Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Image


Tác giả : Ngãi Mễ

Dịch giả : Sơn Lê

Nội dung:
Câu chuyện xảy ra vào thời điểm cuối của cuộc Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc, những năm 70 của thế kỷ 20. Khi ấy, Tĩnh Thu đang là học sinh trung học phổ thông, là một trong những học sinh xuất sắc được chọn tham gia biên soạn tài liệu giáo khoa, cử về một vùng nông thôn để tìm hiểu, viết lịch sử về thôn ấy. Tại đây, Tĩnh Thu gặp Ba, một trí thức đẹp trai và thông minh nhanh nhẹn. Với những tình cảm rất đỗi hồn nhiên, Tĩnh Thu và Ba dần đi từ cảm mến đến tình yêu trong sáng.

Họ có nhiều kỉ niệm đẹp bên nhau, và cùng có chung ấn tượng mạnh về cây Sơn Tra - một loài táo dại có gai - cũng là loài cây mà xung quanh nó có nhiều huyền thoại đẹp. Nhờ có Ba, Tĩnh Thu dần gạt đi những mặc cảm về thân phận nghèo khó của mình, họ dành cho nhau những phút giây rất đỗi dịu dàng, những xúc cảm đẹp nhất của tình yêu thuở ban đầu.

Tháng năm đằng đẵng qua đi với những nụ cười, nước mắt. Ba đã chờ Tĩnh Thu tốt nghiệp trung học, chờ Thu có việc làm... Ba rơi nước mắt, xót xa vô cùng khi đôi chân nhỏ bé của Tĩnh Thu bị sưng vù vì Tĩnh Thu phải làm những việc nặng nhọc, thường âm thầm theo sau Tĩnh Thu và bất ngờ xuất hiện những lúc Tĩnh Thu cần anh nhất...

Nhưng họ mãi mãi không đến được với nhau.

Mỗi năm, khi loài hoa Sơn Tra nở, Tĩnh Thu lại trở về, mang theo vẹn nguyên những ký ức tình yêu, cùng Ba ngắm hoa Sơn Tra...

Và, câu chuyện tình yêu vô cùng thuần khiết và cảm động ấy đã khiến biết bao độc giả lặng đi vì xúc động, vì ngưỡng mộ, và nức nở trong những giọt nước mắt cảm thông…

Vài nét về tác giả Ngải Mễ:

Nữ văn sĩ Ngải Mễ bắt đầu sáng tác từ năm 2005, cho đến nay đã có hàng loạt tiểu thuyết được xuất bản. Khởi đầu là bộ tiểu thuyết về tình yêu:

- Cùng anh ngắm hoa sơn tra (Phần I), 2007.
- Dịu dàng đến vô cùng ...và một số tiểu thuyết khác
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 1

ĐẦU XUÂN NĂM 1974, Tĩnh Thu đang học trung học phổ thông thì được nhà trường chọn tham gia biên soạn tài liệu giáo khoa, về vùng Tây Thôn Bình, ở trong một gia đình trung nông lớp dưới, đi sâu thăm hỏi bà con trong thôn, sau đấy viết lịch sử của Tây Thôn Bình để làm tài liệu giảng dạy cung cấp cho học sinh của Trường trung học số Tám thành phố K sử dụng.

Mục đích của lãnh đạo nhà trường không chỉ có thế, nếu tài liệu giáo khoa được viết tốt, có thể cả hệ thống giáo dục thành phố K cùng sử dụng. Chưa biết chừng đấy là một phát đại bác nổ vang, cả tỉnh L, thậm chí bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông cả nước cùng sử dụng. Đến lúc ấy, „sáng tạo vĩ đại“ sẽ có ý nghĩa lịch sử và được ghi vào lịch sử giáo dục Trung Quốc.

Ngày nay nhìn lại, chuyện thật không thể tưởng tượng nổi! „Sáng kiến“ lúc bấy giờ cũng vì „giáo dục phải cải cách“! Sách giáo khoa trước Cách mạng văn hóa đều là của phong kiến, xét lại và tư sản, đúng như Mao Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại đã sáng suốt chỉ ra: „Suốt một thời kì dài bị đám tài tử giai nhân, đế vương tướng lĩnh thống trị“. Cách mạng văn hóa bắt đầu, tuy sách giáo khoa được viết lại nhưng vẫn không theo kịp sự biến đổi của tình hình. Hôm nay sách vừa mới viết „Lâm Hưu đại chiến Bình Hình quan“, ca ngợi tinh thần dũng cảm thiện chiến của Phó chủ tịch Lâm Bưu, chỉ ít hôm sau có tin Lâm Bưu phản bội, bỏ trốn, máy bay bị rơi ở Mông Cổ, vậy là sách giáo khoa kia lại phải thay đổi.

Học sinh biên soạn sách giáo khoa là một tiêu chí cách mạng giáo dục. Từ quần chúng mà ra, lại về với quần chúng; người cao quí là kẻ ngu xuẩn nhất, kẻ đê tiện là người thông minh nhất. Tóm lại, quí ở chỗ sáng tạo nên cái mới.

Cùng được chọn với Tĩnh Thu còn có hai cô và một cậu, đều là học sinh tương đối giỏi văn. Nhóm này được gọi là „tiểu tổ cải cách giáo dục của trường trung học số Tám thành phố K“, dẫn đầu là Lí, một công nhân trong đội tuyên truyền công nhân, chừng ba mươi tuổi, hoạt bát, biết hát, biết kéo nhị, nghe đâu vì sức khỏe kém, không làm được gì trong nhà máy nên được cử đến trường làm đội viên tuyên truyền.

Thầy Trần, hiệu phó nhà trường làm tổ phó, thêm vào đấy là thầy La dạy ngữ văn, bảy người xuất phát về Tây Thôn Bình vào một ngày rét muộn của mùa xuân.

Từ thành phố K về Tây Thôn Bình phải ngồi xe khách đường dài đến huyện lị huyện K. Tuy chỉ ba chục dặm nhưng ô tô phải chạy mất một tiếng đồng hồ vì phải vòng qua vòng lại đón khách. Từ huyện lị huyện K về Tây Thôn Bình còn tám, chín dặm, đoạn đường này phải đi bộ.

Nhóm của Tĩnh Thu đến huyện K thì gặp ngay ông Trương, trưởng thôn Tây Thôn Bình lên đón. Ông là một nhân vật hiển hách, nổi tiếng khắp huyện, vì Tây Thôn Bình của ông ta là thôn tiên tiến „nông nghiệp học Đại Trại“, lại có lịch sử chống Nhật huy hoàng, cho nên cái tên ông trưởng thôn này nổi như cồn.

Nhưng trong con mắt của Thu, đây là một người đàn ông trung niên không cao, rất gầy, tóc rụng khá nhiều, lưng hơi gù, dáng vẻ bình thường, không giống với những nhân vật anh hùng được miêu tả thời đó: người cao lớn, khuôn mặt đỏ au, mắt to, lông mày rậm. Tĩnh Thu bắt đầu lo lắng, một con người như vậy thì làm thế nào để khắc họa được hình ảnh anh hùng „cao lớn, toàn diện“? Xem ra, phải dựa vào đây để biên soạn thành sách giáo khoa.

Lại nói về nhóm bảy người. Hành lí của từng người đều buộc gọn như ba lô của lính, dây buộc hành lí cũng đúng theo tiêu chuẩn „ba ngang đè hai dọc“, trên tay mỗi người đều cầm theo chậu rửa mặt và những đồ dùng khác như bàn chải răng, khăn mặt…

Ông trưởng thôn nói:

- Chúng ta băng qua núi chỉ năm dặm, nếu đi theo đường bờ kênh phải gấp đôi. Xem ra mọi người không ai khỏe, lại có mấy chị, sợ rằng…

Bảy vị hảo hán đồng thanh trả lời:

- Không sợ, không sợ, chúng tôi về đây là để rèn luyện, gian khổ thế nào cũng chịu được.
Ông Trương nói:

- Leo núi cũng là rèn luyện, đi theo bờ kênh phải lội, tôi sợ có mấy chị…

Mấy cô gái nghe nói mấy „chị“ lập tức cảm thấy không tự nhiên, vì theo tiếng địa phương „chị“ là những người đã có chồng. Nhưng người thuộc thành phần trung nông lớp dưới nói như vậy, mấy „chị“ không dám phản ứng, ngược lại trong lòng tự kiểm điểm mình không nhận thức sâu sắc đối với lời lẽ nôm na của tầng lớp trung nông lớp dưới, chứng tỏ tình cảm của mình còn một khoảng cách, phải nỗ lực cải tạo tư tưởng giai cấp tiểu tư sản của bản thân để hòa chung một khối với tầng lớp trung nông lớp dưới.

Ông Trương cõng đồ giúp mấy „chị“, mấy „chị“ khăng khăng từ chối: ai lại làm thế! Về nông thôn để rèn luyện, đâu có chuyện mới bắt đầu đã phải nhờ người giúp đỡ? Ông Trương cũng không ép, chỉ nói:

- Lúc nào đi không nổi, gọi tôi nhé.


Ra khỏi phố huyện là leo núi ngay. Núi không cao lắm, nhưng vì lưng cõng ba lô, tay xách đồ, mồ hôi vã ra ướt cả lưng, vậy là đồ trong tay ông Trương mỗi lúc một nhiều, cuối cùng lưng ông cũng không còn chỗ trống. Ba „chị“ có hai cái ba lô không còn thấy đau, trên tay chỉ cầm chậu rửa mặt và mấy thứ nhỏ, vậy mà vẫn thở phì phà phì phò.

Tĩnh Thu là cô gái khỏe nhất, tuy mệt muốn chết nhưng vẫn kiên trì cõng đồ của mình. Đối với cô, chịu cực chịu khổ, vất vả là tiêu chuẩn làm người, vì bố mẹ của Thu trong Cách mạng văn hóa đều bị đấu tố: bố là „con cái địa chủ“, mẹ là „con gái gia đình có lịch sử phản cách mạng“. Tĩnh Thu là một người „có thể giáo dục“, được hưởng đãi ngộ „có thành phần, không vì thành phần“ vì biểu hiện Thu không sợ khổ, không sợ chết, không chịu lạc hậu.

Ông Trương thấy mọi người đang cố „kéo dài sức kiệt“ thì luôn động viên: – Gần rồi, gần đến nơi rồi, đến chỗ cây sơn tra kia ta nghỉ một lúc.

Lúc này cây sơn tra giống như trái mơ trong câu chuyện „Nhìn trái mơ cho đỡ khát nước“ cổ vũ mọi người kiên trì đi tới.

Nghe nói đến cây sơn tra, trong đầu Tĩnh Thu không hình dung đấy là cái cây, mà là một bài hát có tên „Cây sơn tra“ từ rất lâu Thu đã nghe một cô giáo khoa tiếng Nga trường đại học L về thực tập ở trường trung học số Tám hát.

Cô nữ sinh hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi được phân về thực tập ở lớp Tĩnh Thu tên là An Lê, người cao lớn khỏe mạnh, trắng trẻo, sống mũi vừa thẳng vừa cao, nếu cặp mắt sâu hơn một chút sẽ giống như người nước ngoài. Tuy mắt An Lê không trũng sâu, nhưng to, không phải là mắt hai mí khiến mọi người phải chú ý, nhưng là ba bốn tầng, khiến các cô nữ sinh mắt hai mí trong lớp phải nể phục.

Nghe nói bố của An Lê là ông gì đó ở Bộ Tư lệnh bộ đội tên lửa, bị liên lụy vì sự kiện „Mười ba tháng chín“ (Ngày Lâm Bưu, Nguyên soái, Phó Chủ tịch Đảng CSTQ cùng vợ và con trai bỏ trốn khỏi Trung Quốc, máy bay rơi ở Mông Cổ) cho nên An Lê phải trải qua những ngày bất hạnh, nhưng về sau bố lại được giải oan, vậy là đưa cô từ nông thôn về lại thành phố, vào đại học sư phạm L. Nhưng tại sao An Lê vào khoa tiếng Nga thì chỉ có trời mới biết, bởi tiếng Nga lúc bấy giờ không còn được trọng dụng.

Nghe nói, những ngày đầu giải phóng, học tiếng Nga trở thành cao trào, rất nhiều thầy dạy tiếng Anh chuyển sang dạy tiếng Nga. Về sau quan hệ Trung-Xô xấu đi, Liên Xô bị coi là „chủ nghĩa xét lại“, vì họ dám „xét lại“ chủ nghĩa Mác-Lênin. Những thầy giáo hồi xưa dạy tiếng Nga chuyển sang dạy tiếng Anh.

Tĩnh Thu học trường Trung học số Tám cách thành phố một con sông, qua lại không tiện. Không rõ Hội đồng giáo dục thành phố suy nghĩ thế nào, điều mấy thầy dạy tiếng Nga về, trường trung học số Tám trở thành trường duy nhất của thành phố K còn dạy tiếng Nga, chừng như năm nào khoa tiếng Nga của đại học sư phạm L cũng có sinh viên về đây thực tập, vì ngoài trường số Tám ra, chỉ có mấy huyện nữa còn dạy tiếng Nga.

An Lê nhờ có quan hệ của bố, cho nên không phải về trường huyện. An Lê rất thích Tĩnh Thu, những lúc rỗi rãi đều tìm Thu chơi, dạy cô hát bài hát tiếng Nga, „Cây sơn tra“ là một trong những bài hát đó. Hồi ấy, dạy hát bài tiếng Nga chỉ có thể làm lén lút, vì những gì của Liên Xô đều bị cấm ở Trung Quốc, hơn nữa, trong Cách mạng văn hóa những gì dính chút tình yêu đều bị coi là đồi trụy, sản phẩm của giai cấp tư sản, bị cấm tiệt.

Theo quan điểm thời đó, bài hát „Cây sơn tra“ bị coi là „nhạc vàng“, „tác phong không đứng đắn“, ca từ đại ý hai thanh niên yêu một cô gái, cô gái này cũng cảm thấy cả hai anh đều đáng yêu, không biết chọn ai, vậy là đi hỏi cây sơn tra. Lời ca cuối cùng:

Sơn tra đáng yêu, hoa nở trắng cành,
Sơn tra thân yêu, mi sao buồn thế?
Dũng cảm nhất, đáng yêu nhất là ai?
Sơn tra thân yêu, hãy bảo cho ta hay…

Giọng hát của An Lê rất hay, đầy chất „Tây“, tự nhận là „hát theo phong cách Ý“, thích hợp với những ca khúc loại này. Cứ mỗi chủ nhật, An Lê lại đến nhà Tĩnh Thu, bảo Thu kéo đàn accordéon, đệm cho hai người cùng hát. An Lê thích nhất bài hát „Cây sơn tra“ vì bài hát rất hay, và vì cô cũng yêu hai người nhưng không biết chọn ai…

Nghe ông Trương nói đến cây sơn tra, Thu bất chợt giật mình, nghĩ rằng ông cũng biết bài hát đó. Nhưng rồi cô hiểu ra ngay, có một cây sơn tra thật, hơn nữa lúc này trở thành „mục tiêu phấn đấu“ của họ. Ba lô đè nặng trên lưng, vừa nặng vừa nóng, Tĩnh Thu cảm thấy lưng mình ướt đẫm mồ hôi, quai xách túi lưới đựng đồ lặt vặt tưởng chừng như hằn sâu vào lòng bàn tay, tay trái chuyền sang tay phải, tay phải lại chuyền sang tay trái.

Vào lúc Thu cảm thấy không cố nổi, chợt nghe thấy ông Trương nói:

- Đến cây sơn tra rồi, chúng ta ngồi nghỉ một lúc.

Tất cả cùng nghe thấy, giống như đám tử tù nhận được lệnh ân xá, thở phào ngồi vật xuống, không kịp trút bỏ ba lô.

Nghỉ một lúc mọi người mới cảm thấy tỉnh táo. Anh cán bộ Lí hỏi:

- Cây sơn tra đâu?

Ông Trương chỉ tay ra phía xa:

- Nó kia.

Tĩnh Thu nhìn theo tay ông Trương, trông thấy một cái cây cao chừng sáu, bảy mét, không có gì đặc biệt, có thể vì trời còn lạnh, không những cây không có hoa trắng, ngay cả lá cũng không xanh tốt. Thu có phần thất vọng, hình ảnh cây sơn tra trong bài hát mà Thu hình dung rất đẹp, rất giàu chất thơ. Mỗi lần cô nghe thấy bài hát ấy, trước mắt như hiện lên bức tranh: có hai chàng trai tuấn tú đứng dưới gốc cây chờ người yêu. Cô gái kia từ trong sương mù chạy tới. Nhưng khi đến gần, cô bỗng đứng lại, trốn vào một chỗ không để hai chàng trai trông thấy, buồn thương hỏi cây sơn tra nên yêu người nào?

Tĩnh Thu hiếu kì hỏi ông Trương:

- Bác ơi, cây kia có nở hoa không?

Câu hỏi như chạm đúng mạch của ông Trương, ông thao thao bất tuyệt:

- Cây này vốn nở hoa trắng, nhưng trong thời kì chiến tranh chống Nhật, rất nhiều chiến sĩ yêu nước của ta bị quân Nhật bắn tại đây, máu của họ thấm xuống đất. Từ khi người anh hùng chống Nhật đầu tiên bị sát hại tại đây, hoa màu trắng của cây này chuyển dần sang màu đỏ, càng ngày càng đỏ, cuối cùng nó nở toàn hoa đỏ.

Mấy người nghe mắt tròn xoe, mồm há hốc. Anh cán bộ Lí nhắc nhở học sinh:

- Không ghi lại à?

Mấy cô cậu như bừng tỉnh, việc thâm nhập thực tế đã bắt đầu, vậy là họ lấy giấy bút ra ghi chép.

Xem ra ông Trương là người từng trải, hình như ông đã quen với cách nói chuyện để bốn năm cây bút ghi chép lia lịa, ông tiếp tục bài diễn thuyết. Đến khi ông kể xong câu chuyện cái cây anh hùng chứng kiến lịch sử kháng Nhật của nhân dân Tây Thôn Bình đã mất nửa tiếng đồng hồ, mọi người lại lên đường.

Đi một quãng rất xa, Thu còn quay lại nhìn, cô loáng thoáng trông thấy có một người đang đứng bên gốc cây, nhưng không phải là liệt sĩ bị quân Nhật tử hình như ông Trương miêu tả, mà là một thanh niên đẹp trai. Thu thầm kịch liệt phê phán cái tư tưởng tiểu tư sản của mình, quyết tâm học tập trung nông lớp dưới, viết thật tốt tài liệu giáo khoa.

Chắc chắn Thu sẽ viết câu chuyện về loài cây này vào sách giáo khoa, nhưng sẽ lấy đầu đề gì? Có thể gọi là „Cây sơn tra nhuộm máu“ chăng? Viết như thế có vẻ đẫm máu quá, hay là „Cây sơn tra nở hoa đỏ“? Hay là „Hoa sơn tra đỏ“?

Nghỉ một lúc, vai lại cõng ba lô tay xách túi lưới, cảm giác của Thu không nhẹ nhàng thanh thản mà càng mệt mỏi hơn. Có thể cõng hay không cõng ba lô trở thành sự so sánh rõ rệt, trước dễ chịu sau khổ, càng về sau càng khổ, nhưng không ai dám kêu khổ, sợ khổ sợ vất vả là những thứ của giai cấp tư sản, Thu sợ mọi người qui cho cô là giai cấp tư sản. Thành phần xuất thân vốn đã không tốt, lại không dựa vào giai cấp vô sản, như vậy đúng là tự đoạn tuyệt với nhân dân. Đường lối của Đảng xưa nay là „xuất thân không tự mình, đường đi có thể tự chọn“, ấy là nói Thu phải hơn cả những người xuất thân từ những thành phần tốt khác, chú ý không được có những lời lẽ của giai cấp tư sản.

Nhưng khổ và mệt không thể không nói mà không tồn tại, lúc này Tĩnh Thu bực một nỗi thần kinh trên người mình sao không chết đi, như vậy sẽ không cảm thấy trĩu nặng trên lưng và đau đớn trên tay. Thu chỉ có thể đưa cái tuyệt chiên suy nghĩ lung tung đã được rèn luyện nhiều năm để giúp mình quên đi cái khổ cực trên cở thể. Những lúc say sưa suy nghĩ, Thu có cảm giác thân xác ở đây mà linh hồn đả lìa xa, trở thành nhân vật trong tưởng tượng, sống hoàn toàn khác. Không hiểu tại sao Thu cứ nghĩ đến cây sơn tra thì cảnh tượng những người yêu nước bị giặc Nhật trói chặt và hình ảnh chàng trai Liên Xô tuấn tú mặc áo trắng lại chập chờn xuất hiện trong đầu óc. Nhưng bản thân Thu, lúc là người yêu nước bị giặc Nhật tử hình, lúc là cô gái Nga đau khổ không biết chọn yêu ai, khiến cô không biết mình đang đến gần với chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xét lại?

Cuối cùng thì cũng đi hết con đường núi, ông Trương đứng lại, chỉ xuống chân núi, nói:

- Kia là Tây Thôn Bình.

Mấy người kia tranh nhau chạy đến bên vách núi để ngắm nhìn, chỉ thấy một dòng sông nhỏ xanh như dải lụa uốn lượn dưới chân núi, chảy vòng quanh thôn. Thôn Tây Thôn Bình tắm mình trong nắng đầu xuân đẹp hơn mấy cái bản miền núi mà trước đây Thu đã từng về để rèn luyện, nơi này coi như sơn thanh thủy tú. Đứng trên núi ngắm nhìn Tây Thôn Bình, cả thôn nằm gọn trong tầm mắt. Ruộng vườn từng đám, xanh có, nâu có, trải khắp nơi, những mái nhà rải rác đó đây, có một chỗ nhiều nhà lại có một khoảng sân rộng, ông Trương giới thiệu đấy là trụ sở của đại đội sản xuất. Các cuộc họp, các buổi tối liên hoan đều diễn ra ở đấy.

Ông Trương giải thích, theo biên chế của huyện, mỗi thôn là một đại đội sản xuất, trưởng thôn thực tế là bí thư chi bộ Đảng, nhưng bà con trong thôn vẫn quen gọi ông là trưởng thôn.

Mọi người cùng xuống núi, trước tiên về nhà ông Trương, nhà ông ở bên bờ sông, đứng trên núi có thể trông thấy. Chỉ có vợ ông đang ở nhà, bà bảo mọi người gọi bà là mẹ. Gia đình người ra đồng, người đi học.

Sau khi nghỉ ngơi, ăn cơm, ông Trương sắp xếp chỗ ở cho từng người. anh Lý, thầy Trần và cậu học sinh Lý Kiện Khang ở trong một gia đình, thầy La chỉ ở ít ngày để chỉ đạo viết lách, sau đấy phải về trường, cho nên ở tạm đâu đó cũng được.

Tiếc là, ba cô học sinh không được ở một chỗ. Tuy có gia đình đồng ý dành hẳn cho các cô một gian nhà, nhưng chỉ ở được hai người, ông Trương đành nói:

- Một cô ở nhà tôi, nhưng nhà tôi không thừa gian nào, chỉ có thể nằm chung với con gái thứ hai của tôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 2

Ba cô học sinh đưa mắt nhìn nhau, không muốn để một cô tách đàn ở nhà ông Trương ngủ cùng giường với con gái ông ta. Tĩnh Thu thấy khó giải quyết, chủ động nói:

- Hai bạn ở với nhau, tớ ở đây.

Hai cô học sinh vui mừng đồng ý ngay.

Hôm ấy không còn hoạt động gì, mọi người ổn định chỗ ở, nghỉ ngơi, buổi tối tập trung tại nhà ông Trương cùng ăn cơm và bàn công việc của ngày hôm sau: phần lớn thời gian sẽ đi thăm hỏi, nói chuyện với bà con trong thôn, biên soạn tài liệu giáo khoa, nhưng cũng cần sắp xếp thời gian ra đồng làm việc với bà con nông dân.

Ông Trương đưa mọi người đến chỗ ở, nhà chỉ còn một mình Tĩnh Thu cùng với vợ ông ta. Bà Trương đưa Thu vào buồng cô con gái thứ hai, bảo Thu để hành lí vào đấy. Căn buồng này giống như những căn buồng của các làng quê khác Thu đã từng đến, chỉ có một cửa sổ nhỏ không lắp kính mà dán giấy bóng.

Bà Trương bật đèn, đèn điện rất tối, cố gắng lắm mới nhìn rõ mọi thứ. Căn buồng chừng mười lăm mét vuông, thu xếp gọn gàng, cái giường lớn hơn giường một, nhỏ hơn giường đôi, hai người ngủ hơi chật nhưng cũng vừa. Khăn trải giường trắng tinh, vừa giặt hồ còn cứng, sờ tay lên như sờ mặt giấy, không giống sờ lên vải. Chăn gấp thành hình tam giác, ruột chăn trắng lòi ra hai đầu, mặt chăn hoa đỏ. Thu suy nghĩ hồi lâu, nhưng vẫn không nghĩ ra phải bằng cách nào để tung chăn, cô không khỏi bối rối, quyết định tối nay đắp chăn của mình để sáng mai không phải gấp đúng kiểu. Theo yêu cầu hồi đó, học sinh về nông thôn ở trong các gia đình trung nông lớp dưới, phải giống như Bát lộ quân thời xưa, sau khi dùng đồ của gia chủ phải trả về đúng nguyên dạng.

Trên chiếc bàn bên cửa sổ có tấm kính lớn dùng để ép ảnh được coi như thứ xa xỉ thời đó. Dưới tấm kính lót mảnh vải nâu, ảnh để trên vải, tấm kính đặt lên trên. Tĩnh Thu tò mò ghé vào xem ảnh.

Có thể bà Trương thường xuyên tiếp khách cho nên rất hay chuyện, cũng rất hòa nhã, thân tình. Bà chỉ vào từng tấm ảnh giới thiệu với Thu. Trong ảnh là Trương Trường Sâm, con trai cả của ông bà, người cao lớn, không thể nghĩ đấy là con của vợ chồng ông Trương, có thể đấy là sự biến dị trong gia đình này. Anh làm việc ở bưu điện Nghiêm Gia Hà, một tuần lễ mới về thăm nhà có một lần. Nàng dâu cả lã Dư Mẫn, dạy tiểu học trường làng, dáng người mảnh mai, xinh xắn, rất xứng đôi với chồng.

Con gái lớn tên là Trương Đường Phần cũng rất xinh đẹp, sau khi tốt nghiệp trung học về lao động tại địa phương. Con gái thứ hai là Trương Đường Phương, dung nhan hoàn toàn ngược lại với chị, miệng dẩu, mắt cũng nhỏ hơn mắt chị gái. Phương Đang học trung học ở Nghiêm Gia Hà, mỗi tuần lễ về nhà hai lần.

Đang nói chuyện thì anh con trai thứ hai của ông Trương về, cha gọi anh về gánh nước, thổi cơm sớm, nghe nói nhà có khách trên tỉnh về, khách sẽ ăn cơm ở nhà.

Tĩnh Thu ra chào công tử thứ hai của ông Trương, thấy cậu ta không giống anh trai, nhưng lại giống cha như đúc, thấp lùn, các đường nét hình như cũng không cân đối. Thu hơi giật mình, tại sao trong nhà hai anh em, hai chị em lại khác nhau đến vậy? Hình như cha mẹ sinh con trai và gái đầu phải dốc toàn bộ phẩm chất tốt đẹp để tạo nên, đến đứa sau thì đâm uể oải, biếng nhác, tùy ý trời muốn thế nào cũng xong.

Bà Trương nói chuyện rất thân thiết, hai người chào hỏi nhau xong khách cảm thấy như trong một nhà. Bà chỉ vào cậu con trai thứ hai nói với Tĩnh Thu:

- Đây là anh Hai của con, tên là Lâm.

Thu không biết nên xưng hô thế nào, cô chỉ nói:

- Đi gánh nước à? Để em giúp.

Lâm tỏ ra xấu hổ, nói khẽ:

- Gánh được không?

- Có gì mà gánh không được? Em vẫn về nông thôn học tập bà con nông dân.

Bà Trương nói:

- Cô giúp được à? Để tôi ra sau vườn nhổ mấy cây rau, cô mang ra sông rửa giúp.- Nói xong bà cầm cái làn ra sau vườn.

Trong nhà chỉ còn Tĩnh Thu và Lâmn, Lâm tay chân ngượng ngùng không biết để vào đâu, cậu liền ra sau nhà lấy thùng gánh nước. Một lúc sau bà Trương mang hai cây rau vào, đưa cho Thu để cô theo Lâm ra sông.

Lâm không nhìn Thu, chỉ nói trống không: „Đi thôi“, rồi bước đi trước. Thu xách làn theo sau, hai người men theo con đường nhỏ ra sông. Dọc đường họ gặp mấy thanh niên trong thôn, các cậu này chọc Lâm: „Lâm, cha mày hỏi vợ cho mày đấy à?“ „Ôi, con gái thành phố cơ đấy!“ „Súng bắn chim đổi được trọng pháo!“

Lâm bực mình, đặt thùng xuống, đuổi theo lũ bạn. Tĩnh Thu gọi to: „Đi thôi, mặc kệ họ“. Lâm quay lại, gánh đôi thùng đi nhanh ra bờ sông. Thu lòng dạ bồn chồn, không biết đám thanh niên kia nói năng với ý gì? Tại sao lại đùa chuyện ấy?

Ra đến bờ sông, Lâm nhất định không cho Thu rửa rau, bảo nước rất lạnh, sẽ làm cô cóng tay. Thu không thể cưỡng lại, đành đứng nhìn Lâm rửa rau. Lâm rửa xong rau rồi múc đầy hai thùng nước, Thu giành lấy để gánh:

- Vừa rồi anh không để em rửa rau, bây giờ phải để em gánh nước.

Lâm không chịu, cậu ta gánh nước chạy như bay về phía trước.

Về đến nhà, Lâm lại đi gánh tiếp, thu giúp bà Trương thổi cơm, nhưng bà không để cô làm. Vừa lúc ấy, thằng cháu của Lâm là Hoan Hoan dậy, bà Trương dặn cháu:

- Cháu đưa cô đi mời bố Ba về ăn cơm.

Lúc này Tĩnh Thu mới biết bà còn có một người con trai nữa, cô hỏi Hoan Hoan:

- Cháu biết bố cháu ở đâu không?

- Cháu biết, ở đội tham tham.

- Đội tham tham?

Bà Trương giải thích:

- Ở đội thăm dò, cháu nó nói không rõ.

Thằng Hoan lôi tay Thu:

- Đi, đi đến đội tham tham, bố Ba có kẹo cho cháu.

Tĩnh Thu theo thằng Hoan, vừa đi được một quãng thì thằng nhỏ không chịu đi, nó đưa hai tay ra đòi bế:

- Cháu mỏi chân, không đi được!

Thu cười, bế thằng nhỏ lên. Trông nó nhỏ con, nhưng rất nặng. Hôm nay Thu đã phải đi xa, bây giờ bế thằng nhỏ, cô cảm thấy như bê tải thóc. Nhưng nó không chịu đi, cô đành đi một đoạn lại nghỉ một lúc, liên tiếp hỏi:

- Đến chưa? Đến chưa? Cháu có quên đường không?

Đi rất lâu mà vẫn chưa tới, Tĩnh Thu lại nghỉ, bỗng nghe thấy có tiếng đàn accordéon vọng lại, cô không ngờ ở cái thôn miền núi nhỏ bé này mà cũng có người chơi đàn accordéon, bất giác Thu đứng lại lắng nghe. Đúng là âm thanh accordéon đang chơi bài „Kị binh tiến hành khúc“, tiết tấu nhanh, Thu cũng đã từng tập bài này, nhưng tập chưa đâu vào đâu, tay phải tương đối thành thạo, nhưng tay trái vẫn chưa ổn. Cô cảm thấy người chơi đàn này tay phải rất thành thạo, tay trái cũng rất dẻo, những đoạn sôi nổi đúng như đàn ngựa đang phi nhanh, gió cuốn mây bay.

Tiếng đàn từ trong lán số một vọng ra, những dãy lán không giống với nhà của bà con trong thôn, mà là một dãy dài, nhất định đấy là lán của đội thăm dò.

Tĩnh Thu hỏi Hoan Hoan:

- Có phải bố ở kia không?

- Vâng! – Thằng Hoan thấy đã đến nơi, nó sôi nổi hẳn lên, chân cũng không còn mỏi nữa, nó muốn thoát khỏi tay Thu.

Thu dắt thằng Hoan đi về phía cái lán kia. Lúc này cô nghe rõ tiếng accordéon, tiếng đàn chuyển sang bài „Cây sơn tra“, có thêm mấy giọng nam hòa chung. Họ hát bằng tiếng Trung Quốc, tưởng như tay đang bận việc nhưng miệng vẫn hát, tiếng hát chậm rãi lúc hát lúc dừng, lúc hạ giọng khe khẽ, khiến cho tiếng hát hay hơn.

Thu nghe say sưa, tưởng chừng như lạc vào thế giới thần thoại. Bóng tối dần buông, khói bếp lan tỏa, hương thơm đặc trưng của miền sơn cước hòa vào không gian, bên tai là tiếng đàn accordéon và tiếng hát của những chàng trai, cái thôn xóm xa lạ bỗng trở nên thân thuộc, một không khí chỉ có thể gọi đấy là những tình cảm của giai cấp tiểu tư sản.

Thằng Hoan thoát ra khỏi bàn tay Tĩnh Thu, nó chạy vế phía cái lán, vào cửa thứ ba, tiếng đàn cũng theo đó ùa ra. Tĩnh Thu đoán, rất có thể người kéo đàn là bố của nó, cũng tức là con trai thứ ba của ông Trương.

Thu có phần hiếu kì, cậu con trai thứ ba này liệu có giống anh Cả hay là giống anh Hai? Không biết tại sao cô mong anh này giống Sâm, bởi tiếng đàn hay như vậy không có lí gì lại phát ra từ bàn tay một người con trai giống như Lâm. Thu biết nghĩ như thế là không công bằng đối với Lâm, nhưng cô vẫn nghĩ như vậy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 3

Tĩnh Thu như đang chờ người diễn trò ảo thuật mở phép màu, chờ bố của Hoan Hoan từ trong lán đi ra, cô nghĩ nếu như không phải là người kéo đàn thì cũng sẽ là một trong mấy người hát. Cô không ngờ, ở góc này của thế giới lại có một người biết hát bài „Cây sơn tra“, có thể dân làng không biết bài hát này là của Liên Xô, cho nên đội viên của đội thăm dò hát một cách tự nhiên.

Một lúc sau Tĩnh Thu thấy một người bế thằng Hoan đi ra. Anh mặc cái áo bông xanh dài đến tận đầu gối, có thể cái áo là của đội thăm dò phát, vì Thu đã thấy có mấy người mặc cái áo bông này đi quanh nhà. Thằng Hoan che khuất một nửa khuôn mặt của anh, cho đến khi anh đi tới, đặt nó xuống đất, Thu mới trông thấy cả khuôn mặt anh.

Tĩnh Thu lúc nhìn người tưởng tượng trong đầu cũng có một đôi mắt, trong lòng cũng có một đôi mắt khác. Đôi mắt trong đầu nói với cô, người không hợp với quan điểm thẩm mĩ của giai cấp vô sản, là bởi khuôn mặt ấy không đỏ au mà rất trắng trẻo, dáng người không giống với một toà tháp bằng thép, mà hơi gầy; anh có đôi hàng lông mày hơi rậm, nhưng không giống với dáng vẻ tuốt kiếm giương cung, không giống hai lưỡi kiếm xếch ngược như hình vẽ trong tranh cổ động. Nói tóm lại, anh không giống với định nghĩa „đẹp trai tài giỏi“ của giai cấp vô sản.

Còn nhớ bộ phim „Thời thanh niên“ chiếu hồi trước Cách mạng văn hóa, trong đó có một nhân vật tên Lâm Dục Sinh là một thanh niên lạc hậu, sợ về nông thôn, sợ đến những nơi gian khổ. Nhân vật Dục Sinh do Đạt Thức Thường đóng, hồi ấy Đạt Thức Thường vẫn còn trẻ, người hao gầy, đường nét trên khuôn mặt rất rõ ràng, có cái vẻ thư sinh, rất phù hợp với vai diễn.

Nếu Tĩnh Thu là đạo diễn, cô sẽ phân vai Lâm Dục Sinh cho bố thằng Hoan, bởi cái vẻ bề ngoài của anh không cách mạng, không võ biền, rất tiểu tư sản.

Nhưng đôi mắt trong trái tim Thu đang ra sức ngắm nhìn cái vẻ không cách mạng ấy của anh, chẳng qua vẫn chưa hình thành quan điểm rõ ràng, mà chỉ tiềm ẩm trong dòng ý thức. Cô biết trái tim mình xao động, trở nên bối rối, bỗng chú ý đến cách ăn mặc, trang điểm của mình.

Hôm ấy Thu mặc cái áo bông cũ của anh trai, vừa giống kiểu áo Tôn Trung Sơn, vừa không giống, vì chỉ có một túi và được gọi là áo học sinh. Áo học sinh cổ đứng rất thấp, nhưng cổ Thu lại cao, cô cảm thấy lúc này mình như con hươu cao cổ, trông rất xấu.

Bố của Tĩnh Thu đã bị đưa về nông thôn để cải tạo từ lâu, ba anh chị em ở nhà dựa vào đồng lương giáo viên tiểu học của mẹ, cuộc sống rất khó khăn, cho nên Thu phải mặc áo cũ của anh trai. Cũng may thời ấy ăn mặc thế nào cũng xong, tuy vậy con gái mặc áo con trai cũng bị người khác cười, nhưng quen rồi chẳng coi có chuyện gì. Hình như đây cũng là lần đầu tiên Thu bận tâm về cách ăn mặc của mình, sợ để lại ấn tượng xấu cho anh.

Thu không nhớ mình đã có lúc nào phải bận tâm về dáng vẻ và cách ăn mặc trước người khác chưa, cũng không nhớ mình đã bao giờ bối rối, mất tự nhiên trước người khác như thế chưa. Các bạn nam trong lớp đều sợ Thu, học tiểu học, trung học cơ sở còn có người bắt nạt, nhưng lên trung học phổ thông thì cánh học sinh nam không ai dám nhìn thẳng Thu, hễ nói chuyện với Thu là mặt đỏ lựng, cho nên Thu không quan tâm đến chuyện cánh học sinh có vừa ý hay không về cách ăn mặc và ngoại hình của mình, tất cả đều là lũ trẻ con.

Nhưng với con người trước mắt đây lại làm cho Thu căng thẳng đến độ đau lòng. Thu cảm thấy anh mặc rất đẹp, cái cổ áo trắng mặc trong cái áo xanh không cài cúc, trắng sạch và phẳng phiu, chắc chắn đó là thứ vải tốt mà Tĩnh Thu không thể mua được. Cái áo len màu vàng nhạt mặc ngoài áo trắng chắc chắn đan bằng tay, ngay như Thu biết đan giỏi cũng cảm thấy kiểu này rất khó đan. Anh còn đi giày da. Bất giác Thu nhìn đôi giày giải phóng đã bạc màu đang đi ở chân, cảm thấy rõ sự chênh lệch giữa giàu và nghèo.

Anh cười với Tĩnh Thu nhưng lại như đang hỏi thằng Hoan:

- Cô Thu của con đấy à? - Sau đấy anh mới chào hỏi. - Vừa đến hôm nay à?

Anh nói tiếng phổ thông, không phải tiếng huyện K, cũng không phải tiếng thành phố K. Tĩnh Thu không biết có nên bắt chuyện với anh không. Thu nói tiếng phổ thông cũng rât tốt, là phát thanh viên của đài truyền thanh nhà trường, thường xuyên được cử đi làm người dẫn chương trình trong những buổi liên hoan hoặc các hội khỏe, nhưng ngày thường Thu không tiện nói tiếng phổ thông, là bởi thành phố K trừ những người từ nơi khác đến, không ai nói tiếng phổ thông. Tĩnh Thu không biết tại sao anh biết nói tiếng phổ thông, có thể anh nói với Thu mộ người từ nơi khác về chăng? Thu „vâng“ coi như câu trả lời.

Anh hỏi:

- Đồng chí nhà văn từ huyện hay từ Nghiêm Gia Hà về? - Tiếng phổ thông của anh rất hay.

- Em không phải là nhà văn. - Tĩnh Thu ngượng ngùng. - Anh đừng gọi em như thế. Chúng em từ huyện về.

- Chắc là mệt lắm nhỉ, vì từ huyện về chỉ có thể đi bộ, ngay cả cái máy kéo nhỏ cũng không thể đi nổi. - Anh nói, rồi đưa tay ra. - Mời cô ăn kẹo.

Tĩnh Thu thấy trong lòng bàn tay anh hai cái kẹo gói giấy, hình như không phải thứ kẹo bán ở phố huyện. Thu lắc đầu thẹn thùng:

- Em không ăn, cảm ơn, anh cho trẻ con.

- Cô không phải trẻ con à?

Anh nhìn Tĩnh Thu như nhìn một đứa trẻ.

- Em... anh không thấy cháu Hoan gọi em là cô hay sao?

Anh cười. Tĩnh Thu rất thích nhìn anh cười.

Có những người lúc cười chỉ làm rung động những thớ thịt trên khuôn mặt, miệng cười nhưng mắt không cười, ánh mắt vẫn lạnh lùng, thậm chí có vẻ thù hận.

Nhưng lúc anh cười hai bên mũi có hai nếp cười, mắt cũng nheo nheo, cho cảm giác cái cười của anh bắt nguồn từ nội tâm, không phải giả vờ, cũng không phải trào lộng, mà cười thật lòng.

- Không phải trẻ con cũng có thể ăn kẹo. - Anh nói, lại đưa cái kẹo cho Thu. - Cầm lấy, đừng xấu hổ.

Tĩnh Thu đành cầm, tự an ủi:

- Em cầm cho cháu Hoan.

Thằng Hoan chạy tới đòi bế. Thu không biết tại sao mình được thằng Hoan mến, cô chiều nó, bế nó lên, nói với anh:

- Mẹ gọi anh về ăn cơm, em về trước nhé.

Anh đưa tay ra đón thằng Hoan:

- Hoan, ra đây bố bế, hôm nay cô phải đi xa, chắc chắn mệt lắm rồi.

Thằng Hoan không phản đối, vậy là anh đi tới, đón thằng Hoan từ trong tay Thu, ý bảo Thu đi trước. Thu không chịu, sợ anh đi sau sẽ trông thấy dáng đi của mình không đẹp, hoặc trang phục không chỉnh, nên cố tình nói:

- Anh đi trước, em... không biết đường.

Anh không cố ép, bế thằng Hoan đi trước, Tĩnh Thu theo sau, trông anh như một quân nhân đã được rèn luyện, đôi chân dài thẳng bước về phía trước. Tĩnh Thu cảm thấy không giống với anh cả Trường Sâm, cũng không giống anh Hai Trường Lâm. Hình như anh là một gia đình khác.

Thu hỏi:

- Vừa rồi anh... kéo đàn đấy à?


- Cô cũng nghe thấy à? Tiếng đàn còn nhiều lỗi lắm nhỉ?

Thu không trông thấy mặt anh, nhưng từ sau lưng cô cảm thấy anh đang cười. Thu ngượng, nói:

- Em... không nhận thấy lỗi. Em không biết chơi đàn này.

- Khiêm tốn làm cho con người tiến bộ, cô khiêm tốn như vậy chắc chắn tiến bộ nhanh lắm. - Anh dừng bước, khẽ quay người lại. - Nhưng nói dối không phải là đứa trẻ ngoan, chắc chắn cô biết. Cô có đem đàn về không?

Thấy Tĩnh Thu lắc đầu, anh đề nghị:

- Chúng ta quay lại, cô thử kéo tôi nghe nhé?

Thu xua xua tay:

- Không, không, em kéo vớ vẩn lắm, anh kéo... rất hay, em không dám.

- Vậy thì để hôm khác.

Nói xong, anh tiếp tục đi.

Thu không biết phải từ chối thế nào, cô hiếu kì hỏi:

- Tại sao chỗ các anh ai cũng biết hát bài „Cây sơn tra“ thế nhỉ?

- Bài hát này rất hay, rất phổ biến hồi những năm năm mươi, nhiều người biết hát. Cô có hát được không?

Thu suy nghĩ, không nói mình biết hát hay không. Mạch suy nghĩ của Thu bắt đầu từ bài hát „Cây sơn tra“, nhớ đến cây sơn tra hôm nay trông thấy trên đường, Thu nói:

- Trong bài hát sơn tra nở hoa trắng nhưng hôm nay em nghe bác Trương nói cây sơn tra kia lại nở... hoa đỏ.

- Đúng vậy, có loại hoa sơn tra nở hoa đỏ.

- Có đúng... cái cây sơn tra ấy vì máu liệt sĩ tưới gốc cây cho nên mới nở hoa đỏ phải không?

Thu hỏi xong thấy thật ngu ngốc. Cô thấy anh đang cười, liền hỏi:

- Có phải anh thấy câu hỏi của em ngớ ngẩn lắm nhỉ? Em muốn hiểu rõ mới viết vào tài liệu giáo khoa, em không dám nói dối.

- Cô không phải nói dối, cô nghe thấy thế nào thì cứ viết lại như thế, còn có thật hay không đâu có phải là vấn đề của cô.

- Như vậy anh tin hoa là do... máu liệt sĩ nhuộm đỏ?

- Tôi không tin. Từ góc độ khoa học thì không thể, nó vốn là loài hoa đỏ. Nhưng mà, người ở đây nói vậy, coi như một truyền thuyết đẹp.

- Vậy ý anh bảo người ở đây... bịa chuyện?

Anh cười, nói:

- Không phải bịa, mà là thi vị hóa. Thế giới tồn tại khách quan, nhưng mỗi người cảm nhận thế giới một khác, con mắt nhà thơ nhìn thế giới sẽ thấy một thế giới khác.

Tĩnh Thu cảm thấy anh nói chuyện rất „văn học“, theo cách nói của „vua“ nói sai của lớp Thu, thì đó là „văn vẽ“. Tĩnh Thu hỏi:

- Anh đã thấy cây sơn tra ấy nở hoa bao giờ chưa?

- Tháng sáu năm nào nó cũng nở hoa.

- Tiếc thật, cuối tháng tư chúng em phải về trường, không thể thấy hoa sơn tra.

- Đi rồi còn có thể về chơi. - Anh nói như hứa với Tĩnh Thu. - Chờ cho năm nay cây sơn tra ấy nở hoa tôi sẽ bảo với cô, để cô về xem.

- Anh làm sao bảo với em được?

Anh lại cười:

- Muốn thì sẽ có cách.

Thu cảm thấy anh chỉ tùy tiện nói vậy thôi, bởi hồi ấy điện thoại chưa phổ biến, cả trường trung học số Tám của thành phố K mới có một máy điện thoại, muốn gọi điện thoại đường dài phải đến bưu điện cách đấy rất xa. Xem chừng cái thôn Tây Thôn Bình này cũng không có điện thoại.

Hình như anh cũng nghĩ đến chuyện ấy:

- Ở đây không có điện thoại, tôi sẽ gửi thư.

Nghe anh nói vậy, Thu thấy rất sợ. Gia đình Thu ở trong khu tập thể của nhà trường, mẹ dạy học, nếu anh viết thư về trường, chắc chắn sẽ bị mẹ cầm thư, mẹ sẽ hoảng lên mất. Từ ngày Thu còn nhỏ mẹ đã dặn „một lần sẩy chân ôm hận suốt đời“, nhưng mẹ chưa bao giờ bảo như thế nào mới gọi là sẩy chân, cho nên Thu vẫn nghĩ, qua lại với một bạn trai cũng là sẩy chân. Thu vội vã nói:

- Đừng viết thư, đừng viết thư, mẹ em thấy lại cho rằng...

Anh quay đầu lại, an ủi:

- Đừng sợ, đừng sợ, cô bảo tôi không viết tôi sẽ không viết đâu. Hoa sơn tra không phải là hoa chóng tàn, nở rồi tàn ngay, hoa này nở mấy ngày liền. Đến tháng Năm, tháng Sáu, bất cứ ngày Chủ nhật nào cô về cũng có thể thấy.

Về đến nhà, anh đặt thằng Hoan xuống, cùng với Thu vào nhà. Người trong nhà đã về gần đủ, Phần tự giới thiệu mình là con gái lớn trong nhà, rồi rất nhiệt tình giới thiệu với Tĩnh Thu từng người một:

- Đây là anh Hai, đây là chị dâu.

Thu cũng gọi „anh Hai“, „chị Mẫn“, mọi người đều vui vẻ.

Cuối cùng Phần chỉ vào „bố Ba“ nói:

- Đây là anh Ba, chào đi.

Tĩnh Thu rất ngoan ngoãn chào „anh Ba“ làm mọi người trong nhà phải bật cười.

Tĩnh Thu không biết mình làm sai như thế nào, mặt cô đỏ lựng, đứng ngây ra. „Anh Ba“ giải thích:

- Tôi không phải là người trong gia đình, giống như cô, chỉ ở đây thôi, cả nhà vẫn gọi tôi như thế, cô đừng gọi. Tôi là Tôn Kiến Tân, cô cứ gọi tên tôi, hoặc như mọi người gọi tôi là Ba.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 4

Từ hôm sau, tiểu tổ cải cách giáo dục của trường trung học số Tám thành phố K bắt đầu bận rộn, hàng ngày đi hỏi chuyện bà con trong thôn, nghe họ kể chuyện chống Nhật, kể chuyện nông nghiệp học công xã nhân dân điển hình Đại Trươngại, kể chuyện đấu tranh với phải cầm quyền đi theo con đường tư bản, hoặc đến tham quan những địa điểm lịch sử.

Sau một ngày thăm thú, hỏi chuyện bà con, cải tổ họp lại thảo luận xem nên viết gì, phần nào do ai viết, sau đấy chụm đầu vào viết, ít hôm sau đưa bài viết ra báo cáo với toàn tổ, cùng góp ý, sửa chữa. Ngoài công việc ấy ra, hàng tuần cả tổ còn chia nhau tham gia lao động với bà con xã viên, bà con xã viên không nghỉ ngày Chủ nhật, nên cả tổ cũng không nghỉ. Thành viên trong tổ thay phiên nhau về thành phố K báo cáo với nhà trường tình hình biên soạn tài liệu giáo khoa, tiện thể nghỉ một vài hôm.

Cứ đến thứ Tư và ngày cuối tuần, Trường Phương, cô con gái thứ hai của bà Trương từ trường trung học Nghiêm Gia Hà về, Phương tầm tuổi Tĩnh Thu, lại ngủ cùng giường nên thành bạn thân. Phương bảo Thu cách gấp chăn hình tam giác, Thu giúp Phương làm bài, buổi tối hai cô gái nói chuyện đến tận khuya, phần lớn nói chuyện anh Hai và anh Ba.
Theo phong tục của người y Thôn Bình, tên gọi thường ngày của con cái trong gia đình đều theo thứ tự, con trai lớn gọi là anh Cả, thứ hai gọi là Hai. Nhưng với con gái thì không gọi như thế, mà thêm vào một chữ “cái”, không tính theo thứ tự, vì con gái phải đi lấy chồng, đi lấy chồng phải về nhà chồng, “con gái đi lấy chống như chậu nước đổ đi”, không còn là người nhà mình.

Phương nói với Thu:

- Mẹ Thu bảo sau khi chị đến, anh Hai trở nên chăm chỉ, ngày nào cũng về xem có phải gánh nước không, là bởi con gái thành phố các chị rất vệ sinh, dùng nhiều nước. Anh ấy sợ chị không quen dùng nước lạnh, ngày nào cũng nấu mấy bình nước nóng để chị vừa uống vừa dùng. Mẹ Phương vui lắm, xem ra muốn chị làm chị Hai của Phương.
Thu nghe nói mà lo lắng, không yên, chỉ sợ khó đền đáp mối thịnh tình này.

Phương nói thêm:

- Anh Ba cũng rất tốt với chị Thu, nghe mẹ Phương nói, chị vừa đến, anh ấy lấy ngay cái bóng đèn lớn thay cho chị, bảo bóng đèn trong buồng tối quá, đọc sách viết lách gì đều hại mắt. Anh ấy còn đưa tiền cho mẹ Phương trả tiền điện.

Thu nghe nói, lòng vui rạo rực, nhưng miện lại nói:

- Anh ấy sợ mắt Phương hỏng, vì đây là buồng của Phương.

- Phương ở đây bao nhiêu lâu, vậy mà chẳng thấy thay?

Về sau Thu gặp Ba đưa trả tiền cho anh, nhưng anh không nhận, hai người cứ đẩy đi đẩy lại như đánh nhau, Thu đành phải thôi. Lúc cô chuẩn bị đi, giống như Bát lộ quân, để lên bàn một ít tiền và mảnh giấy nhắn lại đây là của anh.

Nhưng năm gần đây Tĩnh Thu phải sống trong tâm trạng nặng nề vì “xuất thân không tốt”, chưa bao giờ được người khác ân cần chăm sóc. Với Thu, cuộc sống hiện tại giống như đánh cắp, vì bà Trương và mọi người không biết xuất thân của Thu, nếu họ biết chắc chắn sẽ không nhìn Thu bằng con mắt bình thường.

Một buổi sáng, Tĩnh Thu ngủ dậy, đang gấp chăn, bỗng thấy trên giường có vết máu to như quả trứng gà. Cô phát hiện “bạn thân” lại đến làm bẩn cả. “Bạn thân” của Tĩnh Thu vẫn vậy, hễ gặp chuyện gì lớn đều xung phong lên trước. Trước đây cũng vậy, hễ về nhà máy, về nông thôn, đến các đơn vị quân đội “bạn thân” đều đến sớm hơn. Thu vội thay khăn trải giường, lấy đầy một chậu nước, lén vò sạch vết máu. Ở nông thôn không có máy nước, Tĩnh Thu ngượng không dám giặt khăn trải giường ở nhà, với lại giặt như thế cũng không sạch. Lại đúng hôm trời mưa, sốt ruột chờ đến trưa trời mới tạnh, Thu vội để cái khăn trải giường vào chậu rửa mặt mang ra sông giặt.

Thu biết vào những ngày này phải kiêng nước lạnh, mẹ rất quan tâm đến chuyện ấy, thường nhắc nhở Thu đến kỳ kinh nguyệt không được đụng vào nước lạnh, không được ăn đồ lạnh, không được tắm nước lạnh, nếu không sẽ đau răng, nhức đầu, đau gân cốt. Nhưng hôm nay thì không có cách nào khác, cô mong chỉ một lần đụng đến nước lạnh sẽ không có vấn đề gì.

Ra đến bờ sông, Thu đứng trên hai tảng đá, thả cái khăn trải giường xuống nước, nhưng chỗ cô với tay được thì rất nông, cái khăn trải giường vừa thả xuống bùn đất cũng nổi lên theo, giống như càng giặt càng bẩn. Thu nghĩ, cứ liều, cởi giày xuống nước xem sao. Đang cởi giày thì nghe có người gọi:

- Cô làm gì đấy? May mà trông thấy, nếu không tôi giặt ủng ở trên này, nước bẩn trôi xuống làm bẩn khăn giường của cô.

Tĩnh Thu ngước lên, thấy Ba. Từ hôm Thu gọi “anh Ba” bị mọi người cười, không biết mình phải gọi anh thế nào. Dù gọi thế nào cũng thấy ngượng, không biết tại sao. Tất cả những gì có liên quan đến anh đối với cửa miệng Thu đều trở nên cấm kỵ, nhưng đối với đôi mắt, đôi tai và trái tim cô lại trở thành “sách đỏ cao quý” ngày ngày phải xem, ngày ngày phải đọc, ngày ngày phải nhớ.

Anh vẫn mặc cái áo bông lửng, nhưng chân đi ủng cao su dính đầy bùn đất. Lòng Thu chợt bồn chồn, hôm nay mưa to, cô ra sông giặt khăn trải giường, cứ sợ mọi người biết chuyện. Thu sợ anh hỏi, vội vàng chuẩn bị một lời nói dối.
Nhưng anh không hỏi, chỉ nói:

- Để tôi giặt giúp, tôi đang đi ủng, có thể ra sâu một chút.

Thu từ chối mãi, nhưng anh đã cởi bỏ cái áo bông, để vào tay Thu, cầm lấy cái khăn trải giường. Thu ôm cái áo bông của anh đứng trên bờ, nhìn anh xắn tay áo ra chỗ nước sâu, một tay cọ bùn đất trên ủng, sau đấy nhanh nhẹn vò

Giặt một lúc, anh cầm cái khăn, tung lên như tung lưới bắt cá, cái khăn trải rộng, nổi trên mặt nước, bông hoa hồng trên đó nhảy nhót vui mừng theo sóng nước. Anh để cho nước cuốn trôi, Thu hốt hoảng kêu lên anh mới đưa tay ra nắm lấy cái khăn trải giường. Anh đùa nghịch như thế một lúc, Thu không kêu lên nữa, anh để cái khăn trôi cô cũng không kêu.

Thu không kêu, anh không nắm lấy cái khăn, lần này thì trôi thật. Cái khăn trải giường trôi một quãng xa anh vẫn không lôi lại, cuối cùng thì Thu phải kêu lên, anh mới cười to, rồi bước thấp bước cao đuổi theo lôi cái khăn lại.
Anh đứng dưới nước, ngoái nhìn Thu, lớn tiếng hỏi:

- Thu có lạnh không, lạnh thì mặc cái ao bông vào.

- Em không lạnh.

Anh lên bờ, quàng cái áo bông lên người thu, nhìn cô một lúc rồi cười ngả cười nghiêng.

- Anh cười gì? – Thu lấy làm lạ, hỏi. – Hay là em xấu lắm?

- Không, cái áo quá rộng, khoác lên người trông như cái nấm.

Thấy hai tay anh rét đỏ, Thu lo lắng hỏi:

- Anh…lạnh không?

- Nói không lạnh là nói dối. – Anh lại cười to:

– Nhưng sắp xong rồi.

Anh lại chạy xuống sông rũ cái khăn, rũ một lúc, anh vắt kiệt nước, đi lên bờ. Thu vội trả cái áo bông cho anh, anh mặc áo, cầm cái chậu đựng khăn trải giường.

Thu giành lấy, nói:

- Anh đi làm đi, để em đem về, cảm ơn anh nhiều.

Anh không đưa trả cái chậu cho Thu, nói:

- Trưa rồi, đang là thời gian nghỉ. Nơi làm việc của tôi đã chuyển sang đây, sẽ về nghỉ một lúc.

Về đến nơi, anh bảo Thuhía sau nhà có sào phơi áo quần, anh tìm khăn lau sạch cây sào, lại giúp Thu phơi cái khăn trải giường lên, sau đấy dùng hai cái kẹp kẹp lại.

Lúc anh làm, tay chân rất thành thạo, rất tự nhiên. Tĩnh Thu bất ngờ hỏi anh:

- Tại sao anh làm việc nhà giỏi thế?

- Quanh năm đi công tác xa nhà, mọi việc phải tự làm.

Bà Trương nghe thấy, đùa anh:

- Nói khoác, vỏ chăn, khăn trải giường của anh đều do cái Phần nhà này giặt.

Anh lè lưỡi, không dám khoác lác. Tĩnh Thu nghỉ, chắc chắn Phần rất thích anh, không phải thì tại sao lại giặt chăn, giặt khăn trải giường cho anh?

Thời gian ấy hầu như trưa nào Ba cũng về nhà bà Trương, có lúc ngủ trưa, có lúc nói chuyện với Thu, có lúc anh mang trứng gà và thịt về để bà Trương làm thức ăn cho mọi người. Không biết anh lấy thịt và trứng ở đâu, vì những thứ đó đều bán theo tem phiếu, có lúc anh lại mang cả trái cây về, hồi ấy trái cây rất hiếm, cho nên mỗi lần anh mang về đều làm cả nhà vui.

Có lần anh bảo Thu cho anh xem những gì cô đã viết, anh nói:

- Đồng chí nhà văn, tôi biết các đồng chí không muốn cho ai xem ngọc ngà của mình, nhưng thứ các đồng chí viết không phải ngọc ngà, mà là lịch sử thôn này, có thể cho tôi xem được không?

Thu không thể từ chối, đành đưa cho anh xem. Anh xem rất nghiêm túc, trả lại cho Thu, nói:

- Văn chương không có gì phải bàn, nhưng mà, Thu viết những thứ này quả là lãng phú tài năng.

- Tại sao?

- Toàn là thứ văn chương ứng cảnh, không có ý nghĩa gì sất.

Thu giật mình, cảm thấy những lời anh nói rất phản động. Nhưng đúng là Thu không thích viết những thứ đó, nhưng không viết không còn cách nào.

Thấy Thu lo lắng viết lách, anh an ủi:

- Cứ viết đại đi, người ta bảo viết thế nào thì cứ viết như thế. Viết những thứ này khỏi cần động não nhiều.

Những lúc không có ai, Tĩnh Thu hỏi anh:

- Anh bảo em viết những thứ này không cần phải động não nhiều, vậy thì viết cái gì mới cần phải động não?

- Viết những cái Thu cần viết, tức là phải tốn tâm tư. Thu đã viết truyện, làm thơ bao giờ chưa?

- Chưa. Em làm sao có thể viết nổi truyện?

Anh thấy hứng thú, hỏi Tĩnh Thu:

- Thu cảm thấy người như thế nào mới viết được truyện? Anh thấy thu có tư chất làm một nhà văn, văn thu viết rất hay, quan trọng hơn là, Thu có đôi mắt rất giàu chất thơ, có thể nhận ra chất thơ trong cuộc sống…

Tĩnh Thu lại thấy anh “văn vẻ”, liền truy hỏi:

- Anh luôn nói “chất thơ, chất thơ”, cuối cùng “chất thơ” là gì?

- Theo cách nói trước kia, tức là “chất thơ” còn theo cách nói ngày nay, tức là “lãng mạn cách mạng”.

- Anh biết nhiều quá, tại sao anh không viết truyện?

- Cái mà anh muốn viết sẽ không có ai in còn cái có thể in được, chắc chắn đấy không phải là cái muốn viết. – Anh cười rồi nói tiếp: – Có thể Thu vừa đi học thì Cách mạng văn hóa bắt đầu, nhưng anh học đến trung học phổ thông thì bắt đầu Cách mạng văn hóa, anh bị ảnh hưởng của giai cấp tư sản chắc chắn sâu hơn Thu. Lúc đi học, anh cứ muốn thi lên đại học, vào đại học Thanh Hoa, nhưng vì chưa đến tuổi…

- Tại sao anh không đi học đại học Công Nông Bình?

Anh lắc đầu:

- Có ý nghĩa gì? Bây giờ ở đại học không học được gì. Thu tốt nghiệp trung học rồi chuẩn bị làm gì?

- V

- Rồi sau đấy?

Thu rất buồn vì không thấy “sau đấy” của mình. Anh trai Thu về nông thôn mấy năm nay, không làm sao về lại thành phố. Anh trai kéo violon rất giỏi, văn công huyện và đoàn văn công Hải Chính muốn nhận anh, nhưng đến khi thẩm tra lí lịch họ lại thôi. Thu hơi buồn, nói:


- Không có “sau đấy” em về nông thôn nhất định sẽ không được về lại thành phố, vì gia đình em… thành phần không tốt.

Anh khẳng định:

- Không đâu, nhất định Thu sẽ được gọi về, chẳng qua muộn thôi. Đừng nghĩ nhiều, đừng nghĩ xa, thế giới thay đổi hàng ngày, biết đâu đến ngày ấy chính sách thay đổi, không phải về nông thôn nữa.

Thu cảm thấy tương lại thật xa vời, liệu có như thế được không? Nhất định anh đang động viên. Dù sao thì Thu có về nông thôn hay không, có được gọi về hay không cũng không liên quan đến anh, anh chẳng việc gì phải chịu trách nhiệm với lời nói của mình. Nói đến những chuyện ấy, Tĩnh Thu cảm thấy không còn gì để bàn với anh, anh bảo bố anh trước kia làm quan, tuy có bị chấn chỉnh, nhưng bây giờ thì không việc gì nữa, cho nên anh không phải về nông thôn, mà được vào thẳng đội thăm dò. Con người như anh khác hẳn với Thu, anh không thể hiểu nổi nỗi lo của Thu.

- Em phải viết đây.

Thu uể oải nói rồi giả bộ viết. Anh cũng không nói gì thêm, chỉ ngồi kia ngủ gật, thỉnh thoảng lại đùa với thằng Hoan, đến giờ anh về đi làm.

Một hôm, anh đem đến cho Thu một cuốn sách rất dày, hỏi:

- Thu đã đọc cuốn Jean Christophe này chưa? (Tiểu thuyết của nhà văn Pháp Romain Roliand (1866 – 1944)
- Em chưa đọc.

Anh để cuốn sách lại, bảo đây chỉ là tập một, xem xong tập này anh sẽ cho mượn tập tiếp theo.

Về sau Tĩnh Thu hỏi:

- Tại sao anh có những sách này

- Đều là của mẹ anh. Bố anh làm quan, nhưng mẹ thì không. Có thể Thu đã nghe nói, hồi đầu giải phóng ban hành luật hôn nhân mới, rất nhiều cán bộ bỏ vợ ở quê, tìm các cô nữ sinh trẻ đẹp, có học thức lấy làm vợ. Mẹ anh là một nữ sinh, một tiểu thư còn nhà tư sản, có thể vì để thay đổi địa vị chính trị của mình, nên lấy bố anh.

- Nhưng mẹ cảm thấy bố không hiểu mẹ, cho nên trong lòng mẹ rất day dứt, dành phần lớn thời gian để đọc sách. Mẹ yêu sách, có rất nhiều sách, nhưng hồi Cách mạng văn hóa mẹ sợ, đốt rất nhiều. Anh và thằng em trai giấu đi. Cuốn này có hay không?

- Đây là của giai cấp tư sản, nhưng chúng ta có thể tiếp thu có phê phán… – Tĩnh Thu nói.

Anh lại nhìn Thu như nhìn một đứa trẻ:

- Đây là những tác phẩm nổi tiếng thế giới, hiện tai đang gặp vận nguy ở Trung Quốc, nhưng rồi danh tác vẫn là danh tác, không phải vì thế mà trở thành rác rưởi. Thu có muốn đọc nữa không? Anh vẫn còn, nhưng Thu không được đọc quá nhiều, nếu không, không viết xong tài liệu giáo khoa. Hay là … để anh viết giúp?

Anh viết giúp mấy đoạn, rồi nói:

- Lịch sử Tây Thôn Bình anh rất thuộc, viết trước mấy đoạn, để thầy giáo và các bạn của Thu xem có được không, nếu không được anh sẽ viết lại.

Về sau, trong lúc thảo luận tổ, Tĩnh Thu đưa những đoạn đã viết mấy hôm nay cho mọi người xem, dường như không ai nhận ra những đoạn không phải Thu viết. Vậy là anh trở thành “nhà văn dự bị” của Tĩnh Thu, cứ buổi trưa anh lại viết giúp tài liệu giáo khoa, trưa nào Thu cũng đọc sách của anh cho mượn
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 5

Hôm ấy, Thu cùng tổ cải cách giáo dục đi tham quan vách núi Hắc Ốc, đấy là một cái hang, nghe nói là nơi ẩn nấp của những chiến sĩ cách mạng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật. Về sau bị bọn Hán gian tố giác, quân Nhật bao vây, hơn hai chục thương bình và dân làng bị chết trong đó. Quân Nhật đốt cửa hang, hễ có ai chạy ra là bị chúng bắn, không chạy ra đều chết cháy trong hang. Bây giờ khói đen vẫn còn trên vách hang.

Đây là trang sử đau thương nhất của Tây Thôn Bình, thành viên trong tổ cải cách giáo dục nghe đều phải rơi nước mắt. Tham quan xong, lẽ ra đã đến giờ ăn, nhưng mọi người nói các bậc tiên liệt cách mạng đã phải đầu rơi máu chảy, hi sinh cho cuộc sống hạnh phúc của chúng ta hôm nay, lẽ nào chúng ta không ăn muộn được một bữa hay sao? Vậy là mọi người không tính gì đến ăn uống, bắt đầu họp, thảo luận để viết sự việc này, mãi cho đến hai giờ chiều mới xong.

Thu về đến nhà bà Trương, không thấy Ba đâu, nghĩ bụng chắc chắn anh đến, nhưng bây giờ phải về làm việc. Thu ăn vội vài lưng cơm rồi ngồi viết chuyện hôm nay. Nhưng đến trưa hôm sau cũng không thấy Ba đến, Tĩnh Thu có phần lo lắng, hay là hôm qua anh đến không gặp mình, rồi giận, không đến nữa? Không thể, mình đâu có đủ bản lĩnh để làm Ba phải giận?

Liền mấy hôm sau cũng không thấy Ba xuất hiện. Thu bắt đầu như người mất hồn, cảm thấy có gì đó không nên không phải, viết lách cũng không nổi, ăn không ngon, chỉ nghĩ tại sao anh không đến. Thu muốn hỏi bà Trương và những người trong nhà Ba đi đâu, nhưng không dám, chỉ sợ mọi người nghĩ mình và anh có chuyện gì.

Đến tối, Thu đưa thằng Hoan ra làm bình phong, đến lán công nhân để tìm Ba. Đến gần lán đội thăm dò, Thu không nghe thấy tiếng đàn accordéon. Tĩnh Thu quanh quẩn ở đấy mãi, không dám vào hỏi Ba đi đâu, đành phải ra về. Sau đó, không thể chịu đựng được hơn, Thu phải hỏi khéo bà Trương:

- Vừa rồi cháu Hoan hỏi bố Ba của nó đi đâu mà mấy hôm nay không về…

Bà Trương cũng không biết, nói:

- Tôi cũng bảo tại sao mấy hôm nay không thấy anh ấy đến chơi, có thể về thăm nhà chăng.

Lòng Thu giá lạnh, anh về thăm nhà? Anh ấy đã có vợ chưa nhỉ? Thu chưa bao giờ hỏi, mà anh cũng không nói mình đã có gia đình hay chưa. Phương cũng không nói anh đã có gia đình, mà cũng không nói chưa có. nh nói, học đến trung học phổ thông thì gặp Cách mạng văn hóa, vậy anh hơn Thu sáu, bảy tuổi, vì Cách mạng văn hóa bắt đầu thì cô mới học lớp hai. Nếu không vì kêu gọi kết hôn muộn, sợ rằng anh đã lập gia đình rồi. Nghĩ đến chuyện anh đã có gia đình, lòng Thu chợt buồn, cảm thấy như anh nói dối mình. Nhưng Thu nghĩ kỹ lại những gì trong thời gian vừa rồi, cảm thấy anh không nói dối điều gì, hai người chỉ nói chuyện và viết lách, không nói gì khác, cũng không làm chuyện gì khác.

Dưới tấm kính kia có ảnh của anh, rất nhỏ, hình như ảnh làm giấy tờ gì đó. Những lúc không có người, Tĩnh Thu bần thần ngồi ngắm tấm ảnh. Thu cảm thấy từ ngày gặp anh, cái quan điểm thẩm mỹ của giai cấp vô sản bị anh thay đổi triệt để. Cô chỉ yêu khuôn mặt kia, yêu dáng người, lời nói và cử chỉ, yêu nụ cười của anh. Những là khuôn mặt đỏ au, dáng người như thép… tất cả đều bay biến!

Nhưng anh không còn xuất hiện, hay anh đã nhận ra điều gì nên tránh mặt chăng? Thu nghĩ, chỉ một thời gian nữa sẽ phải xa Tây Thôn Bình, vậy là sẽ không được gặp anh. Chỉ mới mấy hôm anh không xuất hiện đã làm Thu buồn, vậy sau này vĩnh viễn không gặp anh thì thế nào?

Nhiều lúc, một người phát hiện mình yêu một người, đến lúc phải chia tay, không được gặp lại, mới biết mình đã lưu luyến mãnh liệt với người kia.

Thu chỉ cảm thấy sợ hãi, tâm trạng lưu luyến ấy cô chưa bao giờ được thể nghiệm, giống như bất giác Thu đặt trái tim mình trong lòng bàn tay anh, bây giờ thì tùy anh xử lý. Anh muốn trái tim Thu đau chỉ cần bóp mạnh, anh muốn trái tim Thu vui sướng chỉ cần một nụ cười. Tĩnh Thu không biết tại sao mình thiếu thận trọng đến vậy, biết rõ hai con người không cùng một thế giới, vậy mà thiếu thận trọng yêu anh.

Có thể con gái, nhất là những cô gái nhà nghèo đều có những giấc mơ của nàng Lọ Lem, mơ tưởng sẽ có một ngày có một chàng hoàng tử tuấn tú yêu mình, không chê mình là con nhà nghèo, làm cho mình thoát cảnh nghèo khó, thoát khỏi bể khổ, sống trong thiên đường hạnh phúc. Nhưng Thu không dám mơ giấc mơ ấy, Thu biết mình không phải Lọ Lem, nàng Lọ Lem tuy nghèo nhưng rất xinh đẹp. Hơn nữa, cha mẹ Lọ Lem cũng không phải thành phần địa chủ hoặc con gia đình có lịch sử phản cách mạng.

Thu không nghĩ được mình có điểm nào đáng để Ba thích, nhất định vì buổi trưa rỗi rãi anh mới đến nhà bà Trương chơi. Có thể anh là chàng công tử trong sách, có chút tài vặt, lừa được các cô gái vào tay mình, ghi thêm một điểm vào Nhật ký người đi săn, coi như chiến tích huy hoàng rồi đến một nơi khác để lừa các cô gái khác .

Tĩnh Thu cảm thấy mình bị Ba lừa dối, vì cô không thể buông nổi anh, chắc chắn anh cũng đã nhìn ra. Có thể đấy là điều “một lần sẩy chân ôm hận suốt đời” mà mẹ vẫn thường nhắc nhở chăng? Tĩnh Thu nhớ lại một đoạn trong Jane Eyre ( Tiểu thuyết của nữ văn sĩ Anh Charlotte Bronte (1816 -1855). Jane Eyre để từ bỏ tình yêu của Rochester ngày nào cũng soi gương và nói:

- “Mi là một cô gái nhan sắc bình thường, mi không xứng với tình yêu của chàng, mi đừng bao giờ quên điều ấy!”.

Tĩnh Thu cũng muốn lấy gương ra soi và nói với mình câu ấy, nhưng làm như thế có nghĩa là Thu đã tự nhận mình yêu anh ấy rồi. Thu vẫn không dám tự nhận điều ấy. Cô vẫn còn là một học sinh trung học, người ta đã tốt nghiệp, đã ra đi làm, còn phải hôn nhân muộn, càng khỏi phải nói đang đi học. Thu tự nhủ: mình phải biết quên anh ấy, cho dù anh ấy có trở về mình cũng không thể đến với anh.

Trên trang cuối cùng của cuốn vở viết lịch sử thôn, Thu viết một quyết tâm thư: “Kiên quyết phân rõ ranh giới với mọi tư tưởng tiểu tư sản, toàn tâm toàn ý học tập, công tác, viết thật tốt tài liệu giáo khoa, dùng hành động thực tế để cảm ơn lãnh đạo nhà trường đã tin tưởng tôi”. Thu chỉ có thể viết lộn xộn, vì không có chỗ nào để cất giấu riêng tư cá nhân. Nhưng Thu biết, “tư tưởng tiểu tư sản” là chỉ điều gì.

Mấy hôm sau, “tư tưởng tiểu tư sản” lại xuất hiện. Đây là một buổi chiều, đã gần năm giờ, Tĩnh Thu đang viết trong buồng riêng, bỗng nghe thấy tiếng nói vui mừng của bà Trương:

- Anh về rồi đấy à? Về thăm người thân hay sao?

Sau đấy Thu lại nghe thấy giọng nói làm cho trái tim cô xao động:

- Không, con sang bên đội Hai.

- Thằng Hoan cứ hỏi anh mãi, chúng tôi cũng mong anh.

Thu bối rối nghĩ, bà Trương không nói mình cũng hỏi mấy lần, coi như thằng Hoan hỏi. Thu nghe thấy “con cừu chịu tội” vui mừng từ trong nhà chạy ra, một lúc sau mang vào cho Thu mấy cái kẹo, bảo của bố Ba cho. Thu cầm cái kẹo lại đưa cho “con cừu chịu tội”, mỉm cười nhìn nó bóc hai cái kẹo cho vào miệng, hai bên má phồng lên.

Thu kiềm chế bản thân, ngồi trong phòng không ra gặp Ba. Thu nghe anh nói chuyện với bà Trương, hình như nói bên đội Hai có sự cố kỹ thuật, anh phải sang giải quyết, đội Hai ở một thôn nào đó bên Nghiêm Gia Hà. Thu thở phào nhẹ nhõm, chỉ trong giây lát quên ngày quyết tâm của mình, chỉ muốn gặp anh, nói với anh vài ba câu. Thu không thể không lật quyết tâm thư của mình ra đọc lại, tự nhủ:

- Thu ơi, đã đến lúc thử thách mi rồi đó, xem lời mi nói có đúng không? Vậy là Thu ngồi ngây ra trước bàn viết.

Một lúc sau không còn nghe thấy tiếng anh, Thu biết anh đã đi, lại hối hận, nếu anh đi đâu đấy mấy hôm không về, vậy là Thu đã bỏ qua cơ hội hôm nay rồi chăng? Thu vội vã đứng dậy, muốn ra xem anh đi đâu, cho dù chỉ thấy cái bóng thôi cũng đủ yên tâm. Thu vừa đứng dậy quay người thì trông thấy anh nghiêng mình ở cửa buồng, nhìn Thu.

- Thu…định đi đâu đấy?

- Em đi …ra nhà sau.

Sau nhà có cái nhà vệ sinh, cho nên nói “ra nhà sau” có nghĩa là đi nhà vệ sinh. Anh cười:

- Đi đâu, đừng làm mất thì giờ của anh, anh chờ.

Thu đứng lại, ngẩn ngơ nhìn anh, mấy ngày không gặp, cảm thấy anh gầy đi chút ít: má hóp lại, râu dưới cằm tua tủa, chưa bao giờ Thu thấy anh như thế, cằm anh lúc nào cũng cạo nhẵn. Thu lo lắng hỏi:

- Anh ở bên ấy… làm việc có mệt không?

- Không mệt, công việc về kỹ thuật, không dùng nhiều sức lực... Anh sờ mặt mình, nói.

– Gầy phải không? Mất ngủ…

Anh nhìn Thu khiến lòng Thu bối rối, nghĩ bụng không biết má mình có hóp lại không nhỉ? Thu nói khẽ:

- Tại sao anh sang đội Hai mà không nói với em? Cháu Hoan lúc nào cũng nhắc đến anh.

Anh vẫn nhìn Thu, cũng nói khẽ:

- Hôm ấy đi vội, không đến nói với Thu… và mọi người được. Sau đấy, ở bến xe, anh đến bưu điện nói với anh Sâm, tưởng rằng anh ấy về nói với Thu, có thể anh ấy quên. Về sau không nhờ được ai, phải chờ anh về nói với Thu.

Thu giật mình, anh nói với ý gì nhỉ? Hình như anh nhìn thấu tâm tư mình, biết mình mấy hôm nay muốn tìm anh,

Thu thanh minh:

- Anh bảo với em để làm gì? Em biết anh đi đâu để làm gì?

- Thu không muốn biết anh đi đâu, nhưng anh muốn báo với Thu anh đi đâu, thế không được à? – Anh nghiêng đầu, nói như bất chấp lẽ phải.

Thu lúng túng không biết nói gì hơn, vội đi ra sau nhà. Thu đứng ở nhà sau một lúc rồi mới quay về, thấy anh ngồi trước bàn viết đang lật giở xem vở ghi của Thu. Thu giật cuốn vở, xếp lại, trách anh:

- Không xin phép mà đã xem!

Anh cười, học cách nói của Thu:

- Tại sao không xin phép đã viết về người ta?

Thu vội vã giải thích:

- Em đâu viết về anh? Em đâu có nhắc đến tên họ của anh? Em chỉ viết … quyết tâm thư.

Anh tỏ ra hiếu kỳ, nói:

- Anh đâu nói Thu viết về anh, chỉ nói Thu chưa được phép của những người anh hùng chống Nhật mà đã viết về họ. Thu viết về anh đấy à? Ở đâu? Tài liệu lịch sử mà Thu viết đấy chứ?

Tĩnh Thu không biết vừa rồi anh đã đọc quyết tâm thư của mình hay chưa, rất ân hận vì đã nói nhầm, có thể vừa rồi anh chỉ thấy phần viết về lịch sử ở đầu cuốn vở. Cũng may anh không truy hỏi tiếp, mà lấy ra một cây bút mới, nói:

- Thu dùng cây bút này đi, từ lâu muốn cho Thu một cây bút, nhưng không có dịp nào. Cây bút của Thu bị chảy mực, Thu nhìn xem ngón tay giữa đầy mực.

Tĩnh Thu nhớ, anh có lần nói sẽ mua cho Thu một cây bút mới. Vì anh cài mấy cây bút trên túi áo ngực, có lần Thu cười anh:

- Anh đúng là trí thức, lúc nào cũng cài nhiều bút trên túi.

Anh cười:

- Thu chưa nghe nói bao giờ à? Cài một cây bút là sinh viên, cài hai cây bút là giáo sư, cài ba cây bút là… – Anh buông lửng, không nói.

- Là gì? Cài ba cây bút là gì? Là nhà văn à?

- Cài bà cây bút là thợ chữa bút.

Thu bật cười, hỏi:

- Vậy anh là thợ chữa bút à?

- Ôi, thích nghịch ngợm táy máy, chữa bút, chữa đồng hồ báo thức, chữa đủ thứ, đàn accordéon cũng tháo ra xem.

Bút của Thu anh đã mở ra xem rồi, không chữa được nữa, thay linh kiện không bằng đổi cái mới, lúc nào có thời gian sẽ mua cho Thu. Thu dùng cây bút này không sợ dây mực lên mặt à? Con gái rất sợ xấu hổ.
Thu không nói gì, vì nhà Thu nghèo, không mua nổi bút, cây bút cũ này cũng của người khác cho.

Anh đưa cây bút mới cho Thu, hỏi:

- Thu có thích cây bút này không?

Tĩnh Thu cầm cây bút lên, cây bút Kim tinh rất đẹp, tiếc không dám bơm mực vào. Thu định nhận cây bút và sẽ trả tiền cho anh, nhưng Thu không có tiền, lần này về nông thôn mẹ cũng phải đi vay tiền ăn cho Thu, cho nên Thu trả cây bút cho anh:

- Em không cần, bút của em cũng viết được.

- Tại sao không cần? Thu không thích à? Hình như anh có phần nôn nóng.

– Lúc mua anh không nghĩ, có thể Thu không thích màu đen, nhưng không có màu khác. Anh thấy bút này tốt, nét nhỏ, chữ Thu viết đẹp, dùng cây bút nét nhỏ này tốt hơn.

Anh giải thích một lúc rồi nói.

– Thu cứ dùng đi, lần sau anh mua cho Thu cái đẹp hơn.

- Đừng… đừng, không phải em chê bút xấu, mà là…đẹp. Đắt lắm phải không anh?

Anh như thở phào nhẹ nhõm:

- Không đắt, Thu thích là được rồi, bơm mực vào thử nhé?

Anh lấy lọ mực, hút mực vào bút. Lúc viết, anh thích cầm cây bút khẽ vẩy như đang suy nghĩ, sau đấy mới đặt bút viết.

Anh viết một câu thơ vào v của Thu, đại ý: hôm anh gặp em, lòng cầu mong nếu cuộc sống là lối đi hàng một, xin em hãy đi trước mặt anh, để anh lúc nào cũng được thấy em; nếu cuộc sống là lối đi song song, xin em hãy cho anh dắt tay em đi trong biển người mênh mông, sẽ không bao giờ mất em.

Thu rất thích cây thơ ấy, cô hỏi:

- Thơ của ai đấy?

- Chỉ viết linh tinh, đâu phải là thơ, nghĩ gì viết nấy, vậy thôi.

Hôm ấy, anh bắt Thu phải nhận cây bút, nếu Thu không chịu nhận, anh đành đưa cho nhóm của Thu, bảo đấy là tặng phẩm cho công việc cải cách giáo dục, để cho Thu viết lịch sử. Thu sợ anh mang đến cho nhóm công tác, mọi người biết chuyện, Thu đành phải nhận, hứa rằng sau này sẽ trả tiền cho anh.

Anh nói:

- Được, anh chờ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 6

Mấy hôm sau, đến lượt Thu về thành phố nghỉ, kỳ nghỉ luân phiên của Thu vào hai ngày thứ Tư và thứ Năm.
Hai kỳ nghỉ lần trước, Thu nhường cho một bạn nam tên là Lí Kiện Khang, vì cậu ta khng được khỏe như cái tên, mặt luôn bị sưng, phải đi bệnh viện kiểm tra. Một nguyên nhân khác để Thu nhường kỳ nghỉ cho bạn là vì cô không có tiền đi đường. Hồi ấy, tiền lương tháng của mẹ chỉ gần bốn chục đồng, phải nuôi mẹ và đứa em gái, phải chi tiền về nông thôn cho anh trai, phải chu cấp cho bố đang cải tạo lao động, tháng nào thu cũng không đủ chi, cho nên Thu có thể tiết kiệm được khoản nào thì tiết kiệm.

Nhưng lần này thì không thể, chủ nhiệm lớp của Thu nhờ người về nghỉ đưa thư cho Thu, bảo Thu về để tiết mục chuẩn bị hội diễn sắp tới của trường, Thu phải về để dàn dựng điệu múa cho các bạn. Giáo viên chủ nhiệm lớp còn quyên góp cho Thu đủ tiền đi và về.

Mẹ Thu đang là giáo viên của trường tiểu học trực thuộc trường trung học số Tám, coi như đồng nghiệp với giáo viên chủ nhiệm lớp của Thu. Giáo viên chủ nhiệm của lớp biết hoàn cảnh gia đình Thu, cứ vào đầu năm học đều chủ động để Thu được hoãn đóng các khoản lệ phí. Tuy các khoản lệ phí mỗi học kỳ chỉ ba hoặc bốn đồng, lúc bấy giờ cũng coi như một khoản chi lớn.

Chủ nhiệm lớp còn thường xuyên đưa cho Thu mẫu đơn xin học bổng, học bổng cũng được mười lăm đồng mỗi học kỳ. Nhưng Thu không xin, vì học bổng còn phải được lớp bình chọn, Thu không muốn để các bạn biết gia cảnh, phải xin học bổng mới đi học được.

Vụ hè nào Tĩnh Thu cũng đi lao động kiếm tiền, làm công nhân phụ động cho một công trường, thợ cả xây tường, cô giúp chuyển gạch, gánh vữa. Có nhiều lúc Thu phải đứng trên giàn giáo cao nhận gạch của người từ dưới đất tung lên, có lúc phải cùng khiêng những tấm bêtông rất nặng, làm những việc nặng nhọc và nguy hiểm, nhưng ngày nào cũng kiếm được một đồng hai hào tiền công, cho nên hễ đến kỳ nghỉ hè là Thu đi làm.

Lần này về nghỉ Thu vừa vui vừa buồn, vui là được về thăm mẹ và em gái, mẹ không được khỏe lắm, em còn nhỏ, lúc nào Thu cũng lo lắng. Bây giờ được về thăm có thể giúp mẹ mua than, mua gạo, làm một vài việc lặt vặt. Nhưng Tĩnh Thu lại không nỡ rời Tây Thôn Bình, nhất là với Ba, về hai ngày coi như hai ngày không được gặp anh, trong khi thời gian còn lại không nhiều.

Bà Trương nghe nói Thu sắp về thăm nhà, bà bảo Lâm đi tiễn, nhưng Thu không chịu:

- thứ nhất Thu không muốn làm mất thì giờ của Lâm; thứ hai, hàm ơn sau này sẽ không có cách nào trả ơn.

Nghe Phương nói, mấy năm trước Lâm rất thích một cô nữ sinh về tham gia lao động, cô kia có thể vì bố Lâm làm trưởng thôn nên một thời gian tỏ ra tốt với anh. Về sau có chỉ tiêu gọi người về, cô nữ kia thề bồi với Lâm, bảo anh chỉ cần tìm cách cho cô ta có chỉ tiêu về lại thành phố, cô ta sẽ lấy Lâm làm chồng. Đến khi Lâm nói giúp, bảo cha cho cô chỉ tiêu ấy, vậy mà cô một đi không trở lại! Về sau cô ta còn nói với mọi người, chỉ trách Lâm khờ dại, không sớm nấu gạo thành cơm, nếu không cô ta đã trở thành người của anh, dù có mọc cánh cũng không thể bay nổi.

Lâm trở thành chuyện cười cho cả thôn, ngay cả trẻ con cũng biết đọc câu vè: “Thng Lâm dại, thằng Lâm khờ, gà đã bay, trứng đã vỡ; thả cô nàng về lại phố, làm Bồ Tát, ô hô!”

Suốt một thời gian dài, Lâm ủ rũ như rau bị sương muối. Hỏi vợ cho anh, anh cũng không thèm, bảo anh đi tìm người yêu, cũng không đi. Lần này Tĩnh Thu về trong nhà Lâm, hình như tinh thần anh cũng phấn chấn lên đôi chút, cho nên bà Trương bảo Phương đánh tiếng với Thu. Nhưng Phương cảm thấy Lâm không xứng với Thu, cô không làm mối mà còn để lộ những lời của mẹ, của anh cho Thu biết.

Thu bảo Phương nói với mẹ, thành phần xuất thân của mình không tốt, không xứng với Lâm. Bà Trương biết, thân chinh nói với Thu:

- Con ơi, thành phần không tốt thì sợ gì? Con lấy thằng Lâm nhà mẹ, vậy là thành phần sẽ tốt chứ sao? Con không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho con cái chứ?

Thu xấu hổ, mặt đỏ lựng, hiềm một nỗi đất không có lỗ mà chui, Thu vội vã nói:

- Cháu còn nhỏ, cháu còn nhỏ, chưa dám nghĩ đến chuyện tìm người yêu, cháu còn đi học, bây giờ đang kêu gọi không nên kết hôn sớm, cháu chưa đến hai mươi lăm sẽ chưa nói đến chuyện ấy.

- Hai mươi lăm tuổi mới lấy chồng? Đến lúc ấy già thành mõ rồi! Nhà quê chúng tôi lấy vợ lấy chồng sớm, chỉ cần đội sản xuất cho một cái giấy, lấy chồng lấy vợ lúc nào cũng được. Bà Trương động viên Thu.

– Mẹ cũng không bảo con phải cưới ngay, cứ nói trước chuyện này với con, để trong lòng con đã có thằng Lâm nhà mẹ.

Thu không biết phải làm thế nào, đành nhờ Phương giải thích:

- Thu… không biết nói thế nào, chỉ biết không thể được.

Phương cười hì hì:

- Phương cũng biết không thể được, nhưng Phương không muốn làm người mang tiếng ác, chị đi mà nói.

Trước hôm Thu đi, Lâm đến nói với Thu, mặt cậu ta đỏ lựng:

- Mẹ bảo tôi ngày mai đưa cô đi một đoạn, đường rừng vắng vẻ, không an toàn, không đi qua núi, sợ phải lội nước…

Thu vội từ chối:

- Không cần, không cần, em đi được.

Cô lo lắng hỏi.

– Núi có hổ không?

Lâm nói thật:

- Không, núi này không lớn, chưa bao giờ nghe nói có thú rừng, mẹ bảo sợ… người xấu.

Tĩnh Thu ra sức từ chối, bà Trương trực tiếp nói, Tĩnh Thu vẫn từ chối. Thật ra cô cũng muốn có người đi với mình một quãng, một mình đi đường núi cũng sợ. Nhưng nghĩ, nếu tiếp nhận tình cảm ấy của Lâm, sau này biết lấy gì để trả? Thu thà mạo hiểm đi một mình còn hơn. Cô quyết định theo bờ kênh tuy xa gấp đôi lại phải lội nước, nhưng có nhiều người qua lại, không sợ gặp kẻ xấu.

Buổi tối, Ba đến, cùng ngồi nói chuyện với mọi người. Tĩnh Thu mấy lần định nói với anh chuyện mình về, nhưng không có lúc nào nói được. Thu mong có người nhắc đến, như vậy anh biết Thu về phố hai hôm, nhưng không ai đả động gì chuyện ấy. Thu thở dài, nghĩ bụng có thể không phải nói với anh, có thể trong vài hôm tới anh không đến nhà bà Trương, Thu đắn đo mãi, lẽ nào anh không thấy Thu lại không buồn?

Thu ngượng ngùng ngồi đấy, sợ người khác cảm thấy cô ngẩn ngơ vì Ba, liền đứng dậy đi vào buồng viết báo cáo, nhưng Thu vẫn ngỏng tai nghe ngóng động tĩnh ở ngoài kia, chờ cho anh chào mọi người ra về cô sẽ nói với anh ngày mai về phố. Nhưng Thu lại sợ anh giễu:

- “Thu nói với anh chuyện ấy làm gì? Anh đâu có quản lí Thu đi đâu?”

Thu ngồi trong buồng, không viết nổi một chữ. Đã gần mười giờ, cô nghe thấy anh đứng dậy chào mọi người, Thu định kiếm cớ ra nói với anh. Anh vào buồng của Thu, cầm lấy cây bút trên tay Thu, tìm mảnh giấy viết vài câu, rồi đẩy mảnh giấy đến trước mặt Thu. Thu xem:

- “Ngày mai đi đường núi, chờ Thu. Tám giờ.”

Thu giật mình, tưởng như không hiểu dòng chữ kia, ngước lên nhìn anh, anh mỉm cười nhìn Thu, hình như đang chờ câu trả lời. Thu ngớ ra trong giây lát, Thu chưa kịp trả lời thì bà Trương bước vào. Anh nói to:

- Cảm ơn cô Thu, tôi về nhé. Vậy là anh ra về.

Bà Trương nghi ngờ hỏi:

- Cậu ấy cảm ơn gì?

- Ànhờ cháu về phố mua đồ.

Bà Trương nói:

- Mẹ cũng muốn nhờ con mua một vài thứ... Bà lấy tiền ra.

– Con về, mua cho anh Lâm ít len, giúp anh ấy đan cái áo, màu sắc kiểu cách tùy con. Mẹ nghe chị con nói, con biết đan áo, cái áo con mặc là do con đan đấy à?”

Thu không tiện từ chối, đành nhận tiền, nghĩ bụng: không thể làm dâu bà được đâu, đan giúp áo cho con bà coi như bồi thường rồi đấy.

Đêm hôm ấy Thu không sao ngủ được, cô lấy mảnh giấy kia ra xem, đúng là anh đã viết như thế. Nhưng làm sao anh biết ngày mai mình về? Ngày mai anh không phải đi làm à? Anh sẽ nói gì với mình? Làm gì? Làm bạn với anh Thu thật sự vui mừng, nhưng con gái phải đề phòng con trai, anh ta chẳng phải là con trai hay sao? Hai người đi đường núi, nếu anh ấy làm chuyện gì, liệu Thu có đánh lại nổi không?

Nói thật, Thu biết mối đe dọa đối với con gái, nhưng không biết mối đe dọa ấy thế nào? Cưỡng bức cũng đã nghe nói, Thu vẫn thường đọc được những thông báo ngoài đường, có những cái tên người được chấm dấu son tức là đã bị tử hình. Trong số đó có kẻ phạm tội “cưỡng dâm”, có lúc còn viết cả tình tiết phạm tội, nhưng cũng rất mơ hồ, không biết cuối cùng là chuyện gì.

Tĩnh Thu đã được đọc những thông cáo về một tội phạm cưỡng dâm, trong đó có tội “đâm tuốc-nơ-vít vào hạ thể, thủ đoạn vô cùng tàn bạo”. Còn nhớ, hồi ấy Thu cùng mấy đứa bạn gái bàn luận với nhau “hạ thể” là bộ phận nào? Mấy đứa đều cảm thấy hạ thể là nửa người từ eo trở xuống, vậy thì kẻ phạm tội đã đâm tuốc-nơ-vít vào chỗ nào? Chuyện này Thu vẫn chưa rõ.

Có một đứa bạn nói, chị của nó bỏ bạn trai, vì anh kia không phải là người. Một buổi tối, anh kia đưa chị nó về nhà, đè chị nó xuống. Câu chuyện làm cho bọn chúng khó hiểu, phải chăng anh kia hung quá, đánh bạn gái?

Bạn gái của Thu đều ở trường số Tám hoặc con cái các giáo viên tiểu học trực thuộc trường trung học số Tám, đều ở trong khu tập thể nhà trường, cùng lớn lên ở đấy, dường như biết nhiều, nhưng nói ra lại giấu đầu hở đuổi, khiến mấy đứa nhỏ hơn như rơi vào mây mù, không hiểu ra sao.

Còn nhớ một đứa bạn tỏ ra xem thường nói, chị nào đấy nôn nóng, không chờ đợi nổi đã cưới trước hôn lễ. Tĩnh Thu nghe nói thật khó hiểu, không logic, cưới tổ chức hôn lễ, tại sao chưa tổ chức hôn lễ đã cưới.

Lại nghe nói ai đấy đã làm cho ai đấy to bụng, nhưng chưa ai nói với Thu cái bụng làm thế nào để to được? Bản thân cố hiểu, cuối cùng cũng hiểu ra con gái ngủ với con trai sẽ to bụng, vì con trai đồng nghiệp của mẹ Thu bị bạn gái bỏ, người đồng nghiệp của mẹ rất tức giận, nói với mọi người rằng đứa con gái kia bị “con tôi ngủ với rồi, bụng to, bây giờ không lấy con tôi, liệu có ai dám lấy?”

Chuyện ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc cho Thu, vì mẹ nói, con xem, đồng nghiệp của mẹ cũng là nhà giáo, gặp phải chuyện ấy cũng đi nói xấu cô gái kia, nếu là những người kém hiểu biết, càng không biết họ nói những lời khó nghe đến mức nào. Một người con gái quan trọng nhất là danh tiếng. Danh tiếng xấu coi như cuộc đời bỏ đi.

Có được nhiều bài học kinh nghiệm của những người đi trước, thêm vào đấy là những chuyện nghe nói, chỉ suy luận logic, Thu rút ra kết luận: ngày mai có thể đi với Ba qua đoạn đường núi, chỉ cần chú ý là được. Trên núi thì không thể ngủ, cho nên không có chuyện làm to bụng, tốt nhất để anh ấy đi trước, như thế anh ta không thể đột ngột tấn công vật mình xuống đất được. Ngoài ra, chú ý không để anh ấy đụng vào mình, như thế sẽ không có vấn đề gì chứ? Điều lo lắng duy nhất là sợ người khác trông thấy, tin đồn đến nhóm cải cách giáo dục, như vậy thì nguy to! Nhưng Thu nghĩ, đoạn đường núi ấy không có ai, sẽ không bị người khác trông thấy. Nếu không, ngày mai hai người đi cách xa nhau một chút, giả vờ không quen biết, không quen biết anh có chịu không?

Hôm sau, mới bảy giờ, Tĩnh Thu đã dậy, rửa mặt chải đầu một lúc rồi chào bà Trương, một mình xuất phát. Đầu tiên Thu đi ngược dòng sông, đi đò ngang sang bên kia, sau đấy bắt đầu leo núi. Hôm nay cô như đi tay không, trên lưng không có hành lí, nhẹ nhàng hơn lần trước rất nhiều.

Thu đang leo lên núi thì thấy Ba. Anh không mặc cái áo bông xanh kia, chỉ mặc cái áo jacket mà Thu chưa thấy bao giờ, chân anh nom dài hơn. Thu rất thích những người có đôi chân dài. Vừa trông thấy Ba, Tĩnh Thu quên sạch “quân lệnh” chuẩn bị từ tối hôm qua, chỉ biết nhìn anh và cười không thành tiếng.

Anh cũng nhìn Thu hồi lâu, rồi cười:

- Thấy Thu ra cửa, cứ nghĩ Thu không đến.

- Anh… hôm nay không đi làm sao?

- Đổi ngày nghỉ.

Anh lấy từ trong cái túi đem theo ra một trái táo đưa cho Thu. – Sáng chưa ăn gì phải không?

Tĩnh Thu trả lời thật:

- Chưa, còn anh?

- Cũng chưa, chúng ta có thể lên phố huyện ăn chút gì đó. – Anh cầm cái túi của Thu. – Thu bạo gan thật đấy, chuẩn bị một mình đi đường núi, không sợ sói, sợ hổ à?

- Anh Lâm nói núi không có thú dữ, nhưng phải đề phòng người xấu.

Anh cười:

- Thu thấy anh có phải là người xấu không?

- Em không biết.

Anh động viên Thu:

- Anh không phải là người xấu, rồi Thu sẽ biết.

- Hôm qua anh… liều quá, suýt nữa thì bà Trương thấy mảnh giấy của anh.

Thu nói câu ấy liền cảm thấy giống như hai người làm chuyện vụng trộm, có cảm giác bối rồi, xấu hổ, mặt Thu đỏ lên.

Nhưng anh không để ý, chỉ cười:

- Thấy cũng chả sao, bà ấy không biết chữ, anh lại viết rất ngoáy, chỉ sợ Thu không đọc được.

Đường trên núi có phần rộng rãi, hai người đi song song, anh luôn quay mặt sang nhìn Thu, hỏi:

- Bà Trương hôm qua tìm Thu có việc gì?

- Bà ấy bảo em mua len, giúp anh Lâm đan áo.

- Bà ấy muốn Thu làm con dâu, Thu biết không?

- Bà ấy… cũng nói

- Thu… đồng ý chứ?

Suýt nữa thì Thu nhảy lên:

- Anh nói linh tinh gì thế? Em đang đi học.

- Vậy ý Thu… nếu không đi học thì đồng ý làm dâu bà ấy à?

Anh thấy mặt Thu đỏ lên giống như đang bực mình, không dám hỏi tiếp, chỉ nói:

- Thu đồng ý đan áo len cho cậu Lâm chưa?

- Vâng.

Anh như người bị thiệt thòi, kêu lên:

- Thu đan áo len cho anh ấy à? Vậy Thu cũng phải đan cho anh một cái chứ?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 7

Tĩnh Thu cười :
- Anh cứ như trẻ con đòi quà, người ta đòi đan áo, anh cũng đòi.

Nói đến đây, Thu định thử lòng anh:

– Anh định nhờ em đan áo à? Tại sao anh không nhờ… người yêu đan giúp?

Anh vội nói:

- Anh đâu có người yêu? Thu nghe ai nói anh có người yêu?

Nghe anh nói chưa có người yêu, trong lòng Thu thì phấn khởi, nhưng miệng tiếp tục giả vờ:

- Bà Trương bảo anh… có người yêu rồi, lần trước anh về thăm
Anh kêu oan:
- Chưa cưới thì lấy đâu ra vợ? Bà ấy rất muốn ghép Thu với Lâm nên mới nói như thế. Thu cứ đến đội của anh hỏi xem anh đã có vợ chưa. Thu không tin anh thì tin tổ chức, được không?

- Việc gì em phải đến đội của anh để hỏi? Anh… cưới vợ hay chưa… có liên quan gì đến em? Thu nói.

Hình như anh cũng nhận ra thần sắc của mình biến đổi, nên cười cười rồi nói:

- Chỉ sợ Thu hiểu nhầm.

Trong lòng Thu cảm thấy ấm áp, nhất định anh rất thích Thu, nếu không tại sao anh sợ Thu hiểu nhầm? Nhưng Thu không dám hỏi tiếp, cảm giác hình như đi đến bờ vực, hỏi tiếp, sẽ bước xuống đấy mất.

Anh cũng không nhắc lại, chỉ hỏi tình hình của Thu, Thu rất thẳng thắn nói chuyện gia đình mình, cảm thấy không phải giấu giếm anh điều gì, có thể để anh biết, còn có thể thử thách anh. Thu kể chuyện bố mẹ bị đấu tố, bố phải về nông thôn, anh trai không được gọi về.

Anh lặng lẽ nghe không nói gì, mỗi khi Thu sắp dừng lại, anh lại gợi chuyện để Thu tiếp tục nói:

- Bắt đầu Cách mạng văn hóa, mẹ em vẫn chưa bị đấu. Lúc ấy, hễ đến tối em với lũ bạn chạy đến phòng họp của trường để xem, ở đấy thường xuyên có cuộc đấu tố. Bọn em coi đấu tố như trò vui, nhại tiếng phổ thông của mấy anh đội tuyên truyền người Phúc Kiến, là bởi họ nói “nào nào” thành “lào lào

Hồi ấy bị đấu là cô giáo Chu Giai Tĩnh, nghe nói cô cùng làm việc với Hứa Văn Phong, chị Giang, Thành Cương trong truyện Đá đỏ, về sau bị bắt, mất khí tiết cách mạng và đầu thú, được bảo toàn tính mạng. Tuy cô ấy cứ giải thích, vì “mất khí tiết”, tức là rồi bỏ Đảng Cộng Sản, nhưng không phản bội, tức là không bán rẻ đồng chí, nhưng đến Cách mạng văn hóa thì bị đưa ra, coi như kẻ phản bội, bị đấu. Hồi ấy ban ngày cô ấy phải đi lao động, buổi tối bị đấu. Ban ngày cô đi lao động, bọn trẻ con chúng em vây lấy xem, nhại tiếng đội viên đội tuyên truyền Cách mạng: Chu Giai Tĩnh, còn gọi là Chu Phương Đạo, người thành phố “lào”, tỉnh “lào”, năm “lào”, tháng “lào”, ở trại tập trung “lào” đã phản bội cách mạng.

Cô giáo Tĩnh vẫn thản nhiên như không, ngẩng cao đầu, không thèm để ý đến bọn trẻ con chúng em. Lúc đấu tố cô ấy cũng ngẩng cao đầu, không chịu cúi, thỉnh thoảng lại lạnh lùng nói:

- “Các người không tôn trọng lẽ phải, tôi không thèm nói với các người.”

Nhưng một hôm, em với lũ bạn lại đến phòng họp để xem, trông thấy mẹ em ngồi ở giữa vòng tròn, cúi đầu, bị đấu.

Bọn trẻ con bắt đầu cười em, nhại theo cách của mẹ, em sợ quá, bỏ chạy về nhà, trốn vào một chỗ ngồi khóc. Về nhà, mẹ không nói đến chuyện ấy, mẹ cứ nghĩ em không biết.

Cho đến ngày đấu tố công khai, mẹ biết không thể giấu nổi chúng em, buổi trưa cho em ít tiền, bảo đưa em gái sang bên kia sông chơi, chưa đến giờ ăn cơm chiều chưa về. Hai chị em cứ phải trốn tránh đến tận năm giờ chiều mới về. Vừa bước vào cổng trường đã thấy băng cờ, khẩu hiệu rợp trời, khẩu hiệu đả đảo mẹ, tên mẹ bị lộn ngược treo ở kia, lại còn chấm dấu son, bảo mẹ em là phản cách mạng trong lịch sử…

Về đến nhà em thấy mẹ khóc sưng cả mắt, một bên mặt vừa đỏ vừa sưng lên, môi cũng bị sưng, tóc thì bị cắt nham nhở, mẹ đang soi gương để cắt lại mái tóc cho ngay ngắn. Mẹ là con người kiêu ngạo, lòng tự trọng rất mạnh, bị công khai đấu tố mẹ không thể chịu đựng nổi. Mẹ ôm em khóc, bảo nếu không vì ba đứa con thì mẹ không sống làm gì…

Anh khẽ nói:

- Mẹ em là người mẹ vĩ đại, vì con cái mà chịu đựng đau khổ và nhục nhã. Thu đừng quá buồn, rất nhiều người phải trải qua vận nguy này, nhưng chỉ cần kiên cường sẽ như cô giáo Tĩnh, ngẩng đầu làm người, sẽ không còn đau khổ.

Thu cảm thấy anh không phân biệt rõ ràng ranh giới giai cấp, cô giáo Tĩnh là kẻ phản bội, mẹ mình đâu giống như vậy? Thu vội giải thích:

- Mẹ em không phải là phản cách mạng trong quá khứ, về sau mẹ được giải oan, vẫn được dạy học, vì những người kia nhầm, ông ngoại của em đã từng là đảng viên cộng sản, về sau chuyển sang một địa phương khác, không tìm ra tổ chức, nên bị coi là tự động ra khỏi Đảng. Thời kỳ đầu giải phóng, ông bị bắt và bị giam, không chờ sự việc được làm rõ ông đã qua đời ngay trong tù. Nhưng đấy không phải là vấn đề của mẹ em…

- Quan trọng là Thu phải tin ở mẹ, cho dù mẹ là phản cách mạng trong quá khứ, mẹ vẫn là một người mẹ vĩ đại.

Chuyện chính trị không thể nói rõ… Thu đừng dùng tiêu chuẩn chính trị để đo lường người thân.

Thu nói:

- Luận điệu của anh giống như của cô giáo Tĩnh, con cái cô ấy trách tại sao lúc ấy mẹ lại ra đầu thú, nói nếu không đầu thú thì bây giờ giống như chị Giang, là một liệt sĩ cách mạng được mọi người ngợi ca. Người khác chịu đựng được kẻ địch đánh đập khảo tra, tại sao mẹ lại không thể? Cô giáo Tĩnh nói:

- “Mẹ không sợ đánh đập khảo tra, không sợ chết, nhưng lúc ấy bố các con bị tù, nếu mẹ không đầu thú thì các con đã chết từ lâu rồi. Mẹ chỉ là một đảng viên bình thường, không quen biết một đảng viên nào khác, mẹ không bán rẻ bất cứ ai, mẹ chỉ nói với bọn chúng từ nay về sau không tham gia những hoạt động của Đảng”.

Câu nói ấy của cô Tĩnh bị con gái tố giác, quần chúng cách mạng vẽ rất nhiều tranh đả kích, toàn là những bộ mặt xấu xí, độc ác

Anh thở dài:

- Một bên là con cái, một bên là sự nghiệp, cô giáo ấy cũng khó lựa chọn. Nhưng cho dù cô ấy không bán rẻ người khác, sự thật thì cũng không nên đối xử với cô ấy như thế.

Hình như Đảng hồi ấy có chính xác, để bảo toàn lực lượng, cho phép đảng viên bị bắt có thể lựa chọn linh hoạt, có thể đăng báo ra khỏi Đảng, chỉ cần không bán rẻ đồng chí là được. Có một số người đảm nhận chức vụ lãnh đạo, sau khi bị bắt có thể sử dụng cách ấy.

Anh nhắc đến mấy cái tên rất quen, nói họ đều bị bắt, và cũng đều được tha bằng cách ấy.

Tĩnh Thu nghe, mắt tròn xoe, mồm há hốc, bất giác nói:

- Anh… phản động quá!

Anh cười, nhìn Thu:

- Thu có định tố giác anh không? Thật ra những việc ấy đều là bí mật công khai của cấp trên, ngay cả cấp dưới cũng biết. Nhưng Thu ngây thơ trong trắng quá

Thu lo lắng nói:

- Em không tố giác anh, nhưng anh nói như vậy không sợ người khác tố giác à?

- Người khác là ai? Anh không nói với ai, chỉ nói với Thu. – Anh cười, nói đùa. – Nếu Thu tố giác, anh nhận ngay,

anh sẽ nguyện chết trong tay Thu. Chỉ mong sau khi anh chết Thu sẽ cắm trước mộ anh một cành hoa sơn tra, dựng một tấm bia, trên đó đề: “Nơi này chôn một người tôi đã từng yêu”.

Thu vung tay làm động tác đánh anh, dọa:

- Anh nói nhảm nữa em sẽ mặc kệ anh đấy!

Anh vươn đầu cho Thu đánh, thấy Thu không dám, anh mới rụt đầu lại, nói: – Có thể mẹ anh còn thảm thương hơn mẹ Thu. Hồi mẹ anh trẻ, có thể nói rất tiến bộ, rất cách mạng, mẹ dẫn đội bảo vệ nhà máy đi lục soát tài sản của nhà cha mẹ mình là tư sản, tận mắt trông thấy người ta tra khảo ông ngoại anh, mẹ không đồng tình với ông, cảm thấy việc mẹ làm đều vì cách mạng.

Tuy sau đấy mẹ lấy bố anh, nhưng mẹ chịu lép vế, chỉ làm một cán bộ nhỏ ở Hội Văn nghệ quần chúng thành phố. Mẹ lấy bố anh bao nhiêu năm và cũng vạch rõ ranh giới giai cấp với cha là tư sản, nhưng trong cốt tủy mẹ vẫn là phần tử trí thức tiểu tư sản, thích văn chương, thích lãng mạn, thích cái đẹp. Mẹ đọc rất nhiều sách, bản thân cũng viết được chút ít nhưng không gửi đăng báo, xuất bản, là bởi mẹ biết những chuyện mình viết đều là thứ của giai cấp tiểu tư sản. Trong Cách mạng văn hóa, bố anh bị quy là “phái cầm quyền đi theo con đường tư bản”, bị đấu, bị cách li, bọn anh bị đuổi khỏi khu vực quân khu, mẹ anh cũng bị tố, bảo mẹ anh là tiểu thư con nhà tư sản, đã lôi kéo hủ hóa cán bộ cách mạng, dùng thủ đoạn vô cùng bỉ ổi để quyến rũ bố anh, kéo cách mạng xuống nước.

Hồi ấy, trụ sở của Hội Văn nghệ dán đầy báo chữ to và biếm họa rất bẩn thỉu, miêu tả mẹ anh là một phụ nữ xấu xa bẩn thỉu.

Mẹ anh giống như mẹ Thu, là một phụ nữ kiêu ngạo, chưa bao giờ bị ai sỉ nhục, cho nên không thể chịu đựng nổi. Mẹ anh cãi nhau với bọn người kia, biện hộ cho bản thân, nhưng càng biện hộ càng khốn đốn, bọn chúng dùng đủ mọi cách để sỉ nhục mẹ anh, bắt phải khai ra những tình tiết gọi là quyến rũ bố anh, phải khai thật tỉ mỉ những gì trong đêm tân hôn, còn lợi dụng đấu tố để sờ soạng khắp người mẹ anh, mẹ anh chửi, bọn chúng đánh mẹ, chửi mẹ,

Hồi ấy trên tỉnh, báo của tỉnh, báo của thành phố in đầy những điều bị phê phán, bị vạch trần, càng về sau càng nói những điều bẩn thỉu, hèn hạ, phần lớn là những chuyện trụy lạc hủ bại trong sinh hoạt, bảo bố dụ dỗ, ngủ với rất nhiều y tá, thư ký, nữ nhân viên. Anh giấu những thứ đó, không để mẹ trông thấy, nhưng mẹ vẫn thấy, vì quá nhiều, không sao giấu hết. Mẹ bị đánh đập hành hạ vẫn kiên trì sống, nhưng những chuyện “phản bội” của bố làm cho mẹ quỵ hẳn, mẹ dùng cái khăn quàng rất dài để kết thúc sinh mệnh. Di chúc của mẹ chỉ có mấy câu: Bản chất trong sáng, sinh mệnh không trong sạch; sinh không gặp thời, chết hối hận!

Thu khẽ hỏi:

- Có đúng bố anh… có những chuyện đó không?

- Anh cũng không biết. Anh cảm thấy bố rất yêu mẹ, tuy bố không biết phải yêu như thế nào mẹ mới thích, nhưng bố vẫn rất yêu. Mẹ anh mất đã nhiều năm rồi, bố vẫn ở vậy, nhiều người tỏ ý muốn bố tục huyền, nhưng bố không chịu.

Bố anh lúc nào cũng thở than bảo câu nói của Mao Trạch Đông thật có lí: “Thắng lợi đến từ sự kiên trì”. Có lúc, tưởng như đi đến chỗ tuyệt vọng, cho rằng không còn hi vọng, nhưng nếu kiên trì tiếp, kiên trì nữa, rồi sẽ trông thấy ánh sáng thắng lợi.

Thu không ngờ anh có một quá trình thê thảm hơn mình, rất muốn an ủi anh, nhưng không biết phải an ủi thế nào, chỉ biết nói:

- Những năm gần đây anh sống rất buồn…

Anh không nói đến bố nữa, hai người lặng lẽ đi, bỗng anh nói:

- Anh… có thể lên thành phố K với Thu được khôngThu:

- Anh lên phố làm gì? Nếu mẹ em trông thấy, hoặc thầy giáo, bạn học thấy, sẽ cho rằng…

- Cho rằng thế nào?

- Cho rằng… cho rằng… dù sao… dù sao cũng ảnh hưởng không tốt.

Anh cười:

- Thu sợ, sợ không nói được tại sao à? Yên tâm đi, Thu bảo anh không đi, anh sẽ không đi. Lời Thu nói là chỉ thị tối cao, anh phải làm theo.

Anh thận trọng hỏi.

– Vậy anh có thể chờ Thu ở phố huyện được không? Phố huyện không ai biết chúng mình, nếu Thu sợ, anh có thể đi xa nhau một chút. Lúc Thu quay lại vẫn đi theo đường này chứ? Thu đi một mình anh yên tâm sao nổi.

Thu thấy anh rất ngoan ngoãn, bảo không được lên thành phố anh không dám đi theo. Thu rất cảm động, chợ mạnh dạn hơn:

- Nếu không ảnh hưởng đến công việc, anh… chờ em ở phố huyện nhé. Em đi chuyến xe bốn giờ chiều mai, năm giờ về đến phố huyện.

- Anh chờ Thu ở bến xe.

Hai người lặng lẽ đi một đoạn nữa, Tĩnh Thu nói:

- Anh kể chuyện cho em nghe đi, anh đọc nhiều sách, chắc chắn nhớ nhiều chuyện, kể cho em nghe một chuyện.

Anh liền kể mấy chuyện, cứ kể hết mỗi chuyện Thu lại hỏi:

- “Còn không? Còn nữa không?”.

Anh lại kể. Cuối cùng anh kể một chuyện không có đầu đề, đại ý nói có một thanh niên để cứu sự nghiệp và con đường tiến thân của cha đã đồng ý lấy con gái của một vị cấp trên của cha làm vợ, nhưng trong lòng anh lại không muốn sự việc kéo dài. Về sau anh gặp một người con gái mà anh thích, anh muốn lấy người con gái này, nhưng cô gái biết anh đã có vợ, nên không tin ở anh và trốn tránh không gặp.

Nói đến đây anh dừng lại.

- Về sau thế nào? Anh kể hết đi. ... Thu hỏi.

- Anh không biết kết cục thế nào, nếu Thu là… người con gái kia, ý anh là, Thu là người con gái mà anh ta gặp sau đấy, sẽ thế nào?

Thu suy nghĩ giây lát rồi nói:

- Em nghĩ, nếu anh kia có thể nói mà không làm với một người con gái, anh ta cũng có thể nói mà không làm với một người con gái khác, cho nên… nếu em là người con gái sau đấy anh ta gặp, chắc chắn em cũng sẽ tránh mặt.
Nói đến đây, chợt Thu bừng tỉnh:

- Có phải đấy là chuyện của anh? Anh đang kể chuyện của mình đấy à?

Anh lắc đầu:

- Không phải chuyện của anh, chuyện như thế có rất nhiều trong sách, hầu hết các mối tình đều giống như thế. Thu đã đọc Romeo vàJuliet chưa? Chả phải Romeo rất yêu Juliet đấy thôi? Nhưng nên nhớ, trước khi gặp Juliet, Romeo cũng đã có một người con gái khác. Thu quên rồi à, hôm Romeo gặp Juliet, anh ta đi cùng một người con gái khác đến dự buổi họp mặt, nhưng trông thấy Juliet anh ta mới yêu nàng. Thu bảo, có phải Romeo nói mà không làm với một người con gái cũng sẽ nói mà không làm với Juliet không?

Thu suy nghĩ rồi nói:

- Anh ta nói mà không làm với Juliet là bởi anh ta chết sớm.

- Ồ, nhớ rồi, câu chuyện anh vừa kể kết thúc thế này: về sau anh kia như kẻ điên, tìm cô gái khắp nơi, nhưng không tìm thấy, anh ta không chịu nổi cuộc sống không có cô kia, nên… tự tử.

- Chắc chắn là anh bịa.

bị đấu tố mà vẫn lợi dụng để quyến rũ đàn ông. Hồi ấy, mỗi lần về nhà mẹ tắm rất lâu bởi cảm thấy khắp người bị bôi bẩn. Bọn chúng đánh mẹ rất đau, đến nỗi mẹ không đứng lên nổi bọn chúng mới cho mẹ về.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 8

Chiều thứ năm, Tĩnh Thu vội vã ra bến xe, chen lên một chuyến xe chạy về huyện K. Không ngờ xe vừa ra khỏi thành phố thì bị hỏng, dừng lại ở một nơi xa làng xa phố, chờ đúng một tiếng đồng hồ mới nghe thấy tiếng khởi động máy.

Tĩnh Thu sốt ruột lắm, đến bến xe huyện K chắc chắn phải hơn bảy giờ, bến xe đóng cửa, không biết Ba còn chờ không. Nếu anh đã đi, hôm nay Thu sẽ không thể về đến Tây Thôn Bình, đành phải tìm một chỗ trọ ở phố huyện. Thu nghĩ, vạn bất đắc dĩ phải mượn tạm số tiền của bà Trương nhờ mua len làm tiền thuê nhà trọ. Không biết trọ một đêm mất bao nhiêu tiền?

Khi xe về gần đến phố huyện, Thu trông thấy anh đứng chờ dưới ánh đèn vàng vọt. Xe vừa dừng lại, anh vội chạy đến trước cửa xe ngó nhìn, trông thấy Thu, anh nhảy lên xe, chen đến trước mặt Thu:

- Cứ tưởng Thu không về, lại nghĩ xe… đổ. Thu có đói lắm không? Chúng ta tìm chỗ nào đấy ăn tạm.

Anh xách giúp đồ cho Thu:

- Đem nhiều thứ thế? Đem giúp bạn à?

Bất giác anh nắm lấy tay Thu, đưa cô xuống xe, đi tìm hàng ăn. Thư thử rụt tay lại, nhưng anh nắm rất chặt, hơn nữa lúc này cũng đã muộn, nghĩ cũng không ai trông thấy, cứ để anh nắm tay mình.

Phố huyện không lớn, không có xe buýt, mấy hàng ăn đều đã đóng cửa.

Thu hỏi:

- Anh ăn gì chưa? Nếu ăn rồi, chúng ta không tìm hàng ăn nữa, về Tây Thôn Bình ăn cũng được.

- Anh cũng chưa ăn, ban nãy định chờ Thu về ăn một thể, nhưng sợ đi ăn Thư đến sẽ không gặp, cho nên cứ đứng ở đây. Chắc chắn Thu đói lắm rồi, đi ăn chút gì đã, lát nữa phải đi xa. – Anh kéo tay Thu. – Nào, đi theo anh, anh có cách.

Anh đưa Thu đến một gia đình nông dân gần phố huyện tìm cái ăn, anh nói chỉ cần trả tiền là có cái ăn. Đi một lúc, anh trông thấy một gia đình, nói:

- “Vào nhà này, nhà to, chuồng lợn cũng phải lớn, chắc chắn chủ nhà giết lợn vẫn còn thịt, để anh hỏi xem.”

Họ vào gõ gia đình kia, ra mở cửa là một phụ nữ trung niên, nghe hai người nói đến tìm cơm ăn, lại trông thấy Ba cầm tiền trong tay, chị ta liền mời hai người vào nhà. Ba nói chuyện với chị chủ nhà rồi đưa tiền, chị ta bắt đầu đi thổi cơm.

Ba giúp chị ta nhóm bếp, anh ngồi trước bếp chẻ củi rất thành thạo, anh kéo Tĩnh Thu ngồi bên cạnh. Trước cửa bếp là một đống cỏ khô, coi như chỗ ngồi. Thu và Ba ngồi lên đống cỏ để nhóm lửa, chỗ ngồi chật, hai người chen nhau, Thu như dựa vào người Ba, nhưng Thu không sợ, vì gia đình này không biết hai người là ai.

Lửa bếp soi sáng khuôn mặt Ba, khuôn mặt anh hồng hào, trông rất đẹp trai. Tĩnh Thu thỉnh thoảng lén nhìn anh, anh cũng thỉnh thoảng nghiêng đầu nhìn Thu, ánh mắt bắt gặp ánh mắt trong lòng thoáng vui, anh hỏi Thu:

- Cuộc sống thế này có vui không?

- Vui

Bữa cơm hôm ấy vô cùng thịnh soạn đối với Thu, cơm gạo mới rất ngon, thức ăn cũng ngon, có món đậu phụ rán vàng, một đĩa rau xào xanh ngắt, một đĩa dưa, hai cái lạp xưởng nhà làm. Anh gắp cả hai cái lạp xưởng cho Thu, nói:

- Biết Thu thích ăn lạp xưởng, vừa rồi anh hỏi, chị chủ nhà bảo không có, anh bảo sang nhà bên cạnh xem có không.

- Tại sao anh biết em thích lạp xưởng? – Thu không chịu ăn cả hai cái, cô để cho Ba một cái.

- Anh không ăn lạp xưởng đâu, thật đấy, anh thích ăn dưa, bếp ăn của đội không có... Anh nói.

Thu biết anh nhường, làm gì có ai không thích ăn lạp xưởng? Thu bắt anh phải ăn, nói anh không ăn em cũng không ăn. Hai người cứ nhường đi nhường lại, chị chủ nhà trong thấy, nói vui:

- Hai người thật vui, quý nhau quá, hay là để tôi làm thêm hai cái nữa?

Ba vội đưa tiền, nhanh nhẩu:

- Phiền chị cho thêm hai cái nữa, chúng tôi đưa đi ăn dọc đường.

Ăn xong, anh hỏi Thu:

- Tối nay có về không?

- Phải về, không về thì ngủ đâu?

- Muốn không về sẽ có chỗ ngủ... Anh cười.

– Hay là về, nếu không Thu sợ người khác nói này nói nọ.

Dọc đường, anh nắm tay Thu, nói trời tối quá, sợ Thu ngã. Hai người nắm tay nhau, lòng bàn tay đẫm mồ hôi. Anh hỏi:

- Anh nắm tay Thu, Thu có… sợ không?

- Ừ!

- Trước đây đã có ai nắm tay Thu chưa

- Chưa.

Thu hiếu kỳ hỏi lại:

– Anh đã nắm tay ai chưa?

Một lúc lâu sau anh mới trả lời:

- Nếu anh đã cầm tay ai đó, Thu có cảm thấy anh là người xấu không?

- Vậy là anh đã nắm tay ai đó rồi.

- Cầm tay với nắm tay không giống nhau, có lúc vì trách nhiệm, có lúc vì không có cách nào khác, lại có lúc vì… tình yêu.

Chưa bao giờ Thu được nghe ai đó thẳng thắn nói đến hai tiếng “tình yêu”, hồi ấy nói đến tình yêu phải dùng từ khác để thay thế. Thu thấy anh dùng từ tình yêu cảm thấy rất khó xử. Thu không dám nói tiếp đề tài ấy, liệu anh có còn nói những điều khác làm Thu khó xử nữa không.

Lúc đi qua cây sơn tra, anh hỏi:

- Kia là cây sơn tra, có muốn đến đấy xem và ngồi một lúc không?

Thu cảm thấy sởn tóc gáy:

- Không! Nghe nói hồi chiến tranh chống Nhật rất nhiều người bị bắn ở đấy, buổi tối đến đấy sợ lắm!

- Sau này có dịp sẽ đến đấy.

Anh đùa.

– Thu theo cộng sản mà vẫn sợ ma à.

Thu ngượng:

- Em không sợ ma, thật ra những người anh hùng chống Nhật có trở thành ma thì đấy cũng là ma tốt, không hại người, đúng không? Cho nên em không sợ, mà chỉ sợ bầu không khí nặng nề u ám.

Bỗng Thu như sực nhớ ra điều gì, cô hỏi:

- Hôm em về Tây Thôn Bình, hình như anh cũng vừa từ đâu về, anh đứng dưới gốc cây kia phải không?

- Không. Anh ngạc nhiên hỏi lại:

– Anh đứng đấy làm gì?

- Có thể em hoa mắt. Hôm ấy em quay đầu lại, bỗng cảm thấy có người mặc đồ trắng đứng dưới gốc cây…

Anh cười phá lên:

- Đúng là Thu hoa mắt rồi, trời lạnh, anh mặc đồ trắng ra đứng đấy không chết rét à?

Thu nghĩ cũng phải:

- Nhưng em mỗi lần nghe hát bài Cây sơn tra lại nghĩ đến hai thanh niên đứng dưới gốc cây, cho nên mắt em hoa lên.

Anh hỏi

- Có thể những oan hồn kia có ai đó giống anh chăng? Có thể người ấy hiện hình đúng lúc Thu trông thấy, Thu nghĩ là anh. Xem kìa, người ấy lại đến.

Thu không dám nhìn, bỏ chạy, bị anh lôi lại, kéo vào lòng mình, ôm chặt, an ủi:

- Nói dối Thu đấy, làm gì có oan hồn, tất cả đều bịa để dọa Thu thôi mà.

Anh ôm Thu một lúc, lại đùa:

– Anh định dọa để Thu ngả vào lòng anh, không ngờ Thu bỏ chạy, chứng tỏ Thu không tín nhiệm anh.

Thu nép vào người anh, cảm thấy không hay lắm, nhưng lại không nỡ rời khỏi vòng ôm của anh, hơn nữa cũng sợ, nên cứ đành để vậy. Hai cánh tay anh ôm chặt hơn, khuôn mặt Thu nép vào ngực anh. Thu không biết cơ thể con trai lại có cái mùi ngây ngất đến vậy, không thể hình dung đó là mùi gì, cảm thấy con người này có thể tin cậy, có thể dựa được, rất vững tin, tối cũng không sợ, ma cũng không sợ, chỉ sợ bị người khác trông thấy.

Thu nghe rõ nhịp đập của trái tim mình, tiếng đập rất rõ.

- Thật ra anh cũng sợ. Thu ngước lên nhìn anh.

– Trống ngực anh đập mạnh lắm.

Anh buông lỏng vòng ôm, để cái ba lô đang đeo trên lưng tuột xuống đất, có điều kiện ôm Thu thoải mái hơn:

- Đúng là anh sợ, Thu nghe thấy tiếng tim anh đập nhanh, tưởng như sắp nhảy ra khỏi cửa miệng.

- Tim có thể nhảy ra khỏi cửa miệng được không? Thu hiếu kỳ hỏi.

- Tại sao không? Thu không thấy sách đều viết: “Trái tim nhảy điên cuồng, tưởng chừng sắp nhảy ra khỏi cửa miệng” đấy sao?

- Sách viết như thế à?

- Tất nhiên. Tim Thu cũng đập rất nhanh, sắp lên đến miệng rồi.

Tĩnh Thu cảm nhận nhịp tim của mình, cô nghi ngờ:

- Không nhanh, không nhanh bằng anh, tại sao anh nói sắp lên đến cửa miệng?

- Thu không thể cảm nhận nổi, nếu không tin Thu cứ há miệng ra, xem có đúng nó lên đến miệng rồi không?

Không chờ Thu phản ứng, anh hôn ngay lên môi Thu. Thu cảm thấy xảy ra chuyện nghiêm trọng, vội đẩy anh ra. Nhưng anh mặc kệ, vẫn hôn, còn dùng đầu lưỡi để mở rộng làn môi Thu.

Nếu anh chỉ hôn lên đôi môi Thu, Thu cũng không căng thẳng đến vậy, lúc này anh cho lưỡi vào miệng Thu, khiến Thu xấu hổ, cảm thấy anh thấp hèn, tại sao có thể như thế? Thu chưa bao giờ nghe nói hôn là phải như thế, cô cắn chặt răng, lưỡi anh chỉ có thể đưa đi đưa lại giữa môi và răng. Anh tấn công, Thu vẫn nghiến răng, không biết tại sao mình làm như thế, chỉ biết anh rất muốn cho lưỡi vào tận miệng, như vậy chắc chắn không phải là việc tốt lành, nên cứ để lưỡi anh ở ngoài.

Anh bỏ cuộc, chỉ hôn môi Thu, thở gấp gấp, hỏi:

- Em… không thích

- Không thích.

Thật ra không phải Thu không thích, chỉ vì sợ, cảm thấy giống như làm một việc xấu xa. Nhưng Thu rất thích cảm giác khuôn mặt anh áp vào khuôn mặt mình, chưa bao giờ Thu nghĩ khuôn mặt người con trai lại ấm áp, dịu dàng đến vậy. Thu vẫn cho rằng khuôn mặt người con trai giá lạnh và khô cứng.

Anh cười, chuyển sang ôm Thu:

- Có thích thế này không?

Trong lòng rất thích, nhưng Thu vẫn nói:

- Cũng không thích.

Anh buông Thu ra, nói lảng sang chuyện khác:

- Em thật khó hiểu.

Anh lại khoác cái ba lô lên vai, nói:

– Chúng ta đi nhé. Anh không nắm tay Thu nữa, hai người đi bên nhau.

Đi một lúc, thấy anh không nói gì, Thu cẩn thận hỏi:

- Anh… giận rồi à? Anh không sợ em ngã hay sao?

- Không giận, sợ em không thích cả nắm tay.

- Em không nói không thích… cầm tay…

Anh lại nắm tay Thu:

- Vậy em thích anh cầm tay à?

Thu không nói, anh cứ hỏi:

- Nói đi, thích hay không thích.

- Biết rồi còn hỏi.

- Anh không biết, em làm anh khó hiểu, muốn em nói ra anh mới biết.

Thu không chịu nói, anh không buộc Thu phải trả lời, chỉ nắm chặt tay cô, cùng đi xuống núi. Không còn đò sang sông, anh nói:

- Chúng mình đừng gọi đò nữa, chỗ anh có câu nói, hình dung một người muốn mà không được là “khó như gọi đò” để nói đò ngang rất khó gọi. Anh cõng em sang sông.

Nói xong, anh cởi giày cởi tất, nhét tất vào giày, buộc hai chiếc giày vào với nhau rồi đeo lên cổ cùng mấy cái bọc. Anh nửa quỳ trước mặt Thu, để cô ngổi lên lưng, Thu không chịu:

- Cứ để em lội.

- Đừng ngượng, lên đi, con gái nhúng chân xuống nước lạnh không tốt. Không ai trông thấy nhanh lên nào.
Thu đành để anh cõng, nhưng cô chống hai tay lên vai anh, cố không để ngực mình áp vào lưng anh. Anh cảnh cáo:
- Ôm chặt nhé, quàng hai tay vào cổ anh, ngã là anh không chịu trách nhiệm đâu nhé.

Nói xong, hình như anh bị trượt chân, người chúi về phía trước, Thu vội áp người lên lưng anh, đưa hai tay ôm cổ anh. Ngực Thu áp sát vào lưng anh cho Thu một cảm giác kỳ lạ, hình như áp vào như thế rất dễ chịu. Nhưng anh hơi rùng mình, người run lên như rét.

Thu lo lắng, hỏi:

- Em nặng lắm à? Hay là nước lạnh?

Anh không trả lời, chỉ lẩm bẩm gì đó rồi bình phục trở lại, anh cõng Thu lội từ từ qua sông. Đi được một lúc, anh quay mặt lại, nói:

- Ở chỗ bọn anh có câu nói “ông già ông già, già rồi có người cõng; lão bà lão bà, già rồi có người thồ, bất kể em có già hay không anh cũng thồ em, được không?

Mặt Thu đỏ lên, nói:

- Anh toàn nói linh tinh, còn nói nữa em nhảy xuống nước đấy.

Bỗng anh im lặng, Thu hiếu kỳ hỏi lại

- Anh sao thế? Lại giận rồi à?

Anh quay về phía hạ lưu sông, hất đầu:

- Anh Hai của em ở kia chờ em đấy.

Tĩnh Thu nhìn theo, đúng là Lâm đang ngồi kia, bên cạnh là đôi thùng gánh nước. Ba lên bờ, đặt Thu xuống, vừa đi giày vừa nói:

- Em chờ ở đây, anh đến nói chuyện với anh ấy.

Nói xong, anh đi tới, chào Lâm.

- Anh Hai, gánh nước ạ?

- Ừ, hai người đã về đấy à.

Anh nói nhỏ với Lâm vài câu rồi quay lại với Thu, nói:

- Em về đi, anh đi luôn.

Thế rồi anh biến mất trong màn đêm.

Lâm gánh hai thùng nước, lặng lẽ đi về. Tĩnh Thu theo sau, sợ hãi, Thu sợ Lâm trông thấy chuyện vừa rồi và nói với mọi người, tổ cải cách giáo dục nghe thấy, coi như Thu xong đời! Thu tranh thủ dặn Lâm

- Anh… anh Hai, anh đừng hiểu nhầm, anh ấy chỉ đón em, chúng em…

- Anh ấy vừa nói rồi.

- Anh đừng nói với ai, kẻo rồi người khác hiểu nhầm

- Anh ấy vừa nói rồi.

Về đến nhà, ai cũng ngạc nhiên, bà Trương kêu lên:

- Con đi một mình à..? Đi đường núi..? Ôi chao, bạo gan quá, ngay cả ban ngày mẹ cũng không dám đi đường này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 9

Tối hôm ấy Thu trằn trọc mãi, chỉ lo Lâm đưa chuyện. Vừa rồi anh ta không nói với ai chỉ vì có mặt Thu. Nếu vắng Thu, liệu anh ta có mách với bà Trương không? Nhưng nếu tối nay Lâm thật sự đón Thu ở bờ sông, có thể Lâm sẽ nói, là vì Lâm không muốn Ba đi với Thu.

Thu quen chuẩn bị tư tưởng cho những tình huống xấu nhất, vì trong cuộc sống có nhiều chuyện không mong nhưng vẫn xảy ra, luôn luôn không kịp trở tay.

Hôm nay Thu rất đau khổ, nỗi khổ này thật đáng sợ, nó đến quá sớm, cho nên ngay từ nhỏ Thu biết cách chuẩn bị tư tưởng với những gì xấu nhất có thể. Lúc này, trường hợp xấu nhất là Lâm đem chuyện nói với người khác, sau đấy sẽ đến tai tổ cải cách giáo dục, tin đồn về trường. Nếu nhà trường biết sẽ thế nào? Trong đám bạn học ở trường số Tám đã có nhiều người bị kỷ luật vì yêu đương, nhưng ít nhiều đều có chứng cứ. Bây giờ chỉ nghe một mình Lâm nói, nhà trường rất có thể kỷ luật

Nhưng Thu biết thân biết phận, mẹ tuy đã được giải oan, lại là giáo viên, bố vẫn phải đội mũ “phần tử địa chủ”. Nhưng trong năm thành phần xấu: địa chủ, phú nông, phản động, phái hữu và kẻ xấu thì địa chủ đứng hàng đầu, là kẻ thù lớn nhất của giai cấp vô sản. Một con gái địa chủ như Thu nếu mang tiếng có “tác phong xấu”, liệu nhà trường không kỷ luật nặng hay sao? Kỷ luật Thu chỉ là chuyện nhỏ, chắc chắn gia đình cũng bị liên lụy.

Thu cảm thấy bố bị quy oan là địa chủ Từ rất sớm bố đã xa gia đình địa chủ để đi học, những con cái địa chủ nếu không ở nông thôn thu tô của những hộ cấy ruộng rẽ sẽ không bị quy là địa chủ.

Thậm chí Thu thấy bố còn là một thanh niên tiến bộ, bởi một hai năm trước giải phóng bố đã từ vùng địch chiếm chạy ra vùng giải phóng, dùng tài năng âm nhạc của mình để phục vụ nhân dân khu giải phóng, lập đoàn hợp xướng, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, tư tưởng Mao, dạy mọi người hát bài Bầu trời vùng giải phóng đẹp tươi. Không biết tại sao Cách mạng văn hóa vừa bắt đầu bố đã bị tố, bảo bố chạy ra vùng giải phóng để làm gián điệp cho Quốc Dân đảng, còn nói bố lúc dạy hát dạy câu “nhân dân vùng giải phóng mừng vui” dạy thành “nhân dân vùng giải phóng húp cháo”, bôi nhọ bộ mặt khu giải phóng!

Cuối cùng bố Thu phải đội mũ “thành phần địa chủ”, bị đưa về nông thôn. Đội mũ “thành phần địa chủ” không thể đội mũ khác nữa, đấy là cái mũ nặng nề nhất, nếu không, bố còn đội thêm nhưng cái mũ khác như “đặc vụ Mỹ – Tưởng”, “phản cách mạng hiện hành”.

Nghĩ đến đây Thu vô cùng ân hận, thành phần xuất thân như mình, về mọi mặt phải chú ý hơn mọi người, không thể để sa sẩy, bằng không coi như chuốc họa vào thân. Lần này không biết tại sao Thu như uống nhầm thuốc, Ba bảo đi đường núi cũng đi, lại để anh chờ ở phố huyện, sau đấy để anh cầm tay, bị anh ôm, rồi hôn. Đáng sợ nhất là để Lâm trông thấy anh cõng Thu. Biết làm thế nào bây giờ? Nỗi lo quá nặng nề, nặng nề đến độ lúc nào cũng nghĩ bằng cách nào đó để Lâm không nói ra, ngộ nhỡ anh ta nói ra thì phải thế nào? Đối với Ba, Thu không còn thì giờ để nghĩ đến anh.

Mấy hôm sau đấy, Thu cứ lo ngay ngáy, luôn để ý đến lời nói vẻ mặt của bà Trương và của Lâm, xem có biểu hiện gì chứng tỏ Lâm đã mách mẹ. Đối với Lâm, Thu lo ít hơn, Lâm như trái bầu khô, chắc chắn anh ta sẽ không đến báo cáo với tổ cải cách giáo dục. Nhưng nếu bà Trương biết, chắc chắn bà ấy sẽ nói cho người khác biết.

Nhưng kết quả là, Thu hoàn toàn hồ đồ. Có lúc biểu hiện của bà Trương giống như đã biết mọi chuyện, lại có lúc như chưa biết gì. Tâm trạng Tĩnh Thu biến đổi theo sự phỏng đoán của bản thân, cho rằng bà Trương đã biết, Thu lo lắng, ăn ngủ không yên; những lúc cảm thấy bà Trương chưa biết, Thu thầm vui mừng, cười mình nhát gan.

Ba vẫn đi lại với gia đình bà Trương, nhưng địa điểm làm việc của đội anh dời về cuối thôn, cho nên buổi trưa anh không về. Tối anh vẫn đến chơi, lần nào đến cũng đem biếu một vài thứ ăn gì đó, có lần anh đem biếu lạp xưởng, bảo mua được của một nhà trong thôn. Bà Trương nấu chín, thái thành lát làm thức ăn cho cả nhà, nhưng lúc ăn cơm Thu phát hiện trong bát mình có một khúc lạp xưởng vùi dưới đáy, Thu cho rằng Ba làm như vậy, vì anh biết Thu thích ăn lạp xưởng, muốn để Thu ăn nhiều hơn.

Thu lo lắng, không biết phải xử lý khúc lạp xưởng bằng cách nào. Còn nhớ mẹ có lần kể chuyện, hồi xưa ở nông thôn có một anh chồng rất yêu vợ, vẫn giấu thịt trong bát cơm của vợ, vì các nàng dâu ở nông thôn không có địa vị trong gia đình chồng, bất cứ thứ gì cũng phải nhường nhịn, có thứ gì ngon phải nhường cha mẹ chồng, sau nhường chồng, lại phải nhường em chồng, lại nhường cả cho con. Đến lượt nàng dâu chỉ còn cơm thừa canh cặn.

Chồng thì không dám tỏ ra thương vợ trước mặt cha mẹ, muốn gắp cho mỗi người một miếng thịt nhưng không đủ, đành làm cái chuyện giấu giếm ấy. Mẹ bảo nàng dâu nông thôn ăn thịt phải len lén, đầu tiên ghé bát cơm lên miệng, sau đấy giống như đào đất, moi miếng thịt dưới đáy bát lên, giả vờ và cơm, lặng lẽ cắn một miếng, rồi lại vùi miếng thịt xuống “hầm bí mật”. Cơm trong bát không được ăn hết, phải đi xới bát khác, nếu không sẽ bị lộ miếng thịt. Nhưng không ăn hết cơm trong bát mà xới cơm tiếp, nếu để cha mẹ chồng trông thấy sẽ bị mắng.

Nghe mẹ kể, có một nàng dâu đã chết vì được chồng yêu, vì được chồng vùi vào bát một “quả trứng đá”, tức là cả quả trứng luộc, và luôn vào miệng, đang định nhai thì nghe thấy tiếng mẹ chồng hỏi, chị này vội nuốt để trả lời, kết quả trứng mắc ở họng và bị chết nghẹn.

Thu nhìn vào bát của mình, trong lòng vô cùng bối rối, nếu để bà Trương trông thấy coi như tóm được chứng cứ. Nếu bị phát hiện nàng dâu sẽ bị chửi mắng, bị gọi là hồ li tinh đã mê hoặc chồng. Lúc này Thu bị phát hiện còn khốn đốn hơn nàng dâu, chắc chắn chuyện sẽ đến tai tổ cải cách giáo dục.

Thu nhìn Ba, thấy anh cũng đang nhìn mình, ánh mắt kia như đang hỏi:

- “Có nóng không?”

Thu cảm thấy như anh đang báo công, nhưng Thu lại muốn dùng đũa đánh cho anh một cái. Anh vùi khúc lạp xưởng vào bát Thu giống như chôn một trái bom hẹn giờ, Thu không dám ăn một cách tự nhiên, nhưng không ăn, lát nữa hết cơm trong bát, lạp xưởng sẽ lộ ra. Thu sợ hãi, ăn mới hết nửa bát cơm đã đứng dậy đi xới bát khác, nhân lúc mọi người không chú ý, Thu vứt khúc lạp xưởng vào máng lợn.

Lúc quay lại bàn ăn, Thu không dám nhìn ai, chỉ cúi đầu ăn, gắp thức ăn hay chưa cũng không biết, ăn gì cũng không hay, chỉ nghĩ ăn cho xong bữa. Nhưng hình như Ba không hề hay biết, rất đàng hoàng gắp lạp xưởng để vào bát Thu. Thu bực mình, dùng đũa đánh anh, nói:

- Anh làm gì thế? Đâu phải em không có tay?

Anh ngượng, nhìn Thu không nói gì.

Không hiểu tại sao, từ lần cùng anh đi đường, hai người nói chuyện với nhau không còn như trước, nhất là trước mặt mọi người, hai người như giận dỗi, tưởng rằng như thế là để nói với mọi người giữa chúng tôi không có chuyện gì. Nhưng anh hoàn toàn ngược lại, trước đây anh nói chuyện với Thu như người lớn nói chuyện với trẻ con, đùa Thu, khuyên giải giúp đỡ Thu.

Nhưng bây giờ hình như anh nhút nhát hơn, như đang nắm bắt tâm tư Thu, muốn để Thu thích mình. Thu trách anh một câu, anh tỏ ra đáng thương nhìn Thu, không dám như trước kia, làm ra vẻ bất chấp phải trái tranh luận với Thu. Anh càng tỏ ra đáng thương, Thu càng bực mình, vì cái v đáng thương của anh làm người khác biết chuyện.

Từ sau hôm trở về, Ba vẫn như trước, thấy Thu viết lách trong buồng anh vào giúp cô viết. Thu nói khẽ nhưng rất nghiêm:

- Anh vào làm gì? Ra đi, đừng để người khác trông thấy.

Anh không cố chấp và khó bảo như trước, Thu bảo anh ra, anh lặng lẽ ra đứng cửa một lúc, rồi ngoan ngoãn bỏ đi. Thu nghe anh nói chuyện với bà Trương ở ngoài kia. Có lúc Thu muốn ra sau nhà, cô đi qua nhà ngoài, anh lặng lẽ nhìn Thu, không nói gì với Thu nhưng lại quên trả lời người khác.

Thu nghe thấy chị Mẫn, con dâu bà Trương nói:

- Chú Ba, chú bảo có đúng vậy không?

Nhưng anh chỉ “ờ” một tiếng rồi bối rối:

- Chị bảo gì cơ?

Chị Mẫn cười:

- Gần đây tâm trạng chú để đâu đâu, nói với chú mấy lần mà vẫn không biết người ta nói gì, giống như cậu học sinh nghịch ngợm, lên lớp không chịu nghe giảng.

Câu nói khiến Thu suýt nhảy lên, cảm giác như bà chị này gì cũng biết nhưng không nói ra, chừng như để hai người tự lộ thêm một bước, chờ có đủ chứng cứ mới cho một mẻ lưới vét sạch. Thu muốn cảnh cáo anh, nhưng không có dịp nói .

Về sau, lại mấy lần nữa xảy ra chuyện vùi lạp xưởng, vùi trứng vào bát cơm, lần nào cũng khiến Thu bối rối. Thu quyết định phải nói với anh, nếu anh còn làm như thế, mọi người sẽ biết. Tất nhiên anh không sợ, vì anh đi làm, làm bạn với nhau là chuyện xưa nay, nhưng Thu vẫn còn là một học sinh, anh làm như vậy chẳng hóa ra làm hại Thu?

Đúng dịp anh Cả Trường Sâm ở Nghiêm Gia Hà về, dẫn anh bạn tên là Tiền cùng về chơi, bảo đây là người lái xe, tối hôm qua xe đâm chết một con hươu rừng, mấy người lái xe mang con hươu về mổ thịt chia nhau. Sâm cũng đem một ít thịt về. Sâm nhờ Thu đi gọi Ba, bảo đồng hồ của Tiền hỏng, nhờ Ba về sửa giúp, Tiền đến cũng vì việc ấy.

Thu nhận thánh chỉ, rất đàng hoàng đi tìm Ba. Dọc đường, ngay cả Thu cũng thấy buồn cười, có hay không có thánh chỉ liệu người ta có biết? Có thánh chỉ, người khác cũng sẽ cho rằng Thu mượn cớ đi gặp Ba. Con người cũng thật kỳ lạ, chính là Sâm bảo Thu đi gọi Ba về, Thu đi rất thản nhiên, không sợ ai hiểu nhầm, mà cũng không biết sợ ai hiểu nhầm.

Gần đến lán của đội thăm dò Thu đã nghe thấy tiếng accordéon, vẫn là Vũ khúc Ponska quen thuộc. Thu đứng lại, nhớ ngày đầu đến Tây Thôn Bình cũng trong buổi chiều gần tối như thế này, cũng ở nơi này, lần đầu tiên Thu nghe thấy tiếng đàn của anh. Hôm ấy Thu chỉ muốn gặp người chơi đàn, nói với anh vài câu. Về sau, Thu mong được gặp mặt, mấy hôm anh không đến, Thu buồn như người mất hồn.

Nhưng từ lần đi với anh, tâm hồn Thu như thay đổi hẳn, chỉ sợ người khác biết. Thu nghĩ, tư tưởng tư sản của mình thật nghiêm trọng, hơn nữa còn giả dối, vì không phải mình không muốn đến với anh, mà chỉ sợ người khác biết. Nếu hôm ấy không bị Lâm trong thấy biết đâu ngày nào mình cũng mong muốn gặp anh, biết đâu mình đã trượt sâu vào vũng bùn giai cấp tư sản, đúng là Lâm đã cứu mình.

Thu đứng ngẩn ngơ, suy nghĩ vẩn vơ, phải quyết tâm mấy lần mới đến gõ cửa phòng Ba. Anh mở cửa, thấy Thu, rất ngạc nhiên, buột miệng:

- Tại sao lại là em?

- Anh Cả bảo em ra gọi anh về ăn cơm.

- Tại sao em lại dám đến chỗ anh?

Anh lấy ghế cho Thu ngồi, lại lấy nước cho Thu.

- Anh ăn cơm rồi, nói xem nào, anh Sâm mang gì về, có bảo anh về ăn thêm không?

Thu vẫn đứng:

- Anh ấy bảo anh về, có người đến nhờ sửa đồng hồ. Anh Sâm đem thịt hươu về, mời anh về ăn cơm.

Một người độ tuổi trung niên ở cùng, nói đùa với Ba:

- Tân này, thịt hươu không thể tùy tiện, cái thứ ấy nóng lắm, ăn vào không có chỗ giải nhiệt, như vậy còn quá tội. Tớ khuyên cậu đừng đi.

Thu sợ Ba nghe lời anh kia không đi, vội vàng hỏi:

- Không sao, thịt hươu nhiệt, bảo bà Trương nấu một ít canh đỗ xanh ăn giải nhiệt.

Không ngờ mấy anh chàng ở cùng cười phá lên, có người nói:

- Thôi thôi, bây giờ mới biết ăn đỗ xanh giải nhiệt, ha ha…

Ba lúng túng:

- Các cậu đừng đùa vớ vẩn.

Anh nói với Thu:

– Chúng ta đi thôi.
Ra đến bên ngoài, anh xin lỗi Thu, nói:

- Bọn họ quanh năm đi đây đi đó, không sống với gia đình, nói năng tùy tiện, thích đùa, đừng chấp.

Thu không biết anh xin lỗi vì cái gì, mấy người kia nói thịt hươu nóng, đâu cần anh phải xin lỗi? Ăn những thứ nóng, bao giờ Thu ăn nhiều ớt cũng cảm thấy người bốc lửa, miệng dộp lên, có lúc đau cả răng, cho nên Thu không dám ăn nhiều. Hơn nữa thích đùa có liên quan gì đến gia đình? Thu cảm thấy mấy người nói có vẻ bí ẩn, câu trước không liền với câu sau, nhưng Thu không muốn nghĩ nhiều, chỉ muốn nhắc nhở anh bữa ăn đừng vùi thức ăn vào bát Thu.

Hai người đi theo lối cũ, phần lớn đi trên bờ ruộng. Ba để Thu đi trước, Thu không chịu. Anh cười:

- Thế nào, sợ anh đi sau tấn công à?

Thấy Thu không trả lời, anh cũng không nói tiếp.

Đi được một đoạn, anh hỏi:

- Em… giận anh

- Em có giận gì anh đâu.

Anh nói lảng:

- Không giận thì tốt, có thể anh cả nghĩ, chỉ sợ em trách anh hôm trên núi… Anh quay lại nhìn Thu, đi chậm lại:

- Hôm ấy anh có phần kích động, nhưng em đừng nghĩ xấu về anh…

Thu vội nói:

- Em không muốn nói đến chuyện ấy. Anh cũng nên quên chuyện ấy đi, chỉ cần sau này anh không tái diễn. Em chỉ sợ anh Lâm hiểu nhầm, nếu nói ra ngoài…

- Anh ấy không nói đâu, em yên tâm, anh nói với anh ấy rồi

- Anh nói gì với anh ấy để anh ấy không nói với người khác? Anh ấy nghe lời anh thế cơ à?

Hình như Ba rất bối rối, một lúc sau mới nói:

- Anh biết em rất lo, nhưng anh ấy cũng chỉ thấy anh cõng em, thế thì có gì, đoạn sông này thường xuyên có con trai cõng con gái, nghe nói trước kia không có đò ngang, chỉ có người cõng qua sông, đều là nam, chủ yếu cõng nữ, người già, trẻ con, nếu hôm ấy là anh Lâm thì anh ấy cũng sẽ cõng em. Chuyện ấy không là gì, em đừng lo.

- Lâm có đoán ra cũng chả sao, cậu ấy thật thà, sẽ không nói ra đâu, nói gì cũng cẩn thận. Anh biết, em rất lo, anh định nói chuyện với em, bảo em đừng lo, nhưng em cứ tránh anh. Em yên tâm, Lâm có nói ra, chỉ cần hai ta nói không có chuyện đó, người khác cũng sẽ không tin cậu ta đâu.

- Chẳng hóa ra chúng ta nói dối à?

Anh an ủi:

- Nói dối chuyện này cũng chẳng hại đến ai, không có tội lỗi gì. Cho dù người khác có tin lời Lâm, anh cũng sẽ nói với người ta không phải là em, mà là anh theo đuổi em, chặn đường đòi cõng.

Từ “theo đuổi” khiến Thu giật mình, chưa bao giờ Thu trực tiếp nghe ai nói đến từ này, nhiều lắm chỉ nghe nói ai đó có tình cảm nồng hậu của giai cấp vô sản với ai đó. Thu đọc được trong cuốn sách anh cho mượn từ “theo đuổi” nghe cũng không thuận tai, vậy mà anh đem ra dùng, nghe rợn cả tóc gáy.

Anh khẩn thiết:

- Em đừng vì chuyện ấy mà quá lo lắng được không? Em nhìn em xem, má hôm nay tóp hẳn đi, mắt trũng sâu.

Thu chợt xúc động, ngẩn ngơ nhìn anh, trong bóng tối Thu cảm thấy anh cũng gầy đi. Thu sững sờ nhìn, suýt nữa bước hụt xuống ruộng.

Anh vội đưa tay ra đỡ

- Ở đây không có ai, để anh dắt.

Thu nhìn quanh, đúng là không có ai, nhưng Thu không biết sẽ có ai đó chui ra từ đâu đó, Thu cũng không biết có ai đó ở đâu đó trông thấy Thu mà Thu không thấy. Thu không chịu đưa tay cho anh:

- Thôi, người khác trông thấy phiền lắm.

- Em sợ người khác trong thấy hay là…không thích anh dắt tay em?

- Có gì khác nhau đâu? Thu có phần không khách khí.

– Với lại, từ nay về sau anh đừng để thức ăn dưới bát cơm của em nữa, bà Trương trông thấy, khác nào đã cung cấp chứng cứ cho người khác?

Anh không hiểu:

- Để gì dưới bát cơm của em? Anh không để.

- Anh đừng có giả vờ, anh không để thì ai? Những lúc em không có ở đấy, dưới bát của em có lạp xưởng, trứng gà, làm như em là nàng dâu sợ hết hồn hết vía, lần nào em cũng phải lén vứt vào máng lợn.

Anh đứng lại, nhìn Thu, nói rất nghiêm túc:

- Không phải anh, có thể là Lâm. Em bảo những lần anh đến nhà bà Trương, có thể vào những lúc anh mang thức ăn đến mới có thứ để vùi vào bát cơm của em, nhưng không phải là anh, anh biết làm như thế em rất khó xử cho nên anh mua nhiều một chút, để em ăn cùng với cả nhà.
Thu rất ngạc nhiên:

- Không phải anh? Vậy thì ai? Lẽ nào anh Lâm? – Thu nghĩ đến Lâm, tỏ ra thanh thản. – Nếu là anh ấy thì không sao.
Vẻ mặt Ba hình như rất khó coi:

- Tại sao em không sợ người khác nói em với cậu ấy?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 10

Liền mấy ngày sau đấy, tất cả đều sóng lặng gió yên, Tĩnh Thu mới tin rằng không có chuyện gì xảy ra, Lâm có thể là con người thật thà, đồng ý với Ba sẽ không nói ra, khiến Thu yên tâm hơn.

Tâm trạng đã yên, Thu bắt đầu đan áo giúp Lâm, cô áng chừng chiều cao và vòng ngực của Lâm, chọn kiểu thô khỏe và dễ đan. Thu định trước khi về sẽ đan xong, cho nên ngày nào cũng đan đến tận khuya.

Bà Trương thấy, liền nói:

- Không vội, đan không xong con cứ mang về phố đan, bao giờ xong nhắn anh Lâm lên lấy, hoặc con về chơi đem cho anh ấy.

Nghe bà Trương nói vậy, Thu lại càng cố đan cho xong trước khi về, khỏi để lại cái đuôi sau này phải gặp Lâm.

Nhưng rất lạ là, Thu không sợ người khác hiểu nhầm mình đan áo cho Lâm, chỉ sợ Lâm có ý nghĩ ấy, đến lúc bấy giờ Thu không đồng ý sẽ làm tổn thương Lâm.

Một hôm, Thu cùng bà Trương làm việc lặt vặt trong nhà, Thu bảo sức khỏe của mẹ không tốt lắm, thường đi tiểu ra máu, nhưng vẫn chưa rõ nguyên nhân. Bác sĩ bảo mẹ Thu nên ăn hồ đào và đường phèn, hai thứ này trị bệnh đi tiểu ra máu rất hữu hiệu. Đường phèn là thứ hiếm, cho dù có đơn của bác sĩ cũng khó mua.

Bà Trương nói:

- Bên nhà mẹ đẻ chị Mẫn của con có cây hồ đào, con nói chị ấy bao giờ về lấy cho con một ít, con đem cho mẹ trên nhà.

Nghe bà Trương nói như vậy Thu vui lắm. Mẹ bị chứng đi tiểu ra máu đã lâu, uống nhiều thuốc, tiêm, bấm huyệt, tất cả những phương pháp chữa trị ít tốn tiền đều đã thử nhưng không có tác dụng. Lúc bệnh nặng, đi khám, nước tiểu đỏ như máu.

Thu đi hỏi chị Mẫn, chị nói:

- Bên nhà mẹ chị có cây hồ đào, nhưng cách đây xa lắm, biết bao giờ chị mới về? Nhưng chị có thể viết thư, bảo mẹ chị cứ cất giữ hồ đào, lúc nào về bên ấy chị có thể lấy cho em một ít.

- Nhưng… hồ đào của nhà ta bán bao nhiêu tiền một cân?

- Của nhà, tiền nong gì. Ở chỗ mẹ chị đường đi lối lại khó khăn, không thể mang đi bán, với lại bây giờ “cắt đuôi tư bản” ngay cả những thứ của rừng, của nhà cũng phải để đấy, đâu có chuyện đem hồ đào đi bán. Thu ơi, cả nhà xem em như người trong nhà, chỉ cần mẹ em khỏi bệnh, dù em có chặt hẳn một cây cũng không là gì... Mẫn nói.

Thu rất cảm kích, nhưng không dám giục chị viết thư, chỉ nói:

- Lúc nào rỗi rãi chị viết thư giúp em, để em dành thời gian đi lấy. Mẹ em không khỏi bệnh, em sợ có ngày máu sẽ ra kiệt…

Mấy hôm sau, Lâm mang vào buồng Thu một cái làn, nói:

- Cô thấy đủ chưa?

Nói xong, cậu ta bỏ ra ngoài. Thu xem thấy một làn đầy hồ đào. Thu ngớ ra, chả nhẽ chị Mẫn bảo Lâm đi lấy về? Phải một lúc lâu sau Thu mới cầm nổi nước mắt. Thu đã thề, trong đời sẽ không bao giờ chảy nước mắt, vì lúc nhỏ Thu đã chảy quá nhiều nước mắt rồi. Thu biết những chuyện chảy nước mắt không bao giờ bù đắp nổi. Thu quyết chí làm một người kiên cường, vì anh trai và bố ở nông thôn, mẹ ốm đau, em gái kém Thu năm tuổi, Thu là trụ cột của gia đình, cho nên khẩu hiệu của cô là: Chảy máu, chảy mồ hôi, không chảy nước mắt.

Thu đi tìm Lâm, muốn hỏi chuyện cho rõ ràng. Thu thấy Lâm đang ngồi ăn cơm ở đầu hồi nhà, đang ăn vội ăn vàng, giống như người đói lắm.

- Anh sang nhà chị Mẫn đấy à? – Thu hỏi.

- Ừ!

- Có xa không?

- Không.

Thu nhìn chân Lâm, phát hiện đôi giày rách nát, ngón chân lòi cả ra ngoài. Thu không nói nên lời, chỉ đúng ngẩn ngơ nhìn chân Lâm. Anh thấy vậy, vội cởi giày, đi chân đất, xấu hổ nói:

- Chân tôi đau, giày rách định đi đất nhưng đường núi lạnh lắm…

Thu nghẹn ngào, cố nén, hỏi:

- Chị Mẫn bảo anh Lâm đi đấy à?

- Không. Muốn lấy về để mẹ cô sớm khỏi bệnh.

Anh và mấy đũa là hết bát cơm.

– Tôi đi chỉ mất nửa ngày thôi.

Nói xong, anh bỏ đi chỗ khác, một lúc sau thấy anh vác cuốc quay lại:

- Cô lấy tờ báo đậy cái làn, đừng để thằng Hoan trông thấy kẻo nó ăn hết. Cô đừng thấy nó nhỏ, nó biết kẹp hồ đào vào cách cửa để bóc vỏ đấy.

Thu thấy Lâm để đôi giày lên đống củi ngoài sân, rồi quay lại dặn Thu:

- Đừng nói với mẹ tôi nhé, mẹ sẽ mắng, không lên phố mà đã làm rách cả giày.

Lâm đi rồi, Thu lật giở xem đôi giày trên đống củi, định giặt giúp anh, nhưng phát hiện một chiếc đế đã thủng,

không có cách nào vá nổi, đành để lại chỗ cũ.

Thu đứng tần ngần, nhận những tình cảm này của Lâm, biết lấy gì để trả ơn? Cuối cùng Thu vẫn quyết định làn hồ đào của Lâm. Bác sĩ u Dương ở bệnh viện số Hai của thành phố nói, bệnh của mẹ là do sinh hoạt quá kém, sức khỏe yếu lâu ngày, thêm vào đấy là tư tưởng không được thoải mái mới sinh ra chứng đi tiểu ra máu kéo dài. Nếu đời sống khá hơn, tư tưởng thoải mái, bệnh có thể thuyên giảm, ăn hồ đào và đường phèn là để bồi bổ sức khỏe.

Thu tin lời thầy thuốc, vì những lúc tâm trạng mẹ thoải mái thì bệnh cũng không đến nỗi nặng lắm. Mỗi lần có chuyện gì lo lắng hoặc công việc quá vất vả, máu lại ra, ăn hồ đào và đường phèn, máu không ra nữa.

Thu bào buồng, ngồi trước làn hồ đào, đưa tay lên sờ từng hạt, phải đến hơn hai chục cân, nếu theo đơn của bác sĩ, phải mười đơn thuốc mới mua được từng này, hơn nữa còn phải tiền. Có thể hồ đào này còn mới, tươi hơn hồ đào mua ở phố, mua ở phố có khi bóc ra mới biết có hạt lép, nhân bên trong như mảnh giấy đen. Hồ đào này hạt nào cũng tươi, cầm lên tay thật chắc, nhất định bên trong không bị khô lép.

Thu muốn mang ngay làn hồ đào về cho mẹ, nhưng Thu nghĩ phải có thêm đường phèn, không có đơn của thầy thuốc không mua được đường phèn, đi tiểu ra máu phải đến một mức độ nào đó thầy thuốc mới cho đơn mua đường phèn, có đơn rồi cũng chưa chắc mua được.

Thu nghĩ, làn hồ đào này đủ cho mẹ dùng một thời gian, em gái chắc chắn vui lắm, vì nó rất thích bóc vỏ. Nó bóc hạt hồ đào rất giỏi, nó dựng hạt lên, dùng búa gõ nhẹ, cái vỏ vỡ thành bốn mảnh, nhân bên trong rất nguyên vẹn. Có lúc nó cũng làm vỏ bị nát, lúc ấy nó dùng một cái kim khều nhân ra, nó lại tán vụn đường phèn đưa cho mẹ ăn. Nhưng mẹ không ăn, nhường cho hai chị em, mẹ bảo sức khỏe không có vấn đề gì, hai chị em còn bé, phải ăn cho lớn. Hai chị em lại bảo hồ đào chát, không thích ăn.

Thu ngồi trước làn hồ đào suy nghĩ một lúc, cảm thấy Lâm rất tốt với mình. Thu đã nghe kể trong xã hội cũ có người con gái phải bán mình để cứu mẹ, Thu rất hiểu. Thời ấy, một người con gái chỉ có thể bán mình, còn có cách nào để cứu mẹ? Thật ra, trong xã hội mới, một cô gái như Thu ngoài bán thân ra, còn có thể lấy gì để cứu mẹ? Mỗi lần thấy mẹ ốm đau, Thu lại nghĩ bụng: nếu có ai chữa khỏi bệnh cho mẹ, mình sẽ đồng ý bán mình cho người ấy. Nhưng lúc này làn hồ đào ở ngay trước mắt, bất giác Thu nghĩ, nếu làn hồ đào này có thể chữa khỏi bệnh cho mẹ, liệu mình có thể lấy Lâm không? Bây giờ xã hội mới, không thể mua bán người, cho nên không thế nói “bán” mình cho Lâm, chỉ có thể lấy anh ta.

Thu nghĩ, lấy bản thân để đền đáp công ơn Lâm, nhưng lại không thể không nghĩ đến Ba. Từ trong lòng, Thu rất muốn làn hồ đào là của Ba mang đến, như vậy mọi chuyện đều dễ giải quyết, Thu sẽ vui vẻ “bán” mình cho Ba.
Thu tự phê phán, Lâm có điểm nào không bằng Ba? Chẳng qua chỉ lùn, nhưng người không “tiểu tư sản” như Ba. Chúng ta xem xét một con người, chẳng phải cần chú trọng đến tâm hồn người đó hay sao? Tại sao chỉ nhìn ngoại hình? Nhưng Thu lại tự phản bác, tại sao mi nói tâm hồn Ba không được như Lâm? Anh ấy cũng rất quan tâm đến mi đấy chứ? Với lại, anh ấy sửa chữa bút máy, đồng hồ cho người khác, còn bỏ tiền túi ra mua linh kiện không lấy của ai một xu, đấy chẳng phải là biểu hiện của tâm hồn cao đẹp hay sao? Nghe nói, anh còn là đội viên gương mẫu của đội thăm dò, vì anh tự nguyện yêu cầu được đi dã ngoại, chính anh được phân công về làm việc ở tổng đội trên tỉnh. Anh bỏ nơi công tác dễ chịu ở thành phố, đến một vùng núi để làm việc, chẳng phải là con người có tâm hồn cao đẹp hay sao?

Sau một hồi suy nghĩ vẩn vơ, Thu cười chế nhạo bản thân, hai người này chưa ai nói chuyện làm bạn với mi, còn mi thì vội vã gì cơ chứ? Có thể người ta giống Lôi Phong giúp mi, kết quả mi đã biến lòng tốt của người khác thành cái gì, đúng là lòng tốt không được đền đáp, bùn tốt không đắp được lò tốt.

Thu quyết định trước hết khâu cho Lâm một đôi giày, để bà Trương không mắng anh, mà cũng để anh không phải đi chân đất vào lúc trời lạnh thế này. Thu biết, trong cái làn may vá của bà Trương có sẵn đế giày, có nhiều mũi giày nhưng chưa được khâu vào đế, coi như giày bán thành phẩm. Thu chỉ cần mấy buổi tối là có thể khâu thành đôi giày.
Thu nói với bà Trương sẽ khâu giày cho Lâm, bà Trương cười híp cả mắt, lập tức tìm đế giày giày đưa cho Thu, lại lấy kim chỉ, khuôn giày, sau đấy bà đứng bên cạnh nhìn thu khâu giày bằng đôi mắt trìu mến.

Ba Trương khen Thu:

- Thật không ngờ, con ở thành phố mà cũng biết khâu giày, con chần đế khéo hơn cả mẹ, chần vừa dày vừa chắc. Mẹ con dạy học nhưng biết dạy cả con khéo tay hay làm.

Thu xấu hổ, nói với bà Trương, cô biết khâu giày là vì nhà nghèo, không có tiền mua giày, mẹ Thu tự khâu giày để đi. Mua một thước vải đen có thể làm hai đôi rưỡi giày, có thể làm đế, mũi giày, đế giày tự chần lấy, khó nhất là khi đóng giày, tức là khâu mũi giày vào đế, nhưng Thu cũng đã học được. Thu đi giày tự khâu, chỉ những hôm trời mưa, phải đi xa, hoặc đi tập quân sự Thu mới đi đôi giày bộ đội đã cũ. Chân Thu rất được việc, chân chỉ lớn đến số ba mươi lăm rồi không lớn nữa, hình như nó sợ Thu không đi vừa đôi giày bộ đội cũ. Bà Trương nói:

- Cái Phần, cái Phương của mẹ không biết khâu giày, không biết chúng nó về nhà chồng rồi sẽ thế nào.

Thu động viên:

- Bây giờ chẳng mấy ai đi giày tự khâu lấy, hai chị về nhà chồng mua giày đi là được rồi.

- Đi giày mua đâu có dễ chịu như giày tự làm? Mẹ không đi quen, đi vào chân ra mồ hôi, cởi ra thối lắm.

Bà Trương nhìn chân Thu, kêu lên:

- Đôi chân nhỏ quá, đây là chân con nhà giàu trước kia, con gái nhà nông làm gì có đôi chân xắn thế này.

Nghe bà Trương nói, Thu cảm thấy xấu hổ vô cùng, đôi chân của mình rõ ràng di truyền của bố là “địa chủ”, chân bố cũng nhỏ, chân mẹ Thu không nhỏ, có thể thấy gia đình bên mẹ là nhân dân lao động, bên gia đình bố sống dựa vào bóc lột, không phải xuống ruộng, chân trở nên nhỏ nhắn. Thu nói rất chân thật:

- Có thể đấy là bố con di truyền, bố con là… địa chủ, tử tưởng con đã phân rõ ranh giới bới bố rồi, nhưng cái chân…

Bà Trương nói:

- Địa chủ là gì? Người ta tốt số, biết làm ăn mới có nhiều ruộng. Chúng tôi ở đây không có ruộng, đi cấy rẽ, nộp tô cho người ta, chuyện đó ở đâu chả có. Mẹ không thích những người đỏ mắt nhìn nhà địa chủ giàu có, thế rồi kiếm cớ đâu tố người ta.

Thu cảm thấy lỗ tai mình có vấn đề, bà Trương là một phụ nữ nông dân nghèo từ đời tổ đời tiên, lại biết nói những lời phản động như thế? Thu nghĩ, có thể bà Trương cố tình nói vậy để thử lòng Thu, nhất định mình sẽ chịu được thử thách, Thu không dám tiếp chuyện, chỉ cúi xuống khâu giày.

Thức hai đêm, Thu khâu xong đôi giày cho Lâm, lúc anh ta đi làm về, Thu bảo anh thử. Lâm lấy chậu nước rửa sạch chân, rất cung kính đi vào đôi giày, bảo thằng Hoan lấy mấy tờ báo để lót xuống đất rồi anh mới cẩn thận bước lên đấy vài bước.

- Có chật không? Có nhỏ quá không? Có bó chân không? Thu lo lắng hỏi.

Lâm chỉ lặng lẽ cười

- Thoải mái hơn giày mẹ khâu.

Bà Trương cười, vờ bực tức:

- Người ta bảo có vợ quên mẹ, mày vẫn còn đấy mà đã…

Thu vội vã thanh minh:

- Đôi giày này là để cảm ơn anh Lâm đã lấy hồ đào cho mẹ con, không có ý gì đâu.

Hai hôm sau, Ba mang về cho Thu một gói to đường phèn, nói:

- Thu mang về cho mẹ chữa bệnh.

Tĩnh Thu sững sờ:

- Tại sao anh biết mẹ em cần đường phèn?

- Thu không nói với anh, Hay Thu không cho người khác nói với anh? Anh như trách móc. – Tại sao Thu có thể nói với người khác mà không nói với anh?

- Nói với ai?

- Còn ai nữa? Tất nhiên là bà Trương, là chị Mẫn, là anh Lâm. Biết vậy, ngay từ đầu anh đã không nói với em anh không phải là người nhà của người ta.

Thu ngớ ra, không biết anh bực thật hay là đang đùa.

Thấy Thu đã đuối lí, anh cười:

- Không phải trách em, đùa vậy thôi. Lâm bảo với anh, cậu ta chỉ kiếm được hồ đào, không thể tìm được đường phèn, không có đường phèn thì thứ thuốc này cũng không có tác dụng.

- Một gói to đường phèn thế này mất bao nhiêu tiền.

- Một làn đầy hồ đào thế kia mất bao nhiêu tiền?

- Hồ đào hái ở cây.

- Đường phèn cũng ở trên cây.

Thấy anh đôi co với mình, Thu bật cười:

- Anh bịa, đường phèn mà mọc trên cây à?

Thấy Thu cười, anh cũng phấn khởi:

- Chờ em kiếm được tiền sẽ trả anh, anh ghi nợ, được không nào?

Thu nghĩ, thế này thì nguy to, nếu Lâm và anh liên hiệp lại chữa khỏi bệnh cho mẹ, lẽ nào mình lấy cả hai? Thu tự cười mình về ý nghĩ ấy. Có ai bắt mi phải hứa? Thành phần xuất thân của mi, người ta có cần mi phải đền đáp còn là một dấu hỏi lớn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 11

Người ta nói ... vết thương thành sẹo không còn đau, câu nói rất đúng. Sau một thời gian lo lắng, thấy không có vấn đề gì, Thu mạnh dạn hẳn lên, lại dám đứng nói chuyện với Ba. Đúng lúc ông bà Trương về thăm bên ngoại ít hôm, Mẫn lên Nghiêm Gia Hà thăm chồng, đem thằng Hoan đi theo. Ban ngày ở nhà chỉ có Thu, không còn ai. Ba hết giờ làm liền về sớm giúp Thu thổi cơm, anh cũng không ăn ở bếp tập thể, về ăn ở đây. Anh và Thu một người nhóm bếp, một người nấu nướng, phối hợp rất ăn ý.

Ba biết xào nấu, thổi cơm, đầu tiên xới cơm ra một cái ang, để cơm cháy trong nồi, cho ít muối, ít dầu, để lên bếp nóng một lúc, cậy ra thành tảng cháy vừa thơm vừa ngon. Thu ăn thích lắm, bữa tối không ăn cơm, chỉ ăn cháy, ai cũng phải ngạc nhiên: bở cơm trắng để ăn cháy, người thành phố thật kỳ lạ.

Phần thấy cha mẹ đi vắng cũng đưa bạn trai về nhà ăn cơm, Thu nghe bà Trương nói, anh kia “chỉ được cái mặt”, không thực tế, không chịu ở làng làm ruộng, chỉ muốn chạy đây chạy đó kiếm ăn. Ông bà Trương không thích anh này, không cho Phần qua lại quan hệ với anh ta. Phần vẫn lén hẹn hò với anh kia, lúc này mẹ không có nhà cô rất thoải mái đưa “cái mặt” về nhà.

Thu thấy “cái mặt” ấy cũng khá, người cao lớn, nói chuyện như người từng trải việc đời, đối với Phần cũng rất tốt. “Cái mặt” còn đem cho Thu mấy sợi dây chun hoa hoét để buộc tóc, nói anh ta đem cái thứ này đến các thôn làng để bán. Phần đưa cho Thu xem cái đồng hồ đeo tay, tỏ ra rất đắc ý, hỏi:

- Đẹp không? Anh ấy mua cho mình đấy, một trăm hai mươi đồng.

Thu giật mình, một trăm hai mươi đồng! Gần bằng ba tháng lương của mẹ. Phần đeo đồng hồ vào cổ tay, rau cũng không chịu rửa, bảo sợ nước vào đồng hồ.

Lúc ăn cơm, Ba gắp thức ăn cho Thu, “cái mặt” gắp thức ăn cho Phần, chỉ có Lâm lẻ loi. Lâm xới một bát cơm, gắp một ít thức ăn rồi biến đâu mất. Ăn xong, buông đũa buông bát, đi mất tăm, đến giờ ngủ mới về.

Buổi tối, Phần đưa “cái mặt” vào buồng riêng đóng cửa lại, không biết hai người làm gì trong đó. Buồng của Phần và Phương chỉ cách nhau một bức tường cao ngang đầu người, bên trên thông với nhau, không hề cách âm. Thu ở buồng mình viết lách, nghe tiếng cười khúc khích, giống nhu bị ai cù vào người vậy.

Ba ngồi đàng hoàng trong buồng Thu, giúp Thu viết lịch sử thôn. Có lúc Thu đan áo, anh ngồi đối diện, tay cầm cuộn len, ngẩn ngơ nhìn Thu, quên cả thả sợi len ra, Thu cứ phải cầm một đầu sợi len giật giật, nhắc nhở anh.

Anh như được Thu đánh thức, bừng tỉnh, vội xin lỗi, buông sợi len ra để Thu đan.

Thu nói nhỏ:

- Hôm ấy anh bảo với em, đan cho anh cái áo len phải không? Tại sao không thấy anh mua len?

Anh cười:

- Mua rồi, nhưng không dám đem đến đây.

Thu nghĩ, có thể anh thấy mấy hôm nay mình bận nên không muốn làm mình thêm bận. Thu rất xúc động. Thu rất dễ xúc động, hễ xúc động lại hứa hẹn. Thu rất thản nhiên

- Anh cứ mang len đến, em đan xong cái áo này sẽ đan cho anh.

Hôm sau anh mang len đến, len đựng trong một cái túi to, xem ra khá nhiều. Thu lấy ra xem, len đỏ, không phải đỏ thẫm, không phải đỏ hoa hồng, cũng không phải phấn hồng, mà là màu đỏ hoa đỗ quyên. Trong các màu đỏ, Thu thích nhất màu đỏ này, Thu gọi đấy là đỏ đỗ quyên.

Nhưng con trai ít ai mặc màu đỏ này, Thu ngạc nhiên hỏi:

- Anh… mặc màu này à?

- Cây sơn tra trên núi kia hoa cũng màu đỏ này. Thu bảo muốn xem hoa ấy cơ mà?

Thu bật cười:

- Em muốn xem cái cây ấy nở hoa, anh mặc áo len màu đỏ là để em coi anh là cây sơn tra à?

Anh không trả lời, chỉ nhìn cái cổ áo len để lộ ra ngoài cái áo bông xanh của Thu. Thu đã hiểu, anh mua len này cho Thu, cho nên mới chọn màu đỏ. Quả nhiên, anh nói:

- Anh nói Thu đừng giận nhé, ấy là… anh mua cho Thu…

Đúng lúc Thu bực mình, nghĩ bụng hôm ấy hai người đi đường, anh đã lén nhìn cái áo len của Thu, nếu không tại sao anh mua len cho Thu?

Hôm ấy đi đường rất nóng, anh đã cởi áo ngoài, chỉ mặc một cái áo len, nhưng Thu vẫn mặc áo bông. Anh hỏi:

- Thu có nóng không? Nóng thì cởi bớt áo bông ra.

- Em… không quen mặc áo len đi ngoài đường, muốn cởi áo trong, chỉ mặc áo bông là đủ.

Anh rất tự giác nói:

- Vậy anh ra kia, Thu thay áo xong gọi anh.

Thu không muốn mặc áo len đi ra đường là bởi áo len của Thu vừa ngắn vừa chật, ôm khít lấy người. Ngực Thu hơi to, tuy Thu đã phải dùng áo nịt ngực số nhỏ để ép xuống, nhưng dưới lớp áo len ngực vẫn nổi rõ lên, áo len lại không kín mông, đúng là trước chật sau ngắn, thật xấu hổ.

Hồi ấy trong đám con gái vẫn nói với nhau, muốn biết cơ thể một người con gái có đẹp hay không thì phải đứng áp người vào tường, thấy không còn kẽ hở mới là người có thân hình đẹp, đoan trang, đứng đắn. Tĩnh Thu không thể đứng sát tường mà không có khe hở, nếu đứng úp mặt vào tường, phía trước có bộ phận nổi cao chạm tường; nếu lưng dựa vào tường phía sau cũng có bộ phận nổi cao chạm tường, cho nên bọn bạn gái cười Thu “ba đoạn”.

Thu biết cơ thể mình không đẹp, rất ít khi mặc áo len ra đường để khỏi lộ cái xấu. Thấy Ba tránh đi chỗ khác, Thu vội cởi áo bông, áo len, rồi mặc lại cái áo bông, Thu cẩn thận lộn phải cái áo len, cầm trên tay. Lúc đầu Thu sợ anh trông thấy mặt trái cái áo len, không chịu để anh cầm giúp, về sau mải nói chuyện với anh, Thu quên bẵng, anh bảo để anh cầm giúp áo len, Thu đưa cho anh, có thể lúc ấy anh lén nhìn bí mật của cái áo của Thu .

Cái áo len Thu mặc là do mẹ mua len từ hồi Thu ba, bốn tuổi. Mẹ không biết đan, phải nhờ người đan, đan xong mẹ trả tiền công, người đan còn lấy bớt rất nhiều len, chỉ đan cho Thu và anh trai hai cái áo rất nhỏ.

Về sau Thu biết đan, Thu tháo hai cái áo ra đan thành một chiếc. Mặc mấy năm, lại tháo, thêm một cuộn sợi đan lại thành áo. Vài năm sau, lại tháo, lại thêm một cuộn sợi. Cuối cùng biến thành cái áo năm, sáu màu. Nhưng Thu đan rất khéo, người khác nhìn cứ tưởng cố tình pha màu tạo nên hoa văn phức tạp, chồng chéo nhau. Nhưng vì dùng quá lâu, len rất dễ đứt, tạo nên những đoạn ngắn.

Lúc đầu Thu còn cẩn thận xe hai đầu sợi len lại với nhau, như vậy không thấy mối nói. Về sau thấy nối quá nhiều, xe không lại, Thu phải nối thành mối. Cho nên cái áo len của Thu mặc ngoài khá đẹp, trông rất tinh xảo, nhưng nếu lật mặt trong thì đầy mối nối, giống như cái áo lông cừu của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông mặc hồi còn ở núi Tĩnh Cương, vẫn là áo lông cừu, nhưng vì lông cừu rối tung rối mù.

Thu nghĩ, nhất định anh đã thấy cái áo len đầy mối nối cho nên anh thông cảm với Thu, mua len màu đỏ mẫu đơn, để Thu tự đan áo cho mình. Không biết tại sao Thu chợt nhớ đến truyện ngắn Xà phòng của Lỗ Tấn, trong đó người đàn ông có tâm địa nhơ nhớp, trông thấy một người con gái nghèo khổ, cơ thể bẩn thỉu, trong bụng anh ta nghĩ mua một cục xà phòng để cô ta tắm.

Thu bực tức trách Ba:

- Tại sao anh làm như vậy? Anh cầm cái áo len thì cứ việc cầm, anh… anh nhìn mặt trong cái áo len của em làm gì?

Anh ngạc nhiên hỏi lại:

- Mặt trong cái áo len của em? Mặt trong cái áo len của em thế nào?

Nhìn vẻ mặt vô tội của anh, Thu nghĩ bụng có thể anh bị oan, anh không trông thấy. Lần ấy trên đường đi anh không có cơ hội để nhìn cái áo của Thu. Có thể anh thấy màu len đẹp, giống như màu hoa sơn tra, cho nên anh mua.

Thu vội giải thích:

- Không có chuyện gì đâu, chỉ đùa anh tị thôi

Anh như trút được gánh nặng:

- Ôi, nói đùa vậy mà anh tưởng Thu nổi giận.

Anh sợ Thu nổi giận, khiến Thu có cảm giác tự hào hình như đang thao túng tình cảm của anh. Anh là con cán bộ, lại thông minh, làm việc giỏi giang, người cũng “tiểu tư sản” nhưng trước mặt Thu lại tỏ ra thật thà, nhút nhát như chuột, sợ Thu nổi giận, khiến Thu có cảm giác đang bềnh bồng nhẹ trôi, muốn đùa anh tí chút để thấy cái vẻ sợ hãi của anh, chứng thực mình đủ khả năng chi phối anh. Thu biết như vậy không tốt, chỉ là vinh dự hão huyền, cho nên Thu không làm như thế.

Thu gói những cuộn len lại, đưa trả cho anh:

- Em không lấy len của anh đâu, nếu mẹ em thấy, em phải nói thế nào với mẹ? Nói em ăn cắp à?

Anh vẫn đứng lặng, tay ôm bọc len, nói khẽ:

- Anh không nghĩ Thu phải trả lời mẹ. Thu cứ bảo mua không được à?

- Em một hào không có làm thế nào để m được nhiều len như thế?

Thu như thách thức mình nói ra hoàn cảnh gia đình, hình như muốn nói: gia đình em nghèo, anh xem thường em không? Nếu xem thường thì sớm thôi đi!

Anh đứng kia, vẻ mặt đau khổ, miệng lẩm bẩm:

- Anh không ngờ… anh không ngờ…

Thu cảm thấy anh đang hối hận như vừa bị nói dối, vậy là Thu đùa:

- KHông ngờ gì? Chuyện anh khôn ngờ còn nhiều lắm, chỉ trách anh không tinh mắt. Nhưng anh yên tâm, em nói thế này, tiền đường phèn, tiền bút máy em sẽ trả anh. Nghỉ hè em đi làm, nếu một tháng không nghỉ ngày nào em sẽ được ba mươi sáu đồng, chỉ một tháng em sẽ trả anh hết nợ.

Anh vội vã hỏi:

- Làm… việc gì?

- Làm những việc linh tinh lặt vặt mà không biết à? Đến công trường xây dựng làm thuê, đi chở than ở bến cảng, đến xưởng sản xuất học cụ sơn đồ dùng dạy học, dán hộp giấy, có việc gì làm việc nấy, nếu không thì làm sao gọi là việc vặt.

Thu hơi thổi phồng.

– Không phải ai cũng tìm được việc đâu nhé, tìm được việc vì phụ huynh học sinh của mẹ là chủ tịch khu dân cư, chuyên quản lý những việc ấy.

Thu kể cho anh nghe chuyện vui về con bà chủ tịch khu dân cư, cậu ta là bạn học với Thu, người gầy gò nhỏ thó, các bạn cùng lớp đặt cho cậu ta cái tên “cô em vợ” trong lớp còn có một cậu nữa được gọi là “cô Điền”, một cậu nữa có tên “thím Đỗ”, mấy cậu con trai đều mang những cái tên đàn bà. Nói đến đoạn buồn cười, Thu không nhịn nổi.
Thu cười một lúc mới phát hiện anh không cười, chỉ sững sờ nhìn Thu. Thu vội giải thích:

- Anh đừng thấy em vô duyên, không phải em đặt cho các cậu ấy đâu, trong lớp em chưa bao giờ gọi họ bằng cái tên ấy, chỉ kể cho anh nghe thôi.

Anh nói, giọng khàn khàn:

- Dán hộp còn có thể, nhưng Thu đừng làm ở công trường, càng không nên ra cảng chở than, nguy hiểm lắm, Em là con gái, sức yếu, không cẩn thận sẽ bị tai nạn, bị xe cán thì thế nào?

Thì ra vừa rồi anh không nghe, đang nói chuyện cười mà nghĩ đến chuyện Thu đi làm thuê. Thu động viên:

- Anh chưa đi làm những việc ấy cho nên anh nghĩ nó rất đáng sợ, nhưng thực tế thì…

- Anh thì chưa đi làm những việc ấy, nhưng anh thấy công nhân chuyên chở than ở bến cảng phải kéo xe lên dốc dựng đứng, nếu tay không khỏe thì cả người lẫn xe lăn xuống sông. Anh cũng đã thấy công nhân xây dựng xây tường lợp ngói như thế nào rồi, nếu từ trên giàn giáo ngã xuống thì nguy hiểm vô cùng, không nặng nhọc không nguy hiểm thì công nhân chính đã làm, không cần thuê lao động phụ làm gì, anh làm sao yên tâm nổi? Liệu mẹ em có yên tâm được không?

Chắc chắn mẹ Thu không thể yên tâm, mẹ lo Thu đi làm như thế bị tai nạn lao động, nghe nói làm phụ động mà bị tai nạn sẽ không được hưởng bảo hiểm lao động, cuộc đời coi như xong. Được mấy đồng tiền còm nhưng hỏng cả cuộc đời.

Nhưng Thu biết mấy đồng tiền còm không nhỏ, không có mấy đồng ấy thì không mua được gạo, coi như nhịn đói. Hơn nữa, nhà Thu không chỉ thiếu mấy đồng tiền ấy mà thiếu rất nhiều. Mẹ thường phải phải vay tiền các đồng nghiệp, hễ lĩnh lương là phải trả nợ, chỉ sau một ngày lĩnh lương lại vay. Nhà Thu thường đem cho phiếu thịt, phiếu trứng, bởi không có tiền mua. Đội sản xuất ở nông thôn nơi anh trai Thu lao động thu nhập rất kém, đám thanh niên trí thức về lao động phải xin tiền bố mẹ mua thóc để xay thành gạo mới đủ cái ăn, vì công điểm rất thấp, công điểm cả năm không đủ gạo ăn.

Những năm gần đây may mà mỗi vụ nghỉ hè Thu đi làm, giúp gia đình được ít nhiều. Thu vẫn thường động viên mẹ: “Con đi lao động như thế chả tốt hay sao? Mẹ có thấy ai bị tai nạn không? Mà có bị tai nạn thì ngồi nhà cũng làm được việc cơ mà”.

Lúc này thấy Ba nói như vậy, Thu cũng đem cái lí ấy ra, nhưng anh không nghe lọt, chỉ khẩn thiết nói:

- Em đừng đi làm như thế nữa, nguy hiểm lắm, lỡ xảy ra việc gì thì khổ cả một đời. Em cần tiền, anh có đây, anh đi dã ngoại thế này lương khá cao, có cả phụ cấp dã ngoại. Anh có tiền tiết kiệm, em lấy mà trả nợ. Sau này mỗi tháng anh có thể đưa em từ ba chục đến năm chục đồng, như thế có đủ không?

Thu không thích như vậy, tưởng như lương anh cao là diều ghê gớm lắm, có thể nhìn người bằng nửa con mắt, muốn được cứu tế Thu. Thu trả lời rất kiêu:

- Lương của anh cao là của anh, em không cần tiền của anh.

- Em… coi như anh cho em vay không được hay sao? Sau này em ra công tác sẽ trả anh.

- Sau này em có công tác gì?

Thu tự chế giễu.

– Bố em không phải là cán bộ cao cấp, với lại liệu có thể tìm được công việc dã ngoại hay không. Em về nông thôn sẽ không có cơ hội về lại thành phố. Đến lúc ấy mẹ không phải cho em tiền mua gạo là may mắn lắm rồi, đâu còn tiền trả nợ.

- Không trả được thì thôi, dù sao thì số tiền ấy anh cũng không dùng đến, em đừng cố chấp, chỉ vì mấy đồng tiền mà làm mình mang thương tật, suốt đời phải nằm liệt giường, như thế có phải là khổ hơn không?

Thu nghe anh nói “chỉ vì mấy đồng tiền” cảm thấy anh xem thường mình, coi Thu như người yêu tiền, Thu bực mình:

- Em là người vì mấy đồng, là người tầm thường thế đấy. Em thà đi làm thuê, thà vất vả cực nhọc cũng không cần tiền của anh.

Ba tưởng như bị Thu đâm một mũi dao vào tim, không biết nói gì, chỉ nói khẽ:

- Em… anh…

Một lúc sau anh không nói được gì, trông rất đáng thương, khiến Thu nghĩ đến con chó con Thu nuôi trước đây bị đội tiêu diệt chó bắt, bị trói và rọ mõm, kêu không thành tiếng, trông thật đáng thương. Nó nhìn Thu, cầu cứu Thu, biết bị trói thể nào cũng bị chết.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 12

Hai hôm sau chị Mẫn về, trong nhà lại yên tĩnh. “Cái mặt” của Phần cũng không thấy đâu, đội của Ba hôm ấy cũng phải họp, không còn thời gian đến. Buổi tối, Mẫn đưa cô giáo Diệp, một đồng nghiệp đến nhờ Thu chỉ cách đan cửa quần len nam giới.

Thu biết cách đan cửa quần, nhưng cô giáo Diệp không những hỏi Thu cách đan cửa quần, còn hỏi cửa quần phải đan cao bao nhiêu để cho chồng tiện mở. Thu cũng học được của người khác, lúc đan không nghĩ phải để cao bao nhiêu. Lúc này cô giáo Diệp hỏi “tiện mở” làm Thu ngượng đỏ mặt, bối rối:

- Cô để em đan giúp. – Nói xong, Thu nhanh tay giúp cô giáo Diệp đan.

Cô giáo ngồi chờ Thu đan cửa quần, vừa nói chuyện với Mẫn:

- Mẫn này, Thu nó vừa đảm đang, vừa xinh đẹp, chả trách gì bác Trương muốn hỏi Thu cho chú Hai. Thu ơi, em cứ lấy chú Hai nhà chị Mẫn đi, em về làm dâu bác Trương, bọn chị muốn đan gì cũng tiện, lúc nào cũng có thể hỏi em.

Mẫn nói:

- Đằng ấy đừng nói vớ vẩn, Thu nó còn trẻ con lắm.

Mẫn thăm dò:

- Thu người thành phố, ăn gạo ngon, làm sao ưng được người miền núi chúng mình? Người như Thu chắc chắn phải lấy người thành phố, có đúng không, Thu?

Thu mặt đỏ bừng, nói:

- Em còn nhỏ, chưa nghĩ đến chuyện ấy.

Cô giáo Diệp nói:

- Lấy người thành phố à? Chị tính thế này, đến đội thăm dò tìm một người, ở đấy có người thành phố đấy. Đến lúc Thu lấy chồng người thành phố, chúng mình có người giúp đan áo, vẹn cả đôi đường.

Cô giáo Diệp suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp:

– Chị thấy cậu Tân được đấy, biết kéo đàn, xứng với Thu lắm. Mẫn ơi, cậu Tân vẫn đến chơi nhà đằng ấy, chắc là nhắm nhe Thu đấy nhỉ.

Mẫn cười phá lên:

- Mắt đằng ấy thật tinh. Trước đây tôi gợi ý cậu ấy với cái Phần nhà tớ, cậu ta tránh không đến. Nhưng gần đây năng đến lắm, hầu như ngày nào cũng đến.

Thu nghe không dám nói gì, chỉ mong hai người nói đùa.

Cô giáo Diệp nói:

- Vậy thì bác Trương bực lắm nhỉ? Một đứa con gái xinh xắn, định đánh tiếng cho con trai, không ngờ bị nẫng tay trên.

Mẫn cười:

- Không đâu, Thu chắc chắn là người nhà tôi rồi, cậu Tân ở nhà đã có vợ chưa cưới.

Thu cảm thấy đầu óc quay cuồng, tưởng mình sắp ngã ra đất, nhưng không ngã mà còn như bay lên không trung, tự đánh giá cao mình, sung sướng trên đau khổ của người khác, nghĩ bụng:

- Thu ơi, suốt ngày mi nói phải lạc quan trước mọi chuyện, đây là lúc thử thách mi.

Chị Mẫn và cô giáo Diệp thì thầm chuyện trò, thỉnh thoảng lại cười khúc khích, Thu cũng thỉnh thoảng cười một mình, nhưng trong đầu óc chỉ có một ý Tân ở nhà đã có vợ chưa cưới.

Thu vừa đan vừa nghe chị Mẫn và cô giáo Diệp nói chuyện, cuối cùng không biết cái cửa quần kia dài bao nhiêu, nhưng câu chuyện của người Thu nghe không sót một câu. Cho đến khi cô giáo Diệp bảo phải về, Thu mới cầm cái quần lên xem, phát hiện cửa quần đã dài đến ba mươi phân.

Cô giáo Diệp không kiềm chế nổi:

- Được, như thế này chồng chị mở cho dễ, chả khác gì quần mở.

Thu rất ngượng, rất muốn tháo ra đan lại ngay. Chị Mẫn nói với cô giáo Diệp:

- Không cần phải tháo, đằng ấy về lấy kim khâu bớt lại là được.

- Đúng đấy, tháo ra tiếc lắm. – Cô giáo Diệp nói.

Chờ cho cô giáo ra về, Thu vội về buồng mình, tưởng như không chịu đựng nổi, nằm lên giường, trùm chăn kín đầu giả vờ ngủ. Tuy đắp cái chăn rất dày, Thu vẫn run rẩy, không biết mình lạnh hay sợ hãi, hay vì nguyên nhân nào khác. Thu trốn trong chăn, rất giận Ba:

- đồ lừa dối! Đồ lừa dối! Ở nhà đã có vợ chưa cưới, tại sao lại đối với mình như vậy? Anh làm những chuyện đó lẽ nào là việc của một người có vợ chưa cưới đối với một người con gái?

Thu đau đớn nhận ra rằng, nguyền rủa kẻ lừa dối sẽ không có tác dụng. Ở đời này kẻ lừa dối nhiều lắm, có chửi rủa thì kẻ lừa dối cũng không chết, cũng không làm đau được chúng. Muốn trách chỉ nên trách bản thân, trách mình không có mắt, không biết phân biệt đâu là kẻ lừa dối.

Chuyện dọc đường hôm đó lại lần lượt hiện về, như một bộ phim liên tục chiếu không thể dừng, một loạt cảnh cứ loang loáng lướt qua, đầu óc Thu hoàn toàn mụ mẫm không biết mình đang nghĩ gì, cũng không biết mình nên nói gì. Bây giờ nghĩ lại, giống như xem một tập ảnh, mỗi tấm ảnh đã cố định một thời điểm, có thể có rất nhiều cảnh bị tước bỏ, nhưng những cảnh chính thì vẫn còn, có thể xem từng tấm một, vừa xem vừa bình luận, phản tỉnh. Nhưng cảnh trước khi Ba ôm Thu hình như không chụp, cho dù có chụp thì Thu cũng lật giở nhanh. Tất cả hiện đi hiện lại trong ký ức, đấy là lúc Ba dọa, bảo anh giống như một oan hồn đứng dưới gốc cây, sau đấy không biết tại sao, anh ôm Thu, anh hôn Thu, lại còn đưa lưỡi vào sâu trong miệng Thu.

Lúc này biết anh ở nhà đã có vợ chưa cưới, bỗng Thu cảm thấy lật giở nhiều tấm ảnh rất cũ, trên đó ghi rõ tất cả, nhưng lúc ấy không nhận ra. Lúc Thu ở cùng với Ba luôn có cảm giác mê mẩn, giống như bản thân từ trước đến nay vẫn cho rằng sức phán đoán, sức chịu đựng rất đáng tự hào của mình không tồn tại. Anh giống như một cơn gió mạnh khiến Thu đi theo chân không bén đất, tư duy trở nên chậm chạp, thính giác trở nên trì độn, nhưng thần kinh cười lại rất phát triển – tất nhiên là thần kinh cười ngây dại.

Thu nhớ lại những ngày đã qua, lúc đang đi trên núi, anh lấy Romeo và Juliet làm ví dụ, biện hộ cho người thanh niên bỏ rơi người yêu trước đấy, thật ra là nói về chính anh. Buổi tối hôm ấy trên đường về, anh gián tiếp thừa nhận đã cầm tay người khác.

Nghĩ đến đây Thu chợt ân hận vô cớ. Tại sao lúc bấy giờ mình không hiểu? Nếu hiểu, lúc anh ôm, chắc chắn Thu đã nổi cáu. Nếu nổi cáu, sẽ là một cách biểu hiện lập trường, chứng minh Thu rất ghét anh làm như vậy.

Rất tiếc, ngay lúc ấy Thu không nổi cáu mà còn lặng lẽ thừa nhận mình thích được cầm tay, Thu thật không hiểu tại sao mình lại thích thú một sự việc ngu ngốc đến vậy. Lúc anh không cầm tay mình, hình như cũng ít chuyện để nói, lại cảm thấy bực mình, không biết tại sao trong lòng lại sờ sợ, sợ anh bỏ mặc.

Bây giờ Thu đã để anh ôm rồi, để anh hôn rồi, kết quả anh đã có vợ chưa cưới, chẳng hóa ra Thu bị anh lừa dối? Từ nhỏ Thu đã nghe mẹ nói con gái “một lần sẩy chân ôm hận suốt đời”, ngay từ đầu Thu không thật hiểu nhưng cũng hiểu cơ bản câu nói ấy, song “sẩy chân” là thế nào?

Theo Thu, để người con trai biết mình yêu anh ta, tức là sẩy chân, bởi anh ta có thể đem chuyện ra khoe với người khác, hủy hoại thanh danh người con gái. Thu đã từng biết nhiều chuyện như vậy, mà cũng đã từng thấy người con gái gặp chuyện bất hạnh như vậy, cho nên Thu rất chú ý không để “sẩy chân”, biện pháp an toàn nhất là không yêu ai, như vậy sẽ không có chuyện “sẩy chân”.

Nghĩ đến đây Thu cảm thấy sợ hãi. Nhưng vẫn còn may, chuyện của Thu với anh chưa ai biết, mà Thu cũng không để lại dấu vết mực đen trên giấy trắng. Cho nên lúc này, khốn đốn nhất là Thu thừa nhận với anh mình thích được cầm tay. Nhưng hôm đi gọi anh về ăn cơm, Thu từ chối cho anh cầm tay, phải chăng tình hình đã thay đổi?

Thu quyết định không quan tâm đến anh nữa, coi như chưa từng xảy ra chuyện gì. Cho dù anh có vợ chưa cưới, anh cũng sẽ không nói với ai, mong sự việc ấy không mắc mớ gì đến cuộc sống của Thu. Thu không nhớ mình đã gặp câu nói này ở đâu rồi: “Việc xấu người khác không biết coi như không có việc xấu”. Thu mong câu nói ấy đã thuật lại rõ một sự thật.

Nhưng gói đường phèn kia sẽ xử lí thế nào, mẹ rất cần thứ đó? Thu về thành phố cũng không thể nào mua nổi đường phèn, cho nên Thu quyết định nhận, nhưng nhất định phải trả tiền cho anh. Đầu tiên Thu hỏi vay các bạn trong tổ cải cách giáo dục, sau đấy trả cho anh.

Thu ngồi dậy, định đến hỏi vay anh cán bộ Lí trong tổ cải cách giáo dục, và muốn tìm chị Mẫn để nói chuyện.

- Mẹ bảo chị nói với em chuyện Lâm, nhưng chị vẫn chưa nói, chủ yếu cảm thấy không có khả năng, em là người thành phố, lại học trung học phổ thông, Lâm là người nhà quê, học chưa hết trung học cơ sở, chắc chắn sẽ không xứng với em.

Thu rất buồn, nói:

- Em không xem thường anh Hai, nhưng…

Chị Mẫn lại nói:

- Về sau chị nghe chuyện gia đình em, chị cảm thấy nên nói chuyện Lâm với em, nói với em về những gì đã trải qua, biết đâu có ích cho em. –Mẫn thở dài:

– Thật ra thấy em chị lại nhớ chị hồi xưa. Trước đây, hộ khẩu của chị cũng ở thành phố, nhưng bố mẹ chị đều bị quy là phái hữu, bị đuổi khỏi biên chế nhà nước, trở thành những người không nghề nghiệp, phải đi làm thuê kiếm sống. Đến khi thành phố có phong trào thanh lí, những người không nghề nghiệp bị đưa về nông thôn, bố mẹ chị mới về cái thôn miền núi này.

- Thì ra chị cũng có một giai đoạn khốn cùng như vậy. Thu tỏ ra đồng tình.

– Ngay ngày đầu tiên về đây em cảm thấy chị không phải người ở đây, cả tên chị cũng không giống với người địa phương.

- Bây giờ vẫn chưa thành người địa phương này à? Sau này em về nông thôn, không biết sẽ về đâu. Thật ra ở đây cũng gần phố huyện, không xa thành phố K, coi như một vùng đông đúc, giàu có. Em sống ở đây vài tháng chắc chắn sẽ nhận ra, bà Trương rất tốt với mọi người. Nên nếu em lấy Lâm, nhà này sẽ đối với em như đối với một nàng tiên.

Thu cố lại câu chuyện sang một hướng:

- Chị từ thành phố về, cũng… bực bội khó chịu lắm nhỉ?

- Đấy là số phận, có cưỡng lại cũng không được. Mẫn thở dài.

– Nhưng số chị cũng gặp may, lấy anh Sâm, cha anh ấy dù lớn dù nhỏ cũng là quan, xoay sở cho anh ấy được ăn gạo nhà nước, chị cũng kiếm được chân dạy tiểu học. Tuy chị không được ăn gạo nhà nước, nhưng dạy học còn khá hơn ra đồng làm việc. Sau này em về Tây Thôn Bình chỉ cần ông Trương còn sống, chắc chắn em cũng sẽ được làm giáo viên tiểu học.

Chưa bao giờ Thu nghĩ số phận mình sẽ được thay đổi nhờ người nhà, Thu biết số mình sẽ phải về nông thôn, hơn nữa đã về nông thôn thì không còn được gọi về thành phố. Thu biết nhà mình nghèo, cũng muốn thay đổi cuộc sống, nhưng Thu quyết không dựa vào người nhà để thay đổi, dù có phải đi cướp ngân hàng.

Với Thu, tất cả của tất cả còn bấp bênh, học lên, tìm việc làm, đều chưa thể nói được gì. Thu chỉ nắm vững tình cảm của mình, đấy là cái mà Thu có thể tự do chi phối, cho nên Thu phải dựa vào ý chí để chi phối tình cảm. Thu chỉ có thể đền đáp người khác bằng lời cảm ơn, có thể cứu giúp một con người bằng sự đồng tình, nhưng Thu quyết không đem tình cảm của mình để đánh đổi lấy tiền tài và địa vị.

Mẫn nói:

- Chị biết em không chịu lấy Lâm, vì em rất thích Ba, nói thật, cậu ấy là con người rất tốt.

- Ai bảo em thích anh ấy? Thu phủi ngay Ba khỏi bản thân.

– Chị bảo anh ấy với chị Phần, cuối cùng là chuyện gì?

- Ôi, hồi trước, khi đội thăm dò mới về thôn này, lán trại chưa kịp dựng, phải chia nhau ở nhờ nhà dân, cậu Ba ở nhà chị. Cô Phần thích hát, Ba biết kéo đàn, Phần cứ bắt cậu ấy đệm đàn, vậy là đi đi lại lại với nhau, Phần thích cậu ấy. Nhưng Phần ngượng không dá nói ra, cho đến khi cậu ấy ra lán ở, mới bảo chị nói giúp. Chị nói với cậu ấy, cậu ấy bảo ở nhà đã có vợ chưa cưới.

- Có phải anh ấy kiếm cớ?

- Không, cậu ấy đưa cho chị xem ảnh chụp chung với vợ chưa cưới. Cô ấy đẹp lắm, là con cán bộ cao cấp, hai người rất xứng đôi.

Mẫn vừa nói, vừa bước đến trước cái bàn.

– Tấm ảnh ấy ép dưới tấm kính này, để chị chỉ cho em.

Mẫn tìm một lúc, ấy làm lạ, nói:

- “Ôi, đâu rồi? Chả nhẽ cô Phần lấy đi rồi à? Hay là cô Phương lấy?”

Thu lập tức nghĩ ngay đến Ba giấu đi để Thu không thấy, điều này càng chứng tỏ anh là kẻ lừa dối, lén lút, giấu giếm, thật đáng xấu hổ.

Mẫn nói:

- Từ đấy cậu ấy ít đến chơi. Mẹ vẫn rất tốt với cậu Ba, việc không thành, tình người vẫn còn đó, có cái gì ăn ngon cũng gọi cậu ấy về. Về sau Phần có người yêu, coi như không còn việc gì.

- Chị đã gặp… vợ chưa cưới của anh ấy chưa?

- Chưa, cô ấy là người trên tỉnh, bố là quan to, đến cái thôn miền núi này làm gì.


Thu không tiện hỏi thêm, cũng không biết nói gì hơn, chỉ ngồi.

Mẫn nói:

- Chị khuyên em đừng để ý đến cậu Ba, sớm quên cậu ấy đi. Em hãy nghe lời chị, em nên biết con nhà quan không phải là để những người như chúng ta bấu víu.

Nhà chị trước khi bị đưa về nông thôn, chị cũng có một người bạn trai, bố anh ấy cũng là quan to, nhưng không to bằng bố cậu Ba, nghe nói bố cậu ấy là Tư lệnh quân khu, bố của bạn trai chị chỉ là sĩ quan một phân khu. Nhưng con nhà quan đều như nhau, họ hiểu biết nhiều, tiếp xúc với nhiều người, không lo gì không tìm được người yêu. Gia đình bạn trai của chị ngay từ đầu đã không đồng ý cho anh ấy quan hệ với chị, có điều anh ấy không dám đưa chị về nhà. Đến lúc nghe nói gia đình chị phải về nông thôn, vậy là anh ấy hoảng lên, muốn mở cửa sau giữ chị ở lại, nhưng lại không đủ dũng cảm, cuối cùng cũng thôi. Rất may, lúc bấy giờ chị lại rất chủ động, không để anh ấy lên người chị, cho nên về sau chị cũng lấy được người tử tế, nếu lúc ấy nghe theo anh ấy, xảy ra chuyện, ngày anh ấy vứt bỏ chị cũng sẽ là ngày giỗ chị.

Thu nghe chợt giật mình:

- Tại sao lại là… ngày giỗ?

- Với một người con gái bị thất thân, lại bị người ta vứt bỏ, sau đấy ai dám đến với cô ta nữa? Cứ coi như lấy được chồng, đến đêm tân hôn anh chồng phát hiện cô ta không còn là con gái, sẽ xem thường cô ta, không coi cô ta là người. Thu này, chị thấy em còn đáng yêu hơn chị, em xinh đẹp, đời em nhất định sẽ được nhiều con trai để ý, nếu em không vững vàng chắc là sẽ gánh chịu tội lỗi.

Thu nghe mà rối lòng, trước kia chỉ nghe nói “cùng phòng”, “ngủ” với con trai là nguy hiểm, bây giờ lại nghe nói “lên người”, không biết bị Ba ôm có phải là “lên người” không?

Thu mạo muội

- Chị bảo lúc ấy không để anh ấy… lên người là ý làm sao? – Hỏi xong, Thu hối hận, sợ Mẫn hỏi tại sao mình lại quan tâm đến chuyện đó.

- Không hiểu lên người à? Tức là ở cùng phòng, ngủ với anh ta, làm chuyện vợ chồng với nhau.

Thu cảm thấy đã yên tâm hai phần, vì Thu không ở cùng phòng, không ngủ với Ba, nhưng không biết mình đã làm chuyện vợ chồng với anh chưa?

Nhưng Thu không dám hỏi lại, hỏi lại, chắc chắn Mẫn sẽ nghi ngờ, một người con gái tại sao lại quan tâm nhiều đến chuyện ấy?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 13

Hôm sau, Thu mặt dày mày dạn hỏi vay tiền mấy người trong tổ cải cách giáo dục, bảo vay tiền để mua đường phèn cho mẹ. Sắp đến ngày về, không ai còn nhiều tiền. Anh cán bộ Lí và thầy Triệu hiệu phó gom lại được mười tám đồng, đưa cho Thu vay.

Bà Trương và mọi người trong nhà đã về, Thu nghe thấy tiếng Ba đang đùa với thằng Hoan ở phòng ngoài, liền lấy tiền đi ra, thấy anh ngồi trên chiếc ghế thấp, thằng Hoan đang bám lấy lưng anh rất thân thiết. Thấy Thu, anh ngước lên hỏi han, nhưng Thu làm ra vẻ lạnh lùng, không nói gì, ném tiền lên chân anh, nói:

- Cảm ơn anh đã mua giúp đường phèn, anh xem đã đủ chưa?

Vẻ mặt Ba khiến Thu nhớ đến câu nói của nhân vật Tường Lâm trong truyện của Lỗ Tấn “giống như bị nướng”, Thu thấy anh nhìn số tiền trên chân tưởng như tiền đang làm bỏng chân, nhưng anh không dám cầm. Anh ngước lên, hình như đang hỏi đã xảy ra chuyện gì?

Không biết tại sao Thu cảm thấy mình có quyền nổi giận với anh, Thu thở gấp gấp, nói:

- Đủ chưa? Không đủ bảo em, em sẽ bù thêm.

Thật ra Thu đã đưa anh toàn bộ số tiền vay được, không còn đâu tiền để bù thêm, nếu thiếu, Thu phải đi vay nữa.

- Anh nói rồi cơ mà… sau này trả cũng được.

- Nói rồi, nhưng sự việc thay đổi, anh có thể đánh thuế những câu nói của người khác được không?

Anh suy nghĩ câu nói của Thu, hình như vẫn không hiểu, chỉ nói:

- Thu bảo không có tiền, tiền đâu nhiều thế này?

- Vay những người trong tổ cải cách giáo dục.

Anh như người bị tổn thương:

- Thu nhất định đi vay, tại sao phải vay người khác?

- Em thích vay người khác. Em thay mặt mẹ em cảm ơn anh.

Nói xong, Thu đi vào trong buồng, lấy cuốn vở viết lịch sử thôn ra định viết gì đó. Nhưng tay Thu run lẩy bẩy, không biết mình đang tức giận hay rét.

Anh theo vào, đứng sau lưng Thu:

- Có chuyện gì vậy? Nói với anh đi, Thu đừng làm như thế, chắc chắn đã xảy ra chuyện gì rồi, mới hôm kia còn vui vẻ, tại sao…

- Hôm kia thế nào? Em đã nói không vay tiền của anh rồi.

Anh nghi ngờ, hỏi:

- Là vì hôm ấy anh bảo cho Thu vay tiền, Thu giận anh đấy à? Hôm ấy Thu nói không cần, anh đâu có miễn cưỡng. Anh biết Thu là con người rất tự trọng, không muốn tiếp nhận sự giúp đỡ của người khác, nhưng Thu… Thu đừng coi anh… như người lạ .

Thu nghĩ: đúng là kẻ lười dối, miệng nói ngọt như đường, nếu tôi không biết ruột gan anh thì đã bị anh lừa rồi. Có phải hồi ấy anh cũng đã lừa dối vợ chưa cưới của anh giống như thế này? Chị ấy có biết anh đang lừa dối người khác không? Chả trách người ta nói, những người mỏng môi không thể tin nổi, anh ta lừa dối được mi thì cũng lừa dối được người khác, cứ củ mỉ thật thà như Lâm thì không bao giờ lừa dối ai.

Thu vẫn không quay lại, nói:

- Anh đừng đứng đây. Đi đi, em còn phải viết.

Thu có cảm giác anh vẫn đứng đấy, nhưng cô vẫn không quay đầu lại, chỉ run rẩy viết gì đó. Một lúc sau, cảm thấy anh đã đi Thu mới quay đầu lại, quả nhiên anh đã đi thật. Thu rất buồn, cứ nghĩ anh còn đứng sau lưng mình, thậm chí đứng mãi đấy.

Thu cũng không biết tại sao mình lại thế, muốn quên anh, coi như không có anh. Thu vẫn nghĩ không khó gì để quên anh, gặp anh, cũng có thể bực tức nói vài câu. Khi anh tỏ ra đáng thương nhìn Thu, lòng Thu lại rất kiên định, không chút lay chuyển. Nhưng khi anh đã đi thật rồi, Thu lại hoang mang bối rối, chỉ biết oán giận mình, nghĩ bụng: tại sao anh lại có thể như thế? Tại sao lại như thế? Em chỉ mới nói vài câu mà anh đã bỏ đi?

Thu cảm thấy hành động của mình thật đáng xấu hổ, người ta chiều mi, sợ mi nổi giận, mi lại nhởn nhơ, nói những câu làm tổn thương người ta; đến khi người ta bỏ đi, mi lại hối hận. Mi buộc người khác phải lạnh lùng với mi, xem thường mi.

Thu tự nguyền rủa, rồi giả vờ đi ra sau nhà để xem anh đã đi thật chưa. Thu đi qua nhà ngoài, vào bếp, đi ra sau nhà, phát hiện anh không còn ở nhà trên, không có ở trong bếp, Thu dỏng tai nghe, cũng không nghe thấy tiếng anh.

Anh đi thật rồi, anh giận mình, vì mình không tôn trọng anh, lạnh lùng với anh. Thu như người mất hồn tìm anh khắp nơi, không biết anh đi đâu. Thu không biết phải làm thế nào, Thu bất chấp tất cả, chỉ mong anh vẫn chưa đi.

Cuối cùng Thu thấy anh trong nhà để cối xay, anh đang xay còn bà Trương ngồi bên cho thóc vào cối. Thu nhìn anh, biết anh chưa đi, không còn hoang mang, lại giận anh, hằn học thầm chửi “đồ lừa dối”, rồi quay về buồng mình.

Liền mấy ngày sau đấy, Thu không quan tâm đến anh. Anh tìm cơ hội để nói chuyện với Thu, hỏi Thu cuối cùng có chuyện gì, Thu không nói. Có lúc anh hỏi quá nhiều, Thu bự buông một câu:

- Việc anh làm, anh tự biết.

Anh cầu khẩn:

- Anh không rõ, Thu bảo với anh, anh đã làm điều gì sai trái?

Thu mặc kệ, vào buồng mình, giả vờ viết lách. Thấy anh không bực mình bỏ đi, Thu càng tỏ ra lạnh lùng, vẫn không giải thích, khiến anh dằn vặt suy nghĩ. Thu không biết mình tại sao lại cho mình cái quyền giày vò anh, là bởi Thu có thể làm anh đau khổ hay sao? Hay là cảm thấy hôm ấy trên núi anh đã ôm hôn, cho nên phải dùng phương thức giày vò để trừng phạt anh?

Tổ cải cách giáo dục chuẩn bị về thành phố K, Thu vẫn không nghĩ được cách nào tốt hơn để đem số hạt hồ đào về, Thu kiên quyết không để Lâm mang về, càng không để Ba mang. Nhưng Thu không mong tổ cải cách giáo dục giúp, vì trong tổ ai cũng phải đem theo hành lí của mình, có thể cõng nổi hành lí của mình đã khó, liệu ai có thể giúp Thu xách hộ cái làn hồ đào?

Thu muốn bóc bỏ vỏ, chỉ mang nhân hồ đào về thôi, như vậy nhẹ đi rất nhiều, những Mẫn bảo, nếu bóc bỏ vỏ thì rất khó bảo quản, không thể để mẹ ăn một lúc hết từng ấy, nhất định phải dự phòng lần sau bệnh tái phát. Thu nghĩ cũng phải, đành để cả vỏ mang về.

Chị Mẫn đề nghị:

- Để Lâm mang giúp, vì chú ấy ít khi lên thành phố, cũng coi như đi chơi một chuyến. Nếu thấy không tiện thì để bố chồng chị cử chú ấy đi, coi như tiễn cả tổ cải cách giáo dục, đội sản xuất sẽ ghi công điểm cho chú ấy.

Thu thấy như vậy càng bất tiện, kéo cả ông trưởng thôn vào cuộc, mình càng trở thành nàng dâu trong nhà ông.

Cho đến trước ngày lên đường, Phương từ Nghiêm Gia Hà về mới giải quyết được vấn đề: để Phương đi tiễn, nhưng cô lại không xách nổi cái làn hồ đào, có thể đi với Lâm, hai anh em lên thành phố K đi chơi, tiện thể giúp Thu.

Phương nói, từ lâu cô muốn lên đấy chơi, nhưng vì không có bạn, rất may có lí do để đi chơi. Bà Trương và Mẫn cũng bảo Phương tiện thể mua vài thứ trên phố. Thu cũng chẳng nghĩ được cách nào khác, trong suy nghĩ cảm thấy làm như vậy là để trừng phạt Ba, cô liền nhờ Lâm

Lâm rất phấn chấn, bà Trương cũng rất phấn chấn. Bà soạn sửa áo quần, giày tất cho Lâm đi làm khách, lại chỉ bảo cậu ta phép tắc lễ nghi, dặn cậu ta gặp mẹ Thu phải chào là “cô giáo”, không được ngây ra như tượng gỗ; ăn uống phải từ tốn, không được như tù nhân đói khát; đi đứng phải nhẹ nhàng, không được băm bổ như cuốc đất. Tóm lại, bà dặn tỉ mỉ, dặn đi dặn lại, xem ra không có cách nào để làm thay con trai.

Buổi tối, Ba đến. Lúc anh đến, cả nhà đang nhộn nhịp chuẩn bị cho Lâm lên thành phố K chơi. Bà Trương và chị Mẫn bận cho hồ đào vào túi, lấy một ít đậu khô, rau khô, dưa muối gói lại, bảo Thu đem về làm quà.

Thu rất sợ, cảm thấy sự việc vượt quá dự định, bào hai anh em Lâm lên thành phố chơi, tiện thể mang giúp hồ đào, lúc này làm như Lâm lần đầu tiên ra mắt bố mẹ vợ vậy. Thu định ngăn lại, nhưng không dám nói, tình cảm khó chối từ, không ai đang tay tát người đang cười, người khác đang vui mừng phấn khởi làm thế náo để dội nước lạnh? Với lại, bà Trương cũng không bảo Lâm gặp mẹ Thu phải gọi bằng mẹ, mà chỉ bảo gọi bằng cô giáo. Lẽ nào ở trong nhà bà Trương bấy lâu, nay con bà lên chơi mình lại không tiếp?

Ba đứng giữa những người đang bận bịu túi bụi, tỏ ra khó hiểu, không biết gia đình có việc gì. Anh hỏi mới biết cả nhà đang chuẩn bị hành trang cho Lâm lên chơi nhà Thu, mặt anh biến sắc, đứng ngơ ngác trở thành sự so sánh khác biệt với những người đang bận kia.

Thu nhìn anh, có phần vui mừng vì đau khổ của người khác, nghĩ bụng: ai bảo anh có vợ chưa cưới? Anh vui vì có vợ chưa cưới, tôi vui vì có người giúp đỡ. Vừa rồi Thu còn hối hận để Lâm mang hồ đào lên phố giúp, sợ xảy ra chuyện phiền hà, bây giờ lại thấy quyết định của mình là đúng, có thể trả thù đích đáng Ba.

- Anh có túi du lịch không? Túi xách cũng được, Lâm lên phố mà không đem túi du lịch không ra dáng.

Ba im lặng một lúc rồi mới nói:

- Vâng, cái túi tôi vẫn đi công tác, để tôi về lấy.

Nói xong anh đi ngay. Một lúc sau anh mang túi đến, đưa cho Lâm, anh hỏi:

- Một mìnhcó mang nổi không? Không mang nổi, ngày mai tôi sẽ giúp một tay, ngày mai tôi được nghỉ.

Lâm vội vã nói:

- Em mang nổi, cái làn kia em cũng đưa từ bên nhà chị Mẫn về. Em không những mang nổi hồ đào còn có thể mang giúp ba lô cho mọi người. Ngày mai anh khỏi phải đi.

Ba nhìn Thu, hình như mong Thu ngỏ lời ngày mai giúp đỡ. Thu vội tránh ánh mắt anh, về buồng của mình thu xếp đồ đạc. Ba vào theo, hỏi:

- Có cần anh giúp gì không?

- Không!

- Tại sao lại nhờ anh Lâm giúp? Anh ấy đi sẽ mất công điểm. Ngày mai anh không phải đi làm, không như…

- Thôi, không làm phiền anh.

Anh lúng túng đứng nhìn Thu thu xếp đồ đạc. Thấy Thu muốn nhét nhiều thứ vào cái túi xách quân dụng, anh hỏi:

- Anh có thể đem đến vài cái túi nữa, Thu xem có cần không?

- Không cần. Em đem túi nào đến sẽ đem túi ấy về.

Anh khó hiểu nhìn Thu đang bực bội ấn bừa đồ đạc vào túi, nói:

- Thu về, cho anh gửi lời hỏi thăm mẹ, chúc mẹ sớm bình phục sức khỏe.

- Vâng, em cũng thay mặt mẹ cảm ơn anh đã mua giúp đường phèn.

Anh im lặng giây lát rồi nói thêm:

- Dùng hết đường phèn rồi bảo với anh, anh sẽ mua nữa.

- Khỏi cần.

- Quan trọng là để mẹ chữa khỏi bệnh…

- Em biết…

Anh lại im lặng một lúc:

- Sau này rỗi rãi Thu về chơi, về xem hoa sơn trà…

Thu chợt nghĩ đến lần đầu tiên gặp anh, anh cũng mời Thu về xem hoa sơn trà. Lần ấy Thu cảm thấy nhất định sẽ về, nhưng bây giờ Thu không biết nói gì, hình như hoa sơn trà đối với Thu không còn ý nghĩa.

Thu thẫn thờ như người mất của, nghĩ mình sắp rời nơi này, đúng là không nỡ, ngay cả con người lừa dối đứng trước mặt đây cũng làm Thu lưu luyến. Thu nhìn anh, cái vẻ thẫn thờ như người mất của cũng hiện lên khuôn mặt anh, Thu quay mặt đi, không nhìn.

Hai người đứng thẫn thờ, Thu nói:

- Anh đứng đây Phương không dám vào ngủ, anh về đi.

- Anh về nhé. – Nói về nhưng anh vẫn đứng yên. – Thu… sắp đi rồi mà vẫn không chịu nói với anh tại sao giận anh?

Thu không trả lời, cổ họng như nghẹn lại. Thấy Thu không muốn trả lời, anh chuyển sang chuyện khác:

- Thu… đã đồng ý với bác Trương rồi à?

- Đồng ý chuyện gì?

- Chuyện với Lâm.

- Chuyện ấy có liên quan gì đến anh.

Anh bị Thu trả lời thẳng thắn nên phải một lúc lâu mới bình tĩnh trở lại, nói:

- Vừa rồi anh về lấy túi, có viết một lá thư, mong Thu nói rõ ý của anh. Anh về nhé, Thu chú ý nghỉ ngơi, ngày mai đi thuận buồm xuôi gió. – Anh đặt lá thư trên mặt bàn, nhìn Thu rồi đi.

Thu nhìn lá thư xếp hình bồ câu, nghĩ bụng, chắc chắn đây là thư tuyệt giao, vì anh nói anh viết lúc về lấy túi du lịch, tức là đã biết Lâm đi tiễn, liệu có chuyện gì khác?

Thu không dám mở thư, chỉ nhìn lá thư, rất giận anh, thầm chửi: nhanh tay đấy nhỉ, nhanh chóng viết xong lá thư tuyệt giao, chủ động gớm, anh đá tôi đấy à? Anh muốn gì? Tôi đã nói đồng ý với anh đâu mà phải đá tôi?
Tất cả đều là do anh lừa dối, mình đã có vợ chưa cưới mà còn đi lừa dối người khác.

Thu cũng muốn viết một lá thư trút hết những lời giận dữ, nguyền rủa, nhưng cảm thấy làm như thế cũng không thể cứu vớt, là bởi anh đã lừa dối Thu. Người lừa dối phẩm chất rất xấu, người bị lừa dối đầu óc không tỉnh táo. Xưa nay người đời vẫn cười chê người bị lừa dối. Nghĩ đến đây, Thu cầm bức thư lên, muốn xem anh viết những gì, để viết một lá thư phê phán. Thu từ từ mở thư, thư không dài, chỉ một đoạn ngắn:

Ngày mai Tĩnh Thu về, đã có Lâm đưa tiễn, anh không đi nữa. Thu quyết định thế nào anh cũng đồng ý, anh chỉ mong quyết định của Thu phải từ nội tâm Thu.

Thu rất có tài, có thiên phận, nhưng sinh không gặp thời, không thể phát huy năng lực của mình. Thu không thể xem thường bản thân, phải tin tưởng “trời sinh tài năng phải có chỗ dùng”, sẽ có ngày tài năng của Thu được xã hội thừa nhận.


Bố mẹ Thu bị oan, đấy không phải là sai lầm của hai người. Thu đừng nghĩ mình xuất thân trong một gia đình như thế nên bản thân phải thấp kém hơn người khác, bố mẹ Thu không làm việc gì để không dám nhìn mặt mọi người. Ba mươi năm bôn ba đó đây, nay lại bị người khác xem thường, biết đâu ngày mai lại là người được hoan nghênh, cho nên Thu đừng tự ti vì những gì xã hội áp đặt.

Anh biết Thu không muốn anh hỏi nhiều về chuyện Thu đi lao động, nhưng anh vẫn muốn khuyên Thu đừng làm những công việc nặng nề và nguy hiểm. Ngộ nhỡ xảy ra chuyện, mẹ buồn biết chừng nào. Không nên cố làm những việc nặng nhọc, không nên cố làm những việc không làm nổi, không nên miễn cưỡng. Thân thể là vốn quý của cách mạng, thân thể bại hoại sẽ không làm nổi việc gì.

Thu bỏ anh, anh không trách. Thu là con người thông minh, có trí tuệ. Nếu Thu không muốn để ý đến anh, chắc chắn có nguyên nhân. Nếu Thu không muốn nói với anh nguyên nhân,cũng là có nguyên do. Anh không buộc Thu phải nói, bao giờ Thu muốn nói với anh thì nói

Quen Thu mấy tháng nay, anh rất vui, rất hạnh phúc. Thu đã đem đến cho anh những niềm vui mà chưa bao giờ anh được hưởng, anh rất quý trọng. Mấy tháng nay nếu anh có làm điều gì không nên không phải với Thu, khiến Thu không vui, mong Thu bỏ qua.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Trà - Ngãi Mễ

Postby tuvi » 08 Sep 2019

Chương 14

Hôm Thu ra về đúng ngày Chủ nhật, toàn tổ xuất phát lúc bảy giờ rưỡi. Lúc đầu Thu sợ tổ cải cách giáo dục phê bình vì đưa Phương và Lâm theo, kết quả mấy người lãnh đạo tổ khen Thu đã hòa nhập được với thành phần trung nông lớp dưới, kết nối sâu sắc tình cảm giai cấp vô sản.

Lâm đeo một túi nặng hồ đào, còn mang giúp đồ cho Thu, Phương cũng giúp hai cô học sinh mang đồ. Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, rất ồn ào vui vẻ. Kỳ lạ là lúc đến, đoạn núi này hình như rất dài, không biết tận cùng là đâu. Lúc về, không biết có phải vì đã quen đường hay là sắp được về nhà, tưởng chừng chỉ đi một lúc là đến cái cây sơn trà kia. Đã cuối tháng Tư mà sơn trà vẫn chưa nở hoa.

Thu rất nóng, nhân lúc mọi người ngồi nghỉ dưới gốc sơn trà, Thu tránh đi một chỗ để cởi áo len. Thu vừa cởi áo, vừa nhớ lại cảnh tượng hôm ấy với Ba, Thu cũng tránh vào một chỗ để cởi áo len, còn anh thì rất nghiêm túc đứng một chỗ thật xa, quay lưng lại, cho đến khi Thu nói “xong rồi” anh mới quay lại. Thu đứng ở chỗ lần trước nhìn một lúc lâu, lòng những bâng khuâng.

Về đến nhà, Thu phát hiện bệnh của mẹ lại tái phát, mẹ đang nằm trên giường, mặt tái nhợt. Em gái đang chẻ củi trên một mỏm đá ở ngay trước nhà ăn của trường học, nó đang cố chẻ một thanh củi cong queo, chặt ngắn cho dễ đun.

Thu rất xót xa, vội đi tới, cầm búa chẻ củi và bảo em đi bóc hạt hồ đào.

Phương nói với Lâm:

- Anh Lâm, sao không giúp chị Thu chẻ củi?

Lâm như tỉnh giấc mơ, cầm cái búa trong tay Thu, chẻ củi.

Hồi ấy mọi người phải đun nấu bằng than, củi nhóm lò cung cấp theo tiêu chuẩn, mỗi tháng chỉ được mười lăm cân, dùng hết coi như hết, cho nên lò của nhiều gia đình không tắt lửa bao giờ, phải dùng than ướt để ủ bếp, đến hôm sau chọc lò tiếp tục đun. Có thể hôm qua lò không ủ nên bị tắt, củi lần trước Thu về chẻ đã dùng hết, cho nên em gái Thu cố bằng mọi cách để nhóm lò, may mắn có chị về, nếu không hôm nay không có cơm ăn.

Lâm chỉ một lúc đã chẻ nhỏ, chặt ngắn hết số củi ở nhà Thu, để vào một chỗ dùng dần. Phương cười nhà Thu đun củi ngắn ngủn, ngắn chỉ mươi phân, ở nhà Phương, cho hẳn một khúc củi to vào bếp. Lâm nghe nói, mỗi tháng nhà Thu chỉ được mua dăm ba thanh củi, phải dùng suốt một tháng, anh bảo lần sau lên chơi sẽ gùi củi lên.

Lò đã nhóm xong, nhưng lửa vẫn chưa lên, Thu phải lấy quạt quạt lò, muốn thổi cơm nhanh, Lâm và Phương ăn rồi còn đi chơi phố, nếu không, ăn xong bữa cơm hai người phải lên xe ra về. Phương định giúp Thu thổi cơm, nhưng tìm không thấy chạn bát và các thứ đồ dùng nhà bếp ở đâu, liền hỏi:

- Nhà không có chạn bát à?

- Nhà Thu không có một thứ gì sắt. – Thu nói.

Đúng là nhà Thu không có gì, chỉ có bốn bức tường, bàn học là cái bàn cũ của nhà trường, ghế cũ của học sinh, giường là mấy tấm ván kê lên hai cái ghế dài của trường học, chăn đệm trên giường giặt sạch sẽ, nhưng đều vá víu. Bát ăn cơm để vào cái chậu rửa mặt cũ, thớt là tấm ván mặt bàn.

Lâm ậm ừ một lúc rồi nói:

- Nhà cô Thu còn nghèo hơn nhà tôi.

Phương đưa mắt nhìn Lâm, Lâm không dám nói gì thêm.

Rất khó khăn mới nấu xong bữa cơm, mấy người cùng ngồi ăn. Căn hộ của Thu gồm hai phòng nhỏ, tất cả chỉ mười bốn mét vuông, vốn là một cái lớp học ngăn ra. Trước đây anh trai Thu ở phòng ngoài còn Thu, mẹ và em gái chung một phòng. Bây giờ anh trai về nông thôn, Thu ở phòng ngoài, mẹ và em gái ở phòng trong, ăn cơm ngay phòng.

Đang ăn thì một con gió nổi lên, những thứ bẩn từ trên mái nhà tơi xuống như một trận tuyết. Thu kêu lên “hỏng quá”, rồi vội vàng lấy tờ báo che mâm cơm, đồng thơi bảo mọi người che bát cơm của mình. Lúc này mọi người mới phát hiện trong bát toàn những thứ đen bẩn. Phương hỏi, những thư này ở đâu ra? Thu nói, đây là tro bên bếp ăn tập thể bay sang.

Bếp tập thể của nhà trường đun bằng vỏ trấu, tro bụi theo ống khói bay ra giống như tuyết đen. Căn hộ Thu ở không có trần, hễ có gió thì bụi trấu sẽ từ khe ngói rơi xuống. Trước kia bên cạnh còn có hai hộ, hai hộ này được trường phân nhà mới, nên họ đã dọn đi, gia đình Thu thuộc loại có vấn đề, đành phải ở lại.

Thu rất bực, không ngờ hoàn cảnh nghèo túng của gia đình lại bị hai anh em Phương trông thấy. Nhưng Thu vẫn còn may, may là hôm nay không phải là Ba đến chơi nhà. Ba trông thấy hoàn cảnh này, anh quen sống trong gia đình cán bộ, liệu có quay đầu bỏ chạy? Nếu như vậy Thu thà chết đi cho xong.

Cơm nước xong xuôi, Thu đưa Phương và Lâm đi chơi phố, chưa kịp vào cửa hàng cửa hiệu thì đã gần bốn giờ chiều, ba người vội vội vàng vàng ra bến xe, mua được vé chuyến xe cuối cùng, vậy là hai anh em Phương ra về. Thu rất ngượng, khách đến chơi nhà phải mua vé xe, coi như giúp Thu mang hồ đào về tận nhà.

Về đến nhà, Thu thu xếp đồ đạc, giật mình phát hiện tiền trả cho Ba không biết ai đã nhét vào cái túi quân dụng. Thu cố nhớ lại sau khi trả tiền cho Ba, không sao nghĩ ra anh đã bỏ tiền vào túi lúc nào. Hay là sáng nay anh đi theo? Nếu đúng như vậy, rất có thể khi Thu cởi áo len anh đã nhét tiền váo túi Thu, vì lúc ấy Thu treo cái túi lên cành cây cách đấy không xa. Nhưng liệu anh có thể theo sau mà vẫn im lặng?

Lúc này hai anh em Lâm đã về, không thể nhờ đem trả cho Ba. Thu quyết định ngày mai đem tiền trả cho Lí, đội viên đội tuyên truyền cách mạng và thầy Trần, rồi sau này sẽ tìm cách trả nợ cho Ba. Không hiểu tại sao, Thu rất vui khi nghĩ đến chuyện sau này trả tiền cho Ba, hình như đấy là sẽ là cơ hội để được gặp lại anh.

Thu lại nghĩ đến lá thư của Ba và cả bài thơ anh viết vào sổ tay, tất cả phải được xử lí nếu không, mẹ trông thấy sẽ lo lắng. Để người khác trông thấy sẽ rắc rối, rất có thể dẫn đến tai hoa chết người. Thu đọc lại thư của Ba, vẫn không hiểu thư của Ba là thư gì? Giống như bản tổng kết, lại không giống một bản tổng kết, “nhớ lại quá khứ, hướng về tương lai”, sau này chúng ta sẽ “cố gắng tiến lên”, hoặc “tình hữu nghị của chúng ta muôn đời xanh tươi”… Điều này giống như một dấu chấm sau mấy tháng quen nhau, tư tưởng trung tâm là “mấy tháng ấy rất tốt đẹp, nhưng đã trở thành quá khứ”.

Phải công nhận sức lí giải của Thu rất mạnh, Thu là cây bút của lớp, được thầy giáo cử làm “Ủy viên tuyên truyền”, tức là cán bộ phụ trách làm báo của lớp. Hồi ấy, các lớp luân chuyển dùng bút lông viết báo tường trên những trang giấy thật to, có lúc phê phán ai đó hoặc tư tưởng nào đó, có lúc thông tin phong trào học tập công nhân, học tập nông dân, học tập quân đội. Thu viết được, vẽ được, bút lông, bút máy, chữ to, chữ nhỏ đều biết viết, bình thường có thể một mình viết báo dán kín một bức tường.

Thầy dạy ngữ văn khen chữ của Thu, nhất là thầy La, thầy nói Thu là con người “tài hoa tràn trề”. Thầy thường đem bài tập làm văn của Thu ra đọc trước lớp, thầy còn gửi bài văn Thu viết cho sở giáo dục thành phố, đưa vào Tuyển tập những bài văn của học sinh trung học, tiểu học thành phố K. Trường hai lần tổ chức thi viết văn, Thu đều giành giải nhất, nổi tiếng toàn trường.

Thầy La dạy ngữ văn hai lớp, có đến một nửa số bài của lớp do Thu phê duyệt, vì thầy La không muốn đọc những bài viết dở. Mỗi lần học sinh nộp bài, thầy La chỉ chọn hơn chục bài khá nhất, số còn lại giao cho Thu chữa lỗi chính tả, chữa câu, để Thu cho điểm. Bạn học của Thu, kể cả bạn nam, có gì không hiểu, dù là thư tình, thư từ chối đều nhờ Thu xem giúp, là bởi bọn chúng biết Thu kín mồm kín miệng, không nói cho ai biết, ngoài ra cũng vì thầy giáo thường xuyên nói Thu “rất có năng lực lí giải”, nắm bắt tư tưởng chính bài văn rất chuẩn, có khả năng hiểu những câu văn phức tạp. Thu không hiểu tại sao mọi người gọi những bức thư tình là “lời tâm sự”, có thể vài trang thư mỏng tang không đáng gọi là thư chăng?

Nhưng con người “có năng lực đọc” như Thu cũng không rõ tư tưởng “bài văn” của Ba là gì, không biết đấy là thư tình hay thư tuyệt giao, hầu như tất cả đều bắt đầu “gió mưa đưa xuân về, tuyết rơi đón xuân đến”, không biết ai là người bắt đầu viết câu đó nhưng ai cũng thích dùng, có thể dùng thời tiết thay đổi để ẩn dụ sự thay đổi của tình cảm?

Thu cũng đã đọc một số bức thư tình. Những bức thư của đám con trai giả dối thiếu văn hóa, hầu hết nói thẳng “Bạn có muốn làm bạn với tôi không?” “Bạn có chịu làm ngựa cho tôi không?”. Có lần, lớp kỷ luật một bạn, bảo Thu chuẩn bị tài liệu, Thu đọc được một bức thư tình rất “vàng” trong đó có câu “mao phi nữ tử thiên bát nhập”, là một ẩn ngữ, nghe nói sắp xếp những chữ này lại thành một câu rất bậy bạ, ý nói chỗ nào đấy của người con gái rất thơm. Nhưng Thu sắp xếp mãi, lại tra từ điển cũng không thể hiểu nổi chữ “mao” đi với chữ “phi” có thể trở thành một chữ bậy bạ.

Thu đã đọc những bức thư tình viết ở một trình độ cao phần lớn dùng lời nói của Mao Chủ tịch hoặc những câu thơ. Hồi ấy phổ biến nhất là câu: “Chờ đến ngày hoa rừng nở, nàng cười trong bóng cây”. Nghe nói con trai thích dùng câu thơ này là bởi trong đó có “nàng”. Thu nhớ, có một bạn trai không hiểu, lại viết “nàng kêu trong bóng cây”, rất may, cậu kia viết xong rồi nhờ Thu đọc lại. Thu xem, cười đau cả bụng, sửa lại giúp cậu ta, còn giải thích cho cậu ta hiểu. Cậu kia bừng tỉnh, nói “Mình cũng không hiểu tại sao lại bảo người con gái ấy kêu trong bóng cây”.

Thư tình viết ở trình độ cao, thư tình kín đáo, là do Tả Hồng, một cô bạn gái về nông thôn cho Thu đọc, tác giả là một bạn trai học cùng lớp, Tả Hồng rất ngưỡng mộ, cậu kia tặng Tả Hồng một cuốn sổ tay, trên trang bài lót viết: “Hoa đẹp nở cho người dũng sĩ”. Câu này làm khó cho Thu, không biết có phải là “thư tình”, có cảm giác dùng vào đâu cũng được chứ không riêng cho Tả Hồng và cậu kia. Nhưng Tả Hồng sớm phát hiện cậu kia có bạn gái cho nên khỏi cần diễn dịch câu ấy làm gì, hầu như đấy là “điểm đen” trong lịch sử giải mật của Thu.

Thư của Ba chưa thể xem là thư tình, vì suốt từ đầu đến cuối thư không có “nàng cười trong bóng cây”, cũng không hỏi “có muốn làm bạn với anh”, càng không có câu “quan hệ hai ta có thể hơn quan hệ đồng chí”. Anh xưng hô với Thu vẫn là Tĩnh Thu, không lược bỏ tên lót, cũng không thêm “thân yêu”, tên ký ở dưới cũng chỉ bỏ họ Tôn, còn lại hai chữ Kiến Tân, đọc có phần rờn rợn, nhưng chưa đến mức xao động, vì cái tên chỉ bỏ một chữ họ như vậy vẫn rất bình thường, bình thường mọi người vẫn gọi nhau như thế, nếu bỏ thêm một chữ nữa sẽ là “tự vạch trần dã tâm của sói”.

Cho nên, Thu cho rằng, đây chỉ là bản tổng kết, giống như mỗi lần họp kết thúc bằng bài hát Ra khơi nhờ tay lái vững, chỉ cần nghe thấy bài hát ấy là biết cuộc họp sắp kết thúc.

Thu nhớ lại hồi còn nhỏ cùng bố đến quán trà nghe người ta kể chuyện sách, người kể chuyện muốn để mọi người hồi hộp, dõng dạc đọc: “Hai đóa hoa nở, mỗi cành một bông”. Có thể Ba dùng cách này để bày tỏ, khoảng thời gian vừa rồi giữa anh và Thu là mỗi người mỗi cành, lúc này hoa trên cành của anh đã nở, đã tàn, sau đấy hoa sẽ nở trên một cành khác.

Thu quyết định không viết thư trả lời, viết thư có nghĩa là mực đen trên giấy trắng, cho dù là phê phán thư anh, anh cũng có thể cắt đầu cắt đuôi, bỏ đoạn tìm ý để tạo nên sự lừa dối. Con người trong thời ấy ai cũng sợ “chữ là nhà tù”.

Thư của Ba nếu người khác đọc được có thể không cho là thư tình, hoàn toàn coi ấy là luận điệu phản động và đem phê phán. Những là “ba mươi năm bôn ba”, hoàn toàn là khẩu khí của kẻ thù giai cấp mong thay đổi trời đất. Còn nữa: “sinh không gặp thời”, “bố mẹ em chịu oan khuất” vân vân, đều là giọng điệu bất mãn với hiện tại, phản động cực điểm. Nếu là người khác đọc được, Ba coi như xong đời, Thu là người chưa chấp và loan truyền luận điệu phản động cũng sẽ xong đời!

Những năm ấy truy bắt “phản động hiện hành” rất căng thẳng, tấn công những luận điệu phản động bất mãn với hiện tại rất kiên quyết. Trường trung học số Tám cũng có lúc xuất hiện khẩu hiệu phản động, hễ xuất hiện, trường học sẽ bao trùm một bầu không khí sợ hãi, ai cũng sợ. Có một lần, Thu chơi bóng trên sân, bỗng tiếng loa của nhà trường vang lên, gọi mọi người tập hợp trên sân trường, không được phé đến muộn. Chờ mọi người đông đủ, mấy người mặc quần áo công an xuất hiện trên bục cao trước sân trường, tuyên bố vừa rồi nhà trường phát hiện khẩu hiệu phản động, sau đấy họ nhấn mạnh hậu quả của khẩu hiệu phản động, bảo mọi người vào lớp để so sánh nét chữ.

Đó là việc Thu sợ nhất, Thu cầm bút, mắt nhìn trang giấy trắng vừa được phát, run rẩy, không dám đặt bút viết. Nếu nát bút của mình giống với nét bút trên khẩu hiệu phản động thì thế nào? Với thành phần xuất thân như mình, liệu có thể giải thích rõ được không? Nhưng có gì để bảo đảm nét chữ của mình không giống với nét chữ trên khẩu hiệu phản động? Ở đời này nhiều người có nét chữ giống nhau. Vậy đổi nét chữ khác? Nhưng đổi nét chữ chẳng may giống nét chữ trên khẩu hiệu phản động? Chẳng hóa ra đang tốt biến thành xấu?

Thu không biết nội dung của khẩu hiệu phản động, nhưng như công an nói, theo những lời viết ra có thể phỏng đoán được ít nhiều. Hồi ấy, phần lớn khẩu hiệu “Mao Chủ tịch muôn năm” viết thành “Đả đảo”. Cho nên, Thu đoán nội dung khẩu hiệu phản động gồm những nhóm từ hợp thành. Một hôm, một học sinh không cẩn thận viết sai tên người sau hai chữ “đả đảo”, vậy là bị công an bắt vì tội phản động hiện hành. Đúng là “hiện hành”, đang truy tìm khẩu hiệu phản động thì xuất hiện ngay khẩu hiệu phản động. Cậu học sinh kia bị dẫn đi, chỉ còn nhớ mặt cậu ta tái nhợt, không dám kêu oan.

Thu rất căm giận người viết khẩu hiệu phản động, viết như vậy liệu có tác dụng gì? Người viết sướng tay, người khác phải khổ sở. Mỗi lần truy tìm khẩu hiệu phản động, so sánh nét chữ, Thu cảm thấy tế bào não của mình chết đi rất nhiều. Một hôm, khẩu hiệu phản động xuất hiện ngay trong lớp Thu, hơn nữa hôm ấy Thu viết báo bảng của lớp trên một tấm bảng đen nhỏ, viết chưa xong thì nghe có tiếng loa của nhà trường yêu cầu mọi người tập trung trên sân trường, sau đấy nghe tuyên bố có khẩu hiệu phản động, còn chỉ rõ địa điểm xuất hiện khẩu hiệu là bảng đen của lớp mười.

Thu nghe nói, suýt ngất xỉu, lẽ nào vừa rồi mình viết lên bảng đen có gì sơ suất? Sau đấy, lớp Thu bị đưa sang một lớp khác, mỗi người lại được phát một trang giấy trắng để viết mấy chữ theo quy định.

Lần ấy rất nhanh chóng tìm ra kẻ phản cách mạng hiện hành, đó là một học sinh nam vốn rất ngớ ngẩn tên là Dư Kiến Thiết. Cậu ta lúc tan học không có việc gì làm, liền lấy phấn ra viết viết vẽ vẽ lên bảng đen, tiện tay viết một câu của Mao Chủ tịch: “Xin đừng quên đấu tranh giai cấp”, vì thiếu cẩn thận, “đừng quên” thì cậu ta viết thành “quên”. Khốn đốn hơn nữa là, gia đình cậu ta thuộc thành phần bất hảo, bố là phú nông, vậy là sự việc trở nên phức tạp. Cho dù cậu ta thanh minh rằng mình viết sót một chữ vẫn không ai tin. Câu này không phải chỉ có hai chữ, tại sao không bỏ sót chữ nào khác mà bỏ sót chữ quan trọng nhất? Kiến Thiết bị bắt ngay tại chỗ, về sau thế nào Thu không biết.

Thu suy nghĩ, cuối cùng cô không nỡ xé lá thư của Ba. Thu chỉ xé dòng chữ in tên đội thăm dò trên đầu trang giấy và xé cả tên anh cùng tên mình trên đó, vứt vào nhà vệ sinh. Sau đấy, Thu tìm một mảnh vải khâu thành cái túi bên trong áo bông, bỏ lá thư và mấy câu thơ của Ba vào đấy, dùng kim chỉ khâu kín lại, đường chỉ khâu chìm, không nhìn kỹ sẽ không thấy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96017
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 65 guests