Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam Thúc

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 74

Rất nhiều chuyện đã xảy ra trong vài tháng sau đó.

Cuộc sống của tôi dần dần trở về bình thường. Tôi dùng thân phận của chú Ba giải thích với người dưới quyền rằng mình phải đến nơi khác khảo sát một thời gian dài, việc làm ăn của cửa hàng giao lại hết cho thằng cháu quản lý.

Khi người của Tiểu Hoa từ Trường Sa đến, tôi mới được tháo mặt nạ trong một khách sạn.

Khi nhìn thấy gương mặt của mình một lần nữa, tôi đã xúc động đến nỗi bật khóc nức nở. Tôi không ngờ vào giờ phút này mình lại yếu đuối đến thế. Cảm giác khi ấy như thể tôi vừa tháo xuống không biết bao nhiêu áp lực phải kiên cường, phải dũng cảm, phải gánh vác, phải quyết liệt, phải đổ máu, phải tàn nhẫn. Thế rồi cuối cùng, tôi trở lại làm Ngô Tà.

Cuối cùng tôi có thể làm một “Thiên Chân” Ngô Tà được phép chùn chân, được phép yếu đuối, được phép cười hi hi ha ha, được phép ngớ ngẩn, được phép sống dở chết dở mỗi ngày. Tôi có thể hỏi thẳng người khác không chút do dự, rằng cái này “tại sao”, cái kia “không thể nào”, thậm chí, còn có thể chửi thẳng mặt người khác không chút kiêng nể: “Tiên sư cha nếu ông mà còn không biết thì tôi biết đi hỏi ai đây?”

Tôi đã khóc rất lâu, khóc vì lấy lại được thứ tưởng chừng đã mất hay vì tâm trạng suy sụp? Chẳng vì lí do gì cả, chỉ là tôi không sao cầm được nước mắt. Tôi ôm lấy cô gái kia, cô vỗ vỗ lưng tôi, không nói một lời. Khi buông cô ra, tôi phát hiện vành mắt cô cũng đã ầng ậng nước. Cô nói mình chưa bao giờ nhìn thấy ai khóc lóc đau khổ đến thế.

Tối đến, tôi nốc rượu cật lực. Tôi xếp rất nhiều cốc chén lên bàn, mong cô hồn dã quỷ cùng đến chung vui. Tôi ước chi trong số đó có người quen của mình, họ có thể nhìn thấy tôi ngay lúc này, nghĩ vậy trong lòng tôi bỗng cảm thấy vui vẻ.

Thế nhưng, mặt nạ trên mặt dễ tháo, mặt nạ vô hình che giấu lòng người mới khó cởi. Vài ngày sau, tôi thường đột ngột nói bằng giọng điệu của chú Ba, hay đôi khi lại đột nhiên bừng tỉnh giữa cơn mơ, có cảm giác rằng mình đã bị lộ tẩy, bao nhiêu công sức đã đổ sông đổ biển hết, thậm chí khi tự soi mình vào gương cũng cảm thấy thật xa lạ.

Cũng may, thời gian dần trôi, ảo giác này cũng dần phai nhạt.

Bàn Tử nói không sai, tôi chí ít cũng là một người rất giỏi thích ứng với hoàn cảnh,

Nghỉ ngơi một thời gian, sau đó tôi trở về với cửa hàng nhỏ của mình. Khi Vương Minh nhìn thấy tôi, cậu ta còn tỏ ra bỡ ngỡ, phải rất lâu sau mới nhận ra tôi đã trở về. Cậu ta trông béo tốt hơn một chút, cũng suy sụp ít nhiều. Tôi liếc nhìn xấp bản rập đang bày bán trên giá, hình như là đã vơi đi một chút rồi. Xem ra, dù không còn kinh doanh thì vẫn luôn có một vài cái đơn hàng ông trời ban cho.

Tôi nằm ngả trên ghế dựa ở buồng trong, nhìn khắp căn phòng vừa quen thuộc lại vừa lạ lẫm này, lại bắt đầu cái cuộc sống mơ mộng giữa ban ngày. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục sống thế này được nữa. Phần việc của chú Ba phía bên kia rất nặng nề, tôi buộc phải chăm chỉ hơn.

Tối hôm đó, Vương Minh xin tôi cho thôi việc, lần đầu tiên. Tôi tăng lương cho cậu ta, cậu ta mới đồng ý ở lại.

Ngay cả những người vững vàng nhất, đơn thuần nhất thì rồi cũng sẽ dần dần thay đổi theo thời gian. Đương nhiên, sự thay đổi này là đúng đắn, chỉ có tôi là luôn luôn sai lầm mà thôi.

Thực ra hồi trước tôi đã từng rất muốn sa thải cậu ta. Nhưng bây giờ, tôi chỉ mong xung quanh mình có thật nhiều người, để tôi có thể thực sự cảm nhận được sự tồn tại của mình, cố gắng không thay đổi bất cứ thứ gì. Tôi không biết gọi tâm trạng này là gì, nhưng trên mạng có rất nhiều người gọi nó là: cậu già rồi.

Dùng thân phận Ngô Tà đi quản lý công việc làm ăn của chú Ba vẫn còn chút khó khăn. Tôi được chú Hai giúp đỡ trong nhiều vấn đề. Quản lý mấy chuyện kinh doanh luôn khó khăn trắc trở, nhưng tôi hoàn toàn không sợ. Bởi vì lúc này, cho dù có mất hết tất cả, tôi cũng chẳng còn quan tâm nữa. Những ai đã đạt đến cảnh giới này, thì lại càng thêm tỉnh táo và khách quan để nhận định những vấn đề hệ trọng.

Trong khoảng thời gian này, tôi cũng nhận được một ít tin tức của Tiểu Hoa. Tất cả những chuyện kia đối với cậu ta không đến nỗi quá mức khốn đốn, chỉ là hơi khó khăn một chút thôi.

Cậu ta bị thương rất nghiêm trọng, sau khi nằm ở bệnh viện Hiệp Hòa một thời gian, cậu ta được chuyển sang Mỹ chữa trị, khoảng hai tháng sau mới trở về. Sau khi về nước được vài ngày, cậu ta gửi cho tôi một phong thư, trong thư có kể sơ lược về tình hình của cậu ta lúc này.

Lễ tang của Hoắc lão thái, cậu ta không tham dự. Chiếu theo chỉ thị của Hoắc lão thái, Tú Tú tiếp quản Hoắc gia. Nhưng thế lực cá nhân của Tú Tú chưa đủ mạnh để cân bằng được các mâu thuẫn tranh chấp trong gia tộc. Tiểu Hoa phải cắt đứt mọi mối làm ăn với Hoắc gia mới miễn cưỡng trấn áp được cục diện. Bọn đầu trâu mặt ngựa đó chắc chắn còn bày đủ trò nữa, chẳng qua là nhờ phong thư nhà của Hoắc lão thái, những trò này chỉ có thể ngấm ngầm tiến hành trong bóng tối.

Cuộc sống về sau chắc sẽ rất gian nan, nhưng Tiểu Hoa nói, tình hình bây giờ đã là khá tốt so với hồi cậu ta còn bé rồi. Cậu ta bảo tôi đừng lo lắng nhiều.

Tôi đại diện cho Ngô gia ở Hàng Châu, cũng thể hiện rõ thái độ trước sự việc này. Tôi biết, có Tiểu Hoa ở bên, Tú Tú nhất định có thể tiếp tục bước đi trên con đường này, hơn nữa, còn bước đi rất yên ổn. Nếu bọn họ có gì cần nhờ đến tôi, tôi nhất định cũng sẽ giúp đỡ hết mình. Tuy thời gian tới sẽ có rất nhiều khó khăn, nhưng giờ đây chúng tôi cũng chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy thôi.

Ba tháng sau khi trở về, tôi cử hành một đám tang nhỏ cho Phan Tử, làm một lễ truy điệu cũng không quá lớn. Mộ Phan Tử chôn theo ít quần áo và di vật, nằm cách mộ Đại Khuê sáu bài vị. Mộ Đại Khuê lâu rồi không có ai đến thăm nom, giờ đã trở thành một đống bừa bộn, tôi cũng tiện tay quét dọn qua loa một chút. Sau đó, tôi đi xử lý vài việc vặt mà Phan Tử lúc sinh thời chưa kịp làm.

Khi bước vào căn phòng trọ của Phan Tử, tôi thấy trên bàn có một bát mì đã thối um, mọc đầy nấm mốc. Chiếc đũa đặt ngay bên cạnh, trong bát có mấy lát đậu phụ đã mọc cả tầng nấm mốc, hoàn toàn chuyển sang màu đen.

Rõ ràng, trước khi đi Phan Tử đã ở đây ăn dở bát mì này. sau đó vội đi đến mức còn chưa kịp thu dọn bát đũa, rồi từ đó cũng vĩnh viễn không thể trở về nữa.

Nhưng rồi tôi lại nghĩ, chắc chắn anh ấy đã đoán biết mình sẽ không về được, cho nên mới không thu dọn bất cứ thứ gì.

Tôi ngồi thừ người trước bàn một hồi lâu, rồi mở hai lon bia, uống hết một lon rồi đổ bát mì đi, rửa bát đũa sạch sẽ. Sau đó tôi ra ngoài tìm chủ nhà của Phan Tử, trả toàn bộ số tiền thuê nhà anh ấy khất nợ đã lâu.

Chủ nhà tò mò hỏi: “Người anh em kia đâu rồi?”

Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi đáp: “Về quê cưới vợ rồi.”

Tôi cho rằng, đây là cái kết tốt nhất đối với Phan Tử. Anh ấy vốn có cơ hội thoát khỏi cái giới này, vậy mà cuối cùng vẫn chọn con đường cũ, mặc dù tôi không biết bản thân anh ấy thích cái kết nào hơn. Với Phan Tử, không chừng anh ấy thích cái kết như bây giờ hơn. Nhưng đối với người ngoài, lựa chọn của anh lại chính là sai lầm.

Bàn Tử vẫn ở lại thôn Ba Nãi. Liên lạc bằng điện thoại rất khó khăn, tôi chỉ có thể gọi cho A Quý, hỏi sơ qua tình hình gần đây của Bàn Tử. A Quý nói, hiện giờ Bàn Tử sinh hoạt rất điều độ, ban ngày ra đồng cày cấy, sàng gạo, buổi tối nấu cơm, ăn xong thì ngẩn người ngắm trăng. Nhiều khi cả ngày anh ta cũng chỉ nói được với Bàn Tử có hai ba câu.

Tôi hỏi Bàn Tử có cảm xúc gì không? Không lẽ vẫn còn đờ đẫn như trước?

A Quý bảo, chịu, chẳng nhìn ra được có cảm xúc gì không nữa. Nhưng Bàn Tử làm việc rất nhanh nhẹn, cũng không nói nhiều. Nhưng so với lúc trước thì khá hơn một chút, lâu lâu cũng biết xổ ra vài câu dí dỏm rồi.

Tôi bảo A Quý, nếu ở bên đó Bàn Tử thiếu thốn tiền bạc gì thì cứ nói thẳng với tôi, tôi sẽ chuyển tiền.

Tôi nghĩ Bàn Tử rồi sẽ khá lên thôi. Bàn Tử không phải là người dễ chìm đắm trong đau buồn u uất, anh ta biết Vân Thải cũng không muốn thấy ông chủ Béo của mình trở nên kém thú vị hơn xưa. Bàn Tử sẽ dần dần khá lên thôi, mặc dù chuyện này chắc chắn sẽ để lại trong lòng anh ta một vết sẹo không bao giờ lành. Nhưng Bàn Tử là người tốt, ông trời sẽ không làm khó anh ta quá lâu.

Sau khi tôi tăng lương cho Vương Minh, thái độ làm việc của cậu ta đã tích cực hơn nhiều. Hơn nữa tôi cũng đã quay về, công việc của chú Ba bên kia có gì sẽ được báo cáo đến tận cửa hàng của tôi. Nhiều người không biết quan hệ của tôi với cậu ta, nghĩ cậu ta là thân tín của tôi nên ra sức nịnh bợ cậu ta. Giá trị cuộc đời của cậu ta hình như đang dần dần tăng lên, tinh thần cũng sáng sủa hơn nhiều.

Thấy thái độ làm việc của cậu ta tốt, tôi bắt đầu dạy cậu ta cách xử lý một số công việc, cậu ta lên tay rất nhanh, sau đó quả thực cũng giúp đỡ tôi không ít. Tuy tôi không trông mong cậu ta có thể trở thành một trợ thủ đắc lực như Phan Tử, nhưng dần dần tôi cũng bắt đầu nghĩ, mình có thể dựa vào cậu ta trong nhiều vấn đề rồi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 75

Lão Hải, vì vấn đề làm ăn và công việc nên tôi cũng có liên lạc với ông ta vài lần. Lão Hải phất lên rất mau, nhưng hình như lão ta bị một cơ quan có liên quan nào đó theo dõi. Ai bảo lão làm mấy vụ thuế má vốn đã bất minh, cửa hàng đồ cổ của lão lại còn giao dịch bằng tiền mặt, cho nên về sau lão ta làm việc cẩn thận hơn nhiều. Để tránh liên lụy, bọn tôi đã dùng rất nhiều thủ đoạn lạ. Lão ta không thò mặt ra trong nhiều vụ mua bán, mà tôi trực tiếp liên hệ với bên mua, sau đó đổi tiền sang hiện vật hoặc vàng, giao cho cô con gái của lão.

Con gái lão ta vốn là mẫu con gái tôi thích nhất, một tiểu Hoàng Dung xinh xắn hoạt bát. Tuy nhiên, kể từ sau lần gặp mặt kia là chúng tôi chẳng còn mấy dịp tiếp xúc với nhau nữa. Về sau, con bé cũng dần dần trưởng thành, cái cảm giác yêu thích ban đầu của tôi đối với con bé cũng dần dần phai nhạt đi.

Có lần tôi ra ngoài giải sầu, đi ngang qua Anh Hùng Sơn. Lúc đó là cuối tuần, biển người đông nghìn nghịt, giữa biết bao nhiêu các cửa hàng, cửa hiệu đủ loại đủ màu sắc, tìm mãi tôi mới thấy được cửa hàng của lão Hải, thế nhưng, cửa lẫn rèm cửa đều đóng kín mít. Tôi biết tỏng lão ta vẫn ở bên trong, nhưng lại nghĩ đến mấy thứ chào hỏi rồi tán chuyện này nọ, tự dưng thấy mệt mỏi quá, tôi liền quay người bỏ đi. Thời gian cứ thế trôi qua, dần dần, số lần gặp gỡ giữa tôi và lão ngày càng ít. Chẳng biết về sau lão ta làm ăn sinh sống thế nào nữa, không biết vẫn còn ở trong nước, hay đã chạy ra nước ngoài rồi.

Sau khi từ Ba Nãi trở về, Cầu Đức Khảo sống được ba tháng thì hạc giá quy tiên. Các cổ đông của công ty trục vớt quốc tế đã tái cơ cấu, bán đấu giá một ít tài sản. Vài người trong đội ngũ của Cầu Đức Khảo quan hệ cá nhân với tôi, nên sau khi nhiều hạng mục bị hủy bỏ, họ đã lấy đi rất nhiều hồ sơ tài liệu. Đương nhiên, tất cả những tài liệu bị lấy đi đó đều được gửi về chỗ tôi, nhưng vẫn không quan trọng bằng mười hai tập hồ sơ mà tôi nhận được lúc trước. Tuy số tài liệu có trong tay đã giúp tôi bổ sung thêm nhiều chi tiết còn thiếu về chuyện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng để ghép ra được đầy đủ tổng thể câu chuyện thì vẫn không có tiến triển gì.

Tôi đi uống cà phê với vài người trong đó, bọn họ cho tôi biết, cấp cao của công ty trục vớt quốc tế có thể sẽ còn tiếp tục triển khai thêm nhiều cuộc tìm kiếm nữa, năng lực tài chính của bọn chúng vẫn còn rất lớn. Mấy bố già có khả năng ngồi lên cái ghế trống của Cầu Đức Khảo nhờ bọn họ tiện thể nhắn lại cho tôi rằng, nếu có cơ hội, muốn tiếp tục hợp tác với chúng tôi, điều kiện đưa ra sẽ béo bở hơn năm xưa khi chúng tôi hợp tác với Cầu Đức Khảo rất nhiều.

Tôi giơ ngón giữa 凸 thay cho câu trả lời, nhờ bọn họ nhắn nhủ giùm nguyện vọng của mình đến bọn chúng.

Nửa năm sau, chị Câm kết hôn. Chú rể là một gã đàn ông rất tầm thường, đầu hơi hói, đã ngoài trung niên, hình như nhà cũng chẳng có bao nhiêu tiền. Nhiều người nói gã ta không thực sự yêu chị Câm gì cho cam, mà chỉ là yêu tiền tài địa vị của chị ta thôi. Tôi tham gia hôn lễ, biết người này hình như tên là A Bang, mặt mũi đầy vẻ xảo trá quỷ quyệt, nhưng hành động thì rất ân cần, không ngừng mời mọc, kính rượu, châm thuốc cho mọi người. Mà chị Câm, gương mặt vẫn không hề biểu lộ cảm xúc, chỉ nhìn chằm chằm chỗ trống bên cạnh tôi.

Nhiều người đàn ông, không phải được ghi nhớ vì thế nọ thế kia, anh ta được người ta khắc ghi trong lòng, bởi vì anh ta vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa.

Có người nói, chị Câm với người đàn ông này có quen biết. Bởi vì gã ta là một kẻ tiếp rượu, thường xuyên rượu vào rượu ra, tiếp rượu nhiều lần, cho đến khi thấy nữ khách hàng say bí tỉ chẳng biết trời trăng gì nữa, gã tiện thể “chăm sóc khách hàng” một chút, thế mới xảy ra quan hệ.

Sau khi thương thế của Bao Da khỏi hẳn, cậu ta hoàn toàn hối cải, học hành đi thi, hình như là thi vào chuyên ngành thương mại quốc tế. Thế nhưng cậu ta cứ kẹt ở kỳ thi đầu vào mãi, theo như cậu ta kể lại thì trình độ văn hóa của cậu ta cũng chỉ tầm tầm, nhiều đề bài đọc còn chả hiểu, chứ nói gì làm bài. Còn tiếng Anh, hai mươi sáu chữ trong bảng chữ cái cậu ta còn chả thuộc hết.

Cuối cùng, cậu ta đành quay lại nghề cũ, nhưng tuyệt đối không đi buôn lớn như xưa nữa. Người hợp tác với cậu ta còn bảo, hiện giờ, câu cửa miệng của cậu ta là “Có lắm tiền mà phải bán mạng, chi bằng về nhà bán đậu hũ còn hơn.” Bao Da thành kẻ có tay nghề xuất sắc nhất trong nhóm, nhưng cũng là kẻ nhát gan nhất. Tôi nghĩ, trong tương lai cậu ta sẽ trở thành bậc trí dũng kiệt xuất, hay chí ít cũng giàu có dư dả.

Nhắc đến Tú Tú, tôi nghĩ, Tú Tú hẳn là thích Tiểu Hoa lắm, dù sao hai người họ cũng lớn lên bên nhau, cùng nhau gánh vác rất nhiều chuyện. Tuy nhiên, cái tình cảm “thích” này, tôi không cho rằng đó là “yêu”. Bởi vì, hai người họ đã quá quen thuộc, quá hiểu rõ nhau, đương nhiên là có rất nhiều tình cảm với nhau, nhưng chưa nảy sinh ra thứ tình cảm khác sâu đậm hơn.

Tú Tú không còn liên lạc với tôi nữa, chắc là bị tôi làm tổn thương nhiều lắm. Có lẽ, thảm cảnh sau khi sự việc kết thúc và quyết định của tôi khi ấy đã khiến con bé không cách nào nhìn mặt tôi được nữa.

Nội tâm của tôi bây giờ đã được trui rèn đủ chai sạn rồi, sự trốn tránh của con bé đối với tôi mà nói, dường như không quá quan trọng.

Người cuối cùng tôi muốn nhắc đến, là Muộn Du Bình.

Nhiều người bảo, người khiến tôi lo lắng nhiều nhất chính là hắn, bởi vì hắn dường như không thuộc về thế giới này. Hắn là người chỉ một mực hướng đến mục đích của mình, luôn luôn tiến thẳng về phía trước. Dù rằng trên bước đường này có bao nhiêu chông gai, hắn nhất định vẫn tiếp tục tiến bước, dù phải chịu bao nhiêu vết thương, thì hắn vẫn kiên trì tiến bước, cho đến khi nào toàn bộ thịt da hắn bị lóc sạch, hoặc là, đến khi nào hắn đạt được mục đích của mình mới thôi.

Thực ra hai người bọn tôi, hai thế hệ khác nhau, chuyện của thế hệ trước tôi cũng đã biết đại khái sơ sơ. Chỉ có mình hắn, mục đích của hắn là gì, tôi vẫn hoàn toàn không biết.

Tôi có thể phán đoán được rõ ràng mục đích của tất cả mọi người. Thế nhưng, chỉ có Muộn Du Bình, hắn giống như một con rối rất bị động vậy, trong tất cả mọi chuyện, hình như hắn đều hành động vì mục đích của người khác.

Thế nhưng, nếu nhìn lại tất cả những chuyện tôi với Muộn Du Bình đã cùng nhau trải qua, tôi lại thấy hắn là một người xác định mục đích rất rõ ràng. Mỗi lần hắn đến đâu, đều có mục đích riêng của mình. Từ nghề nghiệp của hắn – skill mất tích thần thánh, và cái trạng thái ngẩn ngơ như mộng du trên suốt quãng đường đi, chắc chắn hắn biết nhiều chuyện hơn chúng tôi rất nhiều.

Đã rất nhiều lần tôi nghĩ, có lẽ, trong lòng hắn, mục đích của chúng tôi đều thật nhảm nhí nực cười, mà chỉ có mục đích của hắn mới là quan trọng.

Lúc ấy, hắn đã từ chối lời đề nghị đồng hành của tất cả mọi người, sau đó, lựa chọn một mình lên đường không chút do dự.

“Hai người đã đi cùng tôi đủ nhiều rồi, con đường tiếp theo chính là chặng cuối cùng, hai người không ai chịu nổi đâu. Tôi mong hai người đừng đi theo tôi nữa.”

Mẹ kiếp, cái thể loại chó má gì đây, chúng tôi bị cuốn vào một âm mưu lớn đến thế, vất vả lắm tôi mới hiểu rõ được tình hình, ấy thế mà hóa ra trong lòng Muộn Du Bình căn bản không hề quan tâm đến những chuyện này. Điều hắn quan tâm nhất lại là những thứ mà chúng tôi không biết tí gì.

Phải chăng lúc ấy tôi nên ôm chân hắn gào khóc “Ới anh ơi đừng bỏ chúng em lại” chăng? Đương nhiên, lúc ấy xét cả tình hình lẫn tâm trạng, chẳng ai còn hơi sức đâu mà làm vậy, cho nên chúng tôi đành phải để hắn đi.

Bây giờ, âm mưu sắp đặt suốt bao lâu ấy hình như đã kết thúc rồi, những bí ẩn xung quanh tôi đã tiêu tan thành mây khói. Thế nhưng, những bí ẩn xung quanh hắn vẫn chẳng có dấu hiệu gì là sắp được giải mã.

Mà, kể từ ngày tôi và hắn chia tay nhau, tôi không còn nghe thấy bất kỳ tin tức gì của hắn nữa.

Số trời đã định, hắn thẳng đường về phương Bắc, cứ như là đi đến tận điểm cuối của mình. Nhìn cái vẻ mặt của hắn lúc bỏ đi là biết, thảm trạng của bọn tôi lúc đó đối với hắn chẳng là cái thá gì.

Tôi còn nhớ rõ câu nói kia của Bàn Tử: Nếu một người thân của anh qua đời mà những người khác đều khỏe mạnh, thì lúc đó, cái chết của người thân ấy, đối với anh sẽ là một cú sốc rất lớn. Nhưng nếu như những người thân thiết của anh, cứ mỗi năm lại lần lượt từng người từng người qua đời, dần dần, anh sẽ trở nên chai sạn. Mà ánh mắt của Tiểu Ca lúc bỏ đi, có lẽ chính là loại thứ hai. Năm tháng dài dằng dặc trôi qua, nhìn những người bên cạnh mình lần lượt người này lại đến người kia ra đi, anh sẽ phát hiện ra, không một ai có thể ở bên anh mãi mãi. Bấy giờ, anh sẽ có một cái nhìn hoàn toàn khác đối với cái chết.

Hơn cả chai sạn, chính là sự thản nhiên. Thản nhiên với cái chết.

Thời gian chậm chạp trôi đi, tôi vẫn chờ đợi mãi một lá thư tiết lộ cho tôi biết toàn bộ bí mật. Ban đầu, tôi kiểm tra hòm thư mỗi ngày hai lần, về sau là mỗi ngày một lần, sau đó là ba ngày một lần, cuối cùng là một tuần một lần. Thế nhưng, chờ mãi chờ mãi vẫn không có bất cứ thứ gì được gửi đến cho tôi.

Tôi bắt đầu nghĩ, sẽ chẳng có thư từ bưu kiện gì gửi cho tôi đâu. Tôi lại bị lừa gạt một lần nữa, mà tất cả mọi thứ, có lẽ nên chấm dứt như thế này thôi.

Tôi không đau lòng, cũng không luyến tiếc. Về sau, thậm chí tôi còn mong lá thư ấy đừng gửi tới nữa. Mỗi tuần lại mở hòm thư, sau đó lẳng lặng đóng hòm lại, đi ngắm cảnh Tây Hồ, chửi mắng đám người làm. Mỗi ngày trôi qua như thế là đủ.

Trên thực tế, lá thư ấy đã được gửi đến từ lâu. Nhưng lúc đó tôi lại không hề hay biết rằng, có một người trông giống tôi y đúc đã đến lấy lá thư đó đi. Rất lâu về sau tôi mới phát hiện ra chuyện này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 76

Một năm sau, vào ngày lập thu, tôi cưỡi xe đạp dạo một vòng Tây Hồ để rèn luyện sức khỏe, sau đó trở lại cửa hàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa tôi liền thấy sắc mặt Vương Minh có vẻ kỳ lạ khác thường.

Trải qua một khoảng thời gian rèn luyện, Vương Minh đã trở thành một thằng nhỏ rất biết giữ bình tĩnh. Biểu hiện của ngày hôm nay chứng tỏ Vương Minh đã đụng phải chuyện gì đó khiến cậu ta phải bó tay rồi.

Tôi hỏi cậu ta có chuyện gì vậy, cậu ta liền chỉ chỉ sang bên cạnh, tôi mới thấy có người đã đứng trong một góc cửa hàng từ lúc nào rồi. Hắn đang lướt mắt qua một ít bản dập chúng tôi chưa bán được.

Tôi đã khá quen thuộc với vóc dáng của người này, nhưng trong một thoáng kia, tôi đã không nhận ra hắn. Hắn mặc áo thun đen, bên cạnh dựng một chiếc ba lô to tướng.

“Tiểu Ca.” Hắn vừa quay đầu lại tôi liền nhận ra ngay, “Anh… Sao lại…. Sao đã quay về rồi?”

Hắn thản nhiên nhìn tôi hồi lâu rồi mới lên tiếng: “Thời gian của tôi đã đến, tôi tới đây để tạm biệt cậu.”

Tôi đưa Muộn Du Bình đến Lâu Ngoại Lâu, tìm một bàn kê gần cửa sổ. Sắc trời thật u ám, mây đen trĩu nặng bao phủ bầu không, có lẽ chẳng mấy chốc trời sẽ mưa.

Muộn Du Bình vẫn trầm lặng như thường lệ, cũng may từ lâu tôi đã quen với thái độ hờ hững này của hắn nên tự động gọi món, nhìn sang thì thấy hắn vẫn lặng lẽ dõi mắt ra bên ngoài cửa sổ.

Tôi hiểu rõ, nếu mình không mở miệng nói chuyện thì tình hình này sẽ cứ tiếp diễn cho đến khi hắn rời đi. Hắn tuyệt đối sẽ không mở miệng nói chuyện trước để phá tan bầu không khí tẻ nhạt này đâu.

Ngồi năm sáu phút đồng hồ để gió Tây Hồ lùa cho lạnh ngắt, khi món ăn đầu tiên được dọn lên, tôi châm điếu thuốc lá rồi hỏi: “Chuyện của anh đã xong rồi hả?”

“Ừ.” Hắn khẽ gật đầu. Tôi nhận ra trong ánh mắt hắn thực sự đã không còn thấy vẻ cố chấp trước kia nữa, mà thay vào đó là cảm giác hờ hững càng lúc càng khắc sâu. Không giống như khi hắn mất đi ký ức, loại hờ hững sâu sắc này toát ra từ một tâm hồn bình yên đến cực điểm.

“Mọi chuyện đã xong cả rồi sao?” Tôi hỏi hắn.

Hắn quay đầu lại nhìn tôi: “Ừ, kết thúc cả rồi.”

“Vậy chuyện sau này anh tính sao? Có tính đi đâu không? Nếu không thì hay là anh ở lại Hàng Châu nhé?” Tôi hỏi, âm thầm tính toán số tài sản của mình. Gần đây giá nhà đất ở Hàng Châu tăng chóng mặt, cái tên nghèo kiết xác này nếu muốn mua nhà ở Hàng Châu thì thế nào chẳng phải hỏi vay tiền tôi! Tiền của hắn cũng chẳng biết là tiêu vào chỗ nào hết rồi, xưa nay tôi chưa từng thấy trong túi quần hắn có tờ tiền nào lớn. Mẹ kiếp, tôi đâu có đủ tiền! Nếu hắn tới tìm tôi để vay tiền mua nhà thật, chắc tôi đành khuyên hắn thuê phòng ở tạm một thời gian đã rồi tính sau.

“Tôi sẽ trở lại nơi mình cần phải đến.” Hắn nói.

“Anh phải đi đâu? Có xa không?” Tôi hỏi hắn. Hắn nhấc đũa lên, lặng lẽ gắp một nhúm thức ăn, khẽ gật đầu.

“Vậy anh đến là để…” Tôi rất ít khi nói chuyện đứng đắn với hắn như thế này nên cảm thấy khá là gượng gạo, đành phải đưa đẩy câu được câu chăng theo hắn.

“Tôi đến để từ biệt cậu.” Hắn nói, “Khi mọi chuyện đều đã kết thúc, tôi nghĩ, mối liên hệ giữa tôi và thế giới này, hình như bây giờ chỉ có mình cậu.”

“Không sao đâu, sau này anh có thể gọi điện thoại hoặc là viết thư cho tôi mà. Anh không biết đánh máy, nhưng viết chữ chắc phải biết chứ?” Tôi nói, “Xã hội hiện đại rồi, không có khoảng cách nào là xa xôi về mặt ý nghĩa thực sự cả.”

Hắn không hề phản ứng, vẫn cắm cúi ăn.

Động tác của Muộn Du Bình rất nhẹ nhàng, gần như không hề dùng sức. Thật ra đây là do lực cổ tay hắn cực mạnh, thêm vào đó là khả năng khống chế động tác chuẩn xác cực kỳ. Trước đây, những lúc ăn cơm cùng với hắn luôn có nhiều người vây kín xung quanh nên tôi cũng không quá chú ý đến hắn, hiện giờ nhìn kĩ mới thấy thật là một chuyện hay ho.

Bầu không khí lại rơi vào thinh lặng khiến tôi bắt đầu nhớ nhung Bàn Tử da diết. Hóa ra từ trước tới giờ tôi chưa từng thấy tẻ nhạt là do Bàn Tử đã lặng lẽ bỏ rất nhiều công lao để tạo dựng bầu không khí. Đến hôm nay chỉ còn lại hai người, tôi thật chẳng biết phải làm sao nữa.

“Nói xem, anh định đi đâu? Chúng ta đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện như vậy, nhất định sẽ là bạn tốt cả đời, thường xuyên giữ liên lạc là được rồi.” Tôi nói tiếp, “Anh cần gì cũng đừng ngại mở miệng nói với tôi. Tôi tuy không được tính là sung túc, nhưng những nhu cầu cơ bản tôi vẫn có thể giúp đỡ anh.”

“Tôi phải đến núi Trường Bạch.” Hắn nói.

“À, chỗ đó lạnh lắm đấy.” Tôi đáp, “Ở Giang Nam vẫn hơn, bốn mùa phân rõ rệt, khí hậu lại ẩm ướt, là một nơi an dưỡng rất tốt.”

“Tôi chỉ có thể đến đó.” Nói rồi, hắn liền buông đũa.

Sau khi hắn nói ra câu đó, chúng tôi cũng không đả động gì đến những chuyện tương tự nữa. Trong bầu không khí tĩnh lặng, cả hai cứ thế lặng lẽ ăn tới cuối bữa, tôi cũng không còn khó xử nữa.

Cuối cùng hắn buông đũa, nhìn tôi, rồi bật ra một câu: “Tạm biệt.”

Nói rồi hắn đứng dậy xốc ba lô lên vai, đi xuống dưới lầu. Tôi hơi ngạc nhiên, bèn gọi với theo: “Chúng ta còn chưa ăn xong mà.”

Nhưng hắn đã xuống lầu mất rồi. Tôi rầu rĩ rít vài hơi thuốc, đứng tựa vào cửa sổ nhìn xuống thì thấy hắn đã men theo đường Cô Sơn đi được khá xa.

Tôi lại ngồi xuống, trong lòng tự hỏi chuyện quái quỷ gì đây, bộ hắn không có tiền trả nên xấu hổ chắc? Trước kia còn hay kẹt tiền hơn mà có bao giờ thấy hắn khách khí như vậy đâu? Ngẫm nghĩ một chút những lời hắn nói ban nãy, tôi cảm giác có gì đó là lạ, hình như trong đó ẩn chứa một thứ cảm xúc đặc biệt khó hiểu.

“Tôi đến để từ biệt cậu.” “Khi mọi chuyện đều đã kết thúc, tôi nghĩ, mối liên hệ giữa tôi và thế giới này, hình như bây giờ chỉ có mình cậu.”

Nghĩ đến đây tôi bỗng đứng bật dậy khỏi ghế, nhớ tới một biệt hiệu khác của hắn — chuyên gia mất tích.

Trước kia, những lúc muốn rời đi, phải rời đi, hắn chưa từng hé răng lấy một lời. Khi chia tay chúng tôi ở Ba Nãi tôi cũng chẳng thấy hắn nói câu nào. Chuyện đến chào từ biệt này hình như rất khó tin với cái tên chuyên gia mất tích kia. Hơn nữa, lần này để tìm tôi nói lời từ biệt, hắn còn có lòng lặn lội từ một nơi xa xôi ngàn dặm đến tận đây.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 77

“Núi Trường Bạch?” Tôi rút hết số tiền mặt mang trong người, bảo nhân viên phục vụ mang tiền thừa sang trả cho Tây Linh Ấn Xã ngay cạnh đó, sau đó vơ lấy đống quần áo vứt trên ghế mà vội vã đuổi theo.

Tôi chạy một mạch đến tận đường Bắc Sơn, gấp đến nỗi toàn thân ướt đẫm mồ hôi, nhưng vẫn không đuổi kịp hắn. Trên đường Bắc Sơn chỉ có vô số taxi trống lượn lờ qua lại như thoi đưa.

Tôi lại quay về cửa hàng của mình, gói ghém sơ sơ ít hành lý, vừa đeo lên vai vừa dặn Vương Minh: “Anh muốn ra ngoài một lát.”

Vương Minh tái mặt, bỗng kéo tay tôi lại. Tôi hỏi cậu ta làm cái gì thế, cậu ta mới nói: “Ông chủ, chuyện thế này cũng đã xảy ra rất nhiều lần rồi. Tự dưng có một người đến cửa hàng, sau đó y như rằng anh lại vội vội vàng vàng cuốn gói đi ngay, mà lần nào cũng đi mất hút luôn. Anh giải thích chút đi xem nào.”

Tôi nghĩ bụng đây không rảnh mà giải thích, bèn đáp qua loa: “Nếu có ai đến tìm anh thì chú cứ bảo anh đi nghỉ mát rồi, việc làm ăn giao cho chú quản hết đấy. Nếu có phi vụ mua bán nào lớn mà chú không chắc chắn thì đừng tiến hành, cứ chờ anh về rồi tính sau.”

“Anh sẽ quay về thật chứ?” Vương Minh hỏi.

Tôi hỏi ngược lại: “Sao lại hỏi thế?”

Cậu ta nói: “Chẳng phải anh đã nói sẽ không bao giờ đi lung tung nữa sao? Em xem tivi thấy cao nhân nào đã thoái ẩn giang hồ mà còn bị người ta gọi ra cũng đều chết ráo cả, anh nhất định phải thật cẩn thận nha.”

Tôi vỗ vai cậu ta, bụng bảo dạ khi về phải cho mi biết tay cái tội mồm miệng bá láp xui xẻo mới được. Rồi tôi cũng không thèm để ý nữa, quay người chạy như bay ra ngoài.

Muộn Du Bình không có chứng minh thư nên không thể mua vé máy bay, chắc chắn sẽ phải đi xe khách hoặc xe lửa. Nhưng xe lửa có chuyến cố định, khi ngồi trên taxi tôi thử lấy di động tra cứu giờ khởi hành của những chuyến đi trong ngày, nhanh chóng nhận ra hắn không thể đi xe lửa được.

Xe lửa khởi hành đi Cát Lâm phải đến khuya mới có chuyến, xem ra hắn đã đi xe khách đường dài.

Nghĩ vậy, tôi liền bảo taxi chở mình đến bến xe khách. Như thế dù không tìm thấy hắn ở bến xe thì vẫn còn thời gian đến ga xe lửa, chứ không lẽ hắn lại cuốc bộ? Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy kế hoạch của mình đã tương đối ổn thỏa.

Cứ thế đi thẳng một mạch đến bến xe, chẳng biết đây là cái mùa đắt khách chết toi nào mà người đông như kiến cỏ. Tôi chen giữa đám người, không ngừng tìm kiếm, đã nhiều lần có cảm giác hình như mình thấy rồi, đến khi chen lại gần mới biết chỉ là nhầm nhọt.

Sau đó tôi chạy đến cửa đón khách, tiếp tục tìm kiếm khắp xung quanh nhưng vẫn chẳng thấy người đâu. Đầu tôi nhễ nhại mồ hôi, nghĩ bụng chẳng lẽ tài xế taxi phóng quá nhanh nên tôi đã vượt qua hắn mà đến đích trước? Hay là Tiểu Ca thực sự không có tiền nên không lên xe mà cứ tà tà cuốc bộ? Nếu như thế, giờ này hắn giỏi lắm cũng chỉ đến giao lộ Diên An là cùng.

Lại chen chúc thêm vài bận nữa, tôi dần cảm thấy không thể tìm được hắn bằng cách này, bèn đi tra thời gian khởi hành của xe khách. Đến lúc này tôi mới phát hiện ra không có xe đi Cát Lâm, có lẽ là vì tuyến đường này quá xa. Lòng tôi phút chốc dịu đi, vừa định nói xem ra hắn chỉ có một con đường là đi xe lửa. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt thấy hắn đang ngồi trong một chiếc xe đỗ ngoài bãi. Xe đã nổ máy, sau đó nghênh ngang lái qua bên ngoài cửa sổ phòng chờ.

Tôi ơ một tiếng, nghĩ bụng cái quái gì vậy, rõ ràng không có xe đi Cát Lâm mà. Tôi lập tức đến hỏi nhân viên trực ca, anh ta nói đó là xe đi Bắc Kinh.

Tiên sư cha, cái quái quỷ gì thế này, tôi nghĩ thầm. Bất kể là xe gì, miễn là đi cùng về một hướng, cứ lên xe trước đã tính sau, đây đúng là logic của Muộn Du Bình. Chỉ có bản thân hắn mới hiểu rõ mọi hành động của mình, chẳng liên quan tí nào đến lý trí cả.

Tôi vội vàng chạy đến cửa ra, nhưng cửa ra của bến xe cách phòng chờ một quãng rất xa, khi tôi đến nơi thì khói xe cũng chẳng kịp ngửi. Tôi thở hổn hển, tự nhắc mình phải thật tỉnh táo. Tôi không tin mình lại thua một kẻ có kĩ năng sống thương tật đến cấp 9 ngay trong địa bàn thành thị này.

Tôi lại vẫy xe quay về cửa hàng, thấy Vương Minh đang hớn hở chơi dò mìn. Khi bước vào, tôi suýt nữa đã dọa cho cậu ta té nhào khỏi ghế.

“Ông chủ, lần này sao anh quay về nhanh thế.”

“Bớt nói nhảm đi.” Tôi đạp cậu ta ra chiếm chỗ, lên mạng đặt vé máy bay, sau đó nhanh chóng tra cứu mọi lộ trình, thời gian địa điểm xe khách cập bến, những con đường hắn có thể sẽ đi tiếp. Sau khi ghi chép tất tật mọi thứ, tôi chạy như điên ra sân bay.

Bay đến Bắc Kinh rồi, tôi xem đồng hồ, thấy mình đã đến sớm hơn xe khách ít nhất năm tiếng. Ở cửa ra của bến xe, tôi mua mấy quả trứng luộc nước trà ăn lót dạ, chờ Muộn Du Bình đến. Trong lúc đó, tôi suy nghĩ mãi, phải làm sao để khuyên bảo được hắn đây?

Đánh nhau xem chừng không lại, đuổi theo cũng không kịp. Nếu hắn tâm đã quyết, ý đã định, tôi thực sự cũng không biết phải làm gì hơn, chẳng qua chỉ phí lời vô ích. Hay là mình thừa dịp hắn sơ ý, đánh lén từ sau lưng? Tôi nhìn quanh, tìm được một cục gạch, ước lượng một chút, rồi nhìn sang tay bán trứng luộc vóc dáng xấp xỉ Muộn Du Bình ở gần đó, khua tay múa chân ướm thử vài lần.

Trong đầu tôi lập tức hiện lên cảnh Muộn Du Bình xoay người tung cước đá tôi một phát dính bẹt vào vách tường. Tính cảnh giác của hắn quá cao, tôi ảo não nhận ra xác suất đánh lén hắn thành công cực thấp. Hơn nữa, ngộ nhỡ tôi thành công quá mức, một đòn phang hắn chết tươi, ông đây dễ chừng phải ngồi tù hoặc là dựa cột. Mà xuống dưới đó lỡ đâu còn gặp lại hắn, biết ăn nói thế nào với hắn cho phải.

Chuốc thuốc?

Nhưng tôi cũng không rõ thuốc ngủ thời hiện đại có tác dụng gì với thể chất của hắn hay không. Nếu có, thì trước hết tôi phải dụ hắn vào nhà nghỉ, kiếm cớ là tôi có chuyện quan trọng muốn bàn bạc, mong hắn ra tay giúp đỡ. Sau đó bỏ thuốc ngủ vào đồ uống của hắn, đợi hắn lăn ra ngất thì trói chặt lại, nhờ Tiểu Hoa chuẩn bị xe, tống thẳng về Hàng Châu.

Trong đầu tôi lại hiện lên cảnh tượng Muộn Du Bình sau khi nghe tôi nói muốn tìm hắn bàn chuyện, hắn hoàn toàn dửng dưng quay đầu bước đi. Tất nhiên tôi sẽ níu kéo hắn lại, sau đó hắn xoay người tung cước đá tôi một cú dính vào vách tường.

Đầu tôi đau muốn nứt, nghĩ ra đủ mọi cách cũng chẳng ăn thua gì. Cho dù có gô cổ hắn tống thẳng về Hàng Châu thì cũng không sao giữ hắn lại được, trừ khi nhốt hắn vào lồng sắt, chứ không hắn nói đi là sẽ đi liền. Nếu tôi tống hắn vào bệnh viện tâm thần, may ra có thể sẽ giữ chân được hắn. Nhưng bản lĩnh của hắn quá mức siêu phàm, tôi cảm thấy chẳng nơi nào có thể trói chân hắn nổi, không chừng tống hắn vào đấy còn liên lụy đến bác sĩ và y tá của bệnh viện.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 78

Càng nghĩ càng ngán ngẩm, tôi nhận ra phương án nào cũng bất khả thi, có lẽ tôi không thể nào thay đổi được quyết định của hắn.

Nhưng gì thì gì, tôi vẫn muốn thử hết sức một lần. Tôi còn nghĩ, phải chăng Muộn Du Bình chỉ muốn đến định cư trong một thôn nhỏ dưới chân núi Trường Bạch, ngày ngày ngắm đỉnh núi tuyết, hút tẩu thuốc cũ, chuẩn bị an hưởng tuổi già ở đó?

Không sao cả, cho dù là thế, cùng lắm tôi chỉ biến thành kẻ ngáng chân đáng ghét thôi, chẳng có gì đáng kể.

Khi tôi thoát khỏi dòng suy nghĩ, liền thấy gã bán trứng luộc nước trà đang nhìn chằm chằm cục gạch trong tay tôi, hấp ta hấp tấp dọn quán rời đi. Có lẽ là vừa rồi trong lúc suy nghĩ, vẻ mặt tôi đã vô cùng quái lạ. Tôi vội vàng vứt cục gạch đi, thầm hạ quyết tâm: đây là lần cuối cùng mình tìm cách khuyên nhủ hắn, nếu không khuyên nổi thì thôi, mình cũng chẳng cưỡng cầu làm gì nữa.

Có điều Muộn Du Bình vĩnh viễn không để cho tôi toại nguyện. Tôi cứ thế đợi ở bến xe ròng rã suốt nhiều giờ, đợi đến rạng sáng, khi xe kia vào bến mới phát hiện ra Muộn Du Bình không ở trong xe.

Tôi nhìn từng người từng người một xuống xe rồi tản đi, cứ dõi theo bóng lưng họ một hồi lâu như thế, cuối cùng mới dám khẳng định Muộn Du Bình thực sự không ở trên xe. Tôi lập tức leo lên, túm cổ tài xế, hỏi Muộn Du Bình đi đâu mất rồi.

Hỏi đi hỏi lại mãi tài xế mới hiểu tôi muốn hỏi gì, anh ta nói Muộn Du Bình đã xuống một trạm thu phí dọc đường rồi. Tôi lắc lắc tài xế liên tục, hỏi: “Anh khẳng định anh ta xuống xe chứ không phải là kẹt trong nhà xí lâu quá nên bị bỏ rơi đấy chứ?” Tài xế đáp, chính miệng Muộn Du Bình đã nói thế mà, chắc chắn không lầm đâu.

Tôi hỏi vị trí trạm thu phí kia rồi tìm một quán net gần đó, cẩn thận tra cứu bản đồ. Tôi phát hiện ra một thị trấn nhỏ cách trạm thu phí kia không xa, ở đó có thể bắt xe đến Nhị Đạo Bạch Hà (Tên một địa khu nằm dưới chân núi Trường Bạch).

Tôi gọi cho Tiểu Hoa, nhờ cậu ta sắp xếp cho tôi một chiếc xe ngay, tốn bao nhiêu tiền tôi chịu hết, đi thẳng tới Nhị Đạo Bạch Hà. Tôi cũng phải thầm than thở trong lòng, xem ra mình đã quá coi thường gã Tiểu Ca kinh nghiệm sống thương tật đến cấp 9 này rồi. Rõ ràng, đối với những nơi đã đi qua, hắn rất giỏi ghi nhớ đường tắt, cho dù là trong cổ mộ hay trong xã hội hiện đại cũng không hề thay đổi.

Tạm thời không nhắc tới những chuyện vặt vãnh trên đường đi, rạng sáng hôm sau tôi đã tới Nhị Đạo Bạch Hà. Vừa xuống xe, tôi lập tức hỏi thăm dân địa phương điểm trả khách trái phép của cái xe dù kia. Khi tìm đến nơi, vừa hay tôi nhìn thấy Muộn Du Bình lưng đeo hành lý đang cắm cúi hướng về một phương trời xa.

Tôi vội vàng gọi hắn. Hắn quay đầu lại, thấy tôi, hắn hơi có vẻ kinh ngạc. Nhưng hắn không buồn hỏi vì sao tôi đuổi theo đến đây, mà quay lại, tiếp tục cắm đầu đi về phía trước. Tôi đành phải lảo đảo chạy đuổi theo ngay lập tức.

Nhị Đạo Bạch Hà vào mùa thu lạnh tê người, may mà Tiểu Hoa chu đáo, chuẩn bị sẵn quần áo ấm cho tôi. Tôi khoác thêm áo gió rồi bám sát bên cạnh hắn, cùng đi về phía trước. Tôi hỏi: “Không phải anh muốn đến đây tự sát đấy chứ?”

Hắn liếc nhìn tôi, lắc đầu, rồi tiếp tục cất bước. Tôi lại hỏi: “Hay anh muốn sinh sống lâu dài ở đây? Sao lại chọn cái chỗ rét mướt này mà ở chứ?”

Hắn nhìn thẳng về phía trước, hồi lâu mới đáp: “Không phải ở đây, tôi muốn lên trên đó.”

Tôi ngước nhìn theo ánh mắt của hắn, thấy nơi chân trời đứng sừng sững một dãy núi tuyết.

Trong khoảnh khắc ấy tôi không thể không ngừng bước, ngây người trong giây lát rồi mới hoàn hồn mà đuổi theo: “Anh muốn lên núi?”

Hắn không đáp lời, cứ cắm cúi bước về phía trước, hướng thẳng về phía ngọn núi phủ trắng tuyết.

Trên đường đi, Muộn Du Bình không thèm hé răng nửa lời, lại càng không định dừng lại. Bất kể tôi có đuổi kịp hay không, hắn vẫn cứ tiến thẳng về phía trước.

Tôi cứ dồn dập truy hỏi mãi mà không có kết quả. Nhiều lần tôi nổi giận đùng đùng, nghĩ bụng, được lắm, anh đã muốn chết đến thế thì cứ chết quách đi.

Theo phán đoán của tôi, Muộn Du Bình nhất định muốn tìm đến cái chết, bởi lẽ tôi không thấy hắn mang theo bất cứ thứ đồ ăn nào. Hắn đi thẳng một mạch mà trên người chỉ đeo có một cái ba lô. Theo kinh nghiệm lần leo núi trước, trang bị sơ sài như thế mà đòi leo núi, chưa trụ nổi ba ngày đã chết đói chứ đừng nói đến chuyện trở về.

Tôi càng đi càng cảm thấy chuyến này gay go to, chưa gì đã thấy có mấy cái xe dù đang lén chở người lên núi. Trên đường đi tôi đành phải tìm một cửa hàng mua vài món đồ, ra sức nhồi nhét vào túi hành lý mang theo. Cũng may những món đồ khô kia không chiếm chỗ cho lắm, giờ trong hành lý của tôi đã chất đủ loại túi nhựa.

Sau đó hai chúng tôi lên một chiếc xe con, chạy về hướng lên núi.

Đến đây, Muộn Du Bình mới quay sang nói với tôi: “Cậu không thể tiếp tục đi theo tôi nữa.”

“Nếu tôi bảo anh đừng đi thì anh có chịu ở lại không?” Tôi hỏi. Hắn lắc đầu làm tôi điên tiết: “Mẹ kiếp, thế nên anh bảo tôi ở lại thì cũng đừng mong tôi ngoan ngoãn nghe theo. Tóm lại anh đừng nhiều lời nữa, tôi cứ muốn đi theo anh đấy.”

Hắn liếc tôi một cái rồi lại quay mặt đi, lặng thinh không nói.

Trên đường đi chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào, mãi cho đến khi gặp một khách sạn du lịch trong núi. Lúc ấy nhiệt độ đã xuống khá thấp, hắn đi thẳng vào khách sạn, đặt phòng. Tôi chẳng thèm nhìn trước ngó sau, cứ lẽo đẽo bám theo, lúc này tôi đã nghẹn uất lên đến tận họng.

Muộn Du Bình vẫn không buồn rặn ra một câu nào, cho đến khi vào phòng, nằm xuống giường, tôi mới bắt đầu hối hận.

Xem tình hình hiện giờ của hai người chúng tôi mới thấy, những hành trang Muộn Du Bình chuẩn bị trước đây đều rất phù hợp cho việc leo núi, mà hành trang của tôi lại quá sơ sài, cứ đà này kiểu gì cũng chết chắc. Chỉ e hai chúng tôi còn chưa đi được nửa đường đến đích thì tôi đã chết cóng mất rồi. Chắc chắn Muộn Du Bình hiểu rất rõ điều ấy nên mới không thèm ngăn cản tôi, bởi vì ngay khi vượt qua ranh giới vùng tuyết phủ tôi sẽ phải đối mặt với hai lựa chọn, hoặc là bỏ mạng, hoặc là bỏ cuộc. Lần này dù tôi lấy tính mạng mình ra uy hiếp hắn, có lẽ cũng vô ích.

Muộn Du Bình có lần đã từng nói, hắn chỉ cứu người muốn sống. Nếu như đối phương được quyền lựa chọn giữa sống và chết mà vẫn nhất quyết chọn cái chết, hắn sẽ không nhúng tay vào. Tình hình hiện giờ của tôi cũng giống như thế: nếu tôi tự mình lựa chọn đi theo hắn vào vùng tuyết phủ thì sau đó dù tôi có chết cóng hắn cũng sẽ không ra tay can thiệp.

Tôi lựa lúc hắn nghỉ ngơi, vội vàng ra ngoài mua thêm trang bị. Trong khách sạn có khá nhiều du khách, tôi cầm tiền mặt mua chỗ này một ít chỗ kia một ít. Hết tiền, tôi quét thẻ ở chỗ ông chủ khách sạn, đổi sang tiền mặt với tỉ lệ mười ăn tám rồi tiếp tục thu mua, vất vả lắm mới gom đủ một bộ trang bị coi như xài được.

Sau khi mặc cái đống đó vào người, trông tôi thê thảm vô cùng. Áo gió của Tiểu Hoa vốn không đủ dày, tôi đành cắn răng khoác thêm một lớp áo nữa ra bên ngoài. Người tôi tròn vo như cái kén, nhìn không khác gì con gấu chó. Hai cái găng tay không cùng một đôi, tay trái là găng của nữ nên khá chật, đeo lên rồi cử động cũng bị hạn chế, thành ra mọi hoạt động chủ yếu đều dựa vào tay phải.

Giày leo núi lại là một đôi hoàn chỉnh, có điều chủ nhân trước kia của nó đích thị là một thằng cha thối chân, thối đến nỗi bánh tông lỡ ngửi được cũng phải lăn quay ra chết. Tôi không còn cách nào khác, đành phải bịt mũi nhăn nhó mà đi vào chân.

Còn một ít lương khô để ăn khi lên núi, tôi sắp xếp cho gọn gàng rồi nhặt đồ làm bếp và lò không khói bỏ hết vào một cái ba lô leo núi to đùng. Tiếp đó tôi chia nhỏ đồ ăn vặt đã mua lúc trước rồi cất vào một cái túi nhựa cỡ bự, cũng nhét cả vào ba lô, đến đây mới tạm thời yên tâm.

Chuẩn bị xong xuôi, tôi quay về phòng nghỉ ngơi. Duỗi thẳng cẳng trên giường, tự nhiên tôi lại muốn bỏ cuộc. Cũng không hiểu rốt cuộc mình muốn gì, nhưng tôi thật sự không thể để hắn một thân một mình lên núi. Tôi không biết lấy gì khuyên nhủ hắn, bởi vì tôi còn không rõ rốt cuộc hắn muốn làm gì. Tôi chỉ có thể đi cùng hắn đến tận nơi, biết rõ hắn muốn làm gì rồi mới từ từ nghĩ cách thuyết phục hắn quay về.

Nhưng không hiểu vì sao, tôi cứ cảm thấy lần này tôi làm vậy thật sự là quá tệ hại. Nửa đêm tôi trằn trọc mất ngủ, đành vùng dậy gọi hai cuộc điện thoại cho ông già ở nhà và Tiểu Hoa, bộc bạch hết suy nghĩ của mình với Tiểu Hoa.

Bố tôi chỉ bảo tôi cứ thoải mái mà chơi cho vui vẻ, tôi nghĩ bụng vui vẻ thế quái nào được. Còn Tiểu Hoa nghe xong, cậu ta trầm ngâm giây lát rồi nói: “Chuyện này tớ vốn định khuyên cậu đừng đi theo, có điều, tớ lại cảm thấy cậu có thể tạm thời thử một lần xem sao. Dù sao nếu không làm gì cả, thì thế nào cậu cũng day dứt cả quãng đời còn lại. Nhưng tớ phải nhắc cậu, khi lên núi rồi nhớ chú ý đến khoảng cách. Giờ đang là mùa thu, núi Trường Bạch vẫn chưa đóng cửa. Cậu phải biết, vượt qua ranh giới nào là cửu tử nhất sinh. Nếu cậu không thể khuyên nhủ được anh ta trước ranh giới này, thì cậu quay về đi.”

Tôi nói: “Nhưng hắn vốn chẳng chịu nghe lọt tai lời tớ nói, biết khuyên nhủ thế nào bây giờ?”

“Nếu anh ta đã chịu đến để từ biệt cậu, thì tớ tin chắc, cho dù anh ta không trả lời, nhưng thực ra anh ta vẫn lắng nghe lời cậu nói đấy.” Tiểu Hoa nói.

Giữa trưa ngày hôm sau, tôi cùng Muộn Du Bình lên đường. Ra đến cửa, hắn còn quay đầu lại liếc tôi một cái, tôi cũng liếc trả, nói: “Yên tâm, tôi chỉ muốn cùng anh đi nốt chặng đường cuối cùng.” Nghe vậy hắn mới chịu quay người xuất phát.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 79

Những chuyện về sau không có gì đáng nói, cũng chẳng cần thiết phải liệt kê ra từng sự kiện làm gì. Thấm thoắt đã qua ba ngày, chúng tôi tiến vào ranh giới vùng phủ tuyết.

Mùa thu là mùa du lịch, mùa làm ăn phát đạt nhất của núi Trường Bạch, bên ngoài vùng tuyết phủ có rất nhiều danh lam thắng cảnh, thậm chí còn được dùng làm điểm tiếp tế. Tôi cực kỳ phấn khởi bổ sung nốt những trang bị cần thiết tại mấy điểm thắng cảnh ngoài vùng tuyết này.

Đi sâu hơn vào phía trong, qua khu vực giành cho khách du lịch chính là con đường nhỏ dẫn vào núi tuyết mà chúng tôi đã đi lần trước. Hiện giờ nó đã hoàn toàn thay đổi, nhưng Muộn Du Bình vẫn giải quyết êm thấm. Hắn đi một mạch về phía trước, không ngừng xem xét núi non và hướng nắng xung quanh. Ngày hôm đó khi mặt trời sắp lặn, chúng tôi đã leo đến lưng chừng một ngọn núi tuyết.

Dưới ánh hoàng hôn, tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng quen thuộc: ngọn núi tuyết trong ánh chiều tà toát lên một thứ cảm giác pha trộn giữa ấm áp và buốt giá. Ngày ấy, cũng dưới ánh nắng chiều giống như hôm nay, Muộn Du Bình đã bái lạy ngọn núi tuyết xa xôi. Nhưng lần này hắn không quỳ xuống nữa mà chỉ hờ hững liếc nhìn. Ánh tà dương hắt lên khuôn mặt hắn, toát lên cảm giác quạnh quẽ đến khôn cùng.

Muộn Du Bình đứng trên núi tuyết với vẻ mặt cực kỳ trang nghiêm. Tôi không biết thứ cảm xúc này là gì, nhưng tôi hiểu rõ đối với hắn những ngọn núi tuyết này có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.

Tôi có thể tượng tượng được, trong lòng hắn lúc này nhất định không còn là một khoảng trống rỗng nữa. Mọi thứ nơi đây đều có chung nguồn gốc sâu xa với hắn, nhưng cụ thể là nguồn gốc ra sao thì tôi chẳng có lấy một hướng suy đoán nào.

Muộn Du Bình cứ thế đứng lặng hồi lâu.

Đêm ấy chúng tôi không đi tiếp mà đào một cái hang trong ổ tuyết đọng, trải bạt chống thấm lên trên rồi nhóm bếp lò không khói, cứ thế qua một đêm.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại thu dọn hành lý xuất phát, tiếp tục đi sâu vào trong núi.

Dọc đường đi chỉ có mình tôi thao thao bất tuyệt, nói về những điều tốt đẹp của thế giới này, kể cho hắn nghe còn nơi nào có món ăn ngon hết sẩy, chốn nào hắn chưa từng đặt chân tới. Từ đầu đến cuối hắn vẫn im như thóc, nhưng cũng không tỏ vẻ chán ngán.

Kỳ thực tôi cũng chẳng rõ hắn cảm thấy hứng thú với điều gì, chỉ biết gắng sức lục lọi trong những chuyện đã trải qua cùng hắn để tìm ra thứ có khả năng khiến hắn lưu tâm. Ví dụ như chuyện hắn luôn luôn dõi mắt ra ngoài cửa sổ chẳng hạn. Tôi cảm thấy có lẽ hắn đặc biệt có sở thích du lịch.

Ban đầu tôi còn có thể huyên thuyên khuyên nhủ hắn như cái máy, nhưng về sau đường ngày càng khó đi, thể lực của tôi tiêu hao càng lúc càng nhiều. Tôi cũng đành ngậm miệng không nói, lầm lũi tiến về phía trước. Đi liên tục vài ngày, chúng tôi đã tiến vào một nơi nhìn ngút mắt cũng chỉ thấy tuyết phủ trắng xóa, mặt đất đã biến mất hoàn toàn. Đứng từ trên cao quay đầu nhìn lại, những thôn xóm nơi chúng tôi xuất phát đều đã vượt ra khỏi tầm mắt.

Đưa mắt nhìn lại, tôi thấy dãy núi Trường Bạch trải dài ngút ngàn, trong đó có hàng ngàn đỉnh núi lẫn vực sâu, phần lớn đều là nơi vắng dấu chân người. Tôi không sao đoán nổi liệu con đường chúng tôi lên núi lần này có cùng một lối với lần trước hay không.

Còn nhớ, anh chàng Thuận Tử dẫn đường của chúng tôi khi đó đã từng nhắc tên một số đỉnh núi, nào Tam Thánh tuyết sơn, nào Diêu Tử tuyết sơn. Hình dáng của những ngọn núi đó xem ra không hề giống với những gì tôi thấy lúc này. Còn nhớ, Phan Tử vẫn làm đủ trò chòng ghẹo đúng lúc đúng chỗ, mà giờ đây cả cảnh lẫn người đều đã khác quá xa.

Ngày thứ ba, chúng tôi dựng lều bạt ngủ qua đêm. Chỗ này rất gần nơi lần trước chúng tôi lấy làm mốc mà chia hai ngả, ước chừng chỉ cách một ngày đường.

Đêm ấy, chúng tôi tìm được một khoảnh đất tương đối khô ráo để nhóm lửa. Ngồi trước đống lửa, lần đầu tiền, hắn mới lặng lẽ ném cho tôi một ánh mắt.

Tôi cũng ngước mắt đáp trả hồi lâu, nhưng hắn cứ nhìn chằm chằm như vậy mãi, tôi bắt đầu băn khoăn không biết hắn có thực sự là đang nhìn tôi thật hay không nữa. Đến khi phát hiện ra đúng là hắn đang nhìn mình thật, tôi lại cảm thấy hết sức kỳ quái. Tôi ướm hỏi: “Trên người tôi có gì hay mà nhìn? Hay là sau lưng tôi có quái vật à?” Hỏi đi hỏi lại mấy lần hắn vẫn không mảy may phản ứng, tôi mới nghĩ người này vào lúc bình thường cũng nào phải bình thường gì cho lắm. Tình huống lúc này, tôi nhất định không thể hiểu nổi, mà cũng chẳng cần phải tìm hiểu làm quái gì. Nhưng một lát sau, hắn lại đột ngột hỏi xin tôi điếu thuốc.

Tôi đưa thuốc, cứ ngỡ hắn sẽ nhét vào miệng nhai luôn như lần trước, ai dè hắn lại đưa vào đống lửa để châm, sau đó thật sự bắt đầu hút.

“Ái chà chà, thế mà cũng biết hút thuốc thật.” Tôi trộm giật mình.

Dưới ánh lửa bập bùng, hắn đột nhiên hỏi: “Cậu định đi theo tôi tới khi nào?”

Tôi không khỏi sững sờ, độp ngay lại: “Chẳng liên quan gì đến anh, đây là chuyện của riêng tôi.”

Hắn tiếp lời: “Nếu ngày mai cậu còn đi theo tôi, tôi sẽ đánh ngất cậu.”

Tôi nhìn vẻ mặt hắn cũng hiểu hắn tuyệt đối không đùa, không biết làm sao cho phải, lắp bắp kêu lên: “Anh… anh định làm gì? Đừng có làm bậy đấy.”

Hắn bảo: “Cậu sẽ không sao đâu.”

Tôi thật sự cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, bèn nói: “Anh đừng hòng đánh ngất được tôi.”

Hắn thản nhiên trả lời: “Thế thì ngay bây giờ cậu có thể chạy trốn, hoặc là từ giờ trở đi cách xa tôi ra một chút.”

Tôi hỏi: “Xa cỡ nào mới được?”

Muộn Du Bình đáp: “Chỉ cần cậu cách tôi trong vòng 100 mét, tôi vẫn có thể dùng đá ném ngất cậu. Tôi sẽ vác cậu đến một nơi an toàn, đến khi tỉnh lại thì cậu đã không thấy tôi đâu nữa.”

Trong một tích tắc kia tôi ngây ngẩn cả người. Tôi chợt nhận ra đoạn đối thoại này nghe qua có vẻ thú vị, song ý tứ ẩn chứa trong đó lại cực kỳ rõ ràng.

Hắn không muốn tôi tiếp tục tiễn hắn nữa. Hắn rõ ràng không tin lời tôi nói, rằng đến cuối chặng đường này tôi sẽ buông tay. Chiếu theo nhịp điệu riêng của mình, hắn cảm thấy giờ đã đến lúc chia xa rồi.

Tôi kiên trì thuyết phục: “Anh không thể nghiêm túc cân nhắc thêm lần nữa sao? Hiện giờ anh làm như vậy thì có ý nghĩa gì đâu?”

“Cái gọi là ý nghĩa, nó có ý nghĩa sao?” Muộn Du Bình tỏ ra một chút lưu tâm đến từ “ý nghĩa” này, hắn đăm đăm nhìn đống lửa đang bốc cháy rừng rực, lại tiếp: “Cái từ ‘ý nghĩa’ này, bản thân nó đã không có ý nghĩa rồi.”

Tôi ngơ ngẩn nhìn hắn dễ phải đến ba phút, không còn gì để nói nữa, đành quay người chui vào trong lều.

Tôi bó tay, tôi thật sự không còn lời nào để nói nữa. Nếu có thể thì tôi rất muốn xông đến táng cho hắn mấy phát vỡ mồm, có lẽ xác suất hắn lập tức trở mình quay ra kẹp gãy cổ tôi không cao lắm. Nhưng rất có thể là tôi đánh không lại hắn, vì tốc độ của hắn quá nhanh. Còn chửi mắng hắn thì có khác gì mắng cái đầu gối đâu, chẳng đã chút nào. Có bao nhiêu lý lẽ đã rao giảng rã cả họng rồi, tôi biết rõ hiện giờ mình có làm gì cũng vô ích.

Dù sao cũng chỉ còn có một ngày đường, thay vì đi cùng hắn cho đến ranh giới tự mình đặt ra rồi tiếp tục vặn xoắn trong bất lực cho đến khi gục ngã, rồi bị hắn đập cho ngất xỉu, thì chi bằng cứ buông tay ngay tại đây. Ít ra tôi còn có thể đứng lại nơi này mà chờ đợi, mà dõi mắt nhìn theo bóng hình hắn biến mất giữa đồng tuyết mênh mông.

Lúc này đây tôi đã hạ quyết tâm: tảng sáng ngày mai tôi sẽ quay về. Tôi sẽ đặt một ký hiệu ở đây, sau đó hàng năm đến nơi này tảo mộ cúng bái.

Tôi chui vào túi ngủ nằm, trong lòng phiền muộn không sao tả xiết, không chợp mắt nổi. Nằm được hơn mười phút thì Muộn Du Bình cũng bước vào lều, bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc của mình. Sắp xếp xong, hắn mới lên tiếng: “Tạm biệt.”

Tôi nói với hắn: “Làm bạn với tôi một lát đã, ngày mai hẵng đi. Tôi sẽ không đi theo anh nữa đâu.” Hắn gật gật đầu, lấy trang bị để gác đêm rồi bước ra khỏi lều.

Người rất thân thiết với bạn một mực tìm đến cái chết nhưng bạn chỉ có thể trơ mắt đứng nhìn mà không sao ngăn cản được, giữa bạn và người kia tồn tại một vách ngăn mà dùng bất cứ thứ gì cũng không thể đục thủng được. Bạn chỉ có thể chạm vào vách ngăn kia, nhưng không sao tìm ra nổi một lỗ hổng để phá tan nó.

Quyết định rồi tôi cảm thấy vô cùng khổ sở, nhưng rồi tôi lại nghĩ, phải chăng tôi nên cố gắng lý giải câu nói kia của Muộn Du Bình: cái từ “ý nghĩa” này, bản thân nó vốn đã không có ý nghĩa.

Tôi xoay mặt đi, nội tâm từ từ trở về với tĩnh lặng, cố gắng không để ý gì đến người bên ngoài nữa, cứ thế nhắm mắt dưỡng thần.

Thế rồi tôi thiếp đi lúc nào không hay. Cũng không biết ngủ được bao lâu, tôi lại bị một âm thanh lạ lùng đánh thức. Thứ âm thanh này trong lúc mơ màng nghe cứ như có một đám người quái gở đang ca hát. Tiếng ca du dương êm ả, số người hát hình như cũng khá nhiều, lại cất lên ở nơi khỉ ho cò gáy này khiến người ta càng cảm thấy quái lạ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 80

Tỉnh lại rồi, tôi vừa mở mắt đã nhận ra đó là tiếng gió.

Căn lều bạt của tôi lắc lư dữ dội, hết nghiêng sang phải lại ngả sang trái, ngọn đèn bão chiếu sáng bên trong chao đảo muốn rơi xuống, ánh lửa lập lòe lúc sáng lúc tối. Tôi đứng dậy đi ra ngoài, thấy bốn phía nổi gió lớn, cơn cuồng phong cuốn lên vô vàn mảnh tuyết vụn, thốc thẳng vào khe núi. Muộn Du Bình đã đi mất dạng, hành lý của hắn cũng không thấy đâu nữa.

Đéo mẹ, không thèm chào nhau một tiếng đã đi rồi. Tôi sờ sờ đầu, xem xem có phải hắn đã thừa lúc tôi ngủ mà oánh tôi thêm một cú cho ngất hẳn không. Trên đầu không có cảm giác gì, có lẽ hắn thấy tôi ngủ say quá nên cũng chả buồn đánh ngất.

Tôi nhìn sắc trời, biết tình hình gay go to rồi. Xem ra đây chính là trận tuyết lớn đầu mùa ở núi Trường Bạch, với thời tiết này, nếu vẫn cứ chần chừ ở đây chắc chắn sẽ tiêu đời.

Nếu còn đi sâu hơn vào trong núi, con đường phía trước chính là cửu tử nhất sinh. Tôi thấy Muộn Du Bình để lại toàn bộ đồ ăn, hiểu rõ kết cục này đã định, trong lòng bùi ngùi mãi không thôi.

Gió càng ngày càng dữ dội, lều bạt hứng gió, xém chút nữa đã bị thổi bay. Tôi xem đồng hồ, giờ quay về đi cỡ ba ngày đường là có thể đến khu tiếp tế. Mà cuốn gói càng sớm thì khả năng bị bão tuyết đuổi kịp lại càng nhỏ, vì thế tôi bắt đầu thu dọn đồ đạc mang theo. Khi đã gói ghém xong xuôi, tôi chợt thấy lớp tuyết đọng trên sườn dốc xung quanh bị gió thổi bay mù mịt giữa không trung, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể sụp xuống.

Trước đây, tôi cứ đinh ninh Muộn Du Bình vẫn còn cơ hội sống sót. Thậm chí sau khi trở về khu du lịch, nếu tôi báo cho người ta biết trong núi có người mất tích, nhiều khả năng còn nhờ được họ lên núi tìm kiếm, nếu đông người không chừng có thể trói cứng Muộn Du Bình khiêng về. Nhưng dưới thời tiết này, e rằng có phái cả một đoàn hay sư đoàn đi tìm thì Muộn Du Bình cũng không còn cơ hội sống sót.

Thôi như thế cũng tốt, hắn không có thân nhân, coi như chẳng vướng bận gì.

Trung Quốc có một câu cách ngôn: nuốt quả cân, lòng hóa sắt đá. Chuyện Muộn Du Bình đã quyết, không ai có thể thay đổi.

Tôi đi đến đây coi như đã hết trách nhiệm của mình đối với hắn rồi. Cố gắng kìm nén cảm giác bi thương đến cực độ trong lòng, tôi bắt đầu quay người rời bước.

Gió càng lúc càng ác liệt, tôi mới đi được vài bước, bỗng lớp tuyết đọng trên sườn núi phía trước bắt đầu trượt xuống từng tảng lớn, con đường trước mặt trở nên ngày càng khó đi.

Đi thêm mấy trăm mét, tôi đi vòng qua một con đèo, phát hiện tình hình không ổn. Ngọn núi trước mặt đã sụp đổ hoàn toàn, chỉ thấy những đụn tuyết lớn trước đây chưa từng gặp.

Tôi trèo lên cao vài mét, vừa nhìn xuống đã choáng váng mặt mày. Những đụn tuyết này đã vùi lấp toàn bộ con đường tôi đi tới đây, khiến tôi không tài nào nhìn ra đường về nằm ở đâu nữa.

Tôi châm điếu thuốc, rít vài hơi, cân nhắc xem mình nên làm gì bây giờ. Dẫu sao nơi này cũng khá gần với khu du lịch, dù chuyện gì xảy ra tôi vẫn có cách thoát ra ngoài, chỉ e lỡ đâu mình đi sai hướng thì phiền phức to. Tuy hết sức thương tâm cho vận mệnh của Muộn Du Bình, nhưng cứ nghĩ mình rất có thể còn chết sớm hơn cả hắn, tôi cũng cảm thấy khá là buồn bực.

Giống như có một người bệnh nặng hấp hối, bạn đến thăm anh ta vốn là để chuẩn bị đưa tiễn anh ta về nơi chín suối. Nhưng đến nơi rồi, cái người đang thoi thóp sắp ngỏm kia lại vác một khẩu tiểu liên phục sẵn chờ bạn. Thấy bạn đến, anh ta pằng pằng pằng lia cho bạn nguyên một băng đạn, đợi bạn giãy chết trong vũng máu rồi mới ung dung chui vào quan tài mà ngỏm. Bạn nằm trên mặt đất, tận mắt nhìn thấy máu trong thân thể mình không ngừng tuôn ra như suối, cảm xúc trong lòng lúc ấy sẽ phức tạp đến nhường nào?

Cảm giác của tôi bây giờ chính là như thế.

Hút thuốc xong, tôi tiếp tục trèo lên cao, bất ngờ phát hiện trên đỉnh đầu mình lăn xuống vô số quả cầu tuyết to cỡ nắm tay.

Những quả cầu tuyết này lớn nhỏ không đều, dễ nhận thấy chúng hình thành hoàn toàn tự nhiên. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thấy lớp tuyết đọng phía trên đã bắt đầu sạt lở dữ dội, từng mảng tuyết phủ trên sườn núi liên tục nứt gãy, trượt dài xuống phía dưới.

Tôi hết sức cẩn thận trèo lên cao, lên đến đỉnh núi không ngờ lại tìm ra con đường tiếp tục tiến về phía trước.

Tôi dần dần an tâm hơn, thuận thế trượt từ đỉnh núi xuống sườn phía bên kia, cũng chính là sườn núi phía Nam. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay trông thấy mặt trời mọc lên sau rặng núi xa, sườn núi đối diện bỗng chốc biến thành một mặt gương khổng lồ. Tôi cảm thấy toàn thân dâng lên cảm giác mờ mịt khó tả, quang cảnh xung quanh bỗng chốc chuyển thành màu hồng phấn rồi dần dần trở nên mơ hồ.

Tôi ngẩn người, nghĩ bụng chuyện gì đang xảy ra vậy? Ngay lập tức tôi đã hiểu ra đây là chứng quáng tuyết. Nhắm nghiền hai mắt, tôi biết từ giờ mình đã không thể dùng đôi mắt này nữa rồi. Nếu còn cố tình mở mắt, trước mắt sẽ biến thành màu đen hoàn toàn, không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì.

Bị quáng tuyết phải mất từ một đến ba ngày mới hồi phục lại như cũ, nếu vì thế mà tôi bị kẹt cứng ở đây thì không những chết sớm hơn mà thậm chí còn chết thảm hơn Muộn Du Bình nữa.

Mình đang nghĩ đi đâu đây?

Tôi nhắm nghiền hai mắt, trong lòng vô cùng ảo não. Mẹ kiếp, lần trước khi đến đây bầu trời xám xịt đầy mây, nào có cơ hội được biết quáng tuyết là gì, cho nên lần này không hề chuẩn bị gì cả, ai mà biết lại gặp phải chuyện đen đủi này. Tiên sư nó chứ, lần này đúng là tự mình đâm đầu vào chỗ chết rồi.

Quáng tuyết là một chứng bệnh hết sức kì lạ, người ta thường cho rằng bệnh này phát sinh do võng mạc bị ánh sáng cường độ quá mạnh kích thích nên rơi vào trạng thái mù tạm thời. Thường thì chỉ cần nghỉ ngơi mấy ngày thị lực tự khắc sẽ khôi phục như cũ. Người đã từng bị quáng tuyết nếu không chú ý rất có thể sẽ tiếp tục bị quáng, mà lần quáng tuyết sau bệnh tình lại càng thêm nặng nề. Bị quáng tuyết nhiều lần sẽ khiến thị lực người ta dần dần suy yếu, về lâu về dài mắt sẽ bị tật, nếu nghiêm trọng thậm chí có thể mù vĩnh viễn.

Khi đi trên đồng tuyết, bình thường người ta đều đeo kính bảo hộ, không thì dùng kính râm bình thường cũng có thể ngăn ngừa hoặc giảm bớt tác động của chứng quáng tuyết.

Nhưng người Mỹ còn có một công trình nghiên cứu đưa ra kết luận chứng quáng tuyết thực ra là do hai mắt không tìm thấy vật thể làm tiêu điểm trong đồng tuyết (thường thì đứng trên núi tuyết chỉ có thể nhìn thấy một sắc trắng thuần), hai mắt căng thẳng quá độ mà thành tật. Chứng quáng tuyết rất hiếm khi gây mù vĩnh viễn, nhưng một khi xuất hiện bệnh trạng thì tuyệt đối không được mở mắt, phải để đôi mắt có thời gian nghỉ ngơi.

Nói cách khác, căn cứ vào tình hình hiện tại, ước chừng mười hai giờ sau tôi mới có thể yên tâm mở mắt. Còn bây giờ dù thi thoảng hé mắt ra ngó đường một cái cũng phải cực kì cẩn thận. Cũng có nghĩa là tôi chắc chắn phải ở lại đây một khoảng thời gian khá dài.

Nghĩ đến đây tôi cảm thấy cực kì cực kì ảo não, trong lòng tự nhủ tại sao khi lên xuôi chèo mát mái là thế mà đến lúc về lại thê thảm nhường này. Nếu trên đường tới đây tôi gặp chuyện bất trắc, có khi Muộn Du Bình còn phải đưa tôi về.

Biết thế, mấy ngày trước tôi đã kiếm cớ tự đánh què chân mình rồi.

Còn đang nhớ lại chuyện cũ mà sinh ấm ức, tôi chợt cảm thấy dưới mông lỏng lẻo, thế rồi nguyên mảng tuyết tôi đang ngồi bỗng trượt xuống.

Mảng tuyết phủ trên sườn núi một khi đã trượt xuống thì hoàn toàn không thể phanh lại, tôi còn chưa kịp phản ứng đã thấy mình vừa lăn vừa trượt thẳng xuống dưới, hai tay chỉ biết quơ quào loạn xạ khắp bốn vùng quanh. Giờ khắc này không thể nhắm mắt nữa rồi, đã mấy lần tôi vùi tay thật sâu vào tuyết, mong tạo ra lực cản giữ mình dừng lại, song mỗi lần nắm tay chỉ làm lở xuống một khối tuyết lớn hơn.

Tôi vừa la hét trong kinh hoàng vừa lăn thẳng xuống triền dốc. Tôi biết dưới kia là một vách núi dựng đứng, độ cao bét ra cũng có 30m. Dù bên dưới phủ một tầng tuyết dày đi chăng nữa thì tôi cũng không thể bình yên vô sự.

Trước kia tôi có thể nhủ thầm chết thì chết sợ quái gì, nhưng hiện giờ lại không tài nào chấp nhận kết cục ấy. Tôi hoảng hốt quơ quào loạn xạ, nhưng ngay sau đó thân thể đã trượt ra khỏi vách núi, chơi vơi ngã xuống.

Khi rơi khỏi sườn núi được chừng 6, 7m, tôi nhận thấy cảnh vật xung quanh dường như đã biến thành một thước phim quay chậm, thậm chí tôi hoàn toàn có thể nhìn rõ quỹ đạo kỳ quái của những khối tuyết rơi xuống theo mình.

Tiếp đó tôi gần như ngã ngửa vào tuyết.

Từ độ cao 30m ngã xuống một lớp tuyết xốp như bông, nghĩ kĩ thì đây có lẽ là một chuyện đặc biệt thú vị. Tôi cũng không rõ thân thể mình vùi sâu vào tuyết đến chừng nào, nhưng chắc chắn nếu có người đứng trên mặt tuyết, nhất định sẽ thấy một cái hố hình người với tư thế cực kì quái đản.

Tuyết ở nơi này đặc biệt xốp, sau khi tôi ngã xuống, vô số mảnh tuyết vụn trên miệng hố cũng rơi xuống theo, đập thẳng vào mặt khiến đầu tôi ong ong nhức buốt. Nhưng rất may khi ngã xuống tôi cảm thấy mình không đập phải vật gì cứng rắn. Nếu trong tuyết có một vài tảng đá ngầm thì chắc chắn tôi không thể có cảm giác như hiện giờ.

Tôi gạt gạt lớp tuyết phủ trên mặt, cố gắng bò lên, thò đầu ra khỏi hố. Còn chưa kịp chửi thề mấy tiếng cho bõ tức, tôi bỗng cảm thấy phía trên hình như bị một cái bóng che phủ. Ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay thấy tảng tuyết bị tôi khuấy động ban nãy giờ đang từ từ trượt xuống khỏi vách núi.

Thì ra cái bóng kia chính là tảng tuyết phủ trên triền núi. Nhìn thoáng qua, tôi ước chừng sẽ có khoảng một tấn tuyết đổ ụp xuống mặt mình, một lần nữa đẩy tôi xuống đáy hố sâu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 81

Tuyết vụn giống như những hạt cát nhỏ nhanh chóng lấp kín mọi khoảng trống xung quanh tôi, kể cả mũi lẫn miệng.

Tôi cố gắng đào bới, chợt phát hiện ra tuyết vụn đã phủ lên mặt hố một lớp cực dày, chôn vùi tôi kín mít như lấp một nấm mồ, dù bới mỏi tay cũng không sao tìm nổi một vị trí có thể thoát ra.

Đến khi không nhịn nổi nữa, tôi bắt đầu hít thở, nhưng vừa hít một cái vụn băng đã chui đầy vào mũi. Chìm dưới đống tuyết so với chìm vào trong nước có một điểm khác biệt rất rõ ràng, đó là tuyết không phải một khối đặc, bên trong còn chứa vô số không gian nhỏ tràn đầy không khí. Tôi xoay trái xoay phải, nén tuyết xung quanh lộ ra một khoảng không nhỏ, thở gấp vài hơi. Tuy chưa đến mức hoảng hốt sợ sệt nhưng vẫn cảm thấy lồng ngực tức anh ách, đầu óc choáng váng.

Đúng vào lúc tôi đắm chìm trong tuyệt vọng, bên tai bỗng nghe thấy tiếng động gì đó từ ngoài kia truyền vào. Tiếp theo, đôi tay không ngừng quơ quào loạn xạ bị người nào đó túm lấy, thế rồi toàn thân tôi được kéo ra khỏi hố tuyết. Tôi há mồm thở dốc, sau đó lại thấy Muộn Du Bình túm lấy gáy áo tôi, dốc sức kéo tôi ra khỏi tuyết.

Trước mắt tôi vẫn là một màu hồng phấn mông lung, mờ mờ ảo ảo. Thấy hắn, tôi không dưng nổi giận vô cớ, sẵng giọng: “Anh còn vác xác về đây làm gì?”

Hắn nhìn tôi chằm chằm, lại nhìn vách núi trên đầu rồi đáp: “Tôi nghe tiếng cậu kêu cứu.”

Đất tuyết truyền âm cực nhạy, hơn nữa tôi còn ở đầu gió, hắn nghe thấy tiếng tôi cũng không lạ. Tôi chỉ nghĩ bụng, quái, lúc ấy tôi đang ân cần hỏi thăm mười tám đời tổ tông nhà anh cơ mà. Tôi đứng lên, nheo mắt nhìn quanh, lập tức hiểu ra hắn nhất định đã nhảy xuống từ độ cao 30m, trong lòng không khỏi cảm động.

Hắn đã quay lại. Tôi bỗng có cảm giác phải chăng hắn đã thông suốt ít nhiều, đây chẳng phải là cơ hội trời cho để tôi thuyết phục hắn sao? Hắn còn quay lại, chứng tỏ hắn còn lưu luyến thế gian này.

Nhưng tôi còn chưa kịp mở miệng, hắn đã giành nói trước.

“Cậu mau theo tôi.” Muộn Du Bình nói, “Đây là một cái khe cụt, càng ngày sẽ càng nhiều tuyết sụp xuống. Trước tiên hãy đi tới trung tâm khe núi này đi.” Hắn chỉ xung quanh. Ngay sau đó tôi phát hiện ra khắp bốn phía nơi này đều bị bao phủ bởi những vách núi cao trên 30m, không kiềm được một tiếng chửi thầm.

Tôi nhìn quanh bốn phía nhưng hoàn toàn không thấy bất cứ lối đi nào thông ra bên ngoài, kế đó, tôi thấy Muộn Du Bình tự nắm lấy cổ tay mình.

Mặt hắn vẫn hoàn toàn không biểu lộ chút gì, nhưng một tay hắn lại đang nắm chặt cổ tay bên kia. Tôi vội hỏi: “Làm sao thế? Anh bị thương à?” Hắn thờ ơ đáp: “Không sao, trước khi đến đây tay hơi trật chút thôi, giờ vẫn chưa lành.” Tôi thở dài một hơi, muốn mang ba lô giùm hắn, hắn lại xua tay ngăn cản. Tôi bỗng nhận ra cánh tay hắn uốn thành một độ cong kì lạ, nhìn qua đủ biết nó đã gãy rồi.

Tôi không khỏi nhíu mày: “Tay anh… làm sao thế? Gãy rồi phải không?”

Muộn Du Bình đáp: “Trước khi gặp lại cậu đã gãy rồi, vừa mới bình phục chút ít, ban nãy nhảy xuống lại vung hơi mạnh.”

Tôi ngây ngẩn hồi lâu, rồi không nén nổi một nụ cười.

Mọi chuyện đột ngột phát sinh theo hướng này, quả thực đã vượt quá dự liệu của tôi.

Giờ đây hai chúng tôi đã bị vây khốn, tôi còn có triệu chứng quáng tuyết thời kì đầu. Sắc trời ngày càng xấu, Muộn Du Bình vì cứu tôi mà gãy xương cổ tay, tôi đã không còn nhiều lựa chọn nữa.

Nếu không thể kéo hắn quay về, tôi chỉ còn cách đi tiếp chặng đường này với hắn, đi mãi đi mãi đến khi nào hắn đánh ngất tôi mới thôi. Bằng không, chuyện này quả thực tôi không thể ăn nói nổi.

Xương cổ tay gãy hẳn là đau nhức vô cùng, tôi lục lọi hành trang của mình, muốn tìm thứ gì đó hữu dụng để sơ cứu tạm thời cho Muộn Du Bình. May mà trong hành lý không có món gì bị vỡ, ba lô với đống đồ ăn vẫn còn xài ngon. Có mấy thứ bị văng ra ngoài trong lúc tôi lăn lộn quẫy đạp, giờ đã vùi sâu dưới tuyết, tài thánh cũng không mò được, nhưng mấy món đồ ăn quan trọng nhất vẫn không suy suyển gì. Tôi tìm một sườn dốc phủ tuyết, bẻ hai que băng thay nẹp để cố định cổ tay Muộn Du Bình. Gió ở nơi này không quá dữ dội, nhưng phía trên thi thoảng lại có những quả cầu tuyết bị thổi xuống, nện xuống đầu chúng tôi, đau vô cùng. Lỡ như có quả cầu tuyết bự hơn chút nữa hoặc trong ruột chứa khối băng rơi trúng đầu, rất có thể chúng tôi sẽ bị thương.

Tôi băng bó giùm hắn rồi lựa lời khuyên nhủ: “Tôi cóc cần biết anh muốn làm chuyện gì, anh nhất định phải đi đến đâu. Nhưng với tình trạng sức khỏe của anh bây giờ, không chừng đi được nửa đường đã mất mạng, tôi thấy tốt nhất anh nên quay lại dưỡng thương cho tốt. Không bằng chúng ta về nhà trước.”

Hắn lắc đầu, lặng lẽ nói: “Chỉ là chuyện nhỏ, cậu về đi.”

Tôi kiên trì: “Anh cứu tôi nên mới gãy tay, nếu vì thế mà kế hoạch cuối cùng của anh thất bại thì tôi không đành lòng chút nào, nên tôi nhất định phải đi cùng anh.”

Hắn nói: “Vậy thì tôi chỉ có thể dùng đến biện pháp đã nói tối qua.”

“Được, tùy ý anh thôi, nếu anh thật sự đánh ngất tôi thì tôi cũng không còn gì để nói. Nhưng tôi mong anh hiểu rõ một điều, nếu anh cần có người cùng anh đi đến cuối con đường này, tôi nhất định sẽ không từ chối.” Tôi tiếp lời, “Tôi muốn đi cùng anh, đây là quyết định của riêng tôi, cho nên anh không cần phải lo lắng.”

Bầu không khí lại rơi vào im lặng, Muộn Du Bình nhiều lời đột xuất như vậy khiến tôi có cảm giác hắn cũng thật sự bó tay với tôi rồi. Hai người trầm mặc trong chốc lát rồi lại tiếp tục cất bước. Khi tiến vào giữa khe núi, Muộn Du Bình nói: “Trận bão tuyết đầu mùa sẽ đến trong vòng ba ngày tới, nếu chúng ta không thể đến chỗ suối nước nóng lần trước, cả hai sẽ chết ở chỗ này. Nhưng nếu cậu quay đầu, chẳng bao lâu là cậu sẽ trở về thế giới của mình.”

Muộn Du Bình muốn cho tôi biết, dù tôi có muốn tiếp tục đi cùng hắn thì chuyện cũng không dễ dàng như tôi tưởng. Nhưng tôi đã hạ quyết tâm nên không thèm để ý hắn nói gì nữa, thậm chí không thèm suy xét những điểm hợp lý trong lời hắn nói. Tôi đáp trả: “Tôi sẽ đi, đây là lựa chọn của bản thân tôi.” Tôi sửa soạn lại đống hành lý, định san bớt đồ của hắn sang túi mình nhưng hắn nhất quyết không chịu, giành lấy túi đồ rồi đeo lên vai. Hành trang của hắn không nhiều nhưng trọng lượng cũng khá lớn, đè nặng trĩu lên vai.

Chúng tôi tiếp tục tiến lên tìm đường ra khỏi khe núi tuyết này, cuối cùng phát hiện ra một nơi có thể leo lên hiện đang bị vùi dưới lớp tuyết dày. Tôi rút cái cuốc chim ra, cạo sạch tuyết, tìm điểm đặt chân trên vách đá rồi leo lên từng chút từng chút một, đến tối lại dựa người vào vách núi mà nghỉ ngơi. Mãi đến giữa trưa ngày hôm sau, chúng tôi mới leo lên được vách núi cao 30m.

Cả hai tiếp tục gian nan tiến về phía trước. Tôi lẳng lặng bám theo Muộn Du Bình, cho đến khi hoàng hôn buông xuống, quãng đường đi được còn chưa tới 20 km, nhưng chúng tôi cũng bắt đầu phát hiện ra những vệt tuyết tan xung quanh. Muộn Du Bình căng tai lắng nghe, cẩn thận lần mò, rốt cuộc cũng tìm thấy khe núi đã bị chôn vùi dưới tuyết.

Khi màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ thấp hơn tôi tưởng rất nhiều. Chúng tôi chui vào khe núi, đi tới đúng con suối nước nóng cả hai từng nghỉ ngơi lần trước. Bên bờ suối tôi nhóm lửa sưởi ấm, còn đun một ít nước sôi.

Tôi không có tâm trạng ăn uống nên chẳng thèm động đũa, còn Muộn Du Bình thì hình như căn bản không hề muốn ăn. Nghỉ ngơi ngoài miệng khe núi một thời gian ngắn, chúng tôi tiếp tục tiến sâu hơn. Lúc này tôi đã hiểu rất rõ Muộn Du Bình muốn đi đâu rồi, chắc chắn hắn muốn đến chỗ cánh cửa thanh đồng. Đó là nơi đã đảo lộn hoàn toàn nhân sinh quan của tôi, thật lòng mà nói tôi tuyệt không muốn nhìn thấy nó thêm một lần nào nữa.

Nhưng hiển nhiên đích đến của Muộn Du Bình chính là nơi này. Từ khe núi này một mạch tiến vào trong, chẳng mấy chốc đã đến chỗ kia, không cần phải lượn qua cả tòa Vân Đỉnh Thiên Cung làm gì.

Tôi nhớ lại những con chim mặt người kia, không biết giờ này bọn chúng ra sao rồi. Đêm đó tôi nằm mơ thấy tôi đi cùng Muộn Du Bình đến trước cửa thanh đồng, Muộn Du Bình nói lời tạm biệt rồi cứ thế bước vào, để tôi bơ vơ đứng ngoài. Tôi vừa quay đầu lại đã thấy vô số chim mặt người đang nhìn mình chằm chằm, thế rồi tôi giật mình tỉnh giấc. Thức dậy rồi, lại thấy Muộn Du Bình không ngủ mà đang sắp xếp lại đồ đạc của mình.

Tôi hỏi hắn muốn làm gì, hắn đáp:”Tôi đang xem xét món đồ nào cậu dùng được còn để lại cho cậu. Trên đường trở về, rất có thể cậu sẽ phải dùng đến nó.”

“Vậy còn anh thì sao?” Tôi giật mình hỏi.

“Ở đây rồi, cho dù tôi chỉ là trẻ sơ sinh cũng chẳng sao, tôi đã đến rất gần với mục tiêu của mình.” Hắn thờ ơ đáp,”Cậu không nên đi sâu hơn nữa, bên trong rất nguy hiểm.”
Last edited by tuvi on 05 Dec 2019, edited 2 times in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 82

Tôi kinh ngạc nhìn Muộn Du Bình lấy từ hành lý của hắn ra hai khối Quỷ tỷ, ngẫm nghĩ một lát rồi giao cho tôi một khối.

“Nếu cậu đã đến tận đây rồi, tôi nghĩ cũng nên cho cậu biết một số chuyện”, hắn nói, “Cậu mang Quỷ tỷ này về đi, tôi chỉ cần một khối là đủ rồi.”

“Anh lấy cái này ở đâu thế?”

“Hoắc lão thái thái đưa cho tôi”, Muộn Du Bình đáp, “Trong lúc các cậu không để ý.”

“Cái này dùng để làm gì?” Đã chẳng còn hứng thú muốn biết rốt cuộc sau lưng mình xảy ra những chuyện gì, tôi vào thẳng vấn đề.

Muộn Du Bình đáp: “Mở cửa.”

Tội nhận lấy Quỷ tỷ, hắn lại tiếp: “Mười năm sau nếu còn nhớ đến tôi, cậu hãy mang theo vật này đến đây, mở cánh cửa thanh đồng. Có lẽ cậu sẽ thấy tôi đằng sau cánh cửa ấy.”

“Sau cánh cửa kia là nơi nào?”, tôi hỏi ngược lại, “Tại sao anh phải vào đó?”

“Tôi không thể cho cậu biết đó là một nơi như thế nào”, Muộn Du Bình nói, “Tôi chỉ có thể tiết lộ về một giao ước mà thôi. Rất nhiều năm về trước, tôi đã mang theo bí mật này tìm đến những người mà các cậu gọi là Lão Cửu Môn. Tổ huấn của Trương gia luôn lấy việc bảo tồn làm mục tiêu hàng đầu. Toàn bộ quá trình phát triển của Trương gia, đều mong muốn Trương gia có thể tồn tại dù trong bất kỳ thời đại loạn lạc đến mức nào. Theo thông tin mà tôi có được, chỉ có tộc trưởng mới được biết bí mật khổng lồ này, ngay từ khi mới bắt đầu Trương gia đã có được bí mật này rồi, bí mật này vẫn luôn luôn vận hành trong dòng chảy bất tận của lịch sử Trung Quốc, không ai biết nó là gì. Chúng tôi chỉ biết đến sự tồn tại của bản thân bí mật đó, và bí mật này có một thời điểm chen chốt. Thời điểm then chốt ấy sắp đến rồi. Ngay sau khi hy vọng tồn tại cuối cùng của Trương gia sụp đổ, tôi tìm đến Lão Cửu Môn năm đó, hy vọng có thể mượn thế lực của họ để trợ giúp Trương gia, cùng nhau gánh vác nghĩa vụ giữ kín bí mật này, nhưng trong Lão Cửu Môn lại không một ai tuân thủ lời hứa.”

“Tôi phải bảo vệ điểm cốt lõi của bí mật này nằm sau cánh cửa thanh đồng. Để bảo vệ nó cần rất nhiều thời gian, tôi sẽ đi vào cửa thanh đồng trấn giữ mười năm, chờ đợi người kế nhiệm.”

“Vì sao bọn họ không ai chịu tuân thủ lời hứa?”

“Vì trong vòng một trăm năm trước, tất cả những người bảo vệ bí mật này đều là người của Trương gia, do đó thực lực của Trương gia mới dần suy yếu. Theo thỏa thuận ban đầu giữa chúng ta, người trong Lão Cửu Môn phải thay phiên nhau bảo vệ bí mật này.”

“Nhưng rồi bọn họ ai chịu đi?”

Muộn Du Bình gật đầu: “Tôi đã là Trương Khởi Linh cuối cùng của Trương gia, nhiệm vụ canh giữ về sau đều do tôi gánh vác. Nhưng cậu đã đến đây rồi thì tôi cũng cho cậu biết, mười năm sau nếu còn nhớ đến tôi, cậu có thể mở cánh cửa thanh đồng đến thay thế cho tôi.”

“Khoan đã”, tôi mất một lúc mới tiêu hóa hết mấy thông tin này, lại hỏi: “Theo như lời anh nói thì Lão Cửu Môn phải thay phiên nhau, thế Trương gia các anh đã thay phiên nhau truyền qua rất nhiều đời rồi à?”

Muộn Du Bình gật đầu, tôi lại hỏi: “Thế nếu không gặp phải tình huống này, thì chiếu theo giao ước, thì giờ đến phiên ai trong Lão Cửu Môn?”

“Cậu”, Muộn Du Bình đáp gọn lỏn.

Là tôi? Tôi ngẩn người: “Ý anh muốn nói, vốn dĩ tôi mới là người phải đi vào cánh cửa thanh đồng chờ mười năm sao?”

Muộn Du Bình gật đầu, tôi còn định bảo anh nói rõ ràng hơn chút đi, hắn đã đột ngột đưa tay ấn một cái vào sau cổ tôi, tôi liền mất đi tri giác.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Muộn Du Bình. Sau khi tỉnh lại, ngoại trừ Quỷ tỷ hắn để lại cho tôi, mọi thứ liên quan đến hắn đều đã biến mất.

Tôi lao đi tìm hắn như phát điên, tìm đến nơi sâu nhất trong khe núi mới biết thì ra trong đó chẳng có con đường nào cả.

Con đường dẫn chúng tôi đến đây lúc trước không ngờ đã đóng lại. Còn nhớ lần trước khi Muộn Du Bình bò qua cái khe này, hắn bỗng dưng biến mất rồi đột ngột xuất hiện ngay trước mắt tôi, có lẽ lúc ấy hắn đi khởi động cơ quan nào đó nên mới có đoạn đường về sau?

Tôi ở đó mòn mỏi đợi chờ ba ngày, đến khi cơn bão tuyết dần dần dịu lại, tôi mới hoàn toàn tuyệt vọng.

Lầm lũi trở về.

Cuối cùng tôi cũng về lại Hàng Châu. Khi dạo bước bên bờ Tây Hồ, trời bỗng đổ cơn mưa lất phất. Tôi nhớ lại tất cả những chuyện đã qua, nghĩ tới kết cục của từng người, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi, mệt mỏi rã rời.

Không hiểu vì sao, nước mắt tôi cứ lã chã tuôn rơi. Tôi trở về cửa hàng của mình mà tưởng như quay về với tháng ngày xa xưa trong dĩ vãng, khi mọi chuyện chưa hề xảy ra.

Tôi cứ ngỡ sau khi mình đã hoàn thành tất cả, vẫn còn một điều gì đó lưu lại, thật không ngờ đã chẳng còn gì nữa.

Nhưng tôi biết mình không thể ngừng chân, mình phải tiếp tục con đường phía trước, bởi vẫn còn đó một lần mười năm.

Chuyện đến đây có lẽ đã hoàn toàn kết thúc, những điều có thể biết tôi đã biết rõ ràng, những gì không thể biết tôi cũng hoàn toàn buông bỏ. Nhưng có một số việc vẫn nên sắp xếp lại để hoàn chỉnh toàn bộ câu chuyện.

Đến bây giờ tôi đã có thể xác định người trong Trương gia quả thực đến từ Quan Đông, bọn họ sống tại khu vực tập trung những người dân tộc thiểu số ở Quan ngoại (vùng đất phía đông Sơn Hải Quan), tất nhiên vào thời đó họ còn chưa phải thiểu số. Về cơ bản, có thể biết, sau khi Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên, dựng lên triều Nguyên, đây cũng chính là thời kỳ mà Trương gia ít hoạt động nhất. Gần như tất cả bọn họ đều ở ẩn, mãi đến tận thời Minh mới bắt đầu hoạt động trở lại.

Nội bộ Trương gia có những điều lệ vô cùng khắt khe, cái tên Trương Khởi Linh không phải ai cũng có thể đặt bừa, mà nhất định phải là người được tộc nhân lựa chọn làm tộc trưởng kế nhiệm mới được mang cái tên này.

Cho nên lúc đó mới có Kế hoạch Trương Khởi Linh, bọn họ muốn tìm ra tộc trưởng đương nhiệm của Trương gia bằng cách này.

Hơn nữa tôi đoán rằng không phải tất cả người trong Trương gia đều mang loại máu kỳ lạ này, đó hẳn là một đặc tính di truyền lặn, thậm chí có thể xem là một loại bệnh. Trong số hiếm hoi những người thuộc Trương gia mang loại máu kỳ lạ này, người nào có dòng máu hiệu lực mạnh nhất mới được làm tộc trưởng. Mà phu nhân của tộc trưởng cũng phải là một cô gái trong tộc có dòng máu tương tự, như thế mới đảm bảo năng lực này được lưu truyền. Đây chính là hôn phối cận huyết, tuy bảo tồn được dòng máu quý giá nhưng cũng đồng thời di truyền lại một chứng bệnh khác, đó là chứng mất trí nhớ.

Từ giữa thời Dân Quốc đã không còn ai tiến vào cổ lâu nữa, điều này cho thấy khi đó Trương gia đã bắt đầu suy yếu một cách nhanh chóng. Nguyên nhân là do xã hội phong kiến Trung Quốc đi đến hồi kết thúc, mấy lần cách mạng đều là cách mạng toàn diện về hình thái ý thức, người của Trương gia dù có tài phú và thực lực đến đâu, dưới sự công kích của luồng tư tưởng mới cũng dần dần sụp đổ từ bên trong.

Cũng chính lúc này, một thế lực nhỏ – cũng chính là gia tộc nhỏ của Trương Đại Phật Gia đã rời khỏi phạm vi khống chế của Trương gia. Những người đó hẳn là bậc cha chú của Trương Đại Phật Gia, bọn họ rời đi cũng không mang theo tin tức gì về gia tộc. Họ vẫn hoạt động tại vùng Đông Bắc nhưng lại vứt bỏ toàn bộ tổ huấn của Trương gia, bắt đầu mở rộng buôn bán, dần dần trở thành thương nhân. Về sau người Nhật Bản xâm lược Đông Bắc, thế hệ trước Trương Đại Phật Gia đã chết gần hết trong thời kỳ kháng Nhật ở địa phương, vì thế Trương Đại Phật Gia mang theo người trong tộc bỏ trốn đến Trường Sa. Thời bấy giờ, có lẽ cũng vì đại bản doanh của dân trộm mộ vùng Quan nội (chỉ miền tây Sơn Hải Quan) đặt ở Trường Sa nên Trương Đại phật gia mới chạy đến đó.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 83

Sau khi đến Trường Sa, Trương Đại Phật Gia nhanh chóng khuếch trương thế lực, một mặt tích cực kháng Nhật, mặt khác mở rộng quan hệ với những hào kiệt ở địa phương. Năm ấy Trung Quốc đang ở vào thời kì rối ren nhất, nhưng cũng là những năm tháng huyền thoại với tầng tầng lớp lớp anh hùng xuất thế, dần dần Lão Cửu Môn được hình thành. Trong đó, nhờ vào mối quan hệ cùng kháng Nhật với Trương Đại Phật Gia, Thượng Tam Môn dần dần ngả về phía quân đội. Sau khi kháng chiến chống Nhật thắng lợi, Trương Đại Phật Gia bước chân vào chính trường, nhờ vào hoàn cảnh của mình, ông ta đứng đầu cả một cơ quan chuyên biệt, đồng thời, ông ta cũng một mực muốn tìm ra bí mật trường thọ của gia tộc mình.

Tuy Trương Đại Phật Gia hoàn toàn không biết tộc Trương gia gốc ở đâu, nhưng bậc cha chú của ông ta thì thế nào cũng còn lưu giữ lại một chút ấn tượng trong trí nhớ. Hơn nữa, trong các thư tịch của Trương gia cũng ghi chép lại ít nhiều, bởi vậy ông ta biết được mọi bí mật mà tổ tiên mình sở hữu đều nằm trong cổ lâu của Trương gia – một mộ huyệt tập thể, nơi mai táng những người thuộc Trương gia.

Ông ta cần phải tìm được Trương gia cổ lâu.

Trước tiên, ông ta bắt đầu vạch ra kế hoạch Trương Khởi Linh, ra sức tìm kiếm vị tộc trưởng hoàn toàn không rõ tung tích kia của Trương gia giữa chiến tranh loạn lạc.

Rất nhiều người trùng tên trùng họ với Trương Khởi Linh được đưa đến, nhưng tìm mãi vẫn không thấy chính chủ. Lão Cửu Môn đương nhiệm cũng phải đứng dưới sự quản chế của Trương Đại Phật Gia, vừa để bảo vệ vừa để giám sát. Cuối cùng, đến những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi, họ cũng tìm được Trương Khởi Linh. Dưới sự dẫn dắt của người này, Lão Cửu Môn đã hợp tác tiến hành một cuộc đổ đấu lớn nhất trong lịch sử, nhưng lại tổn thất nặng nề.

Lần đổ đấu đó đã dẫn đến hai hậu quả.

Đầu tiên, địa vị của Trương Khởi Linh đã bị nghi ngờ gay gắt, toàn bộ tổ chức chia ra làm hai phe phái. Phe thứ nhất, bao gồm những người khôn ngoan sắc bén nhất trong Lão Cửu Môn, tiêu biểu là Hoắc lão thái, do được Trương Khởi Linh cứu giúp nên nhóm này ra sức ủng hộ Trương Khởi Linh, thậm chí tôn thờ cúng bái Trương Khởi Linh như thánh thần. Điều này khiến sự quản chế của gia tộc Trương Đại Phật Gia trở nên hết sức gượng gạo. Phe còn lại bao gồm những người muốn đổ hết trách nhiệm của vụ đổ đấu thất bại này lên đầu Trương Khởi Linh. Mà ngay trong gia tộc Trương Đại Phật Gia cũng lại chia ra thành hai phe phái nhỏ. Phe của Trương Khởi Linh phải đối mặt với nguy cơ bị thanh trừ, mà phe thứ hai, do có quan hệ chặt chẽ với các cấp trên nên thế lực ngày một hùng mạnh. Cuối cùng, đôi bên cấu xé đấu đá nhau cực kỳ gay gắt.

Ông nội tôi bắt đầu nảy sinh ý định muốn rút lui ngày càng mãnh liệt. Ông không muốn tiếp tục chứng kiến mọi người bỏ mạng vì những chuyện vô nghĩa này nữa, không muốn thấy biết bao anh hùng hào kiệt năm nào chỉ vì đi theo Trương Đại Phật Gia mà chết oan chết uổng. Cho nên, ông vẫn một mực đứng về phe Trương Khởi Linh. Về phần Trương Khởi Linh, sau lần đổ đấu kia đã bị trọng thương, khi tỉnh lại thì hoàn toàn mất đi ký ức.

Ông nội tôi thu xếp cho ba đứa con trai của mình thật ổn thỏa. Ông biết thế hệ kế tiếp của mình nhất định không thể nào trốn thoát, nhưng nhờ sự cơ trí, ông đã thấy được cơ hội để phát triển. Ông mong muốn đến đời tôi là Ngô gia có thể hoàn toàn thoát ra khỏi cái giới này, vì vậy ông đã thiết kế sẵn cả cuộc đời của bố tôi, chú Hai và chú Ba.

Ông sắp xếp mọi việc vô cùng khéo léo, tất cả đều căn cứ vào sự khác biệt trong tính cách của ba người con trai. Ông đã chọn chú Hai, người khôn ngoan và có sở trường nhất về tâm kế làm người nối nghiệp mình; hy vọng bố tôi và với đứa cứng đầu cứng cổ khó quản thúc nhất là chú Ba hoàn toàn thoát khỏi vòng kìm kẹp của tổ chức.

Nhưng ông không ngờ, sự xuất chúng của chú Ba đã vượt ra khỏi tầm khống chế của ông. Tức là, chú Ba không chỉ trở thành kẻ trộm mộ với tài nghệ xuất sắc nhất, kẻ hào sảng phóng khoáng nhất trong ba anh em, mà còn trở thành một trong những nhân tài kiệt xuất được cấp trên coi trọng nhất.

Kết quả, chú Hai lại biến thành nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao.

Đời thứ hai của Lão Cửu Môn, nhân vật đại diện cho Ngô gia là Ngô Tam Tỉnh. Lúc đó chú Ba không hề biết đó chẳng phải là chuyện vẻ vang gì. Đương nhiên cấp trên cũng không biết chú Ba không phải kẻ dễ chọc.

Tất cả các gia tộc khác đều có quyết định của riêng mình. Hoắc gia do có quan hệ thông gia với cấp trên, nên vẫn một mực đứng về phe Trương Khởi Linh. Gia tộc này chỉ do phụ nữ đứng đầu, có một thời gian Hoắc Tiên Cô đã dốc toàn bộ sức lực và khả năng để bảo vệ tính mạng của Trương Khởi Linh.

Về phần Giải gia, Giải Cửu Gia chính là người nhìn nhận thấu suốt nhất cái thế cục hỗn loạn này. Ông ta hiểu rõ chạy trốn giống như ông nội tôi hay gầm ghè vật lộn giống như Hoắc Tiên Cô đều không thể giải quyết được vấn đề. Cứ như vậy mãi thì cuối cùng Lão Cửu Môn nhất định sẽ bị hủy diệt hoàn toàn, ông ta đã thấy rất nhiều ví dụ tương tự trong lịch sử rồi.

Sau khi thông suốt điểm này, Giải Cửu Gia liền bắt tay hạ một ván cờ cực kỳ cực kỳ hiểm độc.

Ông ta tìm đến đứa con trai của mình, hạ xuống quân cờ đầu tiên.

Sự phản kích của Lão Cửu Môn đã bắt đầu đúng như mưu tính của Giải Cửu Gia.

Công tác khảo cổ Trương gia cổ lâu sau này do đời thứ hai của Lão Cửu Môn lần đầu hợp tác. Bọn họ cũng không biết, lần thám hiểm này nguy hiểm đến thế nào. Ngoại trừ mấy nhân vật chủ chốt, những người còn lại đều không hay biết lần đó vốn không phải khảo cổ, mà thực ra chỉ là một cuộc đưa tang. Nghiên cứu khảo cổ về Trương gia cổ lâu đã hoàn thành từ năm 1970 rồi, làm được điều này đều nhờ vào số tài liệu khổng lồ do lần khảo cổ lớn nhất trong lịch sử năm đó thu về. (Đa số tài liệu đều là thành quả thu hoạch của lão Răng Vàng – Kim Vạn Đường)

Xưa nay chưa từng có lực lượng nào hùng hậu đến thế, đội ngũ này do gia tộc Trương Đại phật gia khi ấy đang đắc thế chỉ huy nhằm hoàn thành toàn bộ hoạt động thăm dò khảo cổ. Nhưng sau khi bước vào Trương gia cổ lâu, cả đội đã bị tiêu diệt toàn bộ.

Vì thế, cấp trên mới bắt đầu sử dụng đến những người thuộc thế hệ thứ hai của Lão Cửu Môn đã lộ diện. Một đội đã bị Bàn Mã giết hại, lúc ấy chỉ có vài người xuống dưới lòng đất khảo sát là may mắn thoát nạn, thế nhưng khi bọn họ trở lại mặt đất, đội của Giải Cửu Gia đã thay thế tất cả.

Đội ngũ này hoàn toàn không chấp hành bất cứ nhiệm vụ bất kỳ nào, bọn họ thiêu hủy quan tài cần phải hạ táng, dùng nước thép bọc kín thi thể lại, hủy luôn toàn bộ số tài liệu rồi mang thi thể bỏ trốn. Tổ chức bắt đầu phát hiện có điểm khác thường, liền truy nã bọn họ khắp trời Nam đất Bắc.

Bọn họ trốn đến Hàng Châu khi cuộc truy đuổi đã đến lúc gay gắt nhất, đành bất đắc dĩ xin nương nhờ chỗ ông nội tôi.

Mà lúc đó, chú Ba tôi đang lấy cớ xây sửa cửa hàng để ngấm ngầm thăm dò một hoàng lăng bí mật triều Nam Tống nằm sâu dưới lòng đất Hàng Châu. Ông nội tôi bèn dùng chiêu ‘Ve sầu thoát xác’, giấu luôn thi thể vào hoàng lăng kia.

Còn người của Giải Cửu Gia thì chia thành từng tốp nhỏ, trà trộn vào trong nội bộ của tổ chức, bắt đầu mục tiêu phá hủy phần lớn các tài liệu liên quan, giết chết hoặc thay thế các nhân viên chủ chốt. Cũng trong thời gian đó, Hoắc lão thái bắt đầu phát hiện con gái mình có điểm gì đó bất thường.

Cùng lúc đó, một mục tiêu khác của Giải Cửu Gia chính là đưa Trương Khởi Linh đi. Vào thời ấy chỉ có một trại an dưỡng tên Cách Nhĩ Mộc là không kẻ nào có thể chấm mút được gì, toàn bộ tư liệu cũng như nhân vật chủ chốt đều nằm trong đó.

Nghiên cứu vẫn được tiếp tục, đội khảo cổ giả nhận chỉ thị của đoàn khảo cổ Hoàng Sa, đến Hoàng Sa trước. Khi đội khảo cổ ở đó đang sắp xếp lại trang bị, Hoắc Linh và Văn Cẩm thật sử dụng mật lệnh giả, điều Hoắc Linh và Văn Cẩm giả đến núi Trường Bạch, còn bản thân thì trà trộn vào đội khảo cổ giả. Để thêm người giúp đỡ, Văn Cẩm đã đến tìm chú Ba. Mà cũng chính vào lúc đó, gián điệp của Giải Cửu Gia đã thành công đưa được Trương Khởi Linh ra khỏi trại an dưỡng.

Trong khi đó, để có thêm nhiều sự hỗ trợ, Giải Liên Hoàn đã liên hệ với Cầu Đức Khảo. Cầu Đức Khảo có tay trong, trực tiếp lấy tài liệu về cổ mộ Hoàng Sa trợ giúp cho Giải Liên Hoàn.

Đó là lần đầu tiên chú Ba tham gia vào vụ việc. Lúc đó, Giải Cửu Gia đã qua đời, Giải Liên Hoàn phát hiện đội ngũ của mình có vấn đề, nhưng nhất thời ông ta không đoán ra được vấn đề ở chỗ người đánh tráo đã bị đánh tráo trở lại, chuyện này thật sự rất kỳ quặc, khó mà hiểu nổi. Giải Liên Hoàn khác Giải Cửu Gia ở chỗ ông ta không tuyệt tình được như cha mình, không thể hi sinh mọi thứ vì mục đích cuối cùng. Đau đầu vì sự xuất hiện của Ngô Tam Tỉnh, ông ta cũng trà trộn vào trong đội ngũ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 05 Dec 2019

Chương 84

Khi ấy, kế hoạch của Giải Liên Hoàn hẳn là chiếu theo suy nghĩ của Giải Cửu Gia, tìm một người thay thế cho Ngô Tam Tỉnh, cho nên trước đó ông ta đã mang theo một con thuyền, bám theo đoàn thuyền của đội khảo cổ từ xa. Trên thuyền ông ta chuẩn bị sẵn một kẻ thay thế cho Ngô Tam Tỉnh, người này nhất định là do Giải Cửu Gia sắp xếp chu toàn từ rất lâu trước đó.

Ngô Tam Tỉnh hoàn toàn không bị khống chế, về sau liền xảy ra tất cả những chuyện mà chú Ba đã kể lại. Chuyện xảy ra giữa Giải Liên Hoàn và chú Ba ở dưới đáy biển hoàn toàn là lời bốc phét, bởi vì đó là lần đầu tiên họ chạm mặt trong hoàn cảnh không có bất kì kẻ nào theo dõi.

Trong cổ mộ, giữa hai người đã xảy ra một trận giao chiến rất ác liệt. Khi đó chú Ba đã hoàn toàn phát điên, thân thủ, sự quyết đoán, thận trọng và tàn nhẫn đã bù đắp cho bản tính lỗ mãng ngày thường của chú. Kẻ đứng trong bóng tối định tập kích chú Ba đã bị giết chết ngay trong nháy mắt.

Có lẽ là vì bị chú Ba ép hỏi, hoặc là gặp thời cơ thuận lợi, Giải Liên Hoàn đã nói trắng ra toàn bộ kế hoạch.

Cho nên, trong ngôi mộ dưới đáy biển đó, hai người đã bắt tay hợp mưu với nhau. Bản thân Giải Cửu Gia đã khiến cả cái tổ chức đó khốn đốn một phen, nhưng sự gia nhập của chú Ba đã thay đổi kế hoạch mà Giải Liên Hoa kế thừa từ Giải Cửu Gia.

Tính quyết đoán của chú Ba vừa khéo bù đắp cho khuyết điểm của Giải Liên Hoàn, thêm vào đó bản thân chú vốn rất cẩn thận nên hai người bọn họ đã bắt tay vào một kế hoạch mạo hiểm và chóng vánh nhằm hoàn toàn hủy diệt đầu não của tổ chức, cũng chính là hậu duệ của Trương Đại Phật Gia.

Điểm quan trọng nhất trong kế hoạch này chính là bọn họ phải tìm được trại an dưỡng nọ. Bởi vậy, Giải Liên Hoàn bèn đeo mặt nạ chú Ba, diễn một vở kịch Song hoàng (Một loại hình kịch nghệ cổ của Trung Quốc do hai người phối hợp diễn xuất. Một người biểu diễn động tác, một người đứng sau màn hát hoặc nói).

Trong ngôi mộ dưới đáy biển, chú Ba đã dùng hương Cấm Bà gây mê mọi người, sau đó lấy thuyền của Giải gia đưa họ cập bờ, trả về cho tổ chức.

Hương Cấm Bà là một loại thuốc hết sức đặc biệt, thời gian mê man khá dài. Giải Liên Hoàn đóng vai người đầu tiên tỉnh lại, thêu dệt một câu chuyện li kì rồi chuyển bọn họ đến trại an dưỡng. Sau đó, Giải Liên Hoàn cùng với chú Ba nội ứng ngoại hợp, đồng thời sử dụng mưu kế chặt đứt mối dây liên hệ giữa trại an dưỡng và tổ chức.

Cùng lúc đó, một đội ngũ khác bị lừa đến núi Trường Bạch, không ngoài dự đoán đã gặp nạn ở Vân Đỉnh Thiên Cung. Đống thây khô chúng tôi trông thấy trong vòng lặp vô hạn chính là thi thể của nhóm người này. Căn cứ vào số lượng thi thể kết hợp với câu chuyện của Thuận Tử, có thể suy ra những người lên núi năm đó không phải đều đã chết hết. Tôi nghĩ những kẻ có thể giả mạo Trần Văn Cẩm và Hoắc Linh hẳn phải có chút bản lĩnh, không rõ hai cô gái ấy có chạy thoát khỏi tay hai kẻ kia không.

Nhưng đúng vào lúc này, tình hình đã phát sinh biến đổi. Lúc này cả đội chia ra làm ba nhóm, một nhóm là mấy người Trần Văn Cẩm sau khi đã chạy trốn, một nhóm là chú Ba và Giải Liên Hoàn, nhóm còn lại là Muộn Du Bình.

Chú Ba thật luôn muốn tìm kiếm đám người Giải Liên Hoàn và Trần Văn Cẩm. Mà nhóm Trần Văn Cẩm sau khi trốn ra khỏi trại an dưỡng đã không thể tin tưởng bất kì ai nữa. Hiển nhiên cả Giải Liên Hoàn lẫn Ngô Tam Tỉnh đều không đáng tin, hai người đó sẵn sàng hi sinh những người khác vì mục đích của mình, mà tổ chức thì càng tuyệt đối không thể tin. Để lẩn trốn cuộc truy bắt và tìm kiếm chân tướng sự việc, bọn họ đã bắt đầu thám hiểm Cách Nhĩ Mộc, hơn nữa còn làm ra những cuộn băng ghi hình, mục đích là để cảnh báo đời thứ ba.

Tôi nghĩ tới đây, cảm thấy lòng mình tràn đầy ấm áp. Trong thế cục hỗn loạn này, những kẻ khác đều vì công danh lợi lộc của riêng mình, bất chấp đôi tay vấy máu. Duy chỉ có đội ngũ do hai cô gái này dẫn đầu dù ở vào cảnh khốn cùng đến thế nào cũng vẫn luôn nghĩ đến chuyện tìm hiểu bí mật và bảo vệ người khác.

Mà chú Ba và Giải Liên Hoàn vẫn cố thủ ở Hàng Châu, tìm kiếm tung tích của những người kia ở khắp mọi nơi. Tôi tin chú Ba chấp nhất như thế thực sự là vì tình cảm đối với Trần Văn Cẩm. Nhưng không thể phủ nhận rằng hoàn toàn có khả năng Giải Liên Hoàn muốn thủ tiêu luôn bọn họ để trừ hậu hoạ. Lần đó Văn Cẩm gặp tôi có nhắc cho tôi biết chú Ba là giả, cũng chính vì nguyên nhân này.

Lúc này, công cuộc truy lùng Giải Liên Hoàn diễn ra trong bí mật đã trở nên căng thẳng trương hơn bao giờ hết. Cuối cùng Giải Liên Hoàn cũng tới Hàng Châu, chui xuống bên dưới cửa hàng của chú Ba để trông chừng cỗ quan tài gỗ kia, đợi ngày đó tới. Cũng từ ngày đó trở đi, chú Ba mà tôi gặp thật ra là hai người khác nhau, chẳng qua lúc ấy tôi thật sự không ngờ trên thế gian này lại có kỹ thuật làm mặt nạ da người hoàn hảo đến vậy. Vả lại hai người kia cũng có vô số điểm giống nhau, cho nên thật sự rất khó phân biệt.

Trong thời gian này, tôi luôn cảm thấy chú Ba xuất quỷ nhập thần, thì ra là do có hai chú Ba liền. Cả hai chú Ba đều hết sức quen thuộc với tất cả mọi thứ, có điều tính cách hơi khác biệt, khi bọn họ cùng làm một việc thì mỗi người lại có cách riêng của mình, cũng để lại những manh mối khác nhau. Những manh mối này đan xen lẫn lộn khiến cho sự việc càng thêm phức tạp kì quái.

Tôi không sao phân biệt nổi người đối diện tôi khi nào là Ngô Tam Tỉnh, khi nào lại là Giải Liên Hoàn. Nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng, không chỉ một lần tôi cảm thấy tính cách chú Ba thay đổi. Nhưng không quan trọng, bọn họ cứ như anh em song sinh vậy, vì một mục đích chung mà không ngừng cố gắng.

Lại nói đến Trần Văn Cẩm và Hoắc Linh, lúc này họ đã đưa người của mình đến Cách Nhĩ Mộc điều tra được một thời gian. Thân thể của họ vì ăn nhầm đan dược mà xảy ra rất nhiều biến đổi. Hoắc Linh biến đổi rất nhanh, thần trí bắt đầu mơ hồ, trí nhớ dần dần giảm sút. Bọn họ đành phải lấy trại an dưỡng bỏ hoang làm nơi theo dõi tình trạng của Hoắc Linh.

Mà Muộn Du Bình cũng có mục đích của riêng mình, hắn trở lại Trương gia cổ lâu. Tiếc là sau đó, căn bệnh mất trí nhớ bẩm sinh của hắn lại phát tác, về sau hắn bị người ta đem thả vào trong cổ mộ làm mồi câu xác, rồi được Trần Bì A Tứ cứu, một lần nữa trở về với mọi người. Nhưng lúc này thế lực của tổ chức đã chẳng còn như xưa, gần như trở thành hữu danh vô thực, không thể khống chế chặt chẽ cục diện như trước nữa.

Lúc ấy chú Ba và Giải Liên Hoàn cảm thấy mọi chuyện hết sức kỳ quặc, bọn họ lấy ra từ cổ mộ bên dưới cửa hàng chú Ba một chiến lợi phẩm có được từ Trương gia cổ lâu – Hắc kim cổ đao, dùng để dò xét Muộn Du Bình. Cùng lúc đó, Cầu Đức Khảo không cam lòng làm một kẻ đầu tư bị lừa gạt nữa, bắt đầu chính thức nhúng tay vào vụ này. Do đó mới có chuyện Cầu Đức Khảo mang theo tất cả tài liệu mà Kim Vạn Đường thu thập được đến cửa hàng tìm tôi.

Ngay sau khi thấy sách lụa Chiến quốc, chú Ba lập tức hiểu ra Cầu Đức Khảo hiện giờ là mối họa lớn cần phải chế ngự, vì thế mới tổ chức chuyến thám hiểm đầu tiên đến Thất Tinh Lỗ Vương Cung. Thật không ngờ, mọi chuyện từ đó về sau đã không thể quay đầu được nữa.

Đạo Mộ Bút Ký _ Hết

Đạo mộ bút ký kết thúc ở đây _ Mời tham khảo thêm phần ... Chung Cực giải Mê Để hiểu rõ hơn phần Đại Kết Cục .
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 06 Dec 2019

Đạo Mộ Bút Ký…..Chung Cực Giả Mê

Image

Tác giả: Noãn Hòa Hồ Ly Bắc Kinh

Người dịch: Tích Vũ


Lời dẫn

Đọc hết “Đạo Mộ Bút Ký”, vì cảm thấy còn quá nhiều điều nghi vấn, tình cờ phát hiện ra “Chung Cực Giải Mê” này, dù không hoàn toàn đồng ý với tất cả những luận điểm của Noãn Hòa Hồ Ly Bắc Kinh, nhưng hầu hết những gì được đề cập và phân tích đều khá công phu và hợp lý, giúp cho những người còn chìm trong “cơn mê” với Đạo Mộ Bút Ký có thể “vỡ” ra nhiều điều.

Cho nên…. Tôi mạn phép dịch và chia sẻ bài viết này, hi vọng độc giả Đạo Mộ Bút Ký có thể cùng suy ngẫm và chia sẻ quan điểm để “giải mê”.

Phần 1: Mối liên hệ giữa nền văn minh thanh đồng thời tiền sử, Xi Vưu, Quảng Tây, Muộn Du Bình

Đạo Mộ bút ký còn quá nhiều điều chưa sáng tỏ, thân thế của Muộn Du Bình rốt cuộc là gì, người giống Ngô Tà như đúc rốt cuộc là ai, chú Ba thật sự ở đâu?…

Một điểm “Chung cực” – ba sợi dây mê.

Chung cực: Cánh cửa Thanh đồng dưới nền núi Trường Bạch, chứa đựng nền văn minh thị tộc Phục Hy, khởi đầu của nền văn minh Trung Hoa.

Ba sợi dây mê:

Sợi thứ nhất: Sợi dây mê nối dài nền văn minh thanh đồng thời tiền sử, Xi Vưu, Quảng Tây, Muộn Du Bình.

Sợi thứ hai: Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Sự phát triển bí mật trường sinh bất lão thời cổ đại.

Sợi thứ ba: Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Cuộc chạy đua giữa các thế lực thời hiện đại để tìm ra bí mật trường sinh bất lão.

Núi Trường Bạch là khởi nguồn của nền văn minh Trung Hoa, cũng chính là Chung Cực.

Khởi điểm của nền văn minh Trung Hoa là “người đứng đầu Tam Hoàng”, cũng chính là Phục Hy! Phục Hy là thủ lĩnh của bộ lạc Đông Di, khảo cổ học hiện đại cho rằng khởi nguồn của bộ lạc Đông Di là nền văn hóa Hồng Sơn (một nền văn hóa thời đại đồ đá mới được phát hiện ở đông bắc Trung Quốc), mà đông bắc rất có thể là khởi nguồn xa xưa nhất của lịch sử, như vậy Vân Đỉnh Thiên Cung chính là khởi điểm của toàn bộ Chung Cực.

Văn minh Trung Hoa sau đó phân làm ba nhánh chính: Viêm Hoàng, Xi Vưu và Tây Vương Mẫu. Thật ra cả ba đều là hậu duệ của Phục Hy.

Nhánh của Viêm Hoàng trải qua chiến tranh mà hợp nhất, trở thành nhánh “chính tông” nhất: tổ tiên của Trung Hoa.

Một nhánh dời về phía Tây, sống theo chế độ thị tộc mẫu hệ, cũng chính là nhánh của Tây Vương Mẫu.

Còn Xi Vưu vốn ở vùng Hà Bắc, sau khi thất bại trong cuộc chiến với Hoàng Đế, một bộ phận đã sáp nhập vào bộ lạc Viêm Hoàng, một bộ phận khác đi về phía Nam, xuống vùng Hồ Nam, trở thành tộc Mèo, tộc Dao, sau đó lại di chuyển tiếp xuống phía Nam đến vùng Quảng Tây, Vân Nam v.v…

Nhưng khởi nguồn và tổ tiên của họ đều là Phục Hy!

Bí mật trường sinh bất lão vốn bắt đầu từ Phục Hy, còn Tây Vương Mẫu chỉ là phát triển tiếp thuật này thôi.

Vào thời Phục Hy, dường như tuổi thọ của con người đều rất cao, Phục Hy được ghi nhận hưởng thọ 1100 tuổi.

Như vậy có thể thấy được bộ lạc Phục Hy có thuật trường sinh bất lão.

Bây giờ chúng ta cùng xem xét đồ đằng (vật thể tự nhiên – đặc biệt là động vật, được xem như biểu tượng của một quốc gia hoặc bộ tộc) của các bộ lạc: Long (rồng), xà (rắn), điểu (chim) và trùng (sâu).

Bộ lạc Viêm Hoàng kế thừa Long đồ đằng.

Bộ lạc Xi Vưu kế thừa Xà đồ đằng.

Tây Vương Mẫu hẳn là bộ tộc kế thừa đầy đủ nhất đồ đằng của Phục Hy, bao gồm: Xà, điểu, trùng (bọ ăn xác chết), hay có thể nói, Tây Vương Mẫu mới là hậu duệ chính tông của Phục Hy.

Đồng thời, các bộ lạc cũng tự mình phát triển thêm.

Bộ tộc Tây Vương Mẫu là nền văn hóa ngọc.

Bộ tộc Xi Vưu là nền văn hóa thanh đồng.

Mà khởi nguồn của tất cả, chính là núi Trường Bạch.

Sợi dây mê thứ nhất: Sợi dây mê nối dài nền văn minh thanh đồng thời tiền sử, Xi Vưu, Quảng Tây, Muộn Du Bình.

Căn cứ theo lịch sử truyền lại, thời kỳ đồ đồng của Trung Hoa bắt đầu từ triều Hạ, sau đó phát triển rực rỡ nhất vào thời Thương Chu, nhưng khảo cổ học hiện đại đã phủ nhận quan điểm này, từ thời viễn cổ xa xôi, Trung Hoa đã xuất hiện nền văn minh thanh đồng ở trình độ cao, di chỉ Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên đã chỉ rõ điều này…..(Di chỉ Tam Tinh Đôi nằm trong địa phận thành phố Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa là di chỉ vương quốc Nước Thục cách đây khoảng 3000 đến 5000 năm )

Năm 1986, các nhà khảo cổ khai quật ra hai hầm làm lễ tế rất quy mô, hơn 1000 văn vật quý đẹp tuyệt vời và làm rung động cả thế giới cổ vật. Cùng với việc khai quật ra hàng loaṭ văn vật quý hiếm tinh xảo và mang tính chất thần bí, những điều bí ẩn của lịch sử cũng lần lượt xuất hiện. Hiện nay, bảo tàng Tam Tinh Đôi tỉnh Tứ Xuyên là bảo tàng thu hút du khách với bộ sưu tập đồng đen hiếm có của nước Thục xưa, là nơi nghiên cứu của các nhà khoa học.)

Có ý kiến cho rằng, Xi Vưu là người sáng lập ra nền văn hóa thanh đồng thời tiền sử, mà Tam Tinh Đôi chính là do hậu duệ của Xi Vưu xây dựng lên. Cây Thanh đồng và cửa Thanh đồng mà Tam Thúc viết trong Đạo Mộ hiển nhiên đều bị ảnh hưởng bởi bí ẩn Tam Tinh Đôi (ở di chỉ Tam Tinh Đôi cũng đã khai quật được một cây Thanh đồng rất lớn).

Như vậy, chúng ta có thể suy đoán:

1, Xi Vưu là người sáng tạo ra dụng cụ Thanh đồng cực lớn thời cổ đại, cây Thanh đồng ở Tần Lĩnh hay những gì bộ lạc Xi Vưu xây dựng nên đều vì mục đích cúng tế! Khi ấy người ta tin rằng đại thụ này có thể nối thẳng tới trời.

2, Loại thanh đồng này không phải đồng thau thông thường, mà có tác dụng mê hoặc tâm trí rất lớn, thời viễn cổ của loài người, lúc cúng tế thầy tế sẽ dùng cách gây ảo giác, các dân tộc đều có ghi chép lại điều này, chìm trong ảo giác mới có thể liên hệ với thần linh. Trong phần Tần Lĩnh Thần Thụ, chúng ta có thể nhìn thấy công dụng cúng tế của loại cây này, hơn nữa còn có dấu vết của vu cổ (loại sâu có thể khống chế tri giác), mà vu cổ của tộc Mèo chính là do Xi Vưu truyền lại.

3, Loại thanh đồng đặc biệt này có tác dụng mê hoặc rất lớn đối với con người nên mới được dùng để đúc nên cây cúng tế.

Hoặc có thể nói rằng, đây là một loại “thuốc phiện kim loại”, đồng thời còn có thể khiến người ta mất trí nhớ! Ở thời đại Xi Vưu, thầy tế đã thông qua loại cây thanh đồng này để gây ảo giác cho mọi người trong bộ lạc lúc cúng tế.

4, Các loại thanh đồng được đề cập trong Đạo Mộ Bút Ký đều là loại thanh đồng này.

Chuông thanh đồng buộc trên đuôi bọ ăn xác ở Lỗ Vương cung và đeo trên tai lão Dương đều có thể gây ảo giác nhẹ đối với người khác.

Thứ này cũng chính là chuông thanh đồng được treo đầy cây san hô khiến cho nhóm người của Muộn Du Bình mất đi tri giác trong con đường bí mật ở mộ thất dưới đáy biển.

5, Chỉ có hậu duệ Xi Vưu mới nắm giữ được bí mật thanh đồng này, nó có thể khống chế và xóa đi ký ức của con người.

Trong phần “Âm Sơn Cổ Lâu”, “cục sắt” mà đội khảo cổ hai mươi năm trước phát hiện ra hiển nhiên cũng là loại thanh đồng này.

Như vậy, người Mèo và người Dao – hậu duệ của Xi Vưu – nhất định đã giấu loại thanh đồng cổ xưa này ở Quảng Tây, ngôi làng chìm dưới đáy hồ nhất định là nơi cư trú của hậu duệ Xi Vưu.

6, Như vậy thân thế của Muộn Du Bình còn có một khả năng khác, tôi vẫn nhận định Trương Diêm Thành, Bàn Mã, thủ lĩnh tộc Mèo và Muộn Du Bình là người cùng tộc, đều lấy hình xăm kỳ lân làm dấu hiệu nhận biết, đều là hậu duệ Xi Vưu, là những người biết rõ và bảo vệ bí mật thanh đồng cổ đại.

7, “Cục sắt” mà Bàn Mã cất giữ, “vật nguy hiểm” dưới gầm giường trong căn nhà tre của Muộn Du Bình, đều là thứ này, thế nhưng Muộn Du Bình hẳn biết sự nguy hiểm của vật này, vì sao vẫn để nó làm mình mất trí nhớ? Có thể vì sứ mệnh nào đó hoặc thu được năng lực nào đó, Muộn Du Bình không thể không tiếp xúc nhiều lần với vật này.

8, Phần “Tần Lĩnh Thần Thụ” đã giải thích rõ năng lực gây ảo giác của loại thanh đồng này, nó có thể tạo ra ý thức của con người, có thể chi phối ý nghĩ của người khác, nhưng tác dụng phụ chính là khiến người ta mất trí nhớ.

9, Về phần tác dụng trường sinh, có vẻ cách thức sử dụng chính là xóa đi ký ức của một người, rồi đưa trí nhớ của một người khác vào thay thế, biến người trước thành người sau.

Hãy dùng thân phận hậu duệ Xi Vưu chiếu vào biểu hiện của Muộn Du Bình ở Lỗ Vương cung và Vân Đỉnh thiên cung.

1, Thiết Diện Sinh là một đầu mối quan trọng trong truyện, hắn là người thứ hai sau Uông Tàng Hải hiểu rõ toàn bộ những bí mật này! Thiết Diện Sinh nhất định không thể bị Muộn Du Bình bóp chết một cách đơn giản như vậy.

2, Ngôi mộ huyết thi ở Trường Sa rốt cuộc là mộ của ai? Bởi vì đó là mộ thời Chiến Quốc, phán đoán theo thời đại, hiển nhiên phải là mộ của một trong ba huyết thi ở Lỗ Vương cung! Lỗ Thương Vương, Thiết Diện Sinh hay Chu Mục Vương, khả năng cao nhất là ai? Mọi người đều biết, bộ sách lụa Chiến Quốc do ông nội của Ngô Tà lấy ra từ ngôi mộ huyết thi ở Trường Sa là do Thiết Diện Sinh tự tay ghi chép! Một người đặt bản chép tay của mình trong ngôi mộ của chính mình chẳng phải rất hợp lý sao? Như vậy khả năng lớn nhất là ngôi mộ huyết thi ở Trường Sa là của Thiết Diện Sinh.

3, Như vậy, hai khối huyết thi còn lại trong Lỗ Vương cung sẽ là Chu Mục Vương và Lỗ Thương Vương! Chu Mục Vương là cái xác trong quan tài sắt bị Muộn Du Bình chặt đầu, Lỗ Thương Vương là cái xác bị Muộn Du Bình bóp chết.

4, Hiển nhiên Muộn Du Bình đã nói dối nhóm Ngô Tà, tại sao cậu ta lại nói sạo chuyện về ba khối huyết thi? Điều này cho thấy trong số ba huyết thi chắc chắn có một khối có quan hệ chặt chẽ với cậu ta, cậu ta đang che giấu điều gì đó cho một trong ba cái xác đó.

5, Còn nữa, sao Muộn Du Bình lại biết chuyện của Lỗ Thương Vương và Thiết Diện Sinh? Sách lụa của Thiết Diện Sinh bị Ngô gia đánh cắp, lại bị Cầu Đức Khảo lừa qua Mỹ, chắc chắn tiểu Muộn không thể đọc được, tiểu Muộn nói cậu ấy tìm được bốn quyển sách lụa trong một ngôi mộ thời Tống, đây hiển nhiên là nói dối, nếu như loại sách lụa này ở đâu cũng có thì Cầu Đức Khảo đâu thể xem nó là bảo bối mà giữ gìn đến thế.

Như vậy tiểu Muộn chắc chắn phải là hậu nhân của Lỗ Thương Vương hoặc Thiết Diện Sinh thì mới có thể biết được những bí mật đó! So với Lỗ Thương Vương, rõ ràng Thiết Diện Sinh biết nhiều chuyện hơn, như vậy tiểu Muộn có thể là hậu duệ của Thiết Diện Sinh!

7, Thiết Diện Sinh khẳng định cũng là hậu duệ của Xi Vưu. Sơn Đông vốn là một trong các địa bàn cư trú của bộ lạc Đông Di, Thiết Diện Sinh vốn biết một vài bí mật xa xưa của thời đại Xi Vưu, hơn nữa, hắn cũng là một người rất có bản lĩnh, tinh thông dịch thuật, phong thủy, rốt cuộc trở thành chuyên gia đổ đấu, nếu không phải là hậu duệ Xi Vưu thì không thể nào giải thích được việc mấy nghìn năm qua chỉ có hắn và Uông Tàng Hải biết được bí mật to lớn kia!

7, Thiết Diện Sinh xây mộ mình ở Trường Sa, cũng cho thấy hắn có quan hệ với người Mèohậu duệ Xi Vưu, bởi vì thời đó các tộc người Cửu Lê và Tam Miêu đều cư ngụ ở Trường Sa! Trường Sa khi đó là một khu vực rất hoang sơ.

8, Vậy thì vì sao Thiết Diện Sinh không mặc áo ngọc để được trường sinh, khi mà hắn hoàn toàn có thể làm vậy? Đáp án chính là bởi vì hắn biết áo ngọc căn bản không có khả năng giúp con người trường sinh, khi nhóm người Ngô Tà tiến vào Lỗ Vương cung thì đã hơn hai ngàn năm trôi qua, Lỗ Thương Vương đã “lột da” ở đây, tuy rằng không chết, nhưng hai nghìn năm sau không thể sống lại, kiểu “trường sinh” này nhất định là có vấn đề. Nhất định có trục trặc! Thiết Diện Sinh hẳn đã biết từ lâu, sau khi bị cởi ra thì áo ngọc sẽ mất đi tác dụng. Tiếp tục mặc vào chỉ có thể trở thành người thực vật, còn không bằng một khối huyết thi!

9, Thiết Diện Sinh lừa Lỗ Thương Vương tin vào chuyện này, có lẽ là muốn mượn cơ hội tiến vào mộ Mục Vương quan sát, đồng thời lấy ra vật gì đó (khả năng chính là bọ ăn xác chúa), sau đó sẽ tìm chỗ thực hiện kế hoạch trường sinh của mình. Thương Vương đáng thương kia chẳng rõ thực hư, chui vào áo ngọc trở thành người thực vật.

10, Thiết Diện Sinh lần lượt thực hiện kế hoạch trường sinh của mình: đầu tiên lựa chọn được mảnh đất Trường Sa phong thủy cực tốt, tiếp theo từ chỗ của Tây Vương Mẫu lấy được vẫn ngọc đen tuyền (hắn nhất định đã từng đi đến quỷ thành), mọi người có nhớ ngôi mộ huyết thi ở Trường Sa được miêu tả thế nào không, mật đạo bên dưới hoàn toàn là ngọc thạch màu đen. Nói đúng hơn là Thiết Diện Sinh đã tự tạo ra một tấm “áo ngọc” cao cấp hơn (viết đến đây tôi không thể không bội phục tài trí của Thiết Diện Sinh), sau đó mang theo xuống mộ cả sách lụa do chính mình viết nên. Mặc khác, hắn nhất định đã để lại cho hậu nhân một quyển sách lụa khác, cũng chính là quyển trong tay Muộn Du Bình.

11, Hình tượng của Tiểu Muộn là hình tượng chiến thần, mà Xi Vưu lại là chiến thần của Trung Hoa. Thiết Diện Sinh, người cũng như tên, là một kẻ mặt lạnh, nghiêm túc cẩn thận, giống tiểu Muộn đúng không? Hơn nữa, Thiết Diện Sinh đổ đấu phong cách rất quý phái, giống như biểu hiện thoắt ẩn thoắt hiện của tiểu Muộn trong mộ cổ.

12, Tiểu Muộn đi vào Lỗ Vương cung, nhất định có sự chỉ dẫn từ cuốn sách lụa của Thiết Diện Sinh, có lẽ trước đây cậu ấy cũng đã vào rồi, cho nên mới quen đường thuộc lối như vậy.

Về chuyện máu có khả năng xua đuổi bọ ăn xác, mọi người còn nhớ không, những cục sắt thần bí (thanh đồng cổ) kia có thể đuổi muỗi, tiểu Muộn là hậu duệ Xi Vưu và tiếp xúc nhiều với thanh đồng, hẳn là có loại máu này, mà việc khắc chế được bánh tông, khiến nữ thi cổ đại dập đầu, chính là xuất phát từ năng lượng vu cổ mê hoặc hồn phách đã ngấm vào trong máu.

13, Tiểu Muộn dập đầu và nói chuyện với khối huyết thi Chu Mục Vương trong quan tài sắt, là do cậu ấy là hậu duệ của Xi Vưu, Chu Mục Vương vừa là tiền bối vừa là kẻ thù của cậu ấy. Tiền bối là bởi vì họ đều là hậu duệ Phục Hy, kẻ thù là bởi vì Chu Mục Vương là hậu duệ của Hoàng Đế, Hoàng Đế lại giết chết Xi Vưu. Lý do tiểu Muộn dập đầu chính là vì vậy, còn đối thoại với xác chết hẳn là phương pháp khắc chế bánh tông tổ truyền của Thiết Diện Sinh. Hơn nữa, Xi Vưu hay tộc Mèo thì đều là dân tộc của vu cổ (như cản thi(*)), trước nay đều có thể đối thoại với quỷ thần, không giống với cách đổ đấu của cả Bắc phái lẫn Nam phái.

(Chú thích: (*) Cản thi là loại pháp thuật của tộc Mèo cổ đại, tương truyền nó có thể dẫn các thi thể di chuyển như người sống).

14, Tiểu Muộn tách ra đi một mình, chính là để tranh thủ thời gian đổi cuốn sách lụa của Thương Vương, lấy đi ấn quỷ.

15, Tiểu Muộn giết chết huyết thi Chu Mục Vương, là vì báo thù và bảo vệ chính mình cũng như an toàn của nhóm người Ngô Tà, bóp chết huyết thi Thương Vương là do chán ghét và khinh bỉ.

16, Tiểu Muộn nói dối là để bảo vệ bí mật của Thiết Diện Sinh.

Vân Đỉnh Thiên Cung:

17, Tiểu Muộn dập đầu trước núi Trường Bạch, chính là bái lạy thủy tổ Phục Hy.

18, Lời giải cho việc Tiểu Muộn và âm binh cùng tiến vào cánh cửa Thanh đồng:

Tiểu Muộn tiến vào cánh cửa Thanh đồng, là nhờ có ấn quỷ có thể điều động âm binh.

Trên đường vào mộ, Tiểu Muộn biến mất vài giây trước mắt Ngô Tà, cũng là nhờ trên người cậu có ấn quỷ.

(1) Âm binh là gì?

Hãy nhớ lại hình nộm trong điện Tây Vương Mẫu, vẫn ngọc có năng lực giữ thi thể ngàn năm không thối rữa. Âm binh chính là “cương thi ngàn năm” được tạo nên bằng cách này. Cái gọi là cương thi, căn cứ vào ghi chép và truyền miệng, là một loại động vật hay sinh vật chứ không phải người, không có tư duy cao cấp, chỉ có một chút phản ứng cùng bản năng đơn giản, ví dụ như, cương thi không biết nói chuyện, đầu gối không thể gập lại, tất cả đều chứng minh họ không có tư duy cấp cao. Chỉ là ngàn năm không rữa nát đảm bảo cho thần kinh của họ vẫn còn hoạt động được thôi.

(2) Âm binh khổng lồ mặt ngựa là cái gì?

Người khổng lồ mặt ngựa có lẽ là một chủng tộc Tây Vực xa xưa, người cao to cùng với sức chiến đấu mạnh mẽ, cũng có thể là “lính đánh thuê” của Tây Vương Mẫu, là loại người chuyên nằm trong quân đội của Tây Vương Mẫu. Sau khi họ chết thì bị Tây Vương Mẫu dùng vẫn thạch tạo thành “âm binh” để bảo vệ mộ địa và bí mật của vương tộc.

Như vậy, hình nộm trong điện Tây Vương Mẫu sau khi cởi bỏ lớp vỏ bọc, hiển nhiên cũng sẽ mang bộ dạng giống như âm binh đằng sau cánh cửa Thanh đồng trong thiên cung trên đỉnh núi Trường Bạch kia.

Đông Hạ là hậu duệ của Phục Hy – tổ tiên của Tây Vương Mẫu – âm binh ở cửa Thanh đồng hẳn là do Tây Vương Mẫu tặng cho Đông Hạ để bảo vệ bí mật của thị tộc Phục Hy.

(3) Vì sao tiểu Muộn có thể trà trộn vào đội ngũ âm binh?

Đáp án vô cùng đơn giản: Trong tay tiểu Muộn có ấn quỷ của Lỗ Thương Vương, lấy được từ trong Lỗ Vương cung.

Quỷ ấn còn có thể điều động âm binh, chứ đừng nói đến chuyện chen vào giữa đám âm binh đó.

Có thể những âm binh này đều do Muộn Du Bình dùng ấn quỷ điều ra, từ đó tiến được vào cánh cửa Thanh đồng!

(4) Ấn quỷ là cái gì?

Nhóm người Ngô Tà gặp phải cương thi trong điện Tây Vương Mẫu. Thứ gì đã phát động âm binh? Chính là tinh bàn (bản đồ các ngôi sao – đọc phần 5 “Mê Hải Quy Sào” để biết thêm thông tin)!

Ấn quỷ chính là tinh bàn mini của Tây Vương Mẫu.

Để lúc ở ngoài cũng có thể điều động âm binh, Tây Vương Mẫu đưa ấn quỷ cho tình nhân của bà là Chu Mục Vương, bởi vì Chu Mục Vương rất thích chinh phạt, âm binh chính là món quà thích hợp nhất cho gã.

Sau đó, Lỗ Thương Vương trộm mộ Chu Mục Vương.

Ấn quỷ, rơi vào trong tay Lỗ Thương Vương.

(5) Giải đáp luôn bí ẩn Muộn Du Bình biến mất vài giây trước mặt Ngô Tà trên đường vào Vân Đỉnh thiên cung.

Ngô Tà không hề nhìn lầm! Biến mất vài giây, hẳn là vì trong tay tiểu Muộn có ấn quỷ!

Thử nghĩ xem Lỗ Thương Vương điều động âm binh bằng cách nào? Âm binh ở chỗ của Tây Vương Mẫu, chiến trường của Lỗ Vương ở vùng Trung Nguyên, chắc không đến mức âm binh đi từng bước từng bước từ Tây Vực tới Sơn Đông đâu, nếu thế thì mấy tháng sau mới đến nơi, người ta đánh xong lâu rồi.

Ấn quỷ chắc chắn có liên quan đến vẫn ngọc, có tác dụng giống như hố đen thời gian, có thể trong nháy mắt đưa người đến một nơi cách đó ngàn dặm. Giống như mấy chương trình bí ẩn khoa học, có vài người biến mất, sau đó đột nhiên xuất hiện ở cách đó mấy nghìn cây số.

Đó chính là tác dụng hố đen, ấn quỷ chính là loại vật thể này, và việc Muộn Du Bình biến mất, chắc chắn có liên quan đến ấn quỷ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 06 Dec 2019

Phần 2: Bí ẩn thân thế Muộn Du Bình

Hẳn rất nhiều cho rằng tiểu Muộn là người có nhiều bí mật nhất trong Đạo Mộ Bút Ký.

Nhưng tôi lại thấy hoàn toàn ngược lại, tiểu Muộn chính là người “bình thường” nhất trong truyện.

Càng về những phần sau thì sự thiên vị mà tác giả dành cho tiểu Muộn càng rõ ràng, đó cũng chính là lý do giúp tiểu Muộn “hốt” được một lượng fan hùng hậu như hiện nay. Tam Thúc đã dùng ngòi bút cực kỳ cẩn thẩn và tỉ mỉ để viết về chàng trai này.

Dựa vào những suy đoán sau: Thứ nhất, tiểu Muộn chắc chắn không phải nhân vật phản diện; thứ hai, tiểu Muộn cũng chắc chắn không phải yêu ma quỷ quái (như mấy thứ trong mộ Lỗ Thương Vương, Uông Tàng Hải…), như vậy khả năng lớn nhất chính là: Cậu ấy là một nhân vật bình thường đầy bi kịch.

1, Thiết Diện Sinh – Trương Diêm Thành – Muộn Du Bình thuộc về một nhánh hậu duệ của Xi Vưu, cũng là gia tộc lừng lẫy về đổ đấu.

Từ hai ngón tay dài bất thường và kỹ xảo đổ đấu siêu phàm của Muộn Du Bình có thể thấy được, những thứ này đều được di truyền trong gia tộc. Cậu ấy vừa có bí kíp đổ đấu cao siêu truyền đời của gia tộc Thiết Diện Sinh – Trương Diêm Thành, lại hiểu biết phong thủy dịch thuật đồng thời nắm rõ kỹ thuật khắc chế bánh tông, khống chế hồn phách quỷ thần của tộc Xi Vưu.

2, Hình xăm kỳ lân là dấu hiệu của hậu duệ Xi Vưu và thế lực của Trương Diêm Thành.

Loại người như Trương Diêm Thành chắc chắn không thể chỉ là một người mà phải giống như Ngô Tam Tỉnh, có một nhóm người thay thế lẫn nhau.

Như vậy, thủ lĩnh Miêu tộc, Bàn Mã hẳn cũng là người của Trương Diêm Thành, có thể nhìn vào thân thủ của họ để thấy được điều này. Cũng có thể, Trương Diêm Thành chính là một trong các thủ lĩnh Miêu tộc.

Khi đọc truyện, chúng ta sẽ có cảm giác giống như tiểu Muộn đang gánh trên vai sứ mệnh nào đó, chính là sứ mệnh của gia tộc hoặc dân tộc cậu ấy.

A Quý cũng có vấn đề, tuyệt đối không thể là một thôn dân bình thường được. Tôi nghiêng về giả thuyết A Quý cũng là người của bộ tộc này, đứa con trai lõm vai kia của gã thật quá thần bí. Cả những thôn dân kỳ quái kia nữa, có lẽ tất cả đều là hậu duệ của Xi Vưu, có nghĩa vụ bảo vệ bí mật thanh đồng dưới đáy hồ.

Còn nữa, mọi người có cảm thấy Vân Thái và Muộn Du Bình đã biết nhau từ trước, hơn nữa còn rất thân thuộc?

Vì sao thủ lĩnh Miêu tộc lại chọc mù mắt Trần Bì A Tứ? Có phải lão đã nhìn thấy cái gì không nên thấy không? Chắc không phải chỉ là con xà mi đồng ngư kia chứ?

3, Âm Sơn Cổ Lâu

“Âm Sơn Cổ Lâu” là phần tác giả dành riêng để vén mở bí ẩn thân thế của Muộn Du Bình.

Tôi mơ hồ cảm giác được đây là một câu chuyện hết sức bi thương, thứ mà Muộn Du Bình phải gánh vác, chính là cả một dân tộc.

Bàn Mã giết đội khảo cổ, có lẽ vốn không bởi lương thực, mà vì bảo vệ bí mật thanh đồng.

Tình cảm của Muộn Du Bình đối với Văn Cẩm, chắc cũng chẳng phải tình cảm nam nữ gì, mà là năm đó Bàn Mã giết thành viên đội khảo cổ, tiểu Muộn nói rõ chân tướng với Văn Cẩm, được Văn Cẩm thông cảm và tha thứ, tiểu Muộn từ đó cũng gia nhập đội khảo cổ, tình cảm này chỉ là lòng mang ơn mà thôi.

Người Miêu đốt căn nhà tre của tiểu Muộn, Bàn Mã nói dối Ngô Tà, có lẽ chính là để bảo vệ tiểu Muộn.

4, Suốt hai mươi năm trời, tiểu Muộn “lòng vòng” mất trí nhớ.

Tiểu Muộn tham gia đội khảo cổ ở Quảng Tây, gánh trên vai sứ mệnh của gia tộc và dân tộc.

Những chuyện cậu ấy trải qua dưới đáy biển, có lẽ giống như lời cậu ấy kể với Ngô Tà, cậu ấy cũng hôn mê, trúng chiêu, thân thể không già đi, thế nhưng khả năng Trương Diêm Thành cũng đã tới những ngôi mộ này, hoặc do cậu ấy biết nhiều hơn những người còn lại nên bản thân đã có phòng bị, giữa đường chạy trốn, không bị giam lỏng ở Cách Nhĩ Mộc.

Hai mươi năm sau, ngoài sứ mệnh của gia tộc và dân tộc, cậu còn gánh trên vai cả bí mật của đội khảo cổ.

Lần theo từng đầu mối, ra vào nhiều ngôi mộ, tìm kiếm bí mật Chung cực.

Đáy biển, Lỗ Vương cung, Thiên cung đến Xà chiểu, cậu đều ra vào nhiều lần, điều này có thể thấy được dựa trên những ký hiệu mà cậu để lại.

Mỗi lần mất đi trí nhớ của cậu ta, có lẽ đều liên quan đến việc tiếp xúc với vẫn ngọc kia.

Lần nào cậu ta cũng phát hiện ra một ít đầu mối, nhưng đáng buồn là, sau đó đều mất đi trí nhớ.

Đến khi khôi phục được ít nhiều mảnh vụn ký ức, cậu ấy lại bắt đầu lại cuộc hành trình.

“Cái chết lặp lại” này bi thương đến cỡ nào.

Thế mà cậu ấy vẫn cứ cố chấp theo đuổi, thật sự là một bi kịch thanh cao.

Đương nhiên, đây chỉ là một giả thiết, ngoài ra vẫn còn một khả năng khác là tiểu Muộn giả vờ mất trí nhớ để thăm dò bí mật.

5, Lần “mất trí nhớ” trước đó

Trước mắt còn chưa thể chắc chắn được lần mất trí nhớ trước đó của Muộn Du Bình là thật hay giả.

Chuyện này diễn ra vào năm sáu năm trước, chính là khoảng thời gian tiểu Muộn ở căn nhà tre.

Vì sao lúc cậu ấy mất trí nhớ lại trở về căn nhà này? Bởi vì đây nơi cậu ấy cất bước ra đi, là “nhà” của cậu ấy.

Là một nơi an toàn.

Còn về việc cậu ấy bị xem là mồi nhử cương thi, với thân thủ của Muộn Du Bình thì chẳng có chút gì nguy hiểm hết.

Liệu có phải cậu ấy đã thương lượng với người trong tộc mình, mượn cơ hội thăm dò Trần Bì A Tứ? (Trần Bì A Tứ thật ra chính là chú Ba, phần sau tôi sẽ làm rõ điều này).

6, Lần mất trí nhớ hiện tại

Biểu hiện của A Quý và Bàn Mã có phải đang bảo vệ tiểu Muộn “lại mất trí nhớ” hay không?

Căn nhà tre bị đốt, lời nói dối của Bàn Mã, đều xuất phát từ việc họ chưa thể tin tưởng hai người xa lạ là Ngô Tà và Bàn Tử, đang thử thăm dò xem rốt cuộc họ có quan hệ thế nào với Muộn Du Bình.

Lời nói của Bàn Mã không phải để hù dọa Ngô Tà (kể cả câu nói với Ngô Tà rằng hai người mà đi với nhau thì người này sẽ hại chết người kia). Nếu như trên người tiểu Muộn thật sự có mùi này, thì vì sao Ngô Tà và tiểu Muộn tiếp xúc với nhau lâu như vậy vẫn không ngửi thấy? Vì sao những người tiếp xúc gần gũi với tiểu Muộn là Bàn Tử và Phan Tử đều không ngửi ra?

Còn Vân Thái, việc cô ấy hát cho tiểu Muộn nghe một khúc ca, có thể cho thấy bọn họ trước đây rất thân thuộc.

Cô ấy đang muốn bày tỏ điều gì, hay là đang khơi gợi ký ức của Muộn Du Bình?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 06 Dec 2019

Phần 3: Sợi dây mê thứ hai – Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Sự phát triển bí mật trường sinh bất lão thời cổ đại.

Thứ nhất, thời đại Phục Hy – Nữ Oa, khởi nguồn của nền văn minh Trung Hoa cổ đại.

Khi đó con người có hai đặc điểm, thứ nhất là có thể sống cả ngàn năm, thứ hai là nhân thú hợp thể. Hình tượng của Phục Hy – Nữ Oa chính là đầu người thân rắn, hơn nữa là anh em kết hôn với nhau. Đây là bí mật cách thức trường sinh của họ, bởi vì có nhiều loài động vật sống lâu hơn con người rất nhiều, thời đại Phục Hy là thời sống cộng sinh giữa người và thú.

Đầu tiên, họ có thể sử dụng thanh đồng cổ khống chế hành vi động vật, chiếc chuông trên đuôi của bọ ăn xác chúa trong Lỗ Vương cung chính là loại thanh đồng này.

Bọn họ có thể trường sinh, có lẽ do đã để loài vật nào đó sống trong thân thể mình, hình thành mối quan hệ cộng sinh.

Như Phục Hy hẳn đã bỏ rắn vào trong bụng, như vậy ngài có thể có được tuổi thọ của rắn, đồng thời giữ nguyên được tư duy con người. Khuyết điểm duy nhất là biến thành hình dạng đầu người thân rắn (kết hợp gen giữa rắn và người), mang thân hình “yêu quái”!

Tuy rằng tuổi thọ của Phục Hy Nữ Oa rất dài, nhưng họ vẫn sẽ chết, khi con rắn nằm trong cơ thể họ chết đi, họ cũng sẽ chết theo. Phục Hy sống 1,100 tuổi hẳn là tuổi thọ của rắn cộng sinh trong cơ thể ngài.

Đây là trường hợp trường thọ xưa nhất được ghi nhận, cũng là khởi điểm của tất cả các biện pháp trường sinh đến nay.

Bên trên tôi đã đề cập qua, di tích cổ xưa và cánh cửa thanh đồng dưới lòng đất Vân Đỉnh Thiên Cung chính là do Phục Hy để lại.

Bộ lạc Đông Di có một số loài vật cổ, đều bị con người dùng thanh đồng thuần hóa, phục vụ cuộc sống hoặc cộng sinh với con người.

Đại du diên, mang nguyên hình rồng.

Đại điểu, mặt người thân chim.

Rắn, Phục Hy mặt người thân rắn.

Sâu bọ, trùng đồ đằng của bộ lạc Phục Hy.

Thứ hai, theo dòng chảy của lịch sử, sau khi Phục Hy chết, bộ lạc Đông Di bắt đầu chia cắt:

Một nhánh của Hoàng Đế, đi tới vùng Trung Nguyên, bắt đầu phát triển ngành trồng trọt chăn nuôi.

Một nhánh của Xi Vưu, phát triển một nền tế tự vu cổ và văn minh thanh đồng rực rỡ ngay tại Hà Bắc.

Một nhánh của Tây Vương Mẫu, đi tới núi Côn Luân, mang theo chim, rắn và trùng.

Ba bộ lạc bắt đầu phát triển theo các phương thức khác nhau, nói đơn giản, Hoàng Đế thích hòa bình xây dựng, Xi Vưu thích chinh chiến cúng tế, Tây Vương Mẫu lại thích nghiên cứu và phát triển thuật trường sinh bất lão.

Nhưng lúc đó, bọn họ vẫn duy trì hình dạng nhân thú cộng sinh từ thời Phục Hy: “Sơn Hải Kinh” miêu tả, Hoàng Đế, Xi Vưu, Tây Vương Mẫu đều là quái vật nửa người nửa thú, Hoàng Đế là người kết hợp với rồng, Xi Vưu là người hợp nhất với chim, Tây Vương Mẫu còn kết hợp nhiều loại động vật hơn nữa, điều này đã cho thấy, bọn họ vẫn duy trì cách thức trường sinh “cộng sinh giữa người và thú”, tuổi thọ của bọn họ, đều khoảng hơn ngàn năm.

Thứ ba, sau đó chiến tranh bắt đầu nổ ra.

Đầu tiên là bộ lạc Viêm Đế đánh nhau với Hoàng Đế, Viêm Đế là đại biểu của nền văn minh nông nghiệp, sau đó, hai bộ lạc này hợp nhất, hình thành tổ tiên của Hoa Hạ. Tiếp theo là cuộc chiến giữa Viêm Đế và Xi Vưu. Xi Vưu mang hình tượng chiến thần, lại biết thuật vu cổ, ban đầu Hoàng Đế không đánh lại Xi Vưu, đến khi Tây Vương Mẫu đứng về phía Hoàng Đế, bà phái Cửu Thiên Huyền Nữ (mặt người mình chim), trợ giúp Hoàng Đế hóa giải vu cổ của Xi Vưu, Xi Vưu thua trận bị giết, từ đó bộ tộc Xi Vưu tản mác khắp nơi, một bộ phận gia nhập bộ lạc của Viêm Hoàng, một bộ phận khác lưu lạc đến Trường Sa, rồi đến Quảng Tây, Vân Nam, trở thành tộc Miêu, tộc Dao.

Từ đây về sau lịch sử bước vào thời đại “Ngũ Đế”:

Bộ lạc Xi Vưu lưu lạc khắp nơi, chắc hẳn cũng dần mất đi thuật trường sinh “nhân thú cộng sinh”, chỉ còn một số ít hậu nhân vẫn còn giữ gìn được nền văn minh thanh đồng và phát triển nền văn hóa vu cổ.

Nhánh của Hoàng Đế tiếp tục phát triển lớn mạnh, trở thành dòng chính của nền văn minh Trung Hoa, đi theo trồng trọt chăn nuôi mà quên dần và từ bỏ hình tượng yêu quái “nửa người nửa thú”, dần dần biến thành người bình thường, đương nhiên cũng mất đi khả năng “trường sinh”.

Chỉ có Tây Vương Mẫu, kế thừa và phát triển thuật trường sinh từ thời Phục Hy.

Thứ tư, trong khoảng thời gian từ thời Hoàng Đế đến giữa thời Tây Chu:

Trung Nguyên đang trải qua bước chuyển mình từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến triều Hạ, Thương, Chu.

Trong khi đó, Tây Vương Mẫu ở Côn Luân vẫn tách mình khỏi mấy nghìn năm năm chiến tranh chinh phạt ở Trung Nguyên, đứng riêng một trời đất.

Tây Vương Mẫu có lẽ là hậu duệ gần gũi nhất, chính tông nhất của Phục Hy Nữ Oa, bởi vì văn hóa bộ lạc Phục Hy thuở ban đầu được bà gìn giữ nguyên vẹn nhất.

Mà, Tây Vương Mẫu cũng vẫn mải miết nghiên cứu thuật trường sinh suốt mấy nghìn năm.

Vì sao Tây Vương Mẫu lại muốn dời đến núi Côn Luân? Câu trả lời là: Vì ngọc!

Đúng vậy, chính là ngọc. Trong nền văn hóa cổ đại Trung Hoa, Tây Vương Mẫu nổi danh với ngọc, một loại ngọc màu đen có thể giúp cho người ta “trường sinh bất lão”. Có ghi chép từng chỉ ra rằng, Tây Vương Mẫu từng dùng loại ngọc này chế thành “ngọc anh” cho Hoàng Đế ăn, sau khi ăn có thể giữ cho dung nhan trẻ mãi, trường sinh bất tử.

Mọi người có cảm thấy quen không? Đúng vậy, ngọc này chính là vẫn ngọc mà Văn Cẩm đã tiến vào, cũng là chất liệu tạo nên áo ngọc của Lỗ Thương Vương.

Nắm rõ thuật “nhân thú cộng sinh” của Phục Hy, thuật khống chế xà điểu, thêm vào thuật giữ cho dung nhan ngàn năm trẻ mãi, Tây Vương Mẫu bắt đầu cuộc thực nghiệm trường sinh bất lão cả mấy ngàn năm, mở màn một vở kịch vô cùng đặc sắc.

Ba phương pháp trường sinh bất lão của Tây Vương Mẫu:

Phương pháp thứ nhất: Nhân thú cộng sinh.

Đây vẫn là phương pháp cũ Phục Hy truyền lại, người kết hợp với rắn, người kết hợp với chim vân vân, lý thuyết trường sinh của cách thức này chính là: Nếu như con người sống bình thường, thì có thể chiếm được tuổi thọ của loại động vật cộng sinh trong cơ thể, trên dưới ngàn năm. Nếu như người gặp phải chuyện gì bất trắc, thì chỉ cần loài vật sống trong cơ thể mình còn sống, thì bằng cách cộng sinh giữa người và động vật, động vật sẽ có được trí nhớ và ý thức của con người, tiếp tục cộng sinh với một người khác đã bị gột sạch ký ức, thực hiện việc “chuyển thế”.

Nhược điểm của phương pháp này là đến khi loài vật sống trong cơ thể người chết đi, người cũng sẽ chết theo, thêm nữa tất cả sẽ đều biến thành yêu quái nửa người nửa thú.

Lúc đầu chắc chắn Tây Vương Mẫu đã dùng biện pháp như thế, cho nên bà mới mang bộ dạng yêu quái.

Điều này có thể chứng minh bằng di tích ở Xà Chiểu, với những người phụ nữ mặt người thân rắn trên bức bích họa cộng thêm những con rắn mào gà có hành vi cổ quái (rắn mào gà là loại rắn có linh tính được Tây Vương Mẫu thuần dưỡng dùng cho việc nhân thú cộng sinh thời kỳ đầu).

Biện pháp thứ hai: Đan dược = ngọc anh + bọ ăn xác chúa.

Nhược điểm của biện pháp trường thọ “nhân thú cộng sinh” chính là cốt lõi thay đổi của Tây Vương Mẫu.

Động vật sống trong cơ thể người chết thì người cũng chết theo, vậy phải làm sao bây giờ?

Có thể tìm cách giữ lại trí nhớ và ý thức của con người, đồng thời giữ cho thân thể không thối rữa và sống lại?

Có thể không mang bộ dạng yêu quái nữa không?

Động vật cộng sinh trong cơ thể người có kích thước rất nhỏ, không giống chim hay đại xà.

Tây Vương Mẫu phát hiện ba thứ: Bọ ăn xác, vẫn ngọc (thiên thạch), và rắn mào gà chúa.

Bọ ăn xác là loại động vật dùng cách đẻ trứng trong não người mà bảo tồn ký ức con người, kích thước cũng nhỏ, có thể trở thành động vật cộng sinh mới.

Vẫn ngọc – người ăn vào lúc sống có thể giữ cho dung nhan trẻ mãi không già, sau khi chết đi cũng có thể giữ cho thi thể không thối rữa.

Rắn mào gà chúa, khẳng định là rắn thần có thể sống lại sau khi lột xác.

Vì vậy Tây Vương Mẫu bắt đầu một cuộc thực nghiệm trên quy mô lớn:

Những chiếc bình của Tây Vương Mẫu trong quỷ thành chứa những đầu người đầy trứng bọ ăn xác chết, chính là thực nghiệm dùng bọ ăn xác để bảo tồn ký ức.

Bức bích họa ghi lại cảnh cho rắn mào gà ăn trứng bọ ăn xác chết, cho thấy Tây Vương Mẫu muốn tạo ra loại sinh vật có ưu điểm của cả bọ ăn xác và rắn mào gà.

Loại sinh vật cực kỳ lợi hại này đã được Tây Vương Mẫu chế tạo thành công, đúng vậy, chính là bọ ăn xác chúa!

Cổ trong vu cổ cũng được tạo nên bằng cách cho những sinh vật đáng sợ này ở cùng một chỗ, để chúng nó cắn xé lẫn nhau, cuối cùng giữ lại một con duy nhất, trở thành cổ (sâu độc).

Bọ ăn xác chúa của Tây Vương Mẫu cũng chính là loài động vật này.

Nó có sức mạnh của cả bọ ăn xác và rắn mào gà, có thể bảo trì ký ức, giúp con người giữ được hình dạng con người, lại giúp cho họ có thể lột da mà sống dậy.

Đương nhiên, bọ ăn xác là thứ kịch độc.

Cho nên, Tây Vương Mẫu phải nhốt thứ này trong một viên ngọc, chế thành thuốc trường sinh bất lão.

Lúc Tây Vương Mẫu sắp chết, chỉ cần ăn viên thuốc này vào, nằm trong vẫn ngọc đợi ngày sống dậy.

Lúc này bọ ăn xác chết sẽ đẻ trứng trong não người để giữ lại ký ức cho người đó, đồng thời vẫn ngọc giúp cho xác chết không bị phân hủy, thêm vào khả năng lột xác của rắn. Sau vài lần lột da, con người có thể lấy lại được tuổi trẻ, đồng thời khôi phục trí nhớ, sống lại một lần nữa. Tác dụng của vẫn ngọc tất nhiên mạnh hơn áo ngọc rất nhiều, quá trình sống lại của Tây Vương Mẫu chắc sẽ ngắn hơn người khác rất nhiều, đại khái chỉ mất mấy trăm năm?

Phương pháp thứ ba: Ăn đan dược lúc còn trẻ và còn sống

Con người đương nhiên ai cũng có lòng tham, Tây Vương Mẫu cũng không ngoại lệ.

Tuy rằng thực hiện được việc “sống lại”, nhưng vẫn cần phải “chết” một khoảng thời gian rất dài.

Nếu như lúc còn trẻ và còn sống bà ta ăn luôn đan dược chế từ bọ ăn xác chết thì sẽ thế nào?

Nhất định Tây Vương Mẫu thí nghiệm trên vô số người sống, kết quả là chết ngay tức khắc hoặc trở thành các loại quái vật điên cuồng như cấm bà. Nói chung là không thành công.

Cuối cùng, Tây Vương Mẫu phát hiện ra một bí mật: Cách duy nhất để lúc sống ăn luôn đan dược chế từ bọ ăn xác chết mà không nguy hiểm đến tính mạng, có thể thực hiện được mong muốn trường sinh, chính là: Chui vào trong vẫn ngọc, không rời khỏi vẫn ngọc.

Như vậy chúng ta có thể đoán được, Tây Vương Mẫu lựa chọn biện pháp thứ ba.

Người ngồi ở bên ngoài vẫn ngọc, một thi hài rất giống với Tây Vương Mẫu, chính là “cái bóng của nữ vương”, giúp Tây Vương Mẫu truyền tin và ra lệnh cho bên ngoài.

Còn người phụ nữ thò đầu ra khỏi vẫn ngọc kia, có lẽ chính là bản thân Tây Vương Mẫu.

Thứ năm, Chu Mục Vương và Tây Vương Mẫu, thuật trường sinh được tái hiện lại ở vùng Trung Nguyên.

Trong thần thoại Trung Hoa, Chu Mục Vương là tình nhân của Tây Vương Mẫu.

Chu Mục Vương đi về phía Tây gặp được Tây Vương Mẫu, bên cạnh Dao Trì (nơi ở của Tây Vương Mẫu trong thần thoại), uống rượu vẽ tranh, tâm đầu ý hợp, say sưa bao ngày. Chu Mục Vương đã dùng tơ tằm chói lóa và ngọc bích quý giá mà mình yêu quý nhất làm quà gặp mặt kiêm vật đính ước.

Giây phút chia tay, Tây Vương Mẫu nói với vị thiên tử ấy: “Trên trời có mây trắng, dưới đất mọc gò đồi, con đường còn xa xôi, lại núi sông cách trở, nếu chàng được sống mãi, liệu có trở lại đây?”.

Năm tháng sau này, Tây Vương Mẫu vẫn si ngốc đợi người tình Mục Vương quay trở lại, nhưng chờ hoài chờ mãi chẳng thấy đâu.

Lý Thương Ẩn từng có câu thơ: “Tám ngựa ngày đi ba vạn dặm, cớ sao Mục vương không lại thăm?”.

Chu Mục Vương là vị thiên tử đam mê chinh phạt và ngao du của thời đại Tây Chu.

Ngài đã cưỡi tám con ngựa đi tới núi Côn Luân gặp Tây Vương Mẫu.

Ban đầu, có thể là vì chiến tranh, nhưng hiển nhiên giống như bích họa kia miêu tả, ông ta không có cách nào đối phó được đám rắn mào gà.

Ông ta gặp được vị Tây Vương Mẫu đã nghiên cứu ra được loại đan dược bọ ăn xác giúp trường sinh bất lão kia.

Cho nên bà đã không còn là yêu quái nửa người nửa thú, trở thành một nữ vương bình thường xinh đẹp tuyệt trần (chép trong “Mục thiên tử truyện”).

Có thể, Mục Vương và Tây Vương Mẫu gặp nhau giữa chiến tranh đã si mê lưu luyến, cũng có thể, Mục Vương chỉ là giả vờ đầu hàng giả vờ yêu thương.

Nhưng Tây Vương Mẫu thật sự thích Chu Mục Vương, vô cùng dịu dàng lưu luyến, vào thời khắc ly biệt, Tây Vương Mẫu ưng thuận lời hẹn tái kiến, còn tặng thuốc trường sinh bất tử cho Chu Mục Vương.

Cũng chính là đan dược dùng ngọc thạch bọc lấy bọ ăn xác chúa, kèm theo chiếc áo ngọc (do vẫn ngọc tạo thành).

Mục Vương và Tây Vương Mẫu cùng nhau ước hẹn. Tây Vương Mẫu còn trao cho Mục Vương hai vật khác: Một là ấn quỷ để điều động âm binh, giúp Mục Vương tiếp tục giấc mơ chinh phạt; hai là đàn bọ ăn xác đã bị thanh đồng cổ khống chế (bọ ăn xác đeo chuông lục giác trong Lỗ Vương cung).

Hiện tại có thể giải thích chuông lục giác chính là thanh đồng cổ khống chế động vật thời Phục Hy.

Mục Vương trở lại trung nguyên, xây mộ mình trong một ngọn núi ở Sơn Đông (thường chỉ có đế vương mới xây lăng trong núi).

Lúc sắp chết quả nhiên ông ta đã làm theo lời dặn của Tây Vương Mẫu, ăn đan dược, mặc áo ngọc, ngồi xếp bằng dưới một gốc cây (lời hẹn với Tây Vương Mẫu?), đợi đến ngày lột da sống dậy.

Ông ta chôn chung ấn quỷ trong mộ mình, còn bọ ăn xác dùng để bảo vệ lăng.

Thứ sáu, biến cố thời Chiến Quốc:

Thời gian tiếp tục chảy trôi.

Rất nhanh sau đó, vương triều nhà Chu suy đồi, lịch sử bước vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc đầy rối ren.

Lỗ Thương Vương là một tướng quân lập nghiệp nhờ việc giúp Lỗ Quốc Công đổ đấu, còn Thiết Diện Sinh là trợ thủ của lão, người tinh thông phong thủy Kinh Dịch này chính là hậu duệ của Xi Vưu.

Trong một lần đổ đấu Lỗ Thương Vương phát hiện ra lăng mộ trong núi của Chu Mục Vương, chắc chắn đã tìm được bản ghi chép câu chuyện của Chu Mục Vương và Tây Vương Mẫu.

Lão lấy được hai thứ Tây Vương Mẫu trao cho Chu Mục Vương: Ấn quỷ và bọ ăn xác đeo chuông đồng, vì vậy mà tinh thần càng thêm hăng hái.

Chuyện được kể trên sách lụa tơ vàng của Lỗ Thương Vương, nào là phát hiện ra rắn lớn, nào là chiếm được hai báu vật thế gian, thật ra ám chỉ quá trình lão trộm mộ Chu Mục Vương.

Lỗ Thương Vương là một kẻ thô kệch, những bí mật này chắc chắn là do Thiết Diện Sinh giải ra giúp lão.

Cho nên Thiết Diện Sinh cũng biết bí mật này.

Hắn biết Lỗ Thương Vương rồi cũng sẽ thay thế Mục Vương tiến vào áo ngọc, nhưng hắn cũng nhìn ra, áo ngọc kia một khi khoác lên người khác thì sẽ lập tức mất tác dụng.

Hắn bắt đầu suy tính cách trường sinh cho mình, tự mình mang theo một đoàn người đến chỗ Tây Vương Mẫu ở núi Côn Lôn, lấy được một ít vẫn ngọc màu đen và bốn viên đan dược bọ ăn xác, về phần quá trình diễn ra thế nào, thì lại là một câu chuyện khác.



Lúc sắp chết, Lỗ Thương Vương đã lôi cổ Chu Mục Vương ra khỏi áo ngọc, quẳng huyết thi Mục Vương vào quan tài sắt trông ở cửa mộ, biến thành “thú trông nhà” bảo vệ mộ cho lão, còn lão tự mình mặc áo ngọc, xây mộ mình bên trên mộ Chu Mục Vương, đặt ra thất tinh nghi quan.

Mục Vương mất đi “trường sinh” trong tay Lỗ Thương Vương, thương cảm thay “Bát mã ngày đi ba vạn dặm, cớ gì Mục Vương không lại thăm?”, nhưng Lỗ Thương Vương cũng phí công toi, bởi vì thật ra áo ngọc kia đã mất đi công dụng.

Trước khi Lỗ Thương Vương chết, Thiết Diện Sinh cũng đã giả chết, rồi bí mật tìm kiếm vùng đất phong thủy tốt nhất, cuối cùng tìm được huyết địa ở Trường Sa, tự xây mộ cho mình.

Đồng thời, hắn là hậu nhân của Xi Vưu, mà Tam Miêu lúc đó cũng đang tụ tập ở Trường Sa, càng dễ dàng cho Thiết Diện Sinh hành động.

Chắc hẳn Thiết Diện Sinh đã viết lại cuộc đời mình, cả bí mật của Tây Vương Mẫu lên cuốn sách lụa, để lại một bản cho hậu nhân hoặc con cháu trong tộc, còn một bản khác chôn chung trong mộ của mình.

Hắn thiết kế mộ thất hai tầng, bên trên là một quan tài trống, còn mật đạo bên dưới hoàn toàn được tạc từ vẫn ngọc, xem như một chiếc áo ngọc khổng lồ, rồi lại điêu khắc tượng Cửu Thiên nương nương (Tây Vương Mẫu), đặt sách lụa và đan dược bọ ăn xác vào trong.

Sau đó tự mình nuốt chửng bọ ăn xác, thực hiện kế hoạch “trường sinh” của chính mình.

Thứ bảy, vương quốc Đông Hạ những năm đầu triều Nguyên.

Sau thời đại Phục Hy, lịch sử Đông Bắc bị trống một khoảng lớn, có lẽ bởi khí hậu không thuận lợi cho việc phát triển nền văn minh rực rỡ.

Sau khi bộ lạc Đông Di rời đi đã để lại một di chỉ đồ sộ: cánh cửa đại đồng nằm dưới nền đất thung lũng, có thể còn để lại một ít hậu duệ để bảo vệ và trông coi.

Vì sao giữa thời Tống – Nguyên lại xuất hiện một nhà nước Đông Hạ?

Đáp án chính là sự nổi dậy của người Nữ Chân đã uy hiếp đến bí mật di chỉ Phục Hy và sự sinh tồn của hậu duệ trong tộc, dẫn đến nhất định phải thành lập một chính quyền, số hậu duệ này chắc chắn rất ít ỏi, buộc phải chinh phục và lợi dụng người Nữ Chân.

Phương pháp mà hậu duệ Phục Hy dùng để chinh phục người Nữ Chân hẳn là:

Uy hiếp: Dấu tích chim lớn có lực sát thương cao: Lợi dụng công năng gây ảo giác của cánh cửa thanh đồng và khả năng uy hiếp của Vạn Nô Vương thần bí.

Lợi ích: Hứa sẽ cùng họ trẻ mãi không già (Thị tộc Phục Hy có nền văn hóa ngọc, dùng ngọc để bảo trì nhan sắc không phải việc khó).

Vậy Vạn Nô Vương là ai?

Vạn Nô Vương chính là hậu duệ giữ cửa của thị tộc Phục Hy, gần như còn bảo tồn nguyên vẹn truyền thống của thời đại Phục Hy.

1, Người chim khổng lồ, dùng chuông thanh đồng khống chế đám “khỉ trong miệng”.

2, Long đồ đằng, chính là du diên.

3, Thuật dùng thanh đồng tế bái và gây ảo giác tập thể.

4, Phương thức trường sinh “Người và động vật cộng sinh trong cùng một cơ thể”, chỉ có bọn họ còn giữ lại hình dạng yêu quái thời đại Phục Hy.

Thị tộc Phục Hy trước đây cộng sinh với rắn, nhưng khí hậu ở núi Trường Bạch có lẽ không thích hợp cho rắn sống, rắn đã được Tây Vương Mẫu đưa đến Côn Lôn rồi. Loài vật duy nhất thích hợp với việc cộng sinh ở đây là du diên. Cho nên yêu quái mười hai cánh tay Vạn Nô Vương chính là người cộng sinh với du diên, vì chỉ có du diên mới có nhiều chân như vậy. Thế nhưng, sự cộng sinh giữa người và du diên không thể lâu dài như với rắn, cho dù tuổi thọ của du diên rất dài, nhưng tuổi thọ của các đời Vạn Nô Vương cũng không cao cho lắm.

5, Truyền thống huynh muội lấy nhau: Vạn Nô Vương ở Vân Đỉnh Thiên Cung và khối thi thể mười hai cánh tay ở mộ Uông Tàng Hải rõ ràng là huynh đệ thông hôn.

Bí mật Vạn Nô Vương bò ra từ lòng đất?

Mỗi một đời Vạn Nô Vương chết đi, đại đồng môn mới mở ra, đây chính là nghi thức thay thế cái chết từ thời Phục Hy cổ xưa, cũng chính là trường hợp người chết đi mà động vật cộng sinh trong cơ thể vẫn còn sống.

Vạn Nô Vương chết đi, đi vào cánh cửa đồng, lúc này du diên trong cơ thể lão sẽ ăn luôn thi thể, sau đó cào rách da bò ra ngoài.

Thế là, Vạn Nô Vương đời tiếp theo (con cháu của Vạn Nô Vương đã chết) đã bị thanh đồng cổ tẩy đi toàn bộ ký ức, du diên chui vào trong cơ thể Vạn Nô Vương này, tiếp tục cộng sinh, du diên và Vạn Nô Vương đời trước từng cộng sinh một thời gian rất dài, đã có linh tính, cũng có trí nhớ và ý thức của người đó, sau đó truyền lại cho Vạn Nô Vương đời kế tiếp, cứ tiếp nối nhiều lần như vậy, cho đến khi du diên này chết đi.

Mà Vạn Nô Vương mới vừa được du diên chui vào trong cơ thể, đương nhiên cũng bò từ lòng đất lên giống như du diên.

Vì sao chỉ có Vạn Nô Vương đời thứ mười bốn muốn xây mộ?

Vạn Nô Vương mười ba đời trước không hề có mộ, khả năng bọn họ đều biến thành một lớp da đằng sau cánh cửa thanh đồng rồi.

Thế vì sao Vạn Nô Vương đời này lại muốn xây mộ?

Đáp án là: Bởi vì du diên trong cơ thể gã sắp chết, chuỗi luân hồi trằn trọc mười bốn đời cũng sắp kết thúc.

Đương nhiên, gã không cam lòng, chắc chắn gã đã tìm đến hỏi han Tây Vương Mẫu, dù sao bọn họ cũng chung một tổ tiên.

Tây Vương Mẫu tiết lộ cho gã phương thức trường sinh mới, đúng vậy, chính là đan dược bọ ăn xác.

Cho nên, gã bắt đầu muốn có mộ, cần một lăng mộ “trường sinh” không bị chôm chỉa và quấy rầy.

Giống như Mục Vương và Thiết Diện Sinh.

Cho nên, Đông Hạ bắt đầu tìm kiếm và ép buộc người rất có năng lực về mặt này, chính là Uông Tàng Hải, đến để xây mộ cho gã.

Hơn nữa, những âm binh trong mộ chắc chắn cũng là do Tây Vương Mẫu đưa đến, để bảo vệ “Chung Cực” đằng sau cánh cửa thanh đồng – thứ mà suy cho cùng cũng là thủy tổ của họ.

Phía sau cánh cửa thanh đồng là gì?

Đáp án: Là Chung Cực.

Chung Cực có ba lớp nghĩa:

1, Khả năng mê hoặc tri giác thần bí của thanh đồng cổ, người ta muốn thấy cái gì thì sẽ thấy cái đó (giống như thuốc phiện).

2, Di tích nền văn minh Phục Hy khởi nguồn của nền văn minh Trung Hoa.

3, Bí mật trường sinh thời cổ đại, các loại “mặt người thân rắn, nhân thú cộng sinh” thời Phục Hy là thật. Bước vào đó có thể thấy được bí mật luân hồi của mười ba đời Vạn Nô Vương, bí mật du diên, bí mật tẩy xóa ký ức, bí mật trường sinh.

Thứ tám, đầu thời Minh, thời đại của cao thủ trộm mộ Uông Tàng Hải!

Theo những gì mà bút ký ghi lại, câu chuyện của Uông Tàng Hải có vẻ phức tạp nhất, nhưng thật ra, có được nền tảng giải đố từ những phần trên, bí mật của Uông Tàng Hải lại trở nên cực kỳ đơn giản, chuyện của hắn đại khái có thể diễn giải như sau:

1, Vạn Nô Vương đời thứ mười bốn bắt hắn đến xây mộ, giúp cho hắn có cơ hội tiến vào đại đồng môn, biết được bí mật cộng sinh giữa Vạn Nô Vương và du diên, cũng hiểu rõ bí mật mê hoặc và tẩy xóa ký ức của thanh đồng.

2, Loại người như Uông Tàng Hải đương nhiên cũng nổi lòng tham muốn mình được trường sinh bất tử, thế nhưng, hắn đương nhiên không chấp nhận kiểu cộng sinh giữa người và động vật để rồi biến mình thành yêu quái. Vì vậy hắn bắt đầu mượn việc giúp Vạn Nô Vương sưu tập châu báu ở trong các mộ cổ mà dò la tin tức.

3, Hắn phát hiện hai ngôi mộ cổ đặc biệt: Lỗ Vương cung và Kính Nhi cung của Trần Bì A Tứ, Lỗ Vương cung liên quan đến đan dược huyết thi – một biện pháp trường sinh khác, còn Kính Nhi cung hiển nhiên liên quan đến bí mật thanh đồng, cũng là bí mật mà người Mèo ở Quảng Tây (hậu nhân Xi Vưu) luôn bảo vệ. Đan dược và tẩy xóa ký ức hiển nhiên là hai điểm quan trọng liên quan đến thuật trường sinh. Thế nhưng, Uông Tàng Hải không thể có được sách lụa Chiến Quốc, cho nên không thể lập tức biết được bí mật tồn tại của Tây Vương mẫu quốc.

4, Sau này, hắn quay lại Vân Đỉnh Thiên Cung lần thứ hai, lần này hắn đã nhìn thấy thi thể Vạn Nô Vương sau khi ăn đan dược (chính là khối thi thể mười hai cánh tay mặc giáp sắt), đồng thời tìm được vị trí của Tây Vương Mẫu trên đỉnh Côn Lôn.

5, Uông Tàng Hải đã đến được quỷ thành, nhưng lúc này Tây Vương Mẫu chắc hẳn chỉ có thể ở trong vẫn ngọc, Uông Tàng Hải tìm ra được bí mật “xác chết vùng dậy” của Tây Vương Mẫu, nhưng chắc hắn cũng không biết biện pháp ăn đan dược lúc còn sống rồi chui vào trong vẫn ngọc, mà cho dù hắn có biết thì cũng chưa chắc đã biết cách làm. Uông Tàng Hải lấy đi vẫn ngọc và đan dược bọ ăn xác từ Xà Chiểu.

6, Sau khi trở về, họ Uông bắt đầu xây dựng ngôi mộ dưới đáy biển của mình, thật ra là để suy nghĩ và nghiên cứu cách trường sinh. Hắn không giống với Thiết Diện Sinh, Thiết Diện Sinh chỉ răm rắp làm theo, mà Uông Tàng Hải lại muốn tự mình thử nghiệm và hoàn thiện.

7, Em gái và vợ của Vạn Nô Vương (khối thi thể mang thai có mười hai cánh tay), xác ướp mặt ngựa có trứng bọ ăn xác trong hộp sọ, đều là thí nghiệm mà Uông Tàng Hải bày ra.

8, Uông Tàng Hải không muốn đợi quá trình lột da trong mộ, nhất định hắn đã nghĩ tới biện pháp ăn đan dược bọ ăn xác lúc sống, cho nên đã tìm người để thử nghiệm, kết quả dẫm lên vết xe đổ của Tây Vương Mẫu, biến những người đó thành các loại quái vật như Cấm Bà hay khỉ biển.

9, Uông Tàng Hải vẫn không cam lòng, thế là hắn nghĩ đến thanh đồng cổ, nảy ra một diệu kế, chính là trước khi chết uống hai viên đan dược (đại khái thế, tôi đoán vậy) khôi phục lại hai phần ký ức của mình, một mặt tiếp tục đợi thân thể mình lột da sống dậy, mặt khác cấy trí nhớ và ý thức của mình lên một người khác, đợi đến ngày sống lại lần nữa. Sau đó hắn sẽ tiếp tục bày trò trên người đang giữ ký ức của mình, đợi cho thân thể mình sống lại. Uông Tàng Hải thật sự rất thông minh.

10, Thế nhưng, sau khi bản thân chết đi, làm sao có thể khống chế được tất cả mọi thứ? Âm mưu của Uông Tàng Hải thể hiện cao nhất ở chỗ này, hắn nghĩ kẻ có thể đi vào mộ mình, nhất định là phường trộm mộ, cho nên họ Uông đã khóa kín ngôi mộ mình lại, bản thân hắn chính là cao thủ trộm mộ, nên mộ hắn đều được thiết kế nhằm mục đích này.

11, Ba con xà mi đồng ngư đều nhằm dẫn dụ kẻ trộm mộ, những thứ quỷ dị trong Lỗ Vương cung, Kính Nhi cung kết hợp với bí mật trên xà mi đồng ngư có sức hấp dẫn vô cùng, khiến cho những kẻ trộm mộ nhất định phải tìm ra bằng được, rồi nhất định sẽ tìm đến ngôi mộ dưới đáy biển của hắn.

12, Bản thân hắn hiểu rất rõ kẻ trộm mộ, cho nên từng cái bẫy đều được tạo ra để dẫn dụ họ, toàn bộ cơ quan, bố cục, âm mưu đều không phải để bảo vệ mộ, mà hoàn toàn ngược lại, là để đạt được mục đích của chính hắn.

Cây san hô thanh đồng, khẳng định là để tẩy xóa ký ức của kẻ trộm mộ.

Tiêu tử quan, cũng là một âm mưu.

Mục đích sau cùng chính là để kẻ trộm mộ ăn luôn bọ ăn xác chúa trong cơ thể Uông Tàng Hải, cấy trí nhớ của hắn vào kẻ trộm mà thôi.

Đương nhiên, tình tiết cụ thể ra sao, thì như Tam Thúc nói, nếu như viết theo bút pháp của Cổ Long thì đây hẳn là một câu chuyện lớp lang vô cùng đặc sắc.

13, Họ Uông bố trí xong hết thảy, hắn chết rồi, nhưng vẫn nắm giữ tất cả trong tay, cũng chính là cái kết do chính hắn đạo diễn, ai sẽ trở thành kẻ xúi quẩy trong vở kịch của hắn đây?

Đến đây, bí ẩn xuyên suốt thời cổ đại đã gần như sáng tỏ.

Thời gian, tiếp tục chảy trôi.

Bí mật thời viễn cổ, bản chép tay của Thiết Diện Sinh, âm mưu của Uông Tàng Hải, đều lặng lẽ theo dòng thời gian.

Cùng chờ đợi.

Chờ đợi một nhóm người từ từ tiếp cận bí mật này từ trong bóng tối sâu thẳm, cũng vì nó mà số mệnh rẽ ngang.

Ba đời nhà họ Ngô, đội khảo cổ, Cầu Đức Khảo, Văn Cẩm, Muộn Du Bình…
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Đạo Mộ Bút Ký (Nhật Ký Trộm Mộ 8 Quyển) - Nam Phái Tam T

Postby tuvi » 06 Dec 2019

Phần 4: Sợi dây mê thứ ba: Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Cuộc đấu đá giữa các thế lực thời hiện đại để tìm ra bí mật trường sinh bất tử.

Thứ nhất, sau khi Uông Tàng Hải chết, mọi thứ dường như chìm vào yên lặng, vòng quay số phận nằm đợi dưới đáy biển.

Cho đến những năm bốn mươi trước giải phóng, ba đời thổ phu tử nhà họ Ngô trộm ngôi mộ huyết thi ở Trường Sa, khiến từ đây nhà họ Ngô luẩn quẩn trong vòng vây số phận.

Tình hình lúc đó hẳn là, bọn họ đi vào con đường bí mật làm từ ngọc đen, phá hoại việc “lột da” của Thiết Diện Sinh, khiến Thiết Diện Sinh biến thành huyết thi, anh trai của Ngô lão cẩu trẻ tuổi hăng hái, bừng bừng khí thế lấy được sách lụa và đan dược bọ ăn xác trong miệng Cửu Thiên nương nương bốn mắt.

Lúc này, động chạm đến huyết thi, cả ba người đều sập bẫy.

Anh trai của lão cẩu chắc đã ăn nhầm hoặc trong lúc sợ hãi xơi luôn đan dược bọ ăn xác, xem đó là “thuốc cứu mạng” để rồi biến thành huyết thi.

“Đạo Mộ Bút Ký” có viết lại chuyện năm mươi năm trước ông nội Ngô Tà lúc còn trẻ đã nhìn thấy một người toàn thân nhẫy nhụa máu tươi, hẳn là cụ nội Ngô Tà sau khi trúng đòn, khuôn mặt to tướng không có con ngươi chính là huyết thi Thiết Diện Sinh.

Huyết thi đó đâu rồi? Chạy mất? Hay là bị anh trai của lão cẩu giết? Không rõ nữa.

Bốn viên thuốc trong mộ, hẳn là một viên Thiết Diện Sinh ăn khi còn sống, một viên bị anh trai lão cẩu ăn, một viên được Ngô Tam Tỉnh lấy đi và một viên bị chính ông ta làm vỡ.

Về sau, tuy rằng Ngô lão cẩu khôn ngoan lanh lợi, nhưng tuổi còn nhỏ lại chịu đả kích quá lớn, chắc không dám dọ dẫm mò vào trong mộ nữa, sau Giải Phóng, quyển sách lụa Chiến Quốc ông ta lấy được bị Cầu Đức Khảo lừa đi, không lâu sau còn bị Cầu Đức Khảo bán đứng, Ngô lão cẩu chạy trốn tới Hàng Châu, vậy hẳn cũng không còn dịp vào ngôi mộ ấy nữa.

Vậy là huyết thi họ Ngô đành thẫn thờ trong mộ suốt mấy chục năm.

Thứ hai, sự kiện then chốt xảy ra vào năm 1974.

Năm 1974 là năm bắt đầu và cũng là then chốt những chuyện xảy đến với đội khảo cổ.

Bởi vì, năm ấy Cầu Đức Khảo ở Mỹ đã giải ra được nội dung cuốn sách lụa Chiến Quốc hắn gạt được từ tay Ngô lão cẩu (Về phần một người Mỹ như hắn làm sao có thể giải ra được cuốn sách lụa này thì còn là câu chuyện rất dài phía sau).

Khi đó quan hệ Mỹ – Trung đã giảm nhiệt và bắt đầu ngoại giao, sự kiện có thể chấn động cả giới khảo cổ này truyền đến Trung Quốc chắc chắn thu hút rất nhiều sự chú ý! Đó là khoảng thời gian mà giới khảo cổ Trung Quốc hừng hực khí thế, hơn nữa còn có một nhân vật lớn đứng sau giật dây, mong muốn nắm được bí mật sâu nhất đằng sau cuốn sách lụa này.

Dựa vào thế lực của cả quốc gia chắc chắn dễ dàng điều tra được Cầu Đức Khảo lấy được cuốn sách lụa từ tay người nào, chính là Ngô lão cẩu và nhà họ Ngô.

Đây là “nguồn cơn kinh động trung ương” mà “bút ký” nhiều lần nhắc tới.

Xuất phát từ chuyện đầy bí ẩn như vậy, thế lực đó nhất định sẽ tìm ra được Ngô lão cẩu, buộc ông ta trở lại ngôi mộ cổ huyết thi, kiểm tra xem còn sót lại cuốn sách lụa Chiến Quốc nào không.

Khoảng năm 1974, chắc chắn Ngô lão cẩu đã xuống ngôi mộ huyết thi lần nữa, và đi xuống cùng ông ta lần này, là Giải cửu gia – cha của Giải Liên Hoàn.

Hai người là họ hàng, quan hệ cũng rất tốt, hơn nữa còn chung một “nguồn cội”. Tình tiết này Tam Thúc có nhắc đến trong bản Internet, sau lại cắt đi không có trong sách xuất bản.

Ngô lão cẩu và Giải cửu gia xuống mộ, chắc chắn có sự giám sát của quân đội hoặc chính phủ bên ngoài.

Họ không kinh động đến huyết thi, hoặc huyết thi không tấn công bọn họ, chắc bởi huyết thi còn sót lại chút ý thức biết được đây là em trai mình, mà Ngô lão cẩu hiển nhiên cũng không muốn lộ ra.

Quả nhiên Ngô lão cẩu và Giải cửu gia đã lấy được quyển sách lụa Chiến Quốc khác từ dưới mộ. Đương nhiên, họ lập tức phải giao nộp.

Sự kiện then chốt xảy ra vào năm 1974 (tiếp theo).

Cuốn sách lụa Chiến Quốc mà Ngô lão cẩu và Giải cửu gia lấy được hẳn đã được giải ra nhanh chóng, nội dung một lần nữa khiến “cấp cao” giật mình.

Bản sách lụa này vốn do Thiết Diện Sinh ghi chép, hắn nhất định đã thuật lại chuyện trường sinh bất lão của Tây Vương Mẫu, còn cả thần thoại thanh đồng cổ của hậu duệ Xi Vưu (bên trên tôi từng nói, bản thân Thiết Diện Sinh chính là hậu duệ Xi Vưu).

Năm 1974 còn xảy ra chuyện gì nữa? Phải, chính là Trần Bì A Tứ đổ đấu Kính Nhi cung bị người Mèo đâm mù mắt, chính là lần con xà mi đồng ngư đầu tiên được đào lên. Ba con xà mi đồng ngư của Uông Tàng Hải đều ghi lại vị trí ngôi mộ dưới đáy biển và bí mật trường sinh bất lão (đồng ngư được tạo ra để dụ dỗ kẻ trộm mộ mò xuống đáy biển).

Hai chuyện này cùng hướng tới bí mật “trường sinh”, mở ra bức màn âm mưu đã được vạch sẵn.

Chính phủ hoặc quân đội đã chuẩn bị một loạt thủ đoạn ngoài sức tưởng tượng để nhảy vào và nghiên cứu chuyện này.

Thế lực này chính là “nó”.

Đội khảo cổ của Văn Cẩm được thành lập từ lúc đó, nhưng họ cũng không hề biết sự thật, cũng chẳng biết “nó” đứng sau bức màn.

Vì sao toàn bộ hồ sơ về họ đều biến mất? Là bởi vì ngay từ đầu, đội khảo cổ này đã trở thành vật thí nghiệm và vật hi sinh của “nó”.

Điểm dừng chân đầu tiên của đội khảo cổ, chính là âm sơn cổ lâu nơi phát hiện ra “cục sắt”, bí mật thanh đồng cổ do người Mèo hậu duệ Xi Vưu bảo vệ. Ở nơi này, Muộn Du Bình đã dính líu với đội khảo cổ để rồi cuối cùng gia nhập đội này.

Trong kế hoạch của “nó” còn có một bước đi nữa, chính là dụ dỗ Cầu Đức Khảo tham dự.

Đầu tiên, Cầu Đức Khảo có trong tay quyển sách lụa thứ nhất, đồng thời giải ra được nội dung vô cùng có giá trị bên trong, sau khi dẫn dụ Cầu Đức Khảo nhảy vào, thì “nó” có thể ở đằng sau làm ngư ông đắc lợi. Đây có thể coi là phương án tốt nhất để thực hiện một nhiệm vụ bí mật.

Giáng sinh năm 1975, Cầu Đức Khảo nhận được hình ảnh quyển sách lụa Chiến Quốc mới! Từ đó về sau, người này điên cuồng nhảy vào dòng xoáy mê man không lối thoát này.

Vậy ai đã gửi thứ đó cho Cầu Đức Khảo? Ngô Tam Tỉnh hoặc Giả Liên Hoàn! (Bản Internet của Tam Thúc có đề cập đến tình tiết này).

Thật ra, chính “nó” đã bày kế để Ngô, Giải nhử Cầu Đức Khảo, khiến cho Cầu Đức Khảo tin rằng đây là ý đồ của mấy kẻ trộm mộ, dụ dỗ Cầu Đức Khảo chui vào. Cũng chính như lời Văn Cẩm từng nói thật ra “nó” mượn tay hai nhà Ngô, Giải nói cho Cầu Đức Khảo biết vị trí cuốn sách lụa mới và ngôi mộ dưới đáy biển.

Đội khảo cổ và Cầu Đức Khảo, cả hai lực lượng này đều là quân cờ của “nó”.

Về phần vì sao “nó” lại muốn áp dụng biện pháp bí mật khác thường như vậy, thì phía trên tôi đã từng phân tích qua:

1, Đây là một chuyện vô cùng thần bí – bí mật trường sinh, chuyện này khác với việc khai quật tượng binh mã, nó nhuốm màu quỷ thần mê tín, cực kỳ tương phản với nền giáo dục nhân dân bao năm qua cũng như hình thái ý thức vô thần được giương cao dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, cho nên không cách nào khua chiêng gõ trống mà làm được.

2, Việc này nhuốm màu quỷ thần, các nhà khảo cổ chính thống không thể làm được, cần nhờ đến giới trộm mộ tham gia, đây cũng là một trong những nguyên nhân không thể khua chiêng gõ trống.

3, Cuốn sách lụa Chiến Quốc được dịch ở nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn, nên càng không thể đánh rắn động cỏ, xử lý không tốt sẽ ảnh hưởng đến cả quan hệ quốc tế.

4, Chuyện này khả năng còn phải thí nghiệm trên cơ thể con người, càng không thể công khai.

Thế lực quốc gia không tiện công khai tham dự, nhưng lại muốn nắm trong tay kết quả cuối cùng, vừa muốn lợi dụng vừa muốn trông chừng đề phòng giới trộm mộ và Cầu Đức Khảo.

Nói chung, việc này chỉ có thể thực hiện bí mật, ngay từ đầu số phận đội khảo cổ đã được định sẵn, không cần biết là thành công hay thất bại, đều sẽ bị vứt bỏ sau khi hết giá trị lợi dụng.

Thứ ba, năm 1975, một năm trước khi đi Tây Sa.

Bắt đầu từ khi Ngô lão cẩu và Giải cửu gia tiến vào ngôi mộ huyết thi lần thứ hai vào năm 1974, hai nhà Ngô – Giải bắt đầu bị “nó” ép phải bí mật làm việc cho mình.

Ngô lão cẩu đã già, Ngô Tam Tỉnh trở thành chủ lực. Trong kịch bản mà “nó” vạch ra, Ngô Tam Tỉnh trên danh nghĩa là làm việc cho Cầu Đức Khảo.

Thật ra, Ngô Tam Tỉnh là cá bị “nó” dùng làm mồi câu đồng thời kiềm chế và giám sát Cầu Đức Khảo.

Cho nên, Ngô Tam Tỉnh năm đó, là “gián điệp ba mang”.

Thân phận thứ nhất là bạn trai của Trần Văn Cẩm trong đội khảo cổ, thân phận thứ hai là giả vờ làm việc cho Cầu Đức Khảo và thân phận thứ ba – cũng là thân phận thật sự – chính là người mà “nó” sắp xếp nằm vùng trong đội khảo cổ và giám sát Cầu Đức Khảo.

Từ khoảng năm 1976, đội khảo cổ của Văn Cẩm đã được thành lập.

Vậy thì, một Ngô Tam Tỉnh hoàn toàn không xứng đôi với người đầy cá tính như Văn Cẩm lại có thể nảy sinh tình cảm có phải cũng là do “nó” sắp xếp hay không?

Mục đích là để Ngô Tam Tỉnh có một lý do danh chính ngôn thuận tiếp cận và gia nhập đội khảo cổ, mà không khiến cho người trong đội nghi ngờ?

Khi đó “nó” lợi dụng hai nhà Ngô, Giải, bởi suy cho cùng chính nhà họ Ngô là người trộm cuốn sách lụa Chiến Quốc ấy ra. “Nó” chủ yếu dùng Ngô Tam Tỉnh để giám sát Cầu Đức Khảo. Về phần Giải Liên Hoàn, có lẽ giống như Văn Cẩm nói, y đúng là một sinh viên khảo cổ bình thường tham gia vào đội khảo cổ của Văn Cẩm. Thế nhưng, Giải Liên Hoàn vẫn là “chân trong” mà “nó” xếp vào đội khảo cổ. Giải Liên Hoàn dựa vào tri thức và kinh nghiệm được truyền thụ từ gia tộc trộm mộ của mình mà hỗ trợ nhóm học sinh không có chút kinh nghiệm đổ đấu nào (cũng giống như vai trò của Bàn Tử sau này).

Từ năm 1975 Ngô Tam Tỉnh gửi cuốn sách lụa mới lấy được cho Cầu Đức Khảo, thì đã luôn dựa trên danh nghĩa làm việc cho họ Cầu mà nhử đủ loại thế lực nhảy vào.

Mà đồng thời, Giải Liên Hoàn cũng được “nó” sắp xếp gia nhập đội khảo cổ, hỗ trợ đội khảo cổ tìm hiểu bí mật “trường sinh bất lão”.

Một năm trước sự kiện ở Trường Sa, họ Cầu cuối cùng cũng tới Trung Quốc, bắt đầu hành động, việc làm đầu tiên chính là lần nữa đào xới ngôi mộ huyết thi Trường Sa.

Mọi người có cảm thấy rằng, Ngô Tam Tỉnh chạm mặt Cầu Đức Khảo ở ngôi mộ huyết thi thật trùng hợp quá mức?

Thêm cả rất nhiều lần sau đó, chú Ba (Giải Liên Hoàn) và Cầu Đức Khảo đều không hẹn mà gặp.

Thật ra, Ngô Tam Tỉnh đang giám sát Cầu Đức Khảo theo lệnh của “nó”.

Những chuyện xảy ra dưới mộ, Ngô Tam Tỉnh giết chết huyết thi họ Ngô, xua nhầm bọ ăn xác đuổi đám người Cầu Đức Khảo chạy tóe khói, lấy được một viên đan dược, có lẽ đều là thật.

Mấu chốt của chuyện này chính là để Ngô Tam Tỉnh nhìn thấy cảnh tượng bi thảm người biến thành huyết thi cùng với chỗ kinh khủng của bí mật này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,952
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 23 guests