Chương 10
Trong đêm khuya , tiếng súng lớn đột nhiên nổ vang , xen lẫn vào tiếng pháo Tết ròn rã. Cả gia đình giật mình choàng dậy. Hai em nhỏ khóc thét lên, Vũ run run hỏi bố :
- Ba ơi, tiếng gì nổ to quá.
Ông Minh bảo :
- Ừ, hình như không phải tiếng pháo đại.
Những tiếng ùng ùng lại liên tiếp vang lên. Mọi người bước xuống giường nghe ngóng.
Ông Minh hé cửa sổ nhìn ra ngoài :
- Đúng là tiếng súng. Mà sao bên ngoài tối quá.
Cả nhà xì xào bàn tán. Bà v ú sợ hãi ngồi thụp xuống chân tường :
- Không khéo đánh nhau mợ ơi.
Bà Minh chỉ đáp gọn :
- Ừ.
Rồi bà hỏi chồng :
- Có lẽ đánh nhau anh nhỉ.
Ông Minh đăm chiêu :
- Dám lắm.
Tiếng súng mỗi lúc một nhiều. Nổ dòn như tiếng pháo, nhưng chát chúa hơn. Bà cố dỗ cho Kiệt và bé Thư nín :
- Nín, nín đi các con. Nín để nghe tiếng súng ở đâu nào.
Kiệt chỉ còn sụt sịt khóc. Bé Thư được bà v ú ôm sát vào người cũng thôi khóc, hai tay ôm chặt lấy cánh tay bà v ú. Ông Minh ngồi xuống ghế, rót nước uống :
- Tiếng súng gần quá. Nghe như ở mé sông, phía gần cầu.
Đột nhiên có tiếng huyên náo. Những nhà hàng xón có tiếng lục đục và tiếng người la hoảng :
- Việt Cộng đánh, bà con ơi chạy mau.
Ông bà Minh và bà v ú tái mặt. Vũ sợ hãi chạy lại cạnh bố :
- Việt Cộng về ba ơi.
Ông Minh đứng bật lên, thò đầu ra khuôn cửa sổ :
- Ở đâu thế nhỉ ?
Bên hàng xóm cửa mở toang, bà Tư Thanh dắt con chạy ra, tru tréo :
- Thầy Minh ơi, chạy mau. Việt Cộng về mé sông, đánh nhau với lính giữ cầu rồi.
Bà Minh gào lên :
- Vậy hả bà Tư ? Bây giờ chạy đi đâu ?
- Chạy ra lộ, thấy người ta chạy đi đâu mình theo đó.
Nói xong bà Tư Thanh vừa chạy vừa lôi mấy đứa nhỏ xềnh xệch. Tiếng trẻ kêu khóc vang dội.
Lửa đột ngột bốc cháy ở một căn nhà nào đó mé sông, đỏ rực :
- Cháy nhà. Việt Cộng đốt nhà rồi bà con ơi !
Đến lúc này gia đình ông Minh không còn giữ nổi bình tĩnh. Ông Minh nói như quát :
- Sửa soạn chạy đi thôi. Bà v ú lấy cái áo khoác cho hai em khỏi lạnh. V ú nữa, mặc áo ấm vào. Còn em lấy hộp nữ trang và cặp giấy tờ theo. Để anh bế thằng Kiệt cho.
Mọi người chạy lung tung. Chốc lát, vợ chồng con cái dắt nhau ra đường. Trong bóng tối mờ mờ Vũ nhìn thấy dân trong xóm chạy rầm rập.
Họ bảo nhau :
- Chạy ra mé ngã ba xa lộ.
- Mé đó có Việt Cộng không ?
- Chắc là không. Mé dưới này bắn dữ quá. Lính mình bị đánh bất ngờ, thua rút đi rồi.
- Tụi nó đang rượt theo dân đấy.
Câu nói ấy làm mọi người quýnh cả lên, cắm đầu chạy bừa.
Ông Minh la lớn :
- Vũ, chạy sát bên ba kẻo lạc. Bà v ú đâu ?
Bà v ú đáp :
- Tôi đây.
- Ừ, em ơi. Có mang theo giấy tờ tiền bạc chứ.
- Vâng. Khổ quá, bỏ lại hết. Anh khóa cửa chưa ?
- Anh bấm tạm cái khóa ngoài. Lo chạy đã, lỡ chúng nó về chạy không kịp thì chết.
Bà Minh lo lắng :
- Dám mất hết đồ đạc, của cải.
Ông Minh gắt :
- Lo thân trước đã. Đừng tiếc của dại dột thế. Chạy nhanh lên em.
Gia đình dắt díu nhau chạy được một quãng đường. Trong đêm tối người này vấp phải người kia ngã dúi xuống.
Tiếng súng bỗng nhiên nổ ròn, thật lớn như ở sát bên cạnh. Có tiếng người rú lên :
- Chết tôi rồi. Trời ơi !
Mọi người nhìn về phía có tiếng kêu. Một người đàn ông ngã ra lề đường, lăn lộn. Chưa ai kịp tỉnh người để tìm hiểu đạn bay đến từ phía nào thì súng nổ ran cả hai đầu đường. Tiếng người rú lên thất thanh, tắc nghẹn.
Ông Minh la lớn :
- Mọi người đừng chạy ra chỗ có ánh sáng. Tìm nơi núp, tránh đạn đã.
Rồi ông chạy nhào vào hàng hiên một cửa tiệm thuốc Bắc.
Quang cảnh lúc đó thật là kinh hoàng. Trên đường người ta vẫn kéo nhau chạy thục mạng, không phương hướng. Đạn lửa lóe sáng ở hai đầu đường, bay veo véo.
Ông Minh đưa ra nhận xét :
- Lính mình ở bót đầu đường bắn đến, tụi nó đầu kia bắn lại. Mình kẹt ở giữa rồi.
Lời nói đó càng làm mọi người nghĩ đến sự nguy hiểm, nhiều người khóc òa lên. Mấy bà già rên rỉ :
- Ông đâu rồi ông ơi!
- Trời ơi, con mẹ thằng Tư chạy lạc đâu mất rồi.
- Đạn trúng con trai tui chết rồi, bà con cô bác ơi, khổ không nè Trời.
Ông Minh chép miệng :
- Đánh nhau ngay đêm mồng một Tết. Ác thực.
Vũ đứng nép vào tay ba, run cầm cập. Sự sợ hãi làm Vũ thở dồn dập, mặt lạnh và mắt mở thao láo nhìn về hai nẻo đường. Dưới ánh điện mờ, thỉnh thoảng lại có người chạy loạng choạng giữa lộ rồi ngã quay ra. Hình như họ là những người núp ở đâu đó bị trúng đạn rồi chạy bừa ra đường trước khi gục chết. Hình ảnh ghê gớm ấy làm Vũ như chết sững. Có đôi lúc Vũ nhớ tới nhà mình với hơi ấm của chiếu chăn còn mơ hồ quyện lấy người. Cả nhà bỏ chạy, để lại tất cả đồ đạc. Không biết khi hết đánh nhau thì có còn lại gì không hay bị mất mát, tan nát hết ?
Tiếng súng thưa dần, di chuyển về hướng khác. Hình như quân giặc tìm lối đi vòng trong xóm, đánh bọc cái đồn nhỏ đầu ngã ba đường. Mọi người xì xào bàn tán như vậy. Ông Minh nhận thấy đứng mãi ở đây càng nguy hiểm :
- Tôi nghĩ mình nên đi lần về phía bót, rồi chạy lên phía nhà thờ Thị Nghè. Qua mé đó chắc yên.
Sự nguy hiểm làm mọi người gần gũi. Mỗi người góp một câu, biểu lộ đồng ý :
- Phải đó. Mình đi dần tới đi.
- Đi ra chỗ ánh sáng cho lính người ta thấy, khỏi bắn.
Câu nói đó lại làm hoảng sợ :
- Lỡ họ bắn thì sao ?
- Chắc không đâu.
- Sao bà biết ?
Người đàn bà càu nhàu :
- Còn hơn đứng đây, hai đàng cùng bắn.
Một người bảo :
- Đàn bà trẻ con đi trước cho họ thấy.
- Ông nói ngon nhỉ. Lỡ họ bắn thì ai chết trước đây ? Ông đi trước được không ?
- Tui đi trước họ tưởng Việt Cộng.
Ông Minh nhận thấy ai cũng có lý riêng của họ :
- Thôi bà con đừng cãi lẫy nữa. Bây giờ tôi đề nghị nhà ai nấy đi, nhưng kêu bọn con nít khóc lớn lên để lính họ biết là dân.
- Lỡ họ cứ bắn thì sao ?
Ông Minh thở dài :
- Nói vậy thì đằng nào cũng nguy hiểm, cũng chết được hết. Vậy thì mình đi ra giữa đường cho họ thấy, và la lên : chúng tôi là dân, đừng bắn.
Mọi người đồng ý :
- Phải đó.
- Chỉ còn cách ấy.
Nhưng không ai dám đi trước. Ông Minh bảo vợ :
- Thôi mình đi trước vậy em. Sống chết có số.
Bà Minh dạ một tiếng, đầy vẻ lo âu sợ hãi. Hai vợ chồng dắt díu con cái đi ra giữa đường, bà v ú đi theo vừa đi vừa lẩm nhẩm tụng niệm “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” liên hồi.
Gần tới bót, ánh đèn pha lóe lên. Mọi người sợ hãi rú lên thất thanh. Có tiếng quát :
- Ai, đứng lại. Tiến tới sẽ bắn chết.
Ông Minh la hoảng :
- Chúng tôi là dân. Đừng bắn.
- Đứng đó, cấm nhúc nhích, tay dơ khỏi đầu.
Ông Minh vội đưa Kiệt cho Vũ bế và dơ tay thật cao. Mọi người vội vã bắt chước theo. Lũ trẻ con lại có dịp sợ hãi khóc thét lên.
Phía đồn im lặng một lúc rồi có tiếng quát :
- Đi từng người một, cách nhau ba bước, tay đưa cao khỏi đầu. Những đồ đạc cồng kềnh bỏ lại hết.
Mọi người xôn xao :
- Bỏ lại rương hòm, va li sao ?
- Lấy gì sài đây ? Bỏ lại thì mất hết.
- Hay là mình cứ mang đại ? Họ không bắt đâu.
Như đoán được ý định đó của mọi người, trong đồn có tiếng quát :
- Bỏ lại đồ kềnh càng. Làm sao biết ai ngay ai gian, ai Việt Cộng lúc này ? Tính đem mìn, súng trong rương tới cướp đồn phải không ?
Mọi người sợ hãi ném vội những va li quần áo, rương hòm xuống đất. Ông Minh hối vợ :
- Mình chẳng có gì cồng kềnh, đi trước đi em. Đứng lâu ở đây nguy hiểm lắm.
Ông tiến tới trước, hai tay dơ cao khỏi đầu :
- Tôi tới đây.
Tiếng quát :
- Đi cách nhau ba bước. Ai có cử chỉ gì khả nghi sẽ bị bắn bỏ !
Gia đình ông Minh đi trước, mọi người nối gót theo sau tiến tới sát đồn. Vũ nhìn thấy lính lố nhố trong đồn, người nằm bên ụ cát, kẻ đứng sau vách tường. Một người có dáng cấp chỉ huy tay cầm súng lục chĩa thẳng về trước :
- Đồng bào tính đi đâu ?
Ông Minh đáp :
- Việt Cộng kéo về xóm tôi, bắn giết lung tung nên chúng tôi phải bỏ chạy.
- Ông thấy chúng nó không ?
- Không. Nhưng bà con mé sông chắc thấy rõ.
Một người đàn bà nói :
- Tôi thấy. Đông lắm.
- Chừng bao nhiêu ?
- Ít nhứt cũng bốn năm chục.
- Bây giờ chúng nó ở đâu ?
- Ở trỏng. Thấy họ là dân tụi tui chạy bán sống bán chết còn đâu.
Người chỉ huy ra lệnh :
- Được rồi. Đồng bào đi tới đi. Nhớ đi hàng một, giữa đường, người lớn có thể dắt con nít. Bà con đi về hướng cầu Thị Nghè chắc yên đó.
Mọi người rối rít hối nhau đi mau. Qua khỏi đồn chừng mấy trăm thước, súng bỗng nổ ròn rã ngay tại sát đồn. Những người đi khúc sau cắm đầu cắm cổ chạy. Tin tức đã đồn đại lên tới khúc đầu ngay trong lúc chạy :
- Việt Cộng núp sau dân tính tới cướp đồn bị lính trong đồn nhìn được, hai bên đánh nhau rồi.
- Đám dân đi sau kẹt chính giữa chết nhiều lắm.
Mọi người lại sợ cuống cuồng, dù mệt mỏi rụng rời cũng cắm đầu chạy nữa.
Một lúc sau mọi người chạy tới nhà thờ Thị Nghè. Không khí ở đây vẫn còn có vẻ yên tỉnh. Dân chúng kéo nhau vào đầy trong sân, đứng ngồi nhốn nháo.
Ông Minh nhìn đồng hồ. Đã bốn giờ sáng. Ông bảo vợ :
- Ngồi đây nghỉ một lát. Tới hơn năm giờ tìm cách sang nhà anh Đình hay chị Ánh.
Bà Minh thắc mắc :
- Không biết bên cầu Chữ Y với Phú Nhuận có yên không ? Sợ chúng nó cũng kéo về hai nơi đó thì anh Đình, chị Ánh cũng kẹt.
- Chắc không đâu.
Ông Minh nói thế để tự an ủi mình. Việt Cộng chắc chẳng kéo về khu Thị Nghè thôi đâu.
Cả gia đình ngồi bó gối tới sáng. Tiếng súng lớn súng nhỏ nổ ran, chẳng biết ở nơi đâu. Đến khoảng năm giờ sáng lại có những người từ hướng Sàigòn chạy qua. Mọi người xô lại hỏi thăm nhau.
- Bà ở đâu chạy đến đây ?
- Bến Bạch Đằng. Việt Cộng đánh thành Hải Quân lúc khuya, khoảng hai giờ. Trời ơi đạn bắn như mưa. Trong thành bắn ra từ dưới bắn lên, từ hãng BGI Mỹ bắn tới, tụi tui dưới ghe bỏ ghe mà chạy.
Ông Minh gật gù :
- À, những người này sống dưới ghe gần cột cờ Thủ Ngữ.
Một bà già hỏi :
- Thế sao lại chạy qua đây ?
- Tụi tui đoán đây là ngoại ô, gần xa lộ bề gì cũng đỡ…
Bà già thở dài :
- Đỡ gì mà đỡ. Tụi tui chạy từ cầu Kinh cầu Sơn lên đây đó. Việt Cộng kéo về chiếm khu đó rồi.
Những người mới tới lại nhốn nháo như họp chợ :
- Có ai chết không ?
- Chết nhiều lắm.
Câu chuyện cứ như vậy lan truyền đi mãi. Ngoài đường nhiều nhà đã bật đèn, lố nhố đứng trước cửa hỏi thăm dân chạy loạn để biết tình hình, quang cảnh nhốn nháo, hỗn độn.
Ông Minh nói như than thở :
- Mình quá nửa đời người vẫn phải chạy loạn.
Bà Minh thở ra :
- Giặc giã khổ thật.
Vũ cứ nắm chặt lấy áo bố từ lúc đi, lên tiếng :
- Ba ơi. Sao Việt Cộng ở đâu ra nhiều thế ba ?
- Làm sao Ba biết được. Chắc là họ từ các nơi ẩn núp lén lút lọt vào Sàigòn.
- Họ lấy súng ở đâu mà đánh ?
- Chắc súng chôn dấu từ trước.
- Sao bên mình không biết ?
- Ba không biết.
Rồi ông lại càu nhàu :
- Tại đốt pháo dữ quá, chúng nó lợi dụng tiếng pháo mà bắn phá chẳng sợ ai biết là tiếng súng cả.
Ông cụ ngồi bên gật đầu :
- Đúng vậy. Đốt cả pháo cối, pháo đại nghe như tiếng súng lớn. Nghe riết thành quen, tới chừng súng thật vẫn tưởng tiếng pháo.
Rồi cụ chửi :
- Cha mấy thằng nhà giầu, nó đốt hàng dây pháo nhỏ, pháo đại nghe không dứt hồi. Ba cái thằng Việt Cộng nó mới lợi dụng được chớ.
Ông Minh dạ một tiếng rồi bảo vợ :
- Em lấy cái khăn trải vào góc này khuất gió cho các con nằm đỡ mệt.
Bà Minh bảo :
- Vũ vào nằm đi con. Còn Kiệt với bé Thư còn bé, để mẹ với v ú bế cho khỏi thấm hơi ẩm, đau chết.
Đêm đánh nhau sao thật dài. Thêm mấy tiếng nữa. Ngoài đường bắt đầu có xe chạy qua chạy lại. Mỗi người cho một tin tức. Khu này bị đánh, khu kia có Việt Cộng về.
Nghe ra, ông Minh lo lắng :
- Bàn Cờ, Nguyễn Thiện Thuật cũng có Việt Cộng về rồi. Biết đi đâu đây.
Bà Minh bàn :
- Hay mình cứ ở đây. Dân họ ở đông thế này, yên tâm hơn.
Ông Minh đồng ý.
Trời sáng rõ, người ta vẫn xúm vào nhau mà bàn tán, đồn đại. Có người mở máy phát thanh ra nghe. Đài Sàigòn và đài Quân Đội cùng loan báo tin Việt Cộng về quấy phá ở một số nơi tại Sàigòn và các tỉnh. Rồi kêu gọi đồng bào bình tĩnh, di tản ra khỏi vùng có Việt Cộng chiếm đóng để quân đội dễ dàng tiêu diệt địch.
Buổi chiều, máy phát thanh lại kêu gọi quân nhân còn ở nhà phải vào trình diện đơn vị quân đội gần nhất.
Vũ hỏi bố :
- Người ta kêu lính vào trại làm gì vậy ba ?
- Để họ đi đánh giặc.
Vũ nghĩ tới những người lính. Họ lại phải cực khổ những ngày này. Sẽ có người chết, sẽ có người không trở lại với gia đình. Hơn lúc nào hết, Vũ thấy thấm thía ý nghĩa câu chuyện Ba kể tối Trung Thu vừa rồi. Những người lính xưa và nay đều cực khổ như nhau. Có giặc giã là có người chết. Lính cũng chết mà dân cũng chết. Trong thoáng chốc Vũ hồi tưởng lại cảnh tượng đêm qua. Những người dân bị trúng đạn lạc ngã gục giữa đường. Tiếng thét kinh hoàng trong đêm vắng còn ám ảnh Vũ mãi.
Các ông cha và các dì phước trong nhà thờ và từ nơi khác đến đã bắt đầu đem phát bánh mì và cơm gạo cho dân chúng. Mọi người đói khát ăn ngấu nghiến. Họ xin được ở các nhà chung quanh thùng nước, lon, chai, đem ra máy nước hứng về để dành uống dần.
Ông Minh ngồi dựa vào vách tường nhà thờ, thỉnh thoảng lại than :
- Mồng hai Tết mà ăn uống kiểu này đây.
Bà Minh chốc chốc lại chạy quanh dò la, đem về những tin tức mới cho chồng.
Ngoài đường thỉnh thoảng có xe quân sự chạy ngang, hay một chiếc xe cứu thương rú lên nhức óc phóng vụt qua. Lửa bốc cháy, khói đen vẫn ngùn ngụt lúc ở hướng Cầu Kinh, lúc ở ngã ba Hàng Xanh. Người chạy loạn kéo đến mỗi lúc một đông, cả ngàn người… Họ nằm la liệt trong phòng học, sân nhà thờ, ngoài hè phố.
Các đoàn thể, Hướng Đạo, quân đội đem đồ tiếp tế tới cứu trợ dân tỵ nạn cũng nườm nượp.
Ngày hôm đó và cả ngày hôm sau người ta chỉ nói đến một chuyện : Việt Cộng về đây bao nhiêu, đánh nhau, nhà đổ, người chết, của cải tan nát. Người ta khóc, người ta than thở. Trên vỉa hè, trên vũng xình… dưới ánh mặt trời thiêu đốt như nung.
Ai ai cũng chấm dứt chuyện bằng câu :
- Tết nhất như vầy có khổ không chớ ? Giặc giã hoài đến bao giờ, chỉ chết dân thôi.
- Sao không hết giặc giã nhỉ ?
- Phải chi hòa bình thì nghèo mấy tui cũng chịu được.
Mỗi người một câu, người nào cũng cùng một ý nghĩ như nhau. Vũ thấy họ nghĩ giống ba : chán ghét chiến tranh, mơ ước thanh bình. Và quanh cảnh lúc đó lại cho Vũ nhìn thấy tận mắt một điều nữa : trong hoạn nạn người ta thương yêu, đùm bọc nhau. Tình đồng bào tương trợ nhau chưa bao giờ rõ rệt như vậy.