Tạng Hải Hoa I (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tạng Hải Hoa I (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Image

Tạng Hải Hoa

Quyển I _ Diêm Vương Kỵ Thi

Tác giả : Nam Phái Tam Thúc


Giới Thiệu

Cuộc sống yên bình năm năm của Ngô Tà, đột nhiên bị người của Kim Vạn Đường đến thăm mà phá vỡ. Kim Vạn Đường hóa ra cũng biết được bàn vẽ hạt tử (con bọ cạp) trên Nguyệt Quang Thạch đã bị mang ra khỏi Trương Gia Cổ Lâu có liên quan đến thời thơ ấu của Muộn Du Bình.

Để truy tìm manh mối, Ngô Tà đi Nepal trước, sau đó lại chuyển tới Mặc Thoát ở Tây Tạng. Tại Mặc Thoát, các manh mối có liên quan tới Muộn Du Bình cứ ùn ùn kéo đến! Sự việc càng không thể cứu vãn, khi tại Cát Lạp tự Lạt Ma — Ngô Tà lấy được bút ký của Muộn Du Bình, biết được nguyên nhân hậu quả năm đó Muộn Du Bình tiến vào Tuyết Sơn. Điều khiến cho Ngô Tà khiếp sợ là, ở trong một quyển sổ khác cậu ta đã thấy được “Chung cực”— sâu bên trong lòng Tuyết Sơn mênh mông kia, lại có một cách cửa Thanh Đồng cực lớn khác!

Và đoàn người qua đường bí ẩn tụ tập tại Cát Lạp tự, tất cả những chuyện này là do trùng hợp hay là có người cố ý an bài? Cho đến cuối cùng cái đồ án hạt tử thần bí kia là có ngụ ý gì? “Chung cực” cho đến cuối cùng là cái gì?

Vì sao Ngô Tà là người duy nhất có thể cứu vớt được Trương gia? Những người này có thực sự là được Trương gia phái đi và bọn họ có thể tin được hay không? Bọn họ đang có mưu đồ bất chính hay là đang cố hoàn thành sứ mệnh của mình?

Đây là một đoạn hành trình hoàn toàn mới, Ngô Tà cùng với Bàn Tử đi theo bước chân của Muộn Du Bình vào sâu bên trong Tuyết Sơn, lúc này đây, Ngô Tà có thể tìm được lời giải cho tất cả bí mật hay không?
Last edited by tuvi on 21 Dec 2019, edited 2 times in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Chương 1. Khởi nguồn.

Rất khó để có thể bình thản viết lại được câu chuyện này. Vào giờ phút này, tôi đã cố gắng kìm nén mọi cảm xúc của mình, mới viết được một câu đầu tiên.

Có rất nhiều chuyện sau khi xảy ra, bạn không muốn ghi chép nó lại nữa, bởi vì bạn biết, mặc dù những câu chuyện này rất đáng để cho người khác đọc được, nhưng quá trình ghi chép lại sẽ khiến bạn lại phải trải qua toàn bộ những đau đớn, bồn chồn, nghi ngờ, thậm chí, có những lúc bạn sẽ quay trở lại đúng tình cảnh lúc ấy. Đó không phải là một trải nghiệm vui vẻ gì.

Lúc ấy, bạn sẽ nghĩ đến số mệnh. Bởi đối với tôi, nếu tôi sinh ra trong một gia đình bình thường, thì dù nội tâm tôi có khao khát được trải qua tất cả những chuyện này thì cũng đều không có cơ hội. Thế nhưng, tôi lại sinh ra trong một gia đình hết sức đặc biệt. Ngọn nguồn của điều đặc biệt này nằm ở ông nội tôi, ở đặc thù nghề nghiệp của ông nội, nếu có thể coi đó là một loại nghề nghiệp.

Dùng lời của người thời hiện đại nói, thì ông nội tôi là một tay trộm mộ tặc.

Vào thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi, ông nội tôi từng là một tay trộm mộ tặc cực kỳ nổi danh ở đất Trường Sa, mà tiếng lóng địa phương gọi là “thổ phu tử”. Sở dĩ cả nhà tôi đều hết sức quen thuộc với điều này, bởi sau khi CHND Trung Hoa vừa mới thành lập, ông nội tôi từng là đối tượng truy nã trọng điểm của bộ Công An trong suốt một thời gian, hình như phải đến những năm sáu mươi, lệnh truy nã mới được hủy bỏ.

Những chuyện ông nội đã trải qua năm xưa, nhà tôi không biết rõ nhiều chi tiết, đa phần những gì tôi biết đều đến từ những cuộc tán gẫu ngẫu nhiên của những bậc cha chú nhà tôi, hoặc là những cuộc đối thoại giữa ông nội tôi và các chú mà tôi từng nghe trộm. Ngoài một số việc trong gia tộc, và những thứ ông tôi từng trộm mộ có được, gần như ông chẳng nhắc đến thứ gì khác nữa.


Lúc ấy tôi đã biết, trong lòng ông nội chắc chắn là đã cất giấu rất nhiều bí mật. Bởi vì chuyện trộm mộ cổ đã qua từ rất lâu, một bí mật dù có lớn đến nhường nào, thì sau nửa thế kỷ ắt cũng sẽ biến thành chuyện cười, đó là quy luật của thời gian.

Nhưng ông nội tôi, mãi cho đến khi qua đời, vẫn giữ kín như bưng những chuyện này, không hề muốn nhắc tới, điều này rất không bình thường. Chúng ta thường nói, quá trình một bí mật dần dần được bóc tách ra, cũng như quá trình pha loãng thuốc nhuộm vậy, có những chuyện sẽ dần dần bị bóc trần ra ánh sáng theo thời gian. Cho dù trong lòng ông nội tôi có chấp niệm còn lớn hơn nữa, thì chuyện năm xưa thế nào cũng sẽ dần dần loãng ra trong lòng ông. Ấy vậy mà, chẳng có một chút nào.

Trong quãng thời gian ông trộm mộ năm xưa, chắc chắn đã xảy ra chuyện gì vô cùng đặc biệt, mức độ quan trọng của vụ việc này thậm chí còn không bị hòa tan bởi thời gian.

Điều khiến tôi càng thêm chắc chắn vào phán đoán của mình, đó là một phần di chúc cực kỳ quán đản mà ông nội tôi để lại.

Ông nội tôi qua đời rất bình thường, giống như bất kỳ ông lão nào biết mình sắp chết, trước khi chết, ông đã chẳng còn mấy phần sức lực để mà sợ hãi, ông dồn tất cả chút sức cuối cùng để dặn dò chuyện hậu sự.

Câu nói đầu tiên của ông, cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in. Ông nói: “Thật không ngờ ta lại có thể chết thật.”

Người khác không để bụng câu nói này, chỉ nghĩ rằng ông cụ cao tuổi quá, trước khi chết tâm trí mơ hồ, dùng từ lộn xộn.

Bố tôi thở dài, biết giờ phút này nói gì cũng vô ích, chỉ bảo: “Bọn con đều ở đây cả, lão Đại lão Nhị lão Tam đều ở đây cả, cả cháu trai cũng ở đây.”

“Ta muốn dặn dò các con một chút.” Ông nội tôi nói, từ những lời này có thể đoán ra được, tâm trí của ông vẫn còn rất tỉnh táo. “Những gì ta để lại, không tính là nhiều, nhưng vẫn còn một số thứ chắc là có chút giá trị, ba anh em tự chia nhau. Con nhà người khác ta không yên tâm, chứ ba anh em mấy đứa là ta yên tâm nhất.”


Bố tôi gật đầu. Ông nội tôi nói tiếp: “Sau khi ta chết, nhất định phải hỏa táng trong vòng hai giờ.”

Yêu cầu này có hơi kỳ lạ, nhưng lúc này không thể không vâng lời ông cụ, bố tôi đành phải gật đầu. “Trong lúc hỏa táng, mấy đứa phải bảo đảm bán kính ba mươi mét quanh lò hỏa táng không được phép có người nào, không cho phép ai nhìn thấy cảnh tưởng bên trong lò.” Ông nội nói tiếp.

Điều kiện này cũng được đáp ứng, nhưng ông vừa nói xong, cả nhà đều rất ngờ vực. Chúng tôi cứ im lặng chờ, chờ ông giải thích một chút, hoặc là nói tiếp.

Nhưng ông cụ nói xong, liền thôi, không nói thêm gì nữa, ngay cả hai mắt ông cũng không nhắm lại, chỉ nhìn chúng tôi.

Buổi tối hôm đó, ông nội tôi qua đời. Bố tôi là đứa con có hiếu nhất nhà, dựa theo yêu cầu của ông, hoàn thành tất cả mọi chuyện. Lúc đến nhà tang lễ cực kỳ vội vã, phải tốn rất nhiều tiền mới xử lý được. Vì đây là hỉ tang, cho nên cũng không ai quá mức đau buồn. Chẳng qua thời điểm khi hỏa táng, bọn tôi bị ba anh em bố tôi chặn ở ngoài hết, không cho vào, mãi đến khi cho ra được tro cốt thì mới được vào.

Bởi vậy, tuy tất cả mọi người đều rất lấy làm lạ, nhưng cuối cùng vẫn không ai biết được nguyên nhân của mấy yêu cầu đó.

Về chuyện này, chắc cũng tại bản tính nên tôi không truy cứu rõ ngọn ngành, dần dần rồi quên mất. Bây giờ nhớ lại, mới thấy, thực ra tất cả những gì xảy ra sau đó đã có đủ loại dấu vết xuất hiện ở khắp nơi ngay từ lúc đó rồi. Không nằm trong cuộc, thì chẳng biết gì hết, mà khi vừa ở trong cuộc, thì nhớ lại một lát, đã phát hiện ra dấu vết ở khắp nơi rồi.

Sau khi ông nội tôi qua đời, bố tôi phân chia một ít tài sản cho anh em, đều là những gia sản tương đối trong sạch. Bố tôi cả đời làm nghề địa chất, hoàn toàn không biết tí gì về đồ cổ, cứ mặc kệ đấy, về sau thấy tôi tốt nghiệp đại học xong không có việc làm, bèn giao hết cho tôi xử lý.

Cửa hàng bị bỏ bê là vì tính cách của bố tôi, hồi ấy tôi trẻ tuổi, năng nổ nhiệt huyết, sau khi nhận lấy cửa hàng bèn quyết định cải cách một phen thật lớn, làm ăn cho thật lớn mạnh. Tôi tìm một anh bạn thuở nhỏ, hai người bắt đầu đề ra kế hoạch phát triển, đi khắp nơi thu thập đồ tốt, kết quả, mắc lừa liên tiếp bốn lần liền, toàn bộ số vốn lưu động của cửa hàng cũng số tiền tiết kiệm của anh bạn kia bốc hơi sạch. Anh bạn thuở nhỏ của tôi bí quá hóa liều, cùng một thằng anh em họ hàng đi đào cổ mộ, kết cục là biến mất. Tôi cũng không dám khai thật với bố mẹ là cửa hàng đã hết sạch tiền, may mà một nửa mặt tiền cửa hàng thuộc về tôi, chỉ cần giao đủ một nửa tiền thuê và tiền điện nước là được. Vốn tôi định bỏ quách một nửa còn lại của mặt tiền cửa hàng đi (cuối cùng về sau cũng bỏ thật), nhưng rồi lại nghĩ, cửa hàng này vốn đã thế từ khi ông nội tôi còn sống, tuy bố tôi không lo liệu được, nhưng ít nhất mặt tiền cửa hàng vẫn không bị xén bớt mẩu nào. Thế mà bây giờ giao cửa hàng cho tôi, tôi làm ăn một hồi liền chém bay mất một nửa, thế nào cũng bị bố tôi mắng tơi bời.

Thế là, tôi đành phải cố gắng gồng gánh, khổ sở vô cùng. Cái nghề đồ cổ này, một đêm chợt giàu một đêm chợt nghèo là chuyện quá bình thường, nhưng nhất định phải có vốn lưu động, nếu không, làm nghề này còn chẳng bằng đi bán trứng luộc nước trà cho xong. Dựa vào danh tiếng năm xưa của ông nội, mỗi tháng ít nhiều cũng có vài người nghe tiếng mà tới. Tôi dựa vào tiếng tăm của ông nội mà lèo lái, thường vẫn có chút gặt hái. Sau đó, có một kẻ gọi là Kim Vạn Đường đến chỗ tôi.

Lúc ấy, Kim Vạn Đường cũng là vì ông nội tôi mà đến. Lão vào trong tiệm của tôi, mang theo một phần sách lụa Chiến Quốc, muốn tìm ông nội tôi giám định. Tôi có chút hiểu biết sơ sơ về những sự tích của ông nội, đó là câu chuyện xảy ra tại ngôi mộ huyết thi vào một đêm của vài chục năm trước, ông nội tôi cuối cùng đã cầm ra được một phần sách lụa Chiến Quốc dính máu, còn ông, cha và anh của ông nội tôi đều chết ở trong đó. Tôi vẫn có vài phần kiêng kỵ với vật này, nhưng chuyện làm ăn quá bết bát khiến tôi bắt đầu sinh ra tà niệm với phần sách lụa Chiến Quốc kia. Thế là tôi chụp trộm nó, tính làm hàng giả bán lấy tiền, nhưng không ngờ lại phát hiện ra, phần sách lụa Chiến Quốc này lại là bản đồ của một ngôi mộ cổ.

Không biết là do gen di truyền của trộm mộ tặc, hay là vì nghèo đến phát điên, ma xui quỷ khiến, tôi tham dự vào hoạt động trộm mộ lần đó. Mà trong hoạt động trộm mộ này, lần đầu tiên, tôi gặp được Trương Khởi Linh.

Chuyện về sau vô cùng rắc rối phức tạp, mỗi lần viết ra có thể viết đến được hàng triệu chữ. Tôi và Trương Khởi Linh trở thành bạn bè (thực ra không phải bạn bè thực, bây giờ nhớ lại, tôi cũng có chút buồn bã). Dần dần, tôi phát hiện ra, Trương Khởi Linh này cũng giống như ông nội tôi vậy, trên lưng họ đeo một bí mật tuyệt đối không thể tiết lộ. Hơn nữa, tôi phát hiện, dường như thứ mà Trương Khởi Linh đang gồng gánh còn có trăm ngàn đường dây mối nhợ với thứ mà ông nội tôi gồng gánh.

Bất đắc dĩ, tôi điều tra hắn. Rất nhanh, tôi sợ hãi nhận ra, Trương Khởi Linh này là người đồng trang lứa với ông nội tôi, có liên hệ với nhà tôi, trong một số hoạt động của chú Ba và ông nội tôi, người này cũng đã từng xuất hiện trong tư cách một kẻ xa lạ.

Hắn đã xuất hiện cùng với cả ba thế hệ nhà chúng tôi, hơn nữa, đáng sợ nhất là, ông nội tôi đã qua đời nhiều năm, nhưng hắn vẫn còn sống, với diện mạo như trạc tuổi tôi vậy.

Mặc dù tôi tin rằng hắn không hề có ác ý với tôi, nhưng mà, người này rốt cục là ai? Mục đích của hắn là gì? Rốt cuộc là Ngô gia chúng tôi xông vào trong đống bí ẩn của hắn, hay là hắn vẫn luôn vây quanh Ngô gia chúng tôi? Không ai biết được.

Hắn giống ông nội tôi, đeo trên lưng một bí mật. Liệu có phải là cùng một bí mật hay chăng?

Tôi càng không biết.

Nhưng vì sao ông nội tôi lại để lại lời trăn trối kỳ quặc đó, dần dần tôi cũng tìm được câu trả lời trong mớ rắc rối này. Những chuyện không thể tưởng tượng nổi mà thế hệ của ông nội đã thực hiện, cùng những âm mưu đáng sợ mà bọn họ đã sa vào, cuối cùng cũng dần dần sáng tỏ

Câu chuyện đó đã kết thúc. Nhưng trong vĩ thanh của câu chuyện đó, Trương Khởi Linh lại mang theo tất cả những bí mật của hắn, biến mất không tung tích. Tôi cứ tưởng mình cái gì cũng biết, nhưng rồi mới phát hiện ra, thực ra tất cả những gì liên quan đến hắn vẫn đều là một dấu hỏi chấm như cũ.

Tôi không biết sau khi tôi có con, người này liệu có xuất hiện trong cuộc đời của con tôi nữa hay không, vẫn là với khuôn mặt trẻ măng đó? Nhưng tôi có thể xác định chắc chắn, bất kể người này gồng gánh thứ bí mật gì, bất kể hắn có liên quan gì đến gia tộc của tôi hay không, tôi đều hy vọng tất cả những chuyện này có thể kết thúc trước khi sinh mạng tôi chấm dứt.

Tôi hy vọng mình có thể gặp hắn lần nữa, hiểu rõ những bí mật của hắn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Image

Chương 2. Chuyện Kỳ Lạ Đầu Tiên.

Trước tiên, xin kể một câu chuyện lạ.

Trấn Mã Bá nằm ở giáp ranh giữa tỉnh Giang Tô và An Huy, thuộc đất Hoài An. Trong phạm vi của trấn Mã Bá có một nơi gọi là Mã Am, trước khi CHND Trung Hoa thành lập, nơi này đã từng xảy ra một chuyện lạ lùng.

Trấn Mã Bá thuộc quận Đông Dương thời Tần Thủy Hoàng ngày xưa, ở đây tập trung nhiều mộ cổ Tần Hán, từ xưa đến này trộm mộ tặc nhiều vô số kể. Bởi vậy, dân địa phương vốn rất đề phòng trộm mộ tặc, quá quen thuộc với điều này rồi. Lúc ấy, ở vùng Mã Am có một tay cường hào địa chủ tên là Mã Bình Xuyên, nổi danh khắp cả vùng, chuyên buôn bán thuốc phiện sống. Mã gia đã chiếm cứ vùng này qua đến mấy thế hệ, mộ tổ tươi tốt cực kỳ. Vào những năm đó, chiến tranh loạn lạc liên miên, Mã Bình Xuyên thu nuôi các lộ đào binh, phân phát cho súng ống đạn dược, từ đó Mã Am trở thành một vùng tập trung võ trang cực kỳ kiên cố.

Phía sau thôn Mã Am có một quả núi mộ, mộ tổ nhà họ Mã nằm ở đó. Để đề phòng có kẻ trộm mộ, rất nhiều người được phái đến canh gác nơi đó thường xuyên.

Một năm nọ, trên quả núi mộ này đã xảy ra một chuyện lạ.

Chỉ trong một đêm, hoa màu trên mấy trăm mẫu đất ruộng xung quanh quả núi mộ phía sau thôn đều héo sạch mà chết.

Điều này đã làm dấy lên cả một cơn khủng hoảng cực lớn trong vùng, Mã Bình Xuyên ngỡ là phong thủy mộ tổ nhà mình đã xảy ra chuyện gì, bèn mời mấy ông thầy phong thủy nổi danh nhất vùng đến, bát đường hội thẩm, tìm biện pháp hóa giải, nhưng mãi mà vẫn không tra ra được nguyên do.

Mã Bình Xuyên cực kỳ quyết đoán, lập tức vung ra một món tiền lớn, tìm một khoảnh đất báu phong thủy khác, ra lệnh di dời mộ phần.

Tức thì, cả khoảnh đất bằng phía sau thôn khói lửa lan tràn, cứ như là đang đánh giặc vậy. Mã gia định di dời mộ phần họ nội trước, sau đó mới đến họ nại, mỗi nhà tự tìm thầy phong thủy, làm lễ cúng bái, khai mở mộ phần, bánh pháo nổ đì đùng liên tục.

Ban đầu, họ nội bốc mộ trước tiên. Mã Bình Xuyên làm lễ rất lớn, xếp cả mấy hàng lính nổ súng lên trời, người họ Mã đào mộ tổ nhà mình lên, nhưng đào xuống sâu đến mười mấy mét, vẫn không thấy quan tài đâu cả.

Quan tài trong mộ tổ đã không cánh mà bay.

Mã Bình Xuyên nổi trận lôi đình, hạ lệnh bốc hết toàn bộ quan tài trong mộ tổ vào ngày hôm đó. Thế là bụi đất tung bay mù mịt, đào xong, bọn họ mới giật mình phát hiện ra, bên dưới toàn bộ phần mộ mà mình đã tế bái suốt mấy trăm năm lại chẳng có lấy một cỗ quan tài nào.

Mã Bình Xuyên nổi giận đùng đùng, ra tay bắn chết mấy tên lính canh mộ, rồi ra lệnh đào hết cả nghĩa địa lên, để xem quan tài có còn ở bên dưới hay không. Ông ta nhất định phải tra rõ ràng chuyện này, chẳng lẽ thực sự có trộm mộ đào sạch mộ phần?

Sau khi điều tra kỹ càng một lượt, Mã Bình Xuyên mới phát hiện trong nghĩa trang không hề có quan tài... tất cả những mộ phần rỗng đều tập trung hết ở cánh đồng nơi hoa màu chết khô kia.

Chuyện này cơ hồ trở thành tâm bệnh của hắn. Những thầy phong thủy địa phương biết một khi tham dự vào chuyện này chỉ có mất mạng nên đều trốn chạy, cũng không ít kẻ coi đây là cơ hội phát tài chạy tới mạo hiểm. Giằng co như vậy khoảng một tháng khiến Mã Xuyên vô cùng khó chịu, bị lừa đến độ phiền nhiễu. Vì thế, ông ta hạ lệnh đóng cửa, từ chối tiếp khách, nhìn thấy thầy phong thủy tìm đến liền đánh đuổi đi.

Không tiếp khách đến ngày thứ ba, một hôm nọ, Mã Bình Xuyên đang tập Thái Cực Quyền trong sân...Bỗng nhiên nhìn thấy trên mái hiên nhà mình có một cậu bé đang ngồi. .

Đứa bé này nét mặt điềm tĩnh, nó ngồi co mình một góc trên mái hiên, mặc chiếc áo xanh dài, tuổi khoảng mười mấy. Cậu chỉ nhìn Mã Xuyên, không có ý nói chuyện.

Mã Bình Xuyên sợ hết hồn vía, lập tức gọi cảnh vệ tới, vì nghĩ rằng đó là hồ yêu hay thứ gì đó ô uế... Suốt mấy ngày liên tiếp sau đó, đối với những chuyện như thế này ông ta đã trở nên thập phần mẫn cảm .

Thực ra, ông ta suy nghĩ như vậy cũng là có nguyên nhân của nó, bởi vì nhà cửa canh gác nghiêm ngặt, cho dù là chó mèo hoang còn vào không được nữa là con người huống hồ là một đứa bé...Một đứa bé như thế làm sao mà đi vào sâu tận bên trong nội viện được.mấy lớp cảnh vệ canh cửa kia làm ăn kiểu gì không biết….?

Một đứa trẻ con mười mấy tuổi đột nhiên xuất hiện ở đây, chỉ có thể là tà vật thôi.

Nhưng khi hắn nhìn kỹ tiểu hài tử này thì lại phát hiện thật đúng là người sống, không chỉ có hô hấp, mà lại còn đang ngồi xổm ở mái hiên.

“Tiểu tử thối, người theo chỗ nào mà vào được đây.”Mã Xuyên ngẩng đầu hỏi đứa trẻ.

Đứa bé kia không nói lời nào, chỉ tay về một hướng. Lúc ấy Mã Bình Xuyên còn chưa nhận ra, đứa bé ấy đang chỉ về hướng mộ tổ nhà mình.

“ Ngươi có biết đây là nhà ai không? Sao dám tự tiện xông vào?” Mã Bình Xuyên càng nhìn thằng nhóc này, càng thấy nó trông rất sạch sẽ ra dáng, không khỏi thích thú.

Đứa be lúc này mới mở miệng nói: “Tôi biết quan tài nhà ông đang ở đâu.”

Mã Bình Xuyên nhíu mày, ông ta đã phát ngán với chuyện này rồi, nhìn thằng nhóc kia, trong lòng buồn bực không biết đây là tình huống gì. Nếu là một tay thầy phong thủy nói những lời này, thì thế nào cũng chỉ là bốc phét lừa tiền mà thôi, nhưng mà một đứa trẻ con mười mấy tuổi nói những lời này, lại khiến người ta có cảm giác khiếp sợ.

Mã Xuyên đương nhiên không bị những lời này làm cho sợ hãi..... Ông ta quát lên : “Tiểu tử, lời này ai dạy ngươi? Đám già đầu đấy lừa tiền ta, tiểu quỷ ngươi cũng dám lắm miệng nhỉ?”

Đứa bé kia chẳng có vẻ gì là sợ ông ta, bình thản đáp: “Tôi đã đến đây rồi, muốn tiền thì cứ mặc sức lấy là được. Chẳng qua tôi tới là để nói cho ông hay, rằng tôi biết quan tài trong mộ tổ nhà ông ở đâu.”

Mã Xuyên nghĩ thầm, đã đến được nội viện, phòng thu chi thì ngay bên cạnh, nó muốn lấy tiền có thể trực tiếp xuống lấy. Tiểu quỷ này có thể đến được đây, tất nhiên cũng có thể ma không biết quỷ không hay mà đi ra ngoài.

Kinh nghiệm bản thân cho ông ta biết, tiểu tử này không hề đơn giản, liền lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Vậy ngươi nói xem, quan tài của tổ tiên Mã gia ta đang ở đâu?”


Đứa bé nói: “Tôi nói ra chắc chắn ông không tin, chi bằng ông đi cùng tôi đến đất mộ một chuyến.” Mã Bình Xuyên liếc nhìn tên cảnh vệ, rồi lại nhìn đứa bé. Đứa bé này vẫn cứ bình thản nhìn ông ta, khiến ông ta cảm thấy đây là một sự khiêu khích cực kỳ khó chịu.

Đây không phải là một cái nhìn bình đẳng, Mã Bình Xuyên cảm thấy, Tiểu quỷ này nhất định cảm thấy hắn hoàn toàn không đáng sợ nên mới dám nhìn bằng ánh mắt kiểu đó.

Hơn nữa, có vệ sĩ ở ngay bên cạnh ông ta suy nghĩ một lát, trong cả tám thôn mười dặm quanh đây chỉ cần động đậy một ngọn cỏ, ông ta cũng sẽ là người biết đầu tiên…. thế nên ông ta còn phải sợ cái quái gì nữa chứ... Chẳng lẽ có kẻ nấp sẵn trong mộ muốn ám sát ông ta sao..?

Có sóng to gió lớn nào mà ông ta chưa từng gặp qua chứ….Nếu thật sự có kẻ muốn ám toán ông ta , thì cũng vừa lúc là dịp để hắn thao luyện binh lính. Ở trong nhà mình mà còn nhát gan để cho đám vệ sĩ nhìn thấy, thì không khỏi có chút mất mặt.

Mã Xuyên nhìn tiểu hài tử nói: “ Được, cứ làm vậy, ngươi xuống dưới đi.. Có biết cưỡi ngựa không..?”

Đứa bé không nói lời nào, xoay người nhảy thoắt xuống khỏi mái hiên, động tác nhẹ nhàng cứ như một con báo vậy. Sau khi đứng vững, nó cũng chẳng nói câu nào, chỉ gật đầu.

Mã Xuyên tập hợp một nhóm cảnh vệ, lên ngựa mang theo cả tiểu hài tử, chạy một mạch đến nghĩa trang gần quả núi mộ.

Tại đây, đứa trẻ chỉ vào đám đất khô héo, nhìn Mã Xuyên nói: “Ông xem, nơi này cây cỏ đều chết héo.”

“Người mù cũng thấy được điều đó” Mã Xuyên nói, “tiểu quỷ, ngươi tốt nhất không nên lừa ta, nếu không ta có thể giết ngươi ngay tại đây. Nói mau, quan tài ở đâu?”

“Ông nói xem, vùng khô héo đó nhìn giống cái gì?” Đứa bé nói.

Mã Xuyên nhìn xung quanh khắp mảnh đất khô héo , quả thực hắn chưa bao giờ nghĩ đến chuyện xem xét hình dáng của khoảnh ruộng héo này. Nhưng nơi bọn họ đứng không đủ cao, nên không nhìn rõ được. Vì vậy, Mã Xuyên nháy mắt ra hiệu với một vệ sỹ, người đó liền xoay người leo lên một cây cổ thụ, dõi mắt nhìn ra xa, rồi kêu vọng xuống :

“Ông chủ, trông giống một con bọ cạp!”

Mã Xuyên nhíu mày nghĩ thầm " Chẳng lẽ thật là như thế ư "....

Tức khắc ông ta cũng chẳng buồn lo đến hình tượng gì nữa, chạy đến bên dưới tán cây, gắng sức trèo lên trên. Từ trên tán cây nhìn xuống dưới, trong lòng ông ta không kìm được giật thót một cái. Quả nhiên, phần hoa màu khô héo tạo thành hình một con bọ cạp khổng lồ đang giương nanh múa vuốt.

Ông ta gào vọng xuống với đứa bé bên dưới: “Thế này là thế nào?”

Hình bọ cạp này rất ngay ngắn, chắc chắn là không phải được hình thành một cách tự nhiên. Nhưng ai lại có thể khiến cho hoa màu trên ruộng khô héo hết tạo thành hình dạng này, chỉ trong đúng một đêm?

“Dưới lòng đất ở khu vực này có chôn một thứ gì đó rất lớn.” Đứa bé nói. “Thứ mà ông nhìn thấy, là ‘cái bóng’ của nó hiện lên trên mặt đất.”

Mã Xuyên trèo xuống khỏi cây, leo lên ngựa, sắc mặt đã rất khó coi rồi. Thứ nhất là, ông ta có chút hối tiếc, tại sao mình lại sơ suất, không phát hiện ra hình dạng bí ẩn này sớm hơn. Thứ hai là, lời giải thích của đứa bé này khiến ông ta có chút nửa tin nửa ngờ.

Đây là có ý gì? Dưới đất ngầm chôn một thứ rất lớn…. cái bóng của nó là hình một con bọ cạp. Tại sao “cái bóng” này lại khiến cho hoa màu trong ruộng héo khô hết cả...Cái vật khổng lồ bí ẩn chôn ngầm dưới đất này là cái gì? Chẳng lẽ là một con bọ cạp khổng lồ..?

Sao lại có thể như vậy? Nhưng nếu quả thực dưới đất có chôn một con bọ cạp khổng lồ như vậy, thì mình cũng chỉ có nước vắt chân lên cổ mà chạy thôi, còn làm gì được nữa.

Đứa bé kia thúc ngựa tiến lên phía trước, đi thẳng đến chân núi, nhìn Mã Xuyên nói:

“Khu mộ địa nhà các ông được xây ngay phía trên một ngôi mộ cổ. Ông xem phạm vi hoa mầu khô héo kia chính là thuộc phạm vi địa cung của mộ cổ đó...Ngôi mộ cổ này sâu khoảng hơn bốn mươi mét, địa cung được xây thành hình dạng một con bọ cạp rất quỷ dị, không biết có dụng ý gì.”

Đứa trẻ dừng một chút nói tiếp, “sở dĩ hoa màu nơi này chết héo bởi vì thời điểm xây dựng lăng mộ đã đặt một vài cơ quan, gần đây có kẻ xâm nhập cổ mộ, tác động đến cơ quan, làm khí độc tích tụ bên trong bốc hơi lên, chỉ trong một đêm làm hoa màu nhiễm độc mà chết.”

“Tiểu quỷ, sao ngươi biết những chuyện nay..?” Mã Xuyên hỏi

"“Chẳng lẽ ngươi có mắt nhìn xuyên thấu?”

Đứa nhỏ nhìn ông ta, thản nhiên nói “Bởi vì tôi là kẻ trộm cái mộ đó.”

Mã Xuyên nhíu mày, dừng ngựa lại, thủ hạ của hắn cũng lập tức dừng theo. Đứa nhỏ quay đầu nhìn Mã Xuyên. Ông ta hỏi: “Ngươi nói cái gì? Tiểu quỷ, ngươi có biết ăn nói lung tung sẽ có hậu quả gì không? Đây là mộ phần của Mã gia ta, ta nói cho ngươi biết, ngươi quật mộ kích hoạt cơ quan không chỉ kinh động tổ tiên của ta, mà còn làm hoa màu nhà ta nhiễm độc chết.”

“Tôi không nói lung tung.” Đứa trẻ kia nói, “Huống hồ, tôi còn chưa nói hết, các người muốn biết mộ phần tổ tiên đã đi đến đâu đúng không?”

Mã Xuyên gật đầu, tay đã đặt lên súng lục trên thắt lưng: “vậy ngươi nói đi, ở đâu.? Cùng bọ cạp này có liên quan gì?”

“Bị ăn rồi.” Đứa bé kia nói, “Ngôi mộ cổ phía dưới kia, đã ‘ăn’ hết quan tài trong mộ tổ nhà ông rồi.”

“Ăn....?” Mã Xuyên cảm thấy rất quái dị, không ngờ ông ta lại trò chuyện nghiêm túc với một thằng nhóc mười mấy tuổi đầu, hơn nữa, còn bị khí thế của thằng nhóc này trấn áp. Kỳ lạ nhất là, ông ta phát hiện lời đứa bé này nói lại có vài phần đáng tin. Ông ta siết chặt khẩu súng trong tay, muốn giành lại quyền chủ động về phía mình: “Ăn là thế nào, ngôi mộ cổ đó là sinh vật sống à?”

Đứa bé lắc đầu: “Tôi không biết.”

“Không biết?”

“Tôi biết ông có thể tìm thấy những cỗ quan tài kia ở đây, nhưng tôi không biết tại sao quan tài lại bị ngôi mộ cổ lớn nhất này ăn mất.”

Đứa bé nói, “Nếu bây giờ ông đào xới nơi này lên, ông sẽ phát hiện toàn bộ số quan tài này đều nằm ở sát ngoài bờ tường ngôi mộ cổ hình bọ cạp dưới này, như thể bị cái gì hút lấy vậy.”

Đứa bé này cực kỳ điềm tĩnh, loại điềm tĩnh này còn vượt trên cả mức điềm tĩnh của người thường, khiến Mã Xuyên ngày càng cảm thấy không thấy thoải mái.

Nếu bạn gặp phải một kẻ thoạt trông thì thấy có vẻ yếu ớt , nhưng lại không hề sợ bạn một chút nào, tốt nhất là bạn nên dè chừng kẻ này một chút, bởi vì trạng thái “không sợ” này là thứ không thể giả vờ được. Kẻ không biết sợ thực sự chắc chắn là vì bên trong ẩn chứa một lượng sức mạnh vô cùng to lớn. Hạng người như Mã Xuyên, vốn quen dùng quyền thế bức hiếp người khác, nhưng thực ra bên trong ông ta cũng chẳng có mấy sức mạnh.

Nói xong, đứa trẻ mới nhìn về phía Mã Bình Xuyên: “Tôi có một việc, phải báo với ông một tiếng. Chưa đầy vài tháng nữa, trong phạm vi mấy chục dặm quanh đây sẽ không mọc nổi một ngọn cỏ nào, mấy chục năm sau cũng chưa chắc hồi phục lại được như cũ, tất cả mọi người trong khu vực này cũng đừng mong được chết già yên ổn. Vùng này nhân khẩu đông đúc, ông đây xem như là chúa tể một cõi, nên làm một chút gì đó, có lẽ chuyện sẽ không đến mức như tôi nói.”

“Vậy phải làm sao?” Mã Xuyên hỏi

“Tiểu quỷ, ngươi tìm ta nói những lời này khẳng định có mục đích, chi bằng đem sự tình nói rõ hết ra xem nào.”

Đứa bé nói: “Tôi có vài người đồng bạn, đến nay vẫn còn bị kẹt trong mộ cổ dưới lòng đất. Tôi nhìn thấy quan tài nhà ông trong mộ cổ, biết rằng Mã gia là danh gia vọng tộc ở vùng này, vì hướng đi của quan tài khá phiền, nên mới đến đây báo với ông một tiếng, đồng thời, tôi cũng mong ông có thể giúp tôi làm hai việc. Thứ nhất, chuẩn bị cho tôi lương khô dùng trong bảy ngày, một thanh đoản đao, nặng sáu cân, đèn bão dầu đen và bột than một túi, tôi phải xuống dưới cứu bạn, cũng sẽ tìm cách phong kín mấy cái lỗ thủng trong mộ cổ. Thứ hai, xin ông hãy đào xới bờ ruộng hoa màu khô héo này lên, lấy cây gậy trúc dài năm trượng cắm xuống bùn ướt, rót vôi vào gậy, gõ cho vôi trôi xuống bùn, chỉ chừa lại một lóng tay, càng kín càng tốt.”

“Vì sao phải làm vậy?”

" Để hạn chế bớt những điều tồi tệ dưới đó”Tiểu hài tử nói

“tôi từ trong đó đi ra quả thực không dễ dàng. Bằng hữu của tôi ở dưới đó, không biết sống chết ra sao, nhưng sự tình là do chúng tôi gây ra, nhất định sẽ tự giải quyết. Nếu 7 ngày sau tôi không quay lại tìm ông, nhờ ông chuyển giùm phong thư này về quê tôi.”

Nói đoạn, đứa bé lôi ra từ trong ngực một phong thư, đưa cho Mã Xuyên, nói: “Nếu bảy ngày sau tôi chưa ra, thì nơi này, ông hãy bảo con cháu ông nhất định không được tới gần.”

Mã Bình Xuyên nhìn bao thư, thấy tên người nhận là “Trương gia vùng Đông Bắc”, cau mày nói:

" Tiểu quỷ, phía dưới này rốt cuộc là mộ của ai... Vì sao lại hung hiểm như thế? Nếu như đây là đại mộ phần của tổ tông nhà ta, thì chẳng phải ta giúp người ngoài đụng đến mộ phần gia tộc sao?

Đứa bé nói: “Nhà ông hưng thịnh như thế, chắc chắn không có liên quan đến thứ tà huyệt này. Nhà ông xây mộ phần ở núi này, có lẽ chỉ là trùng hợp mà thôi. Ngôi mộ cổ dưới đáy đất này lá của ai không xác thực được, nhưng dựa vào hình dạng mộ thất, thì chắc chắn không phải kẻ tầm thường.”

Mã Xuyên suy nghĩ một chút, ông ta nghĩ đến chuyện khác….nếu đây không phải mộ phần tổ tiên mình xem quy mô mộ lớn thế này, bên trong nhất định là có vô số báu vật, nếu trơ mắt để tiểu tử này khoắng mất hết há chẳng phải mình ngu ngốc lắm hay sao?

“Hôm nay tôi đã nói quá nhiều rồi, ông đừng hỏi thêm gì nữa.” Đứa bé nói, “Ông có giúp hay không,tôi cần biết chính xác "

Buổi tối hôm đó, Mã Xuyên đã chuẩn bị xong những thứ mà đứa bé kia yêu cầu, Nó mang theo bánh mỳ, rồi lập tức biến mất trong bóng đêm. Ngày hôm sau, ông ta làm theo lời nói của tiểu hài tử, đi mua gậy trúc dài cùng vôi, cắm khắp khu vực ruộng héo đó.

Ý định của Mã Xuyên là, chờ đứa bé này làm xong chuyện của mình, thì phải bắt lại cho kỳ được, ép nó dẫn theo người của mình đi vào trong mộ cổ, hoặc là, cứ dứt khoát chơi trò đen ăn đen, bắt chúng nó giao hết báu vật trộm được ra, dù sao thì mộ cổ này cũng là thuộc địa bàn của ông ta.

Thế nhưng, Mã Bình Xuyên không bao giờ còn gặp lại đứa bé kia nữa.

Việc lạ đến đó vẫn chưa chấm dứt, Mã Xuyên tham lam lại tò mò muốn biết nên nửa tháng sau hạ lệnh khai quật cổ mộ, muốn trông xem rốt cuộc là bộ dáng gì.

Thế nhưng, bọn họ đào ra được một cái hố sâu to tướng, lại không phát hiện ra mộ cổ nào, mà chỉ moi ra được một con bọ cạp sắt màu đen dài hơn hai trượng. Nếu đào tiếp đất bên dưới con bọ cạp thì đất bùn cứ liên tục sụt xuống, hơn nữa, hành động này còn làm kinh động đến các thế lực ở khắp nơi đến thăm dò, Mã Bình Xuyên thấy không thể làm tiếp được nữa, đành phải lấp hết bùn đất về như cũ.

Nhiều năm sau, khi Mã Bình Xuyên mới nhớ đến phong thư nọ, bèn sai người đưa thư đến địa chỉ trên phong thư của đứa bé kia, cũng thăm dò hỏi thăm, mới phát hiện địa chỉ trên phong thư là một trạch viện rất lớn, nhưng đã vườn không nhà trống. Dân địa phương nói, Trương gia vốn là một danh gia vọng tộc nổi tiếng ở vùng này, hành sự rất kín đáo, nhưng không hiểu vì sao, nhà họ đã suy tàn từ một thời gian trước đây,họ mai danh ẩn tích...trở nên im hơi lặng tiếng.

Không một ai biết, tiểu hài tử kia đã đi đâu.... Bên dưới mộ tổ Mã gia liệu thật sự có một địa cung hình bọ cạp hay không?

Mã Xuyên cũng chỉ phỏng đoán, đứa bé đó hẳn là họ Trương. Nếu hắn sống sót, thì nhất định là một kẻ khó lường.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Chương 3. Chuyện Lạ Thứ Hai.

Lại kể tiếp một câu chuyện lạ nữa.

Trần Tuyết Hàn không hề hiểu biết rõ về Tây Tạng. Sau khi rời khỏi quân ngũ, ông ta đổi nghề, chuyển đến Tây Tạng, ở Mặc Thoát (Nagchu) hơn một năm, ở Medog hơn ba năm, nhưng cũng chỉ là nán lại mà thôi.

Tây Tạng vào những năm đó, mức độ khốn khó ngoài sức tưởng tượng của người thường, nhưng một khi đã quen, thường sẽ tìm được lý do cho mình để ở lại.

Trần Tuyết Hàn cũng vậy. Sự hiểu biết về Tây Tạng của ông ta chỉ giới hạn trong phạm vi những gì mà ông ta nhìn thấy, lý do nấn ná mãi ở đó chẳng qua cũng chỉ là “vì đã quen rồi”.

Trong mắt ông ta, tất cả những gì thuộc về Tây Tạng, nếu liệt kê ra bằng chữ viết, thì là một loại “bỏ gốc lấy ngọn”. Ông ta không cần phải hiểu Tây Tạng, bởi vì đối với ông ta, Tây Tạng không phải là một khái niệm, thứ mà ông ta yêu thích không phải là cái tên, mà là bản thân nơi này. Ông ta cũng không mấy bằng lòng với những vị khách đến đây huyên thuyên mãi về lòng ngưỡng mộ của mình với văn hóa Tây Tạng huyền bí. Vì sao phải tới đây? Lý do ấy nằm trong bầu không khí mong manh mà mát lành này, nằm trong những rặng núi tuyết nguy nga đồ sộ kia, nằm trong những cánh đồng tuyết bao la bát ngát mà tĩnh lặng như thiên đường, chứ không phải nằm trong những câu chuyện phù phiếm.

Mấy năm về trước, ông ta sống nhờ vào mấy công việc làm thuê ngắn hạn giúp dân địa phương, hay làm phu đánh xe, đặng kiếm chút bơ và thịt dê. Sau khi đặt chân đến Medog, ông ta mở một quán cơm cũ nát, những năm ấy còn chưa có lắm những kẻ dở hơi thừa tiền đến Tây Tạng để tìm ý nghĩa của cuộc sống, khách ăn của ông ta phần lớn là gia đình của các quân nhân đến thăm người thân, hoặc nhân viên biên phòng thuộc trạm lính ở địa phương.


Ở Medog, một năm có đến tám tháng là tuyết dày phong kín núi. Núi Đa Hùng Lạp hiểm trở, tuyết dữ, vào mùa đại tuyết, khách rất ít, ông ta sống một mình trong gian nhà phía sau quán cơm. Sự tĩnh mịch đó khiến ông ta mê đắm, hơn nữa, vào mùa này cũng rất ít người đến quấy rầy ông ta.

Ông ta không biết ham muốn ẩn cư lánh đời này từ đâu ra, có lẽ là bởi vì năm ấy ông ta từng nằm mơ thấy mình đứng trên đỉnh núi tuyết, đó là một cảm giác yên bình đến siêu phàm, cho nên, ông ta đã truy tìm đến tận đây.

Có điều, không phải năm nào ông ta cũng được tận hưởng sự tĩnh lặng này. Mùa đông năm đó là một ngoại lệ.

Hình như mùa đông năm ấy rất dài, Trần Tuyết Hàn cũng không nhớ là vào tháng mấy nữa, chỉ nhớ tuyết đã rơi liên tiếp ba ngày liền. Vào một buổi sáng khi đang quét tuyết, ông ta thấy một vị Lạt Ma đứng trước cửa quán cơm.

Đó là Lạt Ma của chùa Cát Lạp, hình như tên là Trát Cát, năm xưa anh ta từng lén đến đây đòi uống rượu.

Chùa Cát Lạp là miếu Lạt Ma trên núi tuyết. Hồi còn làm phu đánh xe thuê, Trần Tuyết Hàn thường xuyên lên đó, rất quen thuộc với các Lạt Ma trong chùa.

Từ chùa Cát Lạp đến đây phải mất nửa ngày đường. Khi đó, trời tảng sáng, tuyết còn chưa ngừng, Trát Cát toàn thân dính đầy sương giá, hiển nhiên là xuống núi suốt cả đêm. Cho dù là Lạt Ma quen đường núi đến mấy, thì buổi tối xuống núi vào giữa mùa tuyết rơi cũng hết sức nguy hiểm, Trần Tuyết Hàn đoán, nhất định là đã có việc hệ trọng gì đó, mới khiến anh ta phải lặn lội suốt đêm đến đây.

Vị Lạt Ma này hình như đã kiệt sức, đứng mãi ở đó không phản ứng chút nào. Trần Tuyết Hàn dùng thứ tiếng Tạng khá gượng gạo máy móc hỏi anh ta có việc gì thế.

Vị Lạt Ma không trả lời, chỉ nói: “Xin hãy cho tôi một phần cơm, cái gì cũng được, tôi còn phải lên đường.”


Trần Tuyết Hàn hỏi: “Đi đâu?”

Vị Lạt Ma nói: “Tôi phải đến chùa Mã Phổ.”

Chùa Mã Phổ là một ngôi chùa lớn, ở ngoài Medog. Trần Tuyết Hàn vô cùng kinh ngạc, bởi vì vượt núi Đa Hùng Lạp vào mùa này nguy hiểm cực kỳ, cho dù có lý do gấp gáp đến đâu, thì cũng phải chờ tuyết ngừng rơi, tìm người đồng hành mà đi. Bằng không sẽ rất dễ gặp phải tuyết lở, càng huống hồ rất nhiều tuyến đường núi vào lúc này đã bị che lấp, không sao nhìn rõ được.

Vì vậy, Trần Tuyết Hàn mời vị Lạt Ma vào trong nhà, chuẩn bị cho anh ta mấy ổ bánh mì thanh khoa, rồi lại hỏi anh ta liệu có phải trong chùa đã xảy ra chuyện gì hay không.

Vị Lạt Ma lại trộm hỏi xin ông ta vài hũ rượu, rồi mới nói: “Đúng vậy, Thượng sư muốn tôi đến chùa Phổ Tự, nói với bọn họ rằng, vị khách kia đã trở lại rồi.”

Trần Tuyết Hàn nghe vậy rất lấy làm lạ: “Khách? Khách từ đâu tới? Vị khách nào cơ?”

Vào mùa này sao lại có khách du lịch đi vào khu Medog? Huống hồ, lại còn là đến một ngôi miếu trên một ngọn núi tuyết, thật là lạ lùng.

Vị Lạt Ma lắc đầu, gói mấy cái bánh thanh khoa lại, bảo rằng: “Nghe Thượng sư nói, là vị khách đến từ trong núi tuyết. Tôi cũng không biết là người nào.”

Tiếng Tạng của vị Lạt Ma mang theo khẩu âm rất kỳ quái, Trần Tuyết Hàn nghe mà thấy là lạ, Trát Cát nhất định là người vùng ngoài, bị cha mẹ đưa đến nơi này làm Lạt Ma. Cát Lạp không phải chùa lớn gì, nhưng những Lạt Ma ở đó nổi tiếng là bậc trí giả khắp vùng này, rất nhiều người muốn đưa con trai mình lên ngôi miếu trên núi tuyết này học tập.

Vị khách đến từ trong núi tuyết. Đây có lẽ là một cách nói bí ẩn nào đó, rất nhiều lời nói của các Lạt Ma nghe có vẻ tối tăm khó hiểu, nhưng ẩn chứa trong đó là những ý nghĩa sâu xa.


Trần Tuyết Hàn biết, chuyện trong miếu ông ta có nghe cũng chẳng hiểu gì, hơn nữa, hỏi han nhiều quá cũng không được lễ độ cho lắm, vì vậy, ông ta bèn giúp vị Lạt Ma gói ghém hành trang, cất kỹ rượu và thức ăn.

Theo thói quen, ông ta tiễn Trát Cát đi một đoạn, giúp anh ta vác hành lý, đây cũng là một cách lễ Phật, mặc dù Trần Tuyết Hàn không tin Phật, nhưng ông ta thích cái bầu không khí trật tự yên lặng mà cách này đem lại.

Tuyết đã ít đi một chút, núi Đa Hùng Lạp phía xa xa một dải trắng thuần, hòa vào với mây trời xám trắng thành một thể thống nhất, cảnh tượng này khiến lòng người rạo rực vô cùng. Bọn họ không ai nói lời nào, nghe tiếng bước chân đạp tuyết, đi được chừng một giờ, Trần Tuyết Hàn không kìm được nữa, hỏi có cần tìm mấy người thôn dân đi cùng hay không.

Vị Lạt Ma mỉm cười với Trần Tuyết Hàn, lắc đầu nói: “Đừng lo lắng, tất cả nhất định sẽ thuận lợi.” Anh ta nói, có vẻ rất điềm tĩnh, mặc dù hết sức mệt mỏi, nhưng trong lòng tràn đầy vui sướng. Nói xong, anh ta hành lễ với Trần Tuyết Hàn, ý là cáo biệt.

Trần Tuyết Hàn đáp lễ, trong lòng lại có chút ngờ vực. Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra trong miếu Lạt Ma, khiến anh tiểu Lạt Ma này có thể lộ ra vẻ mặt điềm tĩnh như thế?

Ông ta hơi thất thần, lẳng lặng dõi mắt nhìn Trát Cát đi xa dần. Đột nhiên, tiểu Lạt Ma quay đầu lại, nói với ông ta một câu.

Ông ta không nghe hiểu được câu đó nghĩa là gì. Câu nói ấy bị gió thổi tan trong hoa tuyết. Chờ đến khi ông ta giật mình chạy đuổi theo, thì vị Lạt Ma đó đã biến mất giữa tuyết trắng, cứ như thể chưa bao giờ tồn tại vậy.

Hai câu chuyện này, xảy ra ở hai nơi cách nhau ngàn dặm, nhưng bí mật trong hai câu chuyện này nếu kể tường tận ra, thì siêu phàm đến tột cùng. Mộ cổ dưới lòng đất vùng Trung Nguyên và vị khách giữa vùng tuyết Tây Tạng liệu có mối liên quan nào mà người khác không hề hay biết? Câu đố lớn nhất trong lịch sử ẩn chứa phía sau sẽ được tháo gỡ chính bởi bước ngoặt này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Chương 4. Khởi đầu của luân hồi .

Sau câu chuyện kia, tôi lại bắt đầu chắp bút một lời tựa sau cùng cho câu chuyện đó, hoàn toàn là bởi chuyện này đã xảy ra một diễn biến bất ngờ, diễn biến này tuy không chấn động như tôi tưởng tượng lúc trước, nhưng nó mang lại một lượng thông tin khổng lồ, vượt quá cả dự tính của tôi.

Sau chuyện này, tôi đã hiểu ra được một đạo lý...Bạn không cần phải ra sức truy tìm đáp án cho những câu đố và chân tướng của nhiều sự việc, mà cứ chờ sau khi tất cả mọi bụi trần lắng xuống mọi thứ theo thời gian nhất định sẽ từ từ nổi lên.

Có một triết gia từng nói, chỉ khi thủy triều xuống mới có thể biết ai không mặc đồ lót….Hoặc là, tôi dùng một ví dụ xác thực hơn để miêu tả, thì đó là mỗi khi bạn cố ý muốn tìm kiếm một món đồ, lục tung hết từng ngóc ngách xó xỉnh trong nhà lên để tìm mà vẫn không thấy…. Thế nhưng đến khi bạn không cần đến nó cũng không cố kiết đi tìm nó nữa, thì nó lại đột ngột xuất hiện lù lù ở ngay trước mặt bạn. Có một số câu đố cũng như vậy.

Sau chuyện kia, tinh thần tôi suy sụp trong suốt một quãng thời gian rất dài. Trong khoảng thời gian đó, tôi liên tục mắc kẹt trong hai trạng thái cùng một lúc. Một là cực kỳ chán nản, không muốn làm gì hết, chỉ muốn nằm dài trên ghế tựa, nhớ lại những chuyện trước kia, sau đó suy nghĩ nếu như lúc đó mình không lựa chọn như vậy, thì bây giờ kết quả sẽ ra sao . Tôi nghĩ nếu lúc đó mình không rối bời như vậy, vướng mắc như vậy, cố chấp như vậy, thì có lẽ tôi đã từng bước có một cuộc sống khác, sẽ thoải mái dễ chịu hơn bây giờ...Có người đã từng nói " không biết về một việc còn tốt hơn so với biết quá nhiều , hiểu được còn đau đớn thống khổ hơn so với không hiểu…"

Còn một trạng thái khác, đó là tôi không ngừng tự khích lệ bản thân, tự nói với mình có một số việc không muốn làm nhưng vẫn phải làm.

Bởi vậy, tôi vẫn luôn quản lý cửa hàng của chú Ba trong trạng thái tâm lý mâu thuẫn như thế. Mới đầu, do không có Phan Tử, nhiều chuyện tôi phải giải quyết một mình, mỗi bước đi đều gian nan vô cùng. Mỗi khi tôi ủ rũ chán ngán, muốn rút lui, tôi lại nhớ đến bài hát mà Phan Tử đã hát cho tôi nghe trước khi chết.

“Tiểu tam gia phải tiến về phía trước... tiểu tam gia không thể quay đầu.”

Tôi không có tư cách lùi bước nữa.

Trong chuyện làm ăn, thực ra cái mà tôi gọi là “tiến về phía trước” chẳng qua chỉ là một số chuyện nhỏ mà thôi. Nếu những chuyện vặt như vậy mà tôi cũng lùi bước, thì thật có lỗi với quá nhiều người. Bởi vậy, tôi vẫn phải cố gắng.

Đến quý hai của năm thứ hai, tôi đã sắp xếp được suôn sẻ rất nhiều việc rồi. Tôi phát hiện ra một bí quyết, hóa ra, khi bạn đã hoàn thành xong một việc rất trọn vẹn rồi, đặc biệt là sau khi bạn đã nhảy cóc qua giai đoạn tích lũy để đến một trình độ nhất định, nhiều việc sẽ ngày càng trở nên đơn giản. Bởi vì bạn có cơ hội phạm sai lầm, bạn có cơ hội quay đầu, mà lợi nhuận tổng thể của bạn vẫn đủ lớn để bù đắp cho những tổn thất đó, hệ thống của bạn vẫn có thể tiếp tục sinh tồn. Hơn nữa, dần dần tôi cũng học tập được rất nhiều bí quyết của chú Ba.

Đến quý ba, tôi dần dần sa thải một số nhóm thủ hạ không quá thích hợp, thay thế bằng những người hợp với tôi hơn. Mặc dù công việc không thể phát đạt như thời còn có chú Ba, nhưng tình hình buôn bán vẫn vận hành rất trơn tru, khấm khá.

Thấy dòng tiền vẫn chảy đều đều không ngừng, tôi dần dần có thêm tự tin vào năng lực của mình. Tôi nhận ra mình không còn vô dụng như tôi từng nghĩ lúc trước: hóa ra muốn thành công là phải có phương pháp, hơn nữa, phương pháp đó cũng không hề khó khăn.

Sau khi mọi việc đi vào ổn định, tôi vừa đào tạo nhân lực, vừa sắp xếp kế hoạch sau này, cũng dành chút thời gian tới thăm bạn cũ. Những người dễ dàng gặp được nhất chính là Tiểu Hoa. Hắn đến nay vẫn đang tĩnh dưỡng trong bệnh viện, trước kia trong lúc tinh thần suy sụp nên tôi không chú ý nhiều đến thương thế của hắn…. Hắn cũng là một nhân vật vô cùng quan trọng, những gì mà đội ngũ bên kia đã trải qua tôi hoàn toàn không biết.

Tú Tú vẫn luôn chăm sóc Tiểu Hoa. Tôi không đi thăm Tiểu Hoa cũng là vì lẽ đó, bởi chuyện Hoắc thái thái là cú sốc quá lớn đối với tinh thần của con bé. Nhưng trong quãng thời gian lo việc kinh doanh cửa hàng của chú Ba, tôi đã học được nhiều đức tính đáng quý, ví dụ như, đối mặt với đau khổ. Tôi biết, khi thời cơ tới, trốn tránh chính là phương án giải quyết tồi tệ nhất.

Chỉ khi thẳng thắn với đau khổ, thì đau khổ mới có thể dần dần giảm bớt. Kiềm nén nó cũng chẳng có bao nhiêu tác dụng, sau khi nỗi đau khổ lên đến đỉnh điểm, tự nhiên, nó sẽ dần xuống dốc.

Sau vài lần viếng thăm, sự gượng gạo của Tú Tú đối với tôi đã dần dần tan biến. Tôi ở lại Bắc Kinh một thời gian, còn đặc biệt chuyên tâm đi giúp Tiểu Hoa xử lý một vài công việc trong gia tộc. Vì ở phía Nam, tôi thường dựa vào quan hệ và thế lực của chú Ba, dần dần lời nói của tôi đã có vài phần trọng lượng,đủ tư cách để trợ giúp người khác.

Thực ra tôi không cần đến mấy thứ tư cách này, nhưng sau khi có nó rồi, dường như không thể nào vứt bỏ được nữa.

Xong xuôi mọi việc, tôi mới bắt đầu trò chuyện với Tiểu Hoa về những gì đã xảy ra trước đó. Tôi nhắc đến một vài chi tiết mình từng gặp trong Trương gia cổ lâu: những món đồ trang sức Tây Tạng và hai cái vòng tròn bên trong cỗ quan tài, và cả câu chuyện cuối cùng về Muộn Du Bình.

Tiểu Hoa nghe xong, thở dài, có vẻ như cậu ta bắt đầu có chút phiền chán với tất cả những bí mật này.

Cậu ta nói, bình thường cậu ta chẳng bao giờ có cảm xúc như vậy cả, đối với cậu ta, cả cuộc đời này là đã là thứ mà cậu ta không muốn trải qua nhất rồi, Từ nhỏ đã phải tiếp quản cả gia tộc, tham gia các cuộc tranh đấu, trải qua đủ loại sự tình buồn nôn ghê tởm. Hắn vốn không muốn tiếp tục cuộc sống buồn chán đó, thế mà bây giờ lại có cảm xúc như thế, có thể thấy mức độ nghiêm trọng của chuyện này.

Tôi cầm mấy món trang sức phong cách dân tộc Tây Tạng lấy từ trong cỗ quan tài đó ra, đưa cho Tiểu Hoa xem. Còn những thứ nào không mang ra ngoài được, tôi liền cầm bút vẽ ra giấy.

Tiểu Hoa xem xong, nói với tôi: “Những thứ này hình như đều là đồ trang sức thuộc hệ thống Phật giáo Tây Tạng, nhưng cũng chỉ có thể chứng tỏ chủ nhân của cỗ quan tài kia dường như có hứng thú với đồ của Tây Tạng mà thôi, chứ không thể chứng tỏ được gì hơn nữa.”

Tôi nói: “Nếu đã là đồ trong quan tài, tớ nghĩ, người ta chôn theo những thứ này ít nhiều cũng có ý nghĩa đặc thù nào đó. Ví dụ như, nếu là Tiểu Ca, vật mà hắn chôn theo thế nào cũng là Hắc kim cổ đao. Nếu là A Tứ, có lẽ sẽ là viên bi sắt. Từ những đồ vật được chôn theo, ta có thể suy ngược ra được một vài tin tức.”

Tiểu Hoa nói: “Ý cậu là nói người này có huyết thống Tây Tạng?”

Tôi nói tiếp: “Hoặc là người đó từng hoạt động ở khu Tây Tạng suốt một thời gian rất dài.”

Tiểu Hoa thở dài một hơi, nói: “Trương gia thế lực vô cùng lớn. Chuyện từng hoạt động ở Tây Tạng cũng không có gì lạ.”

Tôi nói: “Cũng không phải tớ thấy lạ, mà chẳng qua là tớ thấy mấy thứ trang sức này rất bình thường, phổ biến, nếu thi thể đó lựa chọn những thứ này để chôn theo, thì ắt hẳn những món trang sức này phải có một vài manh mối nào đó mà chúng ta không biết. Nếu cậu có ai hiểu mấy thứ này, thì gửi cho bọn họ xem thử xem. Chúng ta không thể bỏ qua tất cả những gì có thể có manh mối được.”

Tiểu Hoa rõ ràng cảm thấy việc này khả năng thành công không cao, tôi không biết vì sao cậu ta lại dự đoán như thế…. Có lẽ sau mọi chuyện, chỉ có tôi mới giữ lòng hiếu kì, mang trên mình như một loại bệnh. Có điều... hắn không có ý định ngăn cản tôi.

Chúng tôi kiểm tra kỹ lưỡng tất cả các món trang sức, những món đồ trang sức Tây Tạng này đều rất lớn, hơn nữa, chế tác rất thô sơ, phóng khoáng, phần lớn các chi tiết trên đó đều là những thứ mang ý nghĩa cát tường theo truyền thống văn hóa Tây Tạng.

Chúng tôi thử tìm một số món đồ hoàn toàn khác biệt so với những món trang sức Tây Tạng thông thường. Đại bộ phận chúng đều chung một loại, nhưng có một điểm làm tôi để ý, tất cả chúng đều có dây xích, khảm một hạt châu màu đỏ kì quái.

Chúng ta đều biết, phần lớn các trang sức Tây Tạng đều dùng thiên châu đỏ (một loại mã não quý của Tây Tạng), đá tùng hương đỏ, san hô đỏ, nhưng viên đá này lại không phải bất kỳ loại đá nào trong số những loại trên.

Tôi hỏi Tiểu Hoa: “Anh có thể tìm được người nào biết nó là loại đá gì không?”

Nhà họ Giải có khả năng giám định và thưởng thức châu báu rất cao..nhưng Tiểu Hoa lại không quá am hiểu về phương diện này. Từ nhỏ hắn đã sống trong môi trường khắc nghiệt. Việc chính của hắn không phải học cách nào để phân biệt đồ cổ, phương diện này trong gia tộc có người phụ trách đặc biệt.

Bởi vậy, Tiểu Hoa đưa số trang sức này cho Tú Tú, hỏi: “Em xem đây là cái gì.."

Tôi không ngờ Tú Tú có hiểu biết rất rộng về bảo thạch, quả nhiên phụ nữ thật khó lường. Cô ấy nhìn hạt châu rồi nói: “Hạt châu này khá là hiếm gặp, đó là một loại bảo thạch hữu cơ.”

Tôi có chút sửng sốt, Tú Tú liền tiếp tục: “Đây là một hỗn hợp chứa các thành phần khoáng sản kim loại. Thứ này trên thị trường còn chưa có tên gọi rõ ràng, nhưng rất nhiều người gọi nó là đá mặt trăng.”

Nghe xong trong đầu tôi như ầm một tiếng, tôi nhớ ra trong địa cung của Trương gia cổ lâu có sử dụng một lượng lớn loại đá này.

Tú Tú nói: “Loại đá này có nhiều đặc tính rất lạ, một trong số đó là khả năng chạm khắc thu nhỏ. Nhiều người hay khắc những thông tin đặc biệt bí mật lên loại đá này, bởi độ bền của nó khiến những điêu khắc thu nhỏ vẫn có thể hiện lên cực kỳ rõ nét.”

Tôi nhận lại hạt châu từ tay Tú Tú, nhìn kỹ một chút, nói: “Trên này hình như không có gì cả.”

Tú Tú chỉ vào lỗ trên hạt châu, nói: “Vì để ẩn giấu thông tin, nên thông tin sẽ được khắc xung quanh lỗ xỏ này. Anh xem, lỗ xỏ của hạt châu này có phải rất xù xì hay không? Bây giờ anh nhìn thì trông có vẻ như nó chỉ bị mài mòn thôi, nhưng thực ra rất có thể là nhiều hoa văn nhỏ li ti được khắc ở trên đó đấy.”

Nói rồi, Tú Tú rút di động của mình ra, khởi động một ứng dụng, dùng camera ngắm vào lỗ trên hạt châu.. Cái lỗ được phóng đại lên gấp mấy lần, quả nhiên có thể thấy xung quanh lỗ nhỏ là một đồ hình rất có quy tắc. .

Đó là gì nhỉ? Tôi rùng mình một cái, cẩn thận nhìn kỹ, bảo Tú Tú phóng to thêm một chút.

Tú Tú lắc đầu: “Phóng to hơn nữa thì phải cần đến máy móc chuyên nghiệp. Nhưng em thấy chỉ nhìn như thế cũng đủ thấy rõ ràng rồi. Trên này chạm khắc hình một con bọ cạp đầu đuôi nối liền vào nhau.”

Bọ cạp! Tôi nhìn kỹ vào màn hình di động của Tú Tú, phát hiện quả thực đó là một con bọ cạp!

Tại sao lại là bọ cạp? Nếu là Kỳ Lân, tôi còn cảm thấy hợp lý, chứ là bọ cạp, chẳng lẽ Tiểu Ca thuộc cung Bọ Cạp?

Quả thực là thế, Bọ Cạp trong các hoa văn truyền thống Trung Hoa cổ biểu đạt rất nhiều ý nghĩa….Bọ Cạp trong văn hóa Tây Tạng còn mang nhiều ý nghĩa thú vị hơn nữa,..Bởi vì trong môi trường cao nguyên bọ cạp Tây Tạng là loài sinh vật khiến người ta phải khiếp sợ….Nhưng con bọ cạp này nhìn qua không phải kiểu Tây Tạng, mà giống hình vẽ của người Hán hơn, hoặc có lẽ đây là sự dung hòa giữa văn hóa Tạng và Hán.

Đồ án này là toàn bộ kết quả nghiên cứu số trang sức này của chúng tôi. Tiểu Hoa chẳng có vẻ bất ngờ gì cả, tôi cảm thấy, cậu ta thậm chí còn cho rằng, đạt được một kết quả như vậy đã là kỳ tích lắm rồi.

Trước tiên, tôi tìm mấy chuyên gia để hỏi về đồ án này, gom được một mớ tài liệu mơ hồ. Những thứ liên quan đến đồ án bọ cạp không phải là không có, mà có thể nói là có quá nhiều. Nửa đêm, sau khi suy nghĩ kỹ càng, mới thấy chẳng có tài liệu nào là có giá trị cả.

Tiểu Hoa nói, có lẽ đồ án này chỉ là một sự trùng hợp, bản thân thi thể không biết đến sự tồn tại của thứ này….Đối với một gia tộc có thói quen sưu tầm và bảo tồn như Trương gia, chuyện này rất có khả năng xảy ra.

Tuy nhiên không hiểu vì lẽ gì, tôi vẫn cảm thấy đây là bước đột phá. Để thể hiện sự ủng hộ với tôi, Tiểu Hoa tìm vài người bạn rồi mang hình vẽ phóng đại đó đăng báo, nhờ cả sự tư vấn qua internet.

Hắn ra một giá cao, hi vọng người biết về hoa văn bọ cạp này hoặc có thể cung cấp thông tin liên quan sẽ đến tìm chúng tôi.

Làm xong những việc này, việc còn lại chỉ có chờ đợi. Tôi cho rằng trong một thời gian ngắn sẽ không có kết quả gì, nên cũng chẳng ôm hy vọng gì quá lớn. Bởi vậy, tôi về Hàng Châu trước, tiếp tục xử lý công việc làm ăn.

Thời gian cứ ngày một vùn vụt trôi qua, Cuộc sống hiện nay tuy có chút bận rộn, nhưng thu nhập cũng ngày càng nhiều, có điều, thi thoảng trong lòng tôi vẫn luôn có cảm giác trống trải.

Tôi dành phần lớn thời gian ở trong cửa hàng của mình, tình hình tài chính cửa hàng của tôi tách biệt với cửa hàng của chú Ba, việc kinh doanh vẫn ảm đạm như trước, thỉnh thoảng tôi còn phải dùng đến một ít tiền vốn của chú Ba để cứu trợ tạm thời tiền điện nước của mình. Nếu không phải do tôi bất tài, thì tôi bắt đầu nghi ngờ cái cửa hàng của mình phong thủy quá tệ.

Tôi vẫn kiên trì tách sổ sách của hai cửa hàng ra, không biết có phải bởi vì trong lòng tôi vẫn luôn kỳ vọng chú Ba sẽ quay về hay không. Liệu chú có quay về không, tôi không biết, nhưng nếu chú quay về, tôi rất vui lòng trao trả toàn bộ mọi thứ cho chú.

Bản thân tôi vẫn thích ở trong cửa hàng của mình, ngả lưng trên ghế tựa, nghe radio, phẩy quạt hương bồ, cân nhắc sự tình. Tôi cảm thấy chỉ ở đây mình mới là Ngô Tà, còn khi bước ra khỏi phòng lại trở thành một người khác. Người này có bóng dáng của Phan Tử, của chú ba, của đủ người khác, nhưng không phải là tôi. Trong khi mang linh hồn của họ, tôi không thể không hoài niệm về quá khứ, nhưng tôi biết chắc những thứ họ mang lại cho tôi không phải cái tôi muốn.

Nhưng dù không phải điều mình mong muốn, thì những gì cần phải đến trong số mệnh mình rồi cũng sẽ đến.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 12 Dec 2019

Chương 5. Vận Mệnh Lặp Lại.

Một buổi chiều trời trong nắng ấm, tôi nghỉ ngơi trong căn phòng nhỏ mát mẻ của mình.

Thực sự là nghỉ ngơi sao….Có thể xem là vậy, tuy rằng tôi thường xuyên nhớ lại những những trải nghiệm khiến mình nhức đầu kia, nhưng trong lòng tôi hiểu rõ được,những thứ này cuối cùng cũng chỉ là hồi ức mà thôi... Nói cách khác, suy nghĩ về những điều này, không có nghĩa là tôi muốn đối kháng với ai, hoặc tương lai nó sẽ mang đến cho tôi nguy hiểm. Vì thế tôi luôn bình tâm suy xét.

Trong phòng tuy mát mẻ, nhưng lại tương đối kín nên vẫn khó tránh khỏi cảm giác oi bức, cả người tôi mệt mỏi, có chút buồn ngủ. Vừa lúc đó, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa.

Cửa hàng đang vào giờ nghỉ buổi trưa….bởi vì bản thân cũng không màng chuyện buôn bán nên tôi cũng chẳng buồn mở cửa cho lãng phí hơi mát.

Tôi gọi Vương Minh mấy tiếng, lại phát hiện cậu ta không ra mở cửa, cũng chẳng nghe tiếng tôi gọi, không biết có phải bệnh tim tái phát chết rồi hay không ,nên tôi đành tự mình ra xem.

Vừa mới ra ngoài, tôi liền thấy một bóng người quen thuộc xuất hiện trong cửa hàng của mình.

Người này là một lão già, nhìn thấy tôi, lão toét miệng cười, lộ ra một cái răng vàng rõ to.

Tôi như hít phải ngụm khí lạnh, nhìn thấy Vương Minh đang ngủ như lợn trước bàn máy tính, lập tức đạp hắn tỉnh dậy.

Lão già đó thấy hành động của tôi, đang định bắt chuyện thì tôi đã chụp lấy Vương Minh kêu to: “Dậy mau, thả chó, đuổi hắn ra ngoài cho tôi.”

Chính là tên vương bát đản này, mấy năm trước bước vào của hàng tôi một lần mà cải biến cả vận mệnh của tôi. Tôi tuyệt đối không cho phép tình huống tương tự tiếp tục phát sinh.

Vương Minh vẫn còn mơ mơ màng màng, lồm cồm ngồi dậy khỏi máy tính, nhìn tôi một cái, như thể hoàn toàn không hiểu tôi đang nói cái gì. Thấy tôi không nói gì tiếp nữa, Vương Minh lại nằm gục xuống ngủ khò khò.

Tôi không kịp giải thích với cậu ta, bèn nhảy qua quầy tính tiền, gào lên với lão già chết toi kia: “Ông cút ngay cho tôi... lập tức rời khỏi tầm mắt tôi.”

Răng Vàng cười hề hề, nói luôn: “Chú em, chúng ta đã lâu không gặp, cậu vẫn khỏe chứ hả…. Tính khí cậu vẫn y như trước chẳng thay đổi tí tẹo nào ha.”

Tôi nói: “Ông đừng có lắm mồm chỉ vô dụng thôi, đời tôi con mẹ nó cơ bản đã bị ông hủy... Ông biết không... Người nhà tôi mấy đời oanh liệt xem như cũng vì ông mà chết. Trước khi tôi chưa muốn giết ông, thì hãy mau cuốn xéo khỏi đây đi.”

Răng Vàng lên tiếng: “ Ấy ấy….Cậu nói quá khoa trương rồi, người thân của cậu mấy đời oanh liệt thì có liên quan đếch gì đến tôi.”

Tôi liền nổi điên, máu nóng bốc lên đã muốn đánh hắn. Hắn thấy tôi cũng chẳng phải nói chơi, vội vàng xua tay nói: “Chờ một chút, chỗ tôi có tin tức quan trọng, tôi có lòng tốt nên mới đưa đến tận cửa cho cậu đấy.”

“Tôi chẳng muốn biết cái gì từ ông "...Tôi nói: Tôi chỉ cảm thấy rõ ràng sự xuất hiện của ông là một điều cực kỳ xúi quẩy chẳng phải chuyện tốt lành.”

Nói rồi, tôi đẩy lão ra.

Răng Vàng bám chặt lấy quầy tính tiền nói: “Chậm đã…. Chậm đã…. Có tín vât….! Nhìn tín vật cậu sẽ biết tầm quan trọng của việc này.”

Nói xong lấy từ trong ngực áo một chiếc di động đưa tôi.

Tôi nghĩ thầm: lần trước cho tôi xem đồng hồ, lần này cho tôi xem di động, mẹ kiếp đúng là công nghệ cao. Vừa nhìn, tôi liền nhận ra đó là loại di động mà Tiểu Hoa vẫn thường sử dụng. Tôi nhận lấy, mở nắp ra xem, bên trong là một tin nhắn đã biên soạn sẵn, viết

: “Kim Vạn Đường đến vì mẩu tin quảng cáo trên báo, hình như có manh mối quan trọng, tớ đã nghe thử một lần, thật giả chưa phân, cậu cũng thử nghe lão ta nói một lần xem sao, tớ xử lý xong việc này, sẽ tới Hàng Châu bàn bạc với cậu ngay. Giải Vũ Thần.”

Tôi gập chiếc di động lại, trong đầu thầm nghĩ: Mẹ kiếp, Tiểu Hoa mà đã giới thiệu thì còn khó từ chối hơn cả lão Dương giới thiệu.

Không thể không nể mặt Tiểu Hoa được, lòng tôi cân nhắc xem nên làm thế nào, có nên nghe một chút không. Lần này Răng Vàng sớm đã có chuẩn bị. Nhưng cứ nhìn thấy mặt hắn, tôi lại không thể kìm được ý muốn đập cho hắn một phát.

Vì vậy, tôi cho Răng Vàng ngồi xuống, quay về phòng uống mấy ngụm nước cho tỉnh táo lại một chút. Vừa vào phòng, có lẽ là do trong phòng mát mẻ, lửa giận cùng những cảm xúc phiền muộn trong lòng tôi cũng tiêu tan phân nửa, thầm nghĩ dù sao thì có nhiều chuyện cũng là do tôi tự chọn lựa, trách tội lão ta cũng không phải cách, thực ra lão ta cũng chỉ là một trong những người bị hại.

Sau khi tự dối gạt bản thân, cảm thấy bình tĩnh lại rồi, tôi vội bước ra ngoài phòng, nhìn chằm chằm Răng Vàng, hỏi: “Ông có manh mối gì thì nói ngắn gọn đi. Tiền bạc thì cũng lấy từ chỗ Tiểu Hoa rồi.”

Răng Vàng nói: “Trước nay tôi đối với cậu cũng có chút áy náy, nên thiết nghĩ nên bồi thường một chút.

Cậu không phải đăng báo tìm người biết về con bọ cạp kia sao? Thứ đó gợi cho tôi một chuyện cũ vô cùng khó quên.”

Tôi nhìn sắc mặt răng vàng, lòng nghĩ: ngươi nói mau đi, nói xong nhanh để ta còn đánh ngươi.

Răng Vàng bảo: “Con bọ cạp này lai lịch vô cùng cổ quái. Tôi đoán chắc cậu đã tra ra nó có liên quan đến tên nhóc nhà họ Trương phải không?”

Tôi không tỏ thái độ gì,sợ hắn sẽ rõ tâm tư mình, lòng nghĩ: " Chuyện của Trương gia ta đây đều có hứng thú, còn có phải đứa nhóc nào hay không thì ta chịu.

Kim Vạn Đường nói tiếp: “Tôi sẽ kể cậu nghe một câu chuyện, không biết tôi đã từng kể với cậu hay chưa...Ngày xưa, tôi hành nghề kiểm định ngọc quý cùng đồ cổ cho người ta, cả phiên dịch sách cổ kiếm được không ít tiền.Có một lần vào một nhà giàu có, chủ nhà này nghe nói họ Mã, sống ở vùng Giang Tô. Ông ta cho tôi xem một quyển nhật kí của ông nội hắn, muốn tôi kiểm định xem có đáng giá hay không. Lúc ấy tôi cảm thấy trong nhà hắn giàu nứt đố đổ vách, nhất định là kẻ có tiền. Nhưng sau mới rõ, kì thật thời điểm đó nhà họ đã rỗng tuếch, chả còn cái đếch gì. Hai con trai lão hít thuốc phiện, một đã chết, lão muốn dựa vào vật kia đổi tiền cứu mạng đứa còn lại. Sau khi tôi xem xong, hồi kí của người tên Mã Xuyên đó, liền nhớ lại một chuyện.”

Nói xong Răng Vàng liền thuật lại cho tôi, cái đó chính là “ Chuyện kỳ lạ đầu tiên”.

Sau khi nghe xong, trong lòng tôi không vui không buồn. Tôi lập tức cảm thấy, đứa bé kia rất có thể chính là Muộn Du Bình hồi nhỏ.

Khi đó là năm nào….. Tân Trung Hoa thành lâp..! Quả nhiên anh ta nhiều tuổi như vậy. Nhưng so với dự tính của tôi còn trẻ hơn một chút.

Người trong Trương gia đều sống rất lâu, thể chất vô cùng đặc biệt, tôi cũng không cảm thấy quá bất ngờ.

“Ông nói, nơi đó gọi là Mã Am...? Vậy hiện tại nó vẫn còn chứ...?”

Kim Vạn Đường gật đầu: “Còn, nhưng cậu không cần phải đến đó làm gì, tôi thấy không cần thiết. Vì cuốn hồi ký có viết, về sau bọn họ đào mảnh đất mộ tổ kia, cũng chẳng đào ra được mộ cổ gì cả, mà chỉ đào được một con bọ cạp sắt. Hơn nữa, cuốn hồi ký không ghi chép gì về chuyện sau này nữa, những ghi chép về sau đều cách thời điểm câu chuyện này xảy ra một khoảng thời gian là hơn một năm.”

“Ý ông là gì...?” Tôi hỏi.

“Sau khi họ đào được con bọ cạp sắt, có tiếp tục đào xuống hay không, có đào được địa cung hay không, hay trên bề mặt bọ cạp sắt viết gì, có điểm nào kì quái không, đều không được ghi chép. Nhưng có thể khẳng định, sau một năm đó, Mã Gia từ cực thịnh dần suy tàn, nhất định đã xảy ra nhiều việc, có lẽ liên quan đến con bọ cạp.” Kim Vạn Đường nói,

“Sau đó, Mã gia chuyển đến Nê­pan.”

“Nê­pan...?”

“Đúng, Nepal.” Kim Vạn Đường nói," Cách đây một thời gian tôi có quay lại đó….tôi cũng vừa từ đó trở về, toi có địa chỉ của nhà họ luôn, cũng nhìn thấy được con bọ cạp sắt kia trong nhà bọn họ, bọn họ đang chờ bán ra ngoài đấy.”

“Ông không lừa tôi đó chứ?” tôi nói.

“Không đâu. Nếu cậu có hứng thú với chuyện của tôi, không ngại đường xa, thì đi cùng tôi một chuyến là biết ngay.”

Tôi suy nghĩ một lát, cảm thấy đấy là manh mối duy nhất có liên quan đến quá khứ của Muộn Du Bình vào lúc này, có lẽ tôi nên đi một chuyến. Nhưng tôi không thể đi cùng với Răng Vàng được,tôi làm ăn đã lâu như thế rồi, tôi biết tỏng cái loại ruồi bọ chuyên nhăm nhe thớt tanh như lão...Hắn đi cùng tôi, nhất định liên thủ với Mã gia chơi tôi một vố. Nói không chừng,lão còn đặt sẵn đủ các loại cạm bẫy mánh khóe khác đang chăm chăm đợi tôi mở hầu bao.

Vì vậy, tôi bèn hẹn với Kim Vạn Đường một mốc thời gian, nhưng lại ra tay nhanh hơn lão một bước. Tôi thậm chí còn không báo với Tiểu Hoa, đã đi Nepal ngay rồi.

Thế nhưng, lần này đến lại hoàn toàn trở về trắng tay. Căn nhà của Mã Xuyên ở Nepal rất lớn, nhưng lại hoàn toàn trống trơn, vừa nhìn là biết đã bị khoắng sạch rồi. Tôi hỏi mọi người xung quanh, nhưng không ai biết người nhà này đã bỏ đi đâu rồi.

Cũng như năm xưa Mã Xuyên sai người đi dò hỏi nhà họ Trương, lần này, trước khi tôi đến tìm hiểu chuyện nhà Mã Bình Xuyên, thì họ đã hoàn toàn mai danh ẩn tích.

Tôi cảm thấy, đây như một âm mưu lớn, đã bị tôi nhìn ra. Trước khi tôi xuất phát, họ hoàn toàn không thể kịp chuẩn bị. Cũng có thể, sau khi Kim Vạn Đường rời khỏi, bọn họ đã gặp phải biến cố lớn nào đó.

Cuối cùng, lần tìm kiếm này lại biến thành một chuyến du lịch, sau khi tôi nhận ra mình hoàn toàn không tìm được họ nữa, tôi bắt đầu thành ra tham ăn, hơn nữa còn bắt đầu nảy sinh ý định kì lạ muốn ở đây phát triển kinh doanh.

Sau khi khảo sát kỹ, tôi nhận ra, hệ thống vùng này hoàn toàn không thích hợp để làm ăn, chỉ hợp làm trạm trung chuyển mà thôi. Nhưng bản thân tôi không thích hành vi tuồn lậu châu báu trong nước ra nước ngoài, nên cũng không suy nghĩ sâu xa thêm nữa. Ở đây tình cờ tôi đã tìm được không ít đồ cổ ,mặc dù không chắc là thật hay giả, nhưng tại thị trường trong nước có thể kiếm được không biết bao nhiêu tiền... Thế nhưng, đúng vào trong lúc tôi đang điên đầu thì bất ngờ tôi lại phát hiện ra được hành tung của nhà họ Mã.

Lúc đó, tôi đang xem kho hàng của một tiệm đồ cổ do ông chủ người Hoa mở, trò chuyện với ông chủ về mục đích tới nơi này của tôi. Ông chủ này từng làm ăn với nhà họ Mã, hiển nhiên là nhà họ Mã đã bán không ít đồ cổ cho ông ta. Ông ta nói, trong lúc nói chuyện với nhà họ Mã, người nhà họ Mã thường xuyên vô tình hoặc cố ý nhắc đến một nơi được gọi là Medog ( Mặc Thoát).

Vì vậy, tôi liền đi Medog, hơn nữa, ở nơi đó, tôi đã bắt gặp một thứ, khiến tôi phải dừng chân ở đó suốt nửa năm liền.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 13 Dec 2019

Chương 6 : Bức tranh ở Tây Tạng.

Đó là một bức tranh kỳ lạ.

Cuối năm 2010, tôi từ Nepal trở về nước nước, vào đến Tây Tạng, khi qua chân núi Ca Nhĩ Nhân toi đã dừng lại nghỉ dưỡng sức dưới chân núi hơn một tuần lễ.

Tôi cũng không lập tức đi tìm manh mối nhà họ Mã ngay, dù sao thì chuyến đi lần này cũng quá nhiều mệt nhọc. Theo lời đề nghị của một thủ hạ, trước tiên tôi chuẩn bị xử lý các thứ rườm rà thu hoạch được từ chuyến đi Nepal lần này.

Tôi mang về từ Nepal một đống đồ trang sức giả cổ mang đặc trưng Phật giáo Tây Tạng, định dùng chúng làm hàng mẫu để trưng bày và tìm hiểu rõ chân tướng ngọn ngành của số trang sức lấy được trong Trương gia cổ lâu. Ở địa danh tên Medog(Mặc Thoát) đó, tôi đã gói tất cả số trang sức lại thành ba bọc lớn, chia ra gửi đến ba địa chỉ khác nhau ở Hàng Châu qua đường bưu điện, để giảm bớt gánh nặng trên đường vận chuyển sau này.

“Bưu cục” ở Medog có hai loại, do nơi này khá đặc biệt. Nó nằm ở vị trí núi tuyết phong tỏa quanh năm, giao thông rất khó khăn, bởi vậy, trước kia bưu cục chính quy ở đây chỉ có thể nhận thư, chứ không thể gửi thư ra ngoài được, mãi cho đến tận mấy năm gần đây mới có con đường mòn để trao đổi bưu kiện, nhưng xe của bưu cục cũng chỉ giới hạn chạy một chuyến mỗi tuần mà thôi.

Vì vậy, ở địa phương còn có dịch vụ chuyển phát thư từ riêng, thực chất chỉ là nhờ người nào đó tiện đường ra ngoài cầm theo bọc bưu phẩm thư từ mà thôi. Trong dòng người ra vào Medog, chuyện giúp người khác cầm bưu phẩm thư từ mang ra mang vào là chuyện rất đỗi bình thường. Một vài người sẽ kiếm chút tiền từ đó. Cái gọi là “bưu cục” mà tôi tìm được chính là do loại người như thế này mở ra, tuy không an toàn cho lắm, nhưng ít ra có thể bảo đảm được thời gian. Chỉ cần có người ra khỏi Medog, là cơ bản có thể biết ngay lúc nào bưu phẩm đến được bưu cục bên ngoài. Chuyện vận chuyển sau đó liền tương đối ổn thỏa rồi.

Các cách rời khỏi Medog gồm có: xe, đoàn ngựa thồ và phu đánh xe. Xe cộ qua lại thì không phải lúc nào cũng có, tôi đến đây vào đúng mùa không thể thông xe, đoàn ngựa thồ thì đã sắp tuyệt tích rồi, do vậy, tôi đành phải tìm cái gọi là “bạn đường” hoặc là “phu đánh xe”.

Tất cả bưu kiện đều phải nhờ “người đưa thư” mang dần từng chút một ra khỏi núi, vì vậy trọng lượng không thể quá nặng. Quá trình chuyển ba gói bưu kiện lớn trọng lượng trung bình của tôi phải tốn đến ba giờ.

Trong lúc đó, tôi đứng xem những bức tranh treo trên quầy bưu điện, thật ra là treo trên tường phía sau một cái bàn làm việc đặt một tấm thủy tinh công nghiệp. Mặt tường sơn màu xanh lá cây nhạt, bên trên treo mấy bức tranh: một bức tranh chữ thủy mặc “Bằng trình vạn lý”, là hình chim ưng và bốn chữ thể đại tự, ba lá cờ thưởng song ngữ, đều là mấy từ ngữ ca ngợi như “Không nhặt của rơi”, “Đảm bảo an toàn”; ngoài ra còn có một bức tranh.

Bức tranh vừa nhìn đã biết không phải do họa sĩ chuyên nghiệp vẽ nên, mà là trình độ trung bình, thậm chí cách vẽ còn hơi vụng về. Trong tranh là khuôn mặt nhìn nghiêng của một người, từ mức độ bong tróc của thuốc màu và sự phai nhạt của màu sắc, có vẻ như nó đã ở chỗ này từ rất lâu.

Chủ thể trong tranh là một người trẻ tuổi. Tôi không am hiểu lối vẽ Tây dương, nhưng cái nguyên lý của nó, khi đạt đến được một mức trình độ nhất định, thì đều như nhau cả. dù đây là một bức tranh có họa pháp vụng về nhưng toát lên một cảm giác rất không tầm thường.

Tôi không biết cảm giác này từ đâu tới. Người trong tranh mặc một bộ trang phục Lạt Ma, bên dưới quấn một chiếc áo choàng Tây Tạng, đứng giữa núi, còn có thể nhìn thấy núi tuyết Ca Nhĩ Nhân phía sau lưng. Tông màu chính của cả bức tranh là màu trắng dần ngả vàng tối, không biết là nắng chiều hay ánh bình minh...Dù họa pháp vụng về nhưng vận dụng màu sắc rất khá, tạo nên một khung cảnh tuyệt diệu.

Dĩ nhiên, dù vậy cũng không thể chứng tỏ được giá trị to tát gì của bức tranh nữa, sở dĩ tôi kinh ngạc, đó là bởi tôi quen biết nhân vật trong bức tranh này.

Đúng vậy, đặc trưng trên người nhân vật này cùng vẻ mặt của hắn khiến tôi không còn bất kỳ hoài nghi gì nữa.

Chính là hắn.

Tôi hoàn toàn không nghĩ ra vì sao hắn lại xuất hiện ở đây, bởi vì người này quả thực không có lý do gì để xuất hiện ở Medog cả, lại còn xuất hiện trong một bức tranh sơn dầu vụng về ở Medog.

Đó là một bức tranh chân dung Muộn Du Bình.

Phản ứng đầu tiên của tôi là cố sức phủ định điều này. Bởi chuyện này thật quá lạ lùng, rất có khả năng là tôi chỉ nhìn lầm mà thôi, dù gì đó cũng là tranh vẽ chứ không phải ảnh chụp. Nhiều chi tiết trong bức tranh cũng tương đối mơ hồ, rất có thể tạo thành một vài nét tương tự.

Thế nhưng, tôi lại nhận ra mình không thể dời mắt nổi khỏi bức tranh này. Mọi chi tiết của người trong bức họa đều như đang nói cho tôi biết, người này thực sự quá giống Muộn Du Bình. Đặc biệt là ánh mắt. Tôi sống đến bây giờ, vẫn chưa từng gặp người nào có ánh mắt giống như ánh mắt của Tiểu Ca. Bàn Tử từng nói, đó là ánh mắt của một người hoàn toàn chẳng có mối liên hệ nào với tất cả mọi thứ. Trên thế giới này, hiếm ai có thể sống mà không có bất kỳ mối liên hệ nào với thế giới này.

Thế nhưng người trong bức họa, lại có ánh mắt như vậy.

Tôi ngắm nhìn suốt hồi lâu, theo bản năng, tôi cảm thấy, người trong bức họa chắc chắn chính là hắn.

Năm năm trước, hắn biến mất khỏi chúng tôi. Đương nhiên, tôi hiểu lý do hắn biến mất. Những chuyện liên quan đến hắn, tôi còn có thể nói rất nhiều. Nhưng những chuyện hắn từng làm trước kia, ở đây đã không còn quan trọng nữa, khi nhìn thấy bức tranh này, suy nghĩ chủ yếu trong tôi là: Medog có phải là một mắt xích trong số những gì hắn đã tìm kiếm? Hắn từng xuất hiện ở đây, phải chăng có nghĩa là, thứ đồ mà hắn đã tìm kiếm lúc ấy có liên quan gì đó đến nơi này?

Lúc đó tôi hỏi thăm một nhân viên bưu điện, tôi nhớ rõ đó là một ông lão có khuôn mặt điển hình của người Tây Tạng. Tôi hỏi ông bức họa này do ai vẽ, ông lão chỉ cho tôi hướng về phía đối diện bưu cục, dùng thứ tiếng Hán không thuần thục mà nói cho tôi biết tác giả bức họa này là Trần Tuyết Hàn.

Tôi hướng mắt về phía đó liền thấy được một người đàn ông trung niên ngoài bốn mươi tuổi ở trong một phòng lò hơi ven đường, đang đổ nước sôi. Chắc ông ta là người phụ trách trông giữ phòng lò hơi, bên trong cung cấp nước sôi cho cư dân gần đó sử dụng, ba đồng tiền một bầu nước. So với ngoài trời tuyết lớn, trong phòng lò hơi ấm đến mức làm cho người ta chảy mồ hôi, vì vậy rất nhiều người chen chúc ngồi xung quanh lò hơi để sưởi ấm. Những người này ăn mặc không khác nhau là mấy nên không thể nhìn rõ được tướng mạo họ lẫn trong đám đông.

Ông lão người Tạng rất nhiệt tình, thấy tôi không nhận ra được liền hướng phía phòng lò hơi gọi to một tiếng: “Trần Tuyết Hàn!”

Thanh âm này to đến mức làm cho tuyết trên nóc bưu cục cũng bị chấn động rơi xuống mấy tấc. Người được gọi là Trần Tuyết Hàn, nghe được tiếng gọi của ông lão, từ trong đám người ngẩng đầu lên, hơi nghi ngờ nhìn về phía chúng tôi. Tôi lập tức đi tới liền phát hiện ông ta là người Hán, da mặt ngăm đen thô ráp, nhìn gần dường như còn trẻ hơn khi nhìn xa một chút.

Tôi dùng tiếng Hán hỏi: “Chào ông, xin hỏi bức tranh sơn dầu trong bưu cục là do ông vẽ sao?”

Trần Tuyết Hàn liếc mắt nhìn tôi, gật đầu. Tôi phát hiện ánh mắt của ông ta không có thần thái, đó là nhãn thần đặc biệt của người có cuộc sống bình lặng. Bởi vì quá bình lặng, người ta không cần suy nghĩ rất nhiều vấn đề, con người giống như tiến dần từng bước vào một trạng thái đặc biệt.

Tôi đưa cho ông ta điếu thuốc rồi hỏi cặn kẽ về tình huống vẽ bức tranh. Vẻ mặt của Trần tuyết Hàn khá ngạc nhiên, nhìn tôi một lát, đóng cửa lò hơi lại rồi hỏi tôi: “Cậu hỏi chuyện này để làm gì? Cậu biết người đó sao?”

Giọng nói của ông ta khàn khàn nhưng phát âm rất rõ ràng. Tôi kể qua loa tình huống một chút, cũng nói bối cảnh của người này có liên quan đến tôi.
Trần Tuyết Hàn lộ vẻ mặt kinh ngạc, cởi găng tay làm bằng khăn mặt trắng, đi ra khỏi phòng, “Cậu nhận nhầm người rồi. Bức tranh sơn dầu này được vẽ hai mươi năm trước, lúc đó cậu bao nhiêu tuổi?”

Tôi khá bất ngờ, không ngờ được thời gian vẽ đã lâu như vậy, tuy rằng đúng là bức tranh nhìn qua cũng khá cũ. Đối với câu hỏi của ông ta, tôi không biết nên trả lời thế nào, bởi vì thật sự một lời không thể nói hết. Cũng may là ông ta giống như không thật sự muốn biết chuyện này, tiếp tục nói: ” Người này và tôi không có quan hệ gì.”

Ông ta chỉ về hướng cửa, nơi đó phủ đầy tuyết trắng, xa xa là một ngọn núi tuyết, “Tôi nhìn thấy bức tranh ở đó, nếu như cậu muốn biết nhiều hơn thì có thể đi hỏi lạt ma nơi ấy.”

Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, qua màn mưa tuyết, mơ hồ thấy được một một tòa nhà ẩn hiện trong màu trắng bạc.

“Đó là nơi nào?” Tôi hỏi.

“Đó là miếu lạt ma.” Trần Tuyết Hàn trả lời, ” Tôi đã vẽ bức họa này theo một lạt ma trong miếu.”

“Khi đó đã xảy ra chuyện gì kỳ quái sao? Hay là miếu lạt ma đó có điều gì đặc biệt?” Tôi hỏi, những nơi anh ta từng xuất hiện bao giờ cũng có chuyện kỳ quái xảy ra. Hay có lẽ, bản thân cái miếu lạt ma này đã có rất nhiều điều không bình thường.

Trần Tuyết Hàn liền lắc đầu, suy nghĩ một chút mới nói: ” Nơi đó không có gì kỳ quái, điều kỳ quái nhất chính là lạt ma lúc đó nhất định muốn tôi vẽ phỏng theo bức họa kia.”

“Vì sao?”

“Lạt ma có thể nhìn thấy nhân quả, ông bảo tôi vẽ tranh thì tôi liền vẽ tranh, không có vì sao. Ông ấy có thể nhìn thấy những gì ở phía sau bức họa này, tôi không thể thấy.”

Trần Tuyết Hàn nói cho tôi biết, Muộn Du Bình trong tranh chắc là khách quý của miếu lạt ma. Bản gốc của bức tranh là do lạt ma nơi này vẽ trước khi người đó rời Mặc Thoát ba ngày, về sau ông ta sao chép lại.Mùa đông năm đó ông ta ở trong chùa một thời gian dài, tình cờ thấy bức tranh này trong phòng đại lạt ma. Đại lạt ma liền nhất định bảo ông ta vẽ, vì vậy ông ta đã vẽ thử bức họa kia.

Bây giờ tôi đã hiểu được nguyên nhân vì sao cách dùng màu sắc táo bạo và sinh động nhưng kỹ thuật vẽ lại vụng về.

Ở Tây Tạng rất nhiều lạt ma có trình độ mỹ học cao và kiến thức sâu rộng còn hơn cả những lạt ma có học vị ở những trường đại học danh tiếng ở nước ngoài. Tôi đoán đó là do chuyên tâm tu hành trong cuộc sống thanh tâm quả dục.

Nghĩ đến đây....tôi lại nghĩ có thể lúc ấy trong miếu Lạt Ma trên núi tuyết này đã từng xảy ra chuyện gì đó, liền có chút thất thần.

“Cậu có muốn đi lên không... Ba trăm đồng, tôi dẫn cậu đi.” Ông ta nói tiếp:“Ngôi miếu Lạt Ma đó, nếu không phải dân địa phương thì không thể vào được đâu.”

Hay cho đại lạt ma......Có lẽ nhân quả mà Lạt Ma nhìn thấy, chính là ba trăm đồng tiền này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 13 Dec 2019

Chương 7: Một ngôi miếu lạt ma

Dưới sự hướng dẫn của Trần Tuyết Hàn, chúng tôi bắt đầu lên núi giữa tuyết trắng. Cơn tuyết lớn phủ kín cả các bậc thang lên núi, chỉ quét ra được một con đường nhỏ đủ cho một người lên xuống. Bậc thang cực dốc, gần như là thẳng đứng. Tôi dẫn theo hai tên thủ hạ nữa, lúc đầu bọn họ cứ nằng nặc đòi đi theo tôi, bây giờ chắc đang hối hận muốn chết.

Buổi trưa, cuối cùng chúng tôi đã tới trước cửa ngôi miếu Lạt Ma mà Trần Tuyết Hàn vẫn luôn mồm lải nhải nhắc đến.

Tôi đã từng đi qua rất nhiều miếu lạt ma, tham quan rất nhiều kiểu dáng và kiến trúc miếu thờ, nhưng hình dạng trước mắt vẫn là lần đầu tiên tôi nhìn thấy. Nhìn thấy đầu tiên là cánh cửa miếu cực kỳ cũ nát, vô cùng nhỏ, cửa chỉ rộng nửa người nhưng phía trong là một khoảng sân nhỏ đã được quét bớt tuyết, lộ ra rất nhiều cối đá và những bộ bàn ghế đá... Ở cuối khoảng sân, là miếu thờ được xây tựa lưng vào núi…..mấy căn phòng con con cứ nối nhau tít tắp men theo vách núi, nhìn mãi lên trên vẫn không thấy điểm cuối, tráng lệ vô cùng.

Mặc dù vậy , tôi biết phía trong những tòa nhà của miếu này cũng không có nhiều không gian cho lắm, mặc dù trông thì có vẻ diện tích rất rộng nhưng bởi vì xây dựa vào núi nên không gian bên trong khá chật hẹp.

Có ba Lạt Ma trẻ tuổi đang ngồi quanh những tảng đá để sưởi ấm, thấy chúng tôi đi vào, họ cũng chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên cả, vẫn ngồi yên bất động...Trần Tuyết Hàn tiến lên, nói rõ mục đích chúng tôi đến , nói toàn bằng tiếng Tây Tạng tôi nghe không hiểu , Một vị Lạt Ma trong số đó liền dẫn chúng tôi đi vào

Kiến trúc lớn nhất là nơi các lạt ma tu hành, sau nhà có một cái thang gỗ, một đường đi lên, chúng tôi leo lên từng tầng từng tầng, không biết đã đi qua bao nhiêu gian phòng, lạt ma dẫn đường mới dừng lại. Tôi phát hiện chúng tôi cuối cùng đã tới một gian phòng tối đen như mực. Trần Tuyết Hàn và lạt ma rất cung kính đi xuống, chỉ còn lại tôi và hai người tiểu nhị đứng ở căn phòng tối mịt. Nhìn xung quanh tôi phát hiện đây có vẻ là một gian thiền phòng, cả phòng chỉ có một nơi có chút ánh sáng.
Chúng tôi cẩn thận đi tới, từ từ thích ứng với ánh sáng ít ỏi, dần dần thấy được trong bóng tối có rất nhiều bóng dáng mơ hồ, toàn bộ đều là từng chồng kinh thư. Đi vòng qua, tới nơi có ánh sáng, tôi phát hiện đó là một cánh cửa sổ. Cửa sổ bị một cái chăn dày che lại, nhưng cái chăn đã quá cũ nát, đã mục nát ra rất nhiều lỗ thủng, ánh sáng chiếu vào phòng qua những lỗ thủng đó.

Tôi đang định kéo cái chăn lên để ánh sáng bên ngoài chiếu vào phòng, vừa động tới, chợt nghe thấy một thanh âm trong bóng tối: ” Không được kéo ra, tới đây.”

Tôi bị thanh âm này làm cho giật mình, quay đầu lại liền thấy ở trong góc tối, sáng lên một đốm lửa nhỏ, sau đó tôi thấy được năm lạt ma ở một bên, dần dần cả phòng sáng lên. Năm lạt ma này nhất định đã ngồi ở đây từ trước, trong bóng tối tôi đã không nhìn thấy bọn họ, có lẽ đây là một hình thức tu hành, chúng tôi dường như đã quấy rầy họ.

Tôi nghe lời bọn họ nói “ Tới đây”, liền tiến lại. Đến gần thấy vài lạt ma tuổi khá trẻ đang nhắm mắt, chỉ có một lạt ma lớn tuổi ánh mắt sáng ngời nhìn chúng tôi. Chúng tôi vừa nói xong mục đích đến đây, lão lạt ma cũng nhắm hai mắt lại, nói: “Chuyện khi đó, ta còn nhớ rõ.”

Tôi có hơi bất ngờ, tôi đã nghĩ ông ta sẽ có biểu cảm kịch tính hơn nữa, thí dụ như kích động nói: “Cậu, cậu cũng biết người đó” hay tương tự như thế.

Thế nhưng nhân gia chỉ là nhắm hai mắt lại, nói một câu: “Chuyện khi đó, ta còn nhớ rõ.”

Tôi cũng không biểu lộ tâm tư của mình, cũng làm bộ điềm tĩnh.

Sự thật chính là thần kỳ như vậy, tôi bỗng nhiên hiểu ra, rất nhiều chuyện đối với mình là vô cùng quan trọng, đối với người khác, e rằng không bằng cả một cái ngáp.

Điều này cho đến bây giờ tôi đã có thể thực sự hiểu được.

Trong phòng ngủ của lão lạt ma, chúng tôi uống trà bơ mới nấu, chờ ông kể lại câu chuyện từng chút một. Trong phòng ngủ đốt lò than làm không khí vô cùng ấm áp, tôi hơi đổ mồ hôi, ngồi nghe những việc Tiểu Ca đã trải qua ở lần xuất hiện trên nhân gian đó.

Trong quá trình tự thuật, có một số chỗ cả đại lạt ma cũng không hiểu rõ, khi ấy ông sẽ mở quyển trục và bút ký ra để kiểm tra lại. Khi ông kể xong, tôi cũng tự mình đọc lại cẩn thận nội dung của bút ký, vì vậy những chuyện dưới đây đến từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, có phần là tôi đọc được trong sổ, có phần là lời kể của Đại Lạt Ma.

Tình hình năm mươi năm về trước, đến nay lão lạt ma vẫn còn nhớ như đang ở ngay trước mắt. Đó là tuần thứ ba trên núi có tuyết lớn, phải xuống núi đã vô cùng nguy hiểm, toàn bộ lạt ma đều đang chuẩn bị cho khổ tu trong mùa đông.

Hồi đó, Đại Lạt Ma rất trẻ, còn chưa trở thành Đại Lạt Ma trong chùa. Nhưng để tiện phân biệt, tôi sẽ gọi vị Đại Lạt Ma của năm ấy là Lão Lạt Ma.

Theo tập tục trong miếu, ngày hôm đó lão lạt ma quét sạch tuyết trước cửa, còn đặt trước cửa miếu ba lò than lớn, không để tuyết phủ mặt sân lần nữa. Hành động như vậy từ khi xây xong miếu lạt ma, cứ mười năm lại có một lần. Tuy rằng lão lạt ma cũng không biết làm vậy có ý nghĩa gì nhưng qua các thời kỳ lạt ma đều tuân thủ nghiêm chỉnh.

Buổi trưa đó là lần thứ tư lò than được đặt, lão lạt ma thấy được Muộn Du Bình đang đứng trước lò than sưởi ấm.

Muộn Du Bình mặc một bộ y phục đặc biệt kỳ quái, giống như là áo khoác dày trong quân đội, nhưng họa tiết trên áo lại là hoa văn Tây Tạng, sau lưng anh ta là một bọc hành lý rất lớn, nhìn qua vô cùng nặng.

Muộn Du Bình nhìn qua rất khỏe mạnh, lúc đó lão lạt ma và anh đã có một đoạn đối thoại như thế này:

Lão lạt ma: “Quý khách từ đâu tới đây?”

Muộn Du Bình: “Tôi từ trong núi tới.”

Lão lạt ma: “Quý khách đi về đâu?”

Muộn Du Bình: ” Đi ra bên ngoài.”

Lão lạt ma: “Quý khách tới từ thôn làng đối diện sao?”

Muộn Du Bình: ” Không, là từ sâu trong tuyết sơn.”

Nói xong câu đó Muộn Du Bình chỉ tay về một phương hướng, đó là sâu trong vùng núi tuyết. Đối với lão lạt ma và người dân ở Mặc Thoát mà nói, không ai không biết đó là một vùng đất không người, trong đó không có gì cả. Mà khu vực xung quanh miếu không có bất kỳ con đường nào, chỉ có một khối có thể gọi là vách núi. Tuy nó cũng không phải là vách núi thực sự nhưng có mức độ tuyết đọng và độ dốc lớn, độ chênh lệch chỉ chừng hai trăm mét, vô cùng hiển trở. Đây là nơi nguy hiểm nhất gần miếu lạt ma.

Không ai lại đến đây từ hướng đó cả. Lão Lạt Ma mỉm cười, ông cảm thấy nhất định là Muộn Du Bình đã chỉ nhầm hướng rồi. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông liền nhận ra có điều không ổn. Bởi vì nơi Muộn Du Bình đứng, chỉ có đúng một dấu chân hết sức lẻ loi, không có bất kỳ dấu chân nào khác.

Để có kết quả như thế này, trừ khi Muộn Du Bình từ trên trời rơi xuống, hoặc là thật sự leo xuống từ vách núi.

Lão lạt ma: “Quý khách vì sao dừng lại trước cửa miếu chúng tôi?”

Muộn Du Bình: “Ở đây ấm áp. Tôi sưởi ấm một lúc rồi lập tức đi ngay.” Muộn Du Bình chỉ vào lò than. Lão lạt ma bỗng nhiên có một suy nghĩ kỳ quái. Tập tục lạ lùng này của miếu, cứ mười năm sẽ đặt ba lò than ở cửa miếu, lẽ nào chính là vì, nếu có người đi qua cửa, sẽ có một nơi sưởi ấm.

Có lẽ nên nói, có người muốn người đi qua cửa miếu sẽ vì ba lò than này mà dừng lại?
Ngôi miếu này từ lúc xây xong thì có quy củ này, ông vẫn cảm thấy quy củ này vô cùng kỳ lạ. Chẳng lẽ người tu sửa miếu đã đoán trước tình huống này từ rất lâu về trước nên đã đặt ra quy củ này?

Lão lạt ma nhìn Muộn Du Bình, hai người không nói gì nhìn nhau một lúc lâu, ông thấy có phần lung túng, liền nói: “ Bên trong ấm áp hơn, không bằng quý khách vào trong nghỉ ngơi một chút, uống chén trà bơ rồi lại đi.”

Lão lạt ma vốn là hỏi khách sáo một câu, Muộn Du Bình ngược lại không khách sáo, trực tiếp gật đầu nói: “Được.”

Vì vậy lão lạt ma liền đưa Muộn Du Bình vào bên trong miếu lạt ma.

Với tư cách là chủ nhân, lại đã lâu không có khách đến, ông hiển nhiên muốn làm một chủ nhà tận tình. Mời Muộn Du Bình vào nhà cho ấm người, sau khi uống trà bơ, ông lại dẫn Muộn Du Bình đi thăm quan khắp nơi.

Trong lúc đó, lão lạt ma vô tình hay cố ý, luôn luôn muốn hỏi Muộn Du Bình một vài vấn đề. Kỳ quái là, Muộn Du Bình cũng không giấu giếm, anh nhiều lần nhấn mạnh mình đi ra từ núi tuyết, trong lời nói, không có cảm giác là nói dối hay che giấu chút nào.

Lão lạt ma lúc đó tuy rằng còn trẻ tuổi nhưng dẫu sao cũng đã trải qua quá trình tu hành, đối với sự tò mò có lực khống chế đặc biệt, ông không tiếp tục hỏi nữa.

(Ban đầu chuyện này tối đa chỉ là Muộn Du Bình ngủ lại một đêm rồi sẽ đi. Sau khi Muộn Du Bình rời đi, cuộc sống của lão lạt ma lại trở về quỹ đạo vốn có.)
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 13 Dec 2019

Chương 8: Đầu mối then chốt về Muộn Du Bình

Buổi tối hôm đó, Muộn Du Bình ở lại trong phòng Lão Lạt Ma, trò chuyện mấy câu cuối cùng, nói rằng ngày mai sẽ đi luôn, rồi tỏ lòng cảm ơn. Sau đó, Lão Lạt Ma đưa Muộn Du Bình về phòng của hắn.

Kết cấu ngôi chùa này rất phức tạp, nếu không có ai dẫn đường, người bình thường không thể nào tìm về phòng được. Hai người họ vòng tới vòng lui trong ngôi chùa, khi đi ngang qua một khoảnh sân, ngọn đèn dầu của Lão Lạt Ma đột nhiên tắt phụt.

Tối om như mực. Dưới ánh trăng, khoảnh sân rất u ám. Lão Lạt Ma dừng bước, lại đốt đèn dầu. Đúng lúc này, Muộn Du Bình ngẩng đầu lên ngắm nhìn bầu trời.

Bầu trời ở Tây Tạng đầy sao, khung cảnh nên thơ như mộng ảo. Cảnh đẹp ấy với lão lạt ma mà nói, do từ nhỏ đã tiếp xúc, nên không cảm thấy bầu trời có gì đặc biệt, ông không thấy trên trời có gì kỳ lạ.

Ông thắp đèn lại, rồi tiếp tục lên đường. Nhưng đột nhiên nhận ra Muộn Du Bình vẫn đứng yên bất động, lẳng lặng ngắm nhìn bầu trời.

“Quý khách, đi bên này.” Lão Lạt Ma nói.

Bấy giờ Muộn Du Bình mới hoàn hồn lại, liền hỏi: “Thượng sư, miếu Lạt Ma của các ngài có phải có khoảng một trăm hai mươi bảy gian phòng phải không?”

Lão Lạt Ma ngây người, quả thực, miếu Lạt Ma này có cả thảy một trăm hai mươi bảy gian phòng, ông được biết điều này khi mới đến đây. Mặc dù có những gian phòng cực nhỏ, nhưng tổng số chính là một trăm hai mươi bảy gian. Làm sao mà Muộn Du Bình biết được?

Lão Lạt Ma gật đầu nói phải. Muộn Du Bình liền nói: “Làm phiền ngài, có thể cho tôi đến từng gian phòng xem thử một chút được không?”

“Quý khách, vì sao đột nhiên có ý này…” Lão Lạt Ma định hỏi, nhưng ngay lập tức kiềm chế được,...Không vọng tưởng, không hiếu kỳ, ông không nên nảy sinh hứng thú với những chuyện này.

Lão lạt ma trấn tĩnh một chút, bất giác cảm thấy Muộn Du Bình liệu có phải từ trên trời phái xuống khảo nghiệm quá trình tu hành của ông, vì thế liền gật đầu, nói:

“Được.”

“Tôi nhớ rõ bầu trời đầy sao ở nơi này.” Muộn Du Bình lẩm bẩm,“Rất lâu trước kia, tôi hẳn đã tới đây, tôi mang máng nhớ rằng, mình đang ở trong một căn phòng, và toi đã để lại một thứ gì đó.”

“Tôi hy vọng anh có thể tìm thấy nó.” Lão lạt ma nói, trong lòng tò mò đến muốn hộc máu.

Giữa đêm, họ cứ ngó qua từng phòng rồi từng phòng, lão lạt ma không nhớ đã qua bao gian phòng. Chỉ biết là hơn 2 giờ sau, họ mở cửa một gian không dùng làm phòng ở, tới khi ấy, bước chân Muộn Du Bình có chút trì hoãn, bất động.

Lão lạt ma cũng không di chuyển, nhưng ông biết trong phòng này hẳn là có cái gì đó làm kinh động đến Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình đi vào phòng, trong phòng có một chiếc bàn gỗ, mặt trên đầy các thứ linh tinh, hắn liền di dời đống đồ đó, thứ bên trong lộ ra, chính là một thi thể khô quắt.

Khối thi thể này đang ghé vào cạnh bàn, hoàn toàn đã là một khối thây khô, bị đống đồ vùi lấp, người mặc tăng bào, không thể trông rõ bộ dáng.

Lão lạt ma qua khiếp sợ, ông chưa từng nghĩ tới, trong căn phòng lâu ngày không dùng tới ở ngôi chùa này, có một cái xác khô.

Nhưng, người trong chùa vẫn đầy đủ, vậy người kia là ai? Chẳng lẽ, là người trước đây ở chùa lạt ma, chết ở nơi này, lâu ngày cũng không có ai phát hiện ra?

“Ai vậy?” lão lạt ma rốt cuộc không thể kiềm chế, hỏi.

“Đây là Đức Nhân lạt ma, là bằng hữu của tôi, không thể tưởng được ông ấy lại chết ở đây.”

“Đức Nhân lạt ma?” lão lạt ma chưa từng nghe qua cái tên này.

Muộn Du Bình sắp xếp lại chiếc bàn một chút, phát hiện bàn tay cái xác khô đang nắm chặt một quyển kinh văn. Hắn mở quyển kinh văn ra, khẽ thở dài một hơi, nói với Lão Lạt Ma: “Nhờ ngài thu dọn căn phòng này một chút, an táng thi thể Đức Nhân, tôi muốn ở lại nơi này.”

Lão Lạt Ma hoàn toàn không có phản ứng gì. Bỗng nhiên ông có cảm giác, tất cả mọi thứ xung quanh mình trở nên thật lạ lùng, dường như bản thân ông còn chẳng am hiểu ngôi miếu này bằng Muộn Du Bình. Muộn Du Bình ngồi xuống đọc cuốn kinh thư kia, không nói gì với Lão Lạt Ma nữa.

Anh ta ngụ lại chùa trong vòng vài tháng. Sau đó bọn họ có tra xét tư liệu, thì phát hiện được: Đức Nhân lạt ma quả thực từng ở trong chùa, trong tập ghi chép đầu tiên. Thậm chí từ thời điểm khi chùa mới thành lập, tra dần xuống, ông liền phát hiện, dường như mỗi đời đại lạt ma, đều có một người tên là Đức Nhân, mãi cho tới một thế hệ, tên Đức Nhân này mới biến mất trong danh sách.

Tất cả khẳng định không phải cùng một Đức Nhân, mà là rất nhiều Đức Nhân. Hơn nữa, trong bản ghi chép, dường như mỗi một Đức Nhân đều thu nạp một người tên Đức Nhân làm đệ tử.

Thế này là thế nào? Chẳng lẽ trong miếu này vẫn còn một truyền thống khác ư?

Hình như cái tên Đức Nhân đối với ngôi chùa này có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Mỗi một thời đại lạt ma phải có một người gọi là Đức Nhân.

Vị Đức Nhân đã biến thành xác khô kia chắc hẳn là người cuối cùng gánh vác cái tên “Đức Nhân” này. Không biết vì sao, người này lại chết trong phòng, cũng không có học trò, bởi vậy các đời Đức Nhân đến đây là kết thúc.

Vì sao lại như vậy? Có thực đây chỉ là một ngôi miếu Lạt Ma bình thường không? Lúc này, Lão Lạt Ma đã không tài nào kìm chế được sự hiếu kỳ của mình nữa. Làm tăng nhân, có thể khống chế tâm tình bản thân xem ra vô cùng tốt, nhưng ông phát hiện có vẻ mình tu hành chưa đủ, nên bản thân vẫn không thể bình thản. Ông nhận thấy Muộn Du Bình chắc chắn có mối liên quan nào đó với ngôi chùa này, bởi vậy, ông cũng không cần phải kìm nén câu hỏi trong lòng mình vì sự lễ phép nữa.

Ông bèn tìm Muộn Du Bình,hỏi trực tiếp đến cùng chân tướng sự việc.

Muộn Du Bình liền kể lại mọi chuyện, không có ý định giấu diếm.

(Tôi nghe đến đây suýt chút nữa thì hộc máu, bởi vì Muộn Du Bình đối với Lão Lạt Ma thì rõ là thẳng thắn, trong khi với tôi sao lại hẹp hòi keo kiệt bủn xỉn như thế chứ...?)

Muộn Du Bình nói, bản thân mắc một căn bệnh, cứ sau một khoảng thời gian ngắn, sẽ quên hết tất cả kí ức trước đây.. Ngoại trừ một số chuyện cũ thời thơ ấu ra, thì đầu óc hắn không thể chứa được những ký ức mới xảy ra.

Hắn đúng là đi từ trong tuyết sơn ra, hơn nữa còn mang theo ra một bí mật, nhưng không lâu sau đó hắn đã quên bẵng mất bí mật này.

Rất lâu trước đây, trước cả thời điểm hắn tiến vào tuyết sơn, hắn cùng với Đức Nhân lạt ma có một mối quan hệ hết sức đặc biệt, bọn họ đã định một giao ước, mười năm sau, hắn sẽ trở ra từ tuyết sơn, mang theo ra một bí mật to lớn. Nhưng lúc hắn trở ra đã hoàn toàn quên mất giao ước này, bởi vậy, Đức Nhân Lạt Ma vẫn luôn ở trong chùa chờ đợi hắn.. Đợi hắn kể lại tất cả những chuyện phát sinh trong núi tuyết, tất cả những việc đã quên trước đây, để Đức Nhân ghi chép lại.

Lão lạt ma nghĩ tới lời Muộn Du Bình nói, mồ hôi lạnh liền đổ xuống.

Như vậy phải chăng nghĩa là, mười năm nay hoàn toàn không phải tình cờ, tất cả các Đức Nhân tồn tại đều chỉ để ghi chép lại ký ức của người khách đến từ trong núi tuyết? Phải chăng, ban đầu ngôi miếu này được xây nên là vì, có người biết cứ mỗi mười năm lại có người mang theo bí mật từ trong núi tuyết ra ngoài, truyền lại bí mật này cho một Lạt Ma tên là Đức Nhân?

Đáng tiếc, Đức Nhân của thế hệ này lại không chờ được Muộn Du Bình ra khỏi núi tuyết mà qua đời, thậm chí, người này còn không tìm cho mình một người thừa kế.

Có lẽ do biết bản thân mình lại sắp quên hết tất cả, Muộn Du Bình kể lại hết tất cả những gì mình biết cho Lão Lạt Ma...Hắn kể cho ông biết mình đi vào trong tuyết sơn là vì nguyên nhân gì.

Hắn đến là để tìm một người..!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 13 Dec 2019

Chương 9. Chuyện cũ của Muộn Du Bình.


Đầu thế kỷ hai mươi, sau Thế chiến thứ nhất, Hoa Kỳ phát triển với tốc độ vượt bậc, có thể thấy bóng dáng của các đội khảo sát và các nhà thám hiểm Mỹ ở khắp các vùng đất trên thế giới, bao gồm cả những nước nhỏ bé dưới chân núi Himalayas như Nepal hay Bhutan. Là dải đất đầy xung đột và mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc, vùng đất này luôn sầm uất các loại hoạt động giao dịch buôn bán với đủ loại tính chất khác nhau, trong đó, người Mỹ chiếm một bộ phận rất lớn.

Có một đoàn ngựa thồ hỗn hợp giữa người Ấn Độ, người Bhutan và người Trung Quốc đang nghỉ ngơi trong một dịch trạm. Trong dịch trạm hỗn tạp đủ các loại người, có cả những thương nhân Pháp đến từ Bắc Phi lan truyền những tin đồn không biết thật giả về tình hình chiến tranh biên giới gần đây.

Trong đoàn ngựa thồ này có bốn người dường như là thành viên chính, từ thân phận của bốn người này, có thể nhìn ra được thành phần của đoàn ngựa thồ này. Trong đoàn, có hai đầu lĩnh là người Ấn Độ, một người tên là A Duy, một người tên là Khố Lý Mạt, hai người là anh em,có một đầu mục là người Bhutan, đây là một gã hói đầu... còn lại một người là người Trung Quốc, người này tên Đổng Xán, là một cái tên giả.

Đổng Xán vốn họ Trương, là một thương nhân hoạt động ở vùng biên giới Trung Quốc, đồng thời là một thành viên của một gia tộc rất lớn ở Trung Quốc.

Vốn bản thân anh ta đã có một đội ngựa thồ riêng, nhưng các tuyến đường đi từ Nepal đến Trung Quốc, Tây Tạng và Tứ Xuyên đều đã bị các thế lực nước ngoài hoặc cường hào địa phương cắt đứt, bây giờ, anh ta phải làm một vài cuộc buôn bán nhỏ ở biên giới cùng với đội ngũ người Ấn Độ và Bhutan.l

Hàng hóa của Đổng Xán rất đặc biệt. Những thứ hàng này trong thời kỳ chiến tranh thật ra giá trị không lớn, trong đó rất nhiều thứ phí chuyên chở còn lớn hơn giá trị của món hàng….Đổng Xán đi chuyến này, chẳng qua chỉ là để kiếm chút tiền hoa hồng từ việc vận chuyển hàng mà thôi.

Đổng Xán có khuôn mặt rất giống người Tây Tạng, điều này làm cho hoạt động của hắn ở địa phương vô cùng tiện lợi. Ở vùng Hymalaya có đủ các loại thế lực hỗn tạp, một người đơn thương độc mã buôn bán khá nguy hiểm.

Đổng Xán là người tháo vát , nhanh trí , và rất khôn khéo , ở mặt này hắn làm vô cùng tốt, có thể sử dụng tiếng Tạng cũng thường xuyên giúp hắn có thể qua ải trót lọt.

Đoàn người ngựa này ở quán trọ nghỉ ngơi mười hai ngày, dự trữ đủ những thứ cần thiết, cho tới một ngày trời tốt hiếm có, bọn họ tiến vào vùng núi Hymalaya, bắt đầu xuất phát đến Trung Quốc.

Đây là tin tức cuối cùng mà bạn bè của bọn họ được biết.

Sau đó, đoàn ngựa thồ mười bảy người, bao gồm bảy người Ấn Độ, chín người Bhutan, và một người Trung Quốc đã hoàn toàn biến mất ở khu không người trong vùng núi Himalayas. Thực ra, đây là chuyện khá bình thường, từ cổ chí kim đã có không biết bao nhiêu đội thương buôn đã bỏ mạng trong khu vực đó rồi. Thế nhưng, vụ việc này lại dẫn đến một sự căng thẳng cao độ từ phía lãnh đạo Ấn Độ đương thời.

Sự căng thẳng này không phải là không có lý do….. tất nhiên, trên thực tế nhất định là phải có một lý do, nhưng vẫn còn quá sớm để nói. Lúc đó nhà chức trách Ấn Độ đưa ra lý do là, A Duy và Khố Lý Mạt, thật ra là nhân viên tình báo của Ấn Độ. Bọn họ đảm nhận một kế hoạch rất lớn, nhưng bỗng nhiên hai người đều biến mất không rõ nguyên nhân.

Nhóm người của Đổng Xán nhất định đã đi vào khu vực núi Hymalaya, hơn nữa đã đi nhầm đường. Bọn họ không đi ra từ bất kỳ lối ra nào mà là đi vào nơi sâu nhất trong núi, dường như đã chết ở trong đó.

Nhưng sự thật không phải như vậy, mười năm sau, có hai thương nhân Banglades bị người ta phát hiện là hai người Ấn Độ năm đó. Bọn họ chết ở Banglades trong một cuộc ẩu đả. Hai kẻ xui xẻo này khi đang đánh bạc bị người thua dùng cuốc đánh chết. Thân phận của họ lúc đó không còn là thương nhân nghèo mà là hai anh em phú hào trong vùng. Cũng ở nơi này một năm sau, có người ở Tích Kim nhận ra một người khá giàu có của địa phương chính là đầu mục của người Bhutan năm nào, chính là gã đầu hói.

Đổng Xán không thấy xuất hiện nhưng ba người kia đã xuất hiện, hiển nhiên làm cho chính quyền ý thức được sự việc cũng không đơn giản như thế.

Đoàn người ngựa năm đó dường như không chết ở trong núi Hymalaya mà hình như họ đều còn sống, hơn nữa thay đổi thân phận, bí mật ra khỏi núi, đồng thời che giấu tung tích, thay tên đổi họ. Hơn nữa họ đều giống nhau là đều trở nên giàu có. Có người nói khi quân đội bắt đầu mục Bhutan, tài sản trong nhà hắn dùng xe tải chở mười lần cũng không chở hết.

Khi người Bhutan kia bị thẩm vấn đã nói ra chuyện xảy ra trong núi Hymalaya khi đó.

Khi đó nhóm của Đổng Xán đi sâu vào trong núi Hymalaya, đến một giao lộ, gặp phải một con đường bị sạt lở trầm trọng. Bọn họ đã chọn một con đường khác. Khi đó gió tuyết trên núi rất lớn, bọn họ không phát hiện ra, vài lần chuyển hướng, bọn họ lại trở về con đường bị sạt lở. Thời gian đi lên coi như đã vứt hết xuống vách núi.

Người đã từng xem phim tài liệu thời đó đều biết, khi đó đi qua đoạn đường này hầu như đều dựa vào kiệu phu, di chuyển gia súc hay hành lý đều giống nhau, buộc nối vào nhau bằng dây thừng. Mà buộc dây thừng cần đặc biệt chú ý, có buộc cũng không được buộc chặt vì đến đoạn đường trơn trượt phải cởi dây ra. Nhóm người Đổng Xán đã chọn sai đường cho nên khi một người ngã vào vách núi, tất cả mọi người đều bị dây thừng kéo xuống theo.

Đó là một tai nạn thảm khốc, sau đó đã xảy ra rất nhiều chuyện, không thể ghi chép lại toàn bộ. Bởi vì dây thừng buộc vào nhau nên quá trình bọn họ rơi xuống vách núi vô cùng phức tạp. Rất nhiều người khi bị treo trên dây, do quán tính bị đập vào mỏm đá mà chết, vài người thì bị dây thừng siết cổ đến chết, vô cùng đáng sợ.

Sự cố này làm bọn họ tổn thất một nửa người và gia súc. Khi bọn họ nghỉ tạm trên vách núi, phát hiện không có cách nào leo lên, liền tìm một con đường có thể trở về từ dưới vách đá. Kết quả là họ đã tới một khu vực trước đây họ chưa bao giờ đến và tìm được ở trong đó một nơi rất kỳ lạ.

Đó là một sơn cốc, trong sơn cốc rất khác thường là tuyết đọng không dày, ở giữa sơn cốc, có một khối cầu khổng lồ, phần trên bị tuyết phủ quá nửa nhưng vẫn nhìn rõ phía dưới có ba hoặc bốn tầng khối cầu bằng kim loại đen bóng.

Mà ở bên cạnh khối kim cầu lớn, bọn họ tìm được trong tuyết đọng vô số khối kim cầu nhỏ bằng quả trứng gà, số lượng cả ngàn vạn. Kích cỡ những khối cầu nhỏ này không đồng nhất, toàn bộ bị vùi trong tuyết nên cơ bản là không thể đếm được số lượng. Nếu loại bỏ hết chỗ tuyết ở nơi này đi, nơi đó đoán chừng sẽ giống như hố bóng nhựa mà trẻ con thời nay thường hay đùa nghịch vậy , người Bhutan kia nói

Bọn họ không còn nhớ rõ ai đã phát hiện những quả cầu này có một số làm bằng vàng. Bọn họ liều mạng thu gom, đem hành lý của mình ra, toàn bộ đổi thành những quả cầu vàng.

Trong quá trình thu nhặt bọn họ mới phát hiện trong đống cầu có rất nhiều chủng loại. Đồng, Sắt, chì, tựa hồ tất cả nguyên tố trên thế giới đều trưng bày ở nơi này.

Tất cả mọi người đều điên cuồng, bởi vì số quả cầu rất nhiều, nhưng tìm được quả bằng vàng lại cần kiên trì. Sau đó lại xảy ra chuyện cướp đoạt của nhau, làm vài người bị thương.

Khi bọn họ thiên tân vạn khổ (trăm ngàn vất vả cay đắng) ra khỏi được sơn cốc, đến cuối cùng cũng chỉ còn sống sót được có sáu người. Ngoài hai người Ấn Độ, một người Bhutan ra còn có Đổng Xán cùng với hai tay thủ hạ.....Đổng Xán là người duy nhất trong nhóm không mang ra bất cứ thứ gì. Lúc đó ánh mắt của hắn bị thu hút bởi khối cầu khổng lồ kia, giống như bị câu mất hồn phách, hoàng kim vạn lượng đầy núi hắn căn bản cũng không buồn đếm xỉa đến.

Người Bhutan nói, quả cầu khổng lồ kia đặt ở giữa sơn cốc như vậy, vừa nhìn thì giống như là do bàn tay con người tạo nên. Nhưng quả cầu lớn này đặt ở đó có tác dụng gì.... Là ai đã đặt..... Hắn không thể lý giải. Tất cả những quả cầu đều bị mài mòn và ôxy hóa nghiêm trọng, có vẻ như đã đặt ở đó ít nhất mấy nghìn năm.

Khi người Bhutan đó được trả tự do hắn đã viết một cuốn sách kể lại câu chuyện không thể tưởng tượng này, đồng thời hắn còn đưa ra rất nhiều suy luận vô cùng hoang đường thiếu thực tế trong sách. Trong đó ông ta tuyên bố phần lớn tài sản của mình là do tự mình kiếm được, số vàng này chẳng qua chỉ là số vốn ban đầu mà thôi.

Số kim cầu mà hai người Ấn Độ kia đã tiêu thụ lần lượt được tìm lại về từ khắp nơi trên thế giới. Có một số gần như đã bị đúc lại thành hình dạng khác hoặc đồng tiền vàng......Chỉ còn lại mười hai quả bị phát hiện trong hình dạng ban đầu. Lúc đó chính phủ Ấn Độ mua lại những quả kim cầu này với giá rất cao, những quả cầu này liền trở thành “So với vàng còn quý hơn vàng”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 14 Dec 2019

Chương 10. Thứ Vàng Còn Quý Giá Hơn Vàng.

Cuối cùng, vẫn không ai tìm được Đổng Xán, manh mối duy nhất chỉ có một phong thư của hắn được giao cho một Lạt Ma (Đức Nhân). Trong thư có một bức tranh bên trên là một đồ hình kỳ quái, đó là một tinh tượng đồ (bản đồ các vì sao).

Có điều, phong thư này còn chưa được giao đến tay người nhận đã bị lấy mất, mà người lấy thư cũng không thể xem hiểu được bức tinh tượng đồ này. Bọn họ không biết bức họa là địa đồ chỉ ra vị trí của sơn cốc kia.

Tuy nhiên, người đã không nhận được thư cũng không từ bỏ ý định. Vì vậy một thanh niên trẻ tuổi đã tới Medog (Mặc Thoát), anh ta đến từ cùng một đại gia tộc ở Trung Quốc với Đổng Xán….Hắn chính là Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình đến đây để điều tra hướng đi của Đổng Xán….nơi Đổng Xán đã đi qua. Ở đây hắn có một người liên lạc tiếp đón, chính là vị Đức Nhân lúc đó.

Ở đây tôi chỉ có thể suy đoán, Đức Nhân chắc chắn là người phụ trách điểm liên lạc mà Trương gia bố trí ở Tây Tạng...Hắn có thể là một Lạt Ma bình thường, sư phụ của hắn cũng tên Đức Nhân, đợi đến thời cơ chín muồi hắn cũng sẽ thu một đồ đệ tên là Đức Nhân.

Nếu như Muộn Du Bình không xuất hiện, việc hắn phải làm cũng chỉ là những việc của một Lạt Ma bình thường…. rồi đến thời điểm thích hợp , hắn sẽ lựa chọn người liên lạc kế tiếp cho Trương gia.

Nhưng sự xuất hiện của Muộn Du Bình đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời của hắn. Cái tên Đức Nhân này không còn là bổng lộc cố định được hưởng mỗi tháng nữa, ông chủ của hắn đã xuất hiện, hắn phải bắt đầu thực hiện công việc cho số bổng lộc mà hắn vẫn được hưởng đều đều từ cái tên của mình.

Ở đây tôi còn suy đoán, hoạt động của Đổng Xán ở nơi này rất có khả năng cũng là ngụy trang. Hắn ở chỗ này là vì một kế hoạch khác, có liên quan đến bí mật trong tuyết sơn. Vì vậy Trương gia mới cần thiết lập một chế độ người liên lạc thừa kế như vậy.

Mà khái niệm mười năm này càng làm cho tôi suy nghĩ miên man.

Tuy nhiên Đổng Xán dã xảy ra chuyện….. Có lẽ Đổng Xán không tiếp tục thực hiện chức trách của mình nữa, hoặc là đã chết, cho nên, Trương gia bèn phái Muộn Du Bình đến điều tra rõ tình hình.

Trương gia khi đó hẳn đã ở bên bờ sụp đổ. Thế nhưng sự việc vô cùng hệ trọng, không thể không quản cho nên Muộn Du Bình chỉ tới một mình.

Thế nhưng cuối cùng hắn cũng không tìm được Đổng Xán, chỉ tìm được miếu lạt ma mà Đổng Xán đã từng ở tạm, đồng thời tìm được trong phòng của hắn một bức tranh. Những vật dụng sinh hoạt của Đổng Xán ở nơi này đều đã bị dời đi, chỉ còn lại bức tranh này.

Đến đây, tôi cần phải tưởng tượng một chút. Từ trong bút ký tôi không thể phán đoán được suy nghĩ của Muộn Du Bình, nhưng tôi có thể đặt mình vào vị trí của Đức Nhân, để kể lại một số chi tiết trong đó.

Đó là bức tranh vẽ một hồ nước lớn, màu sắc của hồ nước tươi đẹp lạ thường. Khi thấy nó, trong lòng Đức Nhân dâng lên một cơn vui sướng và rung động lạ thương....Hắn không biết trên thế giới này còn có một nơi xa xôi huyền bí như thế, cách biệt với thế gian như thế, hồ nước tuyệt mỹ đó đang ở đâu?

Sau đó, Đức Nhân nhìn thấy hình ảnh một ngọn núi tuyết đổ bóng xuống mặt nước hồ.....Ông ta nhận ra đỉnh núi cao vút sừng sững bên cạnh hồ kia dường như là núi Cách Lạp Côn Lôn . Phản chiếu xuống mặt nước còn là bầu trời xám trắng.... bằng cách vẽ này khiến cho bức tranh toát lên một vẻ siêu phàm, khiến người ta có cảm giác hồ nước này thật thiêng liêng và siêu việt.

Đức Nhân đối với tôn giáo , cái gọi là vẻ đẹp thật ra cảm thấy rất khó hiểu. Nhưng khi nhìn thấy bức tranh này, ông ta dường như có thể hiểu được một số những đạo lý mà trước đây ông ta không thể hiểu được

Ông ta tưởng tượng, nếu như nguồn sáng trong tranh thay đổi, mặt nước hồ kia khúc xạ lên vô số các loại ánh sáng, thì cảnh tượng trong đó sẽ trở nên tươi đẹp và rực rỡ đến nhường nào. Ông ta tưởng tượng ra các loại khí hậu ở đó, như gió lớn, mưa rào, mưa bụi, tuyết rơi, mưa đá, sương mù mờ ảo, rồi lại nghĩ, cá trong hồ không biết có hình dạng như thế nào, liệu có giống cá ở những nơi khác hay không?

Ông ta nhìn ngắm bức tranh này rất lâu, mãi cho đến khi nhận ra Muộn Du Bình bên cạnh đã biến mất, mới sực tỉnh. Muộn Du Bình ngồi một mình ngoài cửa phòng. Trong số đám đông tới thờ cúng, chỉ mình hắn không nhìn vào chùa miếu mà nhìn về ngọn núi tuyết phía xa..

Sau khi Đức Nhân qua bên đó, Muộn Du Bình liền hỏi: “Hồ nước trong bức tranh ở nơi nào?”

Đức Nhân lắc đầu. Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy hồ nước nào đẹp như thế, nếu để ông ta nói, ông ta chắc chắn sẽ cho rằng, nó tồn tại ở trên trời. Có điều, nhìn bóng đỉnh núi Cách Lạp Côn Lôn in xuống mặt hồ, rất có thể hồ nước đó chỉ nằm ngay trong lòng vùng núi Himalayas này thôi. Ông ta liền nói suy đoán của mình cho Muộn Du Bình nghe, Muộn Du Bình liền hỏi: “Tôi phải làm sao để đi vào trong núi tuyết? Tôi cần sự giúp đỡ của ông, bao nhiêu tiền đều không quan trọng.”

Muốn tổ chức một đội ngũ để vào vùng núi tuyết đó, tuy rằng rất khó khăn, nhưng nếu tìm đúng người thì cũng không phải là không có hy vọng.

Thứ đầu tiên Đức Nhân nghĩ đến là đoàn ngựa thồ đi hàng ở biên giới, chỉ có nhóm người này mới có kinh nghiệm dày dặn khi đi vào sâu trong núi tuyết. Chỉ là nơi bọn họ đi qua đều là những con đường do người xưa dùng cả tính mạng và thời gian khai phá nên chứ không phải là nơi hoàn toàn không có ai từng đến, . Hơn nữa, những đoạn đường đó đến nay xem ra cũng chẳng còn bao nhiêu nữa...Đồng thời ông ta có một ý nghĩ khác, nếu như ngay cả những người này cũng nói không thể đi được, như vậy chí ít để bọn họ tới khuyên nhủ Muộn Du Bình , chắc chắn sẽ có sức thuyết phục hơn nhiều so với mình.

Thế nhưng, diễn biến câu chuyện lại vượt ra ngoài dự đoán của ông ta. Ông ta dễ dàng tìm được ba người kiệu phu bằng lòng đi vào trong núi tuyết cùng Muộn Du Bình. Ông ta không biết có phải là do cái giá mà Muộn Du Bình đề nghị hay không, đương nhiên, đó chắc chắn phải là một cái giá rất hấp dẫn.

Một tuần lễ sau, Muộn Du Bình dưới sự hướng dẫn của ba người kiệu phu đi vào sâu trong núi tuyết, một ngày trước khi lên đường, Muộn Du Bình nói với Đức Nhân mười năm sau hắn sẽ tới tìm ông ta

Đức Nhân nhìn Muộn Du Bình rời đi, Ông ta tưởng tượng đến toàn bộ những gì mà hắn sẽ phải trải qua khi tiến sâu vào núi tuyết đó,...Và kết cục mà hắn sẽ phải đối mặt sẽ là kết cục gì....có khả năng cuối cùng anh ta sẽ thấy được cái hồ nước đẹp như một viên đá quí trong núi tuyết kia, nhưng rốt cuộc anh ta muốn tìm cái gì ở sau cảnh đẹp đó?

Đương nhiên, mười năm sau, Đức Nhân đã chết, nhưng theo quy tắc, trước cửa miếu vẫn đặt ba lò than chờ đợi Muộn Du Bình . Mà Muộn Du Bình sau khi từ biệt Đức Nhân, đã đi vào vùng tuyết phủ mênh mông mờ mịt đó.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 14 Dec 2019

Chương 11: Đi vào núi tuyết.

Ngày đầu tiên.

Tuyết rơi càng ngày càng lớn, trước khi đi tất cả đều cầu nguyện, sau đó toàn bộ đi về hướng đối diện.

Quả nhiên, bất kể là ai, chỉ cần định đi vào nơi đó, ông Trời đều không cho phép. Khu vực màu đen thường lộ ra của dãy núi phía xa hiện tại đã không còn thấy được, không cách nào dễ dàng đến gần được nơi đó. Đó cũng vốn là nơi mà không phải con người nên đến.

Giữa đồng tuyết mênh mông này liệu có sinh vật sống nào chăng..? Lúc trước vẫn còn có người nói mình từng nhìn thấy một số loài chim lớn và dã thú lông trắng, nhưng dường như chỉ là khoác lác mà thôi. Giữa nơi gió rít tràn đầy hai lỗ tai, không cảm nhận được dù chỉ một chút hơi ấm này, làm sao có thể có sinh vật sống?

Sinh vật sống duy nhất giữa vùng tuyết trắng mênh mang này, e chỉ có mình ba người đang hành tẩu này mà thôi...vốn là bốn người, nhưng một người trước khi lên đường đã hòa vào một thể với núi tuyết..Buổi sáng khi mọi người thức dậy, đã thấy người đó uống say, chết bên đường, đông cứng lại thành một thể cùng với đá ven đường.

Một kiệu phu dùng cái đục băng đập tất cả khối băng có thể nhìn thấy trên con đường phía trước, âm thanh đục nghe giống như xuất phát từ một loại nhạc khí thần bí mà từ tốn, lúc vang dội, lúc khe khẽ trong gió. Người thứ hai là Muộn Du Bình, anh ta nhắm mắt lại, men theo thanh âm đi về phía trước, tay mò mẫm, cũng không phải là không muốn mở mắt mà là mang kính an toàn vào anh ta vẫn không nhìn thấy cái gì, không bằng dùng cảm giác còn hơn.

“Anh có muốn dừng lại nghỉ ngơi một lát không...?” Một kiệu phu sau lưng hô lớn, Muộn Du Bình quay đầu lại nhìn thoáng qua, là người kiệu phu lớn tuổi hơn trong hai người, Lạp Ba.

Lạp Ba là một người Tạng hơn bốn mươi tuổi, nhưng mới nhìn giống như sắp sáu mươi. Trên khuôn mặt ngăm đen đầy nếp nhăn chằng chịt như dao khắc, đây là kết quả bị gió thổi trong một thời gian dài, sắc mặt đỏ lên, có phần giống như khi say rượu. Hắn vốn là anh cả (lão đại) của ba người, cũng là một trong những kiệu phu có kinh nghiệm dày dạn nhất.

“Có thể nghỉ ngơi một lát sao?” Muộn Du Bình hỏi.

“Ở đây dù có đi tiếp, tới khi trời tối chúng ta cũng chỉ đi được hơn mười mét, không bằng chờ gió ngừng lại đi tiếp. Nhìn sắc trời này gió thổi cũng không lâu nữa đâu.”

Lạp Ba nói. “Bằng không, chúng ta cứ lãng phí thể lực ở chỗ này, chẳng được cái tích sự gì cả.”

“Vậy dừng lại thôi.” Muộn Du Bình nói.

Bọn họ dừng lại, dán sát vào vách núi, nhưng chỉ có thể đứng, từ từ chờ gió ngừng thổi, người kiệu phu rõ ràng đã mệt lả, lúc dừng lại thiếu chút nữa đã ngã xuống, được Lạp Ba kéo lại, Lạp Ba lớn tiếng gọi hắn, mới xốc lại được toàn bộ tinh thần của hắn

Lạp Ba thở dài một hơi. Ông ta biết, vừa rồi gió nặng nề như vậy, thực ra tiếp tục đi mới là chính xác. Nhưng nếu đi tiếp, phải đuổi đến tận đầu nguồn gió, vượt qua được đoạn hiểm trở đó, vẫn không được ngừng, có lẽ còn phải đi suốt đêm mới được nghỉ. Đến lúc đó dừng lại rồi, có thể làm rất nhiều việc, có thể nổi lửa, có thể đánh một giấc thật ngon, cho nên chút khổ cực này vẫn đáng giá để kiên trì chịu đựng. Thế nhưng, ông ta lớn tuổi rồi, quả thực không chịu nổi. Bây giờ, ông ta thà đứng ở đây còn hơn.

Lúc nói điều này, Lạp Ba còn sợ người kiệu phu kia phản đối, nhưng hiển nhiên thể lực bọn họ đã đến cực hạn. Muộn Du Bình không có kinh nghiệm, không trách cứ bọn họ, khác với đám mã bang lúc trước, sẽ ép họ phải đi tiếp.

Nói chung là tình huống bây giờ vẫn trong tầm khống chế của Lạp Ba. Đứng ở đây, hắn dần dần cảm thấy thể lực tăng lên, cái này so với đi tiếp một đêm rồi ngã xuống đúng là tốt hơn nhiều. Khi có tuổi rồi, thà nghiến răng chịu đựng, chứ chẳng thể xông pha nổi nữa...Điều bất trắc luôn luôn xảy ra vào những lúc người ta không ngờ nhất, với tuổi của ông ta, đã không còn có thể phản ứng nhanh nhạy được như trước kia nữa.

Muộn Du Bình đặc biệt nghe lời, điều này lại khiến Lạp Ba có chút áy náy. Thực ra ông ta luôn có chút tò mò với Muộn Du Bình, bởi cơ bản chẳng có ai một mình vào núi tuyết, hơn nữa lại còn đi tuyến đường này, cho dù chỉ là vào núi tuyết ở Medog (Mặc Thoát) thôi. Có lẽ hắn chính là người đầu tiên. Chẳng thể đoán ra được mục đích của Muộn Du Bình từ tuổi tác và cách nói năng của hắn, quả thực, hắn khiến người ta cảm thấy vô cùng bí ẩn khó lường.

“Ngài không giống như người làm việc cho người ngoại quốc?”.... Lạp Ba nghỉ ngơi trong chốc lát, cả đám người ngồi quây quần vào chung một chỗ, ông ta liền hỏi Muộn Du Bình. Ông ta cần trò chuyện đôi ba câu, trong sự mệt mỏi nhường này, nếu như không kiên trì nổi, người ta rất có thể sẽ ngủ thiếp đi mất.

“Người ngoại quốc….?” Muộn Du Bình khẽ lắc đầu, “Vì sao lại hỏi vậy?”

“Mấy người thuê chúng tôi đi những tuyến đường này trước kia, đa phần đều là người ngoại quốc cả, rất cao, rất to, có người tóc vàng, có người tóc bạc, có người mắt xanh lam, có người mắt xanh lục, cứ như mắt mèo vậy.”

Muộn Du Bình không nói lời nào. Bụi tuyết dính trên mặt hắn, không nhìn rõ được vẻ mặt. Hắn dường như vừa đang lắng nghe, lại dường như vừa không muốn trả lời. Yên lặng mãi hồi lâu, Muộn Du Bình mới lên tiếng: “Cũng là con đường này à?”

“Đường nào cũng có người đi cả.” Lạp Ba nói, “Mỗi con đường lại nguy hiểm khác nhau , chẳng qua là người ngoại quốc tìm nhiều kiệu phu, thứ gì cũng muốn mang vào trong cả, mà trả tiền lại ít. Vào mùa này tuyến đường này rất ít người đi,, nếu không có lẽ chúng ta còn có thể gặp được vài người khác nữa. Nhưng mà con đường này vẫn chưa phải là con đường khó đi thực sự đâu, khi tuyết ngừng rơi thì tất cả đều dễ dàng....Nhưng con đường mà ngài muốn đi tới phía sau mới thật sự là thứ đáng sợ... Tôi nói rồi, hễ cứ đi thêm được một dặm, là tôi sẽ phải khuyên ngài một câu.”

Muộn Du Bình không nói tiếp, mỗi lần nói đến đây, anh ta đều không trả lời. Trong lòng Lạp Ba suy nghĩ, chỉ cần thời gian đi vào chưa đủ lâu, chỉ cần mình đi chậm một chút, một lúc nào đó anh ta cũng sẽ chùn bước. Hoàn cảnh của nơi này người thường không thể chịu đựng được.

” Vậy tại sao ông muốn đi...?” Thật lâu sau Muộn Du Bình mới hỏi.

Lạp Ba trầm ngâm một lúc, ông ta nhớ lại lũ trẻ trong nhà, nhớ lại lý do vì sao ông ta bằng lòng với lời đề nghị của vị Lạt Ma đó. Là ông ta có lòng riêng, ông ta vốn không hề muốn đi tiếp, nhưng nếu Muộn Du Bình không biết điều mà quay trở lại, thì ông ta cũng chẳng còn cách nào.
Ông ta mò mẫm thanh Tạng đao trong tay, giết một người là chuyện quá đơn giản, đơn giản đến mức còn không cần dùng đến dao.

“Thiếu tiền.” Ông ta trả lời gọn lỏn.

Động tác rất nhỏ này lập tức bị Muộn Du Bình nhìn thấy, nhưng hắn cũng không quá để ý.

“Chúng ta sẽ gặp nguy hiểm gì?” Muộn Du Bình không tiếp tục đề tài đó nữa, mà chuyển sang hỏi một vấn đề thực tế hơn.

“Nguy hiểm….? Ở nơi này không tồn tại thứ gì gọi là không nguy hiểm…. tôi nói cho ngài biết, ở trong núi tuyết, tất cả đều là kẻ địch của ngài, mặt trời, gió, tuyết, tiếng nói chuyện, tảng đá, bất cứ cái gì phát sinh bất thường, ngài đều sẽ chết. Ở chỗ này không tồn tại cái gọi là không nguy hiểm, tất cả mọi thứ đều nguy hiểm, còn có các loại quỷ trong tuyết, người chết ở trong tuyết nếu như không tìm được đường về sẽ mãi mãi quanh quẩn ở nơi này.”

“Quỷ….?” Muộn Du Bình giống như vừa nghe thấy một điều rất thú vị, “Các người cũng kiêng kỵ cái này sao? “

“Người ở đâu mà không kiêng kỵ?” Lạp Ba nói, “Chỉ cần là người sống đều kiêng kỵ.”

“ Con người còn đáng sợ hơn ma quỷ nhiều, lòng người không nhìn thấu được.” Muộn Du Bình nói, “Người sống còn không bằng quỷ đâu.” Nói xong anh ta nhìn thoáng qua tàng đao của Lạp Ba.

Lạp Ba có chút khẩn trương, lòng nghĩ có phải anh ta đã nhìn thấy điều gì không....Trong lúc còn đang chần chừ, thanh Tạng đao đã bị rút ra, nằm trong tay Muộn Du Bình.

“Ngài….?”

Muộn Du Bình ném Thanh tàng đao xuống vách núi bên dưới, “Thứ vô dụng vẫn nên sớm vứt đi, để ở trong người, quá nặng.”

Lạp Ba nhìn tàng đao nhanh chóng rơi xuống, đập vào tảng đá rồi bay ra ngoài, sau đó biến mất trong tuyết…. Bấy giờ ông ta mới ý thức được đã gặp phải một nhân vật lợi hại, quay đầu nhìn lại, liền thấy Muộn Du Bình đang nhìn hắn, ánh mắt vô cùng lãnh đạm, giống như chuyện vừa xảy ra không phải do anh ta làm.

Cũng được, ở chỗ này thật ra đao cũng không quá quan trọng, Lạp Ba nghĩ thầm. Hơn nữa, không chỉ một người có đao, con đường phía trước luôn cần trợ giúp, khi đó có thể hạ thủ bất cứ lúc nào.

Gió thổi yếu dần, khi những cơn gió sắc bén quất vào mặt Lạp Ba từ từ giảm bớt, hắn cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Lúc này, trên con đường núi phía trước, hắn mới nhìn thấy một vài thứ quen thuộc.

Đó là một đội kiệu phu khác, đang ở phía trước bọn họ, cự ly rất xa, vừa rồi ở trong gió tuyết không nhìn thấy gì, bây giờ mới thấy lộ ra vài điểm đen.

“Lạ nhỉ, mùa đông năm nay con đường này được ưa thích đến vậy à?” Lạp Ba tự nhủ. Ở đây không thể lớn tiếng gào thét, cũng không thể cao giọng nói chuyện với nhau, bởi làm vậy rất dễ dẫn đến tuyết lở. Ông ta chỉ lẳng lặng nhìn, mới phát hiện các kiệu phu kia không một ai nhúc nhích, cũng không có bất kỳ động tác nào, toàn bộ các điểm đen đều giữ nguyên một tư thế.

“Bọn họ chết cả rồi.” Lạp Ba nhìn hồi lâu, bỗng nói, “Mấy người kia, chết hết rồi.”

Đây nhất định đều là người chết, hơn nữa đều đông cứng mà chết ở đây. Những người đó cũng giống bọn họ bây giờ, tựa sát vào vách đá nghỉ ngơi, cuối cùng toàn bộ bị đông chết, đóng băng dính chặt vào vách đá.

Lạp Ba bỗng nhiên cảm thấy lạnh cả người, hắn lập tức đứng lên, nói với hai người kia: “Gió lặng bớt rồi, chúng ta tiếp tục đi thôi. Đi xem những thi thể phía trước là người nào.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 14 Dec 2019

Chương 12. Bút Ký về “chung cực” của thế giới.


Những người chết ở phía trước đông cứng lại trên vách đá, có thể nhìn thấy vô cùng rõ ràng.. Tuy rằng chỉ cách họ có mấy chục thước, nhưng trong tình huống hiện tại, muốn tới được chỗ đó cũng phải mất bốn,năm giờ.

Khi Muộn Du Bình quay đầu lại nhìn, mới nhận ra kỳ thực nơi này vốn không hề có đường. Cách mà họ đi lại, chính là bám trên vách đá mà đi. Nơi này núi non trùng điệp, lắm khe nhiều rãnh, muốn tiến về phía trước không phải là không có chỗ đặt chân, chỉ là nguy hiểm vạn phần. Hắn nhớ lúc trước khi lên đường, Đức Nhân đại Lạt Ma từng nói, một ngọn núi lớn vừa nhìn là biết trèo lên sẽ ngã chết thực ra lại không hề nguy hiểm. Mối nguy hiểm thực sự lại nằm ở những ngọn núi thoạt trông có vẻ như có cơ hội để vượt qua. Loại núi ấy mới là thứ nuốt chửng vô số sinh mạng.

Dù vậy, hắn cũng không có ý định lùi bước.

Nói cho cùng Lạp Ba cũng đã lớn tuổi, phải tựa lưng vào vách đá nghỉ ngơi rất lâu, mới dám nhìn vào số thi thể đông cứng.

Số lượng rất nhiều, nhìn vào tư thế của thi thể chỉ biết bọn họ chết như thế nào – tất cả đều gắt gao dựa lưng vào vách núi, như động tác của hắn bây giờ. Bọn họ nhất định là gặp gió lớn bủa vây ở nơi này, cũng giống hắn liền muốn nghỉ ngơi đợi hồi phục rồi tiếp tục đi, kết quả là nhiệt độ đột ngột giảm mạnh, rất nhiều người đang trong trạng thái lao lực quá độ liền bị đông lạnh mà chết.

Ở những nơi rét mướt này, cái chết và giấc ngủ đôi khi rất giống nhau, rất nhanh, đông chết một người chỉ mất có vài giây.

“Ông chủ, những người này có lẽ là từ trong núi đi ra, trong lúc nghỉ ngơi ở chỗ này, nhiệt độ đột ngột thay đổi, cộng thêm gió quá lớn, nên họ mới bị chết cóng hết...Có thể nói..Bọn họ vẫn còn tốt số, có nhiều người sau khi bị chết cóng liền bị ném xuống vách núi, thi thể vùi trong tuyết, vĩnh viễn chẳng thể phát hiện.”

“Đi ra....?” Muộn Du Bình có điểm tò mò, “Có người hoạt động trong núi tuyết sao?”

“Không phải như ông chủ nghĩ đâu, người nước ngoài thường xuyên vào núi, nhưng không tính là hoạt động ở trong đó. Bọn họ chỉ muốn biết đường tắt vượt qua những đèo núi này mà thôi, từ đó có thể đi xuyên qua khu không người phía trước, cũng chẳng biết là để tìm kiếm cái gì nữa.” Lạp Ba nói, ngữ điệu ám chỉ rằng, nơi đó thực sự là khu vực không một bóng người.

Nhưng Muộn Du Bình nghe xong chỉ gật đầu, ánh mắt lướt qua số thi thể này một cách vô cùng tự nhiên... Lạp Ba thở dài.

Đúng lúc này người phu khuân vác đang nghỉ ngơi phía sau dùng Tạng ngữ nói vài câu, Muộn Du Bình nghe không hiểu, nhưng Lạp Ba biết liền quay lại trả lời anh ta: “Đều là người lạ.”

Hắn nhìn vào những thi thể này, trong gió tuyết cũng không thể thấy rõ ràng, nhưng quét qua một lượt cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt người chết, bọn họ quả là không có điểm gì quen thuộc.

Điểm này thật là lạ, tuy bọn họ không thể biết hết toàn bộ phu khuân vác ở Mặc Thoát (Medog), nhưng nếu không biết hết thì cũng biết đến 9 phần. Nếu có việc như thế này xảy ra, tối thiểu phải có một người mà họ biết mặt, nhưng tất thảy những khuôn mặt đó đều rất xa lạ.

“Không phải người Mặc Thoát (Medog).” Lạp Ba thấy Muộn Du Bình nhìn mình có ý muốn hỏi liền trả lời

Hắn chưa từng nghe qua có một nhóm người lạ lùng như vậy ra vào Mặc Thoát (Medog)” , thế thì, rốt cuộc những người này từ đâu đến đây? Chẳng lẽ là một đội ngũ đến từ một nơi khác, xâm nhập vào vùng không người, sau đó trở ra, vừa khéo đi qua chốn này?

Trong lòng Lạp Ba tràn ngập nghi vấn, bởi vì hắn biết đường nhỏ thông được tới khu vực không người này từ xưa tới nay chỉ có vài cái, mà chỉ có phu khuân vác ở đây biết. Hơn nữa, đều là qua phương thức già kể lại cho lớp trẻ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp nối, bởi vì chỉ dùng lời để mô tả nên tranh vẽ căn bản cũng không có. Những con đường ấy, phải đi qua đi lại hơn chục lần mới có thể thông thuộc, cho nên hoàn toàn không có khả năng bị tiết lộ ra ngoài.

Phu khuân vác kia tiếp tục nói chuyện với Lạp Ba bằng Tạng ngữ. Ý bảo, trong núi tuyết gặp phải thi thể đôi khi không phải việc xấu. Một là, trên thi thể thường mang nhiều đồ vật này khác có thể đổi lấy tiền . Hai là, nếu có đủ thông tin về thân phận của thi thể, cũng có thể thu một ít tin tức phí từ tay người thân của thi thể đó.

Lúc này người nọ chỉ vào một khối thi thể ở xa xa,Lạp Ba lập tức nhận ra ngay, đó là ba người ngoại quốc.. Bọn họ ăn mặc khác hẳn những người khác, bên cạnh còn có một nhóm người Tạng khuân đồ , giúp họ mang vác thêm rất nhiều hành lý.

Trong bọc của người ngoại quốc thường có nhiều đồ giá trị, điểm này rất ít người biết. Nhưng nói chung, bọn người Lạp Ba sẽ không xuống tay với họ.
Thứ nhất vì, lạt ma cùng đám ngoại quốc có quan hệ rất tốt, nếu có người ngoại quốc bị hại, sự tình sẽ không dễ dàng chấm dứt, bọn họ sẽ phải chịu sự trừng phạt vô cùng nghiêm khắc.
Thứ hai, những người ngoại quốc thường chỉ trả trước nửa tiền, nửa còn lại trả sau khi về nhà, mà đồ họ mang thường vô cùng quý giá, nhưng nếu bán ra sẽ bị các ngôi chùa hoặc chính phủ phát hiện ra ngay. Tuy nhiên, bây giờ hơi khác một chút, bởi vì nhóm người này hiển nhiên không phải xuất phát từ Mặc Thoát(Medog)….Vì vậy, đồ đạc của họ nếu có xuất hiện ở Medog cũng sẽ không xảy ra vấn đề gì.

Ba người phải dùng rất nhiều sức lực mới lấy được mấy cái balô, sau đó tiếp tục đi. Toàn bộ quá trình cũng không cần nói nhiều bởi vì trong bút kí cũng không thấy ghi lại, tóm lại là quá trình ấy cũng chẳng thoải mái gì.

Khoảng vào lúc mặt trời mọc ngày hôm sau, Lạp Ba dẫn cả nhóm đến một sườn núi tuyết. Bọn họ đào một hang chắn gió trong tuyết để nghỉ ngơi, bấy giờ mới có cơ hội lục lọi đống đồ trong các bao hành lý.

Trong hành lý đa phần toàn là máy móc thiết bị và tiêu bản đá núi, người nước ngoài lúc nào cũng hay mang theo một ít đá, Lạp Ba biết những thứ đó là tiêu bản, nhưng lại không biết tiêu bản dùng để làm gì.

Trong lúc lục lọi, suy đoán xem số máy móc thiết bị kia đáng giá bao nhiêu tiền, bọn họ phát hiện hai quả cầu vàng trong bao hành lý.Chúng được đặt trong một hộp thiếc, bên ngoài được bọc vải hết sức cẩn thận.

Trong ba chiếc túi, hai khối cầu này không có nắp đậy nhưng lại được bọc rất cẩn thận, chẳng lẽ nó còn giá trị hơn so với những thứ kia?

Chỉ là sau khi mở ra bọn họ phát hiện đấy chỉ là khối kim loại màu đen, hết sức xấu xí.

Từ đầu đến cuối, Muộn Du Bình lại chỉ chăm chú vào một thứ duy nhất bị xem là vô giá trị. Đó là một quyển bút kí viết đầy văn tự.

Lạp Ba nhìn bộ dạng Muộn Du Bình, quyết định nhất thời sẽ không quấy rầy anh ta. Hắn cùng đồng bọn chiếm được hai quả cầu kim loại, làm hắn cảm thấy bọn họ không cần phải tiếp tục đi, nói không chừng, so với Muộn Du Bình họ còn kiếm được nhiều hơn. Lạp Ba đắm chìm trong cảm giác sung sướng, cảm thấy đây là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời. Hắn một mặt sung sướng, một mặt cân nhắc tìm lý do để thuyết phục Muộn Du Bình bỏ cuộc. Nhưng Muộn Du Bình đưa quyển bút kí cho hắn, hỏi hắn hàng chữ trong đó có nghĩa là gì.

Mỗi trang của cuốn bút kí đều vẽ một đồ vật, ở bên cạnh là những dòng chú thích bằng chữ Tạng xiêu xiêu vẹo vẹo.

Lạp Ba không biết nhiều chữ, nhưng có một câu tàng ngữ hắn hiểu được, bởi vì thời điểm đi lễ phật từng được lạt ma giảng qua. Cụm từ tiếng Tây Tạng ấy có nghĩa là “cực hạn của thế giới”

Còn phần chữ Tạng khác cạnh tranh vẽ hắn không hiểu, sau đó hắn nhìn Muộn Du Bình ý bảo hắn chỉ biết được bấy nhiêu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 14 Dec 2019

Chương 13: Bí mật của chung cực.

Hiện giờ bút kí cùng bức tranh đang ở trước mặt tôi...Đây là những thứ mà Lão Lạt Ma đã sai người đem đến cho tôi.

Đương nhiên tôi không hiểu được những chữ viết này, nhưng tôi có thể nhận ra đó là tiếng Đức. Hiển nhiên, thi thể mà Tiểu Ca phát hiện ra năm xưa chính là thi thể của một người Đức.

Tuy tôi không hiểu ý nghĩa của những dòng chữ viết kia, nhưng khi nhìn thấy bức vẽ, tôi cũng hiểu ra nội dung bút ký này đang nói về cái gì.Trong bút kí có rất nhiều hình vẽ phác họa , ở bức hình có chú thích câu Tạng ngữ “thế giới cực hạn”, tôi nhìn thấy một cánh cửa Thanh Đồng rất lớn.

Cánh cửa thanh đồng đó được phác họa lại bằng bút pháp cực kỳ tỉ mỉ, chủ nhân của cuốn sổ tay này chắc hẳn là một cao thủ về hội họa. Tôi nhìn cánh cửa lớn đó, tuy không hoàn toàn giống với thứ tôi từng nhìn thấy dưới lòng núi Trường Bạch, nhưng tôi biết, chắc chắn nó đều thuộc cùng một loại.

Cánh cửa khổng lồ ấy không chỉ có một cái... Chẳng lẽ trong lòng núi Himalaya, vẫn còn một cánh cửa Thanh Đồng khác sao...?

Trong lòng tôi vô cùng kinh ngạc, nhìn lại câu “thế giới cực hạn” bên cạnh bức hình. Chẳng lẽ thứ trong bức tranh này lại chính là chung cực…?

Tôi chăm chú nghiền ngẫm cẩn thận những bức tranh ấy. Ba ngày sau, tôi mới ý thức được nó là cái gì. Tiếp theo, tôi sẽ dùng cách chi tiết nhất để miêu tả lại bức tranh này, người thông minh có lẽ sẽ đoán được kia rốt cuộc là cái gì.

Trước hết, kích thước của bút kí này khổ giấy chỉ to bằng khoảng một bàn tay..
Thứ hai, bức tranh này được vẽ bằng bút chì, đường nét cực kỳ tinh tế,tỉ mỉ…. rõ ràng, trong lúc vẽ bức tranh này, chủ nhân cuốn sổ không hề có ý muốn ghi lại hình dáng đại khái, mà muốn bản thân mình đạt được tiêu chuẩn nhất định của nghệ thuật chép tranh, cho nên, bức tranh này đã được vẽ một cách hết sức chăm chút và nghiêm túc.

Cuối cùng ở mặt trên, là thứ gì đó giống như mai rùa, không có tỉ lệ xích nên chẳng biết thứ này thực tế to bao nhiêu, nhưng nhìn vào những thứ bên cạnh, thì chắc hẳn phải rất khổng lồ. Trên “mai rùa” có vô số những vết rạn nhỏ, điểm làm tôi thấy đặc biệt giật mình là tất cả các vết rạn đều được vẽ tỉ mỉ, có thể nhìn ra hắn cực kì cẩn thận trong việc này nhưng không phải để khoe khoang hay thể hiện kĩ năng hội họa.

Ngay bên cạnh “mai rùa” ấy, còn có 8 “mai rùa” nhỏ. Chúng được sắp xếp không theo một quy luật nào, phối hợp cùng với “mai rùa” lớn tạo thành một đồ hình vô cùng kỳ quái

Mà bốn phía xung quanh tất cả các “mai rùa" đều có những thứ gì đó đâm tua tủa ra như xúc tu, hoặc là nói, trông có vẻ giống những đường dây cáp điện, cứ nối chằng chịt lại với nhau như mạng nhện.

Đây là thế giới cực hạn ư....?

Lúc ấy, tôi cảm thấy kinh ngạc tột độ, bởi những thứ này thoạt nhìn trông cứ như những vết lốm đốm xấu xí vậy. Nếu không phải tác giả bức tranh còn vẽ thêm một vài người trong tranh, để nổi bật lên ý niệm rằng những thứ này cực kỳ khổng lồ, thì rất có thể chúng chỉ được xem như là những vật phẩm vô vị , tầm thường nhạt nhẽo.

Đây rốt cuộc là cái gì... Tại sao lại được gọi là cực hạn của thế giới….?

Ngày thứ mười một.

Muộn Du Bình thực sự không biết mình đang ở nơi nào. Bốn phía đều là tuyết trắng mịt mùng. Nếu như vài ngày trước, núi tuyết sừng sững còn làm cho anh có một tia kính sợ. Thì hiện tại anh đã hoàn toàn tê liệt

Sau khi bắt được khối cầu kim loại, Lạp Ba cùng người phu khuân vác kia đều rất vui vẻ. Muộn Du Bình bèn nói cho ông ta biết, khối cầu như vậy có lẽ ở nơi hắn muốn đến còn rất nhiều. Bởi vì Lạp Ba cho rằng Muộn Du Bình có vẻ là thế hệ sau của gia đình giàu có. Một mình lẻ loi muốn vào trong lòng núi tuyết, nếu như xuất phát vì lí do ấy, thì hắn cũng có thể chấp nhận.

“Ngài vào trong núi cũng vì kim cầu này?” Lạp Ba hỏi anh ta. Mấy ngày nay, đi trên sườn núi nên tương đối thong dong, cũng thêm được nhiều thời gian nghỉ ngơi.

Muộn Du Bình cảm thấy câu hỏi của hắn có chút khó trả lời, một hồi lâu mới lắc đầu, nói: “Cũng không hẳn như thế.”

“Cái đó có liên quan đến một bí mật.” Muộn Du Bình chậm rãi nói tiếp, kể cho Lạp Ba một vài chuyện mà tôi cũng không hiểu.

Rất lâu trước đây, gia tộc của Muộn Du Bình lấy được từ trong tay hoàng đế một hộp đá chạm khắc rồng. Chiếc hộp khắc rồng này do một tử tù đào ra được từ trong lòng núi , nó có điểm đặc biệt, chính là toàn thân hộp không có một khe hở, vì thế hoàng đế không mở được bèn nhờ đến sự giúp đỡ của các trưởng bối trong gia tộc hắn.

Hộp này mở thế nào, Muộn Du Bình cũng không biết. Quá trình ấy rất bí ẩn. Các trưởng bối đã họp bàn suốt đêm, rất nhiều chuyện biến đổi trong đêm đó.

Lạp Ba nghe được cảm thấy như lọt trong màn sương mù, nhưng cũng rất thần kỳ. Hắn biết Muộn Du Bình sẽ không kể hết mọi chuyện cho hắn biết. Nhưng điều đó làm hắn nhớ tới từng nghe lạt ma kể câu chuyện về rồng. Trong chuyện xưa cũ đó, cũng có có một chiếc hộp được lưu truyền.

“Mở chiếc hộp ấy ra là một sai lầm. Có những thứ, không biết thì không sao, nhưng một khi biết thì không thể đảo ngược lại vận mệnh.”

Muộn Du Bình thì thào, “Trong vùng núi này, có lẽ sẽ có phương pháp đóng chiếc hộp kia. Thông tin chúng tôi có được chỉ là nửa đầu, nửa sau đã mất, cho nên tôi chỉ có thể tự mình đến nơi này tìm thử.”

“Vậy những người khác trong gia tộc ngài đâu?” Lạp Ba hỏi.

Muộn Du Bình thản nhiên nhìn núi tuyết: “Bọn họ đang ở một nơi rất giống chỗ này.”

Lạp Ba không hỏi thêm nữa. Ông ta nghĩ có lẽ Muộn Du Bình đáp vậy chỉ là muốn xua tan ý đồ của mình... Những tin tức này không biết thực hay giả, hơn nữa, nghe có vẻ cũng không có nhiều ý nghĩa cho lắm. Những lời nói này của Muộn Du Bình cũng không có nghĩa lý gì với ông ta, trong lòng ông ta bây giờ chỉ còn quan tâm đến mấy khối kim cầu. Có những thứ ấy rồi, cuộc đời ông ta sẽ thay đổi hoàn toàn, việc này giống như một canh bạc, ông ta không muốn để mất bất cứ thứ gì.

Hai chục ngày trôi qua không có chuyện gì xảy ra, thời điểm Lạp Ba nhìn mặt trời lặn, bỗng nhiên ý thức được chính mình cũng không biết sẽ phải đi làm sao, cái nơi có những khối kim cầu đó, có thể là bất kỳ nơi nào giữa mênh mông tuyết trắng này.

Đầu mối duy nhất chính là hồ nước lớn trong tòa tuyết sơn kia.

Lạp Ba tự an ủi, mặc dù nơi này rộng lớn, không dấu chân người, là khu không người bí ẩn nhất trên nóc nhà của thế giới, nhưng cả một hồ nước lớn như vậy, cho dù cách rất xa cũng có thể nhìn thấy được.

Tôi không biết bọn họ ngẩn người trong bao lâu. Nhưng bản thân cũng từng đi vào núi tuyết, biết rằng ở nơi này chẳng có việc gì làm, muốn giết thời gian cơ bản chỉ có thể ngơ ngẩn. Tôi cũng không biết, sao Lạp Ba lại phát hiện được phía trước cánh đồng tuyết có điểm loang loáng, đây thật là chuyện vô cùng khó khăn. Tóm lại, trước khi hoàng hôn buông xuống liền nhìn thấy trong núi tuyết lóe lên một tia sáng có nhịp điệu. Đó là ánh sáng xanh biếc, lấp lánh chớp động theo tần suất cố định.

Ngay lúc đầu hắn còn tưởng ảo giác, bởi vì nơi gần nhất có người sinh sống, tối thiểu cũng cách đây mười dặm đường, hơn nữa hắn cũng chưa từng gặp qua ánh sáng xanh như vậy.

Sau khi nhìn đi nhìn lại mấy lần, liền quay đầu gọi Muộn Du Bình đến xem, thì phát hiện anh ta đã sớm nhìn thấy thứ đó .

Đến khi quay đầu lại, ông ta phát hiện đốm sáng loang loáng kia lại đang di chuyển , tựa như đang tiến gần về phía bọn họ vậy.

Lạp Ba có chút bối rối, ông ta không biết đó là gì. Dã thú... Chim lớn... Hay quái vât....? Ông ta đứng dậy, muốn tìm một nơi để trốn. Muộn Du Bình cùng hai người họ nấp sau một đống tuyết. Ba người vùi mình trong tuyết, nhìn ánh sáng lập lòe phía trước. Nhưng rất nhanh nó vòng qua những gò tuyết trước mặt họ, càng ngày lại càng tiến lại gần.

Tốc độ của ánh sáng xanh di chuyển rất nhanh , đồng thời, bọn họ cũng nghe thấy loáng thoáng những tiếng chuông vang lên... Âm thanh của nó vang lên giữa tuyết trắng nghe kỳ ảo tột cùng.

Chẳng mấy chốc, bọn họ liền nhìn rõ được ánh sáng xanh đó là cái gì. Đó là một nhóm người lạ lùng, mặc trang phục người Tạng, đang gánh một vật kỳ quái rất dài. Ở một đầu vật này lấp lánh ánh sáng xanh, phía trên vật này còn treo đầy những cái chuông nho nhỏ nữa.

Thật không ngờ, ở nơi này lại có người sinh sống? Lạp Ba cảm thấy không thể tưởng tượng nổi. Nhưng ông ta đã nhìn rõ rành rành, những người đó đi vượt qua khe núi trước mặt bọn họ, hướng về phía sâu trong núi.

Lúc này, nơi Lạp Ba đang đứng vẫn cách bọn họ một quãng khá xa, ông ta cũng không nhìn rõ lắm. Lạp Ba thậm chí không thể khẳng định, những người đó có phải người sống không, hay là quỷ hồn trong núi tuyết….?

Nhưng Muộn Du Bình đã đứng dậy nói với đám Lạp Ba : “Nơi này nếu có người sinh sống, nhất định sẽ ở bên hồ. Đi theo bọn họ có thể tới được nơi chúng ta muốn tìm.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tạng Hải Hoa (Diêm Vương Kỵ Thi) - Nam Phái Tam Thúc

Postby tuvi » 15 Dec 2019

Chương 14. Bộ Thần Tộc Bí Trong Núi Tuyết.

Đoạn tự thuật tiếp theo vô cùng kỳ lạ,Từ đó có thể thấy được, phương thức ghi nhớ sự việc của Tiểu ca không giống như người bình thường chúng ta. Người bình thường có thói quen gặp được chuyện nào thì ghi nhớ chuyện đó, cũng không quan tâm lắm đến trình tự trước sau, hoặc cũng có thể chỉ vài ngày sau chúng ta đã không còn nhớ kỹ lại được. Nhưng quá trình tự thuật này của tiểu ca, lại khiến tôi có thể nhận thức rõ ràng rằng hắn ta đã sắp xếp chỉnh lý lại trí nhớ của mình.

Có lẽ là bởi vì, hắn biết một ngày nào đó mình phải nhớ lại hết những việc ấy, cho nên dùng một phương thức ghi nhớ độc đáo.

Đầu tiên, hắn ghi lại toàn bộ địa hình.

Khu vực mà Muộn Du Bình đang ở lúc đó là giữa lưng chừng một ngọn núi tuyết...bọn họ đã ở một độ cao tương đối lớn so với mặt nước biển , nhưng đứng ở nơi này nhìn xuống lại không phải là vách đá sâu thăm thẳm 5000– 6000 mét .

Kỳ thật khi đứng trên đỉnh núi nhìn khắp bốn phía trông lại càng giống như một mảnh đồi núi trắng đen phân rõ, tuy nhiên những quả núi kia không tròn trịa như núi ở phương Nam, toàn bộ giống như một đám loạn thạch lởm chởm vừa sắc bén vừa nhiều góc cạnh.

Trong núi còn có rất nhiều sơn cốc đều đã bị bao phủ sâu trong tuyết …. có nhiều chỗ tuyết dày không thể tưởng tượng nổi. Đây giống như một ngọn núi bao phủ bởi sông băng, tuyết phủ phía trên băng , đá nằm ở dưới.

Đám người kì quái kia, đang đi lại trong sơn cốc, còn Muộn Du Bình đứng trên một đỉnh núi nhìn bọn họ. Không còn nghi ngờ gì nữa, phải đuổi kịp bọn họ. Điều đầu tiên phải làm là xuống khỏi ngọn núi, ánh sáng lờ mờ, hoàng hôn đang buông trên mặt tuyết tạo một tầng ánh vàng, ánh tím giao nhau. Nhưng ngay cả dưới ánh sáng này, phải bước xuống lớp tuyết dày để theo kịp bọn họ là việc cực kì khó khăn. Đồng thời, điểm li kì chính là mấy người kia đi trong tuyết với tốc độ vô cùng nhanh, tựa như không phải đi mà là trôi trên mặt tuyết.

Mọi người đều biết, trên tuyết không có khả năng đi nhanh được đến thế, hơn nữa, xem mức độ lún xuống tuyết của những người Tạng kia thì có vẻ như lớp tuyết dưới đó không dày.

Muộn Du Bình đuổi theo vài bước liền cảm thấy không hợp lí. Hắn ngừng lại suy nghĩ xem phải làm gì, đến khi Lạp Ba đuổi theo kịp thì ánh sáng xanh kia đã biến mất rồi.

Trên mặt tuyết chỉ còn lại một hàng dấu chân, Trong cơn gió lớn, dấu chân sẽ nhanh chóng biến mất.

Muộn Du Bình và đám Lạp Ba nghiêng ngả loạng choạng chạy xuống dưới khe núi, liền phát hiện hoàn toàn không ổn. Tuyết trực tiếp ngập thẳng đến tận thắt lưng bọn họ, căn bản không thể chạy nổi...rõ ràng không hề như khi những người Tạng lúc nãy bước đi.

Bọn họ phải vừa đi vừa gạt tuyết, thật vất vả đi theo dấu chân. Sau đó Lạp Ba liền phát hiện, bên dưới tuyết có thứ gì đó. Bọn họ gạt hết tuyết ra , thì phát hiện dưới lớp tuyết có một cây cầu được dựng bằng đá và gỗ những người Tạng kia hẳn là đã chạy trên cây cầu này.

Bọn họ trèo lên, dùng chân gẩy tuyết liền phát hiện tuyết dầy không đến đầu gối, cầu cũng vô cùng chắc chắn, giẫm lên không chút lung lay. Vật liệu dùng là nham thạch đen thông thường trong dãy Himalaya.

Cầu này do ai dựng lên.... Trong lòng Lạp Ba thầm nghĩ, nó dài bao nhiêu, nối liền đến đâu...? Nếu biết có một con đường chôn dưới tuyết như vậy, bọn họ đã chẳng cần phải mạo hiểm đi trên những vách đá kia, cũng không cần tốn nhiều thời gian leo núi đến thế.

Muộn Du Bình sau khi dùng sức giẫm mạnh lên cầu mấy cái, liền nhanh chóng đuổi theo hướng ánh sáng xanh biến mất.. Dấu chân loáng cái đã biến mất...hắn đi rất nhanh , Lạp Ba đành phải ra sức đuổi theo sau.

Nơi này toàn bộ cảnh sắc gần như đều giống nhau... Bên trong núi tuyết nếu không nắm được những kiến thức cơ bản, thì rất dễ bị lạc đường... Nhưng Lạp Ba thì không rơi vào tình trạng ấy,bởi vì chỉ cần tầm nhìn đủ rộng thì nhất định có thể nhìn thấy dấu hiệu núi…. núi ấy có thể nói cho hắn biết rằng bản thân liệu có phải đang đi vòng vèo hay không. Buổi tối, ánh sao nơi này sáng như ngọc, dải ngân hà chưa bao giờ lại rõ ràng đến thế, các chòm sao cũng giúp cho việc xác định phương hướng, cho nên Lạp Ba cũng không lo lắng.

Hai giờ đồng hồ liên tiếp, bọn họ cứ mải miết bước đi chẳng có mục tiêu....Bọn họ phát hiện cây cầu này hoàn toàn không có bất kỳ lối rẽ nào hết . Nhất định đó là một lối đi nhanh đã được bố trí sẵn từ trước nối liền từ nơi này sang một nơi khác...
Trong núi tuyết nuốn xây dựng một công trình như vậy,điều đầu tiên bắt buộc phải làm đó là đào xới toàn bộ tuyết đọng ở đây ,quả thực có thể nói là chuyện vô cùng đáng sợ... Là một công trình to lớn hạng nhất.

Qua gần ba giờ sau, bọn họ đã đuổi kịp ánh sáng kia. Họ cũng phát hiện ánh sáng xanh ấy đã có chút lu mờ , ảm đạm, những người Tạng kia vẫn tiếp tục tiến về phía trước.

Quãng thời gian sau đó đã dài vượt quá mức tưởng tượng của bọn họ…. Tôi sẽ bỏ qua luôn đoạn này, chỉ nói về khoảng độ dài của thời gian... Đó là khoảng gần ba ngày sau, nghĩa là bọn họ đã đi theo ánh sáng xanh này ròng rã suốt ba ngày , chỉ đi thẳng về phía trước theo con đường dưới tuyết,mới tới được cuối cây cầu.

Khi bọn họ đi qua một khúc cong thì trời đã là giữa trưa. Mặt trời hết sức chói chang, bọn họ đội nắng, vượt qua một sơn khẩu, bỗng nhiên phía trước trở nên vô cùng rộng lớn sáng ngời.

Đó là một hồ nước hổ phách vô cùng lớn, giống như bảo thạch vậy đột ngột xuất hiện giữa cánh đồng tuyết.

Hồ nước này hết sức kì lạ, hoàn toàn khác với những hồ nước cao hơn mực nước biển khác...Nó không có bãi ven hồ, bốn phía quanh hồ đều là tuyết trắng cùng băng, băng kéo dài về phía trung tâm hồ, tầm hai, ba trăm mét có khi hơn rồi mới biến thành hồ nước.

Dưới ánh mặt trời, nước hồ không gợn chút sóng, như thể đã hoàn toàn ngưng đọng. Ánh sáng phản xạ xuống mặt hồ như tráng lên một lớp thếp vàng, cảnh tượng vô cùng diễm lệ.

Hồ nước này rộng lớn đến thế nào ... Lạp Ba không thể đoán nổi bởi vì nó nằm ngoài tầm hiểu biết của ông ta. Nếu mô tả cho người khác, ông ta có thể bảo là rất to nhưng nếu buộc phải nói thì nó cỡ hai ngọn núi tuyết.

Trong khu vực núi tuyết này, có một hồ nước lớn như vậy quả thực chẳng khác nào như một đại dương

Mấy người Tây Tạng kia khiêng vật màu xanh bước vào mặt hồ đóng băng. Xa xa Lạp Ba nhìn thấy, trên mặt hồ hình như có một con thuyền nhỏ vô cùng cũ nát.

Bọn họ lên thuyền, hắn liền nhìn Muộn Du Bình nói: “Ông chủ, chúng ta không qua đó đươc.”

Muộn Du Bình cũng không lên tiếng, chỉ nhìn vào thuyền của họ. Lúc sau thuyền vẫn chưa đi, hơn nữa có một người không lên thuyền. Hắn chờ ở trên bờ, nhìn về nơi bọn Muộn Du Bình đang trốn.

Lạp Ba không nói gì, ba người hoàn toàn không nhúc nhích. Người Tây Tạng kia nhìn về phía họ một lúc lâu, vẫy vẫy tay ra hiệu. Lạp Ba nhìn về phía Muộn Du Bình, muốn hỏi phải làm sao bây giờ.

Lạp Ba nhìn Muộn Du Bình như muốn hỏi phải làm sao bây giờ, Muộn Du Bình suy nghĩ một lát. Mới ban đầu vẫn không nhúc nhích gì, người Tạng kia trông có vẻ sốt ruột, tiếp tục vẫy vẫy tay. Muộn Du Bình thân thể liền di chuyển một chút có vẻ kích động , thiếu kiên nhẫn.

Nếu đây là một cuốn tiểu thuyết, thì ở đây trong các bước biến đổi, thường có tình tiết phát triển bất ngờ do cốt truyện thúc đẩy. Cho nên sự việc có khả năng nhất là Muộn Du Bình đứng lên tiếp xúc cùng người kia, rồi nảy sinh xung đột.

Nhưng, trong hiện thực, dưới tình huống thế này, quyết định lí trí nhất là tuyệt đối không để xảy ra xung đột.

Muộn Du Bình đến cuối cùng cũng không bước ra. Ba người họ vẫn kiên nhẫn đứng đó đến khi người kia rốt cuộc lắc đầu lên thuyền. Thuyền chậm rãi lướt đi hướng về trung tâm hồ.

Bên kia là nơi ánh sáng mặt trời phản chiếu dữ dội, chẳng thể nhìn rõ cái gì, bọn họ cứ như biến mất trong ánh hoàng kim.

Nhưng sau đó, Muộn Du Bình vẫn không di chuyển. Lạp Ba chẳng thể hiểu nổi, chậm rãi hỏi hắn sao vừa rồi không qua đó, rõ ràng mấy người kia đang chờ bọn họ.

Muộn Du Bình lắc đầu, thoải mái nói: “ Hắn không phải đang ngoắc chúng ta.”

“Vậy vừa rồi hắn làm cái gì?”

“Còn có một thứ khác đi theo bọn họ, chúng ta hoàn toàn không phát hiện.” Muộn Du Bình nói.

Lạp Ba trở nên khẩn trương: “Sao cậu biết?”

Ánh mắt Muộn Du Bình luôn quét bốn xung quanh cánh đồng tuyết, tuy rằng biểu cảm vô cùng trấn tĩnh nhưng Lạp Ba biết tất cả lực chú ý của hắn không hề đặt trong cuộc nói chuyện này.

“Vậy ngài có thấy cái đó không?”

Muộn Du Bình lắc đầu, rồi chỉ vào một hướng: “Tuy rằng tôi không thể khẳng định nhưng có thể ở kia đang ẩn dấu một thứ gì đó.”

Lạp Ba nhìn theo hướng hắn chỉ, liền thấy một tảng đá đen vô cùng lớn, xung quanh bị tuyết bao phủ, trừ phần phía trên có vẻ được cái gì đó chà xát.

“Ở phía sau tảng đá?” Lạp ba có chút run rẩy. Hắn vốn không bị MuộnDu Bình dọa, nhưng nhìn bộ dạng trấn tĩnh của anh ta, làm cho hắn không tự chủ được đặt mình ở vị trí phục tùng.

“Ở dưới lớp tuyết, vật này di động dưới lớp tuyết, nếu không tôi đã sớm phát hiện.” Muộn Du Bình nói.
Lạp Ba cố gắng nhìn xung quanh khối đá đen, nhưng hoàn toàn chỉ là một mảng tuyết trắng, chẳng phát hiện thứ gì. Qua vài phút, hắn nhìn người phu khuân vác kia rốt cuộc đã có điểm thiếu kiên nhẫn, nói: “Ông chủ, ngài chắc chắn không. Tôi cảm thấy người kia chính là ngoắc chúng ta…”

Nói còn chưa dứt lời, hắn cảm thấy thân mình đột nhiên nặng trịch, giống như bị cái gì đó bắt được chân, kéo vào trong tuyết. Tuyết rất dày, tốc độ của thứ kia cũng vô cùng mau lẹ. Nháy mắt hắn đã bị kéo vào trong tuyết. Trước khi ngụp hoàn toàn xuống, Lạp Ba thấy Muộn Du Bình nhào tới muốn túm lấy hắn nhưng chậm một bước. Nhất thời chỉ còn một khoảng tối đen, tuyết lạnh dán trên da thịt mang theo sự trống rỗng từ lỗ mũi, miệng, tai kéo vào trong cơ thể.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 25 guests