Phần 3: Sợi dây mê thứ hai – Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Sự phát triển bí mật trường sinh bất lão thời cổ đại.
Thứ nhất, thời đại Phục Hy – Nữ Oa, khởi nguồn của nền văn minh Trung Hoa cổ đại.
Khi đó con người có hai đặc điểm, thứ nhất là có thể sống cả ngàn năm, thứ hai là nhân thú hợp thể. Hình tượng của Phục Hy – Nữ Oa chính là đầu người thân rắn, hơn nữa là anh em kết hôn với nhau. Đây là bí mật cách thức trường sinh của họ, bởi vì có nhiều loài động vật sống lâu hơn con người rất nhiều, thời đại Phục Hy là thời sống cộng sinh giữa người và thú.
Đầu tiên, họ có thể sử dụng thanh đồng cổ khống chế hành vi động vật, chiếc chuông trên đuôi của bọ ăn xác chúa trong Lỗ Vương cung chính là loại thanh đồng này.
Bọn họ có thể trường sinh, có lẽ do đã để loài vật nào đó sống trong thân thể mình, hình thành mối quan hệ cộng sinh.
Như Phục Hy hẳn đã bỏ rắn vào trong bụng, như vậy ngài có thể có được tuổi thọ của rắn, đồng thời giữ nguyên được tư duy con người. Khuyết điểm duy nhất là biến thành hình dạng đầu người thân rắn (kết hợp gen giữa rắn và người), mang thân hình “yêu quái”!
Tuy rằng tuổi thọ của Phục Hy Nữ Oa rất dài, nhưng họ vẫn sẽ chết, khi con rắn nằm trong cơ thể họ chết đi, họ cũng sẽ chết theo. Phục Hy sống 1,100 tuổi hẳn là tuổi thọ của rắn cộng sinh trong cơ thể ngài.
Đây là trường hợp trường thọ xưa nhất được ghi nhận, cũng là khởi điểm của tất cả các biện pháp trường sinh đến nay.
Bên trên tôi đã đề cập qua, di tích cổ xưa và cánh cửa thanh đồng dưới lòng đất Vân Đỉnh Thiên Cung chính là do Phục Hy để lại.
Bộ lạc Đông Di có một số loài vật cổ, đều bị con người dùng thanh đồng thuần hóa, phục vụ cuộc sống hoặc cộng sinh với con người.
Đại du diên, mang nguyên hình rồng.
Đại điểu, mặt người thân chim.
Rắn, Phục Hy mặt người thân rắn.
Sâu bọ, trùng đồ đằng của bộ lạc Phục Hy.
Thứ hai, theo dòng chảy của lịch sử, sau khi Phục Hy chết, bộ lạc Đông Di bắt đầu chia cắt:
Một nhánh của Hoàng Đế, đi tới vùng Trung Nguyên, bắt đầu phát triển ngành trồng trọt chăn nuôi.
Một nhánh của Xi Vưu, phát triển một nền tế tự vu cổ và văn minh thanh đồng rực rỡ ngay tại Hà Bắc.
Một nhánh của Tây Vương Mẫu, đi tới núi Côn Luân, mang theo chim, rắn và trùng.
Ba bộ lạc bắt đầu phát triển theo các phương thức khác nhau, nói đơn giản, Hoàng Đế thích hòa bình xây dựng, Xi Vưu thích chinh chiến cúng tế, Tây Vương Mẫu lại thích nghiên cứu và phát triển thuật trường sinh bất lão.
Nhưng lúc đó, bọn họ vẫn duy trì hình dạng nhân thú cộng sinh từ thời Phục Hy: “Sơn Hải Kinh” miêu tả, Hoàng Đế, Xi Vưu, Tây Vương Mẫu đều là quái vật nửa người nửa thú, Hoàng Đế là người kết hợp với rồng, Xi Vưu là người hợp nhất với chim, Tây Vương Mẫu còn kết hợp nhiều loại động vật hơn nữa, điều này đã cho thấy, bọn họ vẫn duy trì cách thức trường sinh “cộng sinh giữa người và thú”, tuổi thọ của bọn họ, đều khoảng hơn ngàn năm.
Thứ ba, sau đó chiến tranh bắt đầu nổ ra.
Đầu tiên là bộ lạc Viêm Đế đánh nhau với Hoàng Đế, Viêm Đế là đại biểu của nền văn minh nông nghiệp, sau đó, hai bộ lạc này hợp nhất, hình thành tổ tiên của Hoa Hạ. Tiếp theo là cuộc chiến giữa Viêm Đế và Xi Vưu. Xi Vưu mang hình tượng chiến thần, lại biết thuật vu cổ, ban đầu Hoàng Đế không đánh lại Xi Vưu, đến khi Tây Vương Mẫu đứng về phía Hoàng Đế, bà phái Cửu Thiên Huyền Nữ (mặt người mình chim), trợ giúp Hoàng Đế hóa giải vu cổ của Xi Vưu, Xi Vưu thua trận bị giết, từ đó bộ tộc Xi Vưu tản mác khắp nơi, một bộ phận gia nhập bộ lạc của Viêm Hoàng, một bộ phận khác lưu lạc đến Trường Sa, rồi đến Quảng Tây, Vân Nam, trở thành tộc Miêu, tộc Dao.
Từ đây về sau lịch sử bước vào thời đại “Ngũ Đế”:
Bộ lạc Xi Vưu lưu lạc khắp nơi, chắc hẳn cũng dần mất đi thuật trường sinh “nhân thú cộng sinh”, chỉ còn một số ít hậu nhân vẫn còn giữ gìn được nền văn minh thanh đồng và phát triển nền văn hóa vu cổ.
Nhánh của Hoàng Đế tiếp tục phát triển lớn mạnh, trở thành dòng chính của nền văn minh Trung Hoa, đi theo trồng trọt chăn nuôi mà quên dần và từ bỏ hình tượng yêu quái “nửa người nửa thú”, dần dần biến thành người bình thường, đương nhiên cũng mất đi khả năng “trường sinh”.
Chỉ có Tây Vương Mẫu, kế thừa và phát triển thuật trường sinh từ thời Phục Hy.
Thứ tư, trong khoảng thời gian từ thời Hoàng Đế đến giữa thời Tây Chu:
Trung Nguyên đang trải qua bước chuyển mình từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến triều Hạ, Thương, Chu.
Trong khi đó, Tây Vương Mẫu ở Côn Luân vẫn tách mình khỏi mấy nghìn năm năm chiến tranh chinh phạt ở Trung Nguyên, đứng riêng một trời đất.
Tây Vương Mẫu có lẽ là hậu duệ gần gũi nhất, chính tông nhất của Phục Hy Nữ Oa, bởi vì văn hóa bộ lạc Phục Hy thuở ban đầu được bà gìn giữ nguyên vẹn nhất.
Mà, Tây Vương Mẫu cũng vẫn mải miết nghiên cứu thuật trường sinh suốt mấy nghìn năm.
Vì sao Tây Vương Mẫu lại muốn dời đến núi Côn Luân? Câu trả lời là: Vì ngọc!
Đúng vậy, chính là ngọc. Trong nền văn hóa cổ đại Trung Hoa, Tây Vương Mẫu nổi danh với ngọc, một loại ngọc màu đen có thể giúp cho người ta “trường sinh bất lão”. Có ghi chép từng chỉ ra rằng, Tây Vương Mẫu từng dùng loại ngọc này chế thành “ngọc anh” cho Hoàng Đế ăn, sau khi ăn có thể giữ cho dung nhan trẻ mãi, trường sinh bất tử.
Mọi người có cảm thấy quen không? Đúng vậy, ngọc này chính là vẫn ngọc mà Văn Cẩm đã tiến vào, cũng là chất liệu tạo nên áo ngọc của Lỗ Thương Vương.
Nắm rõ thuật “nhân thú cộng sinh” của Phục Hy, thuật khống chế xà điểu, thêm vào thuật giữ cho dung nhan ngàn năm trẻ mãi, Tây Vương Mẫu bắt đầu cuộc thực nghiệm trường sinh bất lão cả mấy ngàn năm, mở màn một vở kịch vô cùng đặc sắc.
Ba phương pháp trường sinh bất lão của Tây Vương Mẫu:
Phương pháp thứ nhất: Nhân thú cộng sinh.
Đây vẫn là phương pháp cũ Phục Hy truyền lại, người kết hợp với rắn, người kết hợp với chim vân vân, lý thuyết trường sinh của cách thức này chính là: Nếu như con người sống bình thường, thì có thể chiếm được tuổi thọ của loại động vật cộng sinh trong cơ thể, trên dưới ngàn năm. Nếu như người gặp phải chuyện gì bất trắc, thì chỉ cần loài vật sống trong cơ thể mình còn sống, thì bằng cách cộng sinh giữa người và động vật, động vật sẽ có được trí nhớ và ý thức của con người, tiếp tục cộng sinh với một người khác đã bị gột sạch ký ức, thực hiện việc “chuyển thế”.
Nhược điểm của phương pháp này là đến khi loài vật sống trong cơ thể người chết đi, người cũng sẽ chết theo, thêm nữa tất cả sẽ đều biến thành yêu quái nửa người nửa thú.
Lúc đầu chắc chắn Tây Vương Mẫu đã dùng biện pháp như thế, cho nên bà mới mang bộ dạng yêu quái.
Điều này có thể chứng minh bằng di tích ở Xà Chiểu, với những người phụ nữ mặt người thân rắn trên bức bích họa cộng thêm những con rắn mào gà có hành vi cổ quái (rắn mào gà là loại rắn có linh tính được Tây Vương Mẫu thuần dưỡng dùng cho việc nhân thú cộng sinh thời kỳ đầu).
Biện pháp thứ hai: Đan dược = ngọc anh + bọ ăn xác chúa.
Nhược điểm của biện pháp trường thọ “nhân thú cộng sinh” chính là cốt lõi thay đổi của Tây Vương Mẫu.
Động vật sống trong cơ thể người chết thì người cũng chết theo, vậy phải làm sao bây giờ?
Có thể tìm cách giữ lại trí nhớ và ý thức của con người, đồng thời giữ cho thân thể không thối rữa và sống lại?
Có thể không mang bộ dạng yêu quái nữa không?
Động vật cộng sinh trong cơ thể người có kích thước rất nhỏ, không giống chim hay đại xà.
Tây Vương Mẫu phát hiện ba thứ: Bọ ăn xác, vẫn ngọc (thiên thạch), và rắn mào gà chúa.
Bọ ăn xác là loại động vật dùng cách đẻ trứng trong não người mà bảo tồn ký ức con người, kích thước cũng nhỏ, có thể trở thành động vật cộng sinh mới.
Vẫn ngọc – người ăn vào lúc sống có thể giữ cho dung nhan trẻ mãi không già, sau khi chết đi cũng có thể giữ cho thi thể không thối rữa.
Rắn mào gà chúa, khẳng định là rắn thần có thể sống lại sau khi lột xác.
Vì vậy Tây Vương Mẫu bắt đầu một cuộc thực nghiệm trên quy mô lớn:
Những chiếc bình của Tây Vương Mẫu trong quỷ thành chứa những đầu người đầy trứng bọ ăn xác chết, chính là thực nghiệm dùng bọ ăn xác để bảo tồn ký ức.
Bức bích họa ghi lại cảnh cho rắn mào gà ăn trứng bọ ăn xác chết, cho thấy Tây Vương Mẫu muốn tạo ra loại sinh vật có ưu điểm của cả bọ ăn xác và rắn mào gà.
Loại sinh vật cực kỳ lợi hại này đã được Tây Vương Mẫu chế tạo thành công, đúng vậy, chính là bọ ăn xác chúa!
Cổ trong vu cổ cũng được tạo nên bằng cách cho những sinh vật đáng sợ này ở cùng một chỗ, để chúng nó cắn xé lẫn nhau, cuối cùng giữ lại một con duy nhất, trở thành cổ (sâu độc).
Bọ ăn xác chúa của Tây Vương Mẫu cũng chính là loài động vật này.
Nó có sức mạnh của cả bọ ăn xác và rắn mào gà, có thể bảo trì ký ức, giúp con người giữ được hình dạng con người, lại giúp cho họ có thể lột da mà sống dậy.
Đương nhiên, bọ ăn xác là thứ kịch độc.
Cho nên, Tây Vương Mẫu phải nhốt thứ này trong một viên ngọc, chế thành thuốc trường sinh bất lão.
Lúc Tây Vương Mẫu sắp chết, chỉ cần ăn viên thuốc này vào, nằm trong vẫn ngọc đợi ngày sống dậy.
Lúc này bọ ăn xác chết sẽ đẻ trứng trong não người để giữ lại ký ức cho người đó, đồng thời vẫn ngọc giúp cho xác chết không bị phân hủy, thêm vào khả năng lột xác của rắn. Sau vài lần lột da, con người có thể lấy lại được tuổi trẻ, đồng thời khôi phục trí nhớ, sống lại một lần nữa. Tác dụng của vẫn ngọc tất nhiên mạnh hơn áo ngọc rất nhiều, quá trình sống lại của Tây Vương Mẫu chắc sẽ ngắn hơn người khác rất nhiều, đại khái chỉ mất mấy trăm năm?
Phương pháp thứ ba: Ăn đan dược lúc còn trẻ và còn sống
Con người đương nhiên ai cũng có lòng tham, Tây Vương Mẫu cũng không ngoại lệ.
Tuy rằng thực hiện được việc “sống lại”, nhưng vẫn cần phải “chết” một khoảng thời gian rất dài.
Nếu như lúc còn trẻ và còn sống bà ta ăn luôn đan dược chế từ bọ ăn xác chết thì sẽ thế nào?
Nhất định Tây Vương Mẫu thí nghiệm trên vô số người sống, kết quả là chết ngay tức khắc hoặc trở thành các loại quái vật điên cuồng như cấm bà. Nói chung là không thành công.
Cuối cùng, Tây Vương Mẫu phát hiện ra một bí mật: Cách duy nhất để lúc sống ăn luôn đan dược chế từ bọ ăn xác chết mà không nguy hiểm đến tính mạng, có thể thực hiện được mong muốn trường sinh, chính là: Chui vào trong vẫn ngọc, không rời khỏi vẫn ngọc.
Như vậy chúng ta có thể đoán được, Tây Vương Mẫu lựa chọn biện pháp thứ ba.
Người ngồi ở bên ngoài vẫn ngọc, một thi hài rất giống với Tây Vương Mẫu, chính là “cái bóng của nữ vương”, giúp Tây Vương Mẫu truyền tin và ra lệnh cho bên ngoài.
Còn người phụ nữ thò đầu ra khỏi vẫn ngọc kia, có lẽ chính là bản thân Tây Vương Mẫu.
Thứ năm, Chu Mục Vương và Tây Vương Mẫu, thuật trường sinh được tái hiện lại ở vùng Trung Nguyên.
Trong thần thoại Trung Hoa, Chu Mục Vương là tình nhân của Tây Vương Mẫu.
Chu Mục Vương đi về phía Tây gặp được Tây Vương Mẫu, bên cạnh Dao Trì (nơi ở của Tây Vương Mẫu trong thần thoại), uống rượu vẽ tranh, tâm đầu ý hợp, say sưa bao ngày. Chu Mục Vương đã dùng tơ tằm chói lóa và ngọc bích quý giá mà mình yêu quý nhất làm quà gặp mặt kiêm vật đính ước.
Giây phút chia tay, Tây Vương Mẫu nói với vị thiên tử ấy: “Trên trời có mây trắng, dưới đất mọc gò đồi, con đường còn xa xôi, lại núi sông cách trở, nếu chàng được sống mãi, liệu có trở lại đây?”.
Năm tháng sau này, Tây Vương Mẫu vẫn si ngốc đợi người tình Mục Vương quay trở lại, nhưng chờ hoài chờ mãi chẳng thấy đâu.
Lý Thương Ẩn từng có câu thơ: “Tám ngựa ngày đi ba vạn dặm, cớ sao Mục vương không lại thăm?”.
Chu Mục Vương là vị thiên tử đam mê chinh phạt và ngao du của thời đại Tây Chu.
Ngài đã cưỡi tám con ngựa đi tới núi Côn Luân gặp Tây Vương Mẫu.
Ban đầu, có thể là vì chiến tranh, nhưng hiển nhiên giống như bích họa kia miêu tả, ông ta không có cách nào đối phó được đám rắn mào gà.
Ông ta gặp được vị Tây Vương Mẫu đã nghiên cứu ra được loại đan dược bọ ăn xác giúp trường sinh bất lão kia.
Cho nên bà đã không còn là yêu quái nửa người nửa thú, trở thành một nữ vương bình thường xinh đẹp tuyệt trần (chép trong “Mục thiên tử truyện”).
Có thể, Mục Vương và Tây Vương Mẫu gặp nhau giữa chiến tranh đã si mê lưu luyến, cũng có thể, Mục Vương chỉ là giả vờ đầu hàng giả vờ yêu thương.
Nhưng Tây Vương Mẫu thật sự thích Chu Mục Vương, vô cùng dịu dàng lưu luyến, vào thời khắc ly biệt, Tây Vương Mẫu ưng thuận lời hẹn tái kiến, còn tặng thuốc trường sinh bất tử cho Chu Mục Vương.
Cũng chính là đan dược dùng ngọc thạch bọc lấy bọ ăn xác chúa, kèm theo chiếc áo ngọc (do vẫn ngọc tạo thành).
Mục Vương và Tây Vương Mẫu cùng nhau ước hẹn. Tây Vương Mẫu còn trao cho Mục Vương hai vật khác: Một là ấn quỷ để điều động âm binh, giúp Mục Vương tiếp tục giấc mơ chinh phạt; hai là đàn bọ ăn xác đã bị thanh đồng cổ khống chế (bọ ăn xác đeo chuông lục giác trong Lỗ Vương cung).
Hiện tại có thể giải thích chuông lục giác chính là thanh đồng cổ khống chế động vật thời Phục Hy.
Mục Vương trở lại trung nguyên, xây mộ mình trong một ngọn núi ở Sơn Đông (thường chỉ có đế vương mới xây lăng trong núi).
Lúc sắp chết quả nhiên ông ta đã làm theo lời dặn của Tây Vương Mẫu, ăn đan dược, mặc áo ngọc, ngồi xếp bằng dưới một gốc cây (lời hẹn với Tây Vương Mẫu?), đợi đến ngày lột da sống dậy.
Ông ta chôn chung ấn quỷ trong mộ mình, còn bọ ăn xác dùng để bảo vệ lăng.
Thứ sáu, biến cố thời Chiến Quốc:
Thời gian tiếp tục chảy trôi.
Rất nhanh sau đó, vương triều nhà Chu suy đồi, lịch sử bước vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc đầy rối ren.
Lỗ Thương Vương là một tướng quân lập nghiệp nhờ việc giúp Lỗ Quốc Công đổ đấu, còn Thiết Diện Sinh là trợ thủ của lão, người tinh thông phong thủy Kinh Dịch này chính là hậu duệ của Xi Vưu.
Trong một lần đổ đấu Lỗ Thương Vương phát hiện ra lăng mộ trong núi của Chu Mục Vương, chắc chắn đã tìm được bản ghi chép câu chuyện của Chu Mục Vương và Tây Vương Mẫu.
Lão lấy được hai thứ Tây Vương Mẫu trao cho Chu Mục Vương: Ấn quỷ và bọ ăn xác đeo chuông đồng, vì vậy mà tinh thần càng thêm hăng hái.
Chuyện được kể trên sách lụa tơ vàng của Lỗ Thương Vương, nào là phát hiện ra rắn lớn, nào là chiếm được hai báu vật thế gian, thật ra ám chỉ quá trình lão trộm mộ Chu Mục Vương.
Lỗ Thương Vương là một kẻ thô kệch, những bí mật này chắc chắn là do Thiết Diện Sinh giải ra giúp lão.
Cho nên Thiết Diện Sinh cũng biết bí mật này.
Hắn biết Lỗ Thương Vương rồi cũng sẽ thay thế Mục Vương tiến vào áo ngọc, nhưng hắn cũng nhìn ra, áo ngọc kia một khi khoác lên người khác thì sẽ lập tức mất tác dụng.
Hắn bắt đầu suy tính cách trường sinh cho mình, tự mình mang theo một đoàn người đến chỗ Tây Vương Mẫu ở núi Côn Lôn, lấy được một ít vẫn ngọc màu đen và bốn viên đan dược bọ ăn xác, về phần quá trình diễn ra thế nào, thì lại là một câu chuyện khác.
Lúc sắp chết, Lỗ Thương Vương đã lôi cổ Chu Mục Vương ra khỏi áo ngọc, quẳng huyết thi Mục Vương vào quan tài sắt trông ở cửa mộ, biến thành “thú trông nhà” bảo vệ mộ cho lão, còn lão tự mình mặc áo ngọc, xây mộ mình bên trên mộ Chu Mục Vương, đặt ra thất tinh nghi quan.
Mục Vương mất đi “trường sinh” trong tay Lỗ Thương Vương, thương cảm thay “Bát mã ngày đi ba vạn dặm, cớ gì Mục Vương không lại thăm?”, nhưng Lỗ Thương Vương cũng phí công toi, bởi vì thật ra áo ngọc kia đã mất đi công dụng.
Trước khi Lỗ Thương Vương chết, Thiết Diện Sinh cũng đã giả chết, rồi bí mật tìm kiếm vùng đất phong thủy tốt nhất, cuối cùng tìm được huyết địa ở Trường Sa, tự xây mộ cho mình.
Đồng thời, hắn là hậu nhân của Xi Vưu, mà Tam Miêu lúc đó cũng đang tụ tập ở Trường Sa, càng dễ dàng cho Thiết Diện Sinh hành động.
Chắc hẳn Thiết Diện Sinh đã viết lại cuộc đời mình, cả bí mật của Tây Vương Mẫu lên cuốn sách lụa, để lại một bản cho hậu nhân hoặc con cháu trong tộc, còn một bản khác chôn chung trong mộ của mình.
Hắn thiết kế mộ thất hai tầng, bên trên là một quan tài trống, còn mật đạo bên dưới hoàn toàn được tạc từ vẫn ngọc, xem như một chiếc áo ngọc khổng lồ, rồi lại điêu khắc tượng Cửu Thiên nương nương (Tây Vương Mẫu), đặt sách lụa và đan dược bọ ăn xác vào trong.
Sau đó tự mình nuốt chửng bọ ăn xác, thực hiện kế hoạch “trường sinh” của chính mình.
Thứ bảy, vương quốc Đông Hạ những năm đầu triều Nguyên.
Sau thời đại Phục Hy, lịch sử Đông Bắc bị trống một khoảng lớn, có lẽ bởi khí hậu không thuận lợi cho việc phát triển nền văn minh rực rỡ.
Sau khi bộ lạc Đông Di rời đi đã để lại một di chỉ đồ sộ: cánh cửa đại đồng nằm dưới nền đất thung lũng, có thể còn để lại một ít hậu duệ để bảo vệ và trông coi.
Vì sao giữa thời Tống – Nguyên lại xuất hiện một nhà nước Đông Hạ?
Đáp án chính là sự nổi dậy của người Nữ Chân đã uy hiếp đến bí mật di chỉ Phục Hy và sự sinh tồn của hậu duệ trong tộc, dẫn đến nhất định phải thành lập một chính quyền, số hậu duệ này chắc chắn rất ít ỏi, buộc phải chinh phục và lợi dụng người Nữ Chân.
Phương pháp mà hậu duệ Phục Hy dùng để chinh phục người Nữ Chân hẳn là:
Uy hiếp: Dấu tích chim lớn có lực sát thương cao: Lợi dụng công năng gây ảo giác của cánh cửa thanh đồng và khả năng uy hiếp của Vạn Nô Vương thần bí.
Lợi ích: Hứa sẽ cùng họ trẻ mãi không già (Thị tộc Phục Hy có nền văn hóa ngọc, dùng ngọc để bảo trì nhan sắc không phải việc khó).
Vậy Vạn Nô Vương là ai?
Vạn Nô Vương chính là hậu duệ giữ cửa của thị tộc Phục Hy, gần như còn bảo tồn nguyên vẹn truyền thống của thời đại Phục Hy.
1, Người chim khổng lồ, dùng chuông thanh đồng khống chế đám “khỉ trong miệng”.
2, Long đồ đằng, chính là du diên.
3, Thuật dùng thanh đồng tế bái và gây ảo giác tập thể.
4, Phương thức trường sinh “Người và động vật cộng sinh trong cùng một cơ thể”, chỉ có bọn họ còn giữ lại hình dạng yêu quái thời đại Phục Hy.
Thị tộc Phục Hy trước đây cộng sinh với rắn, nhưng khí hậu ở núi Trường Bạch có lẽ không thích hợp cho rắn sống, rắn đã được Tây Vương Mẫu đưa đến Côn Lôn rồi. Loài vật duy nhất thích hợp với việc cộng sinh ở đây là du diên. Cho nên yêu quái mười hai cánh tay Vạn Nô Vương chính là người cộng sinh với du diên, vì chỉ có du diên mới có nhiều chân như vậy. Thế nhưng, sự cộng sinh giữa người và du diên không thể lâu dài như với rắn, cho dù tuổi thọ của du diên rất dài, nhưng tuổi thọ của các đời Vạn Nô Vương cũng không cao cho lắm.
5, Truyền thống huynh muội lấy nhau: Vạn Nô Vương ở Vân Đỉnh Thiên Cung và khối thi thể mười hai cánh tay ở mộ Uông Tàng Hải rõ ràng là huynh đệ thông hôn.
Bí mật Vạn Nô Vương bò ra từ lòng đất?
Mỗi một đời Vạn Nô Vương chết đi, đại đồng môn mới mở ra, đây chính là nghi thức thay thế cái chết từ thời Phục Hy cổ xưa, cũng chính là trường hợp người chết đi mà động vật cộng sinh trong cơ thể vẫn còn sống.
Vạn Nô Vương chết đi, đi vào cánh cửa đồng, lúc này du diên trong cơ thể lão sẽ ăn luôn thi thể, sau đó cào rách da bò ra ngoài.
Thế là, Vạn Nô Vương đời tiếp theo (con cháu của Vạn Nô Vương đã chết) đã bị thanh đồng cổ tẩy đi toàn bộ ký ức, du diên chui vào trong cơ thể Vạn Nô Vương này, tiếp tục cộng sinh, du diên và Vạn Nô Vương đời trước từng cộng sinh một thời gian rất dài, đã có linh tính, cũng có trí nhớ và ý thức của người đó, sau đó truyền lại cho Vạn Nô Vương đời kế tiếp, cứ tiếp nối nhiều lần như vậy, cho đến khi du diên này chết đi.
Mà Vạn Nô Vương mới vừa được du diên chui vào trong cơ thể, đương nhiên cũng bò từ lòng đất lên giống như du diên.
Vì sao chỉ có Vạn Nô Vương đời thứ mười bốn muốn xây mộ?
Vạn Nô Vương mười ba đời trước không hề có mộ, khả năng bọn họ đều biến thành một lớp da đằng sau cánh cửa thanh đồng rồi.
Thế vì sao Vạn Nô Vương đời này lại muốn xây mộ?
Đáp án là: Bởi vì du diên trong cơ thể gã sắp chết, chuỗi luân hồi trằn trọc mười bốn đời cũng sắp kết thúc.
Đương nhiên, gã không cam lòng, chắc chắn gã đã tìm đến hỏi han Tây Vương Mẫu, dù sao bọn họ cũng chung một tổ tiên.
Tây Vương Mẫu tiết lộ cho gã phương thức trường sinh mới, đúng vậy, chính là đan dược bọ ăn xác.
Cho nên, gã bắt đầu muốn có mộ, cần một lăng mộ “trường sinh” không bị chôm chỉa và quấy rầy.
Giống như Mục Vương và Thiết Diện Sinh.
Cho nên, Đông Hạ bắt đầu tìm kiếm và ép buộc người rất có năng lực về mặt này, chính là Uông Tàng Hải, đến để xây mộ cho gã.
Hơn nữa, những âm binh trong mộ chắc chắn cũng là do Tây Vương Mẫu đưa đến, để bảo vệ “Chung Cực” đằng sau cánh cửa thanh đồng – thứ mà suy cho cùng cũng là thủy tổ của họ.
Phía sau cánh cửa thanh đồng là gì?
Đáp án: Là Chung Cực.
Chung Cực có ba lớp nghĩa:
1, Khả năng mê hoặc tri giác thần bí của thanh đồng cổ, người ta muốn thấy cái gì thì sẽ thấy cái đó (giống như thuốc phiện).
2, Di tích nền văn minh Phục Hy khởi nguồn của nền văn minh Trung Hoa.
3, Bí mật trường sinh thời cổ đại, các loại “mặt người thân rắn, nhân thú cộng sinh” thời Phục Hy là thật. Bước vào đó có thể thấy được bí mật luân hồi của mười ba đời Vạn Nô Vương, bí mật du diên, bí mật tẩy xóa ký ức, bí mật trường sinh.
Thứ tám, đầu thời Minh, thời đại của cao thủ trộm mộ Uông Tàng Hải!
Theo những gì mà bút ký ghi lại, câu chuyện của Uông Tàng Hải có vẻ phức tạp nhất, nhưng thật ra, có được nền tảng giải đố từ những phần trên, bí mật của Uông Tàng Hải lại trở nên cực kỳ đơn giản, chuyện của hắn đại khái có thể diễn giải như sau:
1, Vạn Nô Vương đời thứ mười bốn bắt hắn đến xây mộ, giúp cho hắn có cơ hội tiến vào đại đồng môn, biết được bí mật cộng sinh giữa Vạn Nô Vương và du diên, cũng hiểu rõ bí mật mê hoặc và tẩy xóa ký ức của thanh đồng.
2, Loại người như Uông Tàng Hải đương nhiên cũng nổi lòng tham muốn mình được trường sinh bất tử, thế nhưng, hắn đương nhiên không chấp nhận kiểu cộng sinh giữa người và động vật để rồi biến mình thành yêu quái. Vì vậy hắn bắt đầu mượn việc giúp Vạn Nô Vương sưu tập châu báu ở trong các mộ cổ mà dò la tin tức.
3, Hắn phát hiện hai ngôi mộ cổ đặc biệt: Lỗ Vương cung và Kính Nhi cung của Trần Bì A Tứ, Lỗ Vương cung liên quan đến đan dược huyết thi – một biện pháp trường sinh khác, còn Kính Nhi cung hiển nhiên liên quan đến bí mật thanh đồng, cũng là bí mật mà người Mèo ở Quảng Tây (hậu nhân Xi Vưu) luôn bảo vệ. Đan dược và tẩy xóa ký ức hiển nhiên là hai điểm quan trọng liên quan đến thuật trường sinh. Thế nhưng, Uông Tàng Hải không thể có được sách lụa Chiến Quốc, cho nên không thể lập tức biết được bí mật tồn tại của Tây Vương mẫu quốc.
4, Sau này, hắn quay lại Vân Đỉnh Thiên Cung lần thứ hai, lần này hắn đã nhìn thấy thi thể Vạn Nô Vương sau khi ăn đan dược (chính là khối thi thể mười hai cánh tay mặc giáp sắt), đồng thời tìm được vị trí của Tây Vương Mẫu trên đỉnh Côn Lôn.
5, Uông Tàng Hải đã đến được quỷ thành, nhưng lúc này Tây Vương Mẫu chắc hẳn chỉ có thể ở trong vẫn ngọc, Uông Tàng Hải tìm ra được bí mật “xác chết vùng dậy” của Tây Vương Mẫu, nhưng chắc hắn cũng không biết biện pháp ăn đan dược lúc còn sống rồi chui vào trong vẫn ngọc, mà cho dù hắn có biết thì cũng chưa chắc đã biết cách làm. Uông Tàng Hải lấy đi vẫn ngọc và đan dược bọ ăn xác từ Xà Chiểu.
6, Sau khi trở về, họ Uông bắt đầu xây dựng ngôi mộ dưới đáy biển của mình, thật ra là để suy nghĩ và nghiên cứu cách trường sinh. Hắn không giống với Thiết Diện Sinh, Thiết Diện Sinh chỉ răm rắp làm theo, mà Uông Tàng Hải lại muốn tự mình thử nghiệm và hoàn thiện.
7, Em gái và vợ của Vạn Nô Vương (khối thi thể mang thai có mười hai cánh tay), xác ướp mặt ngựa có trứng bọ ăn xác trong hộp sọ, đều là thí nghiệm mà Uông Tàng Hải bày ra.
8, Uông Tàng Hải không muốn đợi quá trình lột da trong mộ, nhất định hắn đã nghĩ tới biện pháp ăn đan dược bọ ăn xác lúc sống, cho nên đã tìm người để thử nghiệm, kết quả dẫm lên vết xe đổ của Tây Vương Mẫu, biến những người đó thành các loại quái vật như Cấm Bà hay khỉ biển.
9, Uông Tàng Hải vẫn không cam lòng, thế là hắn nghĩ đến thanh đồng cổ, nảy ra một diệu kế, chính là trước khi chết uống hai viên đan dược (đại khái thế, tôi đoán vậy) khôi phục lại hai phần ký ức của mình, một mặt tiếp tục đợi thân thể mình lột da sống dậy, mặt khác cấy trí nhớ và ý thức của mình lên một người khác, đợi đến ngày sống lại lần nữa. Sau đó hắn sẽ tiếp tục bày trò trên người đang giữ ký ức của mình, đợi cho thân thể mình sống lại. Uông Tàng Hải thật sự rất thông minh.
10, Thế nhưng, sau khi bản thân chết đi, làm sao có thể khống chế được tất cả mọi thứ? Âm mưu của Uông Tàng Hải thể hiện cao nhất ở chỗ này, hắn nghĩ kẻ có thể đi vào mộ mình, nhất định là phường trộm mộ, cho nên họ Uông đã khóa kín ngôi mộ mình lại, bản thân hắn chính là cao thủ trộm mộ, nên mộ hắn đều được thiết kế nhằm mục đích này.
11, Ba con xà mi đồng ngư đều nhằm dẫn dụ kẻ trộm mộ, những thứ quỷ dị trong Lỗ Vương cung, Kính Nhi cung kết hợp với bí mật trên xà mi đồng ngư có sức hấp dẫn vô cùng, khiến cho những kẻ trộm mộ nhất định phải tìm ra bằng được, rồi nhất định sẽ tìm đến ngôi mộ dưới đáy biển của hắn.
12, Bản thân hắn hiểu rất rõ kẻ trộm mộ, cho nên từng cái bẫy đều được tạo ra để dẫn dụ họ, toàn bộ cơ quan, bố cục, âm mưu đều không phải để bảo vệ mộ, mà hoàn toàn ngược lại, là để đạt được mục đích của chính hắn.
Cây san hô thanh đồng, khẳng định là để tẩy xóa ký ức của kẻ trộm mộ.
Tiêu tử quan, cũng là một âm mưu.
Mục đích sau cùng chính là để kẻ trộm mộ ăn luôn bọ ăn xác chúa trong cơ thể Uông Tàng Hải, cấy trí nhớ của hắn vào kẻ trộm mà thôi.
Đương nhiên, tình tiết cụ thể ra sao, thì như Tam Thúc nói, nếu như viết theo bút pháp của Cổ Long thì đây hẳn là một câu chuyện lớp lang vô cùng đặc sắc.
13, Họ Uông bố trí xong hết thảy, hắn chết rồi, nhưng vẫn nắm giữ tất cả trong tay, cũng chính là cái kết do chính hắn đạo diễn, ai sẽ trở thành kẻ xúi quẩy trong vở kịch của hắn đây?
Đến đây, bí ẩn xuyên suốt thời cổ đại đã gần như sáng tỏ.
Thời gian, tiếp tục chảy trôi.
Bí mật thời viễn cổ, bản chép tay của Thiết Diện Sinh, âm mưu của Uông Tàng Hải, đều lặng lẽ theo dòng thời gian.
Cùng chờ đợi.
Chờ đợi một nhóm người từ từ tiếp cận bí mật này từ trong bóng tối sâu thẳm, cũng vì nó mà số mệnh rẽ ngang.
Ba đời nhà họ Ngô, đội khảo cổ, Cầu Đức Khảo, Văn Cẩm, Muộn Du Bình…