễ chịu.


Thế nhưng dù mặt mũi Metatron có xinh đẹp vô ngần đến nhường nào chăng nữa, một khi y xuất hiện cùng với Gordon, ký ức xưa cũ không vui lại ập tới trong đầu Ansbach.

Ansbach nhìn cả hai với ánh mắt không mấy thiện cảm, phát hiện trên trán Gordon nhấp nháy ánh vàng thì sinh lòng ngờ vực.

“Xin lỗi.” Metatron nhận ra anh không thoải mái, hào quang quanh người y chợt sáng bừng lên, phủ lấy cả người y khiến người khác khó lòng nhìn rõ mặt mũi.

Oregon tựa cằm lên vai Ansbach, “Ngài đến tặng ảnh sao?”

Metatron đáp: “Ngại quá, chỉ sợ phải đợi một thời gian nữa.”

Nếu thiên sứ đã bảo “một thời gian nữa” cũng tức là ngày tháng dài đăng đẵng? Oregon không vui bĩu môi.

Metatron lại nói: “Ta đến vì vùng đất phong ấn.”

Gordon hứng thú vểnh tai lắng nghe.

“Cảm ơn sự giúp đỡ của ông, ông có thể về rồi.” Metatron chợt đổi đề tài.

Gordon không phục cúi mặt xuống, “Ta đã giúp ngươi, lẽ nào ngươi không thể thả ta ra xem như báo đáp ta hay sao?”

Metatron nói: “Ta cảm ơn ông đã giúp đỡ, nhưng chuyện này không liên quan gì đến những tội ác ông gây ra trong quá khứ. Đương nhiên, dù ông phải nhận trừng phạt, ta vẫn đền đáp ông bằng món quà tương xứng trong khả năng của ta.”

Gordon suy nghĩ rồi nói: “Khi thiên đường tuyên phán, hãy cầu xin giúp ta.”

Metatron nói: “Vì Mammon đưa ra yêu cầu nên ông sẽ chịu sự phán xét của địa ngục.”

Gordon hai mắt sáng rỡ, “Ngươi sẽ cầu xin giúp ta đúng không?” Đương nhiên lão ta đã nhận ra mối quan hệ không bình thường giữa Mammon và Metatron.

Metatron im lặng một chút rồi đáp: “Hãy tin ta, sự im lặng của ta mới là lời cảm ơn tốt nhất dành cho ông.” Gordon chưa kịp nghĩ xem y nói vậy là sao thì chấm sáng trên trán đã dần tối lại, sau đó lão cũng biến mất.

Oregon hỏi: “Lão bị cho ‘ra đi trong êm ái’ rồi à?”

Metatron đáp: “Đây là ảo ảnh ở nhân gian của ông ấy, được ta tạo nên để giúp đỡ.”


So với nguyên nhân Metatron cần sự giúp đỡ của lão, Oregon lại hiếu kỳ về một việc khác hơn, “Lão sẽ bị nhốt bao nhiêu năm?”

Metatron đáp: “Nếu như không có gì ngoài ý muốn, hai vị sẽ không còn gặp lại ông ấy nữa.”

Oregon nói rất trịnh trọng: “Xin đừng để chuyện gì ngoài ý muốn xảy ra.”

Giọng Metatron pha chút ý cười, “Được.”

Ansbach nói: “Nên bàn chuyện chính rồi chứ?” Với thân phận của Metatron, nếu phải nhờ đến Gordon thì vùng đất phong ấn có lẽ đã xảy ra chuyện kinh người. Hoặc có lẽ chính bản thân vùng đất ấy đủ “kinh người”.

Metatron đáp: “Vùng đất phong ấn là vùng đất cấm của huyết tộc, phong ấn những huyết tộc bị lưu đày hoặc vì nguyên nhân đặc biệt khác.”

Vị huyết tộc bị phong ấn “vì nguyên nhân đặc biệt khác” nhìn người yêu của mình và hừ mũi.

Ansbach thấy tim mình thắt lại, lập tức nắm lấy tay y.

Oregon liếc anh một cái rồi lên án: “Anh có lỗi với tôi.”

Ansbach lặng đi không đáp.

Metatron đương nhiên không muốn quấy rối màn tán tỉnh nhau của đôi tình nhân nên cũng giữ im lặng, thậm chí còn chu đáo mở một không gian riêng cho họ để tránh họ ngại ngùng vì sự hiện diện của mình.

Oregon nhéo mặt Ansbach, “Sau này phải bồi thường cho tôi.”

“…Bồi thường thế nào?”

“Đối xử tốt với tôi.”

“Hiện tại chưa đủ tốt?” Trong giọng nói bắt đầu không vui.

Oregon vội vuốt đuôi, “Tốt hơn một tí vẫn được.”

Ansbach liếc y, “Ví dụ?”

Oregon ôm cổ anh, cười hì hì thì thầm vào tai anh.

Nghe xong, Ansbach nhìn y một lúc lâu rồi lắc đầu bảo: “Chưa đủ tốt vẫn hơn.”


Oregon: “…”

Ansbach mỉm cười gian manh, “Tôi không muốn để mình đói bụng.”

Nghe trong phòng không còn tiếng động nữa, Metatron mới bỏ bức tường đi.

“Do ta mạo muội không mời mà tới.” Giọng Metatron vẫn dịu dàng nhưng y không hề nhắc lại chủ đề ban nãy. Rõ ràng Oregon không muốn dính líu vào chuyện vùng đất phong ấn nên mới chọc cười và lèo lái chủ đề sang hướng khác. Nếu đã vậy, y cũng không muốn ép buộc người khác.

Trong lòng Oregon bắt đầu thấy áy náy. Dù sao nếu không có Metatron, chuyện của Gordon đã không thể giải quyết dễ dàng đến thế. Nhưng khó khăn lắm mới lo xong Gordon, y không muốn lại dây vào rắc rối khác.

Metatron chọn một đề tài khác để bầu không khí vui vẻ hơn, “Ta sẽ mau chóng mở cuộc tụ họp và chụp ảnh.”

Tưởng tưởng đến cảnh được tận mắt chiêm ngưỡng diện mạo thật của bảy đại thiên sứ và bảy đại ma vương, Oregon hết sức vui vẻ: “Tôi rất chờ mong, cảm ơn.”

“Vậy… Ngủ ngon và mơ đẹp nhé.”

Hào quang tỏa ra từ Metatron dần dần tản đi, cung điện cũng biến mất, trước mặt họ là một bức tường, “bác sĩ Gachet (Bức tranh nổi tiếng của Van Gogh)” đang chống má nhìn họ.

Oregon chớp mắt, “Tôi có cảm giác như vừa ghìm cương trước vực.”

Ansbach nói: “Metatron lợi dụng Gordon để che đậy việc mình dùng ảo ảnh giáng lâm nhân gian, chứng tỏ y không muốn để ai đó phát hiện. Nhưng ‘ai đó’ là ai?” Dù là ai thì nếu Metatron còn phải kiêng dè, tuyệt đối không phải là kẻ tầm thường. Anh rất tán thành quan điểm của Oregon. Khó khăn lắm mới có được thế giới của hai người, anh không muốn có bất cứ kẻ nào chen chân vào.

“Chuyện của y đã bàn xong, có phải chúng ta nên giải quyết đến chuyện của tôi không?”

“Chuyện của anh là chuyện gì?”

“Ăn khuya.”

Ansbach bế Oregon lên.

Orgeon chồm tới trước, nhảy ra khỏi vòng tay của anh và cười hì hì. Bên cạnh anh từ từ xuất hiện một chú báo đen.

Ansbach nhìn chằm chằm vào y không dám chớp mắt, cũng không dám động đậy, thậm chí còn cảnh giác để bảo vệ cho y. Một lúc sau, người đã hoàn toàn biến thành báo, báo đen nghênh ngang leo lên giường và nằm xuống.

Ansbach đứng ngay đầu giường, cười lạnh bảo: “Em tưởng em biến thành báo là tôi không tơ tưởng nữa à?”

Cái đuôi đang vẫy của báo ta chợt cứng đờ, nó giương mắt nhìn anh tỏ vẻ không dám tin.

“Chỉ cần là em, hình dáng thế nào tôi cũng thích.” Ansbach liếm mỗi.

Báo đen bật dậy, nhanh chóng phóng ra ngoài cửa sổ và nhảy xuống đường.

Ansbach mỉm cười, biến thành dơi chầm chậm bay theo sau nó.

Anh đã sớm vạch ra phương châm phải đối xử với người yêu như thế nào:

Người yêu giận mình, mình phải nhận lỗi.

Người yêu chọc giận mình, mình phải hùa theo.

Ngày nghỉ ở Rome.

Nếu đã ở Rome thì không thể bỏ lỡ cơ hội. Oregon đề nghị mình và Ansbach tự diễn một bộ phim điện ảnh kinh điển.

“Tôi là hoàng tử của một vương quốc lớn, ừ thì Trung Quốc đi. Đẹp trai bảnh bao, có học thức, làm điêu đứng hàng ngàn hàng vạn thiếu nam thiếu nữ. Anh là tên ký giả nghèo, nghèo đến mức khố rách áo ôm, lại còn không được tổng biên tập ưu ái nên hoàn cảnh từ thảm tới thảm…” Y cân nhắc vai diễn.

“Trung Quốc giờ làm gì còn hoàng tử.”

“…Chúng ta lùi lại vài thời đại.”

“Đầu tiên, em phải cạo nửa đầu.”

“…Thôi được rồi, tôi là hoàng tử của nước Anh. Đầu tóc của họ bình thường đúng không!”

“Đương nhiên bình thường. Đầu Địa Trung Hải ( Đầu hói) cũng thịnh hành lắm chứ.”

Y muốn đổi diễn viên!

Không quay phim được nhưng Ansbach vẫn dẫn Oregon đi dạo trong thành phố.

Oregon nói: “Nếu có xe đạp thì hay quá.”

Ansbach nói: “Em từng chê nó tốc độ chẳng có, điều chỉnh nhiệt độ chẳng có, phong cách chẳng có, thoải mái cũng không.”

Oregon liếc anh, “Anh nhớ rõ quá nhỉ.”

“Những việc liên quan đến em tôi đều nhớ rõ từng ly từng tí.” Ansbach nhịn cả ngày trời, cuối cùng cũng lộ ra bộ mặt thận, ngón tay mon men quanh eo Oregon và cười khẽ, “Đặc biệt là những chuyện gần gũi.”

Oregon hỏi: “Có cách nào làm cho một lão huyết tộc cao tuổi bị đãng trí không?”

Ansbach nói: “Em có thể thử làm lão ấy trúng gió trên giường.”

Oregon quyết định tự ngậm miệng. Y đi một mình được năm, sáu mét, bất chợt quay lại thì bắt gặp Ansbach đang nhìn về hướng bên phải với vẻ mặt u ám. Y nhìn theo hướng đó, là một tòa giáo đường.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thất Lạc Phong Ấn (Cửu Giới Hệ Liêt...Đam Mỹ) - Tô Du Bí

Postby tuvi » 04 Jun 2020

Chương 14: Đàm phán

Cáo và hổ đổi da.

Đây là một giáo đường mang phong cách Gothic điển hình, tinh xảo, lộng lẫy và trang nghiêm.

Oregon hỏi: “Anh muốn vào xem thử không?”

Phần lớn huyết tộc cấp cao luôn ấp ủ một chấp niệm kỳ quặc, đó là “bước vào giáo đường”. Trong lòng họ vừa bài xích giáo đường, bài xích Thần, tự cho mình là dòng tộc bị bỏ rơi, nhưng song song đó lại âm thầm đố kỵ với giáo hội, ngưỡng mộ Thần, hy vọng ngày nào đó được Thần quan tâm. Nếu dùng một từ để miêu tả loại chấp niệm này thì chính là “yêu hận đan xen”.

Nhưng Oregon không nằm trong số đó. Thay vì trao tình cảm cho nguyện vọng mơ hồ, xa vời và truyền thuyết thời xưa cũ, y thích sống với hiện tại, tự do thoải mái. Song y vẫn có thể hiểu cho bạn đời của mình.

Ansbach không trả lời mà chỉ siết chặt cánh tay y, sau đó lấy di động ra gọi cho Macewen, bảo gã chuẩn bị hai vé máy bay đi Bắc Kinh.

Oregon ngạc nhiên hỏi: “Bắc Kinh?”

“Chính là kinh thành khi xưa.” Ansbach kéo y chầm chậm bỏ đi.

Oregon nói: “Quyết định của anh hơi đột ngột.”

Ansbach nghiêng đầu hôn lên má y, “Tôi muốn mang lại niềm vui bất ngờ cho em.”

Oregon vươn tay nâng cằm anh lên và bắt anh nhìn thẳng vào mình. Hàng mi dày rậm của Ansbach khe giấu hết thảy những cảm xúc trong mắt anh, gương mặt khuất bóng trông có gì đó u ám. “Xảy ra chuyện gì?”

Ansbach nói: “Tôi ngửi thấy mùi đáng ghét.”

Oregon nghiêng đầu ngửi mùi trên tay mình, “Tôi dám chắc trên người tôi không có mùi của người khác.”

Ansbach mỉm cười kéo y vào lòng, “Mùi của tôi thì sao?”

Oregon liếc anh một cái, “Anh thấy anh là ‘người khác’ sao?”

Ansbach cắn nhẹ lên tai y, “Thiệt tình chỉ muốn nhốt em trong thân thể của tôi, mãi mãi không chia cắt.”

Oregon thoáng cau mày, quay đầu nhìn anh, trong lòng bắt đầu lo lắng. Trải qua bao năm sóng gió, khó khăn lắm mới giúp Ansbach trở thành một tên bệnh thần kinh trong trạng thái bình thường, y không muốn chỉ vì bất cẩn lại khiến anh thăng cấp thành phiên bản điên cuồng chút nào.

Ansbach vuốt ve cổ y, “Yên tâm, tôi sẽ không bao giờ làm tổn thương em nữa. Vĩnh viễn không.”

Oregon xấu hổ rụt cổ để tay anh rơi trên vai mình, sau đó cúi đầu cắn nhẹ một cái. Ansbach thừa cơ đưa ngón tay vào miệng y và khiêu khích đầu lưỡi của y.

“Phì phì phì!” Oregon nói: “Anh có còn nghĩ được chuyện gì khác ngoài động dục không hả?”

Ansbach hỏi lại: “Làm tình?”

“…Khác chỗ nào?”

“Một còn đang ủ, một đã lên men chua chua, sệt sệt.”

Để tẩy rửa thế giới nội tâm “hoen ố” của anh, Oregon quyết định dẫn anh đến tràng đấu thú.

Ansbach không có ý kiến.

Hai người tìm chỗ ngồi xuống.

Ansbach nói: “Tụi mình từng hẹn hò ở đây.”

Oregon nói: “Là anh đơn phương đưa ra lời mời, còn tôi không có cách nào từ chối.”

“Em không thích?”

Oregon im lặng một chốc mới đáp: “Ở đây sẽ bắt gặp những ánh mắt giống với ánh mắt của anh.”

Ansbach nhẹ giọng hỏi: “Để lại ám ảnh trong lòng em, có phải không?” Anh đương nhiên biết năm xưa mình đối xử quá đáng với Oregon đến mức nào. Hạn chế tự do, cấm không cho y qua lại với bạn bè, dù y chỉ ngồi ngây người ngắm tranh cũng khiến anh lửa ghen ngợp trời.

Giờ đây nghĩ lại, năm xưa mình đúng là một thằng điên. May mà không phải không có thuốc chữa.

“Giờ ngẫm lại,” Oregon chống mặt, rầu rĩ nói: “có lẽ không thích nhìn thấy hình bóng của anh trên người kẻ khác.”

“Câu này quá phức tạp, nằm ngoài khả năng thấu hiểu của tôi.”

Oregon nghiêng đầu nhìn anh một cái rồi quay đi nhìn về phía trước, đung đưa đầu gối, “Anh là duy nhất trên đời này.”

Ansbach kích động ôm chầm lấy y, đôi môi anh không ngừng càn quấy trên mặt Oregon, “Em khiến tôi mất bình tĩnh rồi.”

Oregon túm lấy bàn tay đang mon men đến dây lưng của mình, “Chỗ này là tràng đấu thú.”

“…Hay em thích để dơi và báo điên đảo ở đây?”

Oregon nghiến răng nói: “Đây là sợi thắt lưng tôi thích nhất!”

“Ở đây là Ý, thiếu gì thắt lưng.”

Hai người vừa rượt đuổi vừa đùa giỡn, dây dưa cả nửa buổi trời Ansbach vẫn chưa giành được thắng lợi.

Từ sau ngày Oregon hồi phục, Ansbach bỏ hẳn tác phong bá đạo đàn áp, không phân biệt đúng sai, lúc nào cũng cư xử dè dặt có chừng mực, chỉ cần Oregon lộ ra vẻ mặt không vui, buồn bã hay bi thương, hoặc ánh mắt hiện lên chút bất mãn, anh lập tức lùi bước.

Ra khỏi tràng đấu thú, hai người không hề ngại ngùng nắm tay nhau đứng trên lề đường chờ đèn đỏ.

Trên đường xe cộ qua lại thưa thớt, một gã thanh niên trẻ tuổi đeo ba lô vượt qua hai người, bước vội về phía trước.

Oregon nói: “Thằng nhóc vượt đèn đỏ.”

Bóng Ansbach lóe lên, túm lấy gã thanh niên đã băng sang kia đường và lôi về.

“Khốn nạn! Mấy người làm gì thế hả?” Gã thanh viên vùng vẫy.

“Cậu…” Oregon mới nói được một chứ đã cảm thấy sau lưng nóng rực. Cảm giác nóng bỏng này y không hề xa lạ, phát ra từ thánh kiếm của quân đoàn Thủ hộ thần thánh, là thánh quang của các nhân viên cao cấp trong giáo hội. Y lập tức đẩy gã thanh niên ra, ôm lấy Ansbach giấu mình vào bóng râm dưới cây xanh.

Bất thình lình bị đẩy ngã xuống đất, gã trẻ tuổi thoáng sửng sốt rồi đùng đùng nổi giận. Gã vừa chửi thề vừa đứng dậy, ba lô rơi khỏi lưng trượt xuống khuỷu tay gã cũng mặc kệ, hùng hổ xông về phía Ansbach và Oregon.

Trông gã cao khoảng mét tám lăm, bắp tay cường tráng, lúc chạy các cơ căng ra rõ rệt, khí thế hừng hực cuốn bay cả lá cây. Chẳng qua mới chạy được ba mét, gã đã bị người nào đó túm lấy cổ áo kéo về mấy bước.

“Không được đến gần bọn họ, quay trở lại!” Người túm cổ áo gã lạnh lùng nói.

“Con mẹ nó mày là thằng nào nữa?!” Chàng thanh niên tự cho là cơ bắp cuồn cuộn trong chốc lát vấp phải hai phen đả kích liên tục thì tức muốn điên lên.

“Chửi thề là sai.” Người kia nói.

Gã thanh niên lập tức tuôn ra cả tràng những lời tục tĩu.

Người sau lưng gã sa sầm mặt.

Cách đó không xa, Oregon hớn hở nhắc nhở: “Cậu ta mới vượt đèn đỏ và bị tụi tôi uốn nắn xong đó.” Cái giọng đậm chất cười trên nỗi đau của người khác. Gã trẻ tuổi bị túm cổ áo nên không nhìn rõ người phía sau là ai, nhưng y và Ansbach đứng đối diện nên thấy rất rõ. Người nọ mặc đồng phục của quân đoàn Thủ hộ thần thánh, cao khoảng hai mét, hơn thanh niên gần cả cái đầu, nếu đặt gã trẻ tuổi trước mặt người này thì trông gã chẳng khác nào trẻ vị thành niên.

Bị người như vậy túm cổ áo, chậc chậc…

Oregon thay gã cầu nguyện với ngài Cain.

“Cậu làm thế là sai.” Không ngờ người nọ chẳng hề nổi nóng mà còn thả tay ra, “Phẫn nộ khiến cậu nói toàn những lời thô tục, mặt mũi đáng ghét, cả Thần cũng không thể chấp nhận. Nếu chịu cầu nguyện xin tội, cậu sẽ được Thần tha thứ.”

Gã thanh niên vùng ra, toan trả treo thì nhìn thấy vóc dáng của đối phương, nhất thời nghẹn họng không nói được câu nào. Gã giận dữ quắt mắt với Ansbach và Oregon rồi vác ba lô lên vai ba chân bốn cẳng bỏ chạy.

Oregon nói: “Xem ra cậu giáo dục chẳng hiệu quả gì.”

Người nọ quay đầu lại, “Xin hãy tha thứ cho tôi vì đã nhỏ nhen và hiểu lầm ý tốt của hai vị, cứ ngỡ đâu hai vị định gây bất lợi cho cậu ấy.”

Oregon nói: “Xin hãy nói chuyện một cách bình thường giùm cái.”

Người nọ nói: “Tôi là Quentyn Rizz của quân đoàn Thủ hộ thần thánh, được lệnh truy nã thành viên của Nghịch Cửu Hội là Ansbach Malkavian.”

Oregon lấy tay thúc người đứng cạnh, “Lúc này có phải anh nên la cho thiệt to, quý ngài ơi, oan cho tôi quá không?”

Ansbach nói: “Vậy phải phiền em vất vả tìm cách minh oan cho tôi rồi.”

Oregon ngạc nhiên hỏi: “Anh chịu để bị bắt hả?”

Ansbach nói: “Nhìn chung quanh.”

Mười mấy chàng thanh niên trong đồng phục của quân đoàn Thủ hộ thần thánh đang tụ họp lại. Thánh quang tỏa ra từ người bọn họ, ánh hào quang vàng óng soi sáng những gương mặt vô cảm, soi cả lên thân kiếm trên tay và phản chiếu lại lên mặt đám thanh niên khiến cho thánh quang trông càng rực rỡ.

Thế nhưng với Ansbach và Oregon – hai kẻ từng chứng kiến tư thế oai hùng của quân đoàn Thủ hộ thần thánh hơn trăm năm trước mà nói, hào quang trên người bọn họ quá tối tăm, ít ra khiến Oregon không phát hiện họ ngay từ ban đầu.

Kiếm của Quentyn chĩa vào Ansbach và bày ra tư thế chuẩn bị chiến đấu.

Oregon nắm lấy bàn tay đang rục rịch của Ansbach, mỉm cười thân thiện với Quentyn và nói: “Chuyện này là một hiểu lầm vô cùng nghiêm trọng, trên thực tế bọn ta vừa giải quyết Gordon xong. Tôi tuyệt đối không phải vì muốn các cậu tôn vinh tôi như anh hùng nên mới nói thế, mà sự thật đúng là vậy đấy.”

Quentyn nhìn họ bằng ánh mắt ngờ vực, “Cho hỏi quý ngài đây là ai?”

Orgeon đáp: “Oregon Gangrel.”

Quentyn không tin. Ngài Timothy muốn gã mang tên huyết tộc tự xưng là “Oregon” về, nhưng trên tấm ảnh giao cho gã lại là hình của người đứng cạnh kẻ tự xưng là “Oregon”… Vậy rốt cục là tên nào?

Oregon nói: “Tôi tin rằng sau khi tôi và giáo hoàng bệ hạ trò chuyện, tất cả sẽ được sáng tỏ.”

Ansbach thấy Oregon một mực muốn giữ hòa bình thì cũng phối hợp với y, “Lần trước gặp nhau quá vội vàng, hy vọng lần này có cơ hội dùng chung bữa tối.”

Oregon liếc anh một cái: Anh có chắc người của giáo hội chịu cùng dùng bữa với huyết tộc không đó?

Ansbach: Tôi mời mà.

Oregon: …Chắc chịu.

Trong khi hai người trao đổi bằng mắt, Quentyn quyết định không phân vân nữa. Dù là tên nào thì cứ mang cả đôi về là không trật đi đâu được.

“Mời.”

Vẫn là viện bảo tàng.

Lần thứ hai đến đây, Ansbach đã rành đường vô cùng, anh dắt tay Oregon dẫn đường cho y, mắt y không lúc nào là không dán vào các tác phẩm nghệ thuật trưng bày hai bên.

“Em thích bức tượng kia à?” Ansbach hỏi.

Oregon lắc đầu đáp: “Không, tôi không có hứng thú với thân thể lõa lồ của người khác.”

Miệng Ansbach nhoẻn lên, “Đúng là chả có gì đáng ngắm.”

Oregon hớn hở nói: “Đúng không! Đúng không! Muốn ngắm thân hình tốt nhất là nên soi gương tự ngắm! Ha ha ha…”

Ansbach: “…”

Hai người thong thả đến mức hệt như khách tham quan thực thụ, so với hai người, trông Quentyn có vẻ hơi bị căng thẳng quá độ.

Vẫn là Timothy Greco đàm phán với họ. Người được xưng là một trong những “ứng cử viên tương lai cho vị trí giáo hoàng” thật ra từ mấy tháng trước đã bắt đầu tiếp nhận công việc của giáo hội, vì chuẩn bị cho công cuộc chuyển giao, ngày nào ông ta cũng bận tối mày tối mặt. Giờ phút này để ông ta ra mặt cũng đủ thấy tầm quan trọng của Ansbach, dù rằng với Ansbach, bàn chuyện cùng con cáo già nổi tiếng của giáo hội chẳng phải chuyện đáng vinh hạnh gì.

“Không ngờ lần thứ hai gặp nhau, xưng hô của tiên sinh Gangrel đã đổi thành tiên sinh Malkavian, đúng là đời người khó lường.” Timothy nói.

Ansbach gật đầu đáp: “Sự nhạy bén của ông đúng là khác với những kẻ còn lại trong giáo hội.”

Timothy thầm thấy đắc ý, “Có muốn nghe tôi giải thích nguyên nhân không?”

Ansbach lắc đầu, “Chẳng hào hứng gì.”

Ông ta không nên hy vọng huyết tộc sẽ tâng bốc mình! Timothy quay sang Oregon, “Lần đầu gặp mặt, nghe danh đã lâu.”

Oregon nói: “Nếu ông là cổ phiếu, tôi nhất định sẽ mua.”

Timothy mặt đầy chấm hỏi, “Tôi không hiểu ý của ngài lắm.”

Oregon chắp tay giả làm súng bắn ông ta một phát, “Tôi rất xem trọng ông.”

Ansbach khó chịu siết vai y, mỉm cười nói: “Em yêu, dù em có xem trọng hắn ta đến đâu thì hắn ta cũng chỉ có một cốc nước trắng pha nước thánh để chào đón em thôi. Tôi đảm bảo không hợp khẩu vị của em đâu.”

Timothy nói: “Nếu hai vị thích, tôi có thể dùng nước thánh pha cà phê mời hai vị.”

Ansbach nói: “Chỉ cần cho một phần ba gói cà phê hòa tan là sẽ làm át đi mùi của nước thánh.”

“…Xin hãy chấm dứt cuộc tán gẫu ngẫu nhiên vui vẻ này và vào chuyện chính.” Timothy mời họ ngồi xuống rồi nói với Ansbach, “Với việc gia nhập vào Nghịch Cửu Hội, ngài có muốn giải thích gì không?”

Ansbach vặn lại: “Ông nghe được mấy lời vô căn cứ này từ ai?”

“Tôi có nguồn tình báo vô cùng đáng tin cậy.” Timothy nói dối mà mặt không đổi sắc, “Tổ này được lập ra rất nhiều năm rồi, chưa bao giờ có thông tin nào sai lệch. Người này gửi cho tôi một danh sách thành viên Nghịch Cửu Hội vô cùng tỉ mỉ, mà ngài lại nằm trong số đó.”

Ansbach hỏi: “Đừng nói danh sách này là lấy được từ trong giấc mơ của giáo hoàng nhé?”

Timothy nói: “Tôi đảm bảo gần đây giáo hoàng ngủ rất êm, không ngáy nữa là. Đừng chuyển đề tài.” Ông ta lấy một tờ giấy từ từ mở ra, chẳng hề hay biết hai ánh nhìn chằm chằm của Oregon và Ansbach. “Có lẽ sau khi nghe xong những cái tên này sẽ gợi lên đôi chút ký ức của ngài.”

“Owen Parker.”

“Martin Bona.”

“David Edison.”

Timothy đang định đọc tiếp thì bị Ansbach cắt ngang, “Ông có chắc không phải là Thomas Edison và David Beckham chứ?”

Timothy ngẩn ra, nghe thấy tiếng cười của Oregon mới hoàn hồn, “Tôi tưởng chúng ta đang nói chuyện nghiêm túc.”

Ansbach nói: “Những cái tên ông nhắc tới ta chưa từng nghe lần nào.”

“Vậy sao?” Timothy đặt giấy xuống, “Trùng hợp thật, đây tình cờ là tên của những huyết tộc bị hại sau khi Lilith đến nhân giới.”

Ansbach nhướng mày, “Rõ ràng ta không phải là một trong số họ.”

Timothy nói: “Đây không thể chứng minh ngài vô tội. Có lẽ ngài cũng là một trong số đó nhưng Lilith bỏ đi quá vội, không kịp ra tay.”

Ansbach lười chả thèm giải thích, phải biết trong danh sách của Timothy có đến một phần ba là do anh ra tay xử lý. Anh cười lạnh bảo: “Tức là ông định dùng một danh sách chẳng rõ nguồn gốc gán cho ta tội danh ‘có lẽ có’ sao?”

Timothy nói: “Nghịch Cửu Hội là kẻ thù chung của cả chín giới, tôi phải xử lý cẩn thận.”

Thấy hai người bắt đầu rơi vào tình trạng nói lời vô ích, Oregon đứng ra giải vây, “Về Nghịch Cửu Hội ở nhân giới, bọn tôi tình cờ biết được vài chuyện.” Y kể sơ về lai lịch và hành vi của Gordon, về phần có liên quan đến Metatron và Mammon, sau mấy phen cân nhắc, y quyết định lược đi. Địa vị của Metatron đối với giáo hội không cần nói cũng biết, nói ra có khi lại bị cho rằng biên chuyện bôi nhọ thiên sứ lại chẳng được lợi ích gì.

Nghe y kể xong, Timothy trầm mặc một lúc rồi nói: “Có chứng cứ không?”

Oregon đáp: “Gordon… tan thành mây khói. Chỉ sợ bó tay rồi.” Dù sao hoặc địa ngục hoặc thiên đường, Gordon cũng chẳng có mặt tại nhân giới.

Timothy đáp: “Chắc ngài cũng biết, thời buổi bây giờ đều nói chuyện dựa trên chứng cứ.”

Oregon nói: “Ông nói đúng, hơn nữa nghi điểm thuộc về lợi thế của bị cáo. Chứng cứ buộc tội của các người quá sơ sài, xin cho phép bọn tôi không chấp nhận.”

Timothy thở dài, “Nếu chúng ta đã không có cách nào giải quyết chuyện này thì hãy để giáo hội và huyết tộc cùng đàm phán với nhau. Tiên sinh Ansbach tạm thời không được rời khỏi Rome. Chúng tôi sẽ không hạn chế các hoạt động của ngài, nhưng sẽ phái người giám sát việc đi lại của ngài.”

Ông ta nói huỵch toẹt ra thế làm Oregon trợn mắt há mỏ, đang định phản bác vài câu thì bị Ansbach ngăn lại.

“Được, ta đồng ý.” Thật ngoài ý muốn, anh lại không phản đối.

Không chỉ Oregon, cả Timothy còn phải nhìn anh lại mấy lần, nhưng Ansach ngoài mặt quá thản nhiên, thái độ hoàn hảo không thể tìm ra sơ hở.

Dù Timothy vẫn còn nghi ngờ với anh nhưng đã lỡ nói nên chỉ đành phái Quentyn đích thân “bảo vệ” và tiễn hai người rời đi.

Có lẽ cảm thấy đã đến bảo tàng mà không thưởng thức thì quá uổng nên Oregon và Ansbach quyết định dạo một vòng quanh cả bảo tàng từ trong ra ngoài rồi mới hài lòng ra về. Trước đó Ansbach đã mua sẵn nhà ở Rome, là biệt thự ở ngoại ô thành phố, phòng ốc rộng rãi, có tổng cộng bốn tầng.

Ansbach hào phóng mời Quentyn vào ở, Quentyn cũng đồng ý.

Lý do của hai bên rất chi là hợp lý.

Ansbach: “Thay vì để hắn ra rình trộm ngoài cửa sổ, thôi thì cho hắn đường đường chính chính vào trong, tiện cho hắn biết lúc nào nên tránh mặt đi.”

Quentyn: “Ngoài đường buổi tối lạnh lắm.”

Quentyn không làm anh thất vọng.

Đêm khuya thường là lúc người ta sung sức vô cùng, Quentyn biết điều yên ổn ngủ ở tầng một, giữ khoảng cách nhất định với lầu ba của chủ nhà.

Sau cuộc chiến kích tình máu lửa, Ansbach và Oregon nằm dài trên giường nói chuyện phiếm.

Oregon nói: “Giáo hội nhất định là có âm mưu.” Hành vi của Timothy hôm nay quá sức lộ liễu, một mực muốn gán tội cho Ansbach, nếu bảo không có nguyên nhân sâu xa chả ai tin được.

Ansbach đáp: “Có hai khả năng. Một là vì nguyên nhân nào đó khiến chúng không thể không giải quyết tôi, hoặc biết đâu là vạch rõ giới hạn với huyết tộc.”

Oregon: “Còn thứ hai?”

Ansbach vuốt ve tấm lưng trần của Oregon, “Có kẻ chống lưng nên chẳng thèm kiêng kỵ gì nữa.”

Oregon nói: “Giáo hội còn cần gì ai chống lưng, hổng lẽ là ông già của hắn…” Đang nói y chợt ngưng bặt, nghiêng đầu nhìn Ansbach.

Ansbach nhún vai, nâng ly rượu vang ở đầu giường nhấp khẽ một ngụm, giữ trong miệng rồi quay sang nâng cằm Oregon mớm vào.

Oregon nói: “Hơi chua.”

Ansbach nói: “Nếu em thường xuyên phải ăn giấm thì sẽ không cảm thấy chua nữa.”

Oregon hỏi: “Gần đây anh có ăn giấm sao?”

Ansbach: “Không lúc nào không ăn. Lúc em hô hấp, tôi để bụng chuyện ngoài tôi ra, có kẻ dám hít vào hơi thở của em; khi em mở mắt, tôi để bụng chuyện trong mắt em bị phản chiếu hình ảnh của kẻ khác; lúc em cười, tôi để bụng vì những kẻ khác cũng được chiêm ngưỡng; lúc em vui, tôi để bụng vì có khi tôi không phải là nguyên nhân mang đến niềm vui đó.”

Oregon: “…” Rõ ràng là phải thấy lo vì bệnh người yêu chuyển nặng, nhưng sao trong tim lại thấy ngọt ngào, sung sướng vô bờ thế nhỉ? Chẳng lẽ ở chung với người bệnh tâm thần riết rồi cũng bị lây?

“E hèm, ban nãy đang nói đến việc giáo hội có người chống lưng. Hành vi của Timothy lần này quá đường đột…” Oregon cố gắng bắt mình phải suy nghĩ chuyện chính đáng, nhưng có vẻ đối phương chả buồn phối hợp.

Ansbach nói: “Lúc em mở miệng, tôi để bụng khi nghe thấy tên của kẻ khác.”

Oregon: “…Chúng ta có thể đặt biệt danh hoặc tên lóng. Ví dụ như Timothy là lão T, giáo hoàng là King…”

Ansbach chẳng ừ hử.

Oregon nói: “Lại sao nữa?”

Ansbach nói: “Em tốn công tìm biệt danh cho chúng.”

Oregon: “…” Gọi lão T thì xem như tốn công đặc biệt danh? Người yêu càn rỡ vô lý đến mức này khiến y cảm thấy vô cùng mệt tim.

Ansbach thấy mặt y đổi sắc bèn lùi bước: “Chúng ta có thể dùng ABCD để chỉ chúng.”

Đúng là ban nãy mình hơi phí công.

Oregon âm thầm nhận sai.

Ansbach nói: “Dù A chắc chắn sẽ là người thừa kế của giáo hội trong tương lai nhưng quyền lực thật sự vẫn còn nằm trong tay B, vậy nên lần này A tìm chúng ta bàn chuyện tất nhiên phải có sự đồng ý của B. Tức là chúng ta có thể giả thiết, sau lưng A và B còn có C, chính là nguyên nhân chúng không thèm kiêng kỵ nể nang. Danh sách rất có khả năng do C cung cấp. Hiện tại chúng ta phải suy nghĩ xem C là ai.”

Nghe xong, Oregon muốn choáng váng đầu óc, y đỡ trán hỏi: “Tức là trong bài toán này, A và B là hằng số, còn C là ẩn số cần biết?”

Ansbach nói: “C cần phải thỏa mãn ba điều kiện. Thứ nhất, kẻ này đạt được sự tín nhiệm vô điều kiện của giáo hội. Thứ nhì, có hắn, giáo hội dám đối đầu với huyết tộc.” Anh vẫn chưa quên, khi Lilith giáng lâm nhân giới, giáo đình đã từng hoảng loạn và yêu cầu cùng huyết tộc liên minh thiết tha đến nhường nào. “Thứ ba, hắn có danh sách của Nghịch Cửu Hội.”

Oregon giật mình.

Ansbach từ tốn nói ra một cái tên: “Metatron.”

Sắc mặt anh trông không dễ chịu gì, cảm tình từ lần trước mất sạch chẳng còn bao nhiêu, “Quá rõ ràng, những lần trước chỉ là cách rút đi mang tính chiến lược của y.”

Oregon cảm giác Metatron không phải là người như vậy, vầng hào quang thiêng liêng và cao thượng của y tuyệt đối không thể nào là mặt nạ, nhưng Ansbach phân tích rất có lý, trong nhất thời Oregon chẳng biết phải phản bác thế nào.

Ansbach lúc nào cũng quan sát Oregon, thấy y tỏ vẻ không đồng tình thì nói: “Có phải hay không thời gian sẽ chứng minh tất cả.” Nếu là Metatron, vậy thì mục đích cuối cùng có lẽ sẽ liên quan đến vùng đất phong ấn.

Oregon gật đầu.

“Chuyện nhỏ bàn xong rồi, giờ tụi mình nên bắt đầu bàn chuyện lớn thôi.”

“…” Oregon không nghĩ ra còn chuyện gì “lớn” hơn chuyện giáo hội dám gài bẫy hai người.

Ansbach nói: “Hồi nãy em dám đặc biệt danh cho kẻ khác, vả lại còn dùng cái giọng hết sức ngọt ngào để gọi mấy biệt danh đó.”

Oregon nói: “Anh có nghe câu ‘việc mình không thích cũng chớ gây nên cho người khác’ bao giờ chưa?”

“Chưa, là sao?”

“Anh không thích việc giáo hội lấy đại một tội danh ‘có lẽ có’ gán cho anh, vậy thì cũng đừng làm chuyện như thế với tôi.”

Ansbach cau mày, “Em cho rằng bản chất hai chuyện này giống nhau sao?”

Oregon đáp: “Đương nhiên.”

“Nhưng mà,” Ansbach chậm rãi nói: “Tội danh của giáo hội gán cho tôi cũng không phải hoàn toàn vô căn cứ.”

Oregon ngây ra.

Ansbach nói: “Ít nhất có một khoảng thời gian, đúng thật là tôi và Gordon có cấu kết với nhau làm xằng làm bậy.”

Oregon: “…”

Ansbach nói: “Nếu bản chất hai việc này như nhau, thì có phải tôi được quyền cho rằng, tội danh của em không phải thuộc loại ‘có lẽ có’ chăng?”

Oregon cuối cùng cũng biết cái gì là tự nhấc đá đập vào chân mình. Y vội vàng luôn mồm phủ nhận, nhưng đã chậm rồi, Ansbach phi lên như chớp giật và đè y xuống.

Xoay mòng mòng cả ngày trời, vào thời điểm tiếng chuông nửa đêm vang lên, Timothy cuối cùng cũng có được chút yên tĩnh hiếm hoi. Ông ta không biết sự yên tĩnh này có thể kéo dài trong bao lâu, chỉ sợ vào giây phút tiếp theo, bên ngoài phòng ngủ bất chợt vang lên tiếng gõ cửa. Thứ ông cần bây giờ là không gian yên tĩnh để suy ngẫm mọi việc.

Ông rót một ly sữa bò ngồi xuống sô pha, nhưng còn chưa kịp ngả lưng thì đã nghe thấy tiếng gõ cửa “cốc cốc”.

“Giáo hoàng bệ hạ đến thăm.”

Mày Timothy chau lại rồi giãn ra. Ông ta đặt sữa xuống, nhanh chóng đứng dậy đi ra mở cửa, chuẩn bị đón tiếp nhân vật cao quý bậc nhất giáo hội ghé thăm thì đối phương đã vào phòng nhanh hơn một bước.

“Timothy, anh bạn của tôi, cậu vẫn ổn chứ?” Giáo hoàng mở rộng vòng tay như muốn thể hiện dáng vẻ sôi nổi nhưng giọng nói đầy mệt mỏi đã tố cáo sự bất lực của ông ta.

“Giáo hoàng bệ hạ.” Timothy cúi đầu chào hỏi.

Giáo hoàng bẽ mặt hạ tay xuống, “Cả cậu còn chẳng muốn ôm lấy tôi nữa à, có phải tôi đã trở thành một lão già ai nấy đều ghét không?”

Trong phòng ngủ chỉ có hai ngọn đèn bàn đang bật. Ánh đèn mông lung làm nhòa đi đường nét trên con người. May là vậy mà Timothy vẫn nhận ra trông giáo hoàng đã già đi nhiều so với lần trước. Không chỉ trên trán lẫn khóe mắt đều hằn thêm nếp nhăn, mà cả sự sa sút tinh thần thấm nhuần ra từ bên trong.

Nếu không tự cởi bỏ nút thắt trong lòng, chỉ sợ ông ta sẽ bị chính sự ăn năn và hổ thẹn của mình vắt kiệt.

Suy nghĩ này lóe lên trong đầu Timothy, ông ta vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên nói với giáo hoàng: “Từ hôm qua tới giờ tôi bận quá chưa kịp tắm rửa, nếu ngài không ngại…”

Giáo hoàng nói: “Ngại.”

Timothy: “…”

Giáo hoàng ngồi xuống sô pha rồi ra hiệu cho ông ngồi theo.

Timothy đã quen thói giành quyền làm chủ của ông ta nên chỉ thản nhiên rót cho ông ta một ly nước ấm.

Giáo hoàng bất mãn nói: “Phải là rượu mới đúng.”

Timothy nói: “Gần đây ngài uống đủ rồi.”

Giáo hoàng im lặng, rầu rĩ bĩu môi, hai tay áp lấy cốc nước, ngón cái miết nhẹ vành cốc, chần chừ một lúc mới chịu lên tiếng: “Gặp Ansbach rồi?”

Timothy đáp: “Oregon cũng có mặt.”

“Phản ứng của họ ra sao?”

“Không nhận.”

Giáo hoàng hừ lạnh một tiếng: “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Lẽ nào chúng ta đổ oan cho hắn? Những kẻ khác có tên trong danh sách đều đã…” Nói đến đây ông ta chợt ngưng bặt, dường như nghĩ đến chuyện gì đó, và rồi xìu xuống như bóng xì hơi.

Vị trí ông ta ngồi cách đèn khá xa, ánh sáng không chiếu tới. Gương mặt của ông ta khuất trong bóng tối càng tôn rõ nét cô đơn.

Timothy an ủi ông ta: “Cây cối lúc nào chẳng có sâu, huống hồ cả một giáo hội to lớn? Ngài đã xoay chuyển khá lắm rồi.”

Bàn tay cầm ly của giáo hoàng siết lại, thân thể bất giác thay đổi tư thế rồi lẩm bẩm: “Không, là cậu làm tốt. Thế nhưng…”

Ông ta bất chợt cao giọng: “Cậu có dám chắc đã bắt hết được thành viên của Nghịch Cửu Hội trong giáo hội hay không? Hoặc biết đâu vẫn còn cá lọt lưới nằm ngoài danh sách đó… Chúng cấu kết với hắc vu sư giết hạn giáo đồ, trộm đi nước thánh, bày ra pháp thuật ngăn không cho thiên sứ hàng lâm…”

Ông ta đau đớn liệt kê hoàng loạt tội ác của chúng, cả người kích động đến run lên, nước trong ly sánh ra làm ướt tay áo ông ta cũng chả buồn để ý mà chỉ gào lên: “Thần sẽ không tha thứ cho sự vô năng của tôi! Tôi nhất định bị đày xuống địa ngục vì tội tắc trách!”

Đúng là có nhiều lúc Timothy cũng cảm thấy ông ta vô năng thật, nhưng bây giờ không phải thời điểm châm dầu vào lửa, vì vậy ông chỉ đành nói: “Khuyết điểm khó lòng làm lu mờ ưu điểm. Vầng hào quang của ngài sẽ xóa nhòa những lỗi lầm ấy.”

Giáo hoàng căng thẳng nhìn vào mắt ông ta, “Có thật vậy không? Đây là do chính miệng thiên sứ nói với cậu ư?”

Timothy nghẹn họng. Giáo hội bị thế lực của Nghịch Cửu Hội len lỏi vào trong, mấy đời giáo hoàng đều bị hạ vu độc vào lễ đăng cơ, cộng thêm chuyện nước thánh bị trộm, giáo hội và thiên đường không còn bao nhiêu liên lạc. Mấy đời giáo hoàng đều sống trong nỗi sợ bị Thần ruồng bỏ, lại lo lắng một khi tin tức bị lộ sẽ đánh mất lòng tín ngưỡng của giáo đồ, huyết tộc thừa nước đục thả câu nên sống chết phải giữ kín bí mật này. Mãi đến mấy tháng trước khi nhận được danh sách của Nghịch Cửu Hội, họ mới thử điều tra danh sách đó xem thế nào thì lại phát hiện ra một vụ án động trời!

Sau khi họ giải bỏ hết toàn bộ phép thuật ngăn cản sự liên lạc giữa giáo đường và thiên đường xong xuôi, giáo hoàng, Timothy cùng những nhân viên cấp cao đều được thiên sứ báo mộng. Có lẽ do Timothy chưa trải qua nghi thức tiếp nhận nên chưa trúng phải vu độc, vì vậy được chọn là người liên lạc giữa thiên đường và giáo hội. Giáo hoàng biết được chuyện này thì luôn ủ rũ không thôi, chẳng thể nào phấn chấn lên được.

Tuy trên danh nghĩa ông ta vẫn là lãnh tụ tối cao của giáo hội nhưng hiện tại toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay Timothy.

Dù thế nhưng Timothy vẫn kính trọng giáo hoàng như xưa, vắt óc nghĩ xem nên trả lời thế nào để không bị bảo là nói dối lại giữ được mặt mũi cho giáo hoàng, “Thiên sứ vô cùng thông cảm cho ngài, cũng bày tỏ rằng ngài ấy rất hài lòng với sự phát triển của giáo hội ở nhân giới.” Thiên sứ quả thực từng khen ngợi quy mô của giáo hôi, cũng bảo rằng làm giáo hoàng không dễ chút nào, vậy xem như ông không nói dối.

Giáo hoàng thở phào nhẹ nhõm, “Vậy là tốt rồi, vậy là tốt rồi.”

Timothy thấy mắt ông ta thâm quần thì dịu giọng bảo: “Ngài nên nghỉ ngơi tử tế.”

“Vẫn chưa phải lúc.” Giáo hoàng đứng dậy. “Bên Tin Lành còn xôn xao gì không?”‘

Sau khi thành viên của Nghịch Cửu Hội bại lộ, Timothy bị gán cho tội báng bổ Thần. Bởi vì số lượng thành viên dính líu quá nhiều, không ít kẻ lại có thân phận vô cùng cao quý, bao gồm cả vài người được chọn kế thừa vị trí giáo hoàng. Những tôn giáo khác đánh hơi được tin tước liền đồng loạt lên tiếng chỉ trích giáo hội quản lý thiếu nghiêm ngặt, muốn mượn cơ hội này để làm lung lay địa vị của giáo hội ở nhân giới, Tin Lành là một trong những thành viên gây chuyện tích cực nhất.

Timothy nói: “Xin ngài đừng quá lo, thiên sứ luôn đứng về phía chúng ta.”

Giáo hoàng gật đầu, “Vậy còn Ansbach? Tiếp theo đây cậu định làm thế nào?”

Timothy đáp: “Uy hiếp hay lợi dụng đều vô dụng với Ansbach, mềm mỏng hay cứng rắn với hắn ta cũng không được. Nhược điểm duy nhất của hắn ta là Oregon, tôi định ra tay từ tên này.”

Giáo hoàng hỏi: “Bắt Oregon? Hắn ta là huyết tộc đời thứ tư, trừ phi thiên sứ ra tay.”

Timothy cười nói: “Không, tôi muốn dùng cách hòa bình hơn.”

“Hòa bình hơn?”

“Dùng tình cảm.”

Giáo hoàng phát hiện có quá nhiều lúc ông ta chẳng thể hiểu nổi Timothy đang suy nghĩ cái gì trong đầu.

Timothy cũng không hy vọng ông ta hiểu cho mình, “Ngài nên về nghỉ rồi ạ.”

Giáo hoàng nhìn ông ta, nói đầy ẩn ý: “Tôi muốn tâm sự với cậu.”

“Tinh thần của ngài không được tốt cho lắm, chuyện quan trọng để mai hẵng nói.” Timothy uyển chuyển từ chối.

Giáo hoàng hỏi: “Tôi không muốn bàn chuyện quan trọng.”

“Được thôi, ngài muốn bàn chuyện gì?”

Giáo hoàng buồn rười rượi bảo: “Thiên sứ không cần tôi nữa rồi…”

Timothy: “…” Quẳng giáo hoàng ra khỏi phòng có bị xem là phạm tội không nhỉ?!

Tuy Timothy phái Quentyn đi giám sát Oregon và Ansbach nhưng kẻ bị giám sát lại chẳng thấy lo lắng gì, vẫn hồn nhiên trải qua những ngày tháng ngọt ngào hạnh phúc. Tuy vậy, Ansbach cũng thầm bảo Macewen đi thăm dò tin tức của giáo hội. Thái độ của giáo hội đối với anh bất thình lình trở nên cứng rắn cứ như bị ai đó thúc giục, anh muốn biết nguyên nhân là gì.

Nguyên nhân nhanh chóng được đưa về – Giáo hội xuất hiện hàng loạt kẻ phản bội và bị dư luận nhiều phía khiển trách nặng nề.

Oregon nói: “Trong giáo hội có kẻ phản bội? Chắc chắn lâu lắm rồi trong đó không cho tăng lương.”

Ansbach nói: “Là người của Nghịch Cửu Hội.”

Oregon ngạc nhiên hỏi: “Sao anh biết?”

Ansbach đáp: “Tôi còn từng giải quyết một tên.”

Macewen sau khi báo cáo xong tin tức vẫn chưa bỏ đi, nghe anh nói vậy thì nhìn anh một cái.

Ansbach gật đầu bảo: “Chính là lão Benson.” Vốn phải do Lilith ra tay nhưng sau khi nhìn thấy hình của lão ta xong, Lilith lập tức chuyển vụ này cho Ansbach. Để tránh giáo hội đổ tội lên đầu Oregon, Ansbach còn làm phí mất một chiếc đồng hồ để tạo thành hiện trường có sự xuất hiện của kẻ thứ ba. Nào ngờ giáo hội không hề muốn tính sổ việc này mà ngược lại còn mượn cái cớ này để yêu cầu anh hợp tác đối phó Lilith.

Oregon chợt tỏ vẻ vỡ lẽ, “Là cái tên anh tặng hoa hồng.”

Ansbach nói: “Tướng tá lão xấu quá, chết đi chắc chắn càng khó coi hơn nên tôi mới để lại một cành hoa hồng xem như tô điểm đôi chút cho hiện trường.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95634
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 33 guests